🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ngôi Nhà Nhỏ Trên Thảo Nguyên - Tập 7
Ebooks
Nhóm Zalo
Thò traán nhoû treân thaûo nguyeân
Tên Ebook: Thị Trấn nhỏ trên Thảo Nguyên
Bộ sách: Ngôi nhà nhỏ trên Thảo Nguyên (tập 7)
Tác Giả: Laura Ingalls Wilder
Thể Loại: Tiểu thuyết, Sách hay, Văn học phương Tây
Dịch Giả: Lạc Việt
Đánh Máy: chunhocnhoxiu
Nguồn: vnthuquan.net
Ebook: daotieuvu.blogspot.com
Ebook được blog Đào Tiểu Vũ hoàn thành với mục đích phi thương mại, nhằm chia sẻ với những bạn ở xa hoặc không có điều kiện mua sách, khi sao lưu xin ghi rõ nguồn.
Trong điều kiện có thể bạn hãy mua sách để ủng hộ nhà xuất bản và tác giả.
Mục lục:
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25
Chương 1
CHUYỆN BẤT NGỜ
Một buổi tối trong bữa ăn, Bố hỏi:
- Con thấy việc đi làm ở thị trấn thế nào, Laura?
Laura không thể lên tiếng. Những người khác cũng vậy. Tất cả ngồi giốngnhư bị tê cứng. Những con mắt xanh lơ của Grace mở lớn nhìn qua cạnh chiếc ly thiếc, hàm răngCarrie khựng lại trong lúc đang cắn một mẩu bánh, còn bàn tay đang cầm nĩa của Mary không hạ xuống nổi. Vòi nước từ bình trà trong tay Mẹ tiếp tục chảy xuống chiếc ly của Bố đã đầy tràn. Mẹ lật đật đặt chiếc bình xuống, hỏi: - Anh nói gì, Charles?
Bố đáp:
- Anh hỏi Laura nghĩ thế nào về việc có một việc làm ở thị trấn? Mẹ nói:
- Một việc làm? Cho một đứa con gái? Ở thị trấn? Sao, loại việc làm gì…
Rồi Mẹ nói thật nhanh:
- Không, Charles, em không chịu để Laura đi làm ở một khách sạn giữa đủ loại người lạ đâu.
- Ai nói về một việc làm như vậy? Không một đứa con gái nào của mình sẽ làm công việc đó khi mà anh chưa chết.
Mẹ tỏ vẻ ân hận:
- Dĩ nhiên là không rồi. Chỉ do anh khiến em bị bất ngờ quá. Nhưng ở đó còn có loại công việc nào khác? Và, Laura còn chưa đủ tuổi để đi dạy học mà.
Trong một thoáng trước khi Bố giải thích, Laura nghĩ tới thị trấn và
nghĩ tới ngôi nhà trại, nơi mà tất cả đang bận rộn tíu tít nhưng đầy hạnh phúc trong những ngày xuân này và cô không muốn có một sự thay đổi nào. Cô không muốn có một thay đổi nào. Cô không muốn đi làm ở thị trấn
Chương 2
MÙA XUÂN TRÊN ĐẤT TRẠI
Sau trận bão tuyết tháng Mười vào mùa thu vừa qua, cả nhà phải tạm dời về sống trong thị trấn và tại đó Laura đã có một thời gian ngắn được tới trường. Rồi lớp học lại ngưng ngang do bão và trọn mùa đông dài thăm thẳm đó, bão tuyết gào hú giữa những ngôi nhà
đóng kín im ỉm đến nỗi không có một âm thanh, một tia sáng nào lọt qua nổi màn tuyết quay cuồng.
Trọn mùa đông dài, cả nhà gom lại trong khu bếp nhỏ, đói lạnh nhưng vẫn quần quật làm việc trong tối tăm giá buốt, cố bện đủ lượng cỏkhô để giữ cho ngọn lửa cháy đều và nghiền bột miệt mài bằng chiếc cối xay cà phê để có bánh ăn hàng ngày. Trọn mùa đông dài thật dài đó, hy vọng duy nhất của mọi người chỉ là chờ tới lúc mùa đông sẽ chấm dứt, những cơn bão tuyết sẽ ngưng, nắng ấm trở lại và cả nhà sẽ cùng nhau rời thị trấn để trở về với ngôi nhà trên đất trại.
Bây giờ mùa xuân đã tới. Đồng cỏ vùng Dakota đã trải dài ấm áp và quang đãng dưới ánh mặt trời tựa hồ chưa từng bị dập vùi dưới gió bão và tuyết giá của mùa đông ác liệt kia.
Tuyệt diệu biết chừng nào khi lại được sống trên mảnh đất trại. Laura không còn muốn một điều gì khác hơn là được đứng giữa vùng đồng trống. Cô cảm thấy không bao giờ nắng thấm đủ nổi vào người cô.
Mỗi buổi bình minh, khi cô ra giếng nước bên bờ đầm để kéo đầy xô nước trong cho buổi sáng, mặt trời đều đang vươn lên với những màu sắc chói lòa. Bầy chiền chiện đồng từ những lùm cỏ còn ướt đẫm sương đêm cất cánh bay lên líu lo ca hót. Lũ thỏ rừng nhảy
nhót bên những lối đi với những con mắt long lanh nhìn ngó và những chiếc tai dài co giật khi chúng khẽ nhấm nháp những cọng cỏ non mềm mại. Laura chỉ dừng lại trong căn lều đủ để đặt xô nước xuống và chộp lấy chiếc xô sữa. Cô chạy lao ngay xuống sườn dốc có con bò cái Ellen đang mải miết gặm đám cỏ ngọt ngào. Trong lúc Ellen lặng lẽ nhai lại thức ăn trong miệng, Laura vắt sữa nó. Hương thơm của những tia sữa mới nóng hổi ngọt ngào xịt ra ngầu bọt hòa lẫn với đủ loại hương thơm của mùa xuân. Bàn chân trần của Laura ướt lạnh trong lớp cỏ đẫm sương nhưng nắng sưởi ấm trên cổ cô và má cô ấm hơn nữa nhờ áp sát một bên sườn Ellen. Trong chiếc cọc buộc dành riêng, con bê nhỏ, con của Ellen, be be kêu lên một cách lo ngại và Ellen đáp lại bằng một tiếng “bòò” êm ả. Khi đã vắt cạn những giọt sữa cuối cùng, Laura kéo lê chiếc xô sữa về lều. Mẹ đổ một ít sữa mới còn ấm vào chiếc xô dành cho con bê. Số sữa còn lại, Mẹ lọc qua một tấm vải trắng sạch vào các chảo đựng sữa bằng thiếc cho Laura cẩn thận mang xuống hầm chứa trong lúc Mẹ gạn lớp kem dầy ra khỏi chỗ sữa tối hôm trước. Rồi Mẹ trút chỗ sữa đã được gạn kem vào chiếc xô dành cho con bê và Laura mang tới cho con vật nhỏ đang đói bụng.
Dạy cho con bê cách uống sữa không phải dễ dàng nhưng là điều rất thú vị. Con bê con đứng còn chưa vững vẫn biết chắc ngay từ lúc mới sinh ra là phải húc mạnh chiếc đầu nhỏ màu đỏ của nó để bú sữa. Cho nên, khi vừa ngửi thấy mùa sữa trong xô là nó lập tức húc mạnh chiếc xô. Laura phải cố
giữ không cho sữa đổ tràn ra và dạy cho con bê biết cách uống sữa như thế nào. Cô nhúng mấy ngón tay vào trong sữa và con bê liếm với chiếc lưỡi thô nhám trong lúc cô khẽ hướng cho chiếc mũi của nó hạ thấp xuống tới mức sữa trong xô. Thình lình con bê hít sữa thẳng vào mũi nên bị sặc và phì ra một hơi mạnh đến nỗi sữa văng
tóe khỏi xô, rồi nó húc mạnh đầu vào trong sữa. Nó húc mạnh đến nỗi chiếc xô suýt bật khỏi tay Laura. Một lớp sóng sữa phủ kín đầu con bê và vạt áo trước của Laura bị sữa văng ướt đẫm.
Thế là Laura lại kiên nhẫn bắt đầu trở lại, nhúng mấy ngón tay cho con bê mút, cố giữ sữa trong xô và dạy cho nó cách uống. Cuối cùng, con vật đã uống được chút ít.
Sau đó, Laura nhổ những chiếc cọc buộc lên. Cô lần lượt dắt Ellen, rồi con bê con và con bê gần hai tuổi tới những khu có bóng mát trên bãi cỏ tươi mềm. Cô đóng sâu những chiếc cọc buộc xuống đất. Lúc này mặt trời đã vươn lên tròn đầy, khắp bầu trời xanh thẫm và trên mặt đất, những gợn sóng cỏ
chập chờn trong gió. Và, có tiếng Mẹđang gọi:
- Mau lên, Laura! Bữa sáng đang chờ đó!
Trở lại lều, Laura vội vã rửa mặt và tay trong thau nước. Cô đổ nước thành một dòng lấp lánh trên cỏ
ở nơi mà ánh nắng sẽ mau chóng hun khô. Cô cào sơ chiếc lược qua mái tóc và khắp trên đầu với búi tóc thả lỏng. Không thể có thời giờ trước bữa ăn sáng để lo cho mái tóc dài, chải chuốt kỹ và kết bím lại. Cô chỉ làm được khi công việc buổi sáng đã hoàn tất. Ngồi vào chỗ của mình bên cạnh Mary, cô nhìn qua tấm khăn bàn carô màu đỏ, những chiếc đĩa sáng bóng của Carrie, Grace và những mắt long lanh trên gương mặt rửa xà phòng sáng rỡ của mấy cô bé. Cô ngắm Bố và Mẹ đang vui vẻ mỉm cười. Cô cảm thấy gió buổi sáng thật dịu dàng đang lùa qua những khuôn cửa mở rộng và cô khẽ thở dài.
Bố nhìn cô như biết rõ mọi ý nghĩ của cô. Bố nói:
- Theo Bố nghĩ thì buổi sáng khá tốt. Mẹ tán đồng: - Một buổi sáng tuyệt đẹp. Sau bữa ăn sáng, Bố thắng cặp ngựa, Sam và David, vào xe và lái ra vùng đồng cỏ ở phía đông căn lều, nơi Bố đang cày phá đất để trồng bắp. Mẹ lo sắp xếp công việc cho mấy chị em và Laura thích nhất những ngày mẹ nói: - Mẹ phải làm việc ở ngoài vườn. Mary lập tức đề nghị nhận làm hết công việc trong nhà để Laura có thể phụ giúp Mẹ. Mary đã bị mù. Nhưng ngay cả trong thời gian mà cơn bệnh chưa làm hại đến những con mắt sáng xanh của cô, cô cũng không khi nào thích làm việc ở ngoài trời dưới nắng và gió. Lúc này cô rất sung sướng vì lo liệu nổi mọi việc trong nhà. Cô nói một cách vui vẻ: - Con phải làm việc ở những nơi mà con có thể nhìn thấy bằng mấy ngón tay của mình. Con không phân biệt nổi một dây đậu với một hạt giống ở đầu lưỡi cuốc, nhưng con có thể rửa chén đĩa, dọn dẹp giường nằm và chăm sóc Grace.
Carrie cũng rất tự hào vì dù vóc người nhỏ bé nhưng cô đã mười tuổi và có thể giúp đỡ Mary làm công việc trong nhà. Thế là Mẹ cùng Laura ra ngoài đồng làm việc.
Lúc này, nhiều người từ miền Đông đang kéo đến định cư trên khắp đồng cỏ. Họ đang dựng những căn lều trại mới ở các phía đông, phía nam, phía tây bên kia bờ đầm Big Slough. Cứ vài ngày lại có một cỗ xe do những người lạ lái băng qua khúc eo hẹp trên đầm nhắm
hướng bắc tới thị trấn rồi trở
lại. Mẹ nói còn dư thời giờ để làm quen khi công việc trong vụ xuân chấm dứt. Trong mùa xuân không có thời giờ dành cho chuyện thăm viếng.
Bố có một chiếc cày mới, chiếc cày phá đất. Vô cùng kỳ diệu là việc cày phá đất trên đồng cỏ. Chiếc cày có một bánh xe cạnh sắc
gọi là lưỡi lăn đứng để lăn và xắn thẳng phần đất phía trước lưỡi cày.
Chiếc lưỡi cày thép bén ngót theo sau lưỡi lăn đứng sẽ cắt vụn thảm rễ cỏchìm dưới đất rồi chiếc máng lật lôi lên một dải đất dài thẳng và lật úp xuống. Những luống đất đều có bề rộng đúng mười hai inch và thẳng tắp giống như được cắt bằng tay.
Cả nhà đều vui thích vì có chiếc cày đó. Lúc này, sau trọn một ngày làm việc, Sam và David thích thú nằm xuống lăn qua lăn lại rồi đứng vểnh tai ngó quanh cánh đồng trước khi miệt mài gặm cỏ. Chúng không kiệt sức và buồn nản rã rời với việc cày phá đất trong mùa xuân đó. Và vào bữa ăn tối, Bố cũng không mệt đến độ hết còn bỡn cợt nổi. Bố nói:
- Hết chê nổi khi cái cày có thể tự lo công việc một mình. Với tất cả những sáng chế hiện nay sẽ khỏi cần dùng tới sức người nữa. Chỉ trong một đêm như thế này mà chiếc cày nắm rõ cách tiến hành công việc thì vào buổi sáng mình sẽ thấy nó cày lật xong một hoặc hai mẫu đất, còn anh được nằm nghỉ trọn đêm.
Những rẻo đất nằm lật úp trên các luống cày với những đám rễ cỏ bị cắt đứt lòi ra lổ chổ. Đất mới cày mát mềm một cách dễ chịu cho những bàn chân trần nên Carrie và Grace thường chạy theo sau chiếc cày đùa nghịch. Laura cũng thích vậy nhưng bây giờ cô đã sắp mười lăm tuổi không còn nhỏ
để nô giỡn trong bùn đất nữa. Hơn nữa, vào các buổi chiều Mary vẫn cần đi dạo một vòng để hong nắng.
Cho nên, sau khi lo dứt công việc buổi sáng, Laura phải đưa Mary đi dạo trên đồng cỏ. Đủ loại hoa xuân đang đua nở và những bóng mây đang trôi nhẹ trên các triền dốc phủ đầy cỏ non. Thuở các cô còn bé, Mary lớn hơn và thường ra lệnh, nhưng lúc
này khi đã lớn hơn, cả hai có vẻ như
cùng tuổi với nhau. Các cô thích cùng đi dạo thật lâu trong gió dưới ánh nắng, ngắt những đóa hoa đồng thảo, hoa hoàng mao hương và nhấm nháp những loại cỏ lá chua. Những cánh hoa cam tùng hương cuộn lại một cách dễ thương, nhưng cọng xa trục thảo mảnh mai với những chiếc lá nhọn đều có hương vị nồng gắt. Laura nói: - Loại cỏ lá chua này có hương vị mùa xuân.
Mary dịu dàng sửa lại:
- Thực ra thì nó có một chút hương vị của chanh, Laura. Trước khi ăn cỏ lá chua, Mary luôn luôn hỏi:
- Em đã nhìn kỹchưa? Có chắc chắn lá không có con sâu nào không?
Laura cãi:
- Không thể có một con sâu nào hết. Đồng cỏ ở đây sạch bong. Không bao giờ có sâu ở một nơi sạch như thế này. Mary nói: - Kể cả đúng như thế, em vẫn phải nhìn coi. Chị không muốn ăn nhằm phải con sâu duy nhất trong toàn vùng Dakota. Cả hai cùng cười. Dạo này Mary vô tư tới mức thường có những câu nói đùa như thế. Gương mặt cô vô cùng thanh thoát dưới chiếc mũ, cặp mắt xanh lơ trong veo và giọngcô tươi vui đến mức giống như không phải cô đang bướcđi giữa bóng tối. Mary luôn luôn hoàn hảo. Đôi lúc cô hoàn hảo tới nỗi Laura cảm thấy khó chịu. Nhưng lúc này cô hình như khác hẳn. Laura đã một lần hỏi cô về chuyện đó. Laura nói: - Lúc nào chị cũng thường cố gắng giữ mình hoàn hảo. Và chị đã luôn luôn hoàn hảo. Điều này khiến em nổi điên lên và đã có lúc em chỉ muốn đập chị. Nhưng lúc này chị lại hoàn hảo mà không cần cố gắng một chút nào.
Mary vẫn đứng tại chỗ.
- Oại, Laura, thật khủng khiếp! Bây giờ em còn muốn đập chị không? Laura đáp một cách thành thực:
- Không đâu, không bao giờ.
- Em nói thực chứ? Có phải em tử tế với chị chỉ vì chị mù không? - Không! Em nói đúng sự thực là không phải thế, Mary. Em rất ít khi nghĩ về chuyện bị mù của chị.
Em… em chỉ thấy vui vì chị là chị của em. Em vẫn mong là em được giống như chị. Nhưng em nghĩ
là không bao giờ em có thể như thế nổi. - Laura thở ra - Em không hi ểu nổi bằng cách nào mà chị có thể hoàn hảo tới thế. Mary nói với cô:
- Thực ra chị không đúng như thế đâu. Chị có cố gắng, nhưng nếu em hiểu rằng có nhiều lúc chị đã ti tiện và bất trị ra sao, nếu em có thể nhìn rõ nội tâm chị thực sự như thế nào thì chắc em sẽ không còn
muốn giống như chị nữa.
