🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ngụ ngôn hài hước : Túi Khôn Trung Hoa Ebooks Nhóm Zalo NGỤ NGÔN, HÀI HƯỚC-TÚI KHÔN TRUNG HOA By Đông A Sáng Copyring Đông A Sáng Smaswords Edition. Chương một:KHÁI QUÁT VỀ NGỤ NGÔN–HÀI HƯỚC Chương hai:TIÊN TẦN Chương ba:HÁN, NGỤY, TẤN, NAM BẮC TRIỀU, TÙY ĐƯỜNG, NGŨ ĐẠI, TỐNG, NGUYÊN Chương bốn:MINH - THANH SÁCH THAM KHẢO MỤC LỤC AUTHOR- ĐÔNG A SÁNG Chương một:KHÁI QUÁT VỀ NGỤ NGÔN HÀI HƯỚC TRUNG HOA. I. NGỤ NGÔN: 1. THEO TỪ HẢI: Ngụ ngôn là một thể tài của tác phẩm văn học, mục đích khuyên răn, can gián ; kết cấu của ngụ ngôn phần nhiều là ngắn ; nhân vật của truyện là người, là loài vật hoặc không phải loài vật ; ngụ ngôn mượn mình để ám chỉ đến người khác, mượn chuyện xa để nói chuyện gần, mượn chuyện xưa đề cập chuyện nay, mượn cái nhỏ nói cái lớn, trong những mẩu chuyện đơn giản ẩn chứa những đạo lí sâu xa. 2. THEO LỊCH SỬ VĂN HỌC TRUNG QUỐC: Là truyện dân gian: Ngụ ngôn bắt nguồn từ dân gian, là những sáng tác truyền miệng trong dân gian, là một bộ phận văn học của dân gian, xuất hiện rất sớm trong lịch sử Trung Hoa. Đến thời Chiến quốc, truyện ngụ ngôn được phổ biến rất rộng rãi đến mọi tầng lớp trong xã hội : các nhà chính trị ; các bậc đại thần, các nhà ngoại giao ; các nhà du thuyết, các triết gia ; các nhà binh pháp. Song song với thói quen dùng ngụ ngôn của nhiều tầng lớp trong xã hội, các truyện ngụ ngôn cũng dần đi vào kinh điển, sách sử, binh thư, tiểu thuyết, truyện tiếu lâm của Trung Hoa, từ Chiến quốc cho đến thời Minh - Thanh. Tương tự những bộ phận văn học dân gian khác (thần thoại, truyền thuyết, ca dao, dân ca), ngụ ngôn cũng ảnh hưởng văn chương bác học, càng ngày càng trở nên phong phú. Ngụ ngôn là tài sản chung của một dân tộc, của nhân loại, nên có những cốt truyện giống nhau, nhiều người sử dụng với những mục đích khác nhau, nhiều sách vở có thể kể một câu chuyện giống nhau. Là một loại tỉ dụ: Ngụ ngôn có tính độc lập tương đối, thường được tách ra thành một chuyện hoàn chỉnh được dùng trong các tác phẩm văn chương của bách gia chư tử và những tác phẩm sau này. Một mặt, nó tăng thêm vẻ sáng sủa của ngôn từ, mặt khác nó có thể tránh được các điều cấm kị dễ gặp khi cần nói thẳng. Thông thường, ngụ ngôn giàu hình ảnh, ý tứ nổi bật, gây ấn tượng khó quên. Nói cách khác, ngụ ngôn là một trong những thủ pháp nghệ thuật của các nhà sáng tác văn chương Trung Hoa. 3. THEO TRANG TỬ : Nam hoa kinh: Trang Tử đã giành một chương để nói về ngụ ngôn, trọng ngôn và chi ngôn : Trong cuốn sách này (Nam hoa kinh), ngụ ngôn chiếm chín phần mười, trọng ngôn chiếm bảy phần mười trong chín phần mười đó, một phần mười là chi ngôn, tùy cơ ứng biến, mỗi ngày một khác nhưng vẫn hợp với cái lí của tự nhiên. Ngụ ngôn: Ngụ ngôn chiếm chín phần mười là mượn việc hay người ngoài để luận (vì tự mình nói ra thì nhiều người không tin). Chẳng hạn, cha không đích thân mà nhờ bà mai hỏi vợ cho con, vì cha khen con mình thì người ngoài không tin bằng người ngoài khen nó. Người cha làm như vậy, không có lỗi gì cả, tâm lí mọi người như vậy thì phải theo. Nói cách khác, ngụ là ở, là gửi, là mượn, mượn lời người khác nói thay cho mình. Trọng ngôn: Trọng ngôn chiếm bảy phần mười (của ngụ ngôn) vì muốn ngăn những lời tranh biện của thiên hạ, nên phải dẫn lời của các bậc tiền bối. Nói cách khác, những lời nói mà thiên hạ cho là đáng tin như lời của Hoàng Đế, Khổng Tử, Lão Tử, Nhan Hồi hoặc những nhân vật có tiếng tăm trong lịch sử. Chi ngôn: Là tùy cơ ứng biến, mỗi ngày mỗi khác nhưng vẫn hợp lí với tự nhiên, suy diễn ra hoài cho đến suốt đời. Nói cách khác, chi ngôn xuất hiện mỗi ngày là tùy theo hoàn cảnh, hợp với lí tự nhiên để truyền đạo lí. II. HAI LOẠI NHÂN VẬT Căn cứ vào các truyện được trích dẫn, chúng tôi tạm chia nhân vật truyện thành hai loại : Một, nhiều tầng lớp người trong xã hội : vua chúa, quan lại, nông dân, thương nhân, thư sinh, thầy thuốc, hoà thượng, đạo sĩ, đánh xe, đồ tể, người giàu, kẻ nghèo. Hai, những con vật, đồ vật được nhân cách hoá : rồng, cọp, rắn, chim, chuột ; những đồ vật như tượng gỗ, tượng đất. Như Trang Tử đã nói về trọng ngôn : Đôi khi chúng ta nói ra, người ta không tin, nên phải mượn lời của những người đi trước (thánh nhân, hiền nhân, vua chúa) để nói, thì người ta mới tin. Tức là đôi khi những nhân vật trong truyện ngụ ngôn không phải là nhân vật có thật, mà đó là những nhân vật tưởng tượng, hư cấu. III. NỘI DUNG VÀ MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG NGỤ NGÔN: Nội dung truyện ngụ ngôn rất phong phú, có nhiều tầng nghĩa, nên được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau : 1. Các triết gia (Trang Tử, Mạnh Tử, Liệt Tử) dùng ngụ ngôn để nêu lên học thuyết của mình. 2. Các nhà chính trị (Quản Trọng, Án Anh, Mạnh Tử) nêu cách cai trị đất nước, hoặc can gián các vua chúa. 3. Các nhà ngoại giao (Án Anh) ứng dụng vào trong ngoại giao, giữ gìn quốc thể, giữ thể diện trong giao tiếp. 4. Các nhà du thuyết (Chiến Quốc sách) dùng để thuyết phục các vua chúa nên dùng chiến lược, mưu kế của mình hoặc dâng sách lược, mưu kế cho các vua chúa. 5. Chỉ trích những thói hư tật xấu của con người : chủ quan, bảo thủ, thói keo kiệt, tự cao tự đại, nịnh bợ, giả dối. 6. Phản ánh những điều ngang trái, nhân tình thế thái trong xã hội : người trung thực bị kẻ giảo hoạt lợi dụng, kẻ dối trá hưởng nhiều lợi lộc, người thật thà chịu thiệt thòi. 7. Những kinh nghiệm, những bài học khôn ngoan giúp người ta thêm vốn sống ở đời. Nội dung ngụ ngôn rất phong phú, mỗi câu chuyện tuy ngắn gọn nhưng phản ánh được những khía cạnh của đời sống. Bấy nhiêu câu chuyện là bấy nhiêu cảnh đời, là bức tranh xã hội sinh động của mấy nghìn năm của Trung Hoa được thu gọn vào mấy trăm trang sách. Mỗi chuyện ngụ ngôn có nhiều tầng nghĩa khác nhau, có nhiều công dụng khác nhau ; tùy theo kinh nghiệm sống, tùy cách suy nghĩ, tùy theo hoàn cảnh, mà mỗi người có những suy luận khác nhau, tìm ra ý nghĩa khác nhau. IV. TRUYỆN NGỤ NGÔN - THẦN THOẠI,TRUYỀN THUYẾT VÀ TRUYỀN THUYẾT LỊCH SỬ: Theo các nhà nghiên cứu, khó mà phân biệt được ranh giới giữa truyện ngụ ngôn với thần thoại, truyền thuyết và truyền thuyết lịch sử ; do ba nguyên nhân : Một, ngụ ngôn với thần thoại, truyền thuyết có chung một nguồn gốc (bắt nguồn từ dân gian). Hai, ngụ ngôn và thần thoại, truyền thuyết đều được thể hiện bằng phương pháp nhân cách hoá và bút pháp khoa trương. Ba, một số nhà sáng tác đã dùng truyền thuyết, thần thoại, hoặc truyền thuyết lịch sử, từ đó nhào nặn, thêm thắt, thành chuyện ngụ ngôn. Ví dụ : Những truyện ngụ ngôn của Trang Tử rất gần gũi với thần thoại và truyền thuyết. Những truyện ngụ ngôn của Hàn Phi Tử thì lại gần gũi với truyền thuyết lịch sử. V. NGỤ NGÔN VÀ HÀI HƯỚC: Như đã nêu ở trên, chuyện ngụ ngôn thường dùng lối khoa trương phóng đại, nêu ra những mâu thuẫn bất ngờ ; hư hư, thực thực ; nửa đùa, nửa thực, nên ngụ ngôn rất gần gũi với chuyện hài hước (u mặc), tiếu lâm. Ranh giới giữa ngụ ngôn và truyện hài hước, tiếu lâm rất mong manh, đôi khi không phân biệt được truyện hài hước, tiếu lâm hay ngụ ngôn. Vì vậy, có nhiều tác giả trích những chuyện tiếu lâm xếp vào thể loại ngụ ngôn. Đọc những truyện ngụ ngôn, chúng ta cảm thấy rất lí thú