" Ngôi Nhà Quái Dị PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ngôi Nhà Quái Dị PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo epub©vctvegroup 06-01-2018 Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Lời tựa Quyển sách này là một trong những quyển tôi đặc biệt yêu thích. Tôi đã ấp ủ nhiều năm, nghĩ về nó, hình dung ra nó và tự nhủ: “Một ngày nào đó, khi mình có nhiều thời gian và muốn thưởng thức chính mình – mình sẽ bắt đầu.” Ngôi nhà quái dị là niềm vui đơn thuần. Tôi thường tự hỏi người đọc sách có thể biết đó là một công việc gian khổ hay là niềm vui sáng tác? Nhiều người nói với tôi: “Bà hẳn đã thích thú khi viết như thế!” Quyển sách này không theo cách mà các bạn mong muốn, tính cách nhân vật không ly kỳ, âm mưu không cần phức tạp, đối thoại quá bình thường – nếu bạn nghĩ như thế. Nhưng có lẽ, tác giả không phải là quan tòa đánh giá tác phẩm của mình tốt nhất. Tuy nhiên, thực tế mọi người đã yêu thích Ngôi nhà quái dị, tôi xác nhận lòng tin của mình đây là một quyển hay nhất của tôi. Tôi không biết điều gì đã đưa gia đình Leonides vào đầu tôi – họ chợt đến. Sau đó giống như Topsy[1]‘họ lớn dần lên’. Tôi cảm thấy mình chỉ là thư ký của họ. • Agatha Christie 1 Tôi quen Sophia Leonides lần đầu tiên tại Ai Cập lúc chiến tranh sắp kết thúc. Nàng giữ chức vụ hành chánh khá cao trong một cơ quan cấp vụ thuộc Bộ Ngoại giao ở đó. Tôi biết nàng trước tiên qua công việc, rồi nhanh chóng đánh giá cao năng lực đã đưa nàng đến vị trí ấy mặc dù nàng còn rất trẻ (lúc đó, nàng chỉ mới hai mươi hai). Bên cạnh dáng vẻ rất ưa nhìn, nàng còn có bộ óc minh mẫn và khiếu hài hước tỉnh queo tôi vô cùng yêu thích. Chúng tôi kết bạn với nhau. Nàng là người đặc biệt dễ bắt chuyện. Chúng tôi thường xuyên ăn tối và thỉnh thoảng lại khiêu vũ cùng nhau. Đó là tất cả những gì tôi biết. Và đến lúc được lệnh trở về Miền Đông khi chiến tranh châu Âu chấm dứt thì tôi còn biết thêm một điều nữa – tôi yêu Sophia và muốn cưới nàng. Tôi nhận ra điều ấy khi chúng tôi ăn tối tại khách sạn Shepheard. Không phải tiếng sét ái tình mà là tình cảm mưa dầm thấm lâu. Tôi nhìn nàng với cái nhìn mới mẻ – nhưng những gì tôi trông thấy thì từ lâu đã thân quen. Tôi thích mọi thứ mình đang nhìn thấy. Mái tóc sậm màu lượn sóng buông lơi trên vầng trán, đôi mắt xanh long lanh sáng, chiếc cằm thuôn nhỏ như thách thức và sống mũi thẳng. Tôi thích chiếc áo veston màu xám nhạt may rất khéo cùng áo sơ mi trắng tinh ủi phẳng phiu. Trông nàng đậm chất Anh, và nhìn nàng sau ba năm xa nhà khiến cho tôi nhớ da diết quê hương xứ sở. Tôi nghĩ, không ai có thể là người Anh hơn nàng – và thậm chí khi đang nghĩ vậy thì tôi lại đột nhiên tự hỏi nàng quả thật có chất Anh như dáng vẻ bên ngoài không, hay đó chỉ là màn trình diễn hoàn hảo? Tôi nhận thấy nhiều lần nói chuyện thoải mái với nhau, tranh cãi ý tưởng, những điều chúng tôi thích và không thích, về tương lai, bạn bè thân và không thân – Sophia không hề nói về gia thế của mình. Nàng biết tất cả về tôi (nàng là người chịu lắng nghe, tôi nhận thấy thế) nhưng tôi lại không biết gì về nàng cả. Tôi cho rằng lai lịch nàng cũng bình thường như bao người, có điều nàng không bao giờ kể. Và cho đến bây giờ tôi chẳng biết bất cứ điều gì. Sophia hỏi tôi đang nghĩ gì. Tôi thành thật đáp: “Nghĩ về em.” “Em biết,” nàng nói, cứ như thể nàng biết thật. “Có thể trong một vài năm nữa chúng mình sẽ không gặp nhau,” tôi nói. “Anh không biết bao giờ mới trở về Anh Quốc. Nhưng ngay khi anh về thì việc đầu tiên anh làm là đến tìm em và cầu hôn.” Nàng nghe tôi nói mà không một lần chớp mắt. Nàng ngồi đó, hút điếu thuốc, không nhìn tôi. Tôi nóng ruột vì nghĩ có thể nàng không hiểu ý tôi. “Em nghe này,” tôi nói. “Có một điều anh quyết không làm, là cầu hôn em ngay bây giờ. Làm vậy không giải quyết được gì. Trước hết nếu em từ chối, anh sẽ rất đau lòng, và để khỏa lấp tự ái anh có thể cưới một phụ nữ tồi tệ nào đó. Còn nếu như em không từ chối anh thì chúng ta sẽ làm gì đây? Cưới xong là anh đi ngay? Hứa hôn rồi chờ đợi mỏi mòn? Anh không thể chịu đựng nếu em chấp nhận như thế. Em có thể gặp một người khác nhưng buộc lòng phải ‘trung thành’ với anh. Chúng ta đang sống trong một thời đại sôi động, biến đổi nhanh chóng. Chung quanh ta đầy rẫy chuyện yêu đương, cưới xin rồi đổ vỡ. Anh mong muốn thấy em về nhà, tự do và độc lập, em nhìn chung quanh em, nắm bắt thế giới đổi mới sau chiến tranh và quyết định điều mình sẽ làm. Những gì đã có giữa đôi ta sẽ là vĩnh cửu, Sophia ạ. Anh không cần bất cứ kiểu hôn nhân nào khác.” “Em cũng thế,” Sophia nói. “Mặt khác,” tôi nói thêm, “anh nghĩ anh được quyền cho em biết anh đang – à – cảm thấy thế nào.” “Nhưng không phải là câu nói trữ tình thái quá đấy chứ?” Sophia thủ thỉ. “Em yêu – em có hiểu không? Anh cố không nói là anh yêu em.” Nàng chặn lời tôi. “Em hiểu chứ Charles. Và em thích anh ở cách làm cho mọi việc trở nên vui vẻ. Khi anh trở về, anh có thể tìm đến em – nếu anh vẫn còn muốn…” Đến lượt tôi ngắt lời nàng. “Điều ấy thì chắc chắn rồi.” “Không thể chắc chắn mọi việc đâu, Charles ạ. Có thể có đôi điều không lường trước làm hỏng kế hoạch của chúng ta. Trước tiên là anh không biết chi nhiều về em, đúng không?” “Thậm chí anh còn không biết em sống ở đâu tại Anh nữa.” “Em sống ở Swinly Dean.” Tôi gật đầu khi nghe nói đến vùng ngoại ô nổi tiếng của London, nơi tự hào có ba sân golf dành cho giới tài phiệt thủ đô. Nàng nói tiếp, giọng trầm ngâm: “Trong một ngôi nhà nhỏ quái dị…” Tôi hơi ngạc nhiên vì có vẻ như nàng đang đùa, nhưng nàng lặp lại rõ ràng trích đoạn ấy. ‘Và họ đã sống cùng nhau trong ngôi nhà quái dị nho nhỏ.’ Đó là nhà em. Thật ra nhà không nhỏ, nhưng đúng là quái dị vì có nhiều đầu hồi và tường bằng đá với khung cột gỗ.” “Nhà có đông người không? Em có anh chị em chứ?” “Một em trai, một em gái, mẹ, cha, bác trai và bác gái, ông nội, bà dì và bà nội kế.” “Ôi trời!” tôi kinh ngạc thốt lên. Nàng bật cười. “Dĩ nhiên, mọi người sống chung một nhà là không bình thường, nhưng vì giặc giã và bom đạn mà ra thế. Tuy nhiên em không biết có phải về mặt tâm linh gia đình em phải luôn sống chung – dưới sự trông nom và bảo vệ của ông nội em không,” nàng chau mày suy nghĩ. “Ông em đúng là một Con Người. Ông đã ngoài tám mươi, cao khoảng một mét sáu, và mọi người khác đều mờ nhạt khi đứng cạnh ông.” “Ông có vẻ đặc biệt nhỉ?” tôi nói. “Rất đặc biệt. Ông là người Hy Lạp đến từ Smyrna, tên Aristide Leonides.” Nàng nháy mắt nói thêm, “Cực kỳ giàu có.” “Sau chiến tranh thì còn ai giàu nữa chứ?” “Ông em vẫn giàu đấy,” Sophia quả quyết. “Các thủ đoạn trưng thu tài sản người giàu chẳng hề hấn gì với ông cả. Có khi ông móc túi lại họ ấy.” “Em tự hỏi không biết anh có thích ông em không?” nàng nói thêm. “Thế còn em?” “Em quý ông hơn bất cứ ai trên đời này,” nàng đáp. 2 Hơn hai năm sau tôi mới trở về Anh Quốc. Hai năm ấy thật không dễ chịu chút nào. Tôi viết thư cho Sophia và được nàng hồi âm khá đều đặn. Thư chúng tôi gửi cho nhau không phải là thư tình mà là trao đổi giữa hai người bạn thân về suy nghĩ và quan niệm sống cũng như bàn luận chuyện đời. Tuy nhiên tôi biết tình cảm giữa chúng tôi ngày càng bền bỉ và sâu đậm, và tôi tin rằng Sophia cũng nghĩ thế. Tôi trở về nước Anh vào một ngày tháng 9 khá u ám. Bầu trời xao xác gió, lá trên cây ửng vàng trong ánh sáng chiều hôm. Từ phi trường, tôi gửi điện tín cho Sophia. Vừa về tới. 9 giờ tối nay mình dùng bữa tại nhà hàng Mario nhé. Charles. Khoảng hai tiếng sau, khi đang đọc tờ Times, lướt qua mục Chào đời, Kết hôn và Cáo phó, mắt tôi bỗng chạm phải cái tên Leonides: Vào ngày 19 tháng 9, tại nhà Ba Đầu Hồi ở Swinly Dean, ông Aristide Leonides, phu quân bà Brenda Leonides, đã từ trần thọ 88 tuổi. Trân trọng báo tin. Ngay phía dưới có một tin khác: Con cháu nhà Leonides vô cùng đau đớn báo tin: Ông Aristide Leonides bất ngờ từ trần tại nhà Ba Đầu Hồi, Swinly Dean. Tang lễ được tổ chức tại nhà thờ Saint Eldred, Swinly Dean. Tôi thấy hai bản cáo phó này khá kỳ lạ. Dường như do lỗi của tòa soạn mà tin bị trùng lắp. Nhưng mối quan tâm chính của tôi là Sophia. Tôi vội gửi cho nàng bức điện thứ hai: Vừa hay tin ông nội em từ trần. Thật đau buồn. Cho biết bao giờ anh có thể gặp em. Charles. Tôi nhận điện tín của Sophia lúc 6 giờ tại nhà thân phụ tôi. Điện tín viết: Sẽ đến Mario lúc 9 giờ. Sophia. Ý nghĩ gặp lại Sophia khiến tôi bồn chồn lo lắng. Thời gian trôi qua chậm chạp đến bực mình. Tôi đến nhà hàng Mario sớm hơn giờ hẹn hai mươi phút, còn nàng chỉ đến trễ năm phút. Khi gặp lại một người xa cách đã lâu nhưng hình bóng họ luôn hiện diện trong tâm trí ta, bao giờ ta cũng thấy xúc động. Lúc Sophia bước qua cánh cửa xoay, cuộc gặp giữa chúng tôi dường như chỉ là hư ảo. Nàng mặc bộ đồ đen, và lạ lùng thay điều đó lại làm tôi giật mình. Hầu hết phụ nữ khác cũng mặc trang phục đen – nhưng tôi luôn đinh ninh trong lòng đó là màu tang chế – và tôi ngạc nhiên vì Sophie cũng mặc trang phục đen để thể hiện sự buồn đau – thậm chí cho người thân của mình. Chúng tôi dùng cocktail – sau đó đi tìm bàn cho mình. Chúng tôi luống cuống nói huyên thuyên – hỏi thăm sức khỏe những người bạn cũ hồi còn ở Cairo. Một cuộc trao đổi không tự nhiên nhưng lại giúp chúng tôi vượt qua những phút ban đầu ngượng nghịu lúng túng. Tôi chia buồn về việc ông nàng qua đời, và Sophia lặng lẽ trả lời cái chết đó ‘quá đột ngột’. Sau đó chúng tôi trở về trạng thái hồi tưởng. Tôi băn khoăn vì cảm nhận có điều gì đó khác hơn là sự bỡ ngỡ của lần gặp lại theo lẽ thường. Có gì đó không ổn, dứt khoát là không ổn với Sophia. Có khi nào nàng sắp nói mình đã tìm được người đàn ông khác, rằng tình cảm nàng dành cho tôi ‘hoàn toàn là nhầm lẫn’? Không hiểu sao tôi vẫn nghĩ chuyện đó sẽ không xảy ra – mà tôi cũng không biết là chuyện gì nữa, tuy vậy chúng tôi vẫn tiếp tục nói chuyện gượng gạo. Thình lình, khi người bồi bàn mang cà phê đặt lên bàn và cúi đầu rút lui thì mọi việc nhanh chóng trở lại như xưa. Nơi đây Sophia và tôi đang ngồi cạnh nhau, như chúng tôi từng ngồi bên chiếc bàn nhỏ trong nhà hàng ngày ấy. Những năm xa cách dường như chưa bao giờ hiện hữu. “Sophia,” tôi gọi. Nàng đáp ngay, “Charles!” Tôi hít một hơi thật sâu mà thấy nhẹ cả người. “Tạ ơn Chúa, mọi việc đã qua rồi,” tôi nói. “Có chuyện gì giữa chúng mình vậy em?” “Có thể do lỗi của em. Em quá ngốc nghếch.” “Nhưng giờ thì ổn rồi chứ?” “Vâng, giờ đã ổn rồi.” Chúng tôi nhìn nhau mỉm cười. “Em yêu!” Tôi nói. Rồi tiếp: “Bao giờ thì em đồng ý kết hôn với anh?” Nụ cười nàng vụt tắt. Cái gì đó không ổn quay trở lại. “Em không biết,” nàng đáp. “Em không dám chắc lúc nào có thể kết hôn với anh, Charles ạ.” “Sophia! Sao vậy em? Có phải vì em cảm thấy anh là người xa lạ? Em có cần thời gian để làm quen lại với anh không? Phải chăng em đã có người khác? Không,…” Tôi ngưng bặt. “Anh là một gã khờ. Anh chẳng là gì cả.” “Không phải thế đâu.” Nàng lắc đầu. Tôi chờ. Rồi nàng khẽ nói: “Là cái chết của ông nội em.” “Chỉ vì ông em qua đời à? Nhưng tại sao? Có gì khác đâu cơ chứ? Không phải ý em muốn nói – chắc là em không nghĩ vậy – vấn đề tài sản chứ? Ông không để lại tí nào, phải không? Nhưng em yêu, chắc chắn…” “Không phải chuyện tiền bạc đâu anh.” Nàng thoáng hé nụ cười. “Em nghĩ anh muốn ‘đi guốc trong bụng em’ như người xưa thường nói. Suốt đời mình, ông em không để tài sản của mình suy suyển một đồng nào anh ạ.” “Thế thì là gì?” “Charles, em nghĩ ông em không phải là qua đời. Em cho rằng có thể ông bị giết…” Tôi trố mắt nhìn nàng. “Nhưng – em nói gì mà lạ! Sao em lại nghĩ thế?” “Em đâu có nghĩ. Là do từ đầu bác sĩ đã nghi ngờ. Ông ấy không chịu ký giấy chứng tử. Sắp tới sẽ có cuộc khám nghiệm tử thi. Rõ ràng họ thấy có gì đó không ổn anh ạ.” Tôi không tranh cãi với nàng. Sophia là người thông minh, mọi kết luận của nàng đều có thể tin cậy. Thay vào đó, tôi sốt sắng nói: “Các nghi vấn của họ có thể sai bét. Nhưng giả sử họ đúng thì điều đó ảnh hưởng gì đến anh và em nào?” “Trong một số hoàn cảnh nào đó thì có đấy anh. Anh ở trong ngành ngoại giao, nên về việc vợ con cũng có điều khác người ta đấy. Thôi, đừng nói nữa, em xin anh. Em biết thể nào anh cũng nói chuyện này và em hiểu anh đã nghĩ chín chắn – và về lý thuyết thì em hoàn toàn đồng ý với anh. Nhưng em là người rất kiêu hãnh. Em muốn cuộc hôn nhân này sẽ tốt đẹp cho cả hai ta chứ không bên nào phải chịu thiệt thòi hay hy sinh vì tình yêu. Và như em đã nói, có thể mọi chuyện sẽ ổn…” “Em muốn nói ông bác sĩ – có thể đã sai lầm?” “Ngay cả khi ông ta không nhầm lẫn thì cũng không thành vấn đề – đằng nào cũng có người giết ông nội.” “Em định nói gì vậy Sophia?” “Thật là tồi tệ khi nói thế. Nhưng suy cho cùng thì nên trung thực anh ạ.” Nàng chặn không cho tôi nói. “Thôi nhé, Charles, em sẽ không nói gì thêm nữa. Em đã nói quá nhiều. Nhưng tối nay em quyết đến gặp anh là để anh hiểu cho em. Chúng ta không thể yên tâm làm gì cho đến khi sự việc được sáng tỏ.” “Ít ra em cũng nói cho anh biết chuyện đó chứ.” Nàng lắc đầu. “Em không muốn.” “Nhưng – Sophia…” “Không đâu, Charles. Em không muốn anh quan tâm gia đình em từ góc độ của em. Em muốn anh nhìn gia đình em với cái nhìn khách quan không thiên vị.” “Vậy anh phải làm thế nào?” Nàng nhìn tôi, một cái nhìn tinh quái với đôi mắt xanh long lanh sáng. “Anh sẽ có được cái nhìn đó từ cha anh,” nàng đáp. Lúc ở Cairo tôi đã nói cho Sophia biết cha tôi là Trợ lý ủy viên cảnh sát của Scotland Yard, và giờ ông vẫn còn làm ở đó. Nghe nàng nói mà tôi thấy lạnh cả sống lưng. “Sự việc tệ hại đến thế cơ à?” “Em nghĩ vậy. Anh có thấy người đàn ông ngồi một mình ở bàn gần cửa không – cái anh chàng bảnh trai trông giống một cựu chiến binh đang ra vẻ thản nhiên ấy?” “Có, anh có thấy.” “Tối nay khi em lên tàu ở Swinly Dean thì anh ta cũng ở trong sân ga.” “Ý em là anh ta theo em đến đấy?” “Vâng. Em cho rằng cả hai chúng ta đều bị – nói thế nào nhỉ? – bị theo dõi anh ạ. Họ đã nói bóng gió là chúng em không nên ra khỏi nhà. Nhưng em đã quyết đi gặp anh.” Nàng hất nhẹ chiếc cằm thanh tú như thách thức. “Em đi ra bằng cửa sổ buồng tắm và tụt xuống theo đường ống nước.” “Em yêu!” “Nhưng cảnh sát thì tinh nhuệ lắm, và tất nhiên lại có bức điện tín em gửi cho anh. Không sao cả – giờ chúng ta đang ở bên nhau… Nhưng từ nay trở đi hai chúng ta phải tự mình xoay xở.” Nàng dừng lời rồi lại nói thêm: “Không còn nghi ngờ gì – tình yêu của chúng ta thật bất hạnh.” “Không có gì nghi ngờ cả,” tôi nói, “em đừng nói bất hạnh. Anh và em đã từng trải qua thế chiến, đã thoát qua cái chết cận kề – và anh không gì lạ khi thấy cái chết bất thần của một ông lão – vậy, ông bao nhiêu tuổi?” “Tám mươi bảy.” “Báo Times có đăng. Ông mất ở cái tuổi già, và bất cứ bác sĩ đa khoa đáng kính nào cũng sẽ chấp nhận.” “Nếu như anh biết ông em, anh sẽ phải ngạc nhiên về cái chết bất thường của ông,” Sophia nói. 3 Tôi ít khi để ý đến công việc cảnh sát của cha tôi, vì thế tôi chưa sẵn sàng lúc nào thì nên trực tiếp quan tâm đến công việc ấy. Tôi chưa gặp Ông Già. Ông đi ra ngoài khi tôi về đến, và sau khi tắm rửa, cạo râu, thay áo quần, tôi phải đi ra ngoài để gặp Sophia. Khi tôi trở về nhà, Glover báo cho tôi biết ông ở trong phòng làm việc. Ông ngồi tại bàn làm việc, cau có trước một đống giấy