Laura phản đối:
- Em có thể nhìn rõ nội tâm của chị như thế nào, vì nó vẫn lộ rõ trong mọi lúc. Chị luôn luôn chịu đựng bền bỉ và không có một điểm nhỏ ti tiện nào.
Mary nói:
- Chị biết do đâu mà em muốn đập chị. Đó là vì chị thường cố chứng tỏ con người mình. Thực ra chị
không muốn thành con người hoàn hảo. Chị đã cố khoe mẽ rằng ta là một cô bé tuyệt vời, làm một điều vô tích sự để mà tự hào. Quả thật chị rất đáng bị đánh đòn vì việc đó.
Laura thấy choáng váng. Thình lình vào lúc đó cô nhận ra cô đã
luôn hiểu như thế suốt mọi lúc.
Nhưng không khi nào Mary là như thế. Cô nói:
- Ô không, chị không giống như thế, thực tế không như thế. Chị hết sức hoàn hảo.
Mary nhắc lại những lời trong Thánh Kinh và nói:
- Tất cả chúng mình đều phạm tội một cách tuyệt vọng và luôn nghiêng theo cái xấu khi tranh cãi nổi lên. Nhưng chuyện đó cũng chẳng thành vấn đề.
Laura kêu lên:
- Cái gì cơ!
Mary giải thích:
- Chị muốn nói là chị không tin chúng ta cần phải nghĩ quá nhiều về chính bản thân mình, đại khái như nghĩ về việc mình xấu hay tốt. Laura hỏi:
- Nhưng, trời ơi! Làm sao mà người ta có thể trở thành tốt nổi khi không nghĩ về cái tốt?
Mary nhìn nhận:
- Chị không biết, chị cũng nghĩ là mình không thể như thế. Chị không biết nói cách nào để diễn tả rõ điều mình muốn nói. Nhưng chỉ nên biết mà không nên nghĩ tới quá nhiều. Chỉ nên tin ở ý Chúa. Laura vẫn đứng im nên Mary cũng không nhúc nhích vì cô không dám bước đi mà thiếu cánh tay dẫn dắt của Laura. Mary đứng đó chính giữa bạt ngàn hoa cỏ xanh tươi đang chập chờn trong gió dưới bầu trời xanh lồng lộng với những đám mây trắng lững lờ trôi, nhưng cô không thể nhìn thấy gì. Mọi người đều biết rõ Chúa luôn nhân ái. Nhưng đối với Laura lúc đó thì dường như Mary phải tin ở ý Chúa theo một cách đặc biệt nào đó. Laura nói: - Chị tin thế, phải
không?
Mary đáp:
- Ừ, bây giờ chị mãi mãi tin như thế. Dù ý muốn của con ra sao thì Chúa vẫn là người chăn dắt con.
Chúa sẽ đặt con nằm trên những thảm cỏ xanh và dắt con tới bên những vùng nước phẳng lặng. Chị
nghĩ đó là những bài thánh thi tuyệt vời hơn hết. Nhưng sao mình còn đứng ở đây? Chị không thấy có mùi hoa đồng thảo. Laura nói:
- Mình đã qua khỏi vũng trâu đằm trong lúc mải nói chuyện. Mình sẽ trở lại theo lối kia.
Khi các cô quay lại, Laura có thể nhìn rõ gò đất thấp dựng lên thoai thoải từ đám cỏ xù xì trong đầm Big Slough kéo lên tới căn lều nhỏ. Căn lều có vẻ không lớn hơn một chuồng gà mái đang đứng im lìm. Khu chuồng ngựa bằng đất không có cỏ hoang. Phía bên kia căn lều
và khu chuồng, Ellen và hai con bê đang gặm cỏ còn ở phía đông, Bố đang trồng bắp trên khu đất mới cày phá.
Bố đã cày phá đất bất kỳ lúc nào có thời giờ trướckhi đất trở nên quá khô. Vùng đất cày phá vào năm trước được Bố bừa tơi để gieo lúa mạch. Lúc này, với một túi bắp giống cột bên vai và một cây cuốc trong tay, Bố đang từ từ đi khắp cánh đồng.
Laura nói v ới Mary:
- Bố đang trồng bắp. Mình hãy qua lối kia đi. Bây giờ vũng trâu đằm ở đây rồi.
Mary nói:
- Chị biết. Cả hai dừng lại một lúc, hít thật sâu hương thơm ngọt
ngào như mật của hoa đồng thảo.
Vũng trâu đằm tròn xoe nằm sâu khoảng chừng ba hoặc bốn bộ dưới đồng cỏ giống như một chiếc đĩa chứa đầy hoa đồng thảo. Hàng ngàn, hàng triệu đóa hoa chen chúc dày đặc che kín cả đám lá. Mary chìm vào giữa rừng hoa. Cô hít thật mạnh trong lúc mấy ngón tay khẽ sờ trên những cánh hoa rồi lần xuống những chiếc cọng mỏng manh để ngắt.
Khi các cô đi ngang cánh đồng, Bốcũng ngửi thấy mùi hoa đồng thảo. Bố không ngừng làm việc nhưng mỉm cười với các cô: - Đi dạo dễ chịu chứ, các con?
Bố dùng cuốc đánh tơi đất rồi cuốc một lỗ nhỏ, bỏ vào trong đó bốn hạt bắp và vẫn với cây cuốc, Bố
kéo đất phủ kín lên, dung bàn chân đi ủng nhấn chặt xuống đoạn bước tới trồng tiếp gốc khác.
Carrie nhào tới dí mũi sát vào bó hoa đồng thảo. Cô đang trông chừng Grace và Grace không được đi chơi ở chỗ nào khác ngoài cánh đồng đang có mặt Bố. Những con giun như thôi miên Grace. Mỗi khi Bố bập xuống một nhát cuốc, cô đều chờ và cười khúc khích ngắm con giun dài, mỏng tự biến thành mập, ngắn và tự chui thật mau trở lại vào trong đất.
Cô nói:
- Kể cả khi bị đứt thành hai mà mỗi nửa của nó vẫn làm như thế được. Tại sao vậy, Bố?
Bố nói:
- Bố cho là chúng muốn chui vào trong đất.
Grace hỏi:
- Tại sao vậy, Bố?
Bố nói:
- Ồ, chỉ tại chúng muốn thế.
- Tại sao chúng muốn thế, Bố?
Bố hỏi lại:
- Tại sao con thích chơi trong đất bùn?
Grace nói:
- Tại sao, Bố? Mà Bố gieo bao nhiêu bắp, Bố?
Bố nói:
- Phải nói là hạt. Bốn hạt. Một, hai, ba, bốn.
Grace nói:
- Một, hai, bốn. Tại sao, Bố?
Bố nói:
- Câu hỏi này dễ ợt. - Bố tiếp - Một dành cho con chim sáo Một dành cho chú quạđen Và số hạt còn dành lại Vừa tròn hai để bắp lên.
Lúc này cây trong vườn đang lớn. Nào củ cải đỏ, nào hành, nào rau diếp đang vươn lên thành những luống nhỏ màu xanh khác nhau. Những chồi lá đậu cuốn lại đang mở ra. Những cọng khoai tây non đứng mảnh dẻ đang xòe rộng những tán lá đầu tiên như các mảng ren. Trong lúc Laura đặt bó hoa đồng thảo vào bình nước cho hương thơm tỏa trên bàn ăn bữa tối, Mẹ nói: - Mẹ đã coi kỹ trong vườn và thấy cần phải cuốc xới đất. Lúc này Mẹ tin là đậu sẽ vươn lên vào bất kể ngày nào, khi có thời tiết ấm.
Suốt một buổi sáng oi nồng, đậu đột ngột mở lá. Grace khám phá ra điều này và hét lên sôi nổi chạy tới nói với Mẹ. Trọn sáng hôm đó, cô bé không thể rời mắt khỏi đám đậu. Lần lượt từng cọng đậu
không còn xoắn lạinhư những chiếc lò xo thép mà vươn lên trong nắng với những hạt đậu tách thành hai mảnh bám hờ vào những đọt lá đôi xanh nhạt. Mỗi lần một cọng đậu mở ra, Grace lại hét lên. Lúc này bắp đã trồng xong nên Bố lo dựng tiếp nửa căn lều còn thiếu. Một buổi sángBố đặt các thanh rầm nền nhà rồi đóng khung và Laura giúp Bố dựng lên, giữ thẳng dây quả dọi trong lúc Bố chốt lại. Bố tán đinh và đặt khung cửa sổ. Sau đó Bố đặt những thanh rui làm một mái nghiêng mà
trước đó chưa có.
Suốt thời gian Laura phụ Bố, Carrie cùng Grace đứng coi và lượm những chiếc đinh bị Bố đóng văng ra. Ngay cả Mẹ cũng thường ngưng công việc để ngó. Thật hấp dẫn khi được nhìn căn lều đang biến thành một ngôi nhà.
Khi công việc hoàn tất, họ có cả thảy ba phòng. Phần vừa làm thêm gồm hai phòng ngủ nhỏ, mỗi phòng đều có một ô cửa sổ. Bây giờ không còn phải đặt giường nằm trong phòng trước nữa. Mẹ nói: - Đây là nơi mình chỉ dùng một hòn đá để giết hai con chim. Mình sẽ kết hợp việc dọn dẹp nhà cửa vào dịp xuân cùng với việc rời chỗ. Tất cả lo giặt màn cửa sổ cùng chăn mền rồi treo lên hong khô. Rồi tất cả cọ các khuôn cửa sổ mới cho tới lúc sáng bóng lên và dăng những tấm màn mới được làm bằng các tấm phủ giường cũ với đường viền thật đẹp nhờ các mũi khâu tinh vi của Mary. Mẹ và Laura kê các khung giường trong căn phòng sực nức mùi ván gỗ mới. Rồi Laura và Carrie nhồi đầy cỏ khô vào những tấm đệm rơm, đặt lên giường phủ kín bằng những tấm phủ còn giữ nguyên hơi ấm do Mẹ vừa ủi xong cùng những chiếc mền đã được giặt sạch đượm mùi không khí đồng cỏ.
Sau đó Mẹ cùng Laura lau cọ và chà xát từng tấc của phần lều cũ mà lúc nàyđã biến thành phòng trước của ngôi nhà. Không còn những chiếc giường, căn phòng trở thành rộng thênh thang khi ở đó chỉ còn chiếc lò bếp, chiếc tủ chén, chiếc bàn ăn, mấy chiếc ghế và chiếc kệ thấp. Khi căn phòng hoàn toàn sạch bóng và mọi thứ đã được đặt vào đúng chỗ, cả nhà cùng đứng xúm lại ngắm. Mary nói:
- Em khỏi cần nhìn giúp cho chị, Laura. Chị có thể cảm thấy căn phòng rộng rãi, mát mẻ và xinh đẹp ngần nào. Những tấm màn cửa sổ hồ cứng trắng muốt khẽ lay động trong những khuôn cửa để ngỏ. Những bức vách ván được cọ sạch và mặt nền sàn dâng lên một màu xám vàng nhờ nhạt. Một bó hoa dại và những bông hoa rụng do Carrie lượm đặt vào chiếc chậu màu xanh lơ trên bàn ăn có vẻ nhưđem thêm không khí mùa xuân vào căn phòng. Ánh sáng buổi chiều nổi bật trên những tựa sách mạ vàng đặt ở ngăn giá thấp của chiếc kệ thấp và phản chiếu lấp lánh từ ba chiếc hộp kính đều được vẽ những bông hoa li ti ở ngăn giá phía trên. Ngay ngăn giá kế cận sát phía trên, những bông hoa mạ
vàng trên mặt kính đồng hồ rực sáng và chiếc quả lắc lấp lóe đung đưa qua lại. Đứng cao hơn ở ngăn giá trên cùng là chiếc hộp đựng đồ trang điểm bằng sứ màu trắng của Laura với chiếc ly và chiếc tách mạ vàng nhỏ xíu ở trê nắp. Bên cạnh đó là con chó sứ đốm trắng-nâu của Carrie được đặt trong thế nằm ngắm chiếc hộp. Trên bức vách giữa các cửa ra vào và phòng ngủ, Mẹ đặt chiếc xích đông mà Bố đã khắc để làm quà Giáng Sinh tặng Mẹ khi còn ở vùng Big Woods thuộc Wisconsin. Chỉ bằng con dao nhíp, Bố đã khắc thật hoàn hảo từng bông hoa, từng cánh lá li ti cùng dây nho leo theo đường gờ của ngăn giá nhỏ và những dây nho lớn hơn bò tới những ngôi sao ởtrên đỉnh. Lâu hơn nữa, lâu hơn cả mức Laura có
thể
nhớ là cô gái chăn cừu bằng sứ của Mẹ vẫn đứng trong các màu hồng-trắng và đang mỉm cười trên ngăn giá.Đúng là một căn phòng tuyệt đẹp.
Chương 3
CON MÈO CẦN THIẾT
Lúc này những chồi bắp đầu tiên giống như đầu những dải băng đã nhú lên dọc các luống đất cày phá. M ột buổi chiều Bố đi khắp đồng để xem xét. Bố trở về mệt mỏi và chán nản. Bố nói: - Bố phải trồng lại già nửa đồng bắp.
Laura hỏi:
- Ô, Bố! Sao vậy?
Bố nói:
- Sóc đất. Hừ, đây đúng là điều phải chấp nhận khi trồng vụ bắp đầu tiên trên một vùng đất mới.
Grace đang ôm hai chân Bố. Bố nhấc bé lên cào nhẹ những sợi râu lên má chọc nhột cho bé cười.
Bé nhớ lại điệu hát khi Bốđang trồng bắp và bé ngồi trên đầu gối Bố hát một cách tự đắc: Một dành cho con chim sáo Một dành cho chú quạ đen.Và số hạt còn dành lại. Vừa tròn hai để bắp lên. Bố bảo bé:
- Người làm như thế là một người ở miền Đông. Ở trong vùng đất này, mình sẽ phải theo một nhịp riêng, Grace. Mình sẽ thử coi nhịp này ra sao? Một hạt dành cho sóc đất Hai hạt dành cho sóc đất. Ba hạt dành cho sóc đất. Bốn hạt chẳng đi tới đâu. - Ô, Charles. - Mẹ bật cười phản đối. Mẹkhông nghĩ những trò chơi chữ là thú vị nhưng Mẹ không nín cười nổi vì cái vẻ ranh mãnh của Bố. Bố đã không trồng hạt bắp sớm hơn để tránh bị nhữngcon sóc đất sọc vằn kiếm thấy. Chúng chạy nhốn nháo trên khắp cánh đồng và ngưng lại đào sâu vào những điểm đất tơi mịn bằng những bàn chân nhỏ xíu. Thật kỳ lạ là chúng biết thật chính xác các hạt bắp
nằm ở đâu. Những con sóc nhỏ bé nhốn nháo, đào bới rồi ngồi thẳng nhấm nháp từng hạt bắp giữ trong các bàn chân mà ăn hết già nửa cánh đồng bắp thì thật đáng kinh ngạc. Bố nói: - Chúng là lũ phá hoại. Anh ước là mình có một con mèo giống như con méo già Black Susan.
Chắc chắn nó sẽ tỉa vơi bọn chúng. Mẹ tán thành:
- Em cũng cần có một con mèo ở trong nhà. Phải nói là lũ chuột đầy nhóc đến nỗi em không thể cất thức ăn ở trong tủ chén mà không đậy kỹ. Liệu có thể kiếm nổi một con mèo không, Charles? Bố đáp:
- Điều anh được biết là trên khắp vùng này không có một con mèo nào. Các chủ cửa hàng ở thị trấn cũng đang phàn nàn về chuyện này. Wilmart đang bàn tính chở một con mèo từ miền Đông về. Ngay trong đêm đó, Laura giậ t mình thức giấc vì một tiếng động. Mặc dù các phòng ngủ nằm cách biệt, cô vẫn nghe thấy một hơi thở gấp, một tiếng kêu đau đớn và một tiếng thịch đột ngột do một vật nhỏ bị va chạm mạnh. Cô nghe thấy Mẹ lên tiếng: - Charles, chuy ện gì vậy?
Bố nói nhỏ:
- Anh nằm mơ. Anh mơ thấy lão thợ cạo đang cắt tóc anh. Giọng Mẹ cũng trầm xuống vì đang giữa đêm khuya và cả nhà đang ngủ:
- Chỉ là một giấc mơ thôi. Nằm xuống đi cho em kéo mền lên. Bố nói:
- Anh nghe rõ tiếng kéo của lão thợ cạo nghiến xoẹt xoẹt. Mẹ ngáp:
- Thôi, nằm xuống ngủ tiếp đi.
Bố vẫn nói:
- Tóc anh bị cắt đứt thật mà.
Mẹ lại ngáp:
- Em chưa từng thấy anh bị đảo lộn vì một giấc mơ bao giờ. Nằm xuống và trở mình lại. Anh sẽ
không mơ tiếp nữa đâu.