và không khỏi bật cười, có tiếng cười rất sảng khoái, có tiếng cười ưu tư ; có thể cười người nhưng cũng có thể tự cười mình. Tiếng cười sảng khoái làm cho chúng ta quên mệt nhọc, lao khổ, lọc bớt những u ám trong tâm hồn, khôn ngoan hơn và vui sống. VI. NGỤ NGÔN VÀ THÀNH NGỮ, NGẠN NGỮ, CÁCH NGÔN: Qua quá trình lưu truyền và sàng lọc, những tên truyện ngụ ngôn đã được đúc kết, tinh luyện thành những thành ngữ, ngạn ngữ và cách ngôn. Ví dụ : Ngu Công dời núi, Cò trai tranh nhau ngư ông đắc lợi, Bào Đinh mổ bò, Vẽ rắn thêm chân, Cáo mượn oai cọp, Nhất tiễn song điêu, Ếch ngồi đáy giếng. VII. SỰ PHÂN CHIA THỜI KÌ: Theo Vương Chấn, tác giả cuốn Ngụ ngôn cố sự, chia những ngụ ngôn được trích trong các tác phẩm văn chương Trung Hoa làm ba thời kì : 1. TIÊN TẦN Các tác giả, tác phẩm tiêu biểu : Quản Trọng, Án Tử, Tôn Tử, Mặc Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, Liệt Tử, Thận Tử, Doãn Văn Tử, Hàn Phi Tử, Vu Lăng Tử, Lã Thị Xuân Thu, Chiến quốc sách. 2. HÁN, NGỤY, TẤN, NAM BẮC TRIỀU, TÙY, ĐƯỜNG, NGŨ ĐẠI, TỐNG, NGUYÊN: Các tác phẩm tiêu biểu : Hàn thi ngoại truyện, Hoài Nam tử, Sử kí, Thuyết phạm, Thuyết uyển, Tân tự, Luận hành, Phong tục thông, Kim lâu tử, Xuất diệu kinh. 3. MINH, THANH Các tác phẩm tiêu biểu : Úc Ly tử, Tạp ngôn, Ứng giai lục, Tiếu lâm, Tiếu phủ, Tuyết đào tiểu thuyết, Luận hành, Ngự trai chí tập. Chương hai:THỜI TIÊN TẦN. 1. LÀM HÀNG RÀO CHUỒNG NGỰA (Quản Tử) Một lần, Tề Hoàn Công đi xem xét chuồng ngựa, hỏi người coi chuồng ngựa : - Làm hàng rào chuồng ngựa có khó không ? Người coi chuồng ngựa ấp úng, không dám trả lời. Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng. Quản Trọng tâu : - Làm hàng rào chuồng ngựa, khó là chọn cây cọc. Chọn cây cọc thứ nhất cong, chọn cây cọc thứ hai cong, thì những cây cọc khác thẳng cũng vô ích. Chọn cây cọc thứ nhất thẳng, chọn cây cọc thứ hai thẳng, thì những cây cọc tiếp theo đều ngay hàng thẳng lối. Tề Hoàn Công hiểu ra. LẠM BÀN Quản Trọng mượn chuyện chọn cọc gỗ để nói về công việc và thuật dùng người : Mọi sự vật khó là chỗ bắt đầu, bắt đầu cẩn thận thì thành công, bắt đầu không cẩn thận thì thất bại. Dùng những người có tính ngay thẳng, chính trực thì làm nên sự nghiệp, dùng người có tính cong queo, lươn lẹo thì mọi việc không thành công. 2. CỌP SỢ NGỰA (Quản Tử) Một hôm, Tề Hoàn Công cưỡi ngựa đi chơi, đến khu rừng, bỗng thấy con cọp. Con cọp thấy con ngựa không dám tấn công, chỉ len lén nhìn. Tề Hoàn Công lấy làm lạ, hỏi Quản Trọng : - Xưa nay, ngựa sợ cọp, tại sao nay cọp lại sợ con ngựa của trẫm ? Quản Trọng tâu : - Con cọp không phải sợ con ngựa mà sợ sắc lông con ngựa có nhiều màu (tạp sắc), cộng với ánh sáng mặt trời, con cọp tưởng là con beo, con báo, nên không dám tấn công. LẠM BÀN: Thân xác con ngựa là nội dung, sắc lông con ngựa là hình thức ; đôi khi, sự hào nhoáng bên ngoài làm cho người ta loá mắt và bị lừa. 3. CHUỘT TRONG MIẾU THỔ ĐỊA (Án Tử Xuân Thu) Vua nước Tề là Cảnh Công, hỏi Án Tử : - Cái gì có hại cho quốc gia và đáng lo nhất ? Án Tử tâu : - Những con chuột trong miếu thổ địa là có hại cho quốc gia và đáng lo nhất ? Tề Cảnh Công ngạc nhiên hỏi : - Tại sao ? Án Tử đáp : - Tường vách các miếu thổ địa được xây bằng bùn đất, nhào nặn mà thành, chuột đào vách ẩn náu trong đó hoặc sau những tượng thần. Lúc im ắng chúng bò ra, xơi hết đồ cúng kiếng, khi có tiếng động, chúng lại rúc vào vách hoặc sau tượng thần để ẩn náu. Nếu dùng lửa đốt chuột, thì cháy miếu, đổ tượng. Tương tự, bọn tay chân, tâm phúc, sủng thần vốn là tiểu nhân nhưng ngụy trang thành những người lương thiện, nấp sau lưng hoặc dưới bóng của bệ hạ ; chờ lúc nước đục thả câu tha hồ thao túng, kiếm chác, xúi dục bệ hạ làm điều bất đức. Nếu để những con chuột cỡ bự tầm quốc gia sống thì đất nước đại loạn, nhưng cũng không thể đốt chúng, giết chúng được. Đó là điều có hại cho quốc gia và điều đáng lo nhất! LẠM BÀN: Tham nhũng là mối hại, mối lo của quốc gia, là bài toán mấy nghìn năm khó giải. Vì loại chuột này núp dưới bóng hoặc sau lưng kẻ cầm quyền và chúng hoá thân thành người lương thiện, chỉ bắt được chúng khi nào chúng bị lòi đuôi hoặc xa rời chỗ ẩn náu. 4. ÁN ANH ĐI SỨ NƯỚC SỞ (Án Tử Xuân Thu) Quan đại phu nước Tề là Án Anh, mình không đầy năm thước, phụng mệnh Tề Cảnh Công đi sứ nước Sở. Sở Linh Vương muốn sỉ nhục Án Anh, liền hỏi : - Nước Tề quả thật không có người hay sao ? Án Anh nói : - Người nước Tề tôi, hà hơi thì thành ra mây, vẩy mồ hôi thành ra mưa, đi thì phải chen vai, đứng thì phải chen chân, sao gọi là không có người ? Sở Linh Vương nói : - Thế sao lại sai tiểu nhân sang sứ nước ta ? Án Anh đáp : - Nước tôi có cái lệ : Người hiền sang sứ nước hiền, người ngu đi sứ nước ngu, đại nhân sang sứ đại quốc, tiểu nhân đi sứ tiểu quốc. Tôi là tiểu nhân, bất tài bất đức, vậy mới phụng mệnh sang sứ nước Sở. Sở Linh Vương nghe nói, có ý hổ thẹn. LẠM BÀN Án Anh đã dùng thủ pháp gậy ông đập lưng ông. 5. THỦY THỔ KHÁC NHAU (Án Tử Xuân Thu) Sở Linh Vương mời rượu Án Anh, được một lúc có ba bốn võ sĩ giải một tên tù đi qua dưới thềm. Sở Linh Vương hỏi : - Tên tù ấy, người nước nào ? Võ sĩ tâu : - Người nước Tề. Sở Linh Vương hỏi : - Hắn phạm tội gì ? Võ sĩ tâu : - Tội ăn trộm. Sở Linh Vương ngoảnh lại hỏi Án Anh : - Người nước Tề quen thói ăn trộm hay sao ? Án Anh đáp : - Tôi nghe nói, giống quýt xứ Giang Nam ngọt, nhưng đem sang trồng xứ Giang Bắc hoá ra chua là tại thổ nghi không giống nhau. Người nước Tề, ở Tề không có thói ăn trộm, khi sang nước Sở hoá ra quen thói ăn trộm, thế là tại thổ nghi nước Sở, không phải tại thổ nghi nước Tề. LẠM BÀN: Phong tục, xã hội, giáo dục khác nhau thì tính cách, hành vi của con người khác nhau. 6. CHIM BẰNG VÀ TIÊU MINH (Án Tử Xuân Thu) Tề Cảnh Công hỏi Án Tử : - Trên đời này con gì là lớn nhất ? Án Tử thưa : - Có ! Ở Bắc Hải có một con chim bằng, chân nó đạp mây, lưng nó đội trời, đuôi nó vắt ngang qua trời, thân nó che cả trời, lúc nó bay thì rợp trời, không thấy mỏ nó đâu cả. Tề Cảnh Công lại hỏi : - Thế con vật nào là nhỏ nhất ? - Có ! Ở Đông Hải có một con trùng, nó làm tổ ở ngay lông mi con muỗi, đẻ rất nhiều trứng, trứng nở ra trùng, bay đi bay lại mà con muỗi không thấy được chúng. Không biết nó tên gì nhưng ngư dân ở Đông Hải gọi nó là con tiêu minh. LẠM BÀN: Mọi sự vật đều có tính chất tương đối. Vì vậy, quan sát khách quan, không nên chủ quan gọi nó là lớn hoặc là nhỏ. 7. SUẤT NHIÊN (Tôn Tử) Ở Thường Sơn có một con rắn. Khi đầu bị đánh thì đuôi cứu ứng ; khi đuôi bị đánh thì đầu cứu ứng ; khi thân bị đánh thì đầu đuôi đều cứu ứng. Gọi là suất nhiên. LẠM BÀN: Ứng dụng vào binh pháp, cứu ứng hô ứng lẫn nhau để giành chiến thắng. 