tờ. Ông chồm đứng lên khi thấy tôi vào. “Charles! Tốt, tốt, đã lâu không gặp.” Sau năm năm chiến tranh, cuộc gặp gỡ giữa hai cha con có thể làm cho một người đàn ông Pháp thất vọng. Thực ra mọi cảm xúc về sự sum họp đều ổn. Ông Già và tôi rất thương yêu và hiểu ý nhau. “Cha vừa mới uống chút whisky,” ông nói. “Xin lỗi, cha đã ra ngoài khi con về đến đây. Cha đang ngập đầu với công việc. Lại một vụ mới, quỷ tha ma bắt!” Tôi ngả người tựa vào lưng ghế và đốt một điếu thuốc. Tôi hỏi: “Vụ án Aristide Leonides phải không cha?” Cặp chân mày của ông nhanh chóng cụp xuống. Ông phóng nhìn tôi, một cái nhìn nhanh, đánh giá. Giọng nói nghiêm nghị, lạnh tanh. “Điều gì khiến con nói thế, Charles?” “Con nói đúng, phải không?” “Làm sao con biết chuyện đó?” “Do nhận được thông tin.” Ông Già chờ lắng nghe. “Tin tức của con, đến từ nguồn vững chắc,” tôi đáp. “Tiếp đi, Charles, nói cho cha biết đi.” “Cha có thể không thích điều đó. Con đã gặp Sophia Leonides hồi ở Cairo. Con đã yêu cô ấy. Con sẽ cưới cô ấy. Tối hôm nay con đã gặp cô ấy. Cô ấy ăn tối với con.” “Ăn tối với con? Tại London? Cha tự hỏi cô ta đã làm cách nào? Cả gia đình ấy – nói cho dễ nghe – bị buộc phải ở tại nhà.” “Đúng vậy, cô ấy tuột ống nước từ cửa sổ phòng tắm.” Đôi môi Ông Già hơi nhếch một nụ cười. Ông nói: “Cô nàng này có vẻ là một cô gái trẻ có bản lĩnh.” “Nhưng cảnh sát rất có năng lực,” tôi nói. “Một viên cảnh bị đã theo dõi nàng đến nhà hàng Mario. Con nghĩ cha đã có những báo cáo. Cao khoảng một mét bảy, tóc nâu, mắt xanh, mặc áo xanh sậm có sọc nhỏ, v.v…” Ông Già nhìn tôi nghiêm khắc. Ông hỏi: “Chuyện này – nghiêm túc đấy chứ?” “Vâng. Rất nghiêm túc, thưa cha.” Có một lúc im lặng. Tôi hỏi: “Cha phản đối sao?” “Cách đây một tuần thì cha sẽ không phản đối. Họ là một gia đình nề nếp… cô gái sẽ có một số tiền – và cha biết con. Con không dễ đánh mất lý trí. Có phải thế không?” “Vâng, thưa cha.” “Chuyện đó có thể tốt thôi, nếu như….” “Nếu như, sao?” “Nếu như có đúng người làm điều đó.” Đây là lần thứ hai tôi nghe câu này. Tôi bắt đầu chú ý. “Nhưng ai là đúng người?” Ông nhìn tôi một cái nhìn sắc bén. “Con biết được bao nhiêu về tất cả chuyện đó?” “Không gì hết.” “Không gì hết à?” Ông có vẻ ngạc nhiên. “Cô gái không nói cho con biết gì hết à?” “Thưa không. Cô ấy nói con nhìn toàn bộ – từ một cái nhìn khách quan – là tốt hơn cả.” “Cha tự hỏi tại sao thế?” “Vậy còn chưa rõ ràng sao?” “Không, Charles, cha không nghĩ như thế.” Ông cau mày, đi qua đi lại. Ông đã đốt một điếu xì gà và bây giờ điếu xì gà đã hết. Điều đó cho tôi thấy Ông Già vô cùng bối rối. “Con đã biết được bao nhiêu về gia đình đó?” ông hất hàm hỏi. “Khốn khổ cho con! Con chỉ biết có một ông già, một số con và cháu, một số quyến thuộc qua hôn nhân. Con không biết rõ nhánh nhóc của họ.” Tôi ngưng lại rồi tiếp. “Cha nên đặt con vào hoàn cảnh đó thì tốt hơn cha ạ.” Ông ngồi xuống. “Được rồi. Rất tốt. Cha sẽ bắt đầu từ đầu – Aristide Leonides. Ông ta đến Anh khi hai mươi bốn tuổi.” “Một người Hy Lạp từ Smyrna.” “Con biết gì nhiều hơn không?” “Đó là tất cả những gì con biết.” Cánh cửa bật mở, Glover bước vào, báo Chánh thanh tra Taverner đã đến. “Anh ta phụ trách vụ án này.” Cha tôi nói. “Có thêm anh ta rất tốt. Anh ta đang rà soát gia đình Leonides. Anh ta hiểu biết về họ hơn cha.” Tôi hỏi cảnh sát địa phương có yêu cầu Scotland Yard trợ giúp không. “Việc này thuộc thẩm quyền của chúng ta. Nhưng Swinly Dean thuộc Greater London.” Tôi cúi chào Chánh thanh tra Taverner khi anh bước vào phòng. Tôi quen biết Taverner nhiều năm về trước. Anh nồng nhiệt chào mừng tôi và khen ngợi tôi về nước được an toàn. Cha tôi nói: “Tôi cho Charles tham gia vụ án. Taverner, hãy chỉnh sửa nếu tôi nói sai. Leonides đến London năm 1884. Ông ta khởi đầu sự nghiệp với một nhà hàng nhỏ tại Soho. Thành công. Ông mở thêm một nhà hàng khác. Sau đó ông sở hữu bảy hay tám nhà hàng. Tất cả đều thành công.” “Trong thời gian ông ta quản lý, không có gì sai sót,” Taverner nói. Cha tôi nói: “ Ông ta có khiếu bẩm sinh. Đến tận sau này ông ta sở hữu nhiều nhà hàng nổi tiếng tại London. Sau đó ông tiến sâu vào công nghiệp cung cấp suất ăn quy mô lớn.” “Ông ta có sau lưng một số công việc kinh doanh khác cũng rất thành công,” Taverner nói. “Như buôn bán quần áo đã qua sử dụng, cửa hàng nữ trang rẻ tiền, nhiều thứ khác nữa. Dĩ nhiên,” Taverner trầm ngâm, “ông ta luôn là kẻ gian gian.” “Ý anh là lừa bịp ư?” tôi hỏi. Taverner lắc đầu. “Không, không phải thế. Gian gian – đúng, nhưng không phải kẻ lừa bịp. Không làm gì vi phạm pháp luật. Nhưng ông ta là loại người biết lách kẽ hở pháp luật. Ông ta biết rửa sạch tay trong trận chiến và khi già vẫn thế. Ông ta không làm điều gì mang tiếng bất hợp pháp – nhưng khi ông ta đạt được điều gì, anh phải có ngay điều luật liên quan đến hành vi đó, anh hiểu ý tôi muốn nói chứ? Nhưng lúc này đây ông ta đã ra đi khi công việc còn dang dở.” “Nghe nói ông ta không có tính cách hấp dẫn.” “Ông ta cũng hấp dẫn, đủ gọi là hơi kỳ kỳ. Con người có cá tính. Anh sẽ cảm nhận điều ấy. Nhìn kỹ không có gì đặc biệt. Đó là một gã lùn – một kẻ nhỏ con xấu xí – nhưng có sức hút – nhiều phụ nữ mê ông ta.” “Tuy vậy ông ta có một cuộc hôn nhân gây ngạc nhiên,” cha tôi nói. “Cưới được con gái một điền chủ – một ông chủ nuôi chó săn.” Tôi nhướn mày. “Vì tiền?” Cha tôi lắc đầu. “Không phải, đó là một cuộc tình ngẫu nhiên. Cô gái gặp ông ta trong một vụ phục vụ đám cưới của một cô bạn – và mê đắm ông ta. Cha mẹ cô gái chống đối quyết liệt, nhưng cô gái quyết tâm lấy ông ta. Như cha đã nói, người đàn ông có sức quyến rũ – có cái gì là lạ và mạnh mẽ khiến cô gái say đắm. Cuộc sống trước đó khiến cô nàng buồn chán cực độ.” “Thế cuộc hôn nhân đó có hạnh phúc không?” “Rất hạnh phúc, thật khá kỳ lạ. Dĩ nhiên bạn bè thân thiết của họ không vừa ý (đó là những ngày sự phân biệt giai cấp không còn quá lệ thuộc vào đồng tiền), nhưng họ không phiền lòng. Họ gạt bạn bè qua một bên. Họ xây dựng một ngôi nhà kỳ lạ tại Swinly Dean, sống ở đấy và có tám đứa con.” “Lịch sử gia đình đó thực sự như thế nào?” “Ông lão Leonides khá khéo chọn Swinly Dean. Ông ta chỉ mới bắt đầu cải thiện nơi đây. Sân golf thứ hai và thứ ba chưa kịp làm. Đó là sự phối hợp giữa những cư dân cũ, họ ưa thích những mảnh vườn và bà Leonides – và những người giàu có của thành phố thích đến với ông Leonides, họ đến để chọn bạn bè. Tôi nghĩ rằng ông bà sống rất hạnh phúc cho đến khi bà Leonides mất vào năm 1905 vì bệnh viêm phổi.” “Để lại tám đứa con?” “Một đứa chết lúc còn nhỏ. Hai con trai chết trong trận chiến vừa qua. Một cô con gái lấy chồng đi Úc và chết ở đó. Một cô không chồng chết vì tai nạn xe môtô. Một người chết một hai năm về trước. Hai người con trai còn sống. Roger là người con lớn, có vợ nhưng không có con. Còn người kia, Philip, có vợ là một nữ diễn viên nổi tiếng và có ba đứa con: cô bé Sophia của con, Eustace và Josephine.” “Và họ cùng sống ở – tên gì nhỉ? Ba Đầu Hồi?” “Đúng. Nhưng bà Roger Leonides bị trúng bom chết hồi đầu chiến tranh. Philip và gia đình của ông ta sống ở đó từ năm 1937. Nơi đây còn có bà dì già, bà cô de Haviland, em của bà Leonides đầu tiên. Bà này luôn khinh ghét ông anh rể ra mặt, nhưng khi chị bà mất, bà thấy có bổn phận nhận lời mời của anh rể về sống ở nhà ông ta và nuôi dạy các con của chị mình.” “Bà rất tận tình với bổn phận,” thanh tra Taverner nói tiếp. “Nhưng bà không thuộc loại người dễ thay đổi quan niệm sống. Bà luôn bất đồng với Leonides và phong cách sống của ông.” Tôi nhận xét: “Có vẻ là một gia đình hòa thuận. Thế thì anh nghi ai đã giết ông ta?’ Taverner lắc đầu: “Còn quá sớm để nói điều đó.” “Thôi mà Taverner. Tôi cược anh nghĩ anh biết ai làm chuyện đó. Chúng ta có đang ở tòa án đâu,” tôi nói. Taverner trầm ngâm: “Không đâu. Có thể chúng ta không bao giờ biết.” “Ý anh là ông ta có thể không bị giết?” “Không đâu, đúng là ông ta bị giết. Bị đầu độc. Như anh đã biết, những vụ đầu độc đều giống nhau. Rất nhiều thủ đoạn để đạt kết quả. Rất nhiều thủ đoạn. Rất nhiều khả năng có thể đạt mục tiêu…” “Chính là tôi muốn biết những chuyện đó. Anh đã có trong đầu mọi khả năng, đúng không?” “Đây là một trường hợp có khả năng rất lớn. Một trong những vụ hiển nhiên. Âm mưu hoàn hảo. Nhưng tôi không biết, chắc chắn. Rất thủ đoạn.” Tôi nhìn cha tôi cầu cứu. Ông chậm rãi nói: “Con biết rồi đó, Charles, trong những trường hợp giết người, cái hiển nhiên thường là đáp án đúng. Mười năm về trước, ông Leonides lấy vợ lần nữa.” “Lúc ấy, ông bảy mươi bảy tuổi?” “Đúng, ông ta cưới một phụ nữ trẻ hai mươi bốn tuổi.” Tôi huýt sáo. “Một cô gái trẻ từ một quán trà. Một cô gái trẻ hoàn hảo, ngon lành.” “Vậy cô ta có khả năng là nghi can số một?” “Tôi xin hỏi,” Taverner nói. “Giờ cô ta chỉ mới ba mươi bốn tuổi – đó là một cái tuổi nguy hiểm. Cô ta sống dễ dãi. Và lại có một người đàn ông trẻ ở trong nhà. Là gia sư của lũ cháu. Đã không ra chiến trận – do bị bệnh tim hay cái gì đó. Số người này đông như lũ trộm.” Tôi trầm ngâm nhìn anh. Đây rõ là kiểu cổ điển, quen thuộc. Một kiểu lặp đi lặp lại. Và như cha tôi nhấn mạnh, bà Leonides sau là người đáng kính trọng. Dưới cái danh xưng đáng kính trọng, nhiều vụ giết người đã xảy ra. “Thuốc gì? Có phải arsenic không?” tôi hỏi. “Không phải. Chúng tôi đã nhận được bản phân tích – nhưng bác sĩ cho rằng đó là eserine.” “Đó là thứ ít được dùng, đúng không? Vậy chắc dễ tìm được người mua.” “Không phải. Đó là thuốc riêng của ông ta. Thuốc nhỏ mắt.” “Ông Leonides bị bệnh tiểu đường,” cha tôi nói. “Ông ta thường xuyên phải tiêm insulin. Insulin được cho vào những chai nhỏ có nắp bằng cao su. Một kim tiêm đâm xuyên qua nắp cao su và rút insulin ra.” Tôi suy đoán: “Nhưng trong chai không phải insulin, mà là eserine?” “Đúng như vậy.” “Nhưng ai tiêm cho ông ấy?” tôi hỏi “Vợ ông ta.” Giờ tôi đã hiểu ý của Sophia khi nói ‘đúng người’. Tôi hỏi: “Gia đình có đối xử tốt với bà vợ hai không, bà Leonides ấy?” “Không. Tôi đã thu thập được nhiều lời nặng nề về bà ta.” Dường như càng lúc càng rõ. Tuy nhiên rõ ràng là Chánh thanh tra Taverner không vui về điều đó. Tôi hỏi anh: “Tại sao anh có vẻ không vui?” “Nếu bà ta làm chuyện đó, Charles à, bà ta dễ dàng đổi chai insulin thật sau khi thực hiện. Nói đúng ra, nếu bà ta gây án, tôi không thể nghĩ tại sao bà ta không đổi lại thuốc.” “Đúng, có vẻ như ‘lạy ông tôi ở bụi này’. Có rất nhiều chai insulin kia mà.” “Nhiều chai insulin và nhiều chai không. Nếu bà ta đổi, rất có khả năng bác sĩ cũng không nhận ra. Qua khám nghiệm tử thi, khó có khả năng nhận ra đầu độc bằng eserine. Nhưng nếu ông ta kiểm tra kỹ việc dùng insulin (trong trường hợp có trục trặc về sức khỏe hay có cái gì giống như thế) dĩ nhiên ông ấy sẽ nhận ra ngay không phải insulin.” “Vậy dường như bà Leonides,” tôi trầm ngâm, “hoặc là rất ngu dại – hoặc có thể rất khôn khéo.” “Ý anh là…” “Bà ta chơi trò đưa anh đến kết luận không có ai dại dột làm chuyện như bà ta đã làm. Thế còn những khả năng khác? Những kẻ – ‘khả nghi’ khác?” Ông Già nói nhẹ nhàng: “Trên thực tế, mọi người trong nhà đều có thể làm điều đó. Luôn có khối lượng lớn insulin dự trữ – ít ra đủ cho nửa tháng. Một trong những chai thủy tinh nhỏ đã được tìm thấy và đặt vào chỗ sắp dùng đến.” “Và, có ai đó, ít nhiều đã thấy chúng?” “Chúng đâu bị khóa. Chúng được đặt trong một ngăn đặc biệt của tủ thuốc trong phòng tắm của ông ấy trong nhà. Mọi người trong nhà đều có thể tự do vào ra.” “Có ai có động cơ?” Cha tôi thở dài: “Charles con ơi. Aristide Leonides rất, rất giàu. Ông ta đã làm ra rất nhiều tiền bạc cho gia đình, đúng vậy đấy, nhưng có thể ai đó muốn có nhiều hơn nữa.” “Nhưng người muốn nhiều nhất là bà vợ hiện nay. Chàng trai trẻ của bà hai đó có nhiều tiền không?” “Không. Y nghèo kiết xác.” Có gì đó bỗng hiện lên trong đầu tôi. Tôi nhớ đến lời nói của Sophia. Bỗng nhớ đến âm điệu của bài hát hồi còn ở nhà trẻ: Có một con người kỳ dị đi trên một dặm dài kỳ dị. Y lượm được một đồng 6 penni kỳ dị bên cạnh một bậc thềm kỳ dị. Y có một con mèo kỳ dị, nó bắt được một con chuột kỳ dị, Và tất cả bọn họ cùng sống trong một ngôi nhà nhỏ bé kỳ dị. Tôi hỏi Taverner: “Bà Leonides đối phó với anh thế nào? Anh nghĩ sao về bà ta?” Taverner chậm rãi trả lời: “Rất khó nói – rất là khó nói. Bà ta không dễ bắt chuyện. Rất giữ mồm giữ miệng – do vậy, anh không biết bà ta đang nghĩ gì. Nhưng bà ta sống dễ dãi – tôi thề với anh là tôi nói đúng. Anh biết không, khiến tôi nghĩ đến một con mèo, một con mèo to lớn, thuần chủng… Không phải tôi không ưa mèo. Mèo cũng hay đấy chứ…” Thanh tra thở dài. “Cái chúng ta muốn là,” anh nói, “chứng cớ.” Đúng, tôi nghĩ, tất cả chúng tôi đều muốn chứng cớ xác định bà Leonides đầu độc chồng mình. Sophia muốn điều đó, tôi muốn và Chánh thanh tra Taverner cũng muốn. Như thế mọi việc sẽ dễ chịu! Nhưng Sophia không chắc, tôi không chắc và tôi cho rằng Thanh tra Taverner cũng không chắc. 4 Ngày hôm sau, tôi đi theo Taverner đến Ba Đầu Hồi. Vai trò của tôi là một vai trò kỳ lạ. Nói thật ra, đó không phải là vai trò chính quy. Cha tôi cũng chưa hề là một người chính quy cao cấp. Tôi đã có một chỗ đứng nào đó. Tôi đã từng làm việc với một Chi nhánh Đặc biệt của Scotland Yard thời trước chiến tranh. Dĩ nhiên, chuyện này thì hoàn toàn khác – nhưng nói cách nào đó, những thành tích trước kia của tôi đã cho tôi một vai trò chính thức. Cha tôi nói: “Nếu chúng ta sắp giải quyết vụ án này, chúng ta phải có tay trong. Chúng ta phải biết mọi người trong nhà đó. Chúng ta phải biết bọn họ từ bên trong – chứ không phải từ bên ngoài. Con là người thích hợp cho công việc của chúng ta.” Tôi không thích làm việc đó. Tôi ném điếu thuốc vào gạt tàn và nói: “Con sẽ làm gián điệp cho cảnh sát ư? Phải vậy không? Con phải làm gián điệp bên cạnh Sophia, người mà con yêu thương, là người yêu thương con và tin tưởng con, và là người con tin tưởng.” Ông Già nổi giận đùng đùng. Ông nói nghiêm khắc: “Ôi trời, con đừng dùng nhãn quan thông thường xử lý công việc. Trước hết, con có nghĩ cô bạn gái của con giết chết ông nội cô ta không, con không tin chứ gì?” “Dĩ nhiên là không. Đó là một ý tưởng tuyệt đối vô lý.” “Rất tốt – chúng ta cũng không tin. Cô gái đã ra khỏi nhà nhiều năm, cô luôn trao đổi thân thiết với ông lão. Cô có thu nhập cao và ông nội cô cũng thế. Cha có thể nói, cha sung sướng khi biết cô bé hứa hẹn với con và có thể có một cuộc hôn nhân tốt đẹp với con. Chúng ta không nghi ngờ cô bé. Tại sao? Con có thể tin chắc một điều. Nếu sự việc mà không được làm rõ, cô bé sẽ không lấy con. Qua những gì con nói với cha, cha thực sự tin thế. Và nên biết, vụ án này có thể không bao giờ sáng tỏ. Về lý, chúng ta có thể chắc rằng người vợ và gã bạn trai của bà ta thông đồng với nhau – nhưng chứng minh được chuyện đó là một vấn đề khác. Mà thậm chí đây không phải loại vụ án đưa lên đến Viện trưởng Viện công tố. Trừ phi chúng ta có chứng cớ xác đáng chống lại bà ta, bằng không thì sẽ luôn là một nghi ngờ bực mình. Con có thấy thế không?” Vâng, tôi đã thấy. Lúc này cha tôi nhẹ giọng: “Tại sao con không hỏi cô bé?” “Ý cha là – hỏi Sophia…” tôi ngập ngừng. Cha tôi gật mạnh đầu. “Đúng, đúng, cha không muốn con là một kẻ bạc nhược không dám hỏi cô gái điều con ấp ủ. Hãy