Bố nhắc lại:
- Caroline, tóc anh bị cắt thật mà.
Giọng Mẹ lúc này có vẻ tỉnh ngủ hơn:
- Anh định nói gì?
Bố nói:
- Anh đang kể cho em mà. Trong giấc ngủ, anh chụp bàn tay lên và… ngay chỗ này. Sờ đầu anh coi.
Mẹ kêu lên:
- Charles! Tóc anh bị cắt đứt thật! Laura nghe thấy Mẹ ngồi dậy, nói tiếp:
- Em sờ thấy chỗ đó, có một chỗ trên đầu anh…
Bố nói:
- Ừ, đúng chỗ đó. Anh đặt bàn tay lên…
Mẹ cắt ngang:
- Một chỗ lớn ngang bàn tay của em, cắt sạch trơn. Bố nói:
Anh đặt bàn tay lên và chộp đúng một… thứgì…
Mẹ hỏi:
- Thứ gì? Nó là thứ gì?
Bố đáp:
- Anh nghĩ… anh nghĩ là một con chuột.
Mẹ kêu lớn:
- Nó đâu rồi?
- Anh không biết. Anh quăng nó ra xa, quăng mạnh hết sức. Mẹ nói một cách yếu ớt:
- Trời ơi! Chắc chắn là một con chuột rồi. Nó cắn tóc anh đề đem làm ổ.
Một phút im lặng rồi Bố lên tiếng:
- Caroline, anh muốn chửi thề…
Mẹ thì thầm:
- Đừng, Charles.
- Hừ, nếu chửi thề được thì anh phải chửi vì anh không thể nằm thức suốt đêm để giữ không cho lũ
chuột tới cắn tóc của mình.
Mẹ mong muốn một cách vô vọng:
- Em mong là mình sẽ có một con mèo. Chuyện thành rõ ràng vào buổi sáng khi một con chuột nằm chết ngay tại nơi mà Bố đã quăng nó xuống. Và trong bữa ăn sángBố xuất hiện với một mảng tóc gần như trụi lủi ở phía sau đầu do con chuột đã cắn đứt hết. Bố không lưu tâm nhiều tới việc đó nhưng không có đủ thời gian cho tóc kịp mọc lên trước khi Bố
phải đi dự buổi họp các thành viên trong hội đồng địa phương. Toàn vùng đang ổn định mau tới mức có thể sẵn sàng cho việc tổ
chức một hội đồng quản hạt và Bố phải lo phụ giúp. Với tư cách là người định cư sớm nhất, Bố không thể trốn tránh trách nhiệm. Buổi họp tổ chức tại trại của Whiting nằm cách thị trấn khoảng bốn dặm về phía đông bắc. Chắc chắn là bà Whiting sẽ có mặt tại đó và Bố không thể cứ giữ mãi chiếc mũ trên đầu. Mẹ trấn an Bố: - Đừng bận tâm về chuyện đó. Cứ nói với mọi người đúng điều đã xảy ra. Có thể nhà họ cũng có chuột.
Bố nói:
- Có nhiều điều quan trọng hơn để nói với họ chứ. Không, tốt hơn là cứđể mặc cho họ nghĩ rằng anh đã bị vợ anh xén tóc.
- Charles, anh không nên làm thế!
Mẹ kêu lên trước khi kịp nhận ra là Bố đang nói giỡn. Buổi sáng hôm đó, trước khi lái xe rời nhà, Bố
dặn ở nhà đừng chờ Bố về ăn bữa trưa. Bố phải đi qua mười dặm đường chưa kể thời giờ dành cho buổi họp. Bố đưa xe về tới chuồng ngựa vào giờ ăn tối. Bố tháo ngựa khỏi xe và hấp tấp vào nhà đến nỗi gặp Carrie và Grace đang chạy ra đón. Bố gọi lớn: - Các con! Caroline! Thử đoán coi Bố đang mang cái gì về cho mọi người. Bố đặt một bàn tay trong túi, mắt sáng rỡ. Carrie và Grace cùng đáp:
- Kẹo!
Bố nói:
- Hơn kẹo nhiều!
Mẹ hỏi:
- Có thư hả?
Mary đoán:
- Báo. Chắc là tờ The Advance. Laura vẫn ngắm chiếc túi của Bố. Cô thấy chắc chắn không phải bàn tay Bố mà có một vật gì đangcử động trong đó. Bố nhắc với mọi người:
- Hãy dành cho Mary coi trước tiên. Bố lấy bàn tay ra khỏi túi. Nằm gọn trên lòng bàn tay của bố là một con mèo con màu trắng và xanh lơ. Bố cẩn thận đặt vào bàn tay Mary. Cô khẽ vuốt bộ lông mềm của nó bằng một đầu ngón tay rồi nhẹ nhàng sờ nắn những chiếc tai nhỏ nhắn, chiếc mũi và những bàn chân tí hon. Cô sững sờ nói: - Một con mèo con. Một con mèo bé xíu như thế này. Laura nói với cô: - Nó còn chưa mở mắt. Lông nó xanh như màu khói thuốc nhưng mặt, ức, bàn chân và chót đuôi của nó lại trắng muốt. Vuốt của nó cũng màu trắng và bé xíu.
Tất cả đều cúi xuống con mèo con mềm mại còn chưa mở mắt trên bàn tay Mary. Chiếc miệng nhỏ
màu hồng của nó thốt lên một tiếng meo nhỏ nhẹ. Bố nói: - Nó còn quá bé để phải xa mẹ. Nhưng bố không thể bỏ lỡ dịp may bắt nó trước khi có người khác chộp được. Whiting có một con mèo từ miền Đông gửi tới. Nó đẻ được năm con mèo con và nội ngày hôm nay bốn con đã được bán với giá mỗi con năm mươi xu. Laura trợn tròn mắt hỏi:
- Bố không phải trả năm mươi xu để mua con mèo này chứ, Bố? Bố nói:
- Đâu có được, Bố phải trả chứ.
Mẹ vội nói:
- Em không phàn nàn gì đâu, Charles. Có được một con mèo ở trong nhà đáng giá hơn nhiều.
Mary lo lắng hỏi:
- Liệu mình có thể nuôi lớn nổi một con mèo nhỏ như thế này không? Mẹ quả quyết:
Ồ, được chứ. Mình sẽ cho nó ăn uống điều hòa, rửa mắt cho nó thật cẩn thận và luôn giữ ấm cho nó.
Laura, con kiếm một chiếc hộp nhỏ rồi mang túi vải vụn ra chọn lấy những miếng mềm nhất và ấm nhất.
Laura làm cho con mèo con một chiếc ổ ấm áp trong chiếc hộp bằng các tông trong lúc Mẹ hâm nóng một ít sữa. Tất cả xúm lại coi Mẹ đặt con mèo trên bàn tay và cho nó ăn từng giọt sữa bằng chiếc muỗng nhỏ. Những bàn chân nhỏ xíu của nó bấu vào chiếc muỗng và chiếc miệng màu hồng của nó cố táp những giọt sữa ấm mặc dù nhiều giọt vẫn lăn xuống dưới cằm nó. Sau đó nó được đặt vào trong ổ và dưới bàn tay ấm áp của Mary nó nằm xuống ngủ thoải mái. Mẹ nói:
- Sức sống của bất kỳ con mèo nào cũng rất lớn nên chắc chắn nó sẽ sống bình thường.
Chương 4
NHỮNG NGÀY HẠNH PHÚC
Bố nói thị trấn đang phát triển nhanh. Những người tới định cư đang dồn về và hối hả dựng nhà. Một buổi tối Bố Mẹ đi bộ ra thị trấn để giúp tổ chức một buổi lễ và không lâu sau đó đã hình thành xong một cơ sở lo việc dựng nhà thờ. Vì không có đủ thợ mộc theo yêu cầu của công việc nên Bố đi làm thợ mộc.
Mỗi buổi sáng, Bố làm các công việc thường lệ trong nhà rồi đi bộ ra thị trấn xách theo chiếc xô thiếc đựng bữa ăn trưa. Bố khởi sự làm việc sớm từ lúc bảy giờ sáng chỉ nghỉ trưa một lát rồi làm tiếp cho tới sáu giờ rưỡi chiều và trở về nhà ăn cơm tối rất trễ. Mỗi tuần Bố đều được trả công mười lăm đô-la.
Đây là thời gian hạnh phúc vì rau trái trong vườn đang lớn, bắp và lúa mạch rất tốt còn con bê đã dứt sữa nên lúc này có đủ sữa lọc để làm phô-mai trắng và có đủ kem để làm cả bơ lẫn sữa lỏng. Nhưng đặc biệt hơn hết là Bố đang kiếm được khá nhiều tiền. Thường thường, khi làm việc ở ngoài vườn, Laura hay nghĩ tới việc đi học của Mary. Gần hai năm đã trôi qua kể từ khi mọi người được biết có một trường học dành cho người mù. Mỗi ngày mọi người đều nghĩ về ngôi trường đó và mỗi đêm tất cả vẫn cầu nguyện cho Mary được đi học. Điều đau buồn nhất trong chuyện bị mù của Mary là tai biến này đã ngăn cản việc học của cô. Cô rất thích được học đọc học viết và luôn mong sẽ trở thành cô giáo. Bây giờ cô không khi nào còn có thể đi dạy học. Laura không mong điều đó nhưng lúc này cô lại phải theo đuổi và cô có thể đi dạy ngay khi đủ mười sáu tuổi để kiếm thêm tiền giúp cho việc đi học của Mary. Trong lúc cuốc đất, cô nghĩ:
- Khỏi suy nghĩ nhiều. Mình có thể nhìn thấy mà. Cô nhìn thấy
chiếc cuốc, thấy mọi màu sắc của đất, thấy từng khoảng sáng tối nhỏ của những dâyđậu trong đám lá dầy. Chỉ cần khẽ ngước lên là cô nhìn thấy đồng cỏ bạt ngàn đang layđộng, thấy đường chân trời màu xanh xa thẳm, thấy từng bầy chim bay lượn, thấy Ellen cùng những con bê trên triền dốc cỏ non, thấy mọi lớp màu xanh khác nhau của nền trời và những cồn mây mùa hè chồng chất trắng như tuyết. Cô nhìn thấy quá nhiều còn Mary chỉ
thấy một màn tối đen đặc.
Cô hy vọng dù không dám chắc là có lẽ vào mùa thu Mary sẽ được tới trường. Bố hiện đang kiếm được nhiều tiền. Nếu bây giờ Mary có thể tới trường thì Laura sẽ ráng sức học thật chăm chỉ để bảo đảm có thể đi dạy học ngay khi cô vừa đủ mười sáu tuổi. Lúc đó cô sẽ kiếm ra tiền để Mary được học tiếp tục ở trường trung học. Tất cả đều cần có quần áo giầy dép và Bố còn phải thường xuyên mua bột, đường, trà và thịt ướp muối. Lại thêm số nợ mua gỗ dựng nửa căn nhà mới, số than cần dự
phòng cho mùa đông và các khoản thuế má. Nhưng năm nay đã có hoa màu trong vườn cùng với bắp và lúa mạch. Qua năm tới thì gần như hết thảy những thứ cần để sống đều đã được gieo trồng. Nếu có thêm bầy gà mái và một con heo thì còn có cả thịt. Bây giờ vùng này đã thành vùng định cư
nên rất hiếm mồi săn, vì vậy muốn có thịt ăn thì phải mua hoặc lo chăn nuôi. Có thể vào năm tới Bố
sẽ mua một con heo và mấy con gà mái. Hiện một số người tới định cư có mang theo những giống vật đó.
Một buổi tối Bố trở về mặt sáng rỡ. Bố gọi lớn:
- Hãy đoán coi có chuyện gì, Caroline và cả các con nữa. Bố nói tiếp ngay:
- Bữa nay anh gặp Boast ở thị trấn và ông ta chuyển lại lời nhắn của bà Boast cho biết bà ấy đang lo gây cho mình một con gà mái. Mẹ nói:
- Ô, Charles!
Bố nói:
- Ngay khi lũ gà con đủ lớn để tự cào bới được, ông ta sẽ mang cho mình một lứa.
Mẹ nói với giọng biết ơn:
- Ô, Charles, đúng là một tin tốt lành. Cũng thật thích thú là bà Boast làm việc này. Bà ấy hiện ra sao, ông ấy có nói gì không? - Cả hai đều bình thường. Bà ấy bận rộn lắm nên không thể ra thị trấn trong mùa xuân này nhưng lúc nào bà ấy cũng nhớ tới em. Mẹ nói:
- Một lứa trứng thì có khả năng cho tới mười hai con gà con hoặc nhiều hơn nữa. Chăm nom cỡ đó thì cũng không hẳn là nhiều. Bố nhắc:
- Họ không quên những gì mà em đã dành cho họ khi họ tới đây lúc mới làm xong đám cưới rồi đi lạc trong bão tuyết và mình là những người duy nhất định cư trong vòng bốn mươi dặm ở đây. Boast vẫn nhắc đến chuyện đó luôn.
Mẹ nói:
- Xì! Có gì đáng kể đâu. Nhưng cả một lứa trứng… thì trong một năm mình sẽ có hẳn một đàn gà.
Nếu có một bầy gà con mà không bị quạ ó với cầy cáo bắt thì tới mùa hè đã có một số gà mái tơ.
Năm tới đám gà mái tơ này bắt đầu đẻ trứng và lúc đó sẽ có thêm
trứng để ấp. Năm sau nữa hẳn đã có gà giò để chiên và có thêm nhiều gà mái tơ nữa để tăng cường thêm bầy gà. Lúc đó còn có trứng để ăn và khi lũ gà mái quá già không còn ấp trứng nổi thì Mẹ có thể làm bánh nhồi thịt gà. Mary nói: - Nếu mùa xuân tới mà Bố mua nổi một con heo con thì chỉ trong vòng hai năm mình sẽ có món thịt đùi chiên trứng. Rồi còn có mỡ heo, xúc xích, thịt sườn và cả giò thủ nữa.
Carrie chen vào sang sảng:
- Bé Grace còn có thể nướng một chiếc đuôi heo.
Grace thắc mắc:
- Tại sao? Đuôi heo là cái gì? Carrie có thể nhớ lại thời gian mổ heo nhưng Grace chưa bao giờ được cầm chiếc đuôi heo trước vỉ lò bếp, ngắm nó chín vàng và kêu xèo xèo. Bé chưa từng được thấy Mẹ nhắc khỏi lò chiếc chảo mỡ đầy ắp thịt sườn mọng mỡ béo ngậy đang nổ lốp bốp. Bé chưa từng được thấy chiếc đĩa lớn màu xanh chồng chất bánh nhồi thịt cũng như chưa từng được múc đầy muỗng
nước thịt để tưới lên những chiếc bánh kếp. Bé chỉ nhớ vùng Dakota và món thịt bé biết chỉ là thịt mỡ heo ướp muối trắng bệch mà thỉnh thoảngBố mua về.
Nhưng một ngày nào đó họ sẽ có lại tất cả nhữngmón ăn ngon lành vì thời kỳ tốt đẹp hơn đang tới.
Lúc này với nhiều công việc để làm và mọi thứđều có vẻ tiến triển, ngày tháng trôi đi như bay. Cả
nhà bận rộn đến nỗi suốt ngày không mấy khi thấy nhớ Bố. Rồi mỗi buổi tối khi trở về, Bố luôn đem theo về những tin tức trong thị trấn và cả nhả cũng có thật nhiều chuyện để kể cho Bố nghe. Suốt ngày cả nhà gom lại những chuyện hấp dẫn nhất để kể cho Bố
nghe. Có một chuyện đã xảy ra mà cả nhà vẫn khó đoán biết Bố có tin nổi không.
Trong lúc Mẹ đang dọn giường còn Laura và Carrie rửa chén đĩa thì tất cả bỗng nghe thấy con mèo con gào lên một cách kinh khủng. Lúc này con mèo con đã mở mắt và có thể chạy nhảy khắp nhà săn đuổi những mảnh giấy mà Grace đính lại thành một chuỗi dài. Mẹ gọi:
- Grace, coi chừng! Không được làm đau con mèo.
Grace đáp một cách nghiêm chỉnh:
- Con đâu có đụng tới con mèo.
Trước khi Mary có thể lên tiếng, con mèo lại gào lên. Mẹ nói lớn từ phòng ngủ:
- Không làm vậy, Grace! Con đạp lên nó hả?
Grace đáp:
- Đâu có, Mẹ!
Con mèo lại gào lên thảm thiết và Laura rời khỏi chảo nước rửa chén.
- Ngưng ngay, Grace! Em đang làm gì con mèo vậy? Grace mếu máo:
- Em đâu có làm gì con mèo! Em không thấy nó đâu hết! Không thấy con mèo ở chỗ nào. Carrie nhìn xuống dưới lò bếp phía sau chiếc thùng gỗ. Grace trườn xuống dưới chiếc khăn trải bàn để tìm ở gầm bàn. Mẹ ngó dưới ngăn giá thấp nhất của chiếc kệ thấp còn Laura lùng sục quanh mấy chiếc giường.