8. NGỒI CHUNG MỘT THUYỀN (Tôn Tử) Nước Ngô và nước Việt đánh nhau luôn, từ đó người Việt và người Ngô ghét nhau thậm tệ và xem nhau như thù địch. Một hôm, một người nước Ngô và người nước Việt cùng ngồi chung một con thuyền vượt sông. Thuyền bơi nửa chừng, bỗng nhiên sóng gió nổi lên đùng đùng, thuyền sắp lật. Hai người nước Ngô và nước Việt quên cả chuyện ghét nhau, người ra sức chèo thuyền, người cố sức tát nước. Cuối cùng, hai người thoát nạn. LẠM BÀN: Cùng hoạn nạn, cùng mục đích, chính là lúc dễ hoá giải mâu thuẫn nhất. Bản chất con người vốn có tính hợp quần, tương thân tương ái, nhưng thù hận và thiên kiến đã làm cho họ xa nhau. 9. NHUỘM TƠ (Mặc Tử) Một hôm, Mặc Tử thấy một người thợ đang nhuộm tơ, liền suy nghĩ : Tơ trắng như tuyết, khi bỏ vào màu xanh thì biến thành tơ xanh, khi bỏ vào màu vàng tơ biến thành màu vàng. Bỏ vào màu nào thì tơ biến thành màu đó, chẳng lẽ tâm tính con người cũng vậy ư ! LẠM BÀN: Việt Nam có câu : "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng ; hoàn cảnh ảnh hưởng rất lớn đến tâm tính, tính cách, nhân cách của con người. Một xã hội lương thiện, sẽ làm cho con người hướng thiện, một nền giáo dục hoàn hảo sẽ làm cho con người vươn lên sự hoàn hảo. 10. MỞ CỬA CHO TRỘM (Mặc Tử) Một người nhà giàu, sợ ăn trộm, cho xây tường cao quanh nhà nhưng lại trỗ một cái cửa nhỏ hình cái quạt. Một đêm tên trộm trèo tường vào, khua khoắng tiền bạc, thoát ra bằng cửa nhỏ hình quạt. LẠM BÀN Mọi luật pháp đều có kẽ hở, kẻ gian lợi dụng kẽ hở của luật pháp. 11. SỞ VƯƠNG THÍCH NGƯỜI CÓ EO NHỎ (Mặc Tử) Sở Linh Vương thích và thường sủng ái những người có eo lưng nhỏ. Quần thần biết ý và sợ bị thất sủng, nên ông nào ông nấy bó eo thật chặt, ăn ít, có ông còn nhịn ăn để giữ eo. Một năm sau, quần thần ai nấy xanh xao, gầy ốm, có ông đang thiết triều, đói quá, chóng mặt, ngã lăn. LẠM BÀN Việc đối xử tùy theo sở thích của cấp trên sẽ gây ra hậu quả khó lường. Thời nào cũng có bọn nịnh nọt, xum xoe, hùa theo cấp trên một cách mù quáng. 12. CÂU TIỄN LUYỆN QUÂN (Mặc Tử) Việt Vương Câu Tiễn rất thích những chiến sĩ dũng cảm, hàng ngày Câu Tiễn trực tiếp huấn luyện một đội quân thủy chiến, hiệu lệnh rất nghiêm. Một hôm, muốn thử tinh thần dũng cảm của quân sĩ, liền cho người phóng hoả một chiếc thuyền, rồi Câu Tiễn cầm trống vừa đánh vừa hô : Bao nhiêu châu ngọc của nước Việt đều ở trên thuyền. Mau cứu đi ! Một trăm quân sĩ, nghe lệnh, quên sống chết, nhất tề xông vào ngọn lửa. Câu Tiễn đánh trống thu quân, quân sĩ mới dừng lại. LẠM BÀN : Huấn luyện quân sĩ không chỉ chú ý đến kĩ thuật chiến đấu mà còn phải rèn luyện tinh thần dũng cảm. Nhờ vậy, sau này nước Việt đánh thắng nước Ngô. 13. MỘT CÁCH GIÚP ĐỠ NGƯỜI (Mặc Tử) Một người có một đứa con trai rất ngỗ nghịch, dạy hoài không được, ông ta tức mình lấy roi đánh con. Thấy vậy, anh hàng xóm tốt bụng, lấy một cây gậy thật to, mang sang nhà láng giềng và nói : - Ông lấy cái gậy này mà đánh, vừa sướng tay mà hắn cũng chóng nhừ tử, nếu ông đánh mệt thì tôi đánh giúp cho. LẠM BÀN: Giúp người là tốt, nhưng giúp người mà không hiểu sự tình, theo kiểu anh hàng xóm đúng là chuyện hoang đường. 14. LỖ BAN CHẾ TẠO CHIM KHÁCH (Mặc Tử) Tương truyền, thời Xuân Thu có một người thợ rất giỏi tên là Lỗ Ban. Lỗ Ban chuyên tâm tìm tòi, dùng trúc, gỗ … tạo ra con chim khách biết bay lượn. Con chim khách bay lượn vòng vòng ba ngày đêm không nghỉ. Ai nấy đều tán thưởng, Lỗ Ban cũng giương giương tự đắc. Riêng Mặc Tử nói với Lỗ Ban : - Ông chế ra con chim bay lượn vòng vòng là rất giỏi, nhưng sao ông không tìm cách chế ra hai trục xe, có thể chở nặng được 50 thạch ? Theo tôi, hiện thời, vật nào mà người ta dùng được là vật có giá trị, vật gì con người chưa dùng được là vật không có giá trị. LẠM BÀN: Một xã hội tiến bộ là coi trọng sự phát minh và sáng tạo, con chim khách bay làm cho người ta vui mắt, trục xe mạnh giúp người ta chuyên chở thêm được thực phẩm, sản phẩm, nguyên liệu đến những nơi khác. Mặc Tử không chê việc sáng tạo, phát minh, nhưng ông khuyên những nhà phát minh cần chú ý là việc nào nên làm trước việc nào nên làm sau. Con người còn phải mang vác nặng thì không còn giờ đâu mà thưởng thức thú vui, nhìn chim khách bay lượn, cho nên ưu tiên cho việc làm trục xe. 15. TẬT ĂN TRỘM (Mặc Tử) Mặc Tử nói với Lỗ Dương Văn Quân : - Tôi có biết một người, nhà có rất nhiều trâu, bò, dê, làm thịt, cả nhà ăn không hết, thừa mứa, nhưng những người trong nhà có tính ăn trộm vặt, thấy người nào, kể cả người nghèo, có cái bánh nhỏ cũng tìm cách lấy trộm mà ăn. Lỗ Dương Văn Quân nói : - Ông ám chỉ ai ? Mặc Tử đáp : - Nước Sở vốn có nhiều núi rừng, sông ngòi, sản vật, tài nguyên không thiếu, khai thác không hết. Nước Sở thấy nước Tống, nước Trịnh nhỏ bé, tìm cách vơ vét tài nguyên, sản vật của các nước này. Lỗ Dương Văn Quân nói : - Hoá ra thói ăn trộm đã ăn vào máu hay sao ? LẠM BÀN: Mặc Tử lên án chiến tranh, bản chất chiến tranh là ăn trộm tài nguyên của nước khác. Ông cũng ám chỉ bọn tham quan, ăn mặc thừa mứa, tiêu xài huy hoắc, thực chất là bọn ăn trộm, ăn cướp cái bánh của những người nghèo. 16. CON ỄNH ƯƠNG VÀ CON GÀ TRỐNG (Mặc Tử) Tử Ly, học trò của Mặc Tử, hỏi Mặc Tử : - Thưa thầy, nói có ích lợi gì không ? Mặc Tử đáp : - Trò xem, con ễnh ương, loài ếch nhái kêu suốt đêm, khô cổ mà không ai để ý. Con gà trống gáy buổi sáng, mọi người nghe đều thức dậy. LẠM BÀN: Nói nhiều nhưng nói vô nghĩa lí chẳng ai nghe. Nói ít nhưng có nghĩa lí, thức tỉnh người khác, thì người ta nghe. 17. CHÍNH SÁCH VÀ HỔ DỮ (Khổng Tử) Khổng Tử đi qua một vùng núi non hiểm trở, hoang vu, thấy một bà lão ngồi khóc bên một nấm mồ. Ông sai Tử Lộ lại hỏi nguyên do. Bà lão đáp : - Cha chồng tôi bị cọp vồ nơi đây, chồng tôi cũng vậy, rồi đến lượt con trai tôi. Khổng Tử hỏi : - Chỗ này nguy hiểm như vậy, sao không đi chỗ khác ? Bà lão đáp : - Vì đây không có quan lại hà khắc. LẠM BÀN: Chính sách hà khắc còn khốc hại hơn là hổ dữ. 18. LẤY DÊ THAY TRÂU (Mạnh Tử) Lương Huệ Vương đang ngồi trên đại điện, thấy một người dắt con trâu đi ngang sân điện, mắt con trâu trông rất bi thảm, ông hỏi người hầu : - Người ấy dắt trâu đi đâu vậy ? Người hầu tâu : - Đem đi giết để lấy máu bôi chuông. Lương Huệ Vương nói : - Nó có tội gì đâu ? Sao giết nó để lấy máu bôi chuông, thật là tội nghiệp ! Người hầu lại tâu : - Lệ đúc chuông thì phải lấy máu trâu để cúng tế và bôi chuông, nay không giết trâu thì lấy gì tế và bôi chuông ? Lương Huệ Vương nói : - Sao không giết con dê thay cho con trâu ? LẠM BÀN: Trâu hoặc dê khi bị giết, chúng đều đau đớn như nhau, Lương Huệ Vương chỉ thấy sự bi thảm của con trâu, nên tha cho con trâu ; không thấy sự bi thảm của con dê, nên muốn dùng dê thay trâu. Nói chung, Lương Huệ Vương không có cái nhìn toàn diện khi giải quyết vấn đề, trong xử lí công việc và trị lí quốc gia. Lòng từ bi, nhân ái của Lương Huệ Vương chỉ là giả dối, hư ngụy. 19. LÀM CHO LÚA CHÓNG CAO (Mạnh Tử) Nước Tống, có một người nông dân cày ruộng, cấy lúa. Mấy hôm sau, ra thăm đồng, anh ta thấy lúa mọc quá chậm, anh ta liền nâng các gốc lúa lên. Lúc về nhà anh ta khoe với người nhà : - Hôm nay, ta đã có cách làm cho cây lúa chóng cao rồi. Người nhà ra ruộng xem, thấy cả ruộng lúa chết héo cả. LẠM BÀN: Quá trình sinh trưởng của cây lúa là theo quy luật tự nhiên, vừa làm không theo quy luật vừa nóng vội thì lúa phải chết. Mọi hành động đều tuân theo quy luật, không nên nóng vội ; nóng vội, bất chấp quy luật, sẽ hỏng cả công việc. 20. NGƯỜI SỞ HỌC TIẾNG NƯỚC TỀ (Mạnh Tử) Vị đại phu nước Sở muốn con mình học giỏi ngôn ngữ nước Tề, liền mời thầy về dạy và dặn nếu con ông lười học thì cứ la mắng, cần thiết thì dùng roi để đánh. Về sau, người con trai nói rất thạo tiếng nước Tề và cùng đứa con trai (cháu nội vị đại phu) sang nước Tề một thời gian, đứa con trai