xem cô ấy nói gì về chuyện đó.” Do vậy vào ngày hôm sau, tôi đi cùng Chánh thanh tra Taverner và Trung sĩ thám tử Lamb đến Swinly Dean. Từ một con đường nhỏ chạy ngoài sân golf, chúng tôi rẽ vào ngõ, tôi tưởng tượng nơi đây trước chiến tranh nó có đôi cánh cửa uy nghi. Chủ nghĩa yêu nước hay sự trưng dụng tàn bạo đã lấy chúng đi. Chúng tôi đi qua một con đường hình vòng cung hai bên trồng hoa đỗ quyên, đến một con đường lát sỏi trước một ngôi nhà. Thật kỳ lạ! Tôi thầm hỏi sao lại gọi là ba đầu hồi. Mười một đầu hồi nằm đối nhau. Điều kỳ lạ là nó có vẻ bề ngoài méo mó – tôi nghĩ tôi có thể hiểu. Thật ra nó có dáng một túp lều, một túp lều có kích thước mở rộng. Nó trông giống một túp lều quê mặc dù làm bằng kính khổng lồ, tuyệt đẹp. Những thanh xà lệch, cây gỗ chống nghiêng, những đầu hồi làm cho ngôi nhà kỳ dị lớn lên như cây nấm trong đêm! Lúc đó, tôi chợt có ý nghĩ. Đây là ý tưởng kiểu Anh của một chủ nhà hàng người Hy Lạp. Tức đây là ngôi nhà của một người Anh – được xây dựng với kích thước của một lâu đài. Tôi tự hỏi có phải bà Leonides đã nghĩ ra ý tưởng đó không. Tôi cho rằng bà không được tham khảo hay cho xem bản thiết kế. Rất có thể ông chồng ngoại quốc của bà mang đến cho bà sự ngạc nhiên. Tôi thầm hỏi không biết bà nhún vai hay mỉm cười. Dường như bà sống rất hạnh phúc nơi đây. “To lớn thật, phải không?” Chánh thanh tra Taverner nói. “Quý lão ông này đạt được nhiều thứ – biến thành ngôi nhà riêng rẽ có nhà bếp và mọi thứ. Bên trong là đồ đạc hạng nhất, hệt như một khách sạn sang trọng.” Sophia ra trước cửa nhà. Nàng không đội mũ, mặc áo sơ mi xanh lam và váy bằng vải tuýt. Nàng đứng sững khi trông thấy tôi. “Anh?” nàng kêu lên. Tôi nói: “Sophia, anh có chuyện cần nói với em. Chúng ta có thể đi đâu?” Tôi nghĩ nàng thoáng lưỡng lự, sau đó, quay lưng và nói: “Lối này.” Chúng tôi đi qua bãi cỏ. Tầm nhìn đẹp số một của Swinly Dean – xa hẳn là đám thông trên đồi, và xa hơn nữa là cảnh nông thôn mờ mờ sương khói. Sophia đưa tôi đến một khu vườn đá tảng, giờ đã bị bỏ hoang, có một chỗ ngồi bằng gỗ cũ kỹ, gồ ghề và chúng tôi ngồi lên đó. “Chuyện gì vậy anh?” nàng hỏi, giọng không thôi thúc. Tôi nói – nói tất cả. Nàng lắng nghe, rất chăm chú. Mặt nàng trầm xuống chứng tỏ nàng đang suy nghĩ. Nhưng sau khi tôi thôi nói, nàng thở dài. Một cái thở dài sâu lắng. “Cha anh,” nàng nói, “là một người rất tài tình.” “Ông Già có quan điểm của ông. Anh nghĩ đó là một ý tưởng vô giá trị – nhưng…” Nàng ngắt lời tôi: “Không đâu, ý tưởng đó không hề vô giá trị. Chắc chỉ có làm vậy mới được việc. Cha anh, Charles à, biết đúng điều em sắp nghĩ trong đầu. Ông ấy hiểu rõ hơn anh.” Đột nhiên xúc động mạnh mẽ, nàng đưa một nắm tay này vào lòng bàn tay kia. “Em phải biết sự thật. Em phải biết.” “Vì chúng ta? Nhưng, em yêu à…” “Không phải chỉ vì chúng ta, Charles. Em phải biết thì mới được yên lòng. Charles ơi, tối qua em đã không nói với anh – nhưng sự thật là – em rất sợ.” “Em sợ à?” “Vâng – em sợ – sợ – sợ. Cảnh sát nghĩ, cha anh nghĩ, anh nghĩ, mọi người nghĩ – chính bà Brenda đã đầu độc ông em.” “Có khả năng thôi…” “Đúng đó, hoàn toàn có khả năng. Có thể. Nhưng khi em nói, ‘Brenda có thể đã làm,’ em hoàn toàn ý thức đó chỉ là một suy tưởng. Bởi vì, em không thật sự nghĩ thế.” “Em không nghĩ thế à?” tôi nói chậm rãi. “Em không biết. Anh đã nghe tất cả những điều đó từ bên ngoài như em mong muốn. Giờ thì em cho anh biết từ bên trong. Em chỉ cảm thấy Brenda không phải là loại người đó – bà không phải là loại người làm gì để dính líu vào nguy hiểm. Bà ta rất cẩn trọng.” “Còn chàng trai trẻ thì sao?” “Anh ta đúng là con thỏ đế. Chẳng có gan đâu.” “Anh lấy làm ngạc nhiên.” “Chúng ta hoàn toàn không biết, đúng không? Ý em: người ta có thể làm người khác hoảng sợ bằng sự bất ngờ. Một người có thể nắm được ý tưởng của những người khác, đôi khi ý tưởng đó tuyệt đối sai trái. Không thường xuyên – nhưng đôi khi. Nhưng dù sao đi nữa, Brenda” – Sophia lắc lắc đầu – “bà ta luôn hành động nhất quán một kiểu. Em gọi bà ta là loại sống trong hậu cung. Thích ngồi đâu đó, ăn kẹo, có quần áo và nữ trang đẹp, đọc những cuốn tiểu thuyết rẻ tiền và đi xem chiếu bóng. Và điều kỳ lạ cần nói, dù ông đã tám mươi bảy tuổi, nhưng em thật sự nghĩ bà ta rất sợ ông em. Anh biết đấy, ông rất có uy quyền. Em tưởng tượng ông có thể làm cho một người đàn bà cảm thấy – mình giống như một nữ hoàng – ái phi của đấng quân vương! Em nghĩ – lúc nào cũng nghĩ – ông đã làm cho Brenda cảm thấy bà là một người sôi nổi, lãng mạn. Suốt cả đời mình, ông đối xử rất khéo với mọi phụ nữ – và điều đó là một loại nghệ thuật – dù anh già đến mấy, đừng bỏ qua nghệ thuật này.” Tôi tạm để qua một bên vụ Brenda và trở lại câu nói của Sophia đã làm cho tôi thắc mắc. Tôi hỏi: “Tại sao em nói em sợ?” Sophia hơi rùng mình, nàng siết chặt hai tay. “Bởi vì đó là sự thật,” nàng xuống giọng. “Điều đó rất quan trọng, Charles. Em sẽ nói cho anh biết. Gia đình em là một gia đình kỳ lạ… có rất nhiều sự nhẫn tâm giữa những người cùng sống – và – những kiểu nhẫn tâm khác nhau. Vô cùng rắc rối. Những kiểu khác nhau!” Có lẽ nàng thấy vẻ khó hiểu trên mặt của tôi. Nàng tiếp tục nói, giọng sôi nổi. “Em sẽ cố gắng làm rõ ý em. Ví dụ như ông em. Có lần đang kể về thời tuổi trẻ ở Smyrna, ông buột miệng nói ông đã đâm hai người. Đó là một cuộc cãi vã – có sự lăng mạ không thể bỏ qua – em không biết – nhưng đã xảy ra hoàn toàn đương nhiên. Ông thực sự đã quên chuyện đó. Tuy nhiên, ở nước Anh, đột nhiên nghe một chuyện như thế thật là rất kỳ.” Tôi gật đầu đồng ý. Sophia nói tiếp: “Đó là một kiểu tàn bạo, và đây là chuyện của bà em. Em chỉ mang máng nhớ về bà, nhưng em nghe rất nhiều chuyện về bà. Em nghĩ bà cũng có những sự tàn bạo không thể tưởng được. Vì là dòng dõi của những người săn cáo – những vị tướng già kiểu bắn chết bỏ. Chính trực và kiêu hùng, không hề sợ chịu trách nhiệm về chuyện sống chết.” “Có cường điệu quá không?” “Không đâu, em dám nói như thế – nhưng em luôn sợ loại người đó. Rất ngay thẳng nhưng lại nhẫn tâm. Và rồi cả mẹ em – mẹ là một nữ diễn viên – mẹ rất dễ thương, nhưng mẹ tuyệt không có chút ý thức nào về sự vừa phải. Mẹ là một trong những người ích kỷ vô thức, những người này chỉ có thể nhìn sự việc theo kiểu nó ảnh hưởng thế nào đến họ. Anh thấy đấy, đôi khi, cũng đáng sợ. Nói về Clemency, vợ bác Roger. Bác gái là một nhà khoa học – bác đang làm một nghiên cứu rất quan trọng – bác cũng tàn nhẫn, loại người có máu lạnh, không bị tình cảm cá nhân chi phối. Bác trai Roger thì hoàn toàn ngược lại – bác là người tử tế và đáng mến nhất trên đời nhưng tính khí bác đáng sợ lắm. Bác mà sôi máu lên thì hết biết mình đang làm gì. Còn cha em…” Nàng im lặng một lúc lâu, đoạn chầm chậm nói: “Cha em – hầu như rất khéo tự kiềm chế. Anh không hề biết ông đang nghĩ gì. Ông không bao giờ biểu lộ xúc cảm. Đó có thể là một dạng tự vệ vô thức chống lại với xúc cảm vô bờ của mẹ. Nhưng điều đó đôi khi làm em hơi lo lắng..” “Cô bé của anh ơi,” tôi nói, “em đang làm mình lo lắng không cần thiết rồi. Điều đó đưa đến kết cục là mọi người, có lẽ, đều có thể là kẻ sát nhân.” “Em cho rằng đúng là vậy. Ngay cả em…” “Em thì không!” “Không đâu, Charles, anh không nên đặt em vào trường hợp ngoại lệ. Em cho rằng em cũng có thể giết ai đó…” Nàng lại im lặng một lúc, rồi nói thêm, “Nhưng nếu thế, thì phải vì một cái gì thực sự đáng!” Tôi cười to. Không thể nói gì hơn. Và Sophia cười mỉm. Nàng nói: “Có thể em là một con điên, nhưng chúng ta phải tìm ra sự thật về cái chết của ông em. Chúng ta cần làm thế. Nếu như đó là Brenda…” Tôi bỗng cảm thấy khá thương hại cho bà Brenda Leonides. 5 Một thân người cao gầy đang bước nhanh trên lối dẫn đến chỗ chúng tôi. Người đó đội cái mũ bằng nỉ đã cũ lại rách, mặc cái áo sơ mi xộc xệch bên trong một cái áo len đan vụng về. “Bà dì Edith,” Sophia kêu lên. Thân người đó dừng lại một hai lần, cúi xuống các hàng rào hoa, sau đó đi về chỗ chúng tôi. Tôi vội đứng lên. Sophia giới thiệu: “Dì Edith, đây là Charles Hayward. Còn đây là dì em, cô de Haviland.” Edith de Haviland là một bà khoảng bảy mươi tuổi. Mớ tóc màu xám hơi rối, gương mặt nhăn nheo, cái nhìn sắc sảo và soi mói. “Cậu đấy à?” bà ta hỏi. “Ta có nghe nói về cậu. Từ Miền Đông trở về. Cha cậu khỏe không?” Hết sức ngạc nhiên, tôi đáp rằng cha rất khỏe. “Ta biết y lúc y còn là đứa trẻ,” cô de Haviland nói. “Ta biết rõ mẹ y. Cậu khá giống bà ta. Cậu đến đây để giúp đỡ chúng ta – hay vì việc gì khác?” “Cháu mong đến để giúp đỡ,” tôi đáp hơi lừng khừng. Bà lão gật đầu: “Chúng ta cần sự giúp đỡ. Nơi đây nhung nhúc cảnh sát. Nhảy xổ vào người ta khắp chốn này. Không ưu vài đứa trong đám đó. Một cậu trai từng học một trường tử tế thì không nên vào làm cảnh sát. Cứ trông cậu con trai của bà Moyra Kinoul, cả ngày chỉ đứng điều khiển giao thông tại Marble Arch. Làm cho người ta cảm thấy không biết mình đang ở nơi nào nữa!” Bà quay sang Sophia: “Sophia, cháu cưng, bà vú đang kiếm con, chuyện cá tôm gì đấy.” “Chán thật,” Sophia nói. “Cháu sẽ đi gọi điện thoại trả lời.” Nàng bước nhanh về hướng ngôi nhà. Bà dì de Haviland cũng quay lưng và đi chầm chậm về hướng đó. Tôi bước đi bên cạnh bà. “Cậu biết không, nếu không có người ăn kẻ ở, chúng ta phải làm hết mọi việc. Gần như ai cũng có một bà vú già. Họ đến giặt ủi quần áo, nấu ăn và làm mọi việc trong nhà. Họ đáng tin cậy. Ta chọn người này cho ta – nhiều năm trước.” Bà dừng lại nhổ những cọng cỏ xanh ghim vào quần bà. “Thật đáng ghét – cái loại cỏ bìm bìm dại này! Loại cỏ tệ hại nhất! Chúng bám vào, đâm vào – và cậu không thể gỡ sạch hết, chúng mọc tùm lum.” Bà dùng gót giẫm mạnh lên bụi cỏ xanh mọc dại dưới chân bà. “Cậu Charles Hayward, đây là một sự việc tồi tệ,” bà nhìn về hướng ngôi nhà và nói, “Thế cảnh sát nghĩ sao? Có lẽ ta không nên hỏi cậu. Có vẻ rất kỳ cục khi cho rằng ông Aristide bị đầu độc. Về vấn đề này, cái chết của ông ta dường như không bình thường. Ta không hề ưa ông ta – không hề! Nhưng ta không hề có ý nghĩ giết ông ta… Làm cho ngôi nhà dường như – thật là trống vắng.” Tôi không nói gì. Với những lời lẽ cộc lốc, có vẻ như Edith de Haviland đang trong tâm trạng hồi tưởng. “Sáng nay, ta nhớ lại – ta đã sống ở đây lâu lắm. Hơn bốn chục năm. Ta đến đây khi chị gái ta chết. Ông ấy yêu cầu ta. Bảy đứa con và đứa nhỏ nhất chỉ mới một tuổi… Có thể nào bỏ chúng cho một kẻ không cùng máu mủ nuôi dạy? Một cuộc hôn nhân mới không thể không có. Ta luôn cảm thấy Marcia – rất quyến rũ. Một kẻ xa lạ xấu xa! Aristide cho ta toàn quyền. Làm vú em, quản gia, lo ăn học. Chăm lo toàn bộ chuyện ăn uống – nhưng không phải những đĩa cơm nhiều gia vị ông ta thường ăn.” “Và bà đã ở đây từ khi ấy?” tôi lẩm bẩm. “Đúng. Thật là kỳ lạ… Đáng lẽ ta nên ra đi khi bọn trẻ lớn lên và yên bề gia thất. Thực ra, có lẽ ta lưu luyến khu vườn. Và còn có Philip. Khi một người đàn ông lấy một nữ diễn viên, y không thể trông mong có cuộc sống gia đình. Nữ diễn viên có con làm chi không biết. Đứa con vừa ra đời là chúng đi mất và đến diễn tại nhà hát kịch Edinburg hay ở đâu đó càng xa càng tốt. Philip đã làm một việc sáng suốt, nó trở về đây với những quyển sách của nó.” “Thế bác Philip Leonides làm gì?’ “Nó viết sách. Không biết tại sao. Không ai thèm đọc sách của nó. Toàn những chi tiết lịch sử mù mờ. Cậu chưa bao giờ nghe nói đến chúng, phải không?” Tôi thừa nhận. “Tốn rất nhiều tiền, nhưng mà nó lại có tiền,” bà dì de Haviland nói. “Hầu hết mọi người đều ngưng chơi trò lập dị và kiếm sống.” “Sách của bác Philip có ai mua không? “Dĩ nhiên là không. Nó cho rằng nó là một tác giả lớn của một thời kỳ nào đó và sẽ là mãi mãi. Nó không làm gì để bán sách. Ông lão Aristide đã bỏ ra – đâu chừng hàng trăm ngàn bảng – quả thật là kỳ lạ – cho nó! Để tránh trách nhiệm sau khi chết! Ông để bọn con tự chủ về tài chính. Roger quản lý việc kinh doanh thực phẩm – Sophia có một số tiền phụ cấp rất đáng kể. Tiền của con cháu được ông gửi ủy thác cho chúng.” “Như vậy sau cái chết của ông, không riêng một ai được nhận thêm tiền?” Bà lão đưa mắt nhìn tôi một cái nhìn kỳ lạ. “Có chứ. Tất cả đều có thêm tiền. Nếu bọn chúng yêu cầu, biết đâu, chúng có thể có thêm.” “Dì de Haviland, bà có nghĩ ai đầu độc ông Aristide không?” Bà chậm rãi trả lời: “Không, dĩ nhiên là không. Sự việc đó làm ta đau đầu biết chừng nào. Thật tồi tệ khi nghĩ có một kẻ phản phúc trong nhà. Ta cho rằng cảnh sát sẽ tóm ả Brenda tội nghiệp.” “Bà cho rằng họ có lý khi làm thế hay sao?” “Ta chỉ có thể nói thế. Đối với ta, ả luôn có vẻ là một con đàn bà trẻ đặc biệt nông nổi, bình thường – khá tầm thường. Ta không cho ả là kẻ đầu độc. Tuy nhiên, nói cho cùng, khi một cô gái trẻ hai mươi bốn tuổi lấy một ông già gần tám mươi, thì rõ mồn một cô ta lấy chồng vì tiền. Theo lẽ thường, cô ta có thể hy vọng trở thành một góa phụ giàu có sớm hơn. Nhưng Aristide là một lão già đặc biệt khỏe mạnh. Bệnh tiểu đường của ông ta không trầm trọng hơn. Ông ta có vẻ sẽ sống đến một trăm tuổi. Ta cho rằng ả chờ đợi mỏi mòn…” “Trong trường hợp đó,” tôi ngừng lời, không nói thêm. “Trong trường hợp đó,” bà dì de Haviland nói nhanh, “ít nhiều gì cũng đúng. Dĩ nhiên, sẽ tạo dư luận. Suy cho cùng, ả đâu phải là người trong gia đình.” “Bà còn có những ý khác à?” “Những ý khác nào?” Tôi thầm nghĩ. Tôi nghi ngờ dưới cái mũ rách còn chứa một cái gì nữa. Đằng sau cái vẻ tươi tỉnh, lời lẽ thiếu mạch lạc, tôi nghĩ, có một bộ óc rất sắc sảo đang hoạt động. Vào ngay lúc ấy, ngay cả tôi cũng tự hỏi phải chăng chính bà dì de Haviland đã đầu độc ông Aristide Leonides… Ý tưởng đó dường như không thể nào. Trong đầu tôi bỗng hiện lên cái cách bà lão dùng gót chân nghiến lên đám cỏ bìm bìm nằm trên mặt đất với một vẻ bạo tàn không khoan nhượng. Tôi chợt nhớ đến lời của Sophia. Nhẫn tâm. Tôi trộm nhìn nghiêng Edith de Haviland. Lý lẽ thuyết phục và đầy đủ… Nhưng chính xác điều gì khiến cho lý lẽ của bà Edith de Haviland có vẻ thuyết phục và đầy đủ? Để trả lời câu hỏi này, tôi cần phải tìm hiểu bà rõ hơn. 6 Cửa trước đã mở. Tôi và bà Edith đi vào xuyên qua một đại sảnh rất rộng. Nơi này trang trí toàn bằng gỗ sồi đánh rất bóng và bằng đồng thau sáng loáng. Phía sau là một bức tường ghép panen trắng, tường có một cánh cửa hé lộ một cầu thang. “Trên đó là nơi ở của anh rể tôi,” de Haviland nói. “Dưới nhà là nơi ở của Philip và Magda.” Tôi và bà Edith đi vào cửa về hướng bên trái và đến một phòng khách rộng. Tường ghép panen màu xanh nhạt, bàn ghế phủ gấm thêu kim tuyến trông nặng nề và các bức tường đều treo ảnh chụp hoặc tranh vẽ các diễn viên, vũ công, các màn trình diễn trên sân khấu và tranh trang trí. Một bức tranh của họa sĩ Degas vẽ các vũ công ballet treo trên bệ lò sưởi. Có rất nhiều hoa, hoa cúc nâu khổng lồ và những bình lớn cắm hoa cẩm chướng. Bà dì de Haviland nói: “Ta cho rằng cậu muốn gặp Philip?” Tôi muốn gặp Philip? Tôi chưa có ý đó. Điều mà tôi muốn làm hơn cả là gặp Sophia. Tôi đã làm như thế. Nàng đã mạnh mẽ khuyến khích tôi làm theo kế hoạch của cha tôi – nhưng giờ đây nàng bỏ cuộc, rút lui đâu đó để nói chuyện điện thoại về việc cá tôm, không một lời chỉ dẫn tôi phải làm gì. Tôi tiếp cận với Philip Leonides với danh nghĩa một chàng trai rụt rè hỏi cưới con gái ông ta hay như một người bạn đến thăm mà không thông báo trước (chắc chắn không đúng lúc!) hay là một cộng tác viên của cảnh sát? Bà dì de Haviland không cho tôi có thời gian suy nghĩ. Thật ra, đó không là câu hỏi mà là quyết đoán. Tôi cho rằng, bà dì de Haviland thiên về quyết đoán hơn là đặt câu hỏi. “Chúng ta đi vào thư viện.” Bà lôi tôi ra khỏi phòng khách, đi dọc theo hành lang, và băng qua một cánh cửa khác. Đó là một căn phòng rộng, đầy sách. Sách không sắp xếp trên cái kệ sách cao đến trần nhà. Chúng nằm trên ghế ngồi, trên bàn và cả trên sàn nhà. Không có cảm giác ngăn nắp. Căn phòng nghe lạnh lẽo. Có cái mùi mà tôi cho rằng chúng không thể thiếu. Đó là mùi mốc meo của những quyển sách cũ và một ít mùi sáp ong. Trong giây lát tôi nhận thấy tôi đã bỏ qua mùi gì. Mùi thuốc lá. Philip Leonides không phải là người hút thuốc. Khi tôi và bà dì de Haviland bước vào, ông đứng dậy ngay phía sau bàn – một người đàn ông cao ráo, tuổi độ năm mươi, một người đàn ông rất đỗi đẹp trai. Ai nấy đều nói nhiều về sự xấu xí của ông Aristide Leonides, do vậy tôi cũng đã cho rằng con ông cũng xấu xí như vậy. Tôi không chuẩn bị gặp một con người có vẻ đẹp hoàn hảo như thế – cái mũi thẳng, cái cằm đường nét tuyệt mỹ, mái tóc hơi ngả màu xám chải gọn ra sau để lộ vầng trán khôi ngô. “Philip, đây là Charles Hayward,” bà dì de Haviland giới thiệu. “À, cậu có khỏe không?” Tôi không biết ông có nghe nói về tôi không. Bàn tay ông đưa ra bắt rất lạnh. Mặt ông hoàn toàn không lộ vẻ tò mò. Làm tôi hơi bối rối. Ông đứng đó, kiên trì và lãnh đạm.. “Mấy tên cảnh sát quái đản đó đâu rồi?” bà dì de Haviland hỏi. “Bọn chúng đến đây chưa?”’ “Cháu cho rằng Chánh thanh tra – (ông liếc nhìn tấm danh thiếp để trên bàn) – ờ – Taverner sắp đến trao đổi với cháu.” “Giờ hắn ở đâu?” “Cháu không để ý, dì Edith. Có lẽ trên lầu.” “Cùng với Brenda?” “Cháu thật sự không biết.” Nhìn Philip Leonides, tôi có cảm giác dường như không thể có một tên sát nhân nào quanh quẩn ở nơi đây. “Magda đã về chưa?’ “Cháu không biết. Cô ấy thường không về trước mười một giờ.” “Nghe như tiếng cô ta,” Edith de Haviland nói. Giọng nói của bà Philip Leonides cao, rất nhanh và đến rất lẹ. Cánh cửa sau lưng tôi mở ào và một người đàn bà bước vào. Tôi không rõ bằng cách nào bà cho tôi có cảm tưởng là ba người đàn bà bước vào chứ không phải một người. Bà ta hút thuốc bằng một ống tẩu dài, mặc váy ngủ bằng satin màu hoa đào khá dài khiến bà phải dùng một tay nâng nó lên. Một suối tóc dày thả gợn lăn tăn xuống lưng. Mặt bà gần như để trơn giống như các phụ nữ ngày nay không trang điểm gì cả. Mắt bà xanh và to, bà nói thật nhanh với cái giọng khàn khàn khá quyến rũ và đài từ rất rõ. “Anh yêu, em không thể chịu nổi – em tuyệt không thể chịu nổi – khi nghĩ đến các thông báo – tuy chưa có công văn, nhưng rồi cũng sẽ có – em tuyệt không thể quyết định được phải mặc gì lúc thẩm vấn – rất, rất khó chịu – không phải màu đen, có thể màu tím sẫm – em chưa có phiếu mua vải đó – em đã làm mất địa chỉ của gã bán vải chó chết đó. Anh biết không, đó là một garage gần đại lộ Shaftesbury – và nếu như em đi xe hơi đến đó, cảnh sát sẽ theo em và có thể hỏi em nhiều câu ngớ ngẩn, phải thế không? Ý em, ta phải nói gì? Sao anh lại im lặng thế, Philip! Sao anh lại có thể quá lặng im? Anh không nhận thấy chúng ta có thể rời căn nhà quái quỷ này ngay bây giờ sao? Tự do – tự do. Ồ, thật là không phải – tội cho lão già thân yêu đó – nếu ông ta còn sống, dĩ nhiên, chúng ta không rời bỏ ông ta. Ông ta rất yêu mến chúng ta, đúng thế không – mặc dù mụ đàn bà trên kia cố gây mọi điều rắc rối giữa ông và chúng ta. Em tin chắc nếu chúng ta sớm ra đi và để ông lão lại cho mụ, thì ông đã cắt hết mọi thứ dành cho chúng ta rồi. Con mụ khủng khiếp! Nói tóm lại, ông lão tội nghiệp đã gần tuổi chín mươi – cả gia đình không thể đứng lên chống lại một con mụ đáng sợ đang ra tay. Philip, anh biết không, em thật sự tin đây là cơ hội tuyệt vời để đóng vai Edith Thompson. Tên sát nhân đã giúp cho chúng ta cơ hội quảng cáo trước. Đạo diễn Bildenstein bảo ông ta có thể cho diễn vở Thespian – một vở bi kịch thơ về những người thợ mỏ không phải sắp diễn ngay thôi – đó là một vai tuyệt vời – tuyệt vời. Em biết họ luôn nói em nên đóng kịch hài vì cái mũi của em – nhưng anh biết đấy, trong vai Edith Thompson có rất nhiều chất hài – em không nghĩ tác giả nhận ra – tính hài luôn nâng cao sự căng thẳng hồi hộp. Em biết em sẽ diễn như thế nào – bình dị, ngờ nghệch cho đến phút chót và rồi…” Bà dang hai tay ra – điếu thuốc rớt khỏi cái tẩu rơi trên chiếc bàn gỗ gụ đánh bóng của Philip và bắt đầu bốc cháy. Philip thản nhiên nhặt lấy điếu thuốc và ném vào giỏ giấy rác. “Và sau đó,” bà Magda Leonides thì thào, mắt bà bỗng mở to, mặt bà cứng đơ ra, “đúng là kinh khủng…” Cái sợ rõ ràng hiện lên trên mặt bà khoảng hai mươi giây, sau đó giãn ra, nhăn nhó như một đứa bé hoang mang chực khóc òa. Rồi bỗng mọi cảm xúc tan biến như bọt biển, sau đó bà quay sang tôi, hỏi tôi bằng giọng công việc: “Cậu có nghĩ đó là cách thể hiện vai Edith Thompson?” Tôi đáp tôi cho rằng chính xác đó là cách diễn vai Edith Thompson. Vào lúc ấy tôi chỉ mơ hồ nhớ Edith Thompson là ai, nhưng tôi ngại khởi đầu với mẹ của Sophia không tốt. “Khá giống mụ Brenda, phải không?” bà Magda lại hỏi. “Cậu biết không, tôi chưa bao giờ nghĩ ra. Rất thú vị. Tôi có nên chỉ ra điều đó với ông thanh tra không?” Người đàn ông ngồi sau bàn hơi cau mày. “Thật sự là không cần đâu, Magda,” ông nói, “em không cần phải gặp ông ta. Anh có thể nói cho ông ta biết mọi điều ông ta muốn biết.” “Không gặp ông ta à?” Bà lên giọng. “Nhưng em phải gặp ông ta chứ! Anh yêu, anh quả thật là người thiếu óc tưởng tượng kinh khủng. Anh không ý thức tầm quan trọng của các chi tiết. Ông ta muốn biết chính xác bằng cách nào và khi nào mọi sự xảy ra, tất cả các chi tiết nhỏ mà người ta ghi nhận và thắc mắc vào thời điểm đó…” “Mẹ,” Sophia kêu lên, nàng đi qua cánh cửa đã mở, “mẹ đừng nói với ngài thanh tra những điều dối trá.” “Sophia – con thân yêu…” “Con biết, mẹ ơi, mẹ đã sắp đặt sẵn mọi thứ và sẵn sàng biểu diễn một màn rất tuyệt vời. Nhưng mẹ làm vậy không được đâu. Hoàn toàn không đúng.” “Vô lý. Con không biết…” “Con biết chứ. Mẹ phải diễn khác hẳn. Vẻ chịu đựng – nói rất ít – giấu kín mọi điều – rất cảnh giác – nhằm bảo vệ gia đình.” Mặt bà Magda Leonides hiện lên vẻ bối rối ngây thơ của một đứa trẻ. Bà nói: “Con yêu, con nghĩ thế thật à?” “Vâng, đúng, con nghĩ thế. Thôi bỏ đi. Đó là ý kiến của con.” Sophia nói thêm trong khi một nụ cười hài lòng bắt đầu hiện lên trên gương mặt mẹ cô: “Con đã làm cho mẹ chút sôcôla. Để trong phòng khách.” “Ồ – tốt – mẹ đang đói…” Bà ngừng lại ở lối đi ra cửa. “Cậu biết không,” bà nói, dường như không biết nói với tôi hay với những kệ sách phía sau tôi, “có con gái yêu thật đấy!” Nói xong, bà đi ra ngoài. “Có trời mới biết, cô ta sẽ nói gì với cảnh sát!” bà dì de Haviland nói. “Mẹ sẽ ổn thôi,” Sophia nói. “Cô ta có thể nói đủ thứ.” “Bà dì đừng lo,” Sophia khuyên. “Mẹ sẽ diễn theo cách nhà sản xuất bảo. Mà con là nhà sản xuất!” Nàng đi theo mẹ ra ngoài, sau đó chạy nhanh trở vào: “Cha ơi, Chánh thanh tra Taverner cần gặp cha. Charles sẽ ở lại đây được không cha?” Tôi cho rằng gương mặt của ông Philip Leonides mơ hồ hiện lên vẻ bối rối. Có vẻ thế! Nhưng cái tính cách bất cần của ông làm tôi yên lòng. Ông lẩm bẩm: “Ồ được chứ – được chứ,” bằng giọng khá lơ lãng. Chánh thanh tra bước vào, dáng vẻ vững vàng tự tin, với cung cách như một doanh nhân nhậm lẹ có phần dễ chịu. “Phiền một chút vậy,” phong thái của anh dường như nói thế, “rồi chúng tôi sẽ ra khỏi đây không trở lại nữa – và mọi người cũng sẽ hài lòng như tôi. Tôi không muốn làm khó dễ ai, tôi có thể đảm bảo…” Tôi không biết anh ta xử lý thế nào, không nói một lời, chỉ kéo ghế đến bên bàn, truyền đạt điều anh cần, nhưng hiệu quả. Tôi kín đáo ngồi hơi cách xa anh. “Nào, ngài chánh thanh tra?” ông Philip mở lời. Bà dì de Haviland đột ngột chen ngang: “Ngài thanh tra, ngài có cần tôi không?” “Không phải ngay lúc này, thưa cô de Haviland. Lát nữa, tôi cần trao đổi đôi lời với cô…” “Được. Tôi sẽ lên tầng trên.” Bà bước ra, đóng cửa lại. “Nào, ngài thanh tra?” ông Philip lặp lại. “Tôi biết ông là một quý ngài rất bận rộn, tôi sẽ không làm phiền ông lâu. Nhưng tôi có thể tâm sự với ông sự nghi ngờ của chúng tôi đã được xác định. Cái chết của cha ông không phải một cái chết bình thường. Đó là một cái chết do dùng quá liều thuốc trị bệnh – thường gọi dưới tên eserine.” Ông Philip cúi đầu. Ông không bộc lộ một cảm xúc gì cụ thể. “Tôi không biết điều đó có gợi cho ông chuyện gì không?” Taverner tiếp tục. “Gợi chuyện gì cơ chứ? Quan điểm của tôi là cha tôi chết do dùng nhầm thuốc.” “Ông thật sự nghĩ thế à?” “Vâng, theo tôi điều đó hoàn toàn có thể. Ông cụ tuổi đã gần chín mươi, nên nhớ thị giác của ông rất không ổn định.” “Do vậy ông ấy đổ thuốc chứa trong chai thuốc nhỏ mắt vào chai đựng insulin. Ông thực sự thấy ý kiến đó đáng tin sao, ông Leonides?” Philip không trả lời. Gương mặt của ông càng trở nên dửng dưng. Taverner tiếp tục: “Chúng tôi đã tìm thấy chai thuốc nhỏ mắt, không có dấu vân tay trên đó. Thế mới lạ. Thông thường thì phải có dấu vân tay. Nhất định phải có dấu vân tay của cha ông, của vợ ông ấy, hoặc của người hầu…” Philip Leonides ngẩng đầu lên. “Người hầu sao?’ ông hỏi. “Johnson à?” “Ông đang cho rằng Johnson có thể là thủ phạm? Anh ta chắc chắn là có cơ hội. Khi chúng tôi đi tìm động cơ thì thấy không phải thế. Thường cha ông mỗi năm đều thưởng cho anh ta – mỗi năm tiền thưởng lại tăng thêm. Cha ông đã nói rõ cho anh ta biết số tiền anh ta sẽ nhận đã được ghi trong di chúc. Số tiền thưởng, giờ đây, sau bảy năm phục vụ, mỗi năm đã lên đến một con số đáng kể và đang tiếp tục tăng lên. Rõ ràng cha ông càng sống lâu, Johnson càng có lợi. Hơn thế nữa. họ rất ăn ý, thành tích phục vụ của anh ta thời gian qua không có gì phải phàn nàn – Johnson là một người hầu siêng năng và trung thực.” Taverner dừng lời. “Chúng tôi không nghi ngờ Johnson.” Philip đáp, giọng tẻ nhạt: “Tôi hiểu.” “Thưa ông Leonides, bây giờ ông có thể cho chúng tôi biết chi tiết hoạt động của ông vào ngày cha ông mất chứ?” “Được thôi, ngài chánh thanh tra. Tôi đã ở, trong căn phòng này, suốt cả ngày – dĩ nhiên, trừ các bữa ăn.” “Ông có gặp cha mình không?” “Như thường lệ, tôi nói với ông chào buổi sáng sau bữa ăn điểm tâm.” “Sau đó ông có ở lại lâu với ông cụ không?” “Mẹ… mẹ kế cũng có ở trong phòng.” “Ông cụ trông như bình thường?” Philip đáp, giọng hơi giễu cợt: “Ông cụ tỏ ra không hay biết trước rằng mình sẽ bị giết ngày hôm đó.” “Nơi ở của cha ông hoàn toàn cách biệt với phòng này?” “Đúng, muốn đến đó phải đi qua cửa đại sảnh.” “Cửa đó có khóa không?” “Không.” “Không bao giờ khóa?” “Tôi không hề biết chi về chuyện đó.” “Mọi người có thể tự do đi từ phòng này qua phòng đó?” “Chắc thế. Chỉ có từ phòng vệ sinh trong nhà thì không nhìn thấy được phòng đó thôi.” “Lần đầu tiên ông biết về cái chết của cha là như thế nào?” “Anh trai tôi, anh Roger, ở cánh trái tầng trên, đã chạy vội xuống và báo cho tôi biết cha chúng tôi bỗng bị tai biến. Ông cụ rất khó thở và dường như rất yếu.” “Thế ông làm gì?” “Tôi gọi điện thoại cho bác sĩ, dường như không ai biết phải làm gì. Bác sĩ đi vắng nhưng tôi đã gửi tin nhắn bảo ông đến ngay khi có thể. Sau đó tôi đi lên trên lầu.” “Và rồi?” “Rõ là cha tôi rất yếu. Ông mất trước khi bác sĩ tới.” Giọng nói của Philip không thể hiện một chút cảm xúc nào. Chỉ như kể một sự kiện. “Những người còn lại trong gia đình ở đâu?” “Vợ tôi ở London. Cô ấy trở về nhà gần như ngay sau đó. Sophia cũng không có nhà, tôi cho rằng thế. Hai đứa nhỏ nhất, Eustace và Josephine, thì ở nhà.” “Tôi mong ông không hiểu lầm tôi, thưa ông Leonides, nếu như tôi hỏi ông cái chết của cha ông ảnh hưởng đến vị trí tài chính của ông chính xác như thế nào?” “Tôi hoàn toàn hiểu ông thanh tra muốn biết mọi sự kiện. Từ rất nhiều năm trước cha đã cho chúng tôi độc lập về tài chính. Ông cho anh tôi nắm cổ phần chủ yếu và là chủ tịch Công ty Cung cấp thực phẩm, công ty lớn nhất của ông, và giao cho anh quyền quản lý hoàn toàn. Ông chuyển giao cho tôi một số tiền mà ông cho là tương đương với anh tôi – hiện nay tôi cho rằng nó độ một trăm năm mươi ngàn bảng Anh bằng trái phiếu và chứng khoán – để tôi có thể chọn sử dụng số vốn đó theo ý tôi muốn. Ông cũng để lại những số tiền đáng kể cho hai chị gái tôi, lúc đó đã qua đời.” “Nhưng ông ấy vẫn là người rất giàu với số tiền ông để lại cho mình?” “Không đâu, hiện nay ông chỉ giữ lại cho mình một số tiền tương đối khiêm tốn. Ông nói nó sẽ đem lại cho ông lợi tức đủ sống. Kể từ đó,” – lần đầu tiên đôi môi Philip mỉm nhẹ một nụ cười – “ông ấy trở nên, như kết quả của các vụ làm ăn, một người còn giàu có hơn trước.” “Anh của ông và ông cùng đến đây sống. Không phải do hậu quả của những khó khăn – về tài chính chứ?” “Chắc chắn là không. Đó chỉ là vấn đề về sự thuận tiện. Cha tôi luôn bảo chúng tôi ông rất hoan nghênh chúng tôi về ở cùng ông. Vì rất nhiều lý do mang tính gia đình mà tôi thấy nên làm theo ý cha.” Ông cố ý nói thêm: “Tôi rất yêu mến cha tôi. Tôi đến đây cùng với gia đình vào năm 1937. Không trả tiền thuê nhưng trả tiền thuế theo tỷ lệ.” “Còn anh của ông?” “Anh tôi đến đây vì tai họa chiến tranh, nhà anh ấy ở London bị trúng bom năm 1943.” “Thưa ông Leonides, ông có ý kiến gì về việc phân chia tài sản theo di chúc của cha mình?” “Rất rõ. Ông cụ làm lại di chúc vào năm 1946. Cha tôi không phải là người thích giấu giếm. Ông rất yêu thương gia đình. Ông đã mở cuộc họp gia đình, luật sư của ông cũng có mặt. Theo yêu cầu của cha tôi, ông luật sư này đã đọc cho chúng tôi nghe nội dung của chúc thư. Nội dung đó, tôi cho rằng ngài thanh tra đã biết. Luật sư Gaitskill chắc đã báo với ngài. Đại khái là, một trăm ngàn bảng không phải chịu thuế được chia cho mẹ kế ngoài khoản tài sản đám cưới vốn đã cực kỳ hào phóng. Tài sản còn lại được chia làm ba phần, một cho tôi, một cho anh tôi, còn phần thứ ba cho ba đứa cháu. Mỗi phần khá lớn nhưng thuế đóng sẽ rất nặng.” “Không có tiền để lại cho người hầu hay cho từ thiện sao?” “Không có phần tiền nào để lại. Tiền lương trả cho người hầu đã được tăng hàng năm nếu họ tiếp tục phục vụ.” “Thưa ông Leonides, xin thứ lỗi cho câu hỏi của tôi, hiện tại ông có đang cần tiền không?” “Ngài chánh thanh tra, như ngài biết đấy, thuế thu nhập hiện khá nặng – nhưng thu nhập gia tăng của tôi đủ cho nhu cầu của tôi – và cả của vợ tôi. Hơn nữa, cha tôi thường cho chúng tôi rất nhiều quà tặng hào phóng, và nếu có phát sinh chuyện gì khẩn cấp thì ông đến cứu ngay.” Philip nói thêm một cách lạnh nhạt và rõ ràng: “Tôi có thể đoan chắc với ngài rằng tôi không vì lý do tài chính mà mong muốn cha tôi chết, ngài thanh tra ạ.” “Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ông Leonides, nếu ông cho rằng tôi đã có ý đó. Nhưng chúng tôi cần phải thu thập mọi sự kiện. Giờ tôi thấy e ngại khi phải hỏi ông vài câu khá tế nhị. Liên quan đến mối quan hệ giữa cha của ông và bà vợ. Họ chung sống có hạnh phúc không?” “Theo chỗ tôi được biết, rất hạnh phúc.” “Không cãi cọ?” “Tôi nghĩ không có chuyện đó.” “Dù có