Lúc đó con mèo lại gào lên và Mẹ thấy nó ở sau cánh cửa ra vào. Tại đó, giữa cánh cửa và bức vách con mèo nhỏ xíu đang dồn đuổi một con chuột. Con chuột lớn gần ngang con mèo đang nhảy nhót
chống trả lại. Nó cuống cuồng cắn trả con mèo. Con mèo gào lên khi bị nó cắn trúng nhưng vẫn chặn không cho nó chạy đi. Những chiếc chân nhỏ xíu cố trụ vững và hàm răngcắn ngập vào lớp da bị
rách của con chuột. Con mèo gần như xiểng liểng muốn té vì chân còn quá yếu. Con chuột lại táp nó và táp thêm nữa. Mẹ vội quơ chiếc chổi:
- Laura, nhấc con mèo lên để Mẹ xử con chuột.
Đuơng nhiên Laura phải làm theo nhưng cô không thể không lên tiếng:
- Ô, con không thích làm vậy, Mẹ! Nó đang hăngmáu. Đây là trận đấu của nó mà.
Đúng lúc bàn tay Laura đang chụp xuống, còn mèo nhỏ gom sức tung ra một cố gắng. Nó chồm lên trên con chuột, đè dí xuống bằng cả hai chân trước và gào lên trong lúc cắn hàm răng vào con chuột. Lúc đó nhữ ng chiếc răng li ti của nó bập vào cổ con chuột. Con chuột ré lên đau đớn rồi rũ xuống.
Thế là bằng sức chính mình, con mèo con đã giết chết con chuột, con chuột đầu tiên của nó. Mẹ nói:
- Có ai được nghe nói về một trận đấu giữa mèo và chuột bao giờ. Con mèo con cần có mẹ liếm các vết thương và khẽ gừ gừ một cách kiêu hãnh về việc đã làm được.
Mẹ cẩn thận lau rửa các vết thương cho nó và cho nó một ít sữa ấm. Carrie và Grace vuốt ve nhè nhẹ
chiếc mũi béxíu và lớp lông mềm mại trên đầu nó trong lúc nó chúi vào nằm ngủ dưới bàn tayấm áp của Mary. Grace nắm đuôi con chuột đã chết đem quăng ra xa.
Và suốt khoảng thời gian còn lại của ngày hôm đó tất cả luôn nhắc với nhau rằng đó đúng là một câu chuyện thật hấp dẫn để kể cho Bố nghe khi Bố về.
Tất cả chờ cho tới khi Bố rửa mặt, chải đầu xong và ngồi vào bàn ăn. Laura trả lời những câu Bố hỏi về công việc thường lệ trong nhà cho biết cô đã cho lũ ngựa, con bò cái Ellen và mấy con bê uống nước xong và đã rời cọc buộc cho chúng. Dạo này trời đêm dễ chịu tới mức cô không cần đưa chúng vào chuồng. Chúng nằm ngủ ngay dưới ánh sao và có thể thức dậy gặm cỏ vào bất kỳ lúc nào tùy thích.
Rồi đã tới lúc kể cho Bố nghe câu chuyện hấp dẫn về việc làm của con mèo con. Bố nói chưa bao giờ
được nghe nhắc tới một câu chuyện như thế. Bố ngắm con mèo con màu xanh trắng đang dựng thẳng chiếc đuôi mỏng manh đi lại trong phòng một cách thận trọng. Bố nói:
- Con mèo con này sẽ là tay thợ săn tài nhất trong vùng. Một ngày đang trôi qua trong sự thoải mái hoàn toàn. Cả nhà quây quần bên nhau. Mọi việc đã làm xong ngoại trừ số chén đĩa trong bữa ăn tối sẽ được rửa vào ngày mai. Bữa ăn tối thật ngon với món bánh mì quét bơ ăn cùng khoai tâychiên, phô-mai trắng và rau sống trộn dấm đường.
Bên ngoài các khung cửa để ngỏ, đồng cỏ sậm tối nhưng nền trời vẫn sáng nhạt với những ngôi sao đầu tiên bắt đầu lay động. Gió thổi thoang thoảng khuấy động không khí trong nhà đầy hơi ấm của lò bếp hòa trộn với hương thơm tươi mát trên đồng cỏ cùng mùi thức ăn, mùi trà, mùi xà phòng tắm rửa và mùi ván gỗ mới từ các phòng ngủ vừa làm xong.
Cảm giác thoải mái hơn hết có lẽ do từ sự biết chắc rằng ngày mai cũng vẫn như thế, vẫn là một ngày bình thường tuy nhiên sẽ có một chút thay đổi. Nhưng Laura chưa hề biết về sự thay đổi này cho tới khi Bố hỏi: - Con nghĩ thế nào về việc đi làm ở thị trấn?
Chương 5
LÀM VIỆC TRONG THỊ TRẤN
Không ai hình dung nổi trong thị trấn có một việc làm gì khác dành cho một cô gái nếu không phải là làm mướn cho một khách sạn. Bố nói:
- Đây là một ý kiến mới mẻ của Clancy. - ÔngClancy thuộc số nhà buôn mới tới. Bố đang lo cất nhà cho ông ta. - Việc cất nhà sắp xong rồi và ông ta đang chuyển hàng hóa về. Mẹ vợ ôngta cũng có mặt tại đây và bà ấy may cắt áo sơ mi.
Mẹ nói:
- May cắt áo sơ mi?
- Ừ. Trong vùng hiện có rất nhiều đàn ông độc thân nên Clancy nghĩ rằng sẽ thu lời khá khi có người may cắt ngay tại cửa hàng để cung cấp những chiếc áo đúng kích thước cho số đàn ông không có phụ nữ giúp việc may vá đó.
Mẹ nhìn nhận:
- Đúng là một ý nghĩ hay.Bố nói:
- Em đã biết đó. Clancy là một người rất lanh lợi. Ông ta đã mang một chiếc máy may về.
Mẹ thực sự chú ý:
- Một chiếc máy may. Nó có giống bức hình mà mình thấy trên tờ Inter-Ocean không? Nó chạy ra sao?
Bố trả lời:
- Cũng gần tương tự như anh đã hình dung. Em sẽ đạp chiếc bàn đạp bằng bàn chân cho bánh xe chuyển động để điều khiển cây kim
lên xuống. Phía dưới cây kim có một thiết bị quấn đầy chỉ. Clancy đã cho bọn anh coi. Nó chạy nhanh như chớp và ghép đường mép khít tới mức em sẽ phải thích coi.
Mẹ nói:
- Em không rõ giá chiếc máy đó bao nhiêu.
Bố nói:
- Với những người bình thường thì giá quá cao. NhưngClancy mua máy để đầu tư. Ông ta sẽ kiếm lời để thu tiền vốn về. Mẹ nói:
- Dĩ nhiên là thế.
Laura biết là cô đang nghĩ sẽ làm được rất nhiều công việc với một chiếc máy như thế nhưng dù họ
có đủ khả năng thì cũng là điên rồ khi tính mua một chiếc máy chỉ để dùng riêng trong nhà.
- Có phải ông ta muốn Laura tới học cách điều khiển máy may không?
Laura phát hoảng. Cô không thể chịu trách nhiệm về một tai nạn nào xảy ra với chiếc máy như th ế.
Bố đáp:
- Ô, không! Người điều khiển máy là bà White. Bà ấy muốn có một cô gái khéo léo giúp việc khâu tay.
Bố nói với Laura:
- Bà ấy hỏi Bố có biết một cô gái nào như thế không. Bố nói con là một người khâu vá rất khéo và bà ấy muốn con tới giúp bà ấy. Clancy đã nhận được số hợp đồng nhiều vượt khỏi mức lo liệu của bà ấy. Bà ấy nói là bà ấy sẽ trả theo mức lương hai mươi lăm xu mỗi ngày và thêm bữa ăn trưa.
Laura tính nhẩm rất nhanh ở trong đầu. Như thế là mỗi tuần sẽ có một đôla rưỡi và một tháng sẽ có hơn sáu đô-la. Nếu cô làm việc tốt, vừa ý bà White thì cô có thể có việc làm suốt mùa hè. Có thể cô sẽ kiếm được mười lăm đô-la, thậm chí hai mươi đôla, để giúp cho Mary đi học.
Cô không hề muốn ra thị trấn làm việc giữa những người lạ. Nhưng cô không thể bỏ qua dịp may kiếm mười lăm đô-la hoặc chỉ là mười hay năm đô-la. Cô nuốt nước miếng và hỏi: - Con đi được không, Mẹ?
Mẹ thở dài:
- Mẹ không thích điều này lắm, những con sẽ không phải tới đó một mình. Bố cũng làm việc ở thị
trấn. Thôi được, nếu con thích thì con có thể đi. Laura ngập ngừng: - Con… không muốn Mẹ phải gánh hết việc nhà. Carrie lập tức đề nghị được phụ giúp. Cô có thể
dọn giường, quét nhà, rửa chén đĩa và gieo hạt trong vườn. Mẹ nói Mary cũng giúp được rất nhiều việc trong nhà và lúc này đã có hàng rào giữ gia súc nên công việc phải làm vào buổi tối không nhiều lắm. Mẹ nói: - Mọi người sẽ thấy thiếu con, Laura, nhưng có thể lo liệu công việc được.
Sáng hôm sau không có nhiều thời gian để bỏ phí. Laura đi xách nước, vắt sữa Ellen rồi vội vã rửa mặt, chải đầu, kết bím tóc. Cô mặc chiếc áo vải bông mới nhất, đi vớ dài, mang giầy. Cô lận chiếc đê vào trong chiếc tạp dề vừa ủi xong. Bữa ăn sáng không còn hương vị gì vì cô phải nuốt thật nhanh.
Cô buộc dải mũ rồi hối hả đi theo Bố. Hai cha con phải có mặt ở thị trấn để làm việc vào lúc bảy giờ.
Hơi mát buổi sáng tỏa lan trong không khí. Lũ chiền chiện đồng đangca hót trong âm vangcủa những tiếng động từ đầm Big Slough vẳng lên. Đúng là một buổi sáng tuyệt đẹp và sôi động nhưngBố cùng Laura rất vội. Cả hai đang phải chạy đua với mặt trời. Nhưng mặt trời vươn lên không cần một cố
gắng nào trong khi hai cha con phải ráng sức bước thật nhanh về con đường ở phía bắc đồng cỏ để đi tới phía nam của phố Main Street.
Thị trấn đã thay đổi gần như thành một nơi khác hẳn. Hai khu ở mé tây phố Main Street đã chen chúc những công trình kiến trúc mới bằng gỗ thông vàng chóe. Phía trước những công trình kiến trúc mới này là một dải vỉa hè mới lát ván. Bố và Laura không có thời giờ băng qua phố để tới đó. Hai cha con nối theo nhau theo lối đi hẹp lầm bụi phía bên kia phố.
Ở đây đồng cỏ vẫn lấn sâu vào tất cả những lô đất trống chạy thẳng tới khu chuồng ngựa và ngôi nhà của Bố nằm ở góc các phố Main và Second. Nhưng phía đối diện trên phố Second Street đã có một ngôi nhà mới xuất hiện trên lô đất nằm ở một góc. Phía bên kia ngôi nhà này là một lối đi tắt băng qua nhiều lô đất trống để dẫn tới cửa hàng mới của ôngClancy.
Phía trong cửa hàng không có một loại hàng nào khác ngoài vải vóc. Laura chưa khi nào được nhìn thấy một cửa hàng nào chỉ bán riêng các thứ vải như thế.
Bên tay phải cô là một quầy hàng ngắn trên mặt lồng kính và đặt ở bên trong những mảnh giấy cứng có đủ loại khuy, kim và kẹp. Trên chiếc quầy bên cạnh là một khung giá đầy những cuộn chỉ đủ màu.
Ánh sáng chiếu qua các khuôn cửa sổ làm nổi bật thêm màu sắc của
những cuộn chỉ này.
Chiếc máy may nằm ngay phía sau đầu một quầy hàng gần bên cửa sổ. Những bộ phận bằng kền cùng cây kim dài lấp lánh và mặt gỗ đánh véc-ni sáng loáng. Trên đường gờ mỏng màu đen của chiếc máy may đang dựng đứng một cuộn chỉ trắng. Laura không dám đụng tay vào bất cứ thứ gì.
ÔngClancy đang mở một xấp vải bông trước hai khách hàng đàn ông áo quần dơ dáy.
Một phụ nữ to lớn, mập mạp có mái tóc đen ghim chặt bằng lược đang ướm những mảnh mẫu bằng giấy báo trên xấp vải bông trải trên mặt quầy gần chiếc máy may. Bố nhấc chiếc mũ ra lên tiếng chào bà ta.
Bố nói:
- Chào bà White, đây là con gái tôi, Laura.
Bà White lấy chiếc kim ra khỏi miệng và nói:
- Tôi hy vọng cháu sẽ là một người may nhanh và chuẩn. Cháu có thể khâu lược những đường viền chéo và thùa tốt khuyết áo được không?
Laura nói:
- Dạ được, thưa bà.
Bà White nói:
- Tốt, cháu treo mũ lên chiếc đinh kia rồi tôi giao việc cho. Bố mỉm cười khuyến khích Laura rồi bước đi. Laura hy vọng cảm giác hoảng sợ tới phát run của cô sẽ mất đi đúng lúc. Cô treo mũ, buộc tạp dề và đeo chiếc đê vào ngón tay. Bà White đưa cho cô những mảnh áo để lược ghép lại và nhắc cô ngồi ở chiếc ghế gần máy may bên cửa sổ. Laura vội kéo lui chiếc ghế lại một chút để chiếc máy may che kín một phần cho cô tứ phía ngoài phố nhìn
vào. Cô cúi đầu vào công việc và lược rất nhanh.
Bà White không nói một tiếng nào. Lo lắng và quay cuồng, bà ghép những mảnh vải mẫu vào các cuộn vải rồi với chiếc kéo dài, bà cắt từ chiếc áo này qua chiếc áo khác. Ngay khi Laura vừa lược ghép xong một chiếc áo, bà White lấy liền ra khỏi tay cô và trao cho cô một chiếc khác để lược tiếp.
Một hồi sau bà ngồi vào máy. Bà xoay chiếc bánh xe bằng bàn tay rồi bàn chân bà đạp nhanh trên bàn đạp ở phía dưới giữ cho bánh xe quay tít. Tiếng vo vo vang động của chiếc máy dồn đầy trong đầu Laura không khác tiếng của một bầy ong nghệ khổng lồ. Chiếc bánh xe quay vùn vụt và chiếc kim như một vệt chớp. Những bàn tay phốp pháp của bà White trườn trên tấm vải giữ cho nó chạy nhanh dưới mũi kim.
Laura ráng hết sức lược ghép thật nhanh. Cô đặt chiếc áo lược xong lên đống đồ đang vơi dần bên phía tay trái bà White, nắm lấy những mảnh áo của chiếc kế tiếp đặt sẵn trên quầy và lược tiếp. Bà White
lấy những chiếc áo đã lược xong từ trong đống đặt lên máy để may rồi chất đống bên phía tay mặt. Đó là cách di chuyển của những chiếc áo từ quầy hàng qua Laura để tới một đống rồi qua bà White sang chiếc máy và tới một đống khác. Nó giống như cách di chuyển trên đồng cỏ của những vòng tròn đàn ông và những cặp ngựa khi làm đường sắt. Nhưng chỉ có những bàn tay của Laura chuyển động đưa cây kim chạy thật nhanh dọc theo những đường khâu. Vai cô bắt đầu đau nhức rồi tới sau gáy. Ngực cô bị ép lại và các ống chân tê mỏi nặng chịch.
Tiếng ồn của chiếc máy vo vo trong đầu cô. Đột nhiên chiếc máy ngưng lại, bất động. Bà White lên tiếng:
- Rồi!
Bà đã may dứt chiếc áo cuối cùng được lược xong. Laura vẫn phải lượm một ống tay áo để ghép lược thêm một đường vào cánh tay. Và trên quầy hàng vẫn còn những mảnh của một chiếc áo khác đang nằm chờ. Bà White nhấc chiếc áo đó lên nói: - Tôi sẽ lược chiếc này. Mình bị trễ rồi.
Laura nói:
- Dạ, thưa bà.
Cô cảm thấy cần phải làm nhanh hơn nữa, nhưng cô đã ráng hết sức rồi. Một người đàn ông ngó vào trong cửa. Khuôn mặt lem luốc của ông ta bị phủ kín dưới bộ râu lởm chởm màu đỏ hoe nhiều ngày không cạo. Ông ta hỏi: - Áo của tôi xong chưa, Clancy? ÔngClancy đáp:
- Sẽ xong vào buổi chiều. Lúc người đàn ông to lớn đó đi khỏi, ông Clancy hỏi bà White khi nào chiếc áo đó sẽ xong. Bà White nói bà không biết chiếc áo đó là chiếc nào. Rồi ôngClancy chửi thề. Laura thu nhỏ người lại trong chiếc ghế cố lược thật nhanh. Ông Clancy chộp lấy những chiếc áo trong đống và gần như ném chúng vào bà White. Tiếp tục la hét và chửi thề, ông ta nói bà phải làm xong trước giờ ăn trưa hoặc phải nêu rõ lý do cho ông ta biết. Bà White giận dữ nói:
- Tôi không để cho ai sai khiến hoặc dồn ép được. Kể cả anh hoặc bất kỳ một tên Do Thái nào! Lúc đó Laura khó nghe hết nổi những điều bà White nói. Cô mong mỏi một cách tuyệt vọng là được tới một chỗ nào khác. Nhưng bà White nhắc cô cùng đi ăn cơm trưa. Cả hai vào nhà bếp ở phía sau cửa hàng và ôngClancy giận dữ bước theo sau.