cũng biết nói tiếng nước Tề. Lúc về lại quê nhà nước Sở, anh ta cũng bắt con trai mình phải nói tiếng nước Tề, mỗi lần nghe con nói tiếng nước Sở, anh ta dùng roi để đánh đòn. LẠM BÀN: Trong giao tiếp, việc học tiếng nước ngoài là cần thiết nhưng học để sùng bái nước ngoài và mất gốc là không nên. Ở nước Tề, nói tiếng nước Tề là đúng, về nơi chôn nhau cắt rốn, nước Sở, thì phải nói tiếng mẹ đẻ, tiếng Sở. Về Sở mà nói tiếng nước Tề là khoe mẻ, là hợm mình. Kiến thức là cần nhưng ứng dụng kiến thức thích hợp với hoàn cảnh khách quan lại cần hơn, vận dụng kiến thức không đúng, chủ quan, chỉ làm trò cười cho thiên hạ. 21. TÊN TRỘM GÀ (Mạnh Tử) Có một tên trộm, cứ mỗi đêm ăn trộm trong làng một con gà. Người hàng xóm biết được, khuyên tên trộm : - Ông không nên ăn trộm nữa, đi đêm cũng có ngày gặp ma. Lại nữa, ăn trộm không phải là hành vi của người quân tử. Tên trộm nói : - Ông nói chí phải, tôi chỉ ăn trộm hết năm này thôi, sang năm tôi sẽ đổi nghề để trở thành người quân tử. LẠM BÀN: Mạnh Tử ám chỉ nhà cầm quyền đã biết chính sách cai trị của mình là sai nhưng vẫn không chịu sửa chữa kịp thời. 22. THÔNG MINH CŨNG BỊ LỪA (Mạnh Tử) Tử Sản, đại phu nước Trịnh, một hôm ông ta câu được một con cá. Ông dặn tên tiểu lại thả con cá vào ao cá. Tên tiểu lại vâng vâng dạ dạ nhưng đem về nhà nướng để ăn. Mấy ngày sau, Tử Sản hỏi tên tiểu lại về tình trạng sức khoẻ của con cá. Tên tiểu lại liến thoắng trình : - Tiểu nhân nghe lời đại nhân, thả cá xuống ao, nó không thiết ăn uống bơi lội, chắc nó quen với biển hồ sông rộng, không quen với cái ao chật hẹp. Ban đầu nó lờ đờ, sau đó nó chìm xuống, mấy bữa nay không thấy nó đâu cả, chắc nó chết rồi ! Tử Sản nghe xong, nói : - Ờ phải ! Nó không quen sống trong ao mà. Tên tiểu lại đi ra, vừa đi vừa nghĩ : - Ai cũng nói Tử Sản là người thông minh, hoá ra ông ta là kẻ hồ đồ, dễ bị ta bịp. LẠM BÀN: Người thông minh đến mấy cũng dễ bị bọn bẻm mép, gian manh lừa bịp. Mọi việc không tra xét kĩ càng, chỉ nghe thuộc hạ thuật lại, báo cáo lại là không chính xác. Nhà cầm quyền đưa ra pháp lệnh nhưng không rõ cấp dưới thi hành như thế nào thì không thành công, thật thành giả, sống thành chết. 23. BẠCH KHUÊ TRỊ THỦY (Mạnh Tử) Thời Xuân Thu, Bạch Khuê làm tướng quốc nước Ngụy, ông than thở với Mạnh Tử : - Ngày ngay, tôi đã đem hết tâm lực để trị thủy nhưng không thành công bằng vua Vũ ngày xưa là tại sao ? Mạnh Tử nói : - Ngày xưa, vua Vũ căn cứ theo quy luật của nước, nước chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp, từ chỗ thấp chảy ra biển, nước không ứ đọng tạo ra hồng thủy, nên thành công. Ngày nay, ông đắp đê điều ngăn nước, để nước tràn đến các nước láng giềng, là kế tạm thời. Lâu ngày nước ứ đọng, gặp mùa lũ lụt, không chỉ nước Ngụy mà các nước láng giềng cũng sẽ bị nạn hồng thủy. Đó là sự sai lầm của ông. LẠM BÀN: Thực hiện kế sách lớn mà không nắm được quy luật khách quan sẽ dẫn đến sai lầm và tai hoạ. Không có cái nhìn toàn diện, chỉ thấy cục bộ, giải quyết cục bộ thì không thành công. 24. PHÙNG PHỤ ĐÁNH CỌP (Mạnh Tử) Nước Tấn, có một người tên là Phùng Phụ có tài bắt hổ. Sau đó, Phùng Phụ cho rằng, giết hại loài vật là phạm vào tội sát sinh, liền bỏ nghề săn và giết hổ. Một hôm, Phùng Phụ đến làng bên chơi, thấy người làng đang đuổi đánh một con hổ. Bị dồn đến một góc núi, cùng đường, hổ quay lại muốn tấn công những người săn đuổi, ai nấy đều khiếp đảm, kêu cứu om sòm. Phùng Phụ thấy nguy cấp liền ra tay đánh hổ. Mọi người vui mừng reo hò. Riêng bọn hủ nho đang đứng xem, bịt miệng cười, chê Phùng Phụ là kẻ ngu dốt, chuyên lo chuyện bao đồng. LẠM BÀN: Việc bắt cọp dữ để cứu người là chuyện cần kíp, là việc nghĩa, Phùng Phụ quên cả những điều mà mình đã cấm kị, quên cả bản thân. Bọn hủ nho đã bất tài, không cứu được người, lại chê cười người khác, quả là bất trí. Người chân chính vì nghĩa quên mình, tùy cơ ứng biến ; kẻ hủ nho khư khư ôm cứng giáo điều, kiêu căng, chấp nhất. 25. VƯỜN CỦA TỀ TUYÊN VƯƠNG (Mạnh Tử) Tề Tuyên Vương hỏi : - Vườn hoa của Văn Vương thời xưa vuông vức bảy chục dặm, phải vậy không ? Mạnh Tử đáp : - Truyện có chép như vậy. - Như vậy có quá lớn không ? - Thế mà dân còn cho là nhỏ đấy. - Còn vườn của quả nhân chỉ có bốn chục dặm, mà dân cho là lớn là tại sao ? Mạnh Tử nói : - Vườn Văn Vương vuông bảy chục dặm nhưng người cắt cỏ, kiếm củi, kẻ bắt trĩ, bắt thỏ vào được. Dân được chơi trong vườn của vua nên cho là nhỏ. Lúc tôi mới tới biên giới nước Tề, hỏi những điều đại cấm trong nước rồi mới dám vào. Tôi nghe nói, ở ngoài kinh đô có vườn vuông vức bốn chục dặm, kẻ nào vào đó giết hươu nai thì bị trị tội như giết người. Như vậy, vuông bốn chục dặm khác gì cái hầm để bẫy dân. Dân cho rộng là phải. LẠM BÀN: Dân khổ mà kẻ cầm quyền vui riêng một mình dù tốn kém ít dân vẫn oán ghét. 26. CON VE SẦU VÀ CON CHIM CƯU CƯỜI CON CHIM BẰNG (Trang Tử) Biển Bắc, có con cá gọi là cá Côn, mình dài không biết mấy nghìn dặm. Nó biến thành con chim, gọi là chim Bằng, lưng rộng không biết mấy nghìn dặm, khi tung cánh bay, thì cánh nó như đám mây trên trời. Biển Bắc động thì nó dời về biển Nam, là Ao Trời. Khi nó dời về biển Nam, nó đập nước tung toé lên ba nghìn dặm, rồi nương gió lốc lên cao chín vạn dặm. Con ve sầu và con chim Cưu cười con chim Bằng : Chúng tao bay vù lên cây du, cây phượng, có lúc bay không tới mà rớt xuống đất. Hà tất phải bay cao chín vạn dặm để xuống phương Nam. LẠM BÀN: Trí lực nhỏ không thể so với trí lực lớn ; cái hiểu biết nông cạn của con ve sầu, con chim Cưu không thể biết được cái chí lớn của con chim Bằng. Kẻ bất tài, không nhìn xa trông rộng, lại cười người nhìn xa trông rộng, chê bai người tài. 27. VUA NGHIÊU NHƯỜNG NGÔI (Trang Tử) Vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho Hứa Do, liền nói với Hứa Do : - Mặt trời, mặt trăng đã xuất hiện, đuốc làm sao còn sáng được nữa, mà không tắt đi ? Mưa đã đổ xuống rồi, còn tưới ruộng làm gì cho phí sức ? Phu tử mà lên ngôi thì nước sẽ trị, tôi còn giữ hư vị này, như người đại diện trong tang lễ, tôi tự thấy làm xấu hổ. Tôi xin giao thiên hạ cho phu tử. Hứa Do đáp : - Nhà vua trị nước, nước đã được bình trị. Bây giờ tôi lên ngôi, thế là cầu danh ư ? Danh là khách của cái thực, tôi sẽ đóng vai khách sao ? Con chim tiêu liêu, làm tổ trong rừng, chiếm bất quá một cành cây. Con yển thử uống nước sông, bất quá đầy bụng thì thôi. Xin nhà vua giữ lấy ngôi. Tôi có dùng thiên hạ vào việc gì đâu. Nếu người đầu bếp mà không biết nấu nướng, thì nên làm đại diện cho người chết, người chủ tế cũng không thể bỏ chức vụ của mình mà thay cho người đầu bếp được. Nói xong, Hứa Do từ biệt vua Nghiêu mà đi. LẠM BÀN: Danh phải đi liền với thực, chức vụ đi liền với tài năng, người nào giỏi việc gì thì làm việc ấy. Hữu danh vô thực, có chức vụ nhưng không có tài năng, chẳng khác nào anh đầu bếp không biết nấu bếp, như người đại diện cho cái thây người chết ; người chủ tế chỉ biết tế lễ, không biết nấu bếp lại làm thay cho người đầu bếp, sẽ sinh loạn. 28. KHÔNG SỬ DỤNG ĐƯỢC VẬT LỚN (Trang Tử) Huệ Tử nói với Trang Tử : - Vua Ngụy cho tôi một giống bầu lớn, tôi đem trồng được những trái chứa được năm thạch. Dùng cả trái để chứa nước thì nó không chịu được, khiêng đi sẽ bể ; nếu xẻ nó thành nhiều