cách biệt… lớn về tuổi tác?” “Đúng vậy.” “Xin lỗi – ông có chấp nhận cuộc hôn nhân thứ hai của cha mình không?” “Tôi không được hỏi có chấp nhận hay không.” “Đó không phải là một câu trả lời, ông Leonides ạ.” “Do ngài nhấn mạnh điểm này, tôi sẽ nói tôi cho rằng đó là một đám cưới thiếu sáng suốt.” “Ông có can gián cha ông không?” “Khi tôi biết chuyện thì mọi sự đã rồi.” “Thế ông có bị sốc không?” Philip không trả lời. “Ông có cảm giác không hay về chuyện này?” “Cha tôi hoàn toàn tự do làm điều mà ông thích.” “Quan hệ giữa gia đình ông và bà Leonides có dễ chịu không?” “Hoàn toàn dễ chịu.” “Ông và bà ấy nói chuyện với nhau có thân thiết không?” “Tôi và bà ấy ít khi gặp nhau.” Chánh thanh tra Taverner đổi đề tài. “Ông có thể nói đôi điều về ông Laurence Brown?” “Tôi e rằng không thể. Ông ta do cha tôi thuê.” “Nhưng ông ta được thuê để dạy con ông, thưa ông Leonides.” “Đúng vậy. Con trai tôi lúc nhỏ bị mắc bệnh bại liệt – nhưng may chỉ nhẹ thôi – và được khuyên không nên cho đến học trường công. Cha tôi gợi ý: nó và em gái nó nên có một gia sư – việc chọn lựa vào lúc ấy hơi bị hạn chế – vì gia sư được chọn phải không đủ chuẩn để phục vụ quân đội. Phẩm chất của chàng trai trẻ này đáp ứng, cha tôi và dì tôi (bà là người luôn chăm sóc bọn trẻ) bằng lòng, thế thì tôi đồng ý. Tôi có thể nói thêm là tôi không có gì phải phàn nàn về chuyện dạy dỗ của anh ta, anh ta có lương tâm và xứng đáng.” “Anh ta sống ở bên phần nhà của cha ông, chứ không phải ở đây?” “Có một căn phòng ở trên chỗ này.” “Ông có khi nào nhận thấy – tôi rất lấy làm tiếc khi hỏi câu này – dấu hiệu thân mật nào giữa Laurence Brown với bà mẹ kế của ông?” “Tôi không có dịp để nhận thấy chuyện gì như thế.” “Ông có nghe ai xầm xì hoặc nói bóng gió về chuyện này?” “Tôi chẳng nghe xầm xì hay bóng gió gì cả, thưa ngài thanh tra.” “Thật đáng khen,” Thanh tra Taverner nói. “Vậy là ông không thấy, không nghe bất cứ chuyện xấu xa nào cả, và cũng không nói bất cứ điều xấu xa nào.” “Nếu như ngài muốn nói thế, ngài thanh tra.” Thanh tra Taverner đứng dậy. Anh nói: “Thôi được. Cám ơn ông nhiều, ông Leonides.” Tôi từ tốn bước theo anh ra khỏi phòng. “Hừm,” Taverner nhận xét, “ông ta là một kẻ máu lạnh.” 7 “Giờ thì,” Taverner nói, “chúng ta sẽ đi gặp và trao đổi với bà Philip, tức Magda West, là nghệ danh của bà ta.” “Bà ta diễn hay không?” tôi hỏi. “Tôi biết tên bà ấy, và tôi chắc mình đã xem bà ta biểu diễn một vài lần, nhưng không nhớ ở đâu và khi nào.” “Bà ta là một trong những người thuộc Đợt Sóng Mới,” Taverner nói. “Bà diễn một đôi lần ở West End, tạo nên tên tuổi ở Nhà hát kịch – diễn ở một vài sân khấu dành cho trí thức và các câu lạc bộ ngày chủ nhật. Sự thật thì – theo tôi biết – bà không thành công trong nghề bởi không phải kiếm sống bằng nghề. Bà ta có thể nhận và chọn kịch bản, và đi nơi nào bà ưa thích, đôi khi bỏ tiền vào một vở diễn mà bà thích vai nào đó – thường là vai cuối cùng trên đời này thích hợp với bà. Tóm lại, bà có phần giống một kẻ chơi tài tử hơn là nghệ sĩ chuyên nghiệp. Bà ta diễn hay, anh nên biết, đặc biệt là hài kịch – nhưng các nhà quản lý không ưa thích bà ta lắm – họ nói bà ta quá sung túc, và là một kẻ gây rối – kích động đám đông, hơi thích chơi trò láu cá. Tôi không biết trong đó có bao nhiêu là sự thật – nhưng bà ta không hòa đồng lắm với các bạn diễn.” Sophia bước ra ngoài phòng khách và nói: “Ngài chánh thanh tra, mẹ tôi đang ở trong này.” Tôi đi theo Taverner vào gian phòng khách rộng. Trong khoảnh khắc tôi không nhận ra người đàn bà ngồi trên tràng kỷ phủ gấm thêu kim tuyến. Mái tóc màu hung sáng uốn cao theo kiểu Edward, mặc áo vét màu xám sậm cắt may rất khéo, áo sơ mi màu hoa cà nhạt có những nếp gấp rất nhã, cổ áo cài kín bằng chiếc kim cài nạm một viên đá chạm nhỏ. Đây là lần đầu tiên tôi nhận thấy nét hấp dẫn ở cái mũi nhọn của bà. Tôi mơ hồ nhớ đến Athene Seyler[2]– và dường như hoàn toàn không thể tin rằng đó là con người gây giông bão trong bộ váy ngủ màu hoa đào. “Ngài thanh tra Taverner?” bà nói. “Mời vào và ngồi xuống. Ngài có hút thuốc không? Đây là một nghề đáng sợ. Ngay lúc này đây tôi chỉ cảm thấy tôi không thể làm việc đó.” Bà nói chậm rãi và không một mảy xúc động, giọng nói của một kẻ xác định bằng mọi giá phải thể hiện sự tự chủ. Bà tiếp tục: “Xin cho tôi biết tôi có thể giúp ngài thế nào?” “Cám ơn bà Leonides. Lúc xảy ra thảm kịch bà đang ở đâu?” “Tôi nhớ mài mại tôi lái xe từ London đi. Ngày đó tôi dùng bữa trưa với một người bạn tại nhà hàng Ivy. Sau đó chúng tôi đến một buổi trình diễn váy dạ hội. Chúng tôi đã uống nước với một số bạn bè khác tại quán Berkeley. Sau đó tôi về nhà. Khi tôi về đến đây mọi việc đang trong tình trạng rối bời. Dường như cha chồng tôi bị tai biến. Ông đã – chết.” Giọng bà hơi run run. “Bà có yêu mến cha chồng không?” “Tôi đối xử với ông rất tận tụy…” Giọng bà cất cao hơn. Sophia chỉnh nhẹ bức tranh của Degas. Giọng bà Magda hạ nhẹ xuống như lúc ban đầu. “Tôi rất yêu mến ông ấy,” bà nói bằng giọng êm ả. “Chúng tôi đều thế. Ông – rất tốt đối với chúng tôi.” “Bà có hòa hợp với bà Leonides không?” “Chúng tôi ít khi gặp bà Brenda.” “Tại sao thế?” “Chúng tôi không có nhiều việc để làm chung. Tội cho bà Brenda. Cuộc sống của bà ấy đôi lúc cũng gay go.” Sophia một lần nữa lại nghịch bức tranh của Degas. “Thật vậy ư? Như thế nào?” “Ồ, tôi không biết,” bà Magda lắc đầu, với một nụ cười hơi buồn. “Bà Leonides sống với chồng có hạnh phúc không?” “Tôi nghĩ rằng có.” “Không cãi cọ?” Bà lại lắc đầu vói một nụ cười nhẹ, “Ngài thanh tra, tôi thật sự không biết. Chỗ ở của cha mẹ chồng tôi hoàn toàn cách biệt với chỗ ở của chúng tôi.” “Bà ta và ông Laurence Brown rất thân thiết, đúng không?” Mặt bà Magda đanh lại. Đôi mắt bà mở to nhìn Taverner, vẻ oán trách. Bà trịnh trọng nói: “Tôi nghĩ ngài không nên hỏi tôi những việc như thế. Bà Brenda rất thân thiết với tất cả mọi người. Bà là loại người thật sự rất dễ mến.” “Bà có thích ông Laurence Brown không?” “Ông ta rất kín tiếng. Rất tử tế, nhưng ngài khó biết ông ta ở đó. Tôi không gặp ông ta nhiều lắm.” “Bà có hài lòng về việc dạy học của ông ta?” “Tôi cho rằng có. Thật ra tôi không biết rõ. Philip có vẻ hoàn toàn hài lòng.” Taverner thử dùng chiến thuật gây sốc. “Tôi rất tiếc phải hỏi bà điều này, nhưng theo quan điểm của bà thì giữa ông Brown và bà Brenda Leonides có tình ý gì không?” Bà Magda đứng dậy. Bà chứng tỏ mình là một mệnh phụ chính hiệu. “Tôi chưa bao giờ thấy bất kỳ chứng cớ nào về việc đó,” bà nói. “Ngài thanh tra, tôi trộm nghĩ ngài không nên hỏi tôi một câu hỏi như thế. Bà ta là vợ của cha chồng tôi.” Tôi suýt nữa đã vỗ tay. Chánh thanh tra cũng đứng dậy. “Tôi muốn hỏi thêm các gia nhân,” anh đề nghị. Bà Magda không trả lời. “Cám ơn bà, bà Leonides,” thanh tra nói, rồi đi ra. “Mẹ yêu, mẹ làm rất tốt,” Sophia phấn khởi nói với mẹ. Bà Magda nhẹ xoắn búp tóc phía sau tai phải và nhìn vào trong gương. “ Ừ-ừ,” bà nói. “Mẹ nghĩ đó đúng là cách nên làm.” Sophia nhìn tôi. Nàng hỏi: “Anh không phải đi theo ngài thanh tra à?” “Xem nào, Sophia, vai trò của anh là…” Tôi ngưng nói. Tôi không thể nói toạc móng heo trước mặt mẹ của Sophia vai trò thật sự của tôi. Cho đến giờ bà Magda tỏ ra không chú ý đến sự có mặt của tôi chút nào, ngoài việc là kẻ theo đuổi con gái bà. Tôi có thể là một phóng viên, hôn phu của con gái bà, theo đóm ăn tàn cảnh sát, hay thậm chí là kẻ lãnh thầu đám tang – với bà Magda họ sẽ là một và là tất cả khán giả của một đám tang đình đám. Bà Leonides nhìn xuống chân, vẻ không hài lòng: “Đôi giày này quá tệ. Đồ lừa đảo.” Tuân theo cái hất đầu ra lệnh của Sophia, tôi vội vã chạy theo Taverner. Tôi bắt kịp anh ở bên ngoài đại sảnh đúng ngay chỗ cửa đi lên thang lầu. Anh giải thích: “Chúng ta đi lên gặp ông anh lớn.” Không chần chừ gì cả tôi đặt vấn đề với anh. “Này anh Taverner, vai trò của tôi ở đây là gì?” Anh có vẻ ngạc nhiên. “Vai trò của anh à?” “Đúng, tôi làm gì trong ngôi nhà này? Nếu có ai hỏi tôi, tôi phải nói sao?” “À tôi hiểu rồi.” Anh ngẫm nghĩ giây lâu. Sau đó mỉm cười: “Đã có ai hỏi anh chưa?” “Chưa.” “Vậy thì cứ kệ đi. Không bao giờ giải thích. Đó là phương châm tuyệt nhất. Đặc biệt trong ngôi nhà rối bời như ngôi nhà này. Tâm trạng của mỗi người đầy rẫy những nghi vấn, lo âu và sợ sệt. Họ sẽ xem anh là mặc nhiên miễn anh có vẻ tự tin. Sẽ là một sai lầm lớn nếu như anh nói ra điều gì không cần nói. Giờ ta đi qua cánh cửa này và lên trên lầu. Không khóa khiếc gì cả. Như anh thấy đấy, tôi hy vọng, những câu hỏi mà tôi đặt ra toàn nhảm nhí. Ai đang ở trong nhà, ai không, hay bọn họ đã ở đâu trong cái ngày đặc biệt đó…” “Vậy tại sao…” Taverner tiếp tục: “Bởi vì ít ra cũng cho tôi cơ hội xem xét tất cả bọn họ, nắm bắt họ, và nghe những điều họ nói, hy vọng qua đó, hoàn toàn tình cờ, không chừng ai đó có thể cung cấp cho tôi một gợi ý có ích.” Anh im lặng một lát đoạn nói nhỏ: “Tôi cho rằng bà Magda có thể mở miệng nếu bà muốn.” “Có đáng tin cậy không?” tôi hỏi. “Ồ, không,” Taverner đáp, “không đáng tin cậy. Nhưng có thể mở ra một đầu mối cho cuộc điều tra. Mọi người trong ngôi nhà đáng nguyền rủa này đều có phương tiện và cơ hội. Điều tôi muốn là động cơ.” Ở trên đầu cầu thang, một cánh cửa đóng không cho vào hành lang bên tay phải. Có một vòng gõ bằng đồng thau trên cửa. Thanh tra Taverner trịnh trọng gõ. Cánh cửa bất thần mở ra, do một người đàn ông có thể đã đứng sẵn bên trong. Ông ta có vóc dáng to lớn thô kệch, đôi vai rộng, tóc sậm rối nùi, một con người rất xấu xí nhưng lại có bộ mặt vui vui. Đôi mắt ông nhìn chúng tôi, đoạn quay đi nhanh như đã nhìn lén, cái cách bối rối của người hay biểu lộ sự hổ thẹn nhưng trung thực. Ông nói: “Tôi đã nghe báo. Xin mời vào. Vâng tôi sắp đi – nhưng đó không phải là vấn đề. Mời vào phòng khách, tôi sẽ đi gọi Clemency – ô, bà ấy đây rồi. Đây là Chánh thanh tra Taverner. Ngài có dùng thuốc điếu không? Xin chờ một chút. Nếu như ngài không cần.” Ông ta đụng vào tấm bình phong, và nói: “Tôi xin lỗi” và vẫn cái cung cách bối rối, đi ra khỏi phòng. Ông biến đi như một con ong nghệ, không để lại một tiếng động nhỏ. Bà Roger Leonides đang đứng bên cửa sổ. Tôi chợt kinh ngạc về phong cách của bà ta và không khí của gian phòng chúng tôi đang đứng. Các vách tường sơn màu trắng, thật trắng, không một tí gì là màu ngà voi hay màu kem nhạt, những màu mà người ta thường gọi khi nói tới ‘màu trắng’ trong trang trí nhà cửa. Không có một bức tranh nào trên tường ngoại trừ một bức treo trên lò sưởi, một bức vẽ hình học với các hình tam giác màu xám sậm và một tàu chiến màu xanh dương. Đồ đạc không nhiều – chỉ những gì cần thiết, ba hay bốn ghế dựa, một bàn có lót kiếng, một tủ sách có ngăn nhỏ. Không có trang trí gì cả. Chỉ có ánh sáng, không gian và không khí. Hoàn toàn khác hẳn phòng khách to lớn trang trí gấm thêu kim tuyến và đầy hoa dưới tầng trệt. Và bà Roger Leonides cũng khác hẳn bà Magda. Trong khi người ta cảm thấy bà Magda có thể, mà thường như thế, giống như nửa tá con người khác nhau thì bà Clemency Leonides, tôi tin chắc, không bao giờ là con người nào khác hơn chính mình. Bà là một phụ nữ có tính cách mạnh mẽ và rõ ràng. Bà khoảng năm mươi tuổi, tôi đoán thế, tóc màu xám, cắt ngắn, chải đẹp trên cái đầu nhỏ nhắn, cân đối. Tôi luôn có cảm tình với lối cắt tóc đặc biệt này. Bà có gương mặt thông minh, biểu cảm với đôi mắt màu xám nhạt có vẻ thấu đáo lạ kỳ. Bà mặc chiếc váy dài đơn giản bằng vải len màu đỏ sậm thích hợp hoàn hảo với thân hình thon thả của bà. Ngay tức khắc tôi cảm nhận bà là một người đàn bà đáng ngại… Đánh giá các tiêu chí bà đang sống, tôi cho rằng đó không phải các tiêu chí của một người đàn bà bình thường. Tôi liền hiểu tại sao Sophia đã dùng từ nhẫn tâm để liên hệ về bà. Gian phòng lạnh lẽo và tôi hơi rùng mình. Clemency Leonides nói với cái giọng êm dịu, nhẹ nhàng: “Mời ngài ngồi, ngài chánh thanh tra. Có tin gì mới không?” “Chết vì eserine thưa bà Leonides.” Bà nói vẻ trầm ngâm: “Như thế đây là một vụ giết người. Có thể nào là tai nạn không?” “Không, thưa bà Leonides.” “Xin ngài đối xử với chồng tôi nhẹ nhàng một tí. Sự việc đó ảnh hưởng đến anh ấy thật nhiều. Ảnh rất tôn thờ cha và cảm nhận sự việc rất sâu sắc. Ảnh là một người rất dễ xúc động.” “Bà và cha chồng có hòa thuận không, bà Leonides?” “Hoàn toàn hòa thuận.” Bà bình thản nói thêm: “Tôi không thích ông ta lắm.” “Tại sao vậy?” “Tôi không thích các mục tiêu trong cuộc sống – và các phương pháp để đạt mục tiêu của ông ấy.” “Thế còn bà Brenda Leonides?” “Brenda à? Tôi ít gặp bà ta.” “Bà có nghĩ có thể có điều gì giữa bà ta và ông Laurence Brown không?” “Ý ngài là – về cái chuyện yêu đương? Tôi không nghĩ đến. Tôi thật sự không biết gì về chuyện đó.” Giọng bà nghe hoàn toàn vô cảm. Roger Leonides nhanh chóng trở lại, cũng với cái cách của con ong nghệ. “Tôi mắc chút chuyện,” ông nói. “Điện thoại. Nào, ngài thanh tra? Ngài có tin gì? Cha tôi chết vì lý do gì?” “Bị đầu độc bằng eserine.” “Chúa ơi! Thật vậy sao? Vậy thì chính là người đàn bà đó. Bà ta không thể chờ! Ít nhiều gì cha cũng đã lôi bà ta ra khỏi vũng lầy, giờ đây là phần thưởng cho ông. Bà ta máu lạnh đã giết chết ông! Chúa ơi, nghĩ đến điều ấy là tôi sôi máu lên.” “Ngài có lý do gì cụ thể khi nghĩ như vậy không?” Taverner hỏi Roger đi qua đi lại, hai tay cào mạnh vào mái tóc. “Lý do à? Ai, còn ai khác ngoài bà ta có thể làm điều đó. Tôi không bao giờ tin cậy bả – không bao giờ thích bả! Chúng tôi không một ai thích bả hết. Philip và tôi đều phản đối khi một ngày nọ cha về nhà và bảo chúng tôi ông đã làm gì! Vào cái tuổi của ông! Thật là điên khùng – điên khùng. Ngài thanh tra, cha tôi là một người kỳ lạ. Về mặt trí lực, ông ấy trẻ trung và tỉnh táo như người bốn mươi. Mọi thứ tôi có trên đời này đều do ông cho. Ông làm mọi điều cho tôi – không bao giờ để tôi thất vọng. Chính tôi mới để ông thất vọng – khi tôi nghĩ đến điều đó…” Ông nặng nề buông mình xuống ghế. Vợ ông lặng lẽ đến bên ông. “Roger, thôi đủ rồi. Đừng tự làm khổ mình nữa.” “Anh biết, em yêu,” ông nắm lấy tay bà. “Nhưng làm sao anh có thể bình tĩnh – làm sao anh có thể không cảm thấy…” “Roger à, nhưng tất cả chúng ta phải giữ bình tĩnh. Chánh thanh tra Taverner muốn giúp chúng ta.” “Đúng thế, thưa bà Leonides.” Ông Roger gào lên: “Các người có biết tôi muốn làm gì không? Tôi muốn bóp cổ mụ đàn bà ấy bằng chính đôi tay của mình. Ông già thân yêu còn sống bao lăm nữa đâu. Nếu mụ ấy có mặt ở đây…” Ông bật dậy. Người lẩy bẩy vì giận dữ. Đưa đôi bàn tay run rẩy ra xa. “Đúng, tôi sẽ siết cổ mụ, siết cổ mụ…” “Roger!” bà Clemency gắt lên. Ông nhìn bà, lộ vẻ ngượng. “Xin lỗi, em yêu.” Ông xoay qua chúng tôi. “Tôi xin lỗi. Cảm xúc đã lấn át con người tôi. Hãy thứ lỗi cho tôi…” Ông lại đi ra khỏi phòng. Clemency Leonides nói với một nụ cười nhẹ: “Các ngài biết đấy, ông ấy thật sự không hại đến một con ruồi.” Taverner lễ độ đồng ý lời giãi bày của bà. Sau đó anh tiếp tục với cái gọi là những câu hỏi thông lệ. Bà Clemency đối đáp rõ ràng và chính xác. Ông Roger Leonides đã ở London vào ngày cha ông chết, tại Box House, trụ sở chính của Công ty Cung cấp thực phẩm. Xế trưa ông trở về nhà sớm và như thường lệ gặp cha mình một lúc. Bà, cũng như thường lệ, làm việc tại Viện Lambert