Nhà bếp nóng bức, chen chúc và bừa bộn. Bà Clancy đang bày thức ăn lên bàn và ba cô gái nhỏ với một cậu bé đang xô đẩy nhau
khỏi những chiếc ghế. Ông bà Clancy và bà White lớn tiếng cãi cọ và ngồi xuống ăn hết sức ngon lành. Laura không thể hiểu nổi ngay cả những điều họ đang cãi. Cô không thể nói chắc là ông Clancy đang cãi cọ với vợ hay với mẹ và không thể biết hai người kia đang cãi cọ với ông ta hay cãi cọ với nhau.
Họ giận dữ tới mức cô sợ sẽ xảy ra đánh lộn. Rồi ôngClancy nói “đưa bánh mì lại đây” hoặc “rót đầy chiếc ly này, được không?” và bà Clancy làm theo trong lúc họ vẫn réo tên nhau la hét. Đám con nít phớt lờ mọi chuyện. Laura rối tung tới mức không ăn nổi và chỉ muốn trốn đi thật xa. Cô lập tức trở lại ngay với công việc. ÔngClancy từ nhà bếp trở ra vừa đi vừa huýt gió một điệu nhạc tựa hồ ông vừa có một bữa ăn trưa êm ả tốt đẹp với gia đình. Ông hỏi bà White bằng giọng vui vẻ:
- Bao lâu nữa sẽ xong mấy chiếc áo kia?
Bà White hứa hẹn:
- Không quá hai tiếng nữa. Cả hai người chúng tôi sẽ cùng lo. Laura nghĩ tới một câu nói của Mẹ:
- Có rất nhiều loại người để làm thành thế giới.
Chỉ trong vòng hai giờ, họ đã may xong bốn chiếc áo. Laura lược các cổ áo một cách kỹlưỡng, dù những mảnh cổ áo không dễ ghép chính xác vào một chiếc áo. Bà White may áo bằng máy. Rồi tới việc ghép nhữngđường viền vào các mảnh tay áo và các gấu hẹp quanh phía
dưới chiếc áo. Kế tiếp là đối đầu với những vạt trước, nhữngđường viền mở. Sau đó là tất cả những chiếc khuy nhỏ cần được gắn thật chắc và thùa những chiếc khuyết.
Không dễ ấn định khoảng cách thật đều cho mọi chiếc khuyết và rất khó cắt cho những chiếc khuyết
có cùng kích cỡ. Một nhát kéo nhỏ cắt trượt đủ khiến chiếc khuyết quá rộng và chỉ một sợi chỉ bỏ sót lại cũng khiến chiếc khuyết nhỏ hơn.
Khi cắt các khuyết áo, Laura bấm thật mau những đường cắt và cũng thật mau cô khâu bọc những mũi khâu nhỏ để giữ cùng một độ dài và ghép các mép cắt lại sát nhau. Cô ghét thùa khuyết áo đến nỗi cô học làm thật nhanh để tránh phải kéo dài công việc. Bà White nhận xét cách làm của cô và nói: - Cháu có thể qua mặt tôi trong việc thùa khuyết áo.
Sau khi may xong bốn chiếc áo thì chỉ còn hơn ba tiếng đồng hồ để làm việc. Laura tiếp tục lược ghép nốt mấy chiếc áo còn lại trong lúc bà White cắt thêm.
Chưa bao giờ Laura ngồi bất động lâu tới thế. Vai và cổ cô đều đau nhức, những ngón tay thô nhám vết kim đâm sướt trong khi mắt nóng hực và mờ đi. Hai lần cô làm trật và phải làm lại. Cô mừng rỡ được xếp công việc lại và đứng lên khi Bố bước vào. Hai cha con cùng đi thật nhanh trở về nhà. Trọn một ngày đã trôi qua và lúc này mặt trời đang lặn xuống. Bố hỏi cô:
- Con nghĩ thế nào về ngày đầu tiên làm việc có lương, bình-rượu nhỏ? Mọi việc ổn hết chứ?
Cô đáp:
- Con nghĩ là như vậy. Bà White khen con thùa khuyết tốt.
Chương 6
THÁNG HOA HỒNG
Suốt tháng Sáu dễ chịu đó, Laura lo may áo. Khắp các thảm cỏ trên đồng, hoa hồng dại đang nở trải dài những vệt màu hồng lớn, nhưng Laura chỉ nhìn thấy vào lúc sáng sớm khi cùngBố vội vã đi làm. Nền trời nhẹ nhàng buổi sáng đang chuyển dần sang màu xanh sáng và vài cụm mây mùa hạ lẻ loi lờ
lững trôi ngang. Hương thơm hoa hồng lan theo gió và dọc đường đi, những bông hoa vừa nở khoe những cánh hoa tươi với màu nhụy vàng ở chính giữa giống như những khuôn mặt đang ngước nhìn lên. Cô biết chắc vào buổi trưa những cồn mây trắng khổng lồ sẽ trôi trên bầu trời xanh lóng lánh. Bóng mây sẽ kéo qua những thảm cỏ đang chập chờn và những bông hồng ngả nghiêng. Nhưng vào buổi trưa thì cô đang có mặt trong khu nhà bếp ồn ào. Buổi tối khi cô trở về thì hoa hồng đã tàn, cánh hoa đã bị gió thổi bay tan tác. Tuy nhiên lúc này cô cũng không còn nhỏ để tiếp tục chơi đùa nữa. Và thật kỳ lạ khi nghĩ rằng cô đã đi làm để kiếm được số tiền lương đáng kể. Mỗi tối thứ bảy, bà White đưa ra một đô-la rưỡi và Laura cầm về trao cho Mẹ.
Có lần Mẹ nói:
- Mẹ không thích cầm trọn số tiền của con, Laura. Có lẽ con cũng nên giữ lại một phần cho riêng con chứ. Laura hỏi:
- Tại sao, Mẹ? Để làm gì chứ? Con đâu có cần gì. Giày của cô vẫn còn tốt, vớ và quần áo đều gần như mới nguyên. Suốt tuần cô chỉ hướng tới niềm vui được mang tiền về nhà đưa cho Mẹ. Cô cũng thường nghĩ rằng đây mới chỉ là bước khởi đầu.
Chỉtrong vòng hai năm nữa, cô đã tròn mười sáu tức đủ tuổi để đi dạy học. Nếu cô học hành chăm chỉ và tận tâm để giành được tấm chứng chỉ giáo viên sau đó đi dạy học thì cô có thể thực sự giúp đỡ cho Bố Mẹ. Khi đó cô có thể bắt đầu bù đắp lại tất cả những tốn kém phải trả cho cô kể từ khi cô còn là một đứa trẻ sơ sinh. Chắc chắn nữa là việc có thể gửi Mary tới trường.
Nhiều lúc gần như cô muốn Mẹ tính coi sau này cô cần kiếm bao nhiêu tiền mới đủ giúp cho Mary được tiếp tục học nếu lúc này Mary có thể tới trường. Không khi nào cô dám nói rõ điều đó vì sợ phải nghe Mẹ bảo đây là một may mắn quá lớn khó với tới nổi. Tuy nhiên, chính niềm hy vọng mong manh đã giữ cho cô vui vẻ ra thị trấn làm việc. Số tiền lương của cô vẫn là một sự đóng góp. Cô biết Mẹ phải dành dụm từng xu và Mary sẽ được gửi tới trường ngay khi Bố Mẹ đủ sức làm việc đó. Thị trấn giống như một vết đau trên đồng cỏ hoang vu tuyệt đẹp. Những đống cỏ khô cũ cùng những đống phân bón đang mục rữa quanh các khu chuồng còn phía sau khung mặt tiền giả của các cửa hàng đều sần sùi xấu xí. Lúc này cỏ đã thưa hẳn ở ngay cả phố Second Street và bụi đất mù mịt bốc lên ngay giữa các tòa
nhà. Thị trấn nồng nặc mùi hôi mốc, mùi rác rưởi hòa với mùi khói và dầu mỡ nấu nướng. Từ các quán rượu xông lên mùi ẩm ướt và từ các khung cửa sau đầy nước rửa chén được hắt ra luôn đọng mùi chua như men rượu. Nhưng chỉ cần có mặt một lúc trong thị trấn là không ai còn ngửi thấy mùi gì và sẽ lưu ý tới những người lạ qua lại. Đám con trai con gái mà Laura gặp ở thị trấn vào mùa đông vừa qua lúc này đã vắng mặt. Tất cả đều chuyển về sống trong các nông trại. Những chủ cửa hàng còn ở lại tiếp tục buôn bán đều sống đơn độc
trong những căn phòng ở phía sau vì vợ con họ đang qua mùa hè tại những căn lều trại trên đồng cỏ. Theo luật thì một người sẽ bị mất quyền khai thác đất nếu gia đình không sống tại đó đủ sáu tháng mỗi năm trong thời gian năm năm. Cũng theo luật thì mỗi người được cấp đất phải khai phá mười mẫu để gieo trồng trong năm năm trước khi được Nhà Nước công nhận quyền sở hữu chủ đất đai. Nhưng không ai có thể sống nổi trên vùng đất hoang vu này. Cho nên suốt mùa hè các bà và các cô sống trong lều trại để giữ đúng qui định còn đám con trai lo khai phá đất, gieo hạt trong lúc những người cha vào thị trấn nhận công việc xây cất để cố kiếm đủ tiền mua thức ăn và dụng cụ cần thiết từ
miền Đông gửi tới. Càng thấy rõ thị trấn, Laura càng nhận ra gia đình cô đã may mắn chừng nào.
Chủ yếu là Bố đã bắt đầu mọi việc sớm hơn mọi người trọn một năm. Từ năm trước Bố đã cày vỡ
đất. Lúc này họ đã có vườn rau trái, có đồng lúa mạch và vụ bắp thứ hai đang vươn lên mạnh mẽ trên phần đất khai phá. Cỏ khô đã được đánh đống dư dùng qua mùa đông và Bố còn có thể đem bán bắp với lúa mạch để mua than. Bây giờ những người mới định cư mới bắt đầu những công việc mà Bố đã bắt đầu từ năm ngoái. Khi ngước nhìn lên trong lúc đang làm việc, Laura có thể nhìn thấy gần như toàn bộ thị trấn, vì hầu hết những tòa nhà đều gom trong hai khu nằm bên kia phố. Tất cả những mặt tiền đều dựng đứng vuông vức với những độ cao khác nhau cố tạo ra ấn tượng mọi tòa nhà đều là nhà hai tầng.
Khách sạn Mead ở cuối phố và khách sạn Beardsley gần như đối diện với Laura và cửa hàng đồ gỗ
Tinkham gần giữa khu nhà kế cận là thực sự cao hai tầng. Những tấm màn cửa đung đưa nơi các ô cửa sổ ở tầng trên tỏ rõ mức độ
chân thực của những căn nhà này trong đám các mặt tiền giả. Đó là sự khác biệt duy nhất giữa mấy căn nhà này so với các căn nhà khác. Tất cả các căn nhà đều làm bằng ván thông đang bắt đầu ngả sang màu xám. Phía trước mỗi căn nhà đều có hai ô cửa sổ cao lồng kính nằm hai bên cửa ra vào. Lúc này các cửa ra vào đều mở để nhận không khí ấm và đều có tấm che làm bằng một dải lưới muỗi màu hồng nhạt đính vào một chiếc khung.
Phía trước các căn nhà đều có những vỉa hè lát ván bằng phẳng và dọc theo các vỉa hè là những cọc buộc ngựa. Một vài con ngựa luôn được cột rải rác đây đó và thỉnh thoảng lại xuất hiện một cỗ xe do ngựa hoặc bò kéo.
Một bữa một tiếng hét giận dữ khiến cô giật nảy mình. Cô thấy một người đàn ông cao lớn lao ra khỏi quán Brown. Tấm chắn cửa đóng sập lại cực mạnh phía sau ông ta. Bằng một vẻ nghênh ngang, ông ta quay ngược lại. Ông ta kênh kiệu nhìn tấm che cửa rồi nhấc chiếc chân dài lêu nghêu lên chọc thẳng bàn chân một cách miệt thị qua lớp lưới muỗi màu hồng. Tấm lưới rách toạc từ trên xuống dưới. Một tiếng hét phản đối vang lên từ trong quán. Người đàn ông cao gầy làm như không nghe thấy tiếng hét. Ông ta khinh khỉnh quay đi và nhìn thấy đang đứng sững phía trước là một người mập tròn hơi lùn. Người hơi lùn muốn bước vào trong quán. Người cao gầy muốn bỏ đi. Nhưng người nọ lại đứng chặn phía trước người kia. Người cao gầy đứng ưỡn cao nghênh ngang. Người mập lùn cũng đứng vênh váo tự đắc.
Trong khung cửa của người chủ quán đang than phiền về tấm che cửa bị rách. Không ai trong hai người đàn ông kia để ý đến người chủ quán. Họ tiếp tục nhìn nhau với vẻ ngạo nghễ mỗi lúc một tăng
thêm.
Đột nhiên, người cao gầy tìm ra được điều gì phải làm. Ông ta khoác cánh tay dài nghêu của mình vào cánh tay mập mạp của người lùn và cả hai cùng bước xuống vỉa hè cất tiếng hát: Kéo tay rầm, hỡi chàng thủy thủ Kéo tay rầm bằng sức đôi tay, Coi gió bão như tuồng xếp xó. Người cao gầy trịnh trọng nhấc ống chân dài ngoằng lên và thọc thẳng bàn chân qua tấm lưới cửa trước nhà Harthorn.
Một tiếng hét vang lên:
- Ê, cái gì…
Hai người đàn ông bước tới và hát tiếp: Dù nó gầm chuyển chín tầng mây Kéo tay rầm, hỡi chàng thủy thủ Cả hai nghênh ngang tới cùng cực. Những ống chân dài của người cao gầy bước những bước dài tối đa. Người mập lùn vênh váo cũng cố xoạc những chiếc chân ngắn ngủn để bước những bước dài xấp xỉ. Coi gió bão như tuồng xếp xó. Người cao gầy lại thọc mạnh bàn chân qua tấm lưới muỗi che cửa của khách sạn Beardsley. ÔngBeardsley xuất hiện như nổi điên. Người đàn ông vẫn bước đi một cách trịnh trọng và hát: Dù nó gầm chuyển chín tầng mây. Laura cười tới mức nước mắt chảy ràn rụa. Cô thấy ống chân dài trịnh trọng xé toạc tấm lưới muỗi trước cửa hàngBarker. ÔngBarker nhào vọt ra chửi bới. Những ống chân dài hùng dũng và những chiếc chân ngắn ngủn trang trọng vươn tới rời xa ông ta một cách khinh miệt. Kéo tay rầm bằng sức đôi tay. Người cao gầy đặt bàn chân lên tấm lưới che trước cửa hàng thực phẩm Wilder. Royal Wilder giật tấm che bật mở ra và tuôn ra một loạt những điều anh ta nghĩ.
Hai người đàn ông dừng lại lắng nghe một cách nghiêm trang cho tới khi anh ta ngưng lại để lấy hơi.
Lúc đó người lùn mập lên tiếng đầy vẻ kiêu hãnh:
- Tên tôi là Tay Pay Pryor và tôi là người say rượu. Cả hai khoác tay nhau bước đi, hát những lời vừa nói. Trước tiên là người mập lùn lên tiếng:
- Tên tôi là Tay Pay Pryor
Rồi cả hai cùng rống lên như những con ễnh ương:
- Và tôi là người đang sayrượu. Người cao gầy không hát mấy tiếng xưng tên mình là T.P Pryor nhưng luôn hòa theo một cách trang trọng mấy tiếng “và tôi là người đang say rượu”. Cả hai đảo vòng quanh và bước vào một quán rượu khác. Tấm che cửa quán đóng sầm lại thật mạnh sau lưnghọ.
Laura cố nén hơi nhưng đó là một tấm lưới che cửa còn nguyên vẹn. Laura cười cho tới khi hai bên sườn đau nhức. Cô không thể ngưng lại ngay cả khi bà White quát lên rằng hạng đàn ông chỉ biết ních đầy rượu vào người như thế thật là ô nhục đối với cả lũ rắn. Bà White nói: - Thử nghĩ tới số tiền chi phí về tất cả những tấm che cửa đó. Tôi hết sức ngạc nhiên về cháu. Đám trẻ nông thôn thời buổi này giống như không hiểu biết gì.
Tối hôm đó khi Laura cố tả cho Mary có thể hình dung rõ hai người đàn ông thì không một ai cười cả. Mẹ thắc mắc:
- Trời đất ơi, Laura. Làm sao con lại cười nổi vì những người say rượu?
Mary thêm:
- Chị nghĩ chuyện đó thật kinh khủng.
Bố nói:
Người cao gầy là Bill Dowd. Anh trai ông ta đã đưa ông ta tới đây lo việc trong trại và giữ cho ông ta không say sưa. Hai quán rượu trong thị trấn này cũng vẫn là quá nhiều.