phần, thì lại nông quá, không chứa được bao nhiêu. Thành thử, nó lớn mà vô dụng, cho nên tôi đã đập bỏ. Trang Tử nói : - Vậy là ông vụng sử dụng những vật lớn rồi. LẠM BÀN: Trang Tử chê Huệ Tử lòng không thông đạt, không biết sử dụng những vật lớn, thay vì đập bỏ, có thể dùng làm trái bầu nổi giúp người ta vượt sông. Vật nhỏ có công dụng nhỏ, vật lớn có công dụng lớn, mỗi vật có công dụng khác nhau, người thông đạt là người biết tìm ra công dụng và sử dụng sự vật. Trang Tử cũng ám chỉ, những người lãnh đạo không thông đạt thì cũng không dùng được những tài năng lớn. 29. CÙNG MỘT PHƯƠNG THUỐC (Trang Tử) Một người nước Tống chế được một phương thuốc bôi ngón tay cho khỏi nứt nẻ. Gia đình đó đời đời làm công việc đập lụa. Một người lạ hay tin, đến trả 100 đồng tiền vàng để mua phương thuốc. Người đó họp cả họ lại, nói : - Chúng ta đời đời đập lụa, chỉ kiếm được vài đồng tiền vàng. Bây giờ, chỉ có một buổi có thể kiếm được 100 đồng tiền vàng. Nên bán đi ! Người lạ kia được phương thuốc, lại thuyết vua Ngô. Lúc đó, nước Việt đang gây chiến với Ngô, vua Ngô bèn phong làm tướng. Mùa đông, hai bên thủy chiến. Nước Việt đại bại, phải cắt đất cho Ngô. Vua Ngô đem đất đó phong cho ông ta. LẠM BÀN: Cùng một phương thuốc, người phải đập lụa, người được phong chức tước, đất đai, là do cách dùng khác nhau. Biết cách dùng vật, dùng người thì đạt được lợi ích to lớn, không biết dùng vật, không biết dùng người thì không thu được lợi ích. 30. BÓNG HỎI BÓNG (Trang Tử) Cái bóng của bóng hỏi cái bóng : - Lúc nãy anh đi, bây giờ anh ngừng ; lúc nãy anh ngồi, bây giờ anh đứng. Tại sao anh không có thái độ độc lập vậy ? Cái bóng đáp : - Sở dĩ tôi như vậy là vì phải tùy thuộc vào một cái gì. Cái gì đó lại tùy thuộc vào một cái gì khác. Tôi tùy thuộc vào một cái gì như con rắn tùy thuộc vảy của nó, con ve tùy thuộc vào cánh của nó. Làm sao tôi hiểu được cái gì làm cho tôi lúc này thế này, lúc khác thế khác. LẠM BÀN: Chuyên sống dựa vào người khác, không có tư tưởng độc lập. 31. BÀO ĐINH MỔ BÒ (Trang Tử) Một tên bếp của vua Văn Huệ mổ bò, hai tay nắm con vật, đưa hai vai ra thúc nó, rồi hai chân bấm vào đất, hai đầu gối ghì chặt nó. Hắn đưa lưỡi dao cắt xoẹt xoẹt, phát những âm thanh có tiết tấu như vũ khúc tang lâm và bản nhạc kinh thủ. Văn Huệ khen : - Giỏi ! Nghệ thuật của ngươi sao mà cao tới mức đó. Hắn đặt lưỡi dao xuống đáp : - Thần nhờ thích cái Đạo, nên nghệ thuật mới tiến được. Hồi mới học nghề mổ bò, thần chỉ thấy con bò thôi. Ba năm sau, thần không còn thấy con bò nữa. Lúc này thần dùng tinh thần hơn là dùng mắt. Cảm quan ngưng lại, chỉ còn tinh thần là hoạt động. Thần biết cơ cấu thiên nhiên của con bò, chỉ lách lưỡi dao vào những chỗ kẽ trong thân thể nó, không đụng đến kinh lạc, gân, bắp thịt, xương lớn của nó. Một người đồ tể giỏi, một năm mới làm cùn một con dao, vì chỉ cắt thịt mà thôi. Một người đồ tể tầm thường, một tháng làm cùn một con dao, vì phải chặt vào xương. Con dao này đây, thần dùng đã mười chín năm rồi mà còn bén như mới mài. Khớp xương nào cũng có kẽ, mà lưỡi dao thì mỏng. Biết đưa những lưỡi thật mỏng ấy vào những kẽ ấy thì dễ dàng như đưa vào chỗ không. Vì vậy, dùng mười chín năm, mà lưỡi dao của thần vẫn bén như mới mài. Mỗi khi gặp một khớp xương khó, thần nín thở nhìn cho kĩ, chầm chậm, đưa lưỡi dao thật nhẹ tay, khớp xương rời ra dễ dàng như bùn rơi xuống đất. Rồi thần cầm dao, ngẩng lên, nhìn bốn bên, khoan khoái, chùi dao, đút nó vào vỏ. Vua Văn Huệ nói : - Lời tên bếp đó thật hay ! Nghe rồi ta hiểu được phép dưỡng sinh. LẠM BÀN: Mọi việc, mọi vật đều có quy luật, tìm ra được quy luật thì dễ giải quyết vấn đề. 32. CÁI CHẾT CỦA THẦN HỖN ĐỘN (Trang Tử) Vua Nam Hải tên là Mau Lẹ ; vua Bắc Hải tên là Thình Lình ; vua Trung Ương tên là Hỗn Độn, tức không phân biệt. Một hôm, Mau Lẹ và Thình Lình gặp nhau ở xứ của Hỗn Độn, được Hỗn Độn tiếp đãi trọng hậu. Muốn đáp lòng tốt đó, hai người bàn với nhau : - Người ta ai cũng có bảy lỗ (thất khiếu) để thấy, nghe, ăn và thở, mà anh Hỗn Độn không có một khiếu nào cả, tụi mình thử đục cho anh ta có đủ thất khiếu đi ! Thế là, mỗi ngày họ đục một khiếu. Bảy ngày sau, Hỗn Độn chết. LẠM BÀN: Đôi khi thất khiếu làm cho con người mất đi bản tính. Nhiệt tình, thiếu suy xét sẽ làm chết người. 33. CÁI TÂM VÀ MÁY MÓC (Trang Tử) Tử Cống sau khi xuống nước Sở ở phương Nam, trở về Tấn, đi qua đất Hán Âm, thấy một ông lão làm vườn. Ông ta xuống một đường hầm, tới một cái giếng, rồi xách lên một vò nước để tưới rau. Quá cực nhọc nhưng kết quả chẳng được bao nhiêu. Tử Cống nói với ông lão : - Có một cái máy, một ngày có thể tưới một trăm luống rau. Ông có thích dùng nó không ? Ông lão ngẫng lên hỏi : - Cái máy ấy ra sao ? - Máy ấy bằng gỗ, phía sau nặng, phía trước nhẹ, đưa vò nước lên như kéo bằng tay vậy, nhanh như nước sôi tràn nồi, tên nó là cái cao. Ông lão nghe xong, hơi giận, rồi cười, nói : - Lão nghe thầy lão dạy, hễ dùng cơ giới thì tất có cơ sự, có cơ sự tất có cơ tâm. Đã có cơ tâm thì thiên tính không còn trong trắng nữa và tâm thần không yên ổn. Tâm thần không yên ổn thì Đạo sẽ lánh xa, không che chở mình nữa. Lão biết cái lợi của cơ giới nhưng không muốn dùng nó, chỉ có thế thôi ! Tử Cống xấu hổ, cúi đầu. LẠM BÀN: Không để con người mất đi thiên tính là điều tốt nhưng quá bảo thủ là tự làm khổ mình. 34. CẶN BÃ CỔ NHÂN (Trang Tử) Tề Hoàn Công, thời Xuân Thu, đang đọc sách trên nhà. Luân Biển đang đẽo bánh xe ở nhà dưới, nói với Tề Hoàn Công : - Cuốn sách của ngài đang đọc là cặn bã của cổ nhân. Lấy tôi làm ví dụ, kĩ thuật chế tạo bánh xe của tôi cũng không dùng ngôn ngữ để truyền cho con tôi. Cổ nhân đã chết rồi, thì tư tưởng, kĩ thuật của họ cũng không truyền lại được. Vì thế, cuốn sách của ngài đang đọc, chẳng qua cũng chỉ là cặn bã của cổ nhân. LẠM BÀN: Không nên quá câu nệ vào chữ nghĩa, sách vở. 35. BẮT CHƯỚC TÂY THI (Trang Tử) Nàng Tây Thi đau tim mà nhăn mặt. Một người đàn bà trong xóm thấy vậy cho là đẹp, cũng ôm ngực mà nhăn mặt. Những người hàng xóm giàu có thấy vậy, đóng cửa kĩ không ra khỏi nhà, còn người nghèo thì dắt vợ bồng con bỏ chạy. LẠM BÀN: Không biết sở đoản của mình, bắt chước sở trường của người một cách mù quáng. 36. HÀ BÁ NHÌN BIỂN (Trang Tử) Mùa thu, khi nước dâng, cả trăm con sông đổ dồn vào Hoàng Hà, dòng nước mênh mông tới nổi đứng bên bờ này nhìn qua bờ kia, không phân biệt được con bò với con ngựa. Hà Bá, thần sông Hoàng Hà, cho rằng mình làm chủ được hết cái đẹp trong thiên hạ. Nhưng khi xuôi dòng qua phía đông, tới Bắc Hải, thấy nước mênh mông mới quay lại nói với Thần biển là Nhược rằng : - Tục ngữ có câu : Người nào đã nghe được trăm điều về đạo, thì đã tự cho không ai bằng mình. Đó là chính trường hợp của tôi. Tôi đã từng nghe, người ta chê kiến văn của Trọng Ni không được bao nhiêu, khinh nghĩa khí của Bá Di là tầm thường. Mới đầu tôi không tin. Bây giờ tôi thấy chỗ vô biên của ngài, nếu tôi không đến cửa của ngài mà thụ giáo, thì nguy cho tôi, tôi sẽ bị bậc thức giả chê cười mất. LẠM BÀN: Bể học là mênh mông, không nên tự mãn với những hiểu biết của mình. 37. ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG (Trang Tử) Một con ếch nhỏ, ngồi trong một cái giếng sụp, nói với con rùa lớn Biển Đông : - Tôi sung sướng quá ! Tôi có thể ra khỏi giếng, nhảy lên miệng giếng, rồi lại vào giếng, rồi nghỉ ngơi trong những kẽ gạch của thành giếng. Bơi trong nước thì nước đỡ nách và cằm tôi, nhảy xuống thì bùn đỡ tôi lên tới mắt cá. Nhìn lại phía sau, thấy con loăng quăng, con cua, con nòng nọc, không có con nào sướng bằng tôi. Vả lại, một mình chiếm một chỗ nước tụ, tự do bơi lội trong một cái giếng sụp, còn gì vui hơn ? Sao anh không vào giếng tôi coi một chút cho biết ? Con rùa Biển Đông vừa mới muốn đút cái chân bên trái vào giếng, thì không còn chỗ, vì cái đùi bên phải đã bít cái giếng. Nó từ từ rút chân ra và nói với con ếch : - Biển Đông mênh mông nghìn dặm đã thấm gì, sâu thẳm nghìn nhẫn cũng chẳng thấm gì ? Thời vua Vũ, cứ mười chín năm lụt, vậy mà mực nước Biển Đông không lên. Thời vua Thang, cứ tám năm thì bảy năm hạn hán, vậy mà bờ biển không lùi ra xa. Không vì thời gian ngắn hay dài mà thay đổi, không vì mưa nhiều hay ít mà tăng giảm, đó là cái vui lớn của Biển Đông. Con ếch ngồi trong giếng sụp, nghe vậy ngạc nhiên, thu mình, hoảng hốt bối rối. LẠM BÀN: Kiến thức nông cạn hẹp hòi nhưng lại tự mãn, khi nghe những lời uyên bác mới ngạc nhiên, bối rối. 38. CHIM UYÊN SỒ VÀ CHIM CÚ (Trang Tử) Trang Tử sang thăm Huệ Tử làm tể tướng nước Lương. Có kẻ nói với Huệ Tử là Trang Tử đến để tranh ngôi tể tướng. Huệ Tử sợ hãi, sai người đi tìm Trang Tử suốt ba ngày ba đêm. Khi tới, Trang Tử nói : - Ông có biết, một con chim ở phương Nam, người ta gọi là Uyên Sồ không ? Khi nó cất cánh từ Nam Hải lên Bắc Hải, không phải là cây ngô đồng thì nó không đậu, không phải hột luyện thì nó không ăn, không phải là nước suối ngọt thì nó không uống. Một con cú đương rỉa xác một con chuột, thấy nó bay ngang, sợ nó tranh ăn, ngẩng lên nhìn, kêu lên một tiếng lớn để dọa nó. Nay ông vì cái ghế tể tướng nước Lương, mà cũng muốn kêu lên để dọa tôi hay sao ? LẠM BÀN: Lấy bụng ta suy ra bụng người ; bụng dạ hẹp hòi tham lam, thích danh vọng, lợi lộc, suy ra ai cũng tham lam hẹp hòi, thích danh lợi như mình. 39. LỖ HẦU NUÔI CHIM (Trang Tử) Xưa, có một con chim biển đáp xuống ngoài thành nước Lỗ. Vua Lỗ ra bắt nó, rước nó về thái miếu, đặt tiệc mừng nó, cho tấu nhạc Cửu thiền, làm cỗ thái lao (bò, cừu và heo) khoản đãi nó. Nhưng con chim dớn dác, lo âu, không ăn một miếng thịt, không uống một giọt rượu. Ba ngày sau, nó chết. LẠM BÀN: Không hiểu đặc tính của sự vật, sự việc, hành động theo chủ quan của mình thì không thành công. 40. LUYỆN GÀ CHỌI (Trang Tử) Kỷ Sảnh Tử luyện gà đá cho vua. Được mười ngày nhà vua hỏi : - Xong chưa ? - Chưa ! Gà con kiêu khí, tự thị. Mười ngày sau vua lại hỏi : - Xong chưa ? - Chưa ! Mắt nhìn còn hăng, khí còn thịnh. Mười ngày sau, nhà vua hỏi : - Xong chưa ? Kỷ Sảnh Tử tâu : - Gần được ! Nghe gà khác gáy, nó không xúc động nữa. Xem nó như con gà bằng gỗ, đức nó đã hoàn bị rồi, gà lạ không dám đương đầu với nó, thấy nó là quay đầu chạy. LẠM BÀN: Tu dưỡng đạo đức, tính khí là quan trọng nhất. 41. ĐẠO Ở ĐÂU (Trang Tử) Đông Quách Tử hỏi Trang Tử : - Cái ông gọi là Đạo ấy, nó ở đâu ? Trang Tử đáp : - Ở khắp nơi. - Phải chỉ ra chỗ nào mới được chứ. - Trong con kiến. - Sao mà thấp vậy ? - Trong cọng cỏ. - Còn thấp hơn nữa ư ? - Trong mảnh sành. - Càng thấp nữa ! - Trong cục phân. Đông Quách Tử không hỏi nữa. LẠM BÀN: Trang Tử nói với Đông Quách Tử : Những câu hỏi của ông không đi tới thực chất của vấn đề. Như viên xét thuế hỏi người coi chợ về cách dẫm chân lên con heo để biết nó mập hay không : Càng lún chân xuống thì heo càng mập. Ông đừng nên chỉ hẳn một vật nào, phải hỏi bao quát, như vậy sẽ không bỏ sót. Đạo tối cao cũng vậy mà lời nói cao cả cũng vậy : bao hàm, phổ biến và đủ cả. 42. NHÀ NHO NƯỚC LỖ (Trang Tử) Trang Tử vào yết kiến Lỗ Ai Công. Ai Công nói : - Nước Lỗ có rất nhiều nhà Nho nhưng ít ai được như tiên sinh. Trang Tử nói : - Nước Lỗ rất ít Nho sĩ. Ai Công hỏi : - Khắp nước Lỗ nhiều người đều mặc áo nhà Nho, sao tiên sinh nói là ít. Trang Tử đáp : - Tôi nghe nói, nhà nho nào đội cái mũ tròn là biết được thiên thời, đi giày vuông là biết được địa hình, đeo ngọc ngũ sắc là biết quyết đoán khi hữu sự. Thực ra, bậc quân tử có những tài đó không nhất thiết phải ăn mặc như vậy. Những kẻ ăn mặc như vậy chưa chắc đã có những tài đó. Nhà vua không tin cứ ra lệnh : Kẻ nào không đủ tài mà ăn mặc như vậy sẽ bị xử tử hình. Ai Công làm y lời. Năm sau, nước Lỗ không còn ai dám mặc đồ nhà Nho nữa. Chỉ có một ông già dám bận đồ nho, đứng trước cung Ai Công. Ai Công mời vào hỏi việc nước, người ấy nói thao thao bất tuyệt, thiên biến vạn hoá. Trang Tử nói : - Vậy cả nước Lỗ chỉ có một nhà nho (chân chính), sao bảo là nhiều nhà Nho được ? LẠM BÀN: Chiếc áo không làm nên thầy tu, có bằng cấp nhưng chưa hẳn có chân tài thực học. Kẻ học để khoe mẻ thì nhiều, người thực học thì quá ít. 43. CON KHỈ NGẠO MẠN (Trang Tử) Vua Ngô qua Trường Giang lên núi Khỉ. Nhiều con khỉ thấy, sợ, chạy trốn vào rừng sâu. Chỉ có một con ung dung ngồi gãi, tỏ tài để khiêu khích nhà vua. Vua Ngô bắn một mũi tên. Nó bắt được. Nhà vua lại bảo bọn tùy tùng tập trung lại bắn. Rốt cuộc con khỉ bị bắn chết. LẠM BÀN: Nhà vua quay lại bảo bạn là Nhan Bất Nghi : Con khỉ ấy chết vì cậy tài và khiêu khích quả nhân. 44. NGHIÊN CỨU KINH ĐIỂN (Trang Tử) Một bọn học nho muốn nghiên cứu Kinh Thi, Kinh Lễ, khai quật một cái mộ cổ. Thầy của họ bảo họ : - Mặt trời sắp mọc rồi ! Xong chưa ? Họ đáp : - Chưa lột xong quần áo, nhưng trong miệng có hạt châu mà trong Kinh Thi có nói : Lúa mọc xanh xanh Mọc bên sườn đồi Sống không bố thí Chết ngậm hạt châu làm gì ? Rồi họ nắm tóc kéo lên, nắm râu kéo xuống, để mở miệng người chết ra, dùng dùi sắt để cạy hàm, thận trọng lấy hạt châu ra mà không làm hư nó. LẠM BÀN: Bọn buôn thần bán thánh, buôn kinh điển, buôn luôn người đã chết để kiếm miếng ăn. Miệng nói thao thao bất tuyệt về nhân nghĩa, thực chất là những tên xấu xa, tàn nhẫn. 45. ĐẠO LÍ ĂN TRỘM (Liệt Tử) Nước Tống, có một người họ Hướng rất nghèo, anh ta nghe người họ Quốc, nước Tề, rất giàu có, liền sang nước Tề để học cách làm giàu. Người họ Quốc không hề dấu diếm, nói : - Sở dĩ tôi giàu có là nhờ tài ăn trộm, một năm trộm đủ ăn đủ mặc, hai năm trộm thì xây nhà xây cửa… từ khi biết ăn trộm tôi đã trở nên người giàu có của nước Tề. Người họ Hướng nghe lời chỉ giáo, hớn hở về nhà, quyết làm nghề ăn trộm. Lần nào đi ăn trộm, tay thì đào tường, khoét vách, mắt nhìn trước nhìn sau, dõng tai nghe động tĩnh, rất căng thẳng, nên chẳng trộm được gì. Lần nọ, chưa trộm được thì đã bị bắt giam vào ngục, bị đánh đập, tra khảo ; trong nhà còn có vật gì cũng bị tịch thu hết ráo, vì bị nghi là đồ ăn trộm, nhà đã khổ lại thêm cùng khổ. Mãn hạn tù, anh ta sang nước Tề, nặng lời trách móc ông nhà giàu họ Quốc. Ông họ Quốc nghe xong, liền hỏi : - Ông có biết đạo lí của nghề ăn trộm không ? Anh họ Hướng trả lời : - Đã làm nghề ăn trộm mà còn nói đạo lí cái quái gì ? Ông họ Quốc nói : - Làm nghề ăn trộm, trên phải thông thiên văn dưới phải tường địa lí, phải biết thiên thời và địa lợi. Chẳng hạn, trời mưa đất ướt thì cho cày bừa trồng trọt, mùa nắng thì phơi phong ; đến mùa gặt hái thì thu về, xây kho để trữ những gì đã thu hoạch được. Phải biết rừng nào có nhiều thú, sông