đường Gower. Bà trở về nhà đúng trước sáu giờ. “Bà có gặp cha chồng?” “Không. Lần cuối tôi gặp ông là ngày hôm trước. Chúng tôi dùng cà phê với ông sau bữa ăn tối.” “Vậy bà không gặp ông vào ngày ông ấy mất?” “Không. Tôi có đi ngang qua phòng của ông vì Roger cho rằng anh ấy đã để quên ống điếu của ảnh – một ống điếu rất quý giá – trong phòng ông cụ, nhưng thực ra anh ấy để quên ống điếu trên bàn ở đại sảnh, do vậy tôi không cần phải quấy rầy ông cụ. Ông cụ thường ngủ gà ngủ gật vào khoảng sáu giờ.” “Bà nghe ông ấy bệnh lúc nào?” “Bà Brenda chạy vội đến báo. Lúc đó sau sáu giờ rưỡi đúng một hai phút.” Tôi biết những câu hỏi đó không quan trọng, nhưng tôi cho rằng Thanh tra Taverner ranh mãnh biết chừng nào khi dùng câu hỏi để tìm hiểu tỉ mỉ người đối diện. Anh hỏi thêm vài câu hỏi về tính chất công việc của bà ở London. Bà cho biết bà nghiên cứu tác động phóng xạ của phân hủy nguyên tử. “Bà chế tạo bom nguyên tử, đúng thế không?” “Công việc không có tính hủy diệt. Viện thực hiện các thử nghiệm về tác dụng chữa bệnh.” Khi Taverner đứng lên, anh tỏ ý muốn tham quan gian nhà. Bà Clemency có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng cho anh thấy bà cũng sẵn sàng. Phòng ngủ với hai chiếc giường giống nhau, trải drap trắng; trang bị phòng vệ sinh đơn giản khiến tôi nghĩ đến phòng của bệnh viện hay gian phòng nhỏ của tu viện. Phòng tắm cũng thế, rất trống trải, đặc biệt không có gì cao sang và không chỗ để mỹ phẩm. Nhà bếp trống rỗng, rất sạch, trang bị những dụng cụ thiết thực. Sau đó chúng tôi đến bên cánh cửa do bà Clemency mở: “Đây là căn phòng đặc biệt của chồng tôi.” “Mời vào,” tiếng ông Roger. “Mời vào.” Tôi hít một hơi thở nhẹ dễ chịu. Có gì đó trong sự khắc khổ sạch sẽ ở chỗ khác đã làm cho tôi bãi hoải. Còn đây đúng là một căn phòng mang tính cách cá nhân đặc biệt. Có một cái bàn mặt xoay bề bộn giấy tờ, ống điếu cũ và tàn thuốc lá. Những ghế dựa to, giản đơn, ọp ẹp. Sàn trải thảm Ba Tư. Trên các vách tường treo ảnh những nhóm: nhóm học tại trường, nhóm chơi cricket, nhóm quân nhân; ảnh chủ yếu đã mờ. Những phác họa màu nước vẽ sa mạc và các tháp, những chiếc thuyền buồm, sóng biển và cảnh hoàng hôn. Nhìn chung, đây là một căn phòng dễ nhìn, căn phòng của một người đàn ông dễ mến, thân thiện, dễ kết bạn. Ông Roger, vụng về rót nước uống từ một cái bình, đẩy sách và giấy tờ ra khỏi một trong những chiếc ghế. “Chỗ này khá lộn xộn. Tôi đang sắp xếp. Loại bỏ các giấy tờ cũ.” Taverner từ chối uống rượu. Tôi nhận lời. Ông Roger tiếp: “Các ngài hãy thứ lỗi cho tôi.” Ông đưa rượu cho tôi, mặt quay sang nói chuyện với Taverner câu đã nói: “Cảm xúc đã lấn át tôi.” Ông nhìn quanh vẻ như phạm lỗi, nhưng bà Clemency không vào phòng cùng với chúng tôi. “Cô ấy thật tuyệt vời,” ông Roger nói. “Ý tôi là vợ tôi rất tuyệt. Suốt chuyện này, cô ấy tuyệt hảo – tuyệt hảo! Tôi không thể nói tôi đã thán phục cô ấy thế nào. Cô ấy đã có một thời khó khăn – khó khăn khủng khiếp. Tôi muốn kể cho các ngài nghe chuyện đó. Chuyện là trước khi chúng tôi lấy nhau, người chồng trước của cô ấy là một người tốt – ý tôi nói là một người đàng hoàng – rất tinh tế – nhưng lại mắc bệnh lao. Anh ta làm công việc tìm tòi nghiên cứu về tinh thể học rất có giá trị. Bị trả thù lao thấp và công việc đòi hỏi cao nhưng anh ta không chịu bỏ nghề. Cô ấy làm lụng vất vả để lo cho anh ta, chống đỡ cho anh ta dù luôn biết rằng anh ta sẽ chết. Và không một lời than van – không càm ràm về nỗi khó nhọc. Cô ấy luôn nói mình đang hạnh phúc. Sau khi anh ta mất, cô ấy hoàn toàn suy sụp. Sau cùng cô ấy đồng ý lấy tôi. Tôi rất vui được giúp cô ấy một chút yên lòng, một chút hạnh phúc. Tôi muốn nhà tôi nghỉ làm việc. Nhưng cô ấy cảm thấy nhiệm vụ của mình trong thời chiến, do vậy cô ấy cho rằng cần phải tiếp tục làm việc. Cô ấy là một người vợ tuyệt vời – một người vợ tuyệt vời nhất mà đàn ông chưa hề gặp. Chúa ôi, tôi rất hạnh phúc! Tôi làm mọi việc cho cô ấy.” Taverner biểu lộ sự đồng tình. Sau đấy, một lần nữa, anh lại đề cập đến những câu hỏi thường lệ quen thuộc: “Ông đã nghe cha ông phát bệnh lúc nào?” “Brenda chạy vội đến báo cho tôi. Cha bị bệnh – bà ta nói – cha bị đột quỵ gì đó.” “Mới chỉ nửa giờ trước đó tôi còn ngồi với ông già thân yêu. Lúc ấy ông hoàn toàn mạnh khỏe. Khi nghe tin, tôi vội chạy đến. Mặt ông tái xanh, thở hổn hển. Tôi chạy xuống chỗ Philip. Nó gọi điện thoại cho bác sĩ. Tôi – chúng tôi không thể làm gì. Dĩ nhiên tôi chưa bao giờ nghĩ có lúc xảy ra chuyện ông khó ở như vậy. Khó ở? Tôi đã nói khó ở? Chúa ơi, tôi đã dùng từ khó ở!” Với một chút ngại ngần, chúng tôi đi ra khỏi căn phòng mang không khí đầy xúc cảm của Roger, và thấy mình lại ở ngoài cửa chỗ đầu cầu thang. “Ái chà!” Taverner nói. “Thật là trái ngược với người em!” Anh nói thêm, không che giấu: “Những căn phòng, những điều kỳ lạ. Chúng cho ta biết rất nhiều điều về những con người đang sống trong đó.” Tôi đồng ý và anh tiếp tục: “Những người kết hôn với nhau cũng kỳ lạ luôn, phải thế không?” Tôi không chắc ý anh ám chỉ Clemency và Roger hay Philip và Magda. Câu nói của anh có thể áp dụng cho cả hai cặp. Với tôi, dường như cả hai cuộc hôn nhân đều được xếp loại có hạnh phúc. Cuộc hôn nhân giữa Clemency và Roger chắc chắn là hạnh phúc. “Tôi không cho rằng ông ta là kẻ đầu độc, còn anh?” Taverner hỏi. “Không đủ bản lĩnh. Tất nhiên anh không bao giờ hiểu. Bà vợ thì có thể. Loại đàn bà nhẫn tâm. Có thể hơi thần kinh.” Tôi lại đồng ý. “Nhưng tôi không cho rằng,” tôi nói, “bà ta giết một ai đó chỉ vì bà ta không đồng tình với các mục tiêu và cung cách sống. Có thể, bà ta thực sự ghét ông lão – nhưng có kẻ nào giết người chỉ vì ghét thôi ư?” “Hiếm lắm,” Taverner thừa nhận. “Chính tôi chưa bao giờ gặp. Thôi, tôi cho rằng tốt hơn giờ ta đi gặp bà Brenda. Biết đâu Chúa giúp chúng ta có được một chứng cớ nào đấy.” 8 Một cô hầu mở cánh cửa căn phòng đối diện với chúng tôi. Cô ta có vẻ sợ sệt nhưng hơi khinh khỉnh khi thấy Taverner. “Hai ông muốn gặp bà chủ?” “Đúng thế, xin vui lòng.” Cô ta đưa chúng tôi vào một phòng khách rộng lớn và đi ra ngoài. Kích thước của phòng này ngang bằng với kích thước của phòng khách ở tầng trệt tầng dưới. Trang trí những vải bọc dày, màu sắc rực rỡ, rèm lụa có sọc. Trên lò sưởi là một bức chân dung khiến tôi chú ý – không phải chỉ vì do một bậc thầy họa sĩ vẽ nên mà còn là gương mặt có thần của người trong tranh. Đó là chân dung một ông lão nhỏ bé có đôi mắt màu xám, cái nhìn soi mói. Ông đội mũ nhung đen và đầu ông rụt xuống đôi vai nhưng vẻ hoạt bát và uy lực của ông lão thể hiện rõ trên bức vẽ. Cặp mắt lấp loáng như hút hồn đôi mắt tôi. “Đó là ông ấy,” Chánh thanh tra Taverner thản nhiên nói. “Do Augustus John vẽ. Vẽ đúng tính cách, phải không?” Giờ tôi mới hiểu ý bà dì Edith de Haviland nói ngôi nhà dường như trống vắng khi không có ông ta. Đó là Con Người Nhỏ Bé Nguồn Gốc Kỳ Lạ đã xây Ngôi Nhà Nhỏ Bé Kỳ Lạ – và nếu thiếu vắng ông ta Ngôi Nhà Nhỏ Bé Kỳ Lạ sẽ mất ý nghĩa. “Kia là chân dung bà vợ đầu của ông ta, do họa sĩ Sargent vẽ,” Taverner nói. Tôi nhìn bức tranh trên tường giữa hai cửa sổ. Có cái gì hơi hoang dã giống như nhiều bức chân dung do Sargent vẽ. Chiều dài gương mặt hơi bị phóng đại, tôi nghĩ, nó khá giống mặt ngựa – chính xác không thể tranh cãi. Đó là chân dung của một Quý bà nước Anh – trong xã hội nông thôn (không phải xã hội thanh lịch). Đẹp nhưng hơi vô hồn. Bà không có vẻ giống vợ của một lão già chuyên chế cười ngạo nghễ và đầy quyền lực treo trên lò sưởi. Cửa phòng chợt mở, trung sĩ Lamb bước vào. Anh nói: “Tôi đã làm hết khả năng với các gia nhân, thưa sếp. Nhưng không được gì.” Taverner thở dài. Trung sĩ Lamb lấy ra một cuốn sổ tay và lùi về cuối phòng, ngồi xuống tại đó để không làm phiền. Cánh cửa lại mở và bà vợ hai của ông Aristide Leonides bước vào. Bà mặc bộ đồ đen – đen tuyền và rất đắt tiền. Áo cao đến cổ và phủ đến cổ tay. Bà bước chậm rãi và nhẹ nhàng. Màu đen chắc chắn phù hợp với bà. Mặt bà đẹp, vẻ hòa nhã, mái tóc nâu được chải công phu. Mặt đánh phấn khéo, môi dùng son đỏ, nhưng đánh không khéo. Bà đeo một chuỗi ngọc trai lớn, một chiếc nhẫn nạm viên ngọc lục bảo to tướng trên một tay, còn tay kia là chiếc nhẫn đính viên hồng ngọc cực lớn. Có một điều khác mà tôi nhận thấy ở bà. Trông bà có vẻ hoảng sợ. “Chào bà, bà Leonides,” Taverner nói giả lả. “Tôi xin lỗi lại làm phiền đến bà.” Bà ta nói giọng nhạt nhẽo: “Tôi cho rằng không thể giúp được gì thêm.” “Bà Leonides, bà có biết nếu bà muốn có mặt luật sư, bà hoàn toàn có thể cho gọi không ạ?” Tôi thầm nghĩ không biết bà ta có hiểu ý nghĩa của các từ này không. Rõ ràng là không. Bà chỉ đáp với cái giọng hơi khó chịu: “Tôi không thích ông Gaitskill. Tôi không chọn ông ấy.” “Bà có thể chọn luật sư theo ý bà, thưa bà Leonides.” “Cần phải có họ ư? Tôi không thích luật sư. Họ làm tôi rối.” “Điều đó hoàn toàn do bà quyết định,” Taverner nói, anh nở một nụ cười rất tự nhiên. “Giờ, chúng ta tiếp tục nhé?” Trung sĩ Lamb liếm cây bút chì. Bà Brenda Leonides ngồi trên tràng kỷ đối diện với Taverner. “Ngài đã khám phá ra điều gì?” bà hỏi. Tôi nhận thấy các ngón tay của bà xoắn lại rồi buông ra dải nếp gấp bằng lụa chiffon trên áo bà một cách bồn chồn lo lắng. “Giờ chúng tôi có thể xác định chồng bà mất vì bị đầu độc eserine.” “Ý ngài là thuốc nhỏ mắt giết chết ông ấy?” “Gần như chắc chắn khi bà tiêm thuốc ông ấy lần cuối. Đó là eserine chứ không phải insulin.” “Nhưng tôi không biết điều đó. Tôi không có làm gì với nó. Thật sự tôi không làm, ngài thanh tra.” “Vậy có ai đó cố tình thay insulin bằng thuốc nhỏ mắt.” “Một việc làm khủng khiếp!” “Vâng, thưa bà Leonides.” “Ngài có nghĩ – ai đó đã làm có chủ ý? Hay do tai nạn? Có thể do một trò – một trò nghịch dại – không?” Taverner nhẹ nhàng nói: “Tôi không nghĩ đó là một trò nghịch, bà Leonides ạ.” “Có thể đó là do một trong số người hầu.” Taverner không đáp. “Chắc vậy rồi. Tôi không thấy ai khác có thể làm điều đó.” “Bà chắc chứ? Hãy suy nghĩ kỹ, bà Leonides. Bà có ý kiến nào nữa không? Không cãi cọ? Không hận thù? Không cảm thấy bất mãn bất cứ chuyện gì?” Bà vẫn nhìn Taverner chằm chằm với đôi mắt to thách thức. “Tôi không có ý kiến nào cả.” “Buổi xế chiều hôm ấy bà đi xem chiếu bóng, bà nói thế phải không?” “Đúng – tôi về lúc sáu giờ ba mươi – đó là giờ tiêm thuốc insulin – tôi – tôi tiêm thuốc như thường lệ và ông ấy kêu choáng váng. Tôi hoảng sợ, vội chạy đến chỗ Roger – lần trước tôi đã kể cho ngài nghe tất cả. Tôi phải kể bao nhiêu lần nữa?” Bà cao giọng một cách dữ tợn. “Xin lỗi bà Leonides. Giờ tôi có thể nói chuyện với ông Brown được không?” “Với Laurence à? Vì sao? Anh ta không biết tí gì về chuyện này.” “Tôi lại muốn trao đổi với ông ấy.” Bà ta nhìn Taverner vẻ nghi ngờ. “Eustace đang học tiếng Latinh với anh ta trong phòng học. Ngài có muốn anh ta đến đây không?” “Không – chúng tôi sẽ đến chỗ ông ta.” Taverner bước nhanh ra khỏi phòng. Trung sĩ Lamb và tôi đi theo. “Ngài đã làm cho bà ta hoảng, thưa sếp,” trung sĩ Lamb nói. Taverner nhăn nhó. Anh đi như bay lên các bậc thang, đoạn đi dọc theo hành lang đến một căn phòng rộng nhìn ra vườn. Trong phòng có một người còn trẻ khoảng độ tuổi ba mươi có mái tóc sáng đẹp, và cậu bé tuổi độ mười sáu, đẹp trai, da sậm đang ngồi tại bàn. Cả hai nhìn lên khi chúng tôi bước vào. Eustace, em trai của Sophia, nhìn tôi, Laurence nhìn Chánh thanh tra Taverner với cái nhìn lộ vẻ lo âu. Tôi chưa bao giờ thấy một người có vẻ tê liệt hoàn toàn vì sợ. Anh ta đứng lên rồi lại ngồi xuống. Anh ta nói, giọng gần như rít: “Ô – ồ – xin chào, ngài thanh tra.” “Xin chào.” Taverner cộc lốc. “Tôi có thể trao đổi với ông?” “Dĩ nhiên được. Rất vui lòng. Ít nhất…” Eustace đứng lên. “Thưa ngài thanh tra, ngài có muốn tôi đi chỗ khác không?” Giọng Eustace thích chí phảng phất kênh kiệu. “Chúng ta – chúng ta có thể tiếp tục học sau,” vị gia sư nói. Eustace lững thững đi ra cửa. Dáng đi cứng đờ. Ngay khi đến cửa, thấy tôi nhìn theo, cậu ta đưa ngón tay trỏ tréo trước cổ họng và nhăn răng cười. Rồi đóng cánh cửa lại. “Nào, ông Brown,” Taverner nói. “Việc phân tích đã xác định rõ. Chính chất eserine gây ra cái chết của ông Leonides.” “Tôi – ý ngài là – ông Leonides thật sự đã bị đầu độc ư? Tôi đã hy vọng…” “Ông ấy bị đầu độc,” Taverner nói ngắn gọn. “Ai đó đã đổi insulin bằng thuốc nhỏ mắt eserine.” “Tôi không thể tin… Không thể tin được.” “Vấn đề là, ai có động cơ làm thế?” “Không một ai. Không ai cả!” Giọng chàng trai cất cao, xúc động. “Ông có muốn có mặt luật sư của ông không?” “Tôi không có luật sư. Tôi không muốn có một người nào. Tôi không có gì phải giấu giếm – không có gì…” “Và ông nên hiểu rõ rằng những gì ông nói đều được ghi chép?” “Tôi vô tội – tôi đảm bảo với ngài, tôi vô tội.” “Tôi không gợi ý thêm gì khác.” Taverner dừng lời. “Bà Leonides quá trẻ so với chồng, không đúng thế sao?” “Tôi – tôi cũng cho là thế – ý tôi, vâng đúng thế.” “Hẳn có khi bà ta cảm thấy cô đơn?” Laurence Brown không nói nữa. Anh ta đưa lưỡi liếm đôi môi khô khốc. “Có một người bạn sàng sàng tuổi bà ta sống ở đây hẳn rất dễ chịu đối với bà ta.” “Không – không có – ý tôi là – tôi không biết.” “Theo tôi, một sự gắn bó nảy nở giữa hai người là điều hoàn toàn tự nhiên.” Chàng trai phản đối quyết liệt. “Không có! Không có! Không hề có kiểu đó! Tôi hiểu ngài đang nghĩ gì, nhưng mà không phải thế. Bà Leonides luôn rất tử tế với tôi và tôi rất, rất kính trọng bà – ngoài ra không còn gì khác – không có gì hơn thế, tôi đảm bảo với ngài. Thật là vô lý khi ám chỉ chuyện như thế. Hết sức vô lý! Tôi không giết ai cả – tôi không đổi các chai thuốc – hay làm bất cứ chuyện gì như thế. Tôi rất nhạy cảm và dễ bị xúc động. Ý tưởng về việc giết người là một ác mộng đối với tôi – ở tòa rất hiểu điều đó – tôi theo tôn giáo cấm giết người. Tôi đã làm trong bệnh viện – đun thùng chứa nước cho nóng – một công việc rất nặng nhọc – tôi không thể làm tiếp – thế là họ cho tôi làm công việc dạy học. Tôi đến đây dạy Eustace và Josephine hết sức mình – một đứa trẻ rất thông minh nhưng khó bảo. Và mọi người ở đây hầu hết đều tử tế với tôi – ông Leonides và bà Leonides và cô de Haviland. Và bây giờ chuyện khủng khiếp này xảy ra… Và ngài nghi ngờ tôi – tôi – là kẻ giết người!” Thanh tra Taverner nhìn Brown với cái nhìn chầm chậm, xét đoán. “Tôi không nói thế,” anh lưu ý. “Nhưng ngài nghĩ thế! Tôi biết ngài nghĩ thế! Tất cả mọi người nghĩ thế! Họ nhìn tôi. Tôi – tôi không thể tiếp tục nói chuyện với ông. Tôi không khỏe.” Anh ta vội vàng ra khỏi phòng. Taverner từ từ quay sang nhìn tôi. “Sao, anh nghĩ thế nào về anh ta?” “Y sợ điếng người.” “Tôi biết, nhưng y có phải là một kẻ giết người không?” “Nếu ngài hỏi tôi,” trung sĩ Lamb nói, “y không bao giờ dám làm.” “Y sẽ không bao giờ đạp hay bắn vào đầu ai,” Taverner đồng ý. “Nhưng trong vụ giết người đặc biệt này, người ta làm gì? Chỉ cần đổi hai cái chai… Giúp một ông lão lìa trần bằng cách tương đối không đau đớn.” “Thực hiện cái chết êm ái,” anh trung sĩ kêu lên. “Và sau đó, có thể, sau đám tang trọng thể, là một đám cưới với người thừa hưởng một trăm ngàn bảng mà không phải nộp thuế thừa kế, một người vốn đã có sẵn số tiền như thế, và thêm vào đó là ngọc trai, hồng ngọc, ngọc lục bảo to bằng