Mẹ nói:
- Tội nghiệp là có rất nhiều người không nói như thế. Em bắt đầu tin rằng nếu không chấm dứt được trò rượu chè thì đám đàn bà sẽ phải bận rộn và có vấn đề cần lo với chuyện đó.
Bố nhìn Mẹ bằng ánh mắt tinh quái:
- Hình như em nói hơi nhiều quá rồi, Caroline. Mẹ chưa bao giờ nghi ngờ anh là một thứ sâu rượu và cả em cũng vậy. Mẹ nói:
- Dù sao cũng phải nói. Thật xấu hổ tới phát khóc khi những điều như thế có thể xảy ra ngay trước mắt Laura.
Bố nhìn Laura và ánh mắt Bố vẫn chưa hết vẻ tinh quái. Laura biết rằngBố không thấy bị xúc phạm vì bị cô cười.
Chương 7
CHÍN ĐÔ-LA
ÔngClancy không còn nhận được nhiều khách đặt may áo nữa. Hình như hầu hết những người cần may áo trong năm đó đều đã đặt may. Một buổi tối thứ bảy bà White nói:
- Đợt mua hàng mùa xuân đã dứt rồi.
Laura nói:
- Dạ, thưa bà.
Bà White đếm một đô-la năm mươi xu đưa cho cô:
- Tôi không còn cần cháu phụ giúp nữa. Sáng thứ hai cháu khỏi cần tới làm. Bà tiếp:
- Tạm biệt.
Cô chào đáp lại:
- Tạm biệt bà.
Cô đã làm việc tròn sáu tuần lễ và lãnh được chín đô-la. Trước đó sáu tuần lễ, một đô-la có vẻ là một món tiền quá lớn đối với cô, nhưng lúc này chín đô-la vẫn chưa đủ. Nếu cô có thể làm việc thêm chỉ
một tuần lễ nữa thì số tiền kiếm được sẽ là mười đô-la rưỡi hoặc tròn mười hai đô-la nếu làm thêm được hai tuần.
Cô biết sẽ vô cùng dễ chịu khi lại được ở nhà để phụ giúp mọi thứ như lo liệu các việc thường lệ, chăm sóc khu vườn, đưa Mary đi dạo, ngắt những bông hoa dại và ngóngBố trở về vào buổi tối. Dù vậy cô vẫn có cảm giác bị gạt bỏ và thấy trong người trống trơn. Cô bước chầm chậm dọc theo hè phố Main Street. Lúc này Bố
đang xây cất căn nhà ở góc phố
Second. Bố đã đứng cạnh một đống ván chờ Laura và vừa nhìn thấy cô, Bố đã gọi lớn:
- Coi mình có thứ gì này, phải đem liền về cho Mẹ thấy. Ngay dưới đống ván là một chiếc giỏ lớn với một túi lúa. Bên trong giỏ vang lên những tiếng móng chân cào nhẹ và những tiếng chíp chíp kêu đồng loạt. Những con gà con!
Bố nói:
- Boast mang tới bữa nay. Cả thảy mười bốn con, tất cả đều phổng phao và rất khỏe. Gương mặt Bố
sáng rỡ vì đoán trước được sự thích thú của Mẹ.
Bố nói với Laura:
- Chiếc giỏ không nặng lắm. Con khiêng một bên với Bố và mình sẽ giữ cho cân bằng. Hai cha con xuôi xuống phố Main Street, quẹo ra con đường dẫn về nhà trong lúc khiêng chiếc giỏ một cách cẩn thận. Ánh hoàng hôn như đốt cháy bầu trời bằng lớp màu đỏ hực pha với
màu vàng. Bầu không khí đầy ắp ánh sáng rực rỡ và mặt hồ Nước Bạc trải dài về phía đông chói chang như đang bốc lửa. Từ trong giỏ vẫn đang vang lên tiếng kêu ngỡ ngàng và e ngại của bầy gà con.
Laura nói:
- Bố, bà White không còn cần con phụ giúp nữa.
Bố đáp:
- Ừ, Bố đoán là đợt công việc mùa xuân sắp dứt hẳn rồi. Laura không nghĩ rằng công việc của Bố có thể chấm dứt. Cô hỏi: - Ô, Bố, việc làm mộc cũng không tiếp tục nữa sao? Bố nói:
- Không thể mong nó kéo dài suốt mùa hè được. Bằng cách nào thì cũng sắp tới lúc phải lo việc cắt cỏ khô rồi.
Laura tiếp sau một hồi im lặng:
- Con chỉ kiếm được chín đô-la thôi, Bố.
Bố nói:
- Chín đô-la không phải là món tiền có thể coi thường được. Ngoài ra, con đã làm việc rất tốt và rất hợp ý bà White, đúngkhông? Laura đáp thành thực:
- Dạ.
Bố nói:
- Như thế là một công việc tốt đã được hoàn thành tốt. Đúng chắc là có thể ưng ý phần nào. Laura cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút. Thêm nữa, hai cha con lại đang mang về cho Mẹ một bầy gà con. Mẹ mừng rỡ khi nhìn thấy bầy gà. Carrie với Grace bu lại để
ngó bầy gà trong giỏ còn Laura thì kể về chúng cho Mary nghe. Đó là những con gà con khỏe khoắn, lanh lẹ với những con mắt đen long lanh và những móng chân màu vàng bóng. Tất cả đều đang trong lúc rụng lông măng để lộ những khoảng cổ trụi lủi và trên cánh và đuôi những chiếc lông cứng đang nhú ra. Chúng mang đủ mọi thứ màu sắc và có cả những con đốm nhiều màu.
Mẹ khẽ nhấc từng con lên đặt vào vạt chiếc tạp dề. Mẹ nói: - Bà Boast không thể gom số gà này từ một lứa trứng. Em tin rằng trong số này không có nhiều hơn hai con gà trống.
Bố nói:
- Vợ chồngBoast được lợi thế là có cả một bầy gà con để sắp đặt ăn
thịt gà giò vào mùa hè này. Có lẽ bà ấy đã lựa ra vài con gà trống để nuôi làm gà thịt.
Mẹ đoán:
- Chắc như vậy. Và bà ấy đã thay vào bằng một số gà mái để nuôi làm gà đẻ. Thật hết chỗ để chê trách với bà Boast. Không khi nào còn có một phụ nữ rộng rãi hơn được.
Mẹ giữ nguyên bầy gà trong vạt tạp dề đem đặt từng con vào chiếc chuồng mà Bố đã đóng sẵn. Mặt chuồng phía trước làm bằng những thanh gỗ mỏng cho thông thoáng nắng gió với một khuôn cửa nhỏ có then cài. Chuồng không lót sàn đặt ngay trên lớp cỏ sạch cho lũ gà có thể bới kiếm mồi và khi cỏ đã bị giẫm đạp dơ dáy thì có thể chuyển sang những vùng cỏ tươi khác.
Mẹ trộn cám với tiêu nghiền kỹ trong chiếc chảo cũ và đặt vào trong chuồng. Bầy gà chen chúc giành ăn tới mức mổ lầm vào chính chân của mình. Khi không còn ăn thêm nổi nữa, chúng bám đậu trên mép chảo nước cố vốc nước vào mỏ rồi vươn cao cổ và ngả đầu về phía sau để nuốt.
Mẹ nhắc công việc của Carrie là thường xuyên lo cho gà ăn và giữ cho chảo nước lúc nào cũng có
đầy nước sạch. Hôm sau Mẹ thả gà ra và phần việc của Grace là phải trong chừng không cho lũ ó bắt gà. Sau bữa tối hôm đó Mẹ sai Laura ra coi lại xem bầy gà có đang ngủ an toàn không. Các vì sao đang lấp lánh trên đồ ng cỏ sẫm tối và mảnh trăng lưỡi liềm đang nằm sát chân trời phía tây. Các đám cỏ đang thở nhẹ nhàng và ngủ mê trong trời đêm tĩnh lặng. Bàn tay Laura khẽ vuốt ve những con gà con đang ngủ dồn đống lại cùng nhau ở góc chuồng để giữ hơi ấm. Rồi cô đứng ngắm trời đêm mùa hạ. Cô đứng tại đó
như thế không biết bao lâu cho tới lúc thấy Mẹ từ trong nhà bước ra.
Mẹ khẽ nói:
- Ô, con đứng đó hả, Laura. Vì công việc đã làm xong hết nên Laura quì xuống lòn bàn tay qua then cửa chuồng gà để vuốt ve lũ gà đang chen vào nhau. Sau đó, cô lại đứng nhìn quanh.
Cô nói:
- Chỗ này bắt đầu giống hệt một nông trại rồi.
Đồng bắp và đồng lúa là những vùng sáng nhạt trong bóng tối và khu vườn lởm chởm những khối lá đen ngòm. Ánh sao mờ nhạt giống như những vũng nước đọng lại giữa những dây dưa leo và dây bí rợ. Khó nhìn rõ khu chuồng ngựa thấp bằng đất nhưng từ trong cửa sổ nhà một làn sáng vàng ấm áp đang chiếu ra.
Đột nhiên, Laura nói không kịp nghĩ:
- Ô, Mẹ, con mong Mary có thể được tới trường vào mùa thu này. Câu trả lời của Mẹ hoàn toàn bất ngờ:
- Có thể sẽ như thế. Bố và Mẹ đã bàn bạc về việc đó. Laura không thể lên tiếng ngay được. Rồi cô hỏi:
- Mẹđã… Mẹ đã nói gì với chị ấy chưa? Mẹ nói:
- Chưa. Mình không thể chỉ khơi lên những hy vọng rồi đem lại thất vọng. Nhưng với số tiền Bố
kiếm được và nếu không tính lầm về khoản thu do lúa mạch và bắp thì Bố Mẹ tin là đã có thể cho Mary tới trường vào mùa thu này. Mình còn phải nhờ cậy vào những tính toán dựa trên sức của mình để lo cho Mary được theo đủ khóa học bảy năm ở cả hai trường dạy chữ và dạy nghề.
Đó là lần đầu tiên Laura nhận ra rằng khi Mary rời nhà tới trường
cũng là lúc Mary sẽ rời xa hẳn.
Mary sẽ ra đi. Suốt ngày sẽ vắng mặt Mary. Laura không thể nghĩ nổi sẽ sống thế nào khi không có Mary.
- Ô, con mong là…
Cô bắt đầu nói rồi ngưng lại. Chính cô đã vô cùng nôn nóng hy vọng Mary có thể được tới trường.
Mẹ nói một cách bình tĩnh:
- Ừ, cả nhà sẽ thấy nhớ Mary. Nhưng mình phải nghĩ đây là một cơ hội rất lớn đối với nó.
Laura đáp một cách khổ sở:
- Con biết, thưa Mẹ.
Lúc này trời đêm mênh mông và hoang vắng. Ánh sáng từ trong nhà chiếu ra thật vững chắc và ấm áp, nhưng ngay cả ngôi nhà cũng không còn giữ nguyên như vậy khi vắng mặt Mary. Rồi Mẹ nói: - Chín đô-la của con là một khoản đóng góp rất lớn, Laura. Mẹ đang tính toán và Mẹ tin là với chín đô-la Mẹ có thể mua sắm cho Mary những bộ đồ thật tốt, thậm chí còn có thể may nổi cho Mary một chiếc mũ nhung.
Chương 8
NGÀY BỐN THÁNG BẢY
Bùm! Laura giật mình tỉnh dậy. Phòng ngủ còn tối om. Carrie thì thầm hỏi trong sự kinh hoảng:
- Chuyện gì vậy?
Laura lên tiếng:
- Đừng hốt hoảng
Cả hai đều lắng nghe. Khuôn cửa sổ chỉ mờ xám trong màn đêm nhưng Laura cảm thấy đã quá nửa đêm. Bùm! Không khí giống như bị lay động. Bố kêu lên bằng giọng ngái ngủ: - Súng lớn! Grace thắc mắc:
- Sao vậy? Sao vậy? Bố, Mẹ, sao vậy? Carrie hỏi:
- Ai thế? Họ đang bắn cái gì vậy?
Mẹ lại muốn biết điều khác:
- Mấy giờ rồi?
Bố trả lời từng phần một:
- Mùng Bốn thángBảy, Carrie. - Không khí lại chuyển động. Bùm! - Không phải là súng lớn mà chỉ
là thuốc súng nổ dưới chiếc đe của người thợ rèn trong thị trấn. Tiếng nổ vang động như trong những trận đánh giành độc lập của người Mỹ. MùngBốn thángBảy là ngày đầu tiên người Mỹ tuyên bố rằng mọi con người sinh ra đều tự do và bình đẳng. Bùm! Mẹ gọi:
- Dậy thôi, các con! Mình cần dậy sớm.
Bố nói oang oang:
- Ô, coi này, có phải ánh sáng bình minh sớm không? - Charles!
Mẹ phản đối nhưng chính Mẹ cũng bật cười vì trời vẫn tối mịt. Bố nhảy xuống khỏi giường:
- Không có gì long trọng hơn được! Hoan hô! Chúng ta là người Mỹ. - Bố hát lớn - Hoan hô! Hoan hô! Hát mừng ngày hội lớn! Hoan hô! Hoan hô! Cờ căng gió tự do!
Ngay cả mặt trời vào lúc tỏa sáng trên nền trời trong trẻo dường như cũng biết rằng đó là ngày MùngBốn vẻ vang. Trong bữa ăn sáng, Mẹ nói:
- Đúng là một ngày tuyệt vời cho một cuộc picnic MùngBốn tháng Bảy.
Bố nói:
- Có lẽ thị trấn chưa đủ sức tổ chức picnic đâu, chắc phải chờ tới thángBảy năm sau.
Mẹ nhìn nhận:
- Bằng cách nào thì năm nay cũng khó có nổi một cuộc picnic. Vì có vẻ như không phải là picnic khi thiếu món gà giò chiên. Sau phần khởi đầu như thế, ngày lại có vẻ trống rỗng. Dường như vào một ngày đặc biệt như thế
luôn có sự chờ đợi xẩy ra một điều đặc biệt nhưng lại không có điều gì đặc biệt xẩy ra. Trong lúc hai chị em rửa chén đĩa, Carrie nói: - Em thấy thích thay quần áo.
Laura đáp:
- Chị cũng vậy, nhưng có chuyện gì cần thay quần áo đâu. Khi mang nước rửa chén ra ngoài xa để
đổ, cô thấy Bố đang ngắm đám lúa mạch. Lúc mọc dầy, cao, xanh nhạt đang dồn xô trong gió. Bắp cũng vươn lên mạnh mẽ. Những cánh lá dài màu xanh vàng đung đưa gần như che kín hết mặt đất.
Trong vườn, dây dưa leo bò lan ra với các tay móc vươn thẳng phía dưới những tàn lá xòe lớn. Góp
mặt thêm là những luống đậu, những luống cà-rốt lá xanh mượt và những luống củ cải đường với những đọt lá dài màu sậm trổ trên những cọng màu đỏ. Đậu phộng cũng lên thành những khóm nhỏ. Trên đám cỏ hoang, bầy gà đang cào bới, đuổi bắt sâu bọ. Tất cả hình ảnh đó đã đủ vui mắt vào một ngày bình thường, nhưng vẫn cần có thêm một điều gì khác cho ngày MùngBốn thángBảy. Bố cũng cảm thấy như thế. Bố không có việc gì để làm, vì ngoài việc nhà và công việc thường lệ, không được làm việc gì khác trong ngày MùngBốn thángBảy. Một lát sau Bố quay về nhà và nói với Mẹ: - Hôm nay ở thị trấn có một buổi lễ, em có thích tới dự không? Mẹ hỏi:
- Có loại hoạt động gì?
Bố đáp:
- Thường là có đua xe ngựa, nhưng cũngcó tuyển chọn nước chanh. Mẹ nói:
- Phụ nữ không thích coi đua xe. Và em cũng không thể là một người khách không mời mà đến vào ngày MùngBốn thángBảy. Laura và Carrie đứng gần như sắp nổ bung ra vì nôn nóng trong lúc Mẹ cân nhắc và lắc đầu:
- Anh đi đi, Charles. Cách nào thì chuyện đó cũng quá mệt với Grace.
Mary nói:
- Ở nhà thích hơn nhiều.
Rồi Laura lên tiếng:
- Ôi, Bố, nếu Bố đi, con và Carrie có theo được không? Những con mắt nghi ngại của Bố bỗng sáng lên nhìn cô và Carrie. Mẹ mỉm cười, nói:
- Được thôi, Charles, cũng sẽ là một cuộc đi dạo thú vị đối với mấy cha con.