ngòi nào nhiều cá tôm, mùa nào thì săn bắt ; biết vùng nào có vàng, có ngọc, có đá quý để khai thác, mua bán. Tôi nói ăn trộm là biết trộm của trời, của đất, tôi đâu có nói với ông là đào tường khoét vách, trộm của cải của người ta ! Anh họ Hướng nghe nói chưng hửng. LẠM BÀN: Học không đến nơi đến chốn, không biết phương pháp làm giàu, không thích làm việc mà muốn hưởng thụ, đó là điều không tưởng. Không biết khai thác tài nguyên thiên nhiên làm giàu cho đất nước, chỉ biết bòn rút của nhân dân, thì cũng chẳng khác những tên trộm của quốc gia. 46. CẢM GIÁC BAN ĐẦU (Liệt Tử) Một người sinh ở nước Yên, do lưu lạc, từ nhỏ đã phải sang nước Sở sinh sống. Lúc về già, chạnh lòng quê hương, ông cùng một người bạn thuộc đường, đi về thăm quê. Đến nước Tấn, ông bạn đường chơi lỡm, chỉ thành nước Tấn nói là thành nước Yên. Ông lão người nước Yên than thở không nguôi, cho rằng, không mấy chốc, thương hải đã biến thành tang điền (Biển xanh biến thành cồn dâu, ý nói cuộc đời thay đổi). Lúc ngang miếu thổ địa, thấy hoang tàn đỗ nát, ông ta lại càng bi thương. Khi đến bãi tha ma, người bạn vẫn đùa dai, nói đó là ngôi mộ của tổ tiên ông ta. Ông ta khóc rống lên, vô cùng thảm thiết. Thấy không thể đùa mãi, ông bạn đường nói là đùa chơi, đây là nước Tấn, không phải là nước Yên ; lúc ấy ông ta mới lau khô nước mắt. Đến nước Yên, ông bạn đường dẫn ông ta đi thăm thành quách, miếu thổ địa, mồ mã tổ tiên nhưng mắt ông ta vẫn ráo hoảnh. LẠM BÀN: Những cảm giác, những phút ban đầu làm cho người ta cảm xúc, cảm động, lâu dần cảm giác, cảm xúc đã trở nên trơ lì, vô cảm. Nói lần đầu người ta có thể tin, nói mãi sinh nhàm chán, lời nói chẳng còn có tác dụng gì. 47. NGU CÔNG DỜI NÚI (Liệt Tử) Hai ngọn núi Thái Hình và Vương Oác rộng bảy trăm dặm vuông, cao vạn nhẫn (nhẫn : tám thước), xưa kia vốn ở nam Kí Châu và phía bắc Hà Dương. Ở gần Bắc Sơn có ông Ngu Công, tuổi đã chín mươi, nhà đối diện với núi, bực mình cho rằng, núi chắn lối, sự giao thông với bên ngoài hoá ra bất tiện. Ông bèn hội họp con cháu trong nhà và nói : - Ta với các con tận lực san bằng núi đó để có con đường đi thẳng ra Dự Nam, tới Hán Âm. Mọi người đều bằng lòng, duy có bà vợ tỏ ý nghi ngờ : - Sức ông không san nổi ngọn đồi Khôi Phủ, làm sao san nổi núi Thái Hình và Vương Oác ? Với lại san rồi, đem đất đá đổ vào đâu ? Những người khác đều nói : - Đổ xuống ở phía dưới Bột Hải, phía bắc Án Thổ. Thế rồi, ông lão sai ba người con cháu đập đá, đào đất, đổ vào sọt, đội vác, khiêng lại đổ ở phía cuối Bột Hải. Một quả phụ ở gần đó, có một đứa con trai mới thay răng sữa, cũng tới tiếp tay, tới hết đông qua hè lại, mới trở về nhà. Ông lão Trí Tẩu ở Hà Khúc hay tin, chế nhạo và ngăn cản : - Sao mà ngu thế ! Già nua yếu đuối như vậy, không nhổ được một cọng cỏ trên núi, mà đòi san bằng đất đá. Ông Ngu Công ở Bắc Sơn, thở dài, đáp : - Chú thật vô tình, lòng không sao chuyển được, không bằng người đàn bà góa và đứa trẻ yếu ớt này. Tôi chết thì con tôi lại sinh cháu, cháu tôi lại sinh chắt… con con cháu cháu sinh hoài bất tuyệt, không lúc nào thiếu người, mà núi kia thì cứ như vậy không tăng, vậy lo gì không san phẳng được. Ông Trí Tẩu, ở Hà Khúc, không biết đáp sao. Vị thần chỉ huy loài rắn hay chuyện đó, sợ việc san núi không thành, tâu với Thượng Đế. Thượng Đế cảm động vì lòng thành của Ngu Công, sai hai người con của thần Khoa Nga đội hai trái núi đó, đặt một trái ở Sóc Đông, một trái ở Ung Nam. Từ đó, phía nam Kí Châu và ở phía bắc Hà Dương không còn ngọn núi cao nào ngăn cách bộ hành nữa. LẠM BÀN: Sự quyết tâm đôi khi mạnh hơn cả sức mạnh của thần thánh. Ngu Công là người ngu, hồ đồ ; Trí Tẩu là người khôn ngoan, sáng suốt. Có lúc người ngu, hồ đồ, lại biết lo cho thiên hạ hơn là người khôn ngoan, sáng suốt. 48. KHỔNG TỬ CŨNG CHỊU THUA (Liệt Tử) Khổng Tử đi chơi ở phía đông, thấy hai đứa trẻ cãi nhau. Hỏi duyên cớ, một đứa nói : - Con bảo rằng mặt trời khi mọc thì gần chúng ta, giữa trưa ở xa chúng ta. Đứa kia bảo : - Con thì cho rằng, mặt trời khi mới mọc ở xa chúng ta, giữa trưa thì ở gần. Đứa thứ nhất cãi : - Mặt trời mọc lớn như cái bánh xe, giữ trưa nhỏ như cái mâm hoặc như cái chén. Ở xa thì nhỏ, ở gần thì lớn, chẳng phải thế ư ? Đứa kia đáp : - Mặt trời mới mọc thì không khí mát mẻ, giữa trưa thì nóng như nước sôi. Ở gần thì nóng, ở xa thì mát, như vậy là đúng ! Khổng Tử không biết làm sao. Hai đức trẻ cười, nói : - Vậy mà ai cũng bảo, ông là người biết nhiều. LẠM BÀN: Bể học rộng lớn, dù bác học cũng không ngừng học, đôi khi uyên bác đến mấy cũng không thể lí giải được một việc bình thường trước mắt. 49. KỶ XƯƠNG HỌC BẮN CUNG (Liệt Tử) Theo truyền thuyết, Cam Dằng là thần tiễn, bắn trăm phát trăm trúng, dù là chim bay, thú chạy rơi vào tầm bắn của ông ; đệ tử chân truyền của ông là Phi Vệ. Có một người tên là Kỷ Xương đến xin Phi Vệ học bắn cung. Phi Vệ nói : - Ngươi hãy về tập nhãn lực trước đã, tập nhìn vào mục tiêu mà không hề chớp mắt. Kỷ Xương về nhà, nằm ngữa nhìn khung cửi của vợ dệt vải, nhìn con thoi. Sau hai năm luyện tập, Kỷ Xương có thể nhìn con thoi chuyển động trên khung cửi, mà không chớp mắt, rồi đến nhà thầy. Phi Vệ lại nói : - Ngươi hãy về luyện nhìn mục tiêu, nhỏ thành lớn, vật không thấy rõ thành rõ. Kỷ Xương lại về nhà, lấy đuôi bò treo con rận ở cửa sổ để luyện mắt. Sau hai năm luyện tập, Kỷ Xương nhì con rận to bằng cái bánh xe, mọi vật nhỏ khác đều to hòn núi. Kỷ Xương lại đến thưa với Phi Vệ. Phi Vệ nghe xong, vui mừng và nói : - Thế là ngươi đã thành tài rồi, học hành gì nữa. LẠM BÀN: Muốn học một nghề gì cũng phải khổ công luyện tập mới thành tài. 50. LỚN VÀ NHỎ (Liệt Tử) Dương Chu bái kiến Lương Vương. Dương Chu nói việc trị nước dễ như trở bàn tay. Lương Vương hỏi : - Trong nhà chỉ có một bà vợ lớn, một bà vợ nhỏ, cũng đã khó trị rồi. Huống chi một hoa viên có cả trăm nghìn hoa thơm dị thảo, người có tài đến mấy cũng khó mà biết hết được. Thế mà, tiên sinh nói trị nước dễ như trở bàn tay, có phải là nói quá lời chăng ? Dương Chu đáp : - Đại vương đã thấy người chăn dê chưa ? Trong một cánh đồng cỏ rất lớn, thả một trăm con dê nhưng chỉ cần một đứa trẻ cầm cây roi đi sau bầy dê. Đứa trẻ lùa về hướng đông thì dê đi về hướng đông, đứa trẻ lùa dê về hướng tây thì bầy dê theo hướng tây. Ngày xưa, vua Nghiêu, vua Thuấn cũng căn cứ vào cái lí đó mà chăn dắt nhân dân. Tôi cũng từng nghe, con cá lớn có thể nuốt được thuyền nhưng nó không hề mắc cạn, con chim bằng bay rất cao nhưng không hề rớt xuống, duyên do vì cái bụng con cá lớn, cái chí chim bằng cao xa. Tôi lại nghe, trống Đại Lữ to lớn nhưng người đánh trống tiết tấu rời rạc thì không thể điều khiển được một điệu múa bình thường. Tương tự, trị lí quốc gia là chú trọng vào những việc lớn, làm những việc lớn, không nên chấp nhất vào những việc vụn vặt tuế toái. Tôi nói, trị lí quốc gia dễ như trở bàn tay là vậy. LẠM BÀN: Xử lí một sự việc nên nắm được những điều cốt yếu, cái nào chính, cái nào phụ ; nếu không nắm được những điều cốt yếu thì sự việc rối tinh, rối mù. 51. QUAN DOÃN TỬ DẠY BẮN CUNG (Liệt Tử) Liệt Tử học bắn cung, bắn trúng tâm của cái bia, quay lại hỏi ý kiến Quan Doãn Tử. Quan Doãn Tử hỏi : - Nhà ngươi có biết đạo lí tại sao bắn trúng hay không ? Liệt Tử nói : - Tôi không biết ! Quan Doãn Tử hỏi : - Không biết thì không nên làm. Liệt Tử về tập bắn cung ba năm nữa, đến thỉnh giáo Quan Doãn Tử. Quan Doãn Tử hỏi : - Ngươi có biết đạo lí tại sao bắn trúng không ? Liệt Tử trả lời : - Tôi biết. - Biết thì làm đi ! Doãn Tử nói tiếp : - Chẳng riêng việc bắn cung, việc trị nước, tu thân cũng vậy. Cho nên, các bậc thánh nhân ít nghĩ tới sự đắc thất mà hiểu đạo lí tại sao tồn vong ? LẠM BÀN: Mọi việc mọi vật đều có nguyên nhân, có quy luật, có yếu lĩnh, cần phải biết nguyên nhân, quy luật, biết yếu lĩnh mới làm ; không nắm được quy luật, yếu lĩnh, là làm bừa, cầu may. 52. PHẢI BIẾT BÁN TÀI NĂNG (Liệt Tử) Họ Thi, người nước Lỗ, có hai người con trai, một người hiếu học văn, một người thích binh pháp. Người con thích học văn đem sở học của mình dâng Tề hầu, được Tề hầu dùng làm sư phó cho các công tử. Người con thích việc binh đem binh pháp của mình dâng vua Sở, được vua Sở cho coi việc quân. Gia đình họ Thi nhờ lộc của hai con mà trở nên giàu sang. Một người láng giềng họ Mạnh cũng có hai người con trai, cũng mong được giàu sang như họ Thi, qua nhờ họ Thi chỉ điểm. Họ Thi cũng thật thà kể lại sự thành công của hai người con trai của mình. Họ Mạnh y lời về nói với hai con. Một người con họ Mạnh, đem sở học của mình dâng vua Tần. Vua Tần nói : - Thời này, các chư hầu dùng võ lực mà tranh nhau, chỉ cần binh khí và lương thực thôi. Nếu chúng ta dùng nhân nghĩa mà trị nước, là theo con đường diệt vong mất. Rồi sai người đem thiến. Ít lâu sau thả ra. Người con kia qua nước Vệ, dâng binh pháp lên vua Vệ. Vua Vệ nói : - Nước mình nhỏ, chung quanh là những nước lớn. Nước nào lớn thì mình thờ, nước nào nhỏ thì mình vỗ về ; nếu trông cậy vào binh lực thì nguy mất. Nếu để cho hắn được toàn mệnh mà về, hắn qua nước khác sẽ là mối nguy lớn cho chúng ta. Bèn chặt chân, trả về nước Lỗ. Về tới nhà, cha con nhà họ Mạnh đấm ngực, oán trách họ Thi. Họ Thi nói : - Gặp thời thì thịnh, không gặp thời thì suy. Con đường của bác cũng giống con đường của tôi nhưng kết quả khác nhau là tại không gặp thời chứ không phải là hành động sai. Vả lại, ở đời không có nguyên tắc nào luôn đúng, không có việc nào luôn luôn sai. Cái mà thời trước dùng thì ngày nay có thể bỏ đi ; cái mà ngày nay bỏ đi, ngày sau có thể dùng. Dùng hay bỏ, điều đó không quyết định được phải hay trái. Rình thời cơ, nắm lấy cơ hội, cái đó không có quy tắc nào cả, mà thuộc về sự nhanh trí. Nếu không nhanh trí thì có biết rộng như Khổng Khâu, có tài năng như Lữ Thượng, đi đến đâu cũng khốn thôi. Lúc ấy, cha con họ Mạnh mới không trách cứ họ Thi nữa. LẠM BÀN: Cuộc sống, hoàn cảnh không ngừng thay đổi, nắm được cơ hội thì thành công, không nắm được cơ hội là thất bại. 53. CON NGỰA TUYỆT TRẦN (Liệt Tử) Người xem tướng ngựa nổi tiếng là Bá Nhạc. Một hôm, Tần Mục Công nói với Bá Nhạc : - Ông đã già rồi, con cháu có người nào đi tìm ngựa được không ? Bá Nhạc nói : - Ngựa tốt, coi hình dáng, gân cốt thì biết được. Nhưng con ngựa đệ nhất thiên hạ thì có cái gì đó như ẩn như hiện, như có như không, cảm được nhưng không thấy được, nó chạy nhưng không tung bụi lên, gọi là tuyệt trần, không để lại dấu xe. Mấy đứa con của thần bất tài, giảng cho chúng hiểu thế nào là ngựa tốt mà không giảng cho chúng nhận ra được con ngựa tuyệt trần, nên không sai chúng đi được. Thần có một người bạn cùng chở củi và rau, tên là Cửu Phương Cao, coi ngựa không kém gì thần, đại vương nên gọi người đó tới. Mục Vương vời Cửu Phương Cao đến, sai đi tìm ngựa. Ba tháng sau, người đó trở về tâu : - Đã tìm được ngựa rồi ! Ở Sa Khâu. Mục Vương hỏi : - Ngựa ra sao ? - Ngựa cái vàng. Mục Công sai người đi bắt ngựa, thì ra là một con ngựa đực đen. Mục Công bực lắm, cho mời Bá Nhạc và trách : - Hỏng ! Hỏng bét ! Người mà ông giới thiệu đi tìm ngựa mà lại không phân biệt được ngựa đực hay ngựa cái, màu đen hay màu vàng, thì làm sao mà chọn ngựa, biết ngựa ? Bá Nhạc ngậm ngùi và thở dài, rồi nói : - Ông ta đã đạt đến cái mức ấy ư ? Thế thì ông ấy đã hơn hẳn thần cả nghìn, vạn lần rồi ! Cái mà ông Cao xét, là xét cái huyền vi của trời, ông ấy nhận thấy cái tinh thần mà quên cái thô thiển, xét cái ở trong mà quên cái ở ngoài ; cái gì đáng thấy thì thấy, cái gì không đáng thấy thì thôi ; cái gì đáng nhìn thì nhìn, cái gì không đáng nhìn thì bỏ. Cái thuật của ông Cao có phải chỉ dùng mà xem tướng ngựa mà thôi, còn quý và hữu dụng hơn thế nữa ! Khi dắt ngựa về, quả nhiên con ngựa hay, không ngựa nào bằng. LẠM BÀN: Xét người nên xét về bản chất, không nên xét bề ngoài. 54. KHÔNG ĂN THỨC ĂN CỦA KẺ TRỘM (Liệt Tử) Có một người ở phương Đông, tên Viên Tinh Mục, chuẩn bị một chuyến đi xa. Nhưng mới đi nửa đường đã hết lương thực, ông ta sắp chết đói bên vệ đường. Ở đất Cô Phụ, có một tên trộm khét tiếng tên là Khâu, anh trộm thấy người đi đường sắp chết liền cho ông ta một bầu nước và một nắm cơm. Viên Tinh Mục ăn uống xong, tỉnh táo hẳn ra, tạ ơn và hỏi tên tuổi. Anh ăn trộm nói : - Tôi tên là Khâu. Viên Tinh Mục thất kinh hỏi dồn : - Có phải ngươi là tên trộm khét tiếng ở đất Cô Phụ không ? - Vâng ! Viên Tinh Mục nói : - Ta là nhân nghĩa, thà chết đói còn hơn là ăn cơm uống nước của tên ăn trộm. Nói xong, ông ta móc cổ, nôn ọe cho đến hết, nhảy nhót lung tung và ngã lăn chết bên vệ đường. LẠM BÀN: Nguyên tắc, máy móc, chấp nhất, thiên kiến là tự giết mình. 55. MẤT DÊ (Liệt Tử) Người láng giềng của Dương Tử mất dê, đã sai tất cả những người trong nhà đi tìm, lại xin Dương Tử cho trẻ đi tìm hộ. Dương Tử hỏi : - Mất một con dê sao nhiều người đi tìm thế ? Người kia đáp : - Vì đường có nhiều ngã rẽ. Lại hỏi : - Tìm được không ? - Không. - Sao không tìm được ? Đáp : - Lại một ngã rẽ lại gặp ngã rẽ khác, không biết theo ngã nào, nên phải về. LẠM BÀN: Quá nhiều ý kiến càng xa rời cái gốc của chân lí. 56. DƯƠNG BỐ ĐÁNH CHÓ (Liệt Tử) Dương Châu có một người em trai tên là Dương Bố. Dương Bố có nuôi một con chó. Một hôm, Dương Bố mặc bộ quần áo trắng đi ra ngoài. Lúc về, gặp mưa, quần áo ướt, bùn lấm lem, bộ áo quần trắng hoá thành màu đen. Dương Bố vừa về đến cửa, con chó xồ ra sủa nhặng lên. Dương Bố giận quá, lấy roi đuổi đánh con chó. Dương Châu thấy vậy, nói : - Giả sử con chó lúc đi lông màu trắng, lúc về lông nó đen tuyền, thì chú có nhận ra chó của mình hay không ? Dương Bố nghe nói, liền không đuổi đánh con chó nữa. LẠM BÀN: Mọi sự việc đều có nguyên nhân, chưa tìm ra nguyên nhân, hành xử một cách nóng nảy là sai lầm. 57. PHÓNG SINH (Liệt Tử) Hằng năm, cứ gần đến ngày mồng một tháng giêng, những người trong vùng thường đem chim cưu đem đến dâng cho Triệu Giản Tử. Triệu Giản Tử trọng thưởng rất hậu hĩnh. Một người khách lấy làm lạ hỏi Triệu Giản Tử : - Thế ông dùng chim vào việc gì ? - Tôi dùng để phóng sinh vào ngày mồng một tháng giêng, để tỏ đức hiếu sinh của mình đối với loài vật. Người khách nói : - Ông lầm rồi ! Ông càng phóng sinh thì người ta càng tìm cách săn bắt, bẫy chim cưu. Những con chim bị truy bắt, bị bẫy, con nào may mắn không chết thì cũng bị giam cầm đói khát, chờ đến ngày ngài phóng sinh, chúng khổ sở biết dường nào. Triệu Giản Tử tạ tội và nói : - Ông dạy chí phải ! LẠM BÀN: Sự nhân đức giả dối chỉ thêm tàn hại sinh linh. 58. TRỜI KHÔNG THIÊN VỊ (Liệt Tử)