quả trứng!” Taverner thở dài: “Ôi, tất cả đều là giả thuyết và phỏng đoán! Tôi tìm cách để dọa y, nhưng điều đó không chứng minh được gì cả. Y vẫn cứ sợ nếu y vô tội. Mà dù sao, tôi khó tin anh ta là người thực sự đã làm chuyện đó. Khả năng nhiều hơn là người đàn bà – chỉ có điều thế quái nào mà bà ta không vứt cái chai insulin đi hay súc cho sạch chứ?” Anh quay sang viên trung sĩ: “Không có chứng cứ gì từ những người hầu?” “Cô hầu bàn ăn nói họ rất ngọt ngào với nhau.” “Ra sao?” “Cái cách anh ta nhìn bà khi bà rót cà phê cho anh ta.” “Chứng cứ chẳng ích lợi gì trước tòa! Không còn gì nữa sao?” “Không ai thấy gì thêm.” “Tôi cho rằng nếu có bất cứ chuyện gì để thấy thì họ đã thấy rồi. Anh biết không, tôi bắt đầu tin rằng thật sự không có gì giữa họ.” Anh nhìn tôi. “Hãy quay lại và nói chuyện với bà ta. Tôi muốn lấy cảm tưởng của anh về bà ta.” Tôi miễn cưỡng đi, nhưng tôi cũng muốn biết. 9 Tôi thấy bà Brenda Leonides vẫn ngồi đúng cái chỗ lúc chúng tôi đi ra. Bà khó chịu nhìn lên khi thấy tôi bước vào. “Thanh tra Taverner đâu? Ông ta có trở lại không?” “Thưa chưa.” “Anh là ai?” Sau cùng, tôi đã bị hỏi câu hỏi mà tôi chờ đợi suốt buổi sáng. Tôi trả lời với sự thật vừa phải. “Tôi làm việc với cảnh sát, nhưng tôi cũng là một người bạn của gia đình.” “Gia đình! Một lũ khốn! Tôi ghét bọn chúng.” Bà mím môi, nhìn tôi. Trông bà có vẻ rầu rĩ, sợ hãi và giận dữ. “Chúng luôn đối xử tồi tệ với tôi – luôn luôn. Ngay từ ngày đầu tiên. Tại sao tôi lại lấy ông bố quý báu của chúng? Chuyện đó có vấn đề gì với chúng? Bọn chúng đã nhận rất nhiều tiền. Ổng đã cho chúng. Chúng chẳng có đầu óc để làm điều gì cho bản thân!” Bà tiếp tục: “Tại sao một người đàn ông lại không được lấy vợ lần nữa – dù ông ta hơi già? Nhưng ông ấy thật sự không già tí nào – ngay chính trong con người ông ấy. Tôi rất yêu ông ấy. Đã rất yêu.” Bà nhìn tôi bướng bỉnh. “Tôi hiểu,” tôi nói. “Tôi hiểu.” “Tôi cho rằng anh không tin – nhưng đó là sự thật. Tôi đã chán đàn ông, Tôi muốn có một ngôi nhà – tôi muốn có một người làm cho tôi vui và nói với tôi những điều tử tế. Aristide nói cho tôi nghe những lời yêu thương – ông có thể làm cho tôi cười – và ông rất khéo léo. Ông nghĩ ra đủ mọi cách khôn ngoan lách luật. Ổng rất, rất khéo. Ông ấy mất, tôi rất buồn, rất tiếc.” Bà ngả người trên tràng kỷ. Bà có cái miệng khá rộng; môi hơi nhếch lên nở một nụ cười buồn. “Tôi đã sống hạnh phúc ở đây. An toàn ở nơi đây. Tôi đến tất cả những hiệu may váy áo sang trọng – những nơi tôi đọc thấy quảng cáo. Tôi đã là người tốt đẹp như mọi người. Và Aristide đã cho tôi những báu vật dễ thương.” Bà đưa bàn tay ra, nhìn viên hồng ngọc trên ngón tay. Chính khoảnh khắc đó tôi thấy bàn tay và cánh tay của bà giống như móng vuốt vươn dài của một con mèo và giọng nói của bà nghe như tiếng gừ gừ. Bà vẫn đang mỉm cười với chính mình. “Có gì không đúng chứ?” bà hỏi. “Tôi tử tế với ổng. Tôi làm cho ông ấy hạnh phúc.” Bà nghiêng người tới trước. “Anh có biết tôi gặp ổng thế nào không?” Bà tiếp tục nói, không chờ tôi trả lời, “Là tại nhà hàng Gay Shamrock. Ổng kêu món trứng đánh với bánh mì nướng và lúc tôi đem ra cho ông ấy thì tôi đang khóc. Ông bảo: “Ngồi xuống, và nói cho ta nghe chuyện gì đã xảy ra.” Tôi nói: “Tôi không thể. Nếu nói tôi sẽ bị đuổi.” Ông bảo: “Không, cô sẽ không bị đuổi đâu. Ta là chủ nơi này.” Bấy giờ tôi mới nhìn ông, một lão già nhỏ con! Lúc đầu tôi nghĩ như thế – nhưng ông ta có vẻ quyền uy. Tôi nói cho ông nghe tất cả… Anh sẽ nghe tất cả chuyện đó từ bọn họ, tôi nghĩ vậy, khiến tôi là một cô gái xấu xa tầm thường – nhưng tôi không có xấu xa. Tôi đã được dạy dỗ đàng hoàng. Chúng tôi đã có một gian hàng thêu may cao cấp. Tôi không phải là loại gái có cả lô cả lốc bạn trai và biến mình thành loại gái rẻ tiền. Nhưng Terry thì khác. Anh ta là người Ireland – anh ta ra nước ngoài… Anh ta không hề viết thư hay gửi về cái gì – tôi cho rằng mình điên. Giờ thì như thế này đây, anh thấy đó. Tôi gặp rắc rối – y như một con hầu gái xấu xa…” Giọng bà khinh khỉnh trịch thượng. “Aristide là người kỳ diệu. Ông nói mọi chuyện rồi sẽ ổn. Ông nói ông cô đơn. Chúng ta phải cưới ngay, ông nói. Thật giống như giấc mộng. Sau đó tôi phát hiện ông ấy là ngài Leonides vĩ đại. Ông sở hữu rất nhiều cửa hàng, nhiều nhà hàng và nhiều câu lạc bộ đêm. Như chuyện cổ tích, đúng không?” “Đúng là chuyện cổ tích,” tôi nói khô khan. “Chúng tôi làm lễ cưới tại một nhà thờ nhỏ trong thành phố – sau đó đi nước ngoài.” Bà nhìn tôi với đôi mắt dường như từ xa xôi quay lại. “Dầu sao đâu phải là trẻ con. Đó là một sai lầm.” Bà mỉm cười, một nụ cười kỳ lạ, khóe môi hơi nhếch. “Tôi nguyện với lòng sẽ là người vợ thật sự tốt đối với ông ấy và tôi đã làm như thế. Tôi bảo làm các món ăn mà ông thích, chọn những màu sắc ông chuộng và tôi đã làm tất cả những gì có thể làm để ông hài lòng. Và ông đã rất sung sướng. Nhưng tôi không bao giờ tống khứ được gia đình của ông ấy. Lúc nào cũng đến và bòn rút và sống bằng tiền của ông ấy. Tôi nghĩ bà cô già de Haviland nên đi nơi khác khi chúng tôi lấy nhau… Tôi đã nói thế. Nhưng Aristide bảo, “Bà ấy ở đây đã lâu rồi. Giờ, đây là nhà bà ấy.” Sự thật là ông ấy thích có tất cả mọi người và họ phải nằm dưới quyền hành của ông. Bọn họ đối xử tồi tệ với tôi, nhưng dường như ông không thấy và không để ý. Roger ghét tôi – anh đã gặp Roger chưa? Y luôn ghét tôi. Y ganh tị. Còn Philip, y tự cao tự đại, không bao giờ nói chuyện với tôi. Giờ đây, bọn chúng cố gán tôi tội giết người – chuyện mà tôi không làm. Tôi không làm!” Bà chồm về phía tôi. “Làm ơn tin tôi không làm.” Tôi thấy bà rất xúc động. Cái vẻ khinh miệt mà gia đình Leonides nói về bà, sự hăm hở của họ trong việc tin rằng bà đã phạm tội giết người – và, giờ đây, vào lúc này, tất cả có vẻ như là một sự đối xử vô nhân đạo. Bà ta đơn độc, vô phương tự vệ, bị săn đuổi. “Và nếu không phải tôi, họ lại cho đó là Laurence,” bà tiếp tục. “Thế Laurence thì sao?” tôi hỏi. “Tôi thật buồn cho Laurence. Y là người thanh nhã, chẳng biết chống đỡ. Chẳng phải y hèn nhát. Nhưng vì y nhạy cảm. Tôi đã cố gắng cổ vũ y và giúp cho y cảm thấy hạnh phúc. Y phải dạy hai đứa trẻ khó bảo. Eustace luôn cười nhạo y, còn Josephine – anh đã gặp Josephine. Anh trông nó thế nào?” Tôi nói tôi chưa gặp Josephine. “Đôi lúc tôi cho rằng đầu con bé có vấn đề. Nó có cái kiểu lén lút xấu xa, và có vẻ đáng ngờ… Đôi khi nó làm tôi rùng mình.” Tôi không muốn nói về Josephine. Tôi quay trở lại chuyện Laurence Brown. “Laurence là ai?” Tôi hỏi. “Anh ta từ đâu tới?” Tôi hỏi hơi vụng về. Mặt bà ửng đỏ. “Anh ta không có gì đặc biệt. Chỉ thích tôi thôi… Chúng tôi có cơ may nào để chống lại tất cả bọn họ?” “Bà có nghĩ bà có hơi thích anh ta không?” “Không. Bọn họ muốn Laurence hoặc tôi thể hiện điều đó. Họ có viên cảnh sát đó đứng về phía họ. Tôi còn có cơ may nào chứ?” “Bà đừng bực tức,” tôi nói. “Tại sao không là người trong bọn họ giết chết ông ấy? Hay là một người bên ngoài? Hay là một người làm?” “Do thiếu một động cơ nào đó.” “Ôi! Động cơ! Tôi thì có động cơ gì? Hay Laurence?” Tôi cảm thấy hơi khó chịu: “Tôi cho rằng, họ có thể nghĩ bà – và – Laurence yêu nhau – và bà muốn lấy anh ta.” Bà ngồi thẳng người lên. “Thật là một sự nghi ngờ độc địa! Và không đúng sự thật! Chúng tôi không hề nói với nhau một lời nào kiểu đó. Tôi chỉ thương hại y và động viên y. Chúng tôi chỉ là bạn, thế thôi. Anh có tin tôi không?” Tôi tin bà. Tức là, tôi tin bà ấy và Laurence, như bà nói, chỉ là bạn. Nhưng tôi cũng tin rằng, có thể bà không hiểu rõ mình, bà thật sự đang yêu chàng trai trẻ Laurence. Tôi đi xuống tầng dưới tìm Sophia với ý nghĩ đó trong đầu. Lúc tôi sắp sửa đi vào phòng khách, Sophia thò đầu ra từ một cánh cửa đằng xa trên hành lang. “Chào,” nàng nói. “Em đang giúp vú Nannie làm bữa trưa.” Tôi định đến chỗ nàng, nhưng nàng đi ra hành lang, đóng cửa lại, nắm tay tôi lôi vào phòng khách, lúc này không có người. “Nào,” nàng hỏi, “anh gặp bà Brenda chưa? Anh nghĩ thế nào về bà ấy?” Tôi đáp: “Thẳng thắn mà nói, anh thấy tội nghiệp cho bà ấy.” Sophia lộ vẻ thích thú. “Em biết mà,” nàng nói, “anh bị bà ta làm xiêu lòng.” Tôi cảm thấy hơi tưng tức. Tôi nói: “Vấn đề là – anh thấy được một khía cạnh của bà ấy. Rõ ràng là em không thấy.” “Khía cạnh nào?” “Nói thật nhé, Sophia, có ai trong gia đình này đối xử tử tế với bà ấy, hoặc thậm chí đối xử phải lẽ với bà ấy từ khi bà ấy về nhà này không?” “Đúng, nhà em không tử tế với bà ấy. Vậy chứ nên làm thế nào?” “Đem lòng lành của Thiên Chúa, nếu không còn cái gì khác.” “Charles, giọng của anh nghe cao đạo làm sao. Bà Brenda hẳn đã giở chiêu rất tốt.” “Thật ư, Sophia, em dường như – anh không biết điều gì đã tác động em.” “Em chỉ trung thực và không giả bộ. Như anh nói, anh đã thấy khía cạnh đó của Brenda. Giờ anh hãy nhìn khía cạnh của em đi. Em không ưa loại phụ nữ trẻ tạo ra câu chuyện bất hạnh và nhờ đó mà lấy một ông già giàu có. Em hoàn toàn có lý khi không ưa loại đàn bà trẻ đó và không có lý do nào trên đời này khiến em giả bộ làm khác đi. Nếu các sự kiện đó được viết ra trên giấy một cách khách quan, anh sẽ không ưa người đàn bà trẻ đó tí nào.” “Câu chuyện đó là bịa đặt?” tôi hỏi. “Chuyện chàng trai à? Em không biết. Cá nhân em, em nghĩ thế.” “Và em công phẫn chuyện ông em mắc mưu?” “Ông em không mắc mưu đâu,” Sophia cười to. “Ông em không bao giờ mắc mưu ai. Ông muốn có bà Brenda. Ông muốn đóng vai vua Cophetua với cô hầu nghèo[3]. Ông rất biết mình đang làm gì và thành công mỹ mãn theo kế hoạch. Theo quan điểm của ông, hôn nhân là một thành công trọn vẹn – giống như các hoạt động khác của ông.” “Có phải ký hợp đồng với Laurence Brown làm gia sư là một thắng lợi khác của ông em không?” tôi hỏi một cách mỉa mai. Sophia cau mày. “Anh biết không, em không chắc có phải thế không. Ông muốn cho Brenda vui và hạnh phúc. Ông cho rằng nữ trang và quần áo là không đủ. Không chừng ông đã nghĩ bà ta muốn có một sự lãng mạn dịu dàng trong cuộc sống. Có thể ông cho rằng một kẻ như Laurence Brown, một kẻ thật sự dễ bảo, nếu như anh hiểu ý em, là đúng người để thực hiện trò lừa đó. Một tình bạn đẹp nặng về tâm hồn cùng với sự u buồn sẽ khiến cho Brenda không có quan hệ thật sự với ai khác bên ngoài. Lẽ ra em không nên để cho ông làm những việc như thế. Nội em là một ông già quái gở, anh biết đấy.” “Hẳn là thế,” tôi nói. “Dĩ nhiên, ông không thể thấy trước điều đó đưa ông ông đến cái chết… Và cũng chính vì đó,” giọng Sophia sôi nổi hẳn lên, “mà em, dù rất muốn, thật sự không tin bà ấy làm thế. Nếu bà ấy lập kế hoạch giết ông – hay cả hai, Brenda và Laurence, cùng lập kế hoạch – thì ông em phải biết rồi. Em dám chắc là với anh điều đó có vẻ hơi cường điệu…” “Anh phải công nhận là đúng,” tôi nói. “Anh không hiểu ông. Ông chắc chắn không nhắm mắt làm ngơ kẻ giết hại ông! Do đó các anh đến đây! Đụng một bức tường trống rỗng.” “Bà ấy hoảng sợ, Sophia à,” tôi nói. “Bà ấy rất sợ.” “Chánh thanh tra Taverner và những tay chân lừng danh? Vâng, em dám nói họ hơi hoảng. Em cho rằng Laurence bị mất kiểm soát?” “Anh nghĩ, trên thực tế, anh ta tỏ ra hổ thẹn về bản thân. Anh không hiểu cớ sao một người đàn bà lại phải lòng người như anh ta.” “Còn anh thấy sao, Charles? Thực ra Laurence rất gợi tình.” “Một kẻ yếu đuối,” tôi nói một cách ngờ vực. “Tại sao đàn ông lúc nào cũng nghĩ rằng người hang động mới là kiểu hấp dẫn phái nữ? Laurence đúng là gợi tình – nhưng em không nghĩ anh nhận ra điều đó.” Nàng nhìn tôi. “Brenda đã làm anh xiêu lòng hoàn toàn.” “Đừng nghĩ bậy. Bà ta thật sự còn không dễ nhìn. Và chắc chắn bà ấy…” “Phô diễn sức quyến rũ ư? Không đâu, bà ấy chỉ muốn làm anh thương hại. Bà ấy không thật sự đẹp, không một chút tinh tế – nhưng có một tính cách rất khác thường. Bà ấy gây trở ngại, đã gây trở ngại giữa em và anh.” “Sophia!” tôi kêu hoảng. Sophia đi ra cửa. “Thôi quên đi, anh Charles. Em phải đi lo bữa ăn trưa.” “Anh đến giúp em.” “Không, anh ở lại đây. Có “quý ông trong bếp” sẽ làm cho Nannie lúng túng.” “Sophia,” tôi gọi, khi nàng đi ra. “Vâng, gì thế?” “Chỉ là vấn đề về người làm. Tại sao em không có người hầu nào ở bên dưới và trên này mang tạp dề và đội mũ mở cửa cho chúng ta?” “Ông có người nấu ăn, người dọn nhà, người phục vụ bàn, người hầu phòng. Ông thích có nhiều người làm. Ông trả lương cao và ông có người ăn kẻ ở. Clemency và Roger có một người làm công nhật đến lau chùi. Họ không thích có người làm – Clemency không thích thì đúng hơn. Nếu hàng ngày bác Roger không có bữa ăn ngon lành trong thành phố, thì bác ấy chết đói rồi. Bữa ăn lý tưởng của bác Clemency là rau diếp, cà chua và cà rốt tươi. Nhà em đôi khi cũng có người làm nhưng mẹ có lúc nổi cơn, thế là họ bỏ đi. Nhà em cũng có người làm công nhật nhưng rồi cũng đâu vào đấy. Nannie là người ở thường trực, bà lo mọi việc cần thiết. Giờ anh biết rồi đó.” Sophia đi ra. Tôi thả người xuống chiếc ghế dựa rộng lớn có bọc vải thêu kim tuyến và bắt đầu suy nghĩ. Ở trên lầu, tôi đã nhìn thấy một khía cạnh của bà Brenda. Giờ đây tại chỗ này tôi lại thấy một khía cạnh của Sophia. Tôi hoàn toàn thấu hiểu quan điểm của Sophia – có thể gọi là quan điểm của gia đình Leonides. Họ thù ghét một người lạ mà họ cho là lọt vào nhà họ bằng phương cách đê tiện. Họ hoàn toàn có quyền đó. Như Sophia đã nói: trên giấy tờ trông chẳng hay… Nhưng còn có khía cạnh con người – khía cạnh tôi thấy mà họ không thấy. Họ đã, họ đã luôn luôn giàu sang và rất có tiếng tăm. Họ không có khái niệm về sự cám dỗ với kẻ yếu thế. Brenda Leonides ham muốn giàu sang, những của cải quý giá, sự an toàn – và một ngôi nhà. Bà nói rằng đổi lại, bà đã làm cho ông chồng già hạnh phúc. Tôi thông cảm với bà ta. Chắc chắn, trong lúc nói chuyện với bà, tôi đã thấy thông cảm cho bà… Giờ phải chăng tôi thông cảm nhiều hơn? Hai mặt của vấn đề – hai góc nhìn khác nhau – đâu là góc nhìn đúng… góc nhìn đúng… Đêm qua tôi ngủ rất ít. Tôi dậy sớm để đi cùng với Taverner. Giờ đây, bên trong phòng khách ấm cúng, thoang thoảng mùi hoa của bà Magda Leonides, cơ thể tôi thả lỏng bên trong cái ghế dựa lớn có đệm êm, mí mắt tôi sụp xuống… Nghĩ đến Brenda, đến Sophia, đến bức chân dung của ông lão, các ý tưởng của tôi trôi vào một bức màn sương đẹp đẽ. Tôi ngủ thiếp đi… 10 Tôi trở lại với ý thức một cách từ từ đến mức thoạt tiên không nhận ra mình đã ngủ quên. Hương hoa thoang thoảng trong mũi tôi. Trước mặt tôi một vật trắng tròn hiện ra trong không gian. Chỉ trong vòng vài giây tôi nhận ra đó là một gương mặt người – một gương mặt cách mặt tôi khoảng chừng non một mét. Khi giác quan tôi trở lại, cái nhìn của tôi chính xác hơn. Gương mặt tạo một cảm giác ghê ghê – gương mặt tròn với lông mày cong, mái tóc chải ra sau, đôi mắt đen, tròn nhỏ. Điều đáng quan tâm là cơ thể – một tấm thân xương xẩu, nhỏ bé. Nó đang chăm chú nhìn tôi hết sức nghiêm túc. “Chào,” nó nói. “Chào,” tôi chớp chớp mắt, trả lời. “Em là Josephine.” Tôi đã đoán ra rồi. Đây là Josephine, em gái của Sophia. Tôi đoán cô bé khoảng độ mười một, mười hai tuổi. Cô bé là một đứa trẻ cực xấu xí rất giống ông nội cô. Tôi thầm nghĩ có thể cô bé có bộ óc giống ông nội. “Anh là người yêu của chị Sophia,” Josephine nói. Tôi thừa nhận câu nhận xét không sai của cô bé. “Nhưng anh đến đây với Chánh thanh tra Taverner. Tại sao anh đến đây với Chánh thanh tra Taverner?” “Ông ấy là bạn của anh.” “Thật không? Em không thích ông ấy. Em sẽ không nói gì với ông ấy hết.” “Những việc gì?” “Những việc mà em biết. Em biết rất nhiều việc. Em thích biết nhiều việc.” Cô ngồi lên thành ghế dựa và tiếp tục săm soi tìm hiểu gương mặt tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu. “Ông nội bị giết, anh biết chứ?” “Đúng,” tôi đáp, “anh biết.” “Ông bị đầu độc. Với e-se-rine.” Con bé phát âm cẩn thận từng từ một. “Hấp dẫn đấy chứ?” “Anh cho rằng thế.” “Eustace và em rất quan tâm. Chúng em thích truyện trinh thám. Em luôn muốn trở thành thám tử. Giờ em đang làm thám tử. Em đang thu thập manh mối.” Tôi cảm thấy cô bé là một đứa trẻ táo tợn. Josephine quay lại vấn đề: “Người đi theo chánh thanh tra cũng là một thám tử, phải không? Sách viết người ta có thể nhận biết trang phục của thám tử qua đôi giày ống. Nhưng tay thám tử đó lại mang giày da.” “Kiểu cũ đó thay đổi rồi,” tôi nói. Josephine diễn dịch câu nói đó theo suy nghĩ riêng của con bé. “Đúng,” nó nói, “giờ em hy vọng sẽ có nhiều sự thay đổi ở nơi đây. Chúng em sẽ đi và sống trong ngôi nhà ở London nằm trên Đường Đê. Mẹ em đã ao ước từ lâu. Mẹ sẽ rất vui. Em không hy vọng cha sẽ phiền nếu số sách của cha có cùng đi được không. Cha không có đủ tiền để làm chuyện ấy. Cha đã mất rất nhiều tiền cho Jezebel[4].” “Jezebel?” tôi hỏi “Đúng, anh có xem vở kịch đó chưa?” “Ồ, đó là một vở kịch sao? Anh chưa xem. Anh đã ở nước ngoài.” “Vở không diễn được lâu. Thực sự đó là một vở thất bại tệ hại nhất. Em không nghĩ mẹ em thật sự là người thích hợp diễn vai Jezebel, phải không anh?” Tôi đối chiếu các cảm tưởng của tôi về Magda. Không phải cái váy ngủ màu hoa đào cũng không phải chiếc áo vét may khéo đã khiến tôi nghĩ tới Jezebel, nhưng tôi sẵn lòng tin rằng có một Magda khác mà tôi chưa nhìn ra. “Có lẽ không hợp,” tôi nói thận trọng. “Ông nội luôn nói vở đó sẽ thất bại thảm hại. Ông bảo ông không thể bỏ tiền vào một trong những vở kịch lịch sử tôn giáo. Ông nói vở diễn sẽ không bao giờ là một thành công phòng vé. Nhưng mẹ lại hào hứng phát sợ. Bản thân em cũng không thích cho lắm. Vở kịch chỉ giống một tí với câu chuyện trong Kinh Thánh. Ý em là, Jezebel không xấu xa như trong Kinh Thánh. Bà ta yêu nước và thật sự hoàn toàn đứng đắn. Kinh Thánh đã đổi trắng thay đen. Đoạn kết thì được. Họ ném bà ra ngoài cửa sổ. Có điều không một con chó nào đến ăn thịt bà. Em nghĩ đó là một sự thương hại, phải không? Em thích đoạn bọn chó ăn thịt bà ta hơn cả. Mẹ nói không thể đem chó lên sân khấu nhưng em không hiểu tại sao. Có thể có chó diễn xuất mà.” Con nhỏ đọc to, tràn đầy nhiệt tình: “Và bọn chúng ăn hết cơ thể bà ngoại trừ hai lòng bàn tay.” “Tại sao chúng không ăn hai lòng bàn tay?” “Anh thật sự không biết.” “Anh không chịu nghĩ, bọn chó đó rất đặc biệt. Bọn chó của chúng em thì không. Chúng ăn mọi thứ.” Josephine suy nghĩ vài giây về sự khó hiểu trong Kinh Thánh. “Anh rất tiếc về việc vở kịch thất bại,” tôi nói. “Vâng. Mẹ đau khổ khủng khiếp. Các thông báo thực là đáng sợ. Khi mẹ đọc chúng, mẹ bật khóc và khóc suốt cả ngày và ném khay điểm tâm vào Gladys vì Gladys đưa cho mẹ bản thông báo. Thật là hết biết!” “Josephine, anh thấy em thích kịch tính,” tôi nói. “Họ đã cho khám nghiệm tử thi ông nội,” Josephine nói. “Phát hiện ông chết vì A.P.M.,họ gọi thế, nhưng em thấy khó hiểu quá, phải không anh? Vì P.M. có nghĩa thủ tướng và buổi chiều[5],” cô bé trầm ngâm. “Em có buồn vì ông chết không?” tôi hỏi. “Không nhiều lắm. Em không mấy thích ông. Ông ngăn không cho em đi học múa ballet.” “Em thích học múa ballet?” “Vâng, mẹ muốn cho em học, cha thì không quan tâm, nhưng ông bảo em không có khiếu.” Cô bé tụt xuống khỏi thành ghế, đá văng đôi giày ra, đoạn cố gắng làm động tác gọi là kỹ thuật, tôi tin thế, đứng trên đầu các ngón chân. “Dĩ nhiên, phải có đôi giày thích hợp,” cô bé giải thích, “và đôi khi phải chịu đau tê cứng các đầu ngón chân.” Cô bé mang giày trở vào và hờ hững hỏi: “Anh thích ngôi nhà này?” “Anh không chắc lắm,” tôi đáp. “Em giả sử nó bị bán đi ngay lúc này. Trừ khi bà Brenda tiếp tục sống ở đây. Mà em cho rằng hai bác Roger và Clemency sẽ không đi ngay.” “Họ sắp đi à?” tôi hỏi với một chút quan tâm mơ hồ dấy lên. “Vâng. Họ sẽ đi vào thứ ba. Đi đâu đó ở nước ngoài. Đi bằng máy bay. Bác Clemency đã mua một cái vali gọn nhẹ mới.” “Anh không nghe chuyện họ sắp đi nước ngoài.” “Đúng rồi,” Josephine nói. “Không ai biết cả. Đó là bí mật. Họ không nói cho ai biết cho đến khi họ đã ra đi. Họ sẽ gửi lại cho ông giấy báo tin.” Cô bé nói thêm: “Không phải là cài thư lên gối đâu. Đó là cách làm xưa cũ trong sách và các bà vợ làm khi họ bỏ chồng. Giờ thì không ai làm cái cách ngốc nghếch đó nữa.” “Dĩ nhiên họ sẽ không làm thế, Josephine, em có biết tại sao bác Roger – lại ra đi?” Cô bé liếc tôi một cái ranh mãnh. “Em nghĩ em biết. Đã xảy ra việc gì đó tại văn phòng của bác Roger ở London. Em nghĩ – nhưng em không chắc lắm – bác ấy đã biển thủ cái gì ấy.” “Điều gì khiến em nghĩ thế?” Josephine đến gần tôi hơn và tôi nghe hơi thở mạnh phả vào mặt tôi. “Vào ngày ông bị đầu độc, bác Roger vào phòng ông rất lâu. Ông và bác nói với nhau nhiều, nhiều lắm. Và bác Roger nói bác không hề là người tốt, bác làm ông thất vọng – và rằng không phải là vì số tiền quá nhiều – mà là bác cảm thấy bác không đáng tin cậy. Bác đang trong tình trạng tồi tệ.” Tôi nhìn Josephine với những cảm giác lẫn lộn. “Josephine này,” tôi nói, “có ai bảo cho em biết rằng đứng ngoài cửa nghe lén là không tốt chưa?” Josephine gật đầu lia lịa: “Dĩ nhiên là có chứ. Nhưng nếu như anh muốn tìm biết điều gì, anh phải nghe lén ngoài cửa. Em cá ông Chánh thanh tra Taverner cũng làm thế, phải không?” Tôi thừa nhận điều đó. Josephine hăng hái nói tiếp: “Mà cho dù, nếu ông ta không làm thế, cũng có người khác làm, người mang đôi giày da. Họ lục tìm trên bàn của người ta, đọc các thư từ, phát hiện mọi bí ẩn. Chỉ có điều họ thật là ngốc. Họ không biết cần tìm ở nơi nào!” Josephine nói với vẻ bề trên lạnh lùng. Tôi cũng ngốc chẳng kém khi để sổng mất khả năng suy luận. Con nhỏ khó chịu đó tiếp tục nói: “Eustace và em biết rất nhiều chuyện – nhưng em biết nhiều hơn Eustace. Và em không nói cho anh ấy biết. Eustace bảo phụ nữ không bao giờ là thám tử tài ba. Nhưng em bảo em có thể. Em sẽ viết mọi thứ trong sổ tay và sau đó, nếu cảnh sát hoàn toàn bí lối, em sẽ ra mặt và nói: ‘Tôi có thể nói cho các ông biết ai đã làm việc đó.’” “Josephine, có phải em đọc rất nhiều sách trinh thám?” “Hằng khối.” “Anh cho rằng em nghĩ em biết ai giết ông em?” “Vâng, em nghĩ thế – nhưng em sẽ phải tìm thêm ít nhiều manh mối nữa.” Con bé dừng lại rồi nói: “Chánh thanh tra Taverner cho rằng bà Brenda làm việc đó, đúng không? Hay cả Brenda và Laurence cùng làm vì họ yêu nhau.” “Josephine, em không nên nói thế.” “Tại sao không? Hai người đó yêu nhau.” “Em không thể suy đoán.” “Em có thể đấy. Họ đã viết thư cho nhau. Những bức thư tình.” “Josephine, làm sao em biết?” “Bởi vì em đã đọc chúng. Những bức thư mùi mẫn. Nhưng Laurence là kẻ yếu đuối. Y sợ ra trận chiến đấu. Y chui xuống các tầng hầm và đun thùng nước. Khi máy bay thả bom bay qua đây, mặt y xanh như tàu lá – xanh lè luôn. Eustace và em cười hết biết.” Sau đó tôi không nhớ mình nói tiếp gì, vì vào lúc đó, một chiếc xe hơi trờ đến bên ngoài. Josephine nhanh như chớp chạy tới bên cửa sổ, cái mũi hếch của con bé áp sát khung kính. “Ai vậy?” tôi hỏi. “Ông Gaitskill, luật sư của nội. Em cho rằng ông ấy đến vì tờ di chúc.” Con bé hồi hộp thở, bỏ chạy ra khỏi phòng, có lẽ để thực hiện các hoạt động trinh thám của nó. Magda Leonides bước vào phòng, và trước sự sững sờ ngạc nhiên của tôi, bà đến bên tôi và nắm lấy tay tôi. “Cám ơn Chúa cậu còn ở đây,” bà nói, “Rất cần sự có mặt của một người đàn ông.” Bà buông tay tôi, bước ngang qua một chiếc ghế lưng tựa cao, chỉnh lại cái ghế một tí, liếc nhìn mình trong gương, sau đó cầm lên một cái hộp tráng men pháp lam vùng Battersea đang để trên bàn, bà đứng đó mở hộp ra rồi đóng lại một cách trầm ngâm. Dáng đứng của bà trông thật đẹp mắt. Sophia thò đầu vào cửa, thì thào giọng cảnh báo, “Gaitskill!” “Mẹ biết.” Lát sau, Sophia vào phòng, theo sau là một người lớn tuổi, nhỏ bé, bà Magda đặt cái hộp tráng men xuống và đi tới để chào đón ông ta. “Xin chào, bà Philip. Tôi vừa mới đến. Hình như có vài sự hiểu lầm về bản di chúc. Chồng bà đã viết thư có đóng dấu gửi cho tôi nói rằng tôi giữ bản di chúc. Nhưng qua ông Leonides tôi biết di chúc được cất trong hầm ngầm của ông ấy. Tôi cho rằng bà không biết gì cả về chuyện ấy?” “Về di chúc của ông già khốn khổ?” Magda mở to đôi mắt ngạc nhiên. “Không, dĩ nhiên là không. Đừng nói với tôi là mụ đàn bà quỷ quái ở trên đó đã hủy nó rồi đấy chứ?” “Bà Philip,” – ông đưa một ngón tay chỉ vào bà – “đừng phỏng đoán nữa. Vấn đề chủ yếu là tìm nơi cha chồng của bà cất nó.” “Nhưng ông ấy đã đưa cho ông – chắc chắn như thế – sau khi ký tên. Ông đã nói với chúng tôi như vậy.” “Theo chỗ tôi biết, cảnh sát đã có những ‘giấy tờ riêng tư’ của ông Leonides,” ông Gaitskill nói. “Tôi phải đi trao đổi đôi lời với Chánh thanh tra Taverner.” Ông rời phòng. “Con gái ơi,” Magda la lên. “Ả đã hủy nó. Mẹ biết mẹ nói đúng mà.” “Không đâu, mẹ, bà ấy không làm một việc khờ dại như thế đâu.” “Không có gì là khờ dại cả. Nếu không có di chúc, ả sẽ có tất cả.” “Suỵt – ông Gaitskill trở lại kìa.” Luật sư trở vào phòng. Chánh thanh tra Taverner đi cùng ông, theo sau là ông Philip. Gaitskill đang nói: “Tôi hiểu ông Leonides. Ông ấy đã để di chúc trong ngân hàng cho an toàn.” Taverner lắc đầu. “Tôi đã liên hệ với ngân hàng. Họ không có giữ giấy tờ riêng tư gì của ông Leonides ngoại trừ một số chứng khoán.” Ông Philip nói: “Tôi tự hỏi có phải Roger – hay dì Edith… Sophia, con gọi họ xuống đây.” Roger Leonides cùng với mọi người trong gia đình được mời đến họp. “Nhưng thật vô lý – tuyệt đối vô lý,” ông Roger nói. “Cha đã ký vào di chúc và nói rõ ông gửi bưu điện cho ông Gaitskill vào ngày hôm sau.” “Nếu tôi nhớ không lầm,” ông Gaitskill nói, ngả người ra sau và lim dim mắt, “đó là ngày 24 tháng 11 năm rồi, tôi đã soạn một bản thảo theo chỉ thị của ông Leonides. Ông chấp nhận bản thảo và trả lại cho tôi, và trong một thời gian ngắn, tôi gửi ông bản di chúc để ông ký. Khoảng độ một tuần sau, tôi đánh liều nhắc ông tôi chưa nhận được bản di chúc có ký tên và công chứng, tôi hỏi ông có điều gì cần thay đổi không. Ông trả lời ông hoàn toàn hài lòng và nói rằng sau khi ký di chúc ông sẽ gửi vào ngân hàng của ông.” “Hoàn toàn đúng,” ông Roger hăng hái nói. “Cuối tháng 11 năm rồi – Philip, chú nhớ không? Cha đã triệu tập tất cả chúng ta và đọc cho chúng ta nghe bản di chúc.” Taverner quay sang Philip Leonides. “Có đúng với những gì ông nhớ không, ông Leonides?” “Đúng,” Philip đáp. “Giống vở kịch Voysey Inheritance[6]quá vậy,” bà Magda nói. Bà thở dài thích chí. “Tôi luôn nghĩ có cái gì không ổn về bản di chúc mà.” “Cô Sophia?” “Vâng, tôi nhớ rõ ràng,” Sophia đáp. “Vậy các điều khoản của bản di chúc đó là gì?” Taverner hỏi. Ông Gaitskill sắp trả lời theo kiểu cách chính xác của ông, thì Roger Leonides đã nói trước. “Đó là một di chúc hoàn toàn đơn giản. Electra và Joyce đã chết, phần tài sản được chia trả về cha. Con trai của Joyce, William, chết trận ở Burma, tiền thừa kế trả về cha của nó. Philip và tôi và các con là những người thân thuộc duy nhất còn sống. Cha đã giải quyết vấn đề này. Ông để 50 ngàn bảng không chịu thuế cho dì Edith, 100 ngàn bảng không chịu thuế cho bà Brenda, ngôi nhà này hay mua một ngôi nhà vừa phải tại London cho bà Brenda tùy bà lựa chọn. Số còn lại chia làm ba phần, một cho tôi, một cho Philip, phần thứ ba chia cho Sophia, Eustace và Josephine, các phần dành cho hai đứa sau được gửi bảo hiểm cho đến lúc chúng trưởng thành. Tôi nghĩ tôi nói đúng, phải không ông Gaitskill?” “Đó chính là – gần như đúng – các điều khoản của văn kiện tôi đã phác thảo,” Gaitskill thừa nhận, giọng tỏ ra hơi khó chịu vì không được tự nói. “Cha đọc cho chúng tôi nghe,” Roger nói tiếp. “Cha hỏi chúng tôi có ý kiến gì không. Dĩ nhiên không ai có ý kiến gì.” “Bà Brenda có ý kiến,” bà dì de Haviland nói. “Đúng,” bà Magda sôi nổi nói. “Bà ấy bảo bà không chịu nổi việc ông chồng già thân yêu của bà nói đến cái chết. Bà bảo ‘rợn hết cả người’. Và sau khi ông ấy lìa trần, bà không muốn có tí gì trong số tiền kinh khiếp ấy cả.” Bà dì de Haviland nói: “Đó là cách nói từ chối kiểu cọ của tầng lớp bà ta.” Một lời nhận xét châm chọc và thô bạo! Tôi chợt nhận ra Edith de Haviland không ưa bà Brenda đến cỡ nào. Gaitskill đánh lảng: “Một sự phân bố cân bằng và hợp lý tài sản của ông ấy.” “Sau khi đọc xong di chúc, điều gì đã xảy ra?” Chánh thanh tra Taverner hỏi. Roger nói: “Sau khi đọc xong, cha ký tên.” Taverner nghiêng mình tới trước. “Như thế nào và khi nào ông ấy ký di chúc?” Ông Roger nhìn vợ như nhờ vợ trả lời. Bà Clemency đáp trả cái nhìn của ông. Tất cả những người còn lại trong gia đình dường như bằng lòng để bà trả lời. “Ngài muốn biết chính xác ký ở đâu?” “Nếu bà vui lòng, bà Roger.” “Cha chồng tôi để di chúc lên bàn và bảo một người trong chúng tôi – Roger, nếu em nhớ không lầm – nhấn chuông. Roger vâng lời. Khi Johnson nghe chuông chạy đến, cha chồng bảo y đi tìm Janet Wolmer, cô hầu bàn ăn. Khi cả hai có mặt tại đây, ông ký di chúc và bảo hai người đó ký tên họ bên dưới chữ ký của ông.” “Thật đúng thủ tục,” Gaitskill nói. “Một di chúc do người để lại di chúc ký phải có mặt hai nhân chứng. Họ phải cùng ký với người để lại di chúc cùng chỗ và cùng lúc.” “Và sau đó?” Taverner hỏi. “Cha chồng tôi cám ơn họ, và họ đi ra ngoài. Cha chồng tôi cầm tờ di chúc lên, bỏ vào một phong bì lớn và nói sẽ gửi cho ông Gaitskill vào ngày hôm sau.” Chánh thanh tra Taverner nhìn chung quanh nói: “Tất cả mọi người đồng ý vụ việc đã xảy ra chính xác như thế?” Có tiếng thì thầm đồng ý. “Di chúc nằm trên bàn, ông nói thế. Có ai đứng gần bàn không?” “Không ai đứng quá gần. Gần nhất, có lẽ, khoảng 5 hay 6 thước[7].” “Khi ông Leonides đọc chúc thư, ông ấy ngồi tại bàn?” “Vâng.” “Ông ấy có đứng dậy hay rời khỏi bàn sau khi đọc chúc thư và trước khi ký tên?” “Không.” “Hai người làm có đọc chúc thư khi họ ký tên?” “Không,” Clemency đáp. “Cha chồng tôi để một tờ giấy lên trên phần nội dung của di chúc.” “Hoàn toàn đúng,” Philip nói. “Nội dung của di chúc không liên quan chi đến người làm.” “Tôi biết,” Taverner nói. “Nhưng – tôi không hiểu.” Bằng một động tác cực nhanh, anh lấy ra một phong bì dài, nghiêng người đưa cho ông luật sư. “Ông hãy đọc cái này,” anh nói. “Và cho tôi biết đó là cái gì.” Ông Gaitskill rút tài liệu ra khỏi phong bì. Ông đọc nó với sự ngạc nhiên dữ dội, đôi tay ông xoay qua xoay lại bản tài liệu. “Cái này,” ông nói, “thật đáng ngạc nhiên. Tôi không hiểu gì hết. Tôi xin phép hỏi: nó ở đâu ra vậy?” “Trong két sắt, giữa ‘các giấy tờ khác’ của ông Leonides.” “Nhưng đó là cái gì vậy?” Roger hỏi. “Chuyện gì mà ầm ĩ thế?” “Roger, đây là bản di chúc tôi soạn cho cha ông ký – nhưng – sau khi mọi người đều nói ông đã ký thì tôi không thể hiểu tại sao bản này – không có """