Carrie chạy mau xuống hầm chứa mang bơ lên đây để Mẹ chuẩn bị bánh mì bơ cho mang theo trong lúc mấy cha con lo thay đồ. Thình lình ngày bỗng có vẻ thực sự là ngày MùngBốn thángBảy. Mẹ làm bánh mì kẹp thịt, Bố bôi xi mấy chiếc ủng, Laura và Carrie tíu tít thayđồ. May là chiếc áo vải bông in hình những nhánh cây non của Laura mới được giặt ủi xong. Cô và Carrie lao tới thau nước kỳ cọ tai, cổ và mặt tới mức ửng đỏ lên. Choàng lên những bộ váy lót dài bằng vải thường là những bộ áo váy bằng vải mịn đã được tẩy trắng. Các cô chải đầu và bện tóc. Laura quấn bím tóc quanh đầu và kẹp lại. Cô cột dải
băngdành cho ngày chủ nhật vào bím tóc của Carrie. Rồi cô mặc thêm chiếc áo vải bông cài nút ở
sau lưng. Vạt váy xếp nếp đụng tới cổ giầy của cô. Carrie yêu cầu: - Cài nút giúp em đi.
Cô bé không thể với tay tới hai chiếc nút áo ở giữa lưng. Tất cả những chiếc nút khác cô đã tự cài xong.
Laura nói:
- Em không thể mặc áo cài nút ngược vào phía trong như thế này trong ngày MùngBốn thángBảy.
Và cô gỡ tất cả nút áo đã cài xong để gài lại thật đúng. Carrie phản đối:
- Nếu gài nút bên ngoài thì tóc em sẽ bị kéo xuống. Bím tóc của em sẽ bị móc vào.
Laura nói:
- Chị biết. Tóc chị cũng bị móc hoài. Nhưng em phải giữ bím tóc thật thẳng cho tới khi em đủ lớn để
quấn tóc lên.
Các cô đội mũ lên. Bố cầm trong tay túi giấy màu nâu bọc bánh mì kẹp thịt, đang đứng đợi. Mẹ
ngắm các cô thật kỹ và nói:
- Các con xinh lắm.
Bố nói:
- Bố thật thích thú được đi dạo với hai cô con gái dễ thươngcủa mình.
Laura nói với Bố:
- Bố cũng có vẻ dễ thương lắm.
Cặp ủng của Bố bóng loáng, bộ râu tỉa kỹ và Bố mặc bộ đồ dành cho ngày chủ nhật với chiếc nón nỉ
rộng vành.
Grace đòi:
- Con muốn đi.
Ngay cả khi Mẹ nói “Không, Grace”, bé vẫn tiếp tục nhắc thêm hai, ba lần câu “Con muốn đi”.
Vì bé còn là một em bé nên cả nhà phải chiều. Lúc này sự ngang ngạnh của bé đã tới mức cần được ngăn chặn. Bố lạnh lùng đặt bé ngồi vào một chiếc ghế và nhắc:
- Con phải nghe lời Mẹ.
Các cô lặng lẽ khởi hành, tội nghiệp cho Grace. Nhưng bé cần được uốn nắn để ghi nhớ. Có lẽ sang năm tới, bé sẽ được đi nếu có một lễ hội lớn và cả nhà cùng di chuyển bằng xe ngựa.
Lúc này các cô đang đi bộ để lũ ngựa được nghỉ bên những sợi dây cột và gặm cỏ. Phải đứng suốt
ngày trong thế buộc dính vào những chiếc cọc cao giữa bụi rậm nóng bức, lũ ngựa sẽ rất mệt.
Grace còn quá nhỏ không thể đi bộ hai lượt qua chặng đường dài hàng dặm và lại quá lớn để ẵm bồng. Trước khi tới thị trấn, các cô đã nghe thấy một tiếng động giống như tiếng bắp rang đang nổ. Carrie không biết là gì và Bố nói đó là tiếng pháo.
Dọc theo phố Main Street rất nhiều ngựa đang bị cột. Đàn ông và đám con trai chen chúc trên vỉa hè đến nỗi ở nhiều khúc gần như mọi người áp sát vào nhau. Đám con trai đang liệng những trái pháo đã bén lửa ra đường phố đầy bụi cho xịt khói và nổ tung. Tiếng nổ vang lên đột ngột.
Carrie thì thầm:
- Em không biết lại có một thứ như thế.
Laura không thích pháo lắm. Từ trước cả hai chưa hề chen chúc trong một đám đông như thế.
Không có điều gì để làm ngoài việc thả bộ tới lui giữa những người lạ khiến các cô cảm thấy không thoải mái. Các cô đi theo Bố qua hai khu phố hết lần thứ hai thì Laura hỏi Bố là liệu cô và Carrie có thể ghé vào ngôi nhà của Bố được không. Bố nói đó là một ý kiến rất tuyệt vời. Hai cô có thể ngắm đám đông trong lúc Bố đảo quanh một lát. Sau đó, họ sẽ ăn bữa trưa rồi đi coi đua ngựa.
Bố cho hai cô bước vào căn nhà trống và Laura đóng cửa lại. Thật dễ chịu được tách riêng ra tại một nơi trống trơn với những âm thanh vang vọng. Các cô ngắm khu nhà bếp trần trụi ở phía sau, nơi mà cả nhà đã sống chen chúc qua suốt mùa đông khắc nghiệt. Rồi nhón chân leo cầu thang lên gác, nơi những căn phòng ngủ nóng hực dưới các mái hiên bằng ván, các cô đứng nhìn qua cửa sổ phía trước xuống đám đông, ngắm những chiếc pháo chạy ngoằn ngoèo rồi phát nổ trong bụi đất.
Carrie nói:
- Em thích có một ít pháo.Laura tưởng tượng:
- Đó là súng. Mình đang ở trong pháo đài Ticonderoga còn kia là lính Anh và người da đỏ. Mình là những người Mỹ đang chiến đấu giành độc lập. Carrie cãi:
- Trong pháo đài Ticonderoga chỉ có lính Anh và những chàng trai Green Mountain đã đánh chiếm pháo đài đó. Cô thừa nhận: - Thế thì chị cho rằng mình đang ở Kentucky cùng với Daniel Boone và đây là hàng rào phòng thủ.
Lính Anh và người da đỏ đã bắt ông ấy làm tù binh. Carrie bỗng hỏi:
- Pháo có mắc tiền không?
Laura nói:
- Giả dụ Bố có đủ sức mua thì cũng không điên mà bỏ tiền ra chỉ để tạo một tiếng nổ nhỏ. Hãy ngắm con ngựa hồng kia kìa. Mình thử chọn những con ngựa mà mình thích nhất coi, em chọn trước đi. Có nhiều ngựa tới mức các cô không tin là đã tới trưa khi nghe tiếng ủng của Bố dưới cầu thang và Bố
lên tiếng:
- Các con, các con đang ở đâu? Các cô chạy ào xuống. Bố khá dễ chịu với những con mắt sáng rỡ.
Bố nói lớn:
- Bố mang về một món ăn rất tuyệt! Cá trích hun khói, để ăn kèm với bánh mì và bơ! Và hãy xem một món khác nữa! Bố đưa ra một bánh pháo. Carrie la lên:
- Ôi, Bố! Bao nhiêu tiền vậy?
Bố nói:
- Không tốn một xu. Luật sư Barnes đưa cho Bố và nói là gửi tặng cho các con.
Laura hỏi:
- Tại sao lại có người tốt như thế? Từ trước, cô chưa từng nghe nhắc tới luật sư Barnes. Bố nói:
- Ồ, Bố nghĩ là ông ta đang tham gia chính trị. Đây là cách thức vận động của ông ta, ân cần lấy lòng mọi người. Các con muốn Bố mở ra ngay hay để tới sau khi ăn xong?
Laura và Carrie đang nghĩ về chuyện đó. Cả hai nhận ra ý nghĩ của nhau khi người nọ nhìn người kia. Carrie lên tiếng:
- Giữ lại đem về cho Grace, Bố.
Bố nói:
- Tốt thôi!
Bố cất bánh pháo vào túi và lấy món cá trích hun khói ra trong lúc Laura mở bọc banh mì kẹp thịt.
Món cá trích thật ngon. Mấy cha con cất lại một ít để đem về cho Mẹ. Khi ăn xong miếng bánh quết bơ cuối cùng, tất cả kéo ra giếng nước và ghé miệng vào cạnh chiếc xô được Bố vục đầy uống ùng ục. Rồi các cô rửa mặt, rửa tay và lau khô bằng chiếc khăn tay của Bố.
Đã tới lúc tới coi đua ngựa. Đám đông đang băng qua đường sắt ra ngoài đồng cỏ. Trên chiếc cột cờ
dựng tại đó, quốc kỳ Mỹ đang phần phật tung bay giữa bầu trời. Nắng ấm và gió thổi nhẹ.
Sát bên cột cờ, một người đàn ông đứng cao vượt khỏi mọi người. Ông ta đang đứng trên một vật gì đó. Tiếng trò chuyện ồn ào lắng hẳn xuống và đã có thể nghe rõ tiếng nói của ông ta. Ông ta nói: - Thưa các bạn, tôi không có khiếu nói trước đám đông, nhưng hôm nay là ngày MùngBốn vinh quang. Đây là ngày kỷ niệm thời kỳ mà cha ông chúng ta đã tách rời khỏi các chế độ chuyên chế u châu. Vào thời kỳ đó, chỉ có rất ít người Mỹ, nhưng tất cả đã không cam chịu cho bất kỳ một ông
hoàng đế nào ngự trị trênđầu mình. Tất cả đã chiến đấu chống lại những luật lệ của người Anh cùng đám giết mướn và bọn man rợ da đỏ bị lũ người giàu có quyền thế lùa tới làm mưa làm gió trên cuộc sống của chúng ta bằng cách trả công cho những trò tàn sát, đốt phá và lột da đầu phụ nữ, trẻ con.
Một nhúm người Mỹ chân trần đã chiến đấu chống lại toàn thể đám người đó quyết đánh bại chúng và đã đánh bại chúng. Vâng, thưa quí ngài! Chúng ta đã đánh bại người Anh vào năm 1776, chúng ta lại đánh bại chúng vào năm 1812 và tống khứ tất cả vua chúa u châu ra khỏi Mexico, quét sạch chúng khỏi lục địa này trong vòng không đầy hai chục năm trước đây và chiến thắng vẻ vang! Vâng, thưa quí ngài, Hào Quang Xưa đang tỏa sáng tại đây, phất phới ngay trên đầu tôi. Bất kể lúc nào các chế độ chuyên chế u châu lăm le đạp lên ngón chân của người Mỹ, chúng ta sẽ lại đánh bại chúng. Mọi người đồng loạt hô lớn:
- Hoan hô! Hoan hô!
Laura cùngCarrie và Bố cũng hô theo:
- Hoan hô! Hoan hô!
Người đàn ông nói tiếp:
- Tốt, thế là hôm nay chúng ta có mặt tại đây. Mỗi người trong chúng ta đều là một công dân tự do và độc lập của xứ sở thần thánh, xứ sở duy nhất trên trái đất có con người tự do và độc lập. Hôm nay là ngày MùngBốn thángBảy, khi toàn thể mọi việc đã bắt đầu và lẽ ra phải có một lễ kỷ niệm lớn hơn buổi lễ này rất nhiều. Nhưng năm nay chúng ta không thể làm hơn được, vì hầu hết những người có mặt tại đây đều đang phải lo cải thiện cuộc sống bản thân bằng nỗ lực của chính mình. Vào năm tới, có khả năng một số người trong chúng ta sẽ khá hơn và có thể sẽ có một lễ kỷ niệm Ngày Độc Lập thực sự phấn khởi. Trong khi chờ đợi, chúng ta đã có mặt tại đây. Đây là ngày MùngBốn thángBảy và vào ngày này phải có một ai đó đọc lên bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Cứ coi như tôi là người đã được chọn để thay mặt cho mọi người, thưa các bạn. Tôi sẽ đọc bản Tuyên Ngôn.
Dĩ nhiên cả Laura lẫn Carrie đều đã thuộc lòng bản Tuyên Ngôn, nhưng cả hai đều cảm thấy vinh dự
đuợc nghe đọc lên từng lời trong đó. Các cô nắm tay nhau đứng lắng nghe giữa đám đông đang lắng nghe một cách trang trọng. Lá cờ Sao Sọc đang tung bay rực rỡ ngay trên đầu giữa vùng trời xanh thênh thang và các cô đang đọc thầm từng lời trước khi nghe xướng lên. - Khi diễn trình tiến hóa của nhân loại cần tới việc một dân tộc giải quyết mối tương quan chính trị
ràng buộc với một dân tộc khác và nhìn nhận sự phân chia cùng sự bình đẳng giữa các quyền lực trên mặt đất theo đúng luật Tự Nhiên và Bản Thể Tạo Hóa, một sự tôn trọng thỏa đáng đối với ý kiến của con người đòi hỏi dân tộc đó phải tuyên ngôn những lý do thúc đẩy họ đi tới sự phân chia.
Chúng tôi nhìn nhận như những sự thực hiển nhiên, rằng mọi người đều được sinh ra hoàn toàn bình đẳng, rằng mọi người đều được Tạo Hóa phú cho những quyền bất khả tước đoạt, rằng trong số những quyền đó gồm có Quyền Được Sống, Quyền Được Tự Do và Quyền Được Mưu Cầu Hạnh
Phúc.
Tiếp theo sau là một danh sách liệt kê dài thượt những tội ác khủng khiếp của HoàngĐế Anh:
- Ông ta đã nỗ lực ngăn cản đời sống của dân cư các xứ sở tại đây. Ông ta đã tạo khó khăn cho việc thực thi Công Lý. Ông ta đã buộc Pháp Luật phải lệ thuộc ý muốn riêng của ông ta. Ông ta đã bày ra
hàng loạt cơ cấu mới, gửi tới đây những bầy thuộc hạ để xách nhiễu nhân dân ta và vơ vét của cải.
Ông ta đã cướp bóc trên mặt biển của chúng ta, đã đánh phá các vùng duyên hải của chúng ta, đã đốt trụi các thị trấn của chúng ta và hủy hoại đời sống nhân dân ta…
Vào thời điểm này, ông ta lại đang gửi các đoàn quân đánh mướn ngoại bang tới để hoàn tất hành vi bắn giết, tàn phá, bạo ngược, bắt đầu diễn tấn tuồng độc ác, xảo trá sánh ngang những thời kỳ man rợ nhất và hoàn toàn bất xứng với một xứ sở văn minh… Vì vậy, chúng tôi, những người đại diện cho Hiệp Chủng Quốc Mỹ trong Quốc Hội đã cùng ngồi lại kêu gọi sự phán xét tối cao của thế giới trước hành động nhân danh các nguyện vọng hợp lý và thẩm quyền của mọi người dân chân chính trên đất nước này, long trọng tuyên bố: Rằng liên hiệp các xứ
thuộc địa có đầy đủ thẩm quyền và đã thực sự là các quốc gia tự do và độc lập. Rằng các quốc gia này không có trách nhiệm phải trung
thành với Hoàng Đế Anh và mọi ràng buộc về chính trị giữa các quốc gia này với đế quốc Anh cần phải hoàn toàn cắt đứt. Rằng với tư cách Tự Do và Độc Lập, các quốc gia này có đầy đủ mọi thẩm quyền để tiến hành đấu tranh…
Và dưới sự hỗ trợ của bản Tuyên Ngôn này, với niềm tin không rời đổi ở sự che chở của Thượng Đế, chúng ta cùng long trọng tuyên hứa giúp đỡ lẫn nhau xây dựng Đời sống của chúng ta, Hạnh Phúc của chúng ta và bảo vệ Danh Dự thiêng liêng của chúng ta. Không một ai hoan hô. Giống như đó là lúc để chỉ nói: - A-men!
Không một ai biết rõ điều cần làm. Rồi Bố bắt đầu hát. Lập tức mọi người cùng cất tiếng hát theo: Tôi với anh cùng chung xứ sở Đời ngọt ngào đất nước tự do Đứng bên anh, tôi lên tiếng hát. … Đất nước ta muôn năm rạng rỡ Lửa Tự Do thần thánh vươn cao Chúa quyền năng ngày đêm nâng dắt
Vua của ta là Chúa nhiệm màu! Rồi đám đông tản dần ra xa, nhưng Laura vẫn đứng im tại chỗ. Một ý nghĩ hoàn toàn mới mẻ nổi lên trong đầu cô. Cô gợi nhớ cùng một lúc cả bài ca lẫn bản Tuyên Ngôn và nghĩ: “Chúa chính là vua của nước Mỹ”.
Cô nghĩ thêm rằng người Mỹ không phải vâng lời bất kỳ một ông vua nào trên mặt đất này. Mọi người Mỹ đều tự do. Điều đó có nghĩa là họ chỉ phải tuân theo lương tri của chính mình. Không một ông vua nào sai phái nổi Bố mà chỉ do chính Bố tự sai phái bản thân mình. Cô tự hỏi: - Tại sao khi mình lớn hơn một chút thì Bố Mẹ không còn chỉ dẫn những điều cần làm? Đó có phải do không một người nào khác có quyền ra lệnh cho mình và chính mình sẽ phải tự lo làm cho mình thành tốt đẹp?
Đầu óc cô bỗng như bừng sáng lên với ý nghĩ đó. Đây là điều phải biết đến để thành người tự do. Ý
nghĩa của tự do là phải hoàn thiện chính mình. “Chúa nhân từ là cha của chúng ta và người tạo ra tự
do”… Luật thiên nhiên ban bố cho mỗi người quyền sống và quyền có tự do. Sau đó, con người phải tuân theo luật Chúa vì luật Chúa là khuôn mẫu duy nhất đem lại cho con người quyền trở thành con người tự do.
Lúc này Laura không còn thời giờ để nghĩ ngợi thêm nữa. Carrie đang thắc mắc tại sao cô cứ đứng im tại chỗ và Bố đang nhắc: - Theo đường này, các con! Ở kia có nước chanh miễn phí! Gần bên cột cờ là những chiếc thùng lớn.
Vài người đàn ông đang chờ tới phiên uống từ một chiếc ca bằng thiếc. Khi uống xong, mỗi người đều trao chiếc ca lại cho người kế tiếp rồi bước về phía những con ngựa và những cỗ xe bên đường đua.
Laura và Carrie hơi do dự chùn lại, nhưng người đàn ông đang cầm chiếc ca nhìn thấy các cô liền đưa cho Bố. Bố múc đầy nước chanh từ trong thùng trao cho Carrie. Thùng gần như vẫn đầy tràn nước chanh với những lát chanh xắt mỏng nổi đầy ở phía trên. Trong lúc Carrie uống chầm chậm, Bố
nói:
- Bố thấy họ cho nhiều chanh như thế chắc là ngon. Những con mắt mở tròn của Carrie đầy vẻ thích thú. Từ trước cô chưa hề biết mùi vị nước chanh.
Một người đàn ông đang đứng chờ, nói với Bố:
- Họ chỉ pha trộn thôi. Nhưng nước được lấy từ trong giếng của nhà hàng nên rất mát.
Một người khác đang đứng chờ lên tiếng:
- Cũng còn tùy thuộc ở lượng đường cho vào nữa. Bố lại lấy một ca
đầy trao cho Laura. Cô từng có lần được uống nước chanh trong dịp dự tiệc mừng của Nellie Oleson khi cô còn là một cô bé ở vùng Minnesota. Nước chanh bữa nay ngon hơn nhiều. Cô uống tới giọt cuối cùng trong ca rồi cảm ơn Bố.
Không hiểu biết chút nào khi đòi uống thêm nữa.
Khi Bố uống xong, tất cả đạp trên cỏ bước theo đám đông tới bên đường đua. Một đường vòng lớn đã được cày phá và chuyển hết đất đi. Chiếc cày phá có gắn lưỡi cày đứng đã lùa hết lớp đất đen
mềm nhuyễn và cán bằng phẳng. Ở phía chính giữa bên trong và bọc khắp xung quanh đường vòng là những thảm cỏ đang chập chờn gợn sóng, ngoại trừ những nơi có vết dẫm đạp của người và các cỗ xe. Bố gọi lớn:
- Ê, chào Boast!
ÔngBoast băng qua đám đông bước tới. Ông tới thị trấn vừa kịp lúc theo dõi các cuộc đua. Bà Boast cũng giống như Mẹ, thích ngồi ở nhà hơn. Bốn con ngựa đã xuất hiện trên đường đua. Có hai con ngựa hồng, một con ngựa xám và một con ngựa ô. Đám con trai ngồi trên lưng ngựa đang đưa ngựa đứng thành một hàng thẳng. Ông Boast hỏi: - Nếu đánh cá thì cháu chọn con nào?
Laura kêu lên:
- Ô, chắc là con ngựa ô! Dưới ánh nắng, bộ lông con ngựa ô mượt bóng, bờm và chiếc đuôi dài như
tơ khẽ bay trong gió. Nó nghển cao chiếc đầu thon chắc và nhấc vó lên một cách dễ thương.
Ngay khi hiệu lệnh “Chạy!” được hô lên, tất cả những con ngựa đều nhảy chồm lên phóng tới. Đám đông bắt đầu la hét. Con ngựa ô hạ thấp người xuống lao nhanh lên trước những con ngựa khác. Những chiếc móng khua dồn dập hất tung bụi lên thành một đám
mây che kín tất cả. Rồi chúng chạy ra xa theo vòng đua tận lực phóng nhanh. Con ngựa xám vươn lên ngang con ngựa ô, chạy so kè với nhau rồi nhích lên trước một chút và đám đông lại la hét. Laura vẫn hy vọng ở con ngựa ô. Nó đang ráng sức phóng nhanh hơn. Từng chút, từngchút, nó vươn lên kịp con ngựa xám. Đầu nó vượt tới ngang cổ con ngựa xám và nó nhoài tới cho mũi nó gần ngang mũi con ngựa xám. Thình lình, cả bốn con ngựa đang bọc vòng lại bỗng chúi đầu xuống sát đường đua, vùn vụt hiện ra mỗi lúc một rõ hơn ngay phía trước trên đường về đích. Chiếc mũi màu trắng của con ngựa hồng bay là là khỏi con ngựa xám và con ngựa ô băng về đích trước cả hai trong tiếng hoan hô cuồng nhiệt của đám đông. Bố nói: - Nếu con đánh cá vào con ngựa ô thì con đã thua rồi, Laura. Laura đáp:
- Dù vậy, nó vẫn dễ thương nhất.
Chưa bao giờ cô bị kích động tới thế. Carrie cũng căng thẳng, mắt long lanh, má đỏ au. Bím tóc của cô vướng vào một chiếc nút áo và cô liều lĩnh giật mạnh cho xổ tung ra. Carrie kêu lớn: - Còn nữa không, Bố? Còn đua nữa không?
Bố đáp:
- Còn chứ, còn đua xe nữa.
ÔngBoast giỡn:
- Chọn cặp ngựa thắng cuộc đi, Laura! Xuất hiện đầu tiên trên đường đua là một cặp ngựa hồng kéo một cỗ xe nhẹ. Cặp ngựa hồng hết sức xứng đôi bước đi tựa hồ sức nặng của cỗ xe không đáng kể gì.
Rồi tới những cặp ngựa khác, những cỗ xe khác nhưng Laura không thể nhìn rõ hết do sự xuất hiện của cặp ngựa nâu mà cô đã biết. Cô đã nhận ra những chiếc đầu rạng rỡ kiêu hãnh, những chiếc cổ
uốn cong và những chiếc bờm đang tung bay với những cụm lông trước trán phủ trên những con mắt tinh anh sáng quắc nhưng hiền hòa. Cô kêu lên:
- Ô, coi đi, Carrie, coi đi! Đó là những con ngựa nâu Morgan! Bố nói:
- Cặp ngựa của Almanzo Wilder đó, Boast. Mà cậu ta cột chúng vào cái đồ quỉ gì vậy?
Almanzo đang ngồi cao vượt trên cặp ngựa. Chiếc mũ trên đầu xô về phía sau, cậu có vẻ thoải mái, tự tin. Cậu đã cho cặp ngựa tới chỗ đứng trên đường đua và tất cả nhìn thấy cậu đang ngồi ngất nghểu trên chiếc ghế cao của cỗ xe cao, dài, nặng nề có cửa ở hai bên. Người đàn ông đang đứng bên cạnh nói: - Đây là cỗ xe chở hàng của Royal, anh trai cậu ta.
Một người khác lên tiếng:
- Đem chiếc xe nặng nề đó ra đọ với những cỗ xe nhẹ nhõm kia thì cậu ta không có một cơ may nào.
Mọi người đều ngắm những con ngựa Morgan và cỗ xe rồi bàn tán. Bố nói với ôngBoast:
- Con ngựa ngoại hạng Prince kia là con ngựa mà mùa đông vừa rồi cậu ta đã đưa đi thực hiện chuyến đi dài bốn mươi dặm cùng với Cap Garland để chở lúa mì về giúp cho tất cả chúng tôi khỏi chết đói. Còn con Lady là con ngựa đã chạy cùng với bầy sơn dương vào lúc đó. Cảhai con đều rất mạnh và mau lắm.
ÔngBoast đồng ý:
- Tôi biết vậy. Nhưng không một cặp ngựa nào có thể kéo cỗ xe cồng kềnh nặng chịch thế kia mà thắng nổi cặp ngựa hồng của Sam Owen chỉ kéo một cỗ xe nhẹ. Có vẻ như chàng trai kia không thể kiếm nổi ở đâu trong vùng này một cỗ xe độc mã nhẹ nhàng.
Một người chen vào:
- Cậu ta là một loại người trẻ có tinh thần độc lập kỳ quặc. Cậu ta cho rằng thà bị thua còn hơn dành phần thắng nhờ đi mượn xe.
ÔngBoast tiếc rẻ:
- Thật tệ là cậu ta lại không có một chiếc xe độc mã riêng của mình. Những con ngựa nâu nổi bật hẳn trên đường đua và hết sức tự hào. Chúng có vẻ như không bận tâm tới cỗ xe nặng nề mà vươn đầu, vểnh tai và nhấc cao chân tựa hồ mặt đất hoàn toàn thoải mái cho chúng phóng lên. Laura nghĩ: - Ôi, đáng xấu hổ biết chừng nào, nếu chúng không có cơ may để hưởng sự công bằng. Các bàn tay cô ép chặt vào nhau. Cô chỉ ước mong những con ngựa tuyệt diệu và tự hào kia phải có một dịp may xứng đáng. Nhưngchúng khó dành chiến thắng nổi khi bị cột vào cỗ xe nặng chịch thế kia. Cô hét lên:
- Ô, bất công quá!
Cuộc đua đã bắt đầu. Những con ngựa hồng phóng lên dẫn đầu đoàn đua. Những ống chân sang bóng của chúng xoải nước kiệu đại và những vành bánh xe giống như không chạm mặt đất. Từng chiếc xe độc mã với một chỗ ngồi độc nhất lao vụt đi như một tia sáng. Không một cặp ngựa nào phải kéo một cỗ xe có hai chỗ ngồi trong khi những con ngựa nâu lẽo đẽo phía sau kéo theo cỗ xe chở hàng cao lêu đêu nặng chịch.
Laura nghe thấy một người nói:
- Cặp ngựa số một trong xứ, nhưng không có cơ may nào. Một người khác nói:
- Vô vọng. Cỗ xe đó quá nặng đối với chúng. Rõ ràng là nếu được thả sức chạy, chúng sẽ phóng như
tên bắn.
Nhưng chúng đang phải kéo cỗ xe và đang chạy nước kiệu. Dù không được thả sức chạy, tám chiếc chân màu nâu cũng chuyển động theo một nước kiệu hoàn hảo. Đám mây bụi cuốn lên mù mịt. Rồi lao ra khỏi đám mây bụi và vượt lên ở bên kia đường đua của những cỗ xe độc mã đang phóng hết tốc lực là cỗ xe chở hàng. Một cỗ xe độc mã – không, hai cỗ xe độc mã, tụt lại phía sau cỗ xe chở hàng. Ba cỗ xe độc mã đã tụt lại và duy nhất chỉ còn cỗ xe do cặp ngựa hồng kéo đang chạy ở phía trước.
Laura đang cầu khẩn cho những con ngựa màu nâu: - Ô, tới luôn! Tới luôn đi! Thắng luôn, thắng luôn!
Cô mong chúng xoải nhanh hơn nhiều đến mức giống như mong ước của cô lôi chúng đi. Chúng gần như chạy bọc ngoài đường đua. Lúc nàychúng đang đảo vòng trở lại và tiến tới đường đua. Cặp ngựa hồng vẫn dẫn trước. Những con ngựa Morgan không thể vượt lên, khó giành nổi phần thắng vì phải lôi cỗ xe quá nặng, nhưng Laura không ngừng mong mỏi.
- Nhanh hơn đi, nhanh hơn nữa, chỉ cần thêm một chút thôi. Ô, tới đi, tới luôn đi!
Từ trên chiếc ghế cao, Almanzo nghiêng người tới trước giống như đang nói với lũ ngựa. Đang từ
nước kiệu bình thường, chúng phóng tới nhanh hơn. Đầu của chúng vươn tới cỗ xe của Owen rồi dần dần nhích lên ngang cỗ xe. Tất cả những ống chân chuyển động nhanh hơn, nhanh hơn trong khi từ từ những chiếc đầu màu nâu vượt lên ngang với đầu của cặp ngựa hồng. Lúc này bốn con ngựa chạy sóng hàng mỗi lúc một nhanh hơn.
Một người nói:
- Ngang nhau rồi. Quái quỉ thật, đúng là ngang nhau rồi. Lúc đó chiếc roi ngựa trong tay ông Owen bay lên. Cùng với tiếng hét của ông, chiếc roi quất xuống, một lần rồi hai lần. Những con ngựa hồng lồng lên phía trước. Almanzo không có roi. Cậu đang nghiêng người tới ghìm chắc dây cương một cách nhẹ nhàng. Thêm một lần nữa cậu có vẻ đang nói điều gì. Những con ngựa Morgan màu nâu lướt lên như những con én đang bay vượt qua cặp ngựa hồng cán đích trước. Chúng đã chiến thắng!
Toàn thể đám đông reo hò xúm lại quanh cặp ngựa nâu và Almanzo đang ngất nghểu trên cỗ xe chở
hàng. Laura thấy cô đang cố kìm hơi thở lại. Đầu gối cô lảo đảo. Cô muốn hét lên, cười lớn, gào la rồi ngồi xụp xuống nghỉ. Carrie vừa vỗ tay vừa lắp bắp:
- Ôi, chúng thắng rồi! Chúng thắng rồi! Chúng thắng rồi! Ông Boast lên tiếng:
- Cậu ta kiếm được năm đô-la đó rồi.
Carrie hỏi:
- Năm đô-la nào?
Bố giải thích:
- Một số người trong thị trấn đã treo giải thưởng năm đô-la cho cặp ngựa nào về nhất. Almanzo Wilder đoạt phần thưởng đó. Laura mừng là cô không hề biết chuyện này. Cô khó chịu đựng nổi nếu cô biết rằng những con ngựa màu nâu đang chạy vì cái phần thưởng năm đô-la.
Bố nói:
- Cậu ta đã khiến cái phần thưởng chạy tới với mình. Chàng trai đó
biết rất rõ cách điều khiển ngựa.
Các cuộc đua đã chấm dứt. Không còn việc gì khác hơn là đứng quanh quẩn lắng nghe mọi người trò chuyện. ÔngBoast mang lại một ca đầy nước chanh cho Laura và Carrie chia nhau. Rồi Bố tách ra khỏi đám đông đang thu nhỏ lại và nói là đã tới giờ trở về nhà. ÔngBoast đi cùng họ dọc theo phố Main Street. Bố kể rằng Wilder có một người chị gái là giáo viên ở Minnesota thuộc miền Đông. Bố nói:
Cô ta được cấp đất cách thị trấn này khoảng một dặm rưỡi về phía tây và đã nhờ Almanzo kiếm cho một chỗ dạy tại đây vào mùa đông tới. Tôi đã bảo Almanzo nhắc cô ta gửi đơn tới ban giám hiệu nhà trường ở đây. Tôi không hiểu tại sao cô tai lại không kiếm được một công việc như thế ở chỗ khác.
Laura và Carrie nhìn nhau. Bố có chân trong ban giám hiệu nhà trường ở đây và chắc chắn những người khác đã nhận ra. Laura nghĩ:
- Nếu mình là một học sinh gương mẫu và nếu cô ấy thích mình thì rất có thể cô ấy sẽ cho mình cùng điểu khiển những con ngựa tuyệt vời kia.
Chương 9
NHỮNG CON CHIM SÁO
Vào tháng Tám, ban ngày nóng bức tới mức Laura và Mary phải đi dạo vào sáng sớm trước khi mặt trời lên cao. Lúc đó không khí còn mát mẻ chưa nóng bức lắm. Nhưng mỗi cuộc đi dạo đều có vẻ như một bước đưa tới cuộc đi dạo sau cùng vì không còn bao lâu nữa Mary sẽ đi xa.
Chắc chắn vào mùa thu đó, Mary sẽ tới trường. Từ lâu cả nhà vẫn trông ngóng cô được ra đi và tới lúc này việc sắp thành sự thực thì lại có vẻ như không thể làm. Cũng khó hình dung nổi trường học như thế nào, vì không một ai có dịp thấy một trường học như thế. Nhưng trong mùa xuân đó, Bố đã kiếm được một trăm đô-la rồi vườn rau, lúa mạch, bắp đều đang tươi tốt khác thường và Mary chắc chắn được đi học.
Một buổi sáng đi dạo về, Laura nhận thấy có rất nhiều cỏ ghim vào váy của Mary. Cô thử nhổ ra nhưng chúng bám khá chặt. Cô gọi: - Mẹ ơi! Tới coi thứ cỏ gì lạ quá. Mẹ cũng chưa từng nhìn thấy thứ cỏ này. Ngọn cỏ tương tự ngạch lúa mạch nhưng xoắn lại và ở cuối là một chiếc hạt có vỏ bọc dài chừng một inch nhọn và cứng như mũi kim gắn trên một cọng đầy lông nhọn ở phía sau. Như những mũi kim thực sự, các hạt cỏ này ghim đầy trên áo của Mary. Những lông cứng ghim theo mũi kim nhọn khá dễ dàng giữ chắc mũi kim không cho kéo lại và chiếc ngạch dài bốn inch giống như chiếc đinh vít xoắn lại, đẩy mũi kim vào sâu hơn nữa.
Mary kêu lên:
- Ui da! Có thứ gì thọc vào người con. Ngay phía trên giầy của cô, một cọng cỏ lạ thọc qua vớ và xoắn đâm vào chân cô. Mẹ nói: