🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nghệ Thuật Đánh Giặc Và Giữ Nước Của Dân Tộc Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo TABLE OF CONTENTS NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM CHƯƠNG MỘT TỔ TIÊN ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC I. CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ CHỐNG TỐNG XÂM LUỢC NĂM 1077 II. ĐẠI THẮNG MÔNG - NGUYÊN THỜI TRẦN THẾ KỶ XIII III. CHIẾN TRANH BẢO VỆ VÀ GIẢI PHÓNG TỔ QUỐC CHỐNG XÂM LUỢC CỦA NHÀ MINH (1406-1427) CHƯƠNG HAI ĐÁNH PHÁP, ĐUỔI MỸ GIẢI PHÓNG ĐẤT NƯỚC (1945 - 1975)$h1 I. CUỘC KHÁNG CHIẾN 9 NĂM CHỐNG THỰC DÂN PHÁP GIẢI PHÓNG NỬA NƯỚC (1945 - 1954) II. ĐÁNH BẠI CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ Ở MIỀN NAM (1955 - 1965) III. ĐÁNH CHO MỸ CÚT (1965 – 1973) ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ”CỦA ĐẾ QUỐC MỸ Ở MIỀN NAM IV. ĐÁNH CHO NGỤY NHÀO (1973 - 1975) V. CHIẾN LƯỢC TỔNG HỢP TRONG CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ CHƯƠNG BA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI I. TRUYỀN THỐNG QUÂN SỰ VIỆT NAM LẤY NHỎ THẮNG LỚN, LẤY ÍT ĐỊCH NHIỀU, LẤY YẾU CHỐNG MẠNH II. MẤY VẤN ĐỀ VỀ ĐỊA LÝ QUÂN SỰ VIỆT NAM III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH ĐÁNH TRONG CHIẾN TRANHBẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY. KẾT HỢP CHẶT CHẼ CÁC CÁCH ĐÁNH TIẾN CÔNG, PHẢN CÔNG VÀ PHÒNG NGỰ, LẤY PHẢN CÔNG, TIẾN CÔNG LÀM HÌNH THỨC TÁC CHIẾN CHỦ YẾU IV. MẤY SUY NGHĨ VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN MỚI KẾT LUẬN Sách Tham Khảo Chú Thích CHƯƠNG MỘT TỔ TIÊN ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC I. CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ CHỐNG TỐNG XÂM LUỢC NĂM 1077 Sau khi giành được độc lập, xóa bỏ ách đô hộ của nhà Đường, qua các triều đại Ngô, Đinh, Lê, những cuộc xâm lăng từ phương Bắc liên tiếp nổ ra và đều bị quân dân ta đánh bại với những trận Bạch Đằng, Chi Lăng, Bình Lê. Tới thời nhà Lý đầu những năm 70 của thế kỷ XI, Tống Thần Tông với tể tướng là Vương An Thạch lại âm mưu xâm lược nước ta. Do bị thất bại năm 981, nên lần này chúng chuẩn bị cho việc xuất quân xâm lược rất chu đáo, hòng biến nước ta thành châu, quận của Trung Quốc. Lúc đó ở nước ta, dưới triều Lý Thánh Tông, Đại Việt quân hùng, tướng mạnh, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, vững chắc trong toàn dân. Lòng tin sắt đá đánh bại quân xâm lược đã hiện rõ qua bài thơ lịch sử của Lý Thường Kiệt: Nam quốc sơn hà nam đế cư. Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Tình hình đất nước như Trần Quốc Tuấn đã nói với vua Trần ngày 24 tháng 6 năm Canh Tý: “Vua Lý dựng nghiệp, quân Tống xâm lấn địa giới, lúc ấy dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm - Liêm, đến tận Mai Lĩnh đấy là có thế lực mạnh”. Với tư tưởng tích cực, lấy tiến công để tự vệ một cách chủ động, bằng một trận tiến công chiến lược đánh Khâm - Liêm và Ung Châu, Lý Thường Kiệt đã phá tan các căn cứ chuẩn bị tiến công của địch, rồi nhanh chóng rút về nước, chuẩn bị thế trận để phá cuộc tiến công xâm lược của nhà Tống với tư tưởng “phòng ngự tích cực rồi phản công”. Lý Thường Kiệt đã bố trí lực lượng phòng thủ từ biên giới và thiết lập trên bờ sông Như Nguyệt một chiến tuyến vững chắc sẵn sàng ngăn chặn đối phương để tạo thời cơ phản công đánh bại quân xâm lược. 1. “Đánh phá căn cứ chuẩn bị của địch”: chiến lược chủ động tiến công trong phòng thủ đất nước của Lý Thường Kiệt. Vào những năm 1068 - 1076, nhà Tống lại âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa. Mục đích của cuộc xâm lược này là nhằm giải quyết những khó khăn về đối nội và đối ngoại, đồng thời lấn chiếm đất đai, mở rộng phạm vi của triều đình Tống. Năm 1068 Tống Thần Tông lên nối ngôi, đã cùng với tể tướng Vương An Thạch thi hành một số “cải cách”, nhưng ngay trong triều đình đã vấp phải nhiều sự chống đối, toàn dân oán ghét. Bên ngoài, cuộc chiến tranh với nước Liêu, Hạ bị sa lầy, kéo dài mấy chục năm cho mãi tới năm 1075 vẫn chưa kết thúc. Theo tính toán của nhà Tống, đánh nước Đại Việt để “nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể”. Nhà Tống chuẩn bị rất chu đáo cho cuộc xâm lược lần thứ hai này. Chúng chuẩn bị kế hoạch một cách công phu, quyết định thành lập “An Nam chiếu thảo sứ” với một đạo quân viễn chinh lớn gồm nhiều vạn quân chủ lực tinh nhuệ tuyển từ phương Bắc, cùng hàng vạn kỵ binh và hàng chục vạn quân địa phương thuộc các tỉnh Nam Trường Giang. Triều đình Tống còn ra lệnh cho công khố xuất 600.000 lạng vàng để bảo đảm chi phí cho chiến tranh. Chúng ráo riết luyện tập quân đội xây dựng nhiều căn cứ quân sự và hậu cần ở hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây giáp biên giới Đông Bắc nước ta. Trong đó có thành Ung Châu (Nam Ninh - Quảng Đông) giữ một vị trí hết sức quan trọng. Thành Ung Châu được thiết lập thành một căn cứ xuất phát trọng yếu cho cuộc xâm lược. Từ đó đi đến các châu biên giới của ta là Quảng Nguyên (Quảng Uyên, Cao Bằng), Quang Lang (Ôn Châu - Lạng Sơn), Tô Mậu (Na Dương, Đình Lập, An Châu), đường bộ dài chừng 150 cây số. Cũng từ đó đến hai cửa biển Khâm Châu và Liêm Châu (Quảng Đông) có đường đi thuận lợi dài khoảng 120 cây số. Phía nam Ung Châu, sát biên giới nước ta, chúng đặt năm trại quân: Thành An, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long. Nhà Tống còn thực hiện chính sách tạm thời hòa hoãn với hai nước Liêu, Hạ, thậm chí còn cấp đất cho người Liêu. Chúng còn mua chuộc lôi kéo Chiêm Thành ở phía Nam cùng tham gia cuộc chiến với chúng, dùng thế hai gọng kìm đánh Đại Việt. Đồng thời chúng tìm cách mua chuộc một số tù trưởng dân tộc thiểu số vùng biên giới phía Bắc nước ta làm nội gián, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc của ta. Những việc đó đã xảy ra vào đầu năm 1075, bộc lộ rõ ý định xâm lược nước ta của Vương An Thạch. Vả lại, hai năm trước đó có người Tống tên là Bá Tường, một nho sĩ đậu tiến sĩ không chịu ra làm quan cho nhà Tống đã gửi mật thư cho Lý Thường Kiệt: “... nghe rằng hiện nay nhà Tống muốn cử binh đi đánh Giao Chỉ”. Bởi thế bên ta đã nắm được khá đầy đủ tin tức về tình hình chuẩn bị chiến tranh của nhà Tống. Lúc này số quân Tống tập trung ở các căn cứ Ung, Khâm, Liêm khoảng 10 vạn đang luyện tập, song chúng chưa thể đánh ngay được vì số quân Hoa Nam này phần lớn là quân mới tuyển, chưa thiện chiến. Còn việc nhà Tống rút 45 ngàn cấm binh thiện chiến ở phương Bắc để lập đạo quân chủ lực, thì làm chưa xong. Trước tình hình đó, Lý Thường Kiệt cho rằng: “Ngồi yên đợi giặc sao bằng đánh trước, đánh để bẻ gãy mũi nhọn của nó”. Chủ trương “Tiên phát chế nhân”, ông quyết định mở trận tiến công đại quy mô sang đất Tống. Ngày 27-10-1075, cuộc tiến công bất đầu, với hai cánh quân khoảng 10 vạn người. Các đạo quân theo đường bộ từ Quảng Nguyên, Quang Lang, Tô Mậu do Tôn Đản, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Vi Thủ An là những thủ lĩnh của các dân tộc thiểu số chi huy, chia thành nhiều mũi, vượt biên giới, bất ngờ tiến công vào toàn bộ hệ thống đồn trại quân Tống. Trước sức mạnh tiến công mãnh liệt bất ngờ của ta, quân Tống không sao chống đỡ nổi, hàng ngũ rối loạn, ngoài số bị chết, bị bắt, số còn lại vội vã bỏ đồn trại tháo chạy về Ung Châu, quân ta tiếp tục tiến công truy kích, triệt phá các đồn trại trên đường, thừa thắng tiến lên hợp quân vây đánh thành Ung Châu. Lúc này, triều đình Tống và bọn tướng lĩnh của chúng chưa hề biết được ý đồ của ta. Trong lúc quân Tống đang tập trung đối phó với hướng quân trên bộ ở phía Tây và Tây Nam Ung Châu, ngày 30-12-1075 Lý Thường Kiệt đưa đại quân khoảng 6 vạn đi đường thủy từ Vĩnh An tới Khâm Châu. Đêm 31-12-1075 tiền quân ta gồm một số vệ quân thiện chiến bí mật đổ bộ vào cảng Khâm, bất ngờ đánh chiếm thành Khâm. Ngày 2-1-1076 thủy quân ta tiến vào cửa bể Liêm Châu, đổ bộ lên bến cảng và nhanh chóng chia thành nhiều mũi bao vây tiến công đánh chiếm thành Liêm Châu. Tiếp đó Lý Thường Kiệt phái một số vệ quân nhanh chóng phát triển tiến công về hướng Bạch Châu, nhằm mục đích nghi binh và bảo vệ cạnh sườn phía sau cho đại quân tiến về thành Ung Châu. Vào trung tuần tháng 1-1076 đạo quân chủ lực của ta từ Khâm Liêm đã tiến đến Ung Châu. Tại đây hai cánh quân đã gặp nhau. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Lý Thường Kiệt quân ta bao vây bốn mặt thành và gấp rút chuẩn bị bước vào trận đánh chiếm thành Ung Châu. Thành Ung Châu, một chiến thành cổ lớn được xây dựng kiên cố, có thành cao hào sâu rất lợi thế cho bên phòng ngự. Trong thành có khoảng 6 vạn quân Tống gồm cả quân mới tuyển và tàn quân các nơi cụm lại. Ngày 17-1-1076 quân ta bắt đầu công phá thành Ung Châu. Cuộc giao chiến giữa ta và địch diễn ra hết sức quyết liệt và kéo dài. Trước tình thế hết sức nguy ngập, vua Tống và Vương An Thạch ra lệnh cho Tô Giám phải cố thủ kìm chân chủ lực ta ngay tại đất Tống, khiến cho quân ta ở vào thế đánh cũng khó mà rút cũng khó, nhân lúc đó nhà Tống sẽ tung đạo quân chủ lực phương Bắc do Quách Quỳ chỉ huy, dùng chiến thuyền vượt biển nhanh chóng tiến quân, bất ngờ đổ bộ, đánh chiếm kinh đô Đại Việt. Vua Tống phái Trương Thủ Tiết nắm đạo kỵ binh khoảng 1 vạn tên nhanh chóng tiến xuống ứng cứu cho Tô Giám đang bị khốn quẫn tại thành Ung Châu. Khi quân ta tiến công thành Ung, Lý Thường Kiệt bí mật phái một đạo quân mai phục sẵn ở ải Côn Luân để đón đánh viện binh địch cách Ung Châu khoảng 80 dặm. Ngày 6-2-1076 trong khi Trương Thủ Tiết đang dồn quân điều chỉnh đội hình thì bất ngờ phục binh ta nổi lên tiến đánh. Quân Tống không kịp chống đỡ, nhanh chóng bị ta tiêu diệt, Trương Thủ Tiết chết tại trận. Sau khi diệt xong viện binh, Lý Thường Kiệt tập trung toàn lực đánh chiếm thành Ung. Nghệ thuật công thành của Lý Thường Kiệt đã đạt tới đỉnh cao mới trong thời đại bấy giờ. Quân ta đã dựng hàng loạt thang “Vân thê”, từ trên chòi liên tiếp bắn tên có tẩm chất cháy vào trong thành, dùng tên độc bắn lên thành, đào đường hầm. Những trận đánh ác liệt nhất đã diễn ra vào những ngày cuối tháng 2-1076. Quân ta đã dùng bao đất để lấp hào, đắp tường, xếp chồng lên nhau thành bậc để vào thành. Bao đất chất hàng vạn, cao như núi. Quân ta nối tiếp nhau trèo lên chiếm được mặt thành, phá được cửa thành, tràn vào trong thành. Trước sức mạnh tiến công áp đảo của ta, quân Tống đã tan rã, đầu hàng, Tô Giám phải tự sát sau 42 ngày cố thủ. Ngày 1-3-1076 quân ta đã hạ được thành. Lý Thường Kiệt ra lệnh hủy thành lũy, phá kho tàng trong cả vùng Tả Giang, lấy đá lấp sông để ngăn chặn đường cứu viện của quân Tống, và phái ngay một đạo quân thừa thắng phát triển lên phía Bắc, tiến công đánh chiếm thành Tân Châu nhằm mục đích nghi binh và chặn địch tổ chức phản kích trong khi quân ta thu dọn chiến trường và tổ chức rút quân. Quân ta đã nhanh chóng chiếm thành Tân Châu để án ngữ mặt Bắc. Triều đình Tống được tin Ung Châu mất, thấy quân ta rầm rộ tiến lên đánh Tân Châu mà vẫn lúng túng chưa tìm được cách đối phó, nhân đó Lý Thường Kiệt ra lệnh chia quân thành hai đường thủy, bộ chủ động lui binh. Các đạo quân án ngữ tại Tân Châu và Ung Châu được lệnh rút sau để bảo vệ đại quân an toàn cơ động về nước. Kết quả cuộc tiến công đánh phủ đầu phá chuẩn bị, quân ta đã tiêu diệt 10 vạn quân Nam Tống chuẩn bị đánh Đại Việt, phá các căn cứ và phương tiện chuẩn bị cho cuộc xâm lăng, thu và phá hàng chục vạn tấn lương thảo, chiến cụ khí giới và bắt hàng vạn tù binh. Lý Thường Kiệt đã chủ động phản chuẩn bị vào kẻ địch ngay trên đất địch, buộc địch phải chuẩn bị lại khi tiến hành xâm lược nước ta. Đòn phản chuẩn bị của Lý Thường Kiệt đã đánh vào những căn cứ hậu cần chiến lược của địch và quan trọng hơn nữa là đã thực hành đánh tiêu diệt đạo quân Nam Tống, lực lượng sẽ xâm lược nước ta, buộc quân Tống phải bị động đối phó và thay bằng đạo quân Bắc Tống. Mặc dù là đạo quân thiện chiến, nhưng khi vào nước ta do không hợp thủy thổ, đường xa quân mệt, đau ốm và bệnh tật nhiều, lương thảo phải vận chuyển từ xa hàng vạn cây số, chỉ riêng hành quân từ phía Bắc xuống đã mất 5 - 6 tháng trời. Tống sử đã viết: “Vua Tống, ngay khi quân Tống mới vào Quảng Tây, đã phải gửi danh y, thuốc men úy lạo quân sĩ bị đau ốm đông, ra lệnh ai chữa được nhiều, sẽ có thưởng”. Đòn tiến công này có giá trị lớn trong việc đánh bại cuộc xâm lăng của quân Tống. Lý Thường Kiệt thật cao kiến khi nêu tư tưởng quân sự “ngồi yên đợi giặc đến, sao bằng đánh trước để bẻ gãy mũi nhọn của nó”. Trong chiến dịch phản chuẩn bị vào Ung - Khâm - Liêm, nguyên tắc quân sự bí mật bất ngờ đã được phát huy cao độ. Lý Thường Kiệt đã làm cho kẻ địch bị mắc sai lầm, đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Trận chiến đấu ở thành Ung Châu có ý nghĩa chiến lược đối với cả hai bên. Địch có quân đông, dựa vào hầm cao hào sâu quyết tử thủ, âm mưu kéo dài cuộc chiến đấu để kìm chân đạo quân ta ở đây và thực hiện kế hoạch đánh úp thành Thăng Long. Đối với ta, có triệt phá được thành Ung Châu mới đạt được mục đích đánh tiêu diệt lực lượng và cơ sở vật chất của cuộc xâm lược đặt ra ban đầu, buộc kẻ địch phải chuẩn bị lại, phá thế trận áp sát biên giới của địch. Ta vừa chủ động bất ngờ tiến công lại vừa chủ động rút lui làm cho kẻ địch luôn ở vào thế bị động. Tiến quân vào sâu đất địch trên 100 cây số, tiêu diệt gần mười vạn tên địch, phá tan thành quách kiên cố và các cánh viện binh địch theo một kế hoạch nhịp nhàng ăn khớp của cả cánh thủy binh vào Châu Liêm, Châu Khâm và cánh bộ binh từ biên giới đến Ung Châu thể hiện tài năng quân sự của Lý Thường Kiệt và sức mạnh của quân dân Đại Việt. Đánh thắng kẻ địch trên đất nước mình đã khó, nhưng đánh thắng kẻ địch mạnh trên đất nước địch lại càng khó hơn, đúng như Trần Hưng Đạo đã nói, muốn làm được như vậy phải có thế lực mạnh và có tài ba quân sự hơn người. Nắm chắc địch và địa hình ngay trên đất địch khó hơn biết bao nhiêu lần ở đất mình. Lý Thường Kiệt đã đánh thắng đối phương trong cuộc hành binh sang Chiêm Thành ở phía Nam và lại đánh thắng cả quân Tống ngay trên đất địch, thật quả trong lịch sử Việt Nam hiếm có. Thắng địch mà kịp thời rút quân đúng lúc, không say sưa với thắng lợi, lại càng nói lên tài năng của người tướng. Chính đòn phá chuẩn bị tiến công này đã mở đầu cho thắng lợi hoàn toàn khi quân Tống xâm lược nước ta. Quách Quỳ trước khi xuất quân đã khiếp sợ sức mạnh của quân dân Đại Việt. Chính Tống Thần Tông đã phải chỉ thị: “giặc Giao Chỉ mạnh, gan, liều chết... nên cẩn thận”. Theo lời của viên chuyên sứ Lý Bình Nhất của Tống thì phải 40 vạn phu vận chuyển mới đủ cung cấp lương ăn cho 10 vạn quân trong một tháng. Điều đó đã nói lên giá trị của đòn phá chuẩn bị tiêu diệt các căn cứ chuẩn bị tiến công của đối phương. Sau khi rút quân từ chiến trường Ung - Khâm - Liêm về nước, Lý Thường Kiệt đã ra lệnh điều động hàng vạn binh sĩ cùng với hàng vạn dân của các lộ thuộc miền trung du và châu thổ sông Hồng về tập trung tại vùng Thiên Đức (Từ Sơn - Hà Bắc) để xây dựng chiến tuyến sông Như Nguyệt. Chiến tuyến được xây dựng theo thế “hoành trận”, kéo dài từ mỏm núi Đền thuộc dãy Tam Đảo chạy theo hữu ngạn sông Như Nguyệt, thẳng sang hướng Đông, qua sông Lục Đầu (Phả Lại), nối vào sườn Tây núi ông Sư của dải Yên Tử. Chiến tuyến kéo dài khoảng 60 dặm (30km), được xây dựng theo hình thức đứt đoạn. Những nơi địch có khả năng tiến công vượt sông, quân ta đã tổ chức xây đắp chiến lũy kiên cố để chống lại. Mặt ngoài sông, chiến lũy đắp dựng đứng. Mặt trong đắp thoai thoải, có nhiều bậc để tiện cơ động chiến đấu. Dưới chân chiến lũy về phía mép sông có đóng nhiều cọc tre, cắm chông, làm dậu dày đến mấy tầng, tạo thành hệ thống chướng ngại dày đặc kiên cố. Sông sâu thành lũy cao, rào chắc... tất cả kết hợp lại một cách có tổ chức, tạo thành một tuyến phòng ngự có quy mô lớn, rất vững chắc. Chiến tuyến Như Nguyệt không những là một chiến tuyến vững mạnh, mà còn được kết hợp chặt chẽ với cả hệ thống thành quách, đồn ải ở phía Bắc như các thành Quảng Nguyên, Môn Châu, Quang Lang, Tô Mậu, Vĩnh An, các ải Quyết Lý, Giáp Khâu, Động Giáp... Cùng với các lực lượng thủy quân bố trí trên sông Đông Kênh, tất cả hợp lại hình thành thế trận phòng ngự có chính diện rộng, có chiều sâu. Đây là kiểu phòng ngự từng khu vực kết hợp với chiến tuyến. Từ thế trận này, ta có thể phát huy được đầy đủ sức mạnh của các lực lượng vũ trang trong chiến đấu, kể cả tiến công cũng như phòng ngự để đánh bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của quân Tống. Lý Thường Kiệt đã khéo léo lợi dụng địa hình, địa thế có lợi của tuyến sông Như Nguyệt để tổ chức thành một chiến tuyến vững mạnh, buộc quân Tống phải chấp nhận một cuộc giao chiến chiến lược hoàn toàn bất lợi cho chúng. Hàng vạn quân Tống người phương Bắc phải lao vào đột phá phòng tuyến cực kỳ kiên cố ở cách xa hậu phương của chúng hàng năm, sáu trăm dặm, qua một vùng rừng núi hiểm trở, đường sá khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, dân cư thưa thớt, đường vận chuyển lương thảo dễ bị cắt đứt. Trên trận tuyến Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã sử dụng một binh lực khoảng 3 vạn quân. Lực lượng này chia thành từng “vệ”, “quân” (tương đương với trung đoàn, tiểu đoàn) đóng thành từng trại dọc theo chiến lũy. Ở những nơi quan trọng như bến Thị Cầu, bến Như Nguyệt được bố phòng cẩn thận. Ngoài lực lượng bộ binh tinh nhuệ, phòng thủ ở đây còn có một số thủy binh, tổ chức thành từng thủy đội nhỏ trang bị chiến thuyền loại nhẹ, phối thuộc cho các “vệ” phòng ngự trên chiến tuyến làm nhiệm vụ thường xuyên tuần tiễu trên sông, sẵn sàng tiêu diệt các toán quân vượt sông do thám và triệt phá các phương tiện vượt sông của giặc. Một đội thủy quân lớn được phái ra vùng biển Đông Bắc (thời đó gọi là sông Đông Kênh) để chặn đánh mũi tiến quân của thủy binh Tống. Đạo quân này do thủy sư đô đốc Lý Kế Nguyên chỉ huy. Tuy không phải là lực lượng nằm trong đội hình trận tuyến Như Nguyệt, nhưng nó là lực lượng phối hợp tác chiến hết sức quan trọng, vì chỉ có đánh tan được thủy quân Tống, mới tạo điều kiện để chiến dịch phòng ngự Như Nguyệt thực hiện trọn vẹn được mục đích. Lực lượng của ta có khoảng trên 6 vạn quân, được tổ chức thành hai khối: bộ binh và thủy binh. Khối bộ binh có khoảng 4 vạn, do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, được bố trí trên tuyến sông Như Nguyệt có chiều sâu đến Tiên Sơn, Từ Sơn và kinh đô Thăng Long. Khối thủy quân có khoảng 2 vạn và hơn 400 chiến thuyền, do hai hoàng tử Hoàng Chấn và Chiêu Văn chỉ huy, bố trí tại Vạn Lý (Phả Lại hiện nay). Riêng khối thủy quân còn có nhiệm vụ sẵn sàng cơ động ra sông Đông Kênh để tăng cường chi viện cho Lý Kế Nguyên khi cần thiết. Nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng phòng ngự chiến lược này là: khi địch đã bị chặn đứng trước phòng tuyến, không còn khả năng tiếp tục tiến công, buộc phải dừng lại củng cố hoặc chuyển sang phòng ngự, thì ta sẽ nhanh chóng chuyển sang phản công, tiến công vào sườn để tiêu diệt hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi quyết định của chiến tranh. Đây chính là chiến lược “kiên thủ chờ địch suy yếu rồi phản công” của Lý Thường Kiệt. Ngày 9 tháng 7, trên hướng cánh trái, tướng Tống Nhâm Khỉ chỉ huy một đạo quân chừng 1 vạn tên từ Khâm Châu chia thành 2 mũi thủy, bộ tiến đánh các trại Ngọc Sơn, Vĩnh An. Tại đây ta chỉ có một lực lượng nhỏ trấn thủ, nên sau một số trận giáp chiến, thấy không đủ sức chống đỡ, đã rút về phía sau, hai cứ điểm này đã lọt vào tay giặc. Đến tháng 11-1076, ta vừa hoàn thành công cuộc xây dựng chiến tuyến Như Nguyệt và triển khai xong thế trận chiến lược, thì quân Tống bắt đầu vượt biên giới, tiến công vào Vĩnh An và Quảng Nguyên. Đây là những cánh quân thực hiện kế sách vừa nghi binh “dương đông, kích tây”, vừa bảo vệ bên sườn, tạo điều kiện cho chủ lực tiến quân. Đầu tháng 12, trên hướng cánh phải, Yên Đạt và Khúc Chấn chỉ huy một đạo quân mạnh, khoảng 2 vạn tên, xuất phát từ Tư Minh, chia thành 2 mũi chính và kỳ cùng song song tiến đánh Quảng Nguyên. Tại Quảng Nguyên, tướng Lưu Kỷ chỉ huy khoảng 5 nghìn quân bản bộ đã kịp chặn đánh quyết liệt. Tại đây quân Tống bị thương vong nhiều. Quân ta chiến đấu dũng cảm, kiên cường, bọn Yên Đạt và Khúc Chấn thấy không thể chiếm Quảng Nguyên bằng sức mạnh quân sự nên đã chuyển sang kế ly gián mua chuộc. Cuối cùng Lưu Kỷ đã bị mắc mưu chúng, thủ tiêu chiến đấu, đầu hàng giặc. Quảng Nguyên bị quân Tống chiếm đóng. Sau khi dùng mưu chiếm được Quảng Nguyên, Yên Đạt giao cho Khúc Chấn trấn giữ, còn y lui về Tư Minh để hội quân với Quách Quỳ. Ngày 8-1-1077, Quách Quỳ cho đại quân khoảng 30 vạn, trong đó có 10 vạn quân chiến đấu, từ Tư Minh chia thành nhiều mũi vượt biên giới, ào ạt tiến công sang nước ta. Hướng tiến công chủ yếu của chúng theo dọc đường Tư Minh, Lạng Sơn, Thị Cầu, Thăng Long. Hai đạo quân tả, hữu ở các căn cứ Quảng Nguyên, Vĩnh An và đạo quân thủy binh của Dương Tùng Tiên ở Hợp Phố (Liêm Châu) cũng đồng thời tiến công phối hợp với quân Quách Quỳ. Quách Quỳ trực tiếp chỉ huy đạo chính binh (lực lượng khoảng 10 vạn bộ binh và gần 1 vạn kỵ binh) tiến công trên hướng chủ yếu, theo trục đường Thiên Lý: Lạng Sơn, Chi Lăng, Thị Cầu, Thăng Long. Phó tướng Triệu Tiết chỉ huy đạo kỳ binh (lực lượng khoảng 5 - 6 vạn bộ binh và vài nghìn kỵ binh) tiến công theo hướng: Bằng Tường, Bình Giã, Vạn Nhai, Nhã Nam, xuống bến Như Nguyệt. Ngay từ đầu, Quách Quỳ đã gặp phải sự chống cự hết sức mạnh mẽ của thổ binh do Thân Cảnh Phúc chỉ huy. Tiến công được vài chục dặm, quân Tống buộc phải tổ chức đột phá ải Quyết Lý. Tại đây Thân Cảnh Phúc đã bố trí mấy nghìn quân có cả voi chiến, để cố thủ cửa ải. Tư Kỷ chỉ huy đội tiền quân Tống cố sức công kích nhưng đều bị đẩy lùi. Quân ta dựa vào thế đất hiểm, có tổ chức phòng ngự vững chắc để đánh trả quân địch hết sức quyết liệt. Thấy cầm cự lâu không có lợi, quân ta đã chủ động lui về tuyến sau cố thủ cửa ải Chi Lăng. Biết ải Chi Lăng không những là đất hiểm mà còn được xây đắp kiên cố, toàn bộ đạo quân của Thân Cảnh Phúc lại phục sẵn ở đây, Quách Quỳ cho một đội tiền quân tiến công vào chính diện để thu hút sự đối phó của ta ở mặt Bắc. Còn hai đạo quân mạnh của Yên Đạt và Thế Cự vòng qua phía Tây núi Cai Kinh, theo đường đất, đánh bọc vào sau Chi Lăng, tạo nên thế hai mặt trước sau cùng đánh. Từ trên thành lũy và hai bên sườn núi cao, quân ta dùng nỏ, “máy” bắn đá bắn vào đội hình xung phong của địch, đồng thời tượng binh xông ra phản kích. Quân Tống bị thương vong rất nhiều, nhưng lực lượng ở phía sau lên mỗi lúc một đông. Thấy tiếp tục cố thủ không có lợi, lợi dụng đêm tối, Thân Cảnh Phúc đã chỉ huy quân rút theo đường tắt, lui về phòng giữ căn cứ Động Giáp, chuyển sang đánh du kích phía sau lưng địch. Trong lúc đại binh của Quách Quỳ tiến công sang ta, thì đạo quân Nhâm Khỉ chỉ huy từ Vĩnh An đánh ngược lên Tô Mậu, Vị Thủ An trấn giữ tại đây, chống cự không nổi, đầu hàng giặc. Nhâm Khỉ cho quân theo hữu ngạn sông Lục Nam đánh xuống núi Nham Biền để trực tiếp bảo vệ sườn cánh trái của đại quân Quách Quỳ. Đạo hữu quân do Khúc Chấn chỉ huy, từ Quảng Nguyên đánh xuống Môn Châu. Hoàng Kim Mãn trấn giữ châu này đầu hàng giặc, thành Môn Châu nhanh chóng bị mất.... Đạo quân Triệu Tiết (phó tướng) là một lực lượng đột kích chiến lược trên hướng thứ yếu, có sự yểm trợ trực tiếp của hữu quân Khúc Chấn phía sườn phải, nhanh chóng vượt biên giới, xuống Bình Gia, Vạn Nhai. Tại những nơi này ta chỉ có lực lượng nhỏ án ngữ, bởi thế Triệu Tiết đã nhanh chóng vượt qua, tiến thẳng xuống Nhã Nam và bến Như Nguyệt. Khoảng trung tuần tháng 1-1077, được tin đại quân Quách Quỳ vượt biên giới, theo kế hoạch đã định trước, Dương Tùng Tiên chỉ huy đạo thủy binh khoảng 5-6 vạn tên cùng vài trăm chiến thuyền loại lớn tiến vào hải phận nước ta. Hạm đội Tống tiến công theo đội hình hàng dọc, tiến quân với nhiệm vụ trinh sát, sau đó là trung quân, lực lượng chủ yếu, rồi đến hậu quân là đoàn thuyền lương. Dương Tùng Tiên không phát hiện được quân ta mai phục ở sông Đông Kênh, nên đã lệnh cho quân tiến gấp vào cửa sông Bạch Đằng. Khi chiến thuyền Tống đã lọt vào trận địa mai phục của ta, Lý Kế Nguyên phát lệnh tiến công. Bị đánh bất ngờ, Dương Tùng Tiên lúng túng; quân thủy Tống tuy lớn, có nhiều chiến thuyền hơn ta, nhưng là loại thương thuyền lớn nặng nề, cơ động chậm. Thủy binh chúng là quân ô hợp, thủy binh của ta là quân thiện chiến, lại dựa vào thế hiểm của miền duyên hải Đông Bắc để lập thành thế trận mai phục, dài tới vài chục dặm. Các thủy đội của ta đều dựa vào hải đảo hoặc cửa sông để triển khai lực lượng, bố trí thành thế trận nhỏ của từng thủy đội trong thế trận lớn của hạm đội dùng thuyền nhỏ nhẹ, cơ động hơn địch. Trong các trận giao chiến với ta, quân Tống đều thua lớn. Hơn trăm chiến thuyền địch bị đánh chìm, hàng vạn quân địch bị giết và bị bắt. Dương Tùng Tiên phải ra lệnh cho các chiến thuyền còn lại chạy về hướng đông để tránh bị ta tiêu diệt hoàn toàn. Phải mấy ngày sau y mới tập hợp được số chiến thuyền còn lại quay về vùng biển Liêm Châu, lập thủy trại cố thủ. Thắng lợi của trận hải chiến Đông Kênh không những làm thất bại hoàn toàn kế hợp vòng chiến lược của Quách Quỳ mà còn đẩy Quách Quỳ, Triệu Tiết vào hoàn cảnh không có phương tiện cho đại quân vượt sông. Đến ngày 21 tháng 1, sau 10 ngày tiến công, quân địch đã tới phía Bắc phòng tuyến sông Như Nguyệt. Lúc này đại quân Tống ráo riết hội quân, dàn trận, tập trung lực lượng lớn đóng đối diện trên hai hướng Thị Cầu và Như Nguyệt. Vì ta dùng kế nghi binh nên Quách Quỳ không nắm được cách bố phòng cụ thể của ta và nhất là y vẫn cố nán chờ thủy quân của Dương Tùng Tiên, nên còn lưỡng lự trong việc ra lệnh tiến công vượt sông đánh sang phòng tuyến sông Như Nguyệt. Trong lúc đó, Miêu Lý, tướng hữu quân xin lĩnh một đạo quân mạnh, có kỵ binh đi đầu, đánh một trận mở đầu có tính chất thăm dò và tìm hiểu thế trận của Lý Thường Kiệt. Vào một đêm đầu tháng 2-1077, tại bến sông Như Nguyệt, quân Tống lợi dụng đêm tối, bí mật bắc cầu phao qua sông. Mờ sáng, Miêu Lý tập trung lực lượng ưu thế, phá được một đoạn trong trận tuyến Như Nguyệt, chiếm được đầu cầu phía nam. Chúng thực hành thọc sâu về hướng Thăng Long. Các vệ quân chủ lực của ta lập tức cơ động đánh cắt ngang đội hình địch, chiếm lại trận địa đã mất, không cho quân Tống tiếp tục sang sông. Một bộ phận lực lượng dự bị của ta bố trí ở phía nam phản kích mãnh liệt vào chính diện và bên sườn đạo quân Miêu Lý. Quân Tống mới vượt qua Như Nguyệt khoảng 10 dặm thì bị vây tứ phía và bị thương vong lớn, nên phải vội vã rút chạy. Quân ta đuổi theo đánh gấp. Sợ ta thừa thắng tràn sang bờ Bắc, Vương Tiến sai quân phá cầu, làm cho đạo quân Miêu Lý mất đường rút chạy qua sông. Quách Quỳ phải ra lệnh đưa bè mảng sang sông để cứu nguy. Nhưng mọi tốp bè mảng của địch đều bị ta đánh tan. Một số quân Tống liều mạng nhảy xuống sông bơi sang bờ bắc. Miêu Lý dùng thuyền nhỏ, chạy thoát, còn phần lớn đạo quân này bị ta tiêu diệt. Sau trận Như Nguyệt, Quách Quỳ càng lo lắng đến vấn đề phương tiện vượt sông. Chờ mãi không thấy thủy quân của Dương Tùng Tiên mà y chưa biết đã bị thua to và rút chạy. Thấy không thể trì hoãn được mãi, Quách Quỳ buộc phải tập trung chế gấp các phương tiện vượt sông để tổ chức tiến công. Nhưng phương tiện vượt sông lúc này rất hạn chế, sức chở kém, tốc độ chậm, nên Quách Quỳ chỉ tổ chức tiến công vượt sông được trên hai đoạn chủ yếu ở Thị Cầu và bến Như Nguyệt. Trên từng hướng, mỗi đợt vượt sông chỉ chở được 500 đến 1.000 quân bằng bè mảng. Bởi thế, Quách Quỳ không tạo nên được sức mạnh đột phá liên tục trong quá trình tiến công. Với cách tổ chức tiến công của địch như vậy, chúng ở thế hoàn toàn bất lợi, nên đã nhanh chóng bị ta tiêu diệt một bộ phận và bị đẩy lùi. Qua nhiều đợt tiến công bị thất bại, hàng vạn quân bị chết, Quách Quỳ buộc phải ngừng tiến công để củng cố lực lượng, chuẩn bị thêm phương tiện và cố nán chờ thủy quân. Thấy địch lui quân về lập trận thế, Lý Thường Kiệt liền ra lệnh cho quân phòng ngự đánh sang bờ Bắc để tiêu hao địch và thăm đò tình hình đối phó của Quách Quỳ. Quách Quỳ sợ mắc kế nghi binh, nên đã ra lệnh “án binh bất động”, tăng cường cố thủ, đề phòng ta đánh úp. Tuy thế, các trại quân Tống vẫn liên tiếp bị từng toán quân nhỏ của ta lọt vào gây cho chúng nhiều tổn thất và rơi vào tình thế đối phó lúng túng, bị động. Cuộc tiến công đại quy mô vào phòng tuyến Như Nguyệt kéo dài 2 tháng, trong đó riêng trận quyết chiến tại sông Như Nguyệt diễn ra tới 40 ngày (18-1 đến 28-2-1077), với sự tập trung toàn lực gồm mấy chục vạn quân với nhiều thủ đoạn như: bí mật vượt sông, sử dụng lực lượng lớn ào ạt vượt sông, tập kích bất ngờ hoặc đột phá liên tục. Nhưng mọi thủ đoạn tiến công của quân Tống đều vô hiệu, hàng vạn tên đã bị giết ngay dưới sông và ở chân chiến tuyến. Quách Quỳ buộc phải ngừng tiến công, lùi về trại củng cố, chuẩn bị. Nhưng tình thế chiến tranh lúc này hoàn toàn bất lợi cho quân Tống: đường vận chuyển lương thực chiến lược từ Tống sang bị Thân Cảnh Phúc đánh phá liên tiếp, lương thảo cạn, số quân bị chết trận nhiều; số quân ốm và chết vì bệnh lên tới hàng vạn; tinh thần quân giặc nao núng, rã rời. Ta lại không những đánh phá, làm cho chúng tiếp tục thương vong. Khả năng xin thêm viện binh không có, mà chiến tuyến Như Nguyệt vẫn sừng sững trước mặt. Mấy vạn binh hùng tướng mạnh, chủ lực quân của Lý Thường Kiệt và lực lượng dự bị vẫn chưa ra quân, đấy là mối lo lớn nhất đối với quân Tống. Tình thể khốn quẫn buộc Quách Quỳ không còn chủ trương nào khác ngoài việc chấm dứt tiến công mà chuyển hẳn sang phòng ngự, cầm cự với Lý Thường Kiệt. Về phía ta, chiến dịch phòng ngự trên sông Như Nguyệt đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chủ yếu của nó là: “chặn đứng quân địch, làm địch thương vong suy yếu, tạo điều kiện cho phản công”. 3. Thực hành “hoàn kích” với chiến dịch tiến công Bắc sông Như Nguyệt. Sau 3 tháng giao chiến với quân ta, bị thương vong lớn mà vẫn không đạt được mục đích chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, quân Tống thực sự làm vào thế hoàn toàn bị động trên chiến trường cả về chiến lược và chiến thuật. Tống sử viết: “Quân ta (Tống) không sang sông được. Muốn đánh (tiến công) cũng không được”. Vì thế Quách Quỳ không thể có quyết định nào khác là phải chuyển hẳn từ thế công sang thế thủ. Tuy nhiên, với 6-7 vạn quân đã thương vong và vài vạn đang làm nhiệm vụ chiếm đóng ở tuyến sau, trong tay Quách Quỳ vẫn còn trên dưới 10 vạn quân để trực tiếp đối địch với Lý Thường Kiệt ngay trên chiến trường phía Bắc sông Như Nguyệt. Bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết còn ngoan cố trong âm mưu xâm lược. Chúng cho quân cố thủ nhằm tạo nên một trạng thái chiến đấu cầm cự giữa ta và địch về mặt chiến lược, ngăn chặn quân ta tiến công giành lại vùng lãnh thổ đang bị chiếm đóng, hòng biến thượng du miền Bắc nước ta thành đất đai của nhà Tống. Quân Tống chuyển vào phòng ngự trong điều kiện trực tiếp tiếp xúc phương tiện vật chất thiếu thốn. Vì thế, cách tổ chức phòng ngự của chúng là cắm binh hạ trại, lập thế dã chiến. Từ đội hình tiến công trên hai hướng của hai đạo “chính binh” và “kỳ binh”, khi chuyển sang phòng ngự, Quách Quỳ vẫn giữ nguyên tổ chức đó để lập thành hai cụm quân, hai tập đoàn phòng ngự lớn trên bờ Bắc sông Như Nguyệt, đối diện với chiến tuyến của ta. Cụm quân của Quách Quỳ có khoảng 6-7 vạn tên đóng tại Bắc Thị Cầu. Cụm quân của Triệu Tiết có khoảng 3-4 vạn tên, đóng ở phía Bắc bến Như Nguyệt. Hai cụm quân này cách nhau chừng 30 dặm. Ngoài ra còn thêm một đạo quân chiếm mũi Tiên Lát để giữ thế liên hoàn giữa hai cụm quân. Quách Quỳ và Triệu Tiết còn phái nhiều đội quân nhỏ chốt giữ những địa thế có lợi ở xung quanh, tạo thành tuyến phòng ngự vòng ngoài để trực tiếp bảo vệ cho căn cứ đại quân. Chúng tổ chức phòng ngự liên hoàn chặt chẽ, có thể ứng cứu lẫn nhau. Riêng từng cụm quân chúng đều thực hiện chiến thuật kiểu hình tròn, bản doanh và quân dự bị đóng ở giữa. Trên các hướng phòng ngự chủ yếu, chúng bố trí những đạo quân mạnh. Khối dự bị và kỵ binh được tập trung, sẵn sàng cơ động phản kích trên các hướng này. Hình thái chiến tranh đang thay đổi lớn, giống như một ván cờ đã đảo ngược thế trận của cả hai bên. Quân ta liên tiếp thắng lợi, tinh thần lên cao, khối dự bị chiến lược chưa dùng tới. Để đánh bại thủ đoạn chiến lược mới của địch khi chúng mới chuyển sang thế phòng ngự vội vã, chưa vững chắc, Lý Thường Kiệt quyết định tiến công. Về thế trận, ở phía Đông, Lý Thường Kiệt đã sử dụng khối thủy binh của hai hoàng tử Hoàng Chấn và Chiêu Văn gồm 2 vạn quân và 400 chiến thuyền lớn nhỏ. Đây là một lực lượng dự bị chiến lược cơ động quan trọng của Lý Thường Kiệt. Vì vậy, theo kế hoạch, Hoàng Chấn và Chiêu Văn được lệnh chỉ huy một đoàn chiến thuyền chở 2 vạn quân từ Vạn Xuân ngược sông Như Nguyệt, mở cuộc tiến công lớn vào sườn trái của khối quân địch ở dọc đường Thiên Lý (đường số 1 ngày nay) trước Thị Cầu, gồm cả đại bản doanh của Quách Quỳ. Đây là một đòn đánh rất hiểm vào sườn địch hết sức quan trọng. Hai hoàng tử đã chiếm được núi Nham Biền, rồi từ đó đánh thẳng vào doanh trại quán Tống. Với thế đánh từ bên sườn, dựa vào thế cao ở núi Nham Biền, quân ta tiến công mãnh liệt vào trận địa phòng ngự của địch mà Tống sử mô tả: “Vài vạn quân quát tháo, chửi mắng đến đánh”. Trước sức tiến công mãnh liệt của quân ta, quân Tống ở vòng ngoài chống cự không nổi, buộc phải rút chạy. Thừa thắng, quân ta chia thành nhiều mũi đánh sâu vào mặt Đông và Đông Nam cụm quân Quách Quỳ. Các trại quân phòng ngự tuyến ngoài của địch bị núng thế, chống đỡ lúng túng mà Tống sử ghi là “tiến quân bất lợi”. Sợ ta thừa thắng đánh tràn vào đại bản doanh, Quách Quỳ phải điều động phần lớn lực lượng dự bị, gần hết số 7.000 kỵ binh còn lại để ngăn chặn cuộc phản công của ta. Các viên tướng chủ chốt của đạo quân Quách Quỳ như Yên Đạt, Thế Cự, Vương Mãn, Lý Trường, Điền Chưng... đều phải cầm quân xuất trận để bảo vệ đại bản doanh của chủ tướng Quách Quỳ. Bị tổn thất nặng, nhưng địch vẫn cố gắng tăng quân, dựa vào địa thế bằng phẳng có lợi cho kỵ binh để thực hành phản kích. Quân ta phải tạm dừng vừa đánh vừa lui về khu vực cao điểm phía Tây của dải núi Neo (Nham Biền). Tại khu vực này, quân ta và kỵ binh địch quyết chiến với nhau, giành giật từng mỏm núi. Địch phản kích mạnh, quân ta phải rút lui xuống thuyền. Từ trên bờ, quân địch dùng “máy” bắn đá bắn theo dữ dội, làm cho một số chiến thuyền của ta bị đắm và gây thương vong nhiều cho quân ta, trong đó có cả hai hoàng tử Hoàng Chấn, Chiêu Văn. Mặc dù bị tổn thất nhưng cuộc tiến công của thủy quân ta đã gây cho địch nhiều thiệt hại nặng về lực lượng và làm cho thế trận địch bị đảo lộn. Lợi dựng thời cơ, Lý Thường Kiệt cho 3 vạn quân trong đêm bất ngờ vượt sông ở sườn trái của địch ở bến sông Như Nguyệt, đánh vào sườn Tây của đạo quân Quách Quỳ, chiếm Việt Yên. Các đạo quân thừa thắng phát triển tiến công, đánh chiếm các trại quân Tống ở khu vực chùa Đổ, Tiên Lát và Ai Quan. Việt sử lược ký đã viết: “Thường Kiệt biết rằng quân Tống sức lực đã khốn, ban đêm sang sông đánh úp, đại phá được quân Tống 10 phần chết đến 5, 6, bèn lui giữ châu Quảng Nguyên”. Cùng lúc đó một cánh quân của ta vốn là lực lượng phòng ngự ở biên giới đã dãn ra trong quá trình địch tiến quân vào nước ta, với gần 1 vạn quân, từ Bắc Sơn theo hướng Hiệp Hòa đánh vào sau lưng cụm quân Triệu Tiết. Trại địch bốc cháy, xác giặc chất thành đống. Thế trận giặc bị vỡ, số quân của Triệu Tiết bị diệt lên tới hơn 2 vạn tên. Triệu Tiết phải lên ngựa cùng với đội quân mở đường chạy về phía Đông, về với cụm quân Quách Quỳ. Hai cánh quân chủ lực của ta từ mặt Tây và mặt Đông như hai gọng kìm xiết chặt lấy chúng. Kết hợp với tiến công quân sự, Lý Thường Kiệt còn tiến công cả ngoại giao, đã cử người mang thư tới doanh trại của Quách Quỳ. Thư có câu: “xin hạ chiếu rút đại binh về, thì sẽ lập tức sai sứ sang tạ tội và triều cống”. Trước tình hình nguy khốn vì bị thương vong lớn và ốm đau, thiếu lương thực, lại có nguy cơ bị cắt đứt đường rút quân, tinh thần chiến đấu của binh sĩ giảm sút, Quách Quỳ buộc phải thốt lên rằng: “Ta không đạp đổ sào huyệt giặc, bắt được Càn Đức để báo mệnh triều đình, đó là bởi trời. Thôi, ta đành liều một thân chịu tội với triều đình để mong cứu hơn 10 vạn nhân mạng” và đang đêm đã ra lệnh cho quân rút lui. Trong thế lui quân hỗn loạn, quân địch giẫm lên nhau để tranh đường về nước. Việt lược sử ký chép về cuộc rút quân như sau: “Quỳ muốn rút quân về, sợ giặc tập kích, bèn bắt quân khởi hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn, giẫm xéo lên nhau”. Thực tế, đây là cuộc tháo chạy tán loạn của bọn bại binh, bại tướng, do đó, quân Tống rút lui đến đâu, Lý Thường Kiệt cho quân tiến theo lấy lại đất đai đến đấy. Kết quả, theo sử sách của người Tống còn ghi lại, trong số quân Tống về tới Tư Minh chỉ còn 23.400 quân và 3.174 ngựa mà khi xâm lược nước ta, số quân cả chiến đấu và binh lính phục vụ lên tới 300.000 và 10.000 ngựa. Bài học lớn về quân sự trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1077 là Lý Thường Kiệt đã dùng phòng ngự có chiều sâu, có chiến tuyến vững chắc để ngăn chặn và chuyển sang phản công địch trên tuyến có lựa chọn theo một phương thức chiến lược phù hợp. Biết cuộc chiến tranh xâm lược nước ta của nhà Tống là không thể tránh khỏi, Lý Thường Kiệt đã bất ngờ tiến công phá chuẩn bị của chúng rồi bất ngờ rút lui. Tiếp đó, ông đã có kế hoạch phòng thủ đất nước, xây dựng một thế trận phòng ngự vững chắc, có chiều sâu từ biên giới tới sông Như Nguyệt. Trên phòng tuyến biên giới, Lý Thường Kiệt đã sử dụng quân địa phương các lộ của các động, để thực hiện đánh ngăn chặn. Sau khi địch vượt qua thì số quân này tiếp tục đánh phá giao thông tiếp tế chiến lược của địch và khi quân ta phản công thì đây cũng là một lực lượng quan trọng đánh vào sau lưng và bên sườn địch. Trung tâm của thế trận phòng ngự của Lý Thường Kiệt là phòng tuyến sông Như Nguyệt. Chiến tuyến này dài khoảng 637.000 bộ (30 km) chạy dài từ Chân núi Tam Đảo đến ngã ba sông Lục Đầu rồi tựa vào chân dãy núi Yên Tử. Đánh một đạo quân xâm lược người phương Bắc quen đánh trên địa hình trống trải, trung bình, có kỵ binh mạnh, Lý Thường Kiệt đã lợi dụng sông là một chướng ngại thiên nhiên, và dùng thủy binh Đại Việt mạnh hơn thủy binh Tống để kìm chế cái mạnh, khoét sâu cái yếu của đối phương, phát huy sở trường của ta. Lý Thường Kiệt nắm chắc địa hình chiến trường, biết rằng các con đường từ biên giới vào sâu đất nước ta đều phải hội tụ giữa hai dãy núi Tam Đảo và Yên Tử, nên đã xây dựng phòng tuyến phía Nam sông Như Nguyệt, sông Cầu, sông Lục Đầu, có cảng quân sự mạnh Vạn Xuân ở bên sườn đường tiến quân của địch. Lý Thường Kiệt đã bố trí binh lực có trọng điểm, vừa kiểm soát, bảo vệ được toàn bộ trận địa, vừa dễ dàng cơ động, có thể nhanh chóng tập trung quân đánh bại những mũi đột phá của địch hoặc tổ chức phản công vào sườn đối phương khi thời cơ đến. Trong quá trình tiến công, quân địch khó có thể vượt qua được một phòng tuyến theo kiểu như vậy. Khi đã bị chặn đứng lại, buộc phải chuyển sang phòng ngự, thì sẽ ở thế “cô quân” vì bờ Bắc sông Như Nguyệt là một vùng trung du của ít, người thưa, khí hậu khắc nghiệt đối với quân phương Bắc, xa hậu phương. Sau hai lần đột phá không thành công, quân của Quách Quỳ buộc phải chuyển sang phòng ngự một thời gian thì những mặt yếu của chúng bắt đầu bộc lộ, các tướng Tống đều thối chí than rằng: “lương ăn của chín đạo quân ta đã cạn, lúc ra đi có 10 vạn, phu có 20 vạn, vì nóng nực, lam chướng, quân phu chết quá nửa rồi, còn non nửa đều ốm”. Có thể nói, chiến tuyến sông Như Nguyệt là một công trình quân sự lớn của quân dân ta ở thế kỷ XI, được xây dựng một cách hợp lý, khoa học. Đặc điểm nổi bật của thế trận này là bố trí trên diện rộng, có chiều sâu, có trọng điểm, phối hợp chặt chẽ giữa quân chủ lực với quân địa phương nhằm đánh địch cả phá trước và sau lưng. Mặt khác Lý Thường Kiệt không chủ trương phòng ngự đơn thuần, bị động, mà ngay trong phòng ngự đã dự kiến những đòn phản kích của những cụm quân cơ động để thực hành tiêu diệt lớn quân địch, đánh trả quyết liệt những cuộc tiến công của chúng, kiên quyết phản kích khi chúng lọt vào trận địa; đồng thời kết hợp đánh ngăn chặn, tiêu diệt đạo thủy binh địch trên sông Đông Kênh, không cho chúng hội quân với nhau, đập tan khả năng sử dụng những phương tiện vượt sông. Ông cũng chủ trương đánh vào sau lưng địch bằng mọi thủ đoạn tập kích, phục kích, quấy rối, đánh phá giao thông vận tải chuyển lương thực của địch1. Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, Lý Thường Kiệt là người duy nhất thực hành thắng lợi phòng ngự có quy mô lớn theo kiểu chiến tuyến kết hợp với phản công. Từ hành động tiến công sang đất địch, phá bàn đạp tiến công của chúng, tranh thủ thời gian thực hành chuẩn bị ở trong nước, làm cho địch bị suy yếu phải chuẩn bị lại, để ta có điều kiện xây dựng phòng tuyến, đến hành động phòng ngự kiểu chiến tuyến theo sông nhằm chặn đứng quân địch, phát huy thế mạnh của ta, khoét sâu chỗ yếu của địch, đánh địch cả bằng chặn trước đánh sau, buộc quân địch phải chuyển từ tiến công sang phòng ngự, tạo điều kiện và thời cơ để thực hành phản công. Đây cũng là một bài học lịch sử vô cùng quy báu về sự kết hợp chặt chẽ, quan hệ hữu cơ giữa phòng ngự với tiến công. Để phòng ngự với mục đích ngăn chặn, tiêu diệt bộ phận, tạo điều kiện cho phản công và tiến công, phải chọn nơi địa hình cho phép chặn đứng được quân đội đối phương và tạo được thế cho lực lượng phản công tiến công. Trong trận trên sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã chọn thế lợi ở hai sườn địch để khi phản công ta có thể từ sườn đánh vào đại bản doanh địch ở khu vực Việt Yên. Dãy núi Neo sừng sững trước cánh đồng dọc đường số 1 là một địa lợi cho cánh quân dự bị chiến lược gồm 20.000 thủy binh đóng ở Vạn Xuân (Phả Lại) trên Lục Đầu Giang có thể cơ động theo sông Thương, sông Lục Nam, sông Cầu, sông Đống, sông Hồng, sông Thái Bình và sông Kinh Thầy vào các khu vực đồng bằng và trung du Bắc Bộ cũng như ra sông Bạch Đằng và ra biển Đông. Vạn Xuân từ thời Lý đến thời Trần luôn luôn là căn cứ thủy binh trên sông hết sức quan trọng về mặt chiến lược đối với đồng bằng và trung du miền Bắc Việt Nam. Cho nên chọn Vạn Xuân là nơi tập kết của 20.000 thủy binh với 400 chiến thuyền do hai hoàng tử Hoàng Chấn, Chiêu Văn chỉ huy sẵn sàng cơ động chặn thủy quân giặc và phản công vào sườn cánh quân của Quách Quỳ theo đường Thiên Lý khi chúng tiến đánh Thăng Long. Trong thế trận Như Nguyệt - Vạn Xuân, với số quân trên 6 vạn, ta không thể không thấy tác dụng hết sức quan trọng của 2 vạn thủy binh đánh thẳng vào sườn đại bản doanh Quách Quỳ, làm cho thế trận phòng ngự của quân Tống đảo lộn, và cũng như Việt sử lược đã ghi: “Mùa thu tháng bảy Tống lấy Quách Quỳ làm tuyên phử sứ, Triệu Cao (Triệu Tiết) làm chiêu thảo sứ, thống lĩnh tướng quân tới đánh nước ta, vua sai Nguyễn (Lý) Thường Kiệt đem quân thủy binh chống lại. Hai hầu Chiêu Văn, Hoàng Chấn đều bị chết. Hai quân giữ nhau ở sông Như Nguyệt hơn một tháng, Thường Kiệt biết rằng quân Tống sức lực đã kiệt, ban đêm sang sông đánh úp đại phá được quân Tống, 10 phần chết đến 7 và lui giữ châu Quảng Nguyên”. Ta không thể căn cứ vào câu viết có tính chất xuyên tạc của Tống sử “vài vạn quân quát tháo, chửi mắng đến đánh, hai hầu Hoàng Chấn, Chiêu Văn bị chết đuối, quận Đại Việt phải rút lui” mà cho là cánh quân 20.000 quân thủy binh thiện chiến tiến công thẳng vào đại bản doanh Quách Quỳ, buộc các tướng của Quách Quỳ đều phải thân trinh xuất trận là hướng nghi binh, mà đánh giá thấp cuộc tiến công của hai hầu Hoàng Chấn và Chiêu Văn được. Có cánh quân tiến công này thì thế trận phòng ngự của quân Tống mới bị đảo lộn và tạo điều kiện cho cánh quân phía Nam sông Như Nguyệt vượt sông ban đêm tập kích vào quân địch như Việt sử ký nêu. Do đó, đứng về nghệ thuật quân sự mà xét ta thấy, với thế, lực mạnh của quân Đại Việt thiện chiến như Trần Hưng Đạo đã nói với vua Trần, quân ta đã chủ động phá chuẩn bị, đánh sâu đất địch trên 100 cây số để tranh thủ thời gian chuẩn bị phòng thủ đất nước. Và cuối cùng với thế lực mạnh ấy, ta đã dùng chiến lược kiên trì phòng ngự làm địch suy yếu, rồi chuyển sang tiến công trên một thế trận có chuẩn bị trước để phá tan quân xâm lược trong có gần 3 tháng kể từ lúc địch đưa đại quân vượt biên giới đánh vào nước ta. II. ĐẠI THẮNG MÔNG - NGUYÊN THỜI TRẦN THẾ KỶ XIII Ở thế kỷ XIII, trong vòng ba chục năm, dân tộc Việt Nam đã tiến hành liên tiếp ba cuộc kháng chiến, giành thắng lợi oanh liệt trước một đối tượng xâm lược hùng mạnh và tàn bạo vào bậc nhất trong lịch sử lúc đó, đế quốc Mông - Nguyên. Nhiều nhà sử học trên thế giới và trong nước đã, đang và sẽ còn nghiên cứu, miêu tả, phân tích ngày càng rõ ràng, chính xác hơn về quá trình bành trướng của đế quốc Mông Cổ nói chung và 3 cuộc kháng chiến quyết liệt và tài tình của dân tộc Việt Nam nói riêng. Dựa trên những tài liệu lịch sử hiện có, chúng tôi sẽ cố gắng không lặp lại việc miêu tả, mà chú trọng phân tích trên góc độ nghệ thuật chiến tranh, tìm hiểu xem vì sao và bằng cách nào một nước nhỏ, dân thưa, quân ít, tiềm lực có hạn, lại có thể đứng vững, đánh thắng và chặn đứng tên xâm lược khổng lồ, lắm quân, nhiều ngựa, thuyền, khí giới, điều dộng từ một vùng đất mênh mông đã chinh phục được, buộc chúng phải từ bỏ mộng tưởng thâu tóm và nô dịch thế giới. Kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh, muốn buộc một kẻ địch mạnh từ bỏ mục tiêu xâm lược thì không có cách nàokhác là phải đánh bại ý chí xâm lược của nó bằng cách phá các biện pháp chiến lược chủ yếu và tiêu diệt bộ phận lực lượng chiến lược của nó. Quân dân Đại Việt đầu triều Trần đã làm được điều đó. Với ý chí sắt đá bảo vệ độc lập, chủ quyền, với tình đoàn kết keo sơn cả nước một lòng, với tinh thần xả thân, sẵn sàng chịu đựng và vượt qua những hy sinh, tổn thất to lớn, và quan trọng nhất là với tầm cao của trí tuệ và sức sáng tạo trong vận dụng nghệ thuật quân sự, tổ tiên ta trong cuộc đọ sức chênh lệch này đã càng đánh càng mạnh, càng chủ động dồn địch vào thế càng hung hăng thì càng bị động, càng thua lớn cuối cùng phải cam chịu thảm bại. Quá trình không diễn ra đơn giản, trơn tru, mà có vấp váp có thất bại tạm thời, có hiểm nguy căng thẳng. Đó là quá trình tìm hiểu, nhận thức đối tượng, sử dụng các biện pháp để tìm ra biện pháp có hiệu quả nhất nhằm chiến thằng địch. Như chúng ta đều biết, ba lần đọ sức của quân dân Đại Việt với đế quốc Mông Cổ diễn ra trong khoảng thời gian 30 năm, trong các bối cảnh khác nhau. Lần thứ nhất (1258) diễn ra sau khi đế quốc Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn thành lập từ năm 1206, đã bành trướng nhanh chóng ra đại bộ phận lục địa Á - Âu từ bờ Bắc Hải tới Thái Bình Dương diệt Tây Hạ, diệt Kim, Tây Liêu chiếm Triều Tiên, diệt Tống, đẩy Tống xuống phía Nam Trường Giang, rồi quay sang chiếm Trung Á, chiếm vùng Lưỡng Hà, lập ra nước Hãn Ba Tư, chiếm đại bộ phận nước Nga, chiếm Ba Lan, Hung-ga-ri, lập ra nước Hãn lều vàng (Kim Trường). Để chuẩn bị tiêu diệt Nam Tống, một cánh quân Mông Cổ đã đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam ngày nay). Lần đọ sức thứ hai (1285) và thứ ba (1288) diễn ra khi đại hãn Khu Bi Lai (Hốt Tất Liệt) đã hoàn thành việc tiêu diệt Nam Tống, thâu tóm toàn Trung Quốc và thành lập triều đại Nguyên, tiến đánh Miến Điện và Chiêm Thành. • Lần kháng chiến thứ nhất (1258) Đặc điểm của lần xâm lược này là nó được tiến hành với mục đích lấy đất Đại Việt để tổ chức mũi vu hồi sau lưng Nam Tống. Nếu chiếm được Đại Việt thì chúng sẽ định kế ở lâu dài nhưng không đặt nhiệm vụ này ưu tiên hơn việc đánh Nam Tống. Chính vì vậy, số quân được sử dụng không nhiều, chỉ gồm từ 2 đến 3 vạn quân Mông Cổ và 2 vạn quân đầu hàng của vua Đại Lý, tổng số là 4 - 5 vạn tên. Tuy nhiên đây cũng là 1 đạo quân kỵ mạnh do tên tướng giỏi và nhiều kinh nghiệm U-ri-ăng-kha-đai chỉ huy. Về phía ta, theo dõi sát quá trình xâm lược, bành trướng của đế quốc Mông Cổ do những người lái buôn Tây Dương, Ba Tư, Ấn Độ, Tây Vực... tới buôn bán ở vùng ven biển nước ta cung cấp và tìm hiểu qua việc giao thiệp với triều Tống, triều đình và nhân dân Đại Việt đã sớm nhận thấy làn sóng xâm lược đang tràn tới từ phương Bắc. Vì vậy, ngay từ khi mới lên cầm quyền, triều Trần đã tiến hành nhiều biện pháp chuẩn bị để tăng cường sức mạnh giữ nước. Tuy nhiên, do chưa trực tiếp đánh nhau với địch, quân dân ta chưa thể đánh giá thật xác đáng về sức mạnh của quân xâm lược cũng như sở trường, sở đoản của chúng. Với số quân cấm vệ và quân các lộ gồm mười vạn người, có đủ các binh chủng bộ binh, kỵ binh, tượng binh và thủy binh đã được thao luyện chu đáo nên triều đình nhà Trần đã đề ra kế hoạch chặn địch và tiêu diệt chúng trước kinh thành Thăng Long. Nhưng đồng thời, cũng dự kiến phương án khi cần sẽ rút khỏi kinh thành. Theo kế hoạch đó, cuối tháng 12 năm 1257, khi nhận được tin cấp báo địch đã vượt biên giới, vua Trần lập tức “thân đem sáu quân đi chống giặc”[1]. Trong trận đánh chặn ở Bình Lệ, mặc dù nhà vua “thân tự cầm quân đốc chiến, đi trước công phá tên đạn”, các tướng lĩnh, tiêu biểu là Lê Tần hết sức bình tĩnh dũng cảm, binh sĩ chiến đấu gan dạ, nhưng tượng binh của ta không phát huy được sức mạnh công phá trận địch như dự kiến, lại bị quân thiện xạ đánh lui, trận địa bị núng trước làn sóng xung kích mãnh liệt của kỵ binh thiện chiến của địch. Không khăng khăng bám giữ ý định cũ, vua Trần đã nghe theo lời khuyên sáng suốt của Lê Tần, tạm lui quân để tránh nhuệ khí ban đầu của địch. Cuộc lui quân về Phủ Lỗ, rồi về Thăng Long và sau cùng bỏ Thăng Long, rút về vùng sông Thiên Mạc, tuy vội vã nhưng được tiến hành tương đối tốt. Các tướng làm nhiệm vụ chặn địch đã có tinh thần anh dũng hy sinh, bảo đảm an toàn cho đại quân và dân chúng kinh thành di chuyển. Dù vội vã nhưng nhân dân ta vẫn kiên quyết chấp hành lệnh thanh dã (làm vườn không nhà trống), tạo điều kiện thuận lợi cho phản công. Vì vậy, vào chiếm kinh thành bỏ ngỏ, U-ri-ăng-kha-đai không gặt hái được thắng lợi như thường lệ mỗi khi chiếm được quốc đô của các quốc gia Âu - Á khác. Ý đồ chiến lược tiêu diệt lực lượng kháng chiến Đại Việt không đạt được. Kinh thành vắng lặng, không một người dân, không một hạt lương thực trong kho và ngoài đồng ruộng, không một chiếc thuyền ngoài bến sông. Bốn vạn quân mã chiếm đóng ngay từ đầu đã lâm vào khó khăn vì thiếu ăn. Đoàn kỵ binh thiện chiến bất lực nhìn dòng nước sông Hồng đã đưa quân đội Đại Việt xuôi về phía nam mà không có cách gì truy kích. Sau khi sục sạo và phá phách kinh thành, quân Mông không dám giam vó ngựa trong phố phường chật hẹp, đã ra lập trại ngoài bến Đông Bộ Đầu để tính kế tiến lui và tiện đối phó với quân ta. Những toán quân giặc đi lùng cướp lương thực vùng xung quanh kinh thành đều bị dân các thôn ấp đánh cho tơi tả. Nhuệ khí ban đầu của giặc không còn nữa. Thời cơ phản công của quân dân Đại Việt đã tới. Ngay sau khi rút xuống vùng Thiên Mạc, quân đội triều Trần được chỉnh đốn, bổ sung. Vũ khí, phương tiện được thu thập, kể cả những thuyền các gia đình đi lánh nạn. Mọi mặt tinh thần vật chất đều sẵn sàng. Ngày 20-1-1258, đại quân ta tiến đánh thẳng vào trại giặc ở Đông Bộ Đầu. Hiện không còn tài liệu miêu tả chi tiết trận đánh này. Ta chỉ được biết trận đánh do Trần Thái Tôn đích thân chỉ huy, có vị tướng trẻ Trần Quốc Tuấn (lúc đó mới khoảng 20 - 25 tuổi) “tiết chế mọi việc quân”. Tham gia trận đánh còn có đủ mặt vương hầu tướng lĩnh quan trọng như Trần Thủ Độ, Lê Tần. Thái tử Hoàng lúc đó 18 tuổi cũng tham gia trận đánh. Như vậy, đây là trận phản công toàn lực của quân Đại Việt. Địch không chống đỡ nổi, phải mở đường máu chạy về Vân Nam. Dọc đường, giặc còn bị dân binh địa phương chặn đánh, gây tổn thất lớn. Cuộc xâm lược chấm dứt. Giặc không thực hiện được mục đích đề ra. Số quân Mông bị tổn thất ở Đại Việt không thấy ghi rõ trong sử sách, ta chỉ biết U-ri-ăng-kha-đai dẫn quân từ Vân Nam qua đường Quảng Tây lên Châu Ngạc hội quân với Hốt Tất Liệt thì số quân còn lại không quá 5 nghìn. Như vậy là 15 nghìn quân đã bị mất trong cuộc xâm lược Đại Việt và trên chặng đường hành quân Vân Nam - Hồ Bắc. Điều chắc chắn là phần lớn trong số 15 nghìn quân đó đã bỏ xác tại Đại Việt. Lãnh thổ Đại Việt được khôi phục. Dù chưa tiêu diệt gọn quân xâm lược, nhưng trận đọ sức trực tiếp đầu tiên với bọn giặc hung hãn nhất của thời đại đã có giá trị lớn, giúp ta rút ra những bài học quý. Nó củng cố lòng tin cho dân tộc ta vì tuy chưa huy động hết tiềm lực của đất nước, đã có thể đánh lui bọn giặc cuồng bạo và thiện chiến, từng thôn tính dễ dàng các quốc gia khác. Về nhận thức đánh giá địch, ta thấy cụ thể hơn về sức mạnh của kỵ binh địch vừa cơ động nhanh trên bộ, vừa tạo thành sức mạnh xung kích ào ạt trong công phá trận địa phòng thủ mà tượng binh nặng nề và xoay trở chậm hơn không ngăn chặn được. Nhưng địch cũng bộc lộ những nhược điểm lớn như tác dụng của kỵ binh bị hạn chế trên chiến trường có nhiều sông ngòi ngang dọc; quân tiến công không thể mang theo nhiều lương thực, nếu không có nguồn tiếp tế tại chỗ thì không thể tác chiến dài ngày. Về nghệ thuật quân sự, ta tìm ra những biện pháp hạn chế và tránh chỗ mạnh của địch (kỵ binh, trường trận), lợi dụng, khoét sâu và đánh vào chỗ yếu của chúng (thủy quân, tiếp lương). Tư tưởng “lấy nhàn chờ nhọc” “dùng đoản binh thắng trường trận” của Trần Quốc Tuấn chắc đã nảy nở và chín dần trong và sau lần kháng chiến này. Về mặt tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc, qua kinh nghiệm thắng lợi của dân binh vùng Sơn Vị, Bạch Hạc (Phùng Lộc Hộ) và Quê Hóa (Hà Bổng), triều đình càng thấy rõ hơn vai trò quan trọng của lực lượng tại chỗ trong việc ghìm chân, quấy rối và chặn đánh địch để vận dụng rộng rãi trong các lần kháng chiến sau, và tác dụng lớn của việc nhân dân làm chước thanh dã. Tất nhiên, về phía địch, chúng cũng hiểu ta hơn, không dám quá chủ quan, coi thường ta và phải chuẩn bị thật đầy đủ, kỹ càng hơn, tìm tòi phương kế và biện pháp hiểm độc hơn cho lần xâm lược sau. Tóm lại, đối với cả hai bên, cuộc đọ sức quyết liệt thật sự còn chưa tới. Diễn biến và kết cục của nó sẽ phụ thuộc vào mức độ chuẩn bị, nỗ lực chủ quan và tài nghệ của mỗi bên. • Lần kháng chiến thứ hai (1285) Đặc điểm của lần kháng chiến thứ hai này là quân xâm lược Mông Cổ đã tiêu diệt xong nhà Tống, thành lập triều đại Nguyên và lấy Đại Việt làm mục tiêu chính và trực tiếp của hành động tiếp tục bành trướng xuống phương Nam. Vì vậy địch đã huy động một lực lượng khổng lồ là 50 vạn quân tiến vào nước ta từ hai hướng Đông Bắc và Tây Bắc, phối hợp với gần 10 vạn quân đã ở sẵn Chiêm Thành, đánh ra nước ta từ phía Nam. Về mặt chiến cụ và lương thực, địch cũng chuẩn bị kỹ càng và đầy đủ hơn lần trước nhiều. Về phía ta, sau mấy chục năm bồi dưỡng sức dân, tăng cường lực lượng của triều đình cũng như của vương hầu quý tộc và dân binh ở các địa phương, sức mạnh giữ nước của dân tộc ta đã trưởng thành vượt bậc. Ngoài ra, công việc chuẩn bị động viên tinh thần cho quân dân được tiến hành hết sức chu đáo. Triều đình nhà Trần đã định ra kế hoạch phòng giữ tỷ mỹ, có tập duyệt ngay tại các vùng dự kiến sẽ có giao chiến với giặc. Rút bài học kinh nghiệm của lần kháng chiến thứ nhất và xét tinh hình cụ thể của lần tiến quân này của giặc, triều Trần đã bố trí nhiều tuyến ngăn chặn mạnh trên hướng đông bắc để làm chậm, tiêu hao và nếu điều kiện cho phép thì chặn đứng và tiêu diệt, không cho chúng vào Thăng Long, đồng thời cũng chuẩn bị kỹ cho phương án rút bỏ kinh thành và cơ động tránh giặc theo đường sông và đường biển. Nhưng vì điều kiện địch đã khác trước rất xa nên diễn biến của lần kháng chiến này rất phức tạp, xuất hiện những tình huống đòi hỏi từ vua quan đến tướng sĩ và nhân dân Đại Việt phải cố gắng và sáng tạo cao độ mới giành được thắng lợi. Ngày 27-1-1285, đại quân địch trên hướng Đông Bắc tiến vào Lộc Bình. Những cuộc ác chiến diễn ra giữa ta và địch suốt theo chiều sâu từ biên giới xuống. Qua 6 ngày kịch chiến và chịu nhiều tổn thất, địch đến được trước ải Nội Bàng, một trong điểm phòng ngự do đích thân tiết chế Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Ngày 2-2-1285, quân địch chia làm 6 mũi tiến đánh Nội Bàng. Với lực lượng tại chỗ, Trần Quốc Tuấn định chặn đứng đường tiến quân của giặc. Nhưng quân giặc quá đông, tiến đánh ào ạt, trong lúc đó, một cánh quân khác của địch đã vượt qua được ải Khâu Ôn và Lao Thủ (Chi Lăng). Tình thế buộc vị tướng soái phải chọn lựa: hoặc là tiếp tục chặn địch, một việc khó thực hiện, hoặc rút đi tạm tránh cái mạnh nhất thời của địch để khỏi bị tổn thất nhiều. Và Trần Quốc Tuấn, vị tướng tài trí, nhà chiến lược đã viết Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí truyền thư, đã xử trí đúng như tình thế đòi hỏi, lui quân về Vạn Kiếp. Làm như vậy, Trần Quốc Tuấn đã thực hiện điều mà bản thân đã từng suy nghĩ “vì là biết khó mà lui, lường thế không thể thắng được, bèn thu vén quân mà rút lui, hơn là tiến để mà mất vậy”. Cuộc lui quân về Vạn Kiếp được thực hiện tốt theo một kế hoạch chặt chẽ. Tại phòng tuyến này, các vương hầu đem quân đến hội, theo sử chép, tổng số quân lên tới 20 vạn. Một lần nữa, Trần Quốc Tuấn đã bố trí tại đây một tuyến phòng ngự mạnh, dựa vào thế sông và thế núi vùng Vạn Kiếp, Bình Than, Phả Lại. Với số quân chủ lực lớn và với thế bố trí này, ta thấy ông vẫn có ý định chặn bước tiến của giặc ở đây. Đồng thời, ông cũng tăng cường chiều sâu phòng tuyến để giữ an toàn đường lui quân về Thăng Long, không cho địch có thể vu hồi, bọc hậu. Hai khối quân chủ lực lớn đối mặt nhau. Địch mạnh về quân kỵ, ta mạnh về quân thủy. Thoát Hoan và U-ri-ăng-kha-đai buộc phải dừng lại, đóng thuyền chiến cấp tốc tổ chức một đội quân thủy lớn giao cho Ô Mã Nhi thống lĩnh. Sau mười ngày hối hả chuẩn bị, ngày 11-2-1285 đích mở đợt tiến công mới vào phòng tuyến Bình Than - Vạn Kiếp. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Vua Trần thân dẫn quân Thánh Dực và hơn 1.000 thuyền chiến đến tăng viện cho Trần Quốc Tuấn. Địch bị tổn thất lớn, nhưng cậy quân đông vẫn liều mạng công kích, quyết phá vỡ trận địa ta. Kéo dài cuộc chiến sẽ không có lợi, vì vậy ngày 14-2-1285, quân ta rút khỏi phòng tuyến. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn đem binh thuyền theo sông Đuống, về Thăng Long, rồi từ đó tổ chức cuộc sơ tán triều đình và dân kinh thành. Ngày 19-2-1285, sau nhiều trận bị chặn đánh, quân giặc mới vào được Thăng Long, sau khi triều đình và quân đội đã rút lui an toàn về Thiên Trường. Cánh quân của Trần Nhật Duật, sau khi hoàn thành việc đánh chặn cánh quân Tây Bắc của địch, đã về hội với quân triều đình ở đây. Địch vào Thăng Long, vẫn chỉ chiếm được một tòa thành trống như đã diễn ra năm 1258. Nhưng với một số quân đông hơn trước gấp nhiều lần và với một số lượng lương thực đủ ăn trong mấy tháng. Thoát Hoan vẫn còn hung hăng và điên cuồng muốn đuổi theo tiêu diệt quân ta. Như vậy, ý định của ta tiến hành phòng ngự chiến lược để chặn đứng quân địch không thực hiện được, bởi vì ý định đó tuy đã dựa trên sự tính toán về lực lượng địch ta, nhưng vẫn chưa thật sát với tình hình mới của năm 1285 này. Địch mạnh hơn ta dự kiến và tràn đầy kiêu ngạo, ngông cuồng, tin chắc sẽ nuốt chửng được Đại Việt, một nước nhỏ. Phải rút khỏi phòng tuyến, lại bỏ ngỏ kinh thành cho giặc, chúng ta đã đạt được một thắng lợi quan trọng, là chuyển từ phòng ngự chiến lược sang rút lui chiến lược một cách tài tình. Một đội quân lớn, một tổ chức triều đình đồ sộ đã di chuyển và phân tán tại chỗ theo một kế hoạch chặt chẽ, một trật tự hoàn bị, không để xảy ra rối loạn khiến địch có thể lợi dụng. Đây là điều hiếm thấy trong lịch sử chiến tranh. Đây cũng là điều kiện quan trọng quyết định để tiếp tục đưa cuộc kháng chiến vượt qua những thử thách hiểm nghèo và giành thằng lợi cuối cùng. Vào tới Thiên Trường, Trường Yên, quân ta lại tập hợp được một lực lượng đông đảo. Tại đây, bộ chỉ huy quân Đại Việt phải lo đối phó với địch ở cả hai mặt Bắc và Nam. Đối với đại quân Thoát Hoan từ phía Bắc tiến xuống, thì sau khi Trần Bình Trọng chặn đánh tại khúc sông Thiên Mạc và anh dũng hy sinh, áp lực của địch càng mạnh. Đích thân Trần Quốc Tuấn cùng với Phạm Ngũ Lão lại đem hơn 1.000 thuyền chiến từ Long Khánh ngược sông Thái Bình kéo lên đóng lại tại Vạn Kiếp chơi trò xoay vòng với giặc, tạo thành thế uy hiếp sau lưng chúng, khiến cho Thoát Hoan, với số quân rất lớn, vẫn kinh hoàng vì “bị treo lơ lửng ở giữa”. Để lo đối phó với quân Toa Đô từ Chiêm Thành tiến ra, Trần Quốc Tuấn đã cử Trần Nhật Duật vào trấn giữ Nghệ An, Trần Kiệm vào trấn giữ Thanh Hóa và tiếp đó, lại đề nghị vua Trần cử Trần Quang Khải vào Nghệ An tăng viện cho Trần Nhật Duật. Nhưng khi Trần Nhật Duật vừa vào tới Nghệ An và Trần Quang Khải chưa vào kịp, thi Toa Đô đã đem quân tiến ra. Trần Nhật Duật không cản được, phải rút lui. Giặc thẳng đường tiến ra Thanh Hóa. Thêm một biến cố bất ngờ làm tăng thêm khó khăn cho ta. Ngày 8-3-1285, Trần Kiệm tuy có trong tay một vạn quân để trấn giữ Thanh Hóa nhưng đã đầu hàng giặc, tạo một lỗ hổng lớn trên tuyến phòng giữ mặt Nam. Do sự phản bội của bọn Trần Kiệm, giặc đã tập kích, gây tổn thất cho trại quân ta ở Vệ Bố và cho toán quân của Trần Quang Khải khi ghé thuyền vào bến Phúc Tân. Quân triều đình đứng giữa hai gọng kìm của địch: quân Thoát Hoan từ mặt Bắc đánh xuống Thiên Trường, quân Toa Đô từ mặt Nam đánh vào Trường Yên. Tình thế trở nên nguy kịch. Nếu không xử trí nhanh chóng và quyết đoán thì quân ta (gồm cánh quân vua Trần và cánh quân của Trần Quốc Tuấn mới từ Vạn Kiếp quay về tiếp ứng) sẽ khó tránh khỏi hiểm họa. Vua Trần và tiết chế Trần Quốc Tuấn đã tổ chức một cuộc thoát hiểm đầy mưu trí: mau lẹ và bí mật đưa toàn quân rút ra cửa biển Giao Hải, xuống thuyền ra biển. Để tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc rút lui, ta đã dùng mưu cầu hòa để giặc ngừng tiến quân. Vì vậy, chỉ sau khi vồ hụt vào chỗ trống, giặc mới biết là ta đã “đưa cả nước đi ra biển” (nguyên văn: “cứ quốc hàng hải”). Giặc chưng hửng vì mất mục tiêu, điên cuồng lùng sục và bắt bớ, nhưng không đạt kết quả gì ngoài việc làm cho mấy tên quý tộc bạc nhược như Trần Tú Hoãn, Trần Ích Tắc phải ra hàng để chịu chung tình cảnh khốn quẫn với chúng. Trong khi đó, vua Trần và Trần Quốc Tuấn đã chuẩn bị kế hoạch phản công. Bằng nhiều hành động đánh lạc hướng giặc, hai cánh quân lại trở về vị trí cũ: Trần Quốc Tuấn về Vạn Kiếp, hai vua Trần về Thanh Hóa, nơi cánh quân Toa Đô đã đi qua. Đạo quân khổng lồ của Thoát Hoan sau bốn tháng loay hoay mãi không thi thố được sở trường, không tìm được đối phương để giao chiến, sức chiến đấu của chúng giảm sút rõ rệt, phần vì bị tổn thất qua các cuộc đụng độ với quân địa phương và dân binh, phần vì bệnh tật do không quen khí hậu, thời tiết. Nhưng điều nguy ngập lớn nhất của địch là hết lương ăn mà hệ thống đường tiếp tế từ Thăng Long lên biên giới lại luôn bị đánh chặn, không duy trì được. Do khó khăn đột xuất này mà hai đạo quân Thoát Hoan, Toa Đô mấy tháng trước còn tìm mọi cách để gặp nhau, nay đã gặp nhau rồi lại không cưu mang được nhau nữa, Thoát Hoan buộc phải lệnh cho Toa Đô đóng lại ở Trường Yên để “kiếm lương”, “đóng cách đại bản doanh hơn hai trăm dặm”. Giặc quẫn bách, thời cơ phản công chiến lược đã tới. Rất nhạy bén, quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn lại nhanh chóng vào Thanh Hóa cùng vua Trần và thượng tướng thái sư Trần Quang Khải hoạch định kế hoạch phản công. Tháng 5 năm 1285, Trần Quốc Tuấn cùng với Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đem quân ra Bắc, còn cụm quân vua Trần ở lại Thanh Hóa để thanh toán cánh quân Toa Đô. Theo kế hoạch cánh quân ra Bắc phân làm hai tập đoàn kỳ, chính: Tập đoàn quân của Trần Quang Khải đánh hệ thống đồn giặc trên sông Hồng phía Nam Thăng Long rồi tiến lên giải phóng kinh thành, tập đoàn quân của Trần Quốc Tuấn sẽ đi vòng qua các lộ phía Đông, tiến về Vạn Kiếp, nơi đã có quân các vương hầu chờ đón để cùng tiến đánh quân địch từ phía sườn và phía sau, tiêu diệt quân địch rút chạy. Lúc này quyền chủ động đã hoàn toàn nằm trong tay ta, tình hình diễn biến không ngoài dự kiến của quốc công tiết chế. Đặc điểm nổi bật trong lần tiến công chiến lược này là bên cạnh mưu kế hoàn hảo, còn có sự thực hiện kiên quyết, phối hợp chặt chẽ giữa chính binh và kỳ binh. Có thể coi tập đoàn quân của Trần Quang Khải đánh vào hệ thống đồn lũy dọc sông Hồng và vào Thăng Long là chính binh, còn tập đoàn quân của Trần Quốc Tuấn ở Phả Lại đánh vào sườn và phía sau địch giữ vai trò kỳ binh. Nhận định như vậy cũng chỉ là tương đối, bởi vì, như binh pháp cổ đã nói:“Phàm chiến đấu, lấy đạo chính để hợp, lấy đạo kỳ để thắng. Cho nên người giỏi dùng kỳ thì vô cùng như là trời đất, không hết như là sông biển... Thế chiến thắng chẳng qua chính với kỳ, chính kỳ biến hóa không cùng vậy. Chính kỳ sinh ra nhau như vòng xoay tròn không có đầu mối ai biết thế nào là cùng”. Bốn câu thơ của Trần Quang Khải viết sau chiến thắng năm 1285 đã nói lên vai trò quan trọng của cánh quân tiến công chính diện vào quân Mông - Nguyên: Đoạt sáo Chương Dương Độ Cầm hồ Hàm Tử Quan Thái bình tu nỗ lực Vạn cố thủ giang san. Và các trận Quế Dương và Sông Sách cũng như các trận truy kích ở Vĩnh Bình của cánh quân do Trần Hưng Đạo chỉ huy trực tiếp ở Vạn Kiếp đã phối hợp nhịp nhàng ăn khớp, quyết định sự tan vỡ của trên 60 vạn quân Mông - Nguyên. Đúng như vậy, hai tập đoàn quân của Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải phối hợp chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề và điều kiện cho nhau để làm nên chiến thắng giòn giã của đợt tiến công chiến lược, đồng thời cũng tạo điều kiện cho tập đoàn của hai vua Trần tiêu diệt gọn ghẽ đạo quân Toa Đô ngày 24-6-1285. Vậy là chỉ trong thời gian một tháng, từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 6 năm 1285, chiến thắng đã nối tiếp chiến thắng như diệt A Lổ, Giang Khẩu, Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, giải phóng Thăng Long, truy kích và diệt địch trên đường rút ở Quế Võ, Sông Sách, Vĩnh Bình, giết Lý Hằng, Lý Quán, buộc Thoát Hoan phải chui vào ống đồng, cùng một nhóm tàn quân trốn qua biên giới về nước. Trải qua những cuộc đấu trí và đấu sức cực kỳ căng thẳng, cuộc kháng chiến đã kết thúc bằng thắng lợi oanh liệt của quân dân Đại Việt. Qua cuộc kháng chiến này, nhân dân ta đã thu được những bài học kinh nghiệm vô giá, và có thể nói là, đã tìm ra được bí quyết để giành thắng lợi. 1. Điều quyết định trước hết là đã xây dựng được ý chí quyết chiến quyết thắng trong cả nước từ triều đình, vương hầu, quý tộc đến toàn thể dân chúng. Từ hội nghị Bình Than đến hội nghị Diên Hồng, tinh thần yêu nước đã được khơi dậy, lòng căm thù giặc đã được hun đúc, phương lược công thủ đã được bàn bạc và hoạch định. Vì vậy, khi tình hình diễn biến khẩn trương, nguy ngập, ngoại trừ sự dao động cá biệt của mấy phần tử quý tộc đã xa lìa dân tộc, toàn thể quân dân đã giữ vững quyết tâm “Sát Thát”, gắn bó thành một khối sắt thép, góp trí, góp sức, đem mồ hôi và xương máu của mình phục vụ cho sự nghiệp giữ nước. 2. Sức mạnh của ta không chỉ ở quân triều đình có sức “nuốt sao ngưu” của quân đội có những tướng tài như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái, Trần Quốc Toản, Yết Kiêu, Dã Tượng v.v… mà cả ở dân binh mạnh mẽ của Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp phối hợp đánh Thăng Long; của Nguyễn Truyền, Hà Đắc, Hà Chương ở Vĩnh Phú, của Nguyễn Lộc ở Lạng Sơn và còn biết bao dân binh ở các châu Hà Bắc, Kim Môn, Ninh Bình, Kim Yên v.v... Nguyên sử còn ghi trận Thăng Long lịch sử: “Quân thủy và quân bộ đến đánh đại bản doanh, vây quanh thành mấy vòng, tuy chết nhiều nhưng quân tăng thêm càng đông, quan quân (chỉ quân Nguyên) có đánh từ sáng đến tối, mỏi mệt, thiếu thốn; khí giới đều hết”... và quân mà Mông Cổ không thi thố được tài năng, phải liều chết phá vòng vây chạy khỏi thành Thăng Long. Rõ ràng quân Mông - Nguyên đi kháp Á, Âu, đánh thắng hàng mấy chục nước, đã thua quân Đại Việt trong trận quyết chiến chính quy trước các thành lũy và trên chiến trường đồng bằng. Trần Hưng Đạo đã xác định đúng nguyên tắc chỉ đạo tác chiến, ông nói: “Địch cậy trường trận, ta cậy đoản binh, dĩ đoản chế trường là lẽ thường của binh pháp”. 3. Trong lần xâm lược này, quân Mông - Nguyên đã huy động đến đỉnh cao sức mạnh của nó, quân số đông, kỵ binh tinh nhuệ, đội hình dày đặc, tiến công ồ ạt cơ động nhanh chóng trên bộ. Nhưng chúng cũng bộc lộ những điểm yếu chí tử: càng xa hậu phương thì tiếp tế càng khó khăn, không thể bảo vệ được kho tàng, trạm trại trước các đòn đột kích của các đội quân nhỏ của ta; không quen thời tiết, khí hậu nhiệt đới, đóng quân càng lâu thì bệnh tật càng nhiều, sức chiến đấu bị giảm sút. Vì vậy, địch đã chú ý chọn mùa đông để tiến quân, với tham vọng tiêu diệt quân ta trước mùa hè. Khi tham vọng này không đạt được thì địch lâm vào thế bị động, lúng túng và dễ bị đánh bại. Về phương tiện cơ động, giặc chỉ sở trường về kỵ binh. Nhưng kỵ binh có thể phát huy được tác dụng trên địa hình đồng cỏ. Còn ở chiến trường nhiều sông ngòi chia cắt, tác dụng của nó bị hạn chế nhiều. Để bổ xung chỗ yếu này, địch đã vội vã tổ chức thủy quân, nhưng chất lượng kém, chỉ huy và sử dụng không thành thạo, không thể so sánh với thủy binh thiện chiến của ta. Địch có mang theo một số pháo và phương tiện đánh thành, nhưng vì ta không chủ trương cố giữ một nơi nào, nên pháo binh địch trở nên vô dụng. Nhìn chung lại, địch có cái mạnh ồ ạt ban đầu, nhưng khi trải rộng đội hình và qua mấy tháng tìm diệt không kết quả, thì những khó khăn sẽ dồn dập nảy sinh và sức chiến đấu của chúng nhanh chóng bị giảm sút, tự phơi bày những điểm yếu mà ta có thể khoét sâu và lợi dụng. Vì vậy, về nghệ thuật quân sự, ta đã phát huy được tư tưởng quân sự của vua Trần và “quân giặc đi xa lâu năm, đem lương muôn dặm ắt phải mệt nhọc, lấy nhàn đợi mệt, trước làm nhụt nhuệ khí của chúng, tất phá tan được”. Và Trần Hưng Đạo đã đưa ra nguyên tắc quân sự độc đáo trong chống quân Mông Nguyên mạnh nhất thời đó, đặc biệt là kỵ binh Mông Cổ: “Dĩ đoản chế trường là lệ thường của binh pháp” Ta có thể hiểu nhiều nghĩa: Đoản binh là bộ binh, mà trường trận là kỵ binh. Dĩ đoản là dùng bộ binh, chế trường là kiềm chế kỵ binh. Dĩ đoản còn có thể hiểu về nghệ thuật quân sự là lợi dụng chỗ yếu của đối phương như đường xa, quân mệt, lương thảo khó khăn, kỵ binh không phát huy được ở địa hình sông lạch, lầy thụt của đồng bằng Bắc Bộ, tiến công thì mạnh nhưng phòng ngự trong thành quách thì yếu. Chế trường còn là phải kìm chế sở trường của địch là giỏi kỵ binh, giỏi đánh thành lũy của quân Mông Cổ, nên quân Trần đã tận dụng đường thủy để cơ động tiến lui: cả trong rút lui chiến lược cũng như tiến công chiến lược đều dùng đường sông để cơ động, kỵ binh không đuổi kịp. Còn khi tiến công vào các căn cứ, thì kinh nghiệm trận Đông Bộ Đầu năm 1258 đã được phát huy với hàng loạt trận thắng oanh liệt ở A Lỗ, Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, buộc đội quân của Thoát Hoan phải rút chạy và bị tiêu diệt trên đường lui quân. Qua kinh nghiệm lần kháng chiến thứ nhất và giai đoạn phòng ngự chiến lược của lần kháng chiến này, rõ ràng việc dàn quân đối lũy với địch khi sức chúng còn hăng là không có lợi, thậm chí là không thể thực hiện được. Nhận ra điều đó, ta đã kịp thời cơ động, buộc địch dàn mỏng lực lượng, loay hoay đối phó với ta không kết quả lâm vào cảnh khốn quẫn vì thiếu lương ăn, ốm đau bệnh tật, mất hết nhuệ khí ban đầu, không còn quyền chủ động và lòng tin vào thắng lợi. Lúc đó, bằng đòn phản công và tiến công chiến lược mau lẹ, đều khắp, phốp hợp chặt chẽ giữa các chiến trường, các thứ quân, ta đã tiêu diệt hoàn toàn đạo quân xâm lược khổng lồ mà trước đó mấy tháng tưởng chừng như không ai có thể đương đầu được. Qua thực tiễn phong phú của hai cuộc kháng chiến, nhất là cuộc kháng chiến lần thứ hai, quân dân Đại Việt đã đạt tới sự nhận thức hoàn chỉnh về phương lược giữ nước, đối phó với giặc Mông - Nguyên cường bạo, để có thể quả quyết rằng sẽ giữ được “non sông muôn thuở vững vàng”. Và Trần Quốc Tuấn, đứng trước cuộc xâm lược lần thứ ba, đã có thể nhận định một cách đầy tự tin rằng “Năm nay, thế giặc dễ đánh” (nguyên văn: Kim niên tắc nhàn). • Lần kháng chiến thứ ba (1288) Lần kháng chiến này xảy ra khi đế quốc Mông Cổ đã đạt tới điểm giới hạn trong hành động bành trướng của nó. Qua các lần xâm lược không thành công vào Đại Việt và Nhật Bản, nguyên thế tổ Hốt Tất Liệt điên cuồng và cay cú tìm mọi cách trả thù, tập trung vào Đại Việt. Đồng thời, trên lãnh thổ mênh mông của đế chế vừa dựng lên, nó cũng bận bịu đối phó với các cuộc nổi dậy của nhân dân bị thống trị. Vì vậy, để có đủ quân đánh Đại Việt, nó đã phải vơ vét, vá víu để tổ chức nên đoàn quân viễn chinh với thành phần không thuần nhất, gồm quân Mông Cổ, quân Hán (tức quân Trung Quốc phương Bắc), quân tân phụ (tức quân Trung Quốc phương Nam), quân người Di ở Vân Nam, quân người Lê ở đảo Hải Nam, quân người Choang ở Quảng Tây, v.v... Tổng số quân giặc theo ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư lên tới 50 vạn. Ngoài bộ binh và kỵ binh, lần này địch tổ chức một đoàn thuyền chiến mạnh 500 chiếc với gần 2 vạn quân giao cho Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy. Để tránh việc vận chuyển lương thực trên đường bộ, địch cũng tổ chức một đoàn thuyền lương do tên cướp biển Trương Văn Hổ chỉ huy mang theo 17 vạn thạch lương tức là một số lương thực nhiều gấp 5 lần so với lần xâm lược thứ hai. Đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi có nhiệm vụ hộ tống đoàn thuyền lương này vào Đại Việt. Để tạo danh nghĩa cho cuộc xâm lược, địch gấp rút tổ chức một chính quyền bù nhìn, phong Trần Ích Tắc làm An Nam quốc vương, Trần Tú Hoàn làm phụ nghĩa công cho theo đoàn quân xâm lược về nước. Như vậy là, do nôn nóng muốn báo thù, mặc dù có nhiều khó khăn trong nước, địch vẫn cố gắng tổ chức một đạo quân lớn đủ cả thủy bộ, mang theo nhiều lương thực, quyết chinh phục bằng được nước Đại Việt cứng đầu. Nhưng đội quân viễn chinh lần này giảm sút về chất lượng, không còn khí thế của đạo quân bách chiến bách thắng như những năm trước nữa, nhưng cũng có thêm kinh nghiệm qua thất bại của lần trước. Về phía ta, sau chiến thắng năm 1285, triều đình Đại Việt không một phút lơi lỏng, đã có nhiều biện pháp để ổn định đời sống nhân dân và tăng cường sức mạnh giữ nước. Tháng 7-1286, Trần Nhân Tông ra lệnh cho tất cả vương hầu, tôn thất mộ thêm binh lính. Các chiến thuyền, khí giới được tu sửa và chế tạo thêm. Cả nước rộn ràng luyện tập chiến đấu. Các tướng lĩnh được phái đem quân đi đóng giữ các nơi hiểm yếu. Cả nước là một chiến trường với lực lượng bố trí sẵn khắp nơi và lực lượng cơ động mạnh trong tay triều đình. Tất cả lại được đặt dưới quyền của quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn. Thế trận đã bày xong. Ta sẵn sàng đợi giặc với niềm tin chắc thắng của toàn dân. Ngày 11-11-1287, đạo quân xâm lược xuất phát từ Ngọc Chân dưới quyền thống lĩnh của Thoát Hoan và A Bát Xích. Ngày 25-12-1287, cánh quân từ Quảng Tây sang tiến qua biên giới bằng hai mũi, trong khi cánh quân từ Vân Nam xuống, do A Bát Xích chỉ huy đã vượt biên giới, đến Bạch Hạc ngày 11-12-1287. Thủy quân giặc vào vùng biển nước ta vào cuối tháng 12, vượt qua tuyến đánh chặn của Trần Khánh Dư, tiến về Vạn Kiếp hội quân với Thoát Hoan. Trên khắp các ngả đường tiến quân, giặc đều bị chặn đánh kịch liệt. Nhưng theo đúng kế hoạch, sau khi tiêu hao và làm chậm bước tiến của giặc, các cánh quân ta đều để địch đi qua và khép vòng vây lại, hoạt động phía sau lưng chúng. Trong khi đó, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ vì chở nặng, đi chậm, mãi tới đầu tháng 1-1288 mới tới Vạn Đồn, bị Trần Khánh Dư tập kích, tiêu diệt toàn bộ. Như vậy là vừa mới ra quân địch đã mất sạch lương dự trữ. Đoàn quân viễn chinh bị lâm ngay vào cảnh thiếu đói, không còn mong kéo dài được cuộc chiến. Tiền đề cho thắng lợi của ta và thất bại của giặc đã được tạo ra. Rút kinh nghiệm trận trước, Thoát Hoan cho xây dựng đồn trại, chiếm giữ Vạn Kiếp. Tháng 1-1288, giặc theo hai đường thủy bộ tiến xuống Thăng Long. Sau trận đánh chặn ở sông Đuống và phục kính ở Gia Lâm, quân ta chủ động rút lui. Ngày 2-2-1288, Thoát Hoan đem quân vào Thăng Long bỏ trống, tràn xuống Long Hưng phá phách, rồi lại phải trở về Thăng Long, không thấy dấu vết quân Trần. Cuối cùng, do túng quẫn về lương thực, lại sợ bị tiến đánh như lần trước tại Thăng Long, địch phải lui về hội tại Vạn Kiếp. Tại đây, sau một thời gian liên tục bị bao vây, tấn công, tiêu hao, chúng không còn hy vọng giành được chiến thắng, sợ bị tiêu diệt, và như Nguyên sử đã chép: “Tướng sĩ phần nhiều bị bệnh dịch, không tiến lên được... những nơi xung yếu đã chiếm được nay lại mất hết” và “Ở Giao Chỉ không có thành để giữ, không có lương thực để ăn, mà thuyền lương của Trương Văn Hổ lại không đến, vả lại, khí trời nóng nực, số lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống giữ lâu được, làm hổ thẹn cho triều đình, nên đem toàn quân mã về thì hơn. Nên Thoát Hoan phải tính kế rút quân về nước”. Nhưng số phận giặc đã được định đoạt: trên cả hai đường thủy bộ, quân ta đã chờ sẵn để tiêu diệt chúng. Trận đánh tiêu diệt trên sông Bạch Đằng là một mẫu mực về mọi phương diện: chuẩn bị chu đáo, tỷ mỉ, giữ bí mật cao độ, tính toán thời gian chuẩn xác, mưu kế tài tình, tiến công mãnh liệt. Trận đánh trên bộ cũng là kết quả tất yếu của thế bố trí chủ động, không kẽ hở. Trên đường rút chạy, địch liên tục bị đánh chặn phía trước, truy kích phía sau. Cả một đoàn quân lớn tan tác, không ứng cứu được nhau, lần lượt bị tiêu diệt và bắt sống, chỉ còn một nhóm nhỏ chạy thoát về bên kia biên giới. Cuộc kháng chiến lần thứ ba thắng lợi oanh liệt. Ý chí xâm lược của địch hoàn toàn bị bẻ gãy. Tên hoàng đế kiêu ngạo Hốt Tất Liệt buộc phải thừa nhận sự tồn tại của nước Đại Việt. Bằng cuộc kháng chiến này, quân dân Đại Việt đã thực hiện được điều mà Tôn Tử đã nói trong binh pháp “Biết mình biết địch, trăm trận không thua”[2]. Do biết mình biết địch nên quân ta đã tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, khi địch nôn nóng muốn đánh thì ta không đánh, khi chúng hoang mang mỏi mệt thì ta nhất tề tiến đánh khiến địch không phương chống đỡ. Do giữ quyền chủ động từ đầu đến cuối nên ta đã ghìm địch, không cho chúng tự do hành động. Trong Binh thư yếu lược có viết: “… địch đem quân đến, thế không thể ở lâu được thì ta cầm. Thế bách, kíp, muốn thắng ngay, thì ta cầm... Nó ở thế hiểm, ta ở thế yếu, thì ta cầm. Thiên thời sắp bại, địa nạn sắp hãm, nhuệ khí sắp nhụt, thì ta cầm. Cầm cho nó mệt, bấy giờ ta nổi dậy mà đánh thì sức vẹn mà công nhiều... đó là điều bí mật của phép binh”. Có thể nói, cuộc kháng chiến lần thứ ba đã thể hiện cao độ nghệ thuật quân sự tài ba của Trần Hưng Đạo trong việc đánh bại quân xâm lược mạnh hơn bằng cách lập thế trận phù hợp với thời tiết, địa hình và toàn dân có quyết tâm cao, tin tưởng tất thắng, ta đưa địch vào thế trận hiểm không có lối thoát. Đó là sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa và phát huy đầy đủ những ưu điểm của hai lần kháng chiến trước, nổi lên là những quan điểm tư tưởng quân sự như sau: Quân thần đồng tâm Huynh đệ hòa mục Quốc gia tinh hơn Phòng tự trị lâm Thiên tử nhiên da 1. Một vấn đề quan trọng bậc nhất đã được Trần Hưng Đạo nêu với vua Trần vào năm 1300, trước khi mất trong khi trả lời vua Anh Tôn về kế sách giữ nước là: “Mới rồi, Toa Đô và Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi cùng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức, lẽ trời tạo ra tật nhiên giặc tự bị bắt, đó là vậy. Tóm lại giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh, dĩ đoản chế trường là lệ thường của binh pháp. Nếu thấy quân giặc đến ồ ạt như lửa cháy, gió thổi thì dễ chế ngự. Nếu nó đi chậm như cách tằm ăn, không cầu của dân, không cầu được chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy theo thời cơ mà làm, thu hút được quân lính một lòng như cha con một nhà thì mới có thể dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước”. Những lời súc tích trên là kết quả của quá trình thực tiễn và chiêm nghiệm trong suốt cuộc đời đánh giặc của vị Quốc công tiết chế. Nó vượt ra khỏi khuôn khổ những tri thức quân sự thuần túy mà đề cập đến lĩnh vực trị nước lấy dân làm gốc. Lấy toàn dân chiến đấu, đoàn kết vua quan, anh em, lãnh đạo và quần chúng, quân dân, tướng binh như cha con một nhà làm quyết định chiến thắng. Trên cơ sở tư tưởng toàn dân chiến đấu mà tổ chức các thứ quân, gồm quân triều đình, quân các vương hầu trấn giữ các trại ấp và hương binh ở các thôn xã, cho nên lực lượng vũ trang lên đến mấy chục vạn. Lực lượng vũ trang bố trí khắp các nơi trên toàn quốc, giặc đi đến đâu cũng bị đánh. Ta hình thành thế bao vây toàn diện và từng điểm, quân địch càng vào sâu càng mắc kẹt, phải phân tán đối phó khắp nơi. Địch muốn đánh lớn, tìm quân chủ lực để tiêu diệt nhưng không được, mà luôn luôn bị tiêu hao, bị đánh tỉa, đến lúc mệt mỏi, hết lương, tinh thần rã rời, bải hoải thì cũng là lúc chủ lực quân thiện chiến của triều đình Trần xuất hiện, đánh những đòn tiêu diệt lớn. 2. Địch cậy trường trận, ta cậy đoản binh, dĩ đoản chế trường là lẽ thường của binh pháp. Đây là một nguyên tắc lớn và độc đáo của nghệ thuật quân sự nhà Trần. Trương Phổ, học giả đời Minh, trong bài bình sách Nguyên sử ký sự bản mạt, cũng có những nhận xét xác đáng: “trấn Nam vương Thoát Hoan tiến binh, An Nam vương Trần Nhật Huyên chống lại. Quân Thoát Hoan tuy có ngựa mạnh, rong ruổi nhanh như chớp, đánh thành phá ấp, nhưng giữa đường phải quay giáo tháo lui, quân lính bị tan nát trong chốn của quân kia. Toa Đô, Lý Hằng đồng thời bị giết... Thoát Hoan xuất quân lần nữa, Nhật Huyên lại đi, để rồi đón lúc về, đánh lúc mệt. Quân Nguyên lại thất bại... Trần Nhật Huyên giấu mình nơi biển khơi, giấu quân chốn ải hiểm, tránh cái thế hăng hái lúc ban mai, đánh khi tàn lụi, buổi chiều... Quân Nguyên tuy hùng hổ kéo đến, nhưng chưa thắng được một trận nào, có thể nói là Nhật Huyên có tải dùng binh vậy”. Trần Hưng Đạo đã giải quyết một cách tài tình mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ: giữ đất và tiêu diệt địch. Trong hai lần kháng chiến đầu, vì không muốn địch xâm phạm kinh thành, ta đã tổ chức phòng ngự chiến lược, nhưng đều không ngăn được địch, và trong lần kháng chiến thứ hai, đã phải rút lui chiến lược với biết bao tình huống hiểm nghèo. Trong lần kháng chiến thứ ba, với thế trận đã chuẩn bị, ta hoàn toàn chủ động, buộc địch phải dàn mỏng lực lượng, từ chủ động chuyển thành bị động, từ tiến công chuyển sang phòng ngự và rút lui, từ mạnh chuyển thành yếu. Đây chính là thời cơ để tiến hành phản công chiến lược, tiêu diệt địch và giải phóng đất nước. Chỉ có “tránh cái thế hăng hái lúc ban mai” của địch, để địch vào sâu đất nước ta, kéo dài đường tiếp tế, bị quân ta triệt lương, lại gặp dân ta làm thanh dã, lâm vào cảnh thiếu, đói, địch mới nhanh chóng rơi vào thế “tàn lụi lúc buổi chiều” và lợi dụng sở đoản, kiềm chế sở trường của chúng là nguyên tắc của nghệ thuật quân sự, phép dùng binh của Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn đã nêu rõ: lấy đoản binh thắng trường trận là việc thường của binh pháp. Đoản binh là chỉ bộ binh của ta, một đội quân với số lượng không nhiều nhưng được huấn luyện tinh nhuệ, biên chế gọn nhẹ là cái mạnh của ta. Kỵ binh và quân đông, sức cơ động nhanh là cái mạnh của địch. Nhưng khi trường trận bị dàn mỏng ra, bị phân tán, dứt quãng, không được tiếp tế đầy đủ, không ứng cứu được nhau và lâm vào tử địa, do địa hình không phát huy được, thì trở thành yếu, dễ bị công kích và tan vỡ. Như trong trận Đông Bộ Đầu, trận chiến đấu diễn ra ban đêm, quân địch dày đặc nhưng không kịp lên ngựa, bị những đoàn binh nhẹ mang vũ khí ngắn của ta xông vào chém giết, đã hỗn loạn và tan tác. Hoặc như trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, một đoàn dài thuyền lớn, nặng nề chậm chạp của địch đã bị những thuyền nhẹ của ta từ những ngách sông xông ra đón đánh, đã không xoay trở chạy kịp, đâm vào cọc nhọn bị chìm và bị tiêu diệt. Rõ ràng dĩ đoản chế trường là một sáng tạo sâu sắc của ta dùng để chống lại một kẻ địch đông đảo và trang bị mạnh hơn mình. Sáng tạo này cho tới nay vẫn giữ nguyên giá trị. Bảy trăm năm đã trôi qua. Chiến công oanh liệt của ba lần kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên (trong vòng 30 năm) ngày càng chói sáng trên những trang sử Việt Nam. Những bài học về nghệ thuật đánh tiêu diệt đội quân xâm lược mạnh nhất của thời đại lúc đó đã được phát huy đến đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh chống đế quốc Mỹ hùng mạnh và hung hãn nhất trong thế kỷ XX này. III. CHIẾN TRANH BẢO VỆ VÀ GIẢI PHÓNG TỔ QUỐC CHỐNG XÂM LUỢC CỦA NHÀ MINH (1406-1427) Sau ba lần đánh thắng oanh liệt quân xâm lược nhà Nguyên, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, nước Đại Việt đã giành được những điều kiện có lợi để thực hiện một chính sách ngoại giao hòa hảo với các nước láng giềng, để dân ta khắc phục những hậu quả nghiêm trọng của chiến tranh, khôi phục nền kinh tế, dựng lại làng xã, thị thành mà quân xâm lược đã tàn phá. Trong khoảng hơn một trăm năm nước ta không bị đe dọa bởi nạn ngoại xâm đến từ phương Bắc. Cũng trong khoảng thời gian trên, đặc biệt vào nửa cuối thế kỷ thứ XIV, cả nước ta và đế quốc phương Bắc đã diễn ra những quá trình xã hội phức tạp, dẫn đến những kết quả rất khác nhau, tác động mạnh đến quan hệ giữa hai nước. Tình hình nước Đại Việt và nước Đại Minh trong nửa đầu thế kỷ thứ XIV. Bước sang thế kỷ thứ XIV, những mâu thuẫn vốn có trong chế độ xã hội, kinh tế Đại Việt ngày càng trở nên trầm trọng. Tập đoàn phong kiến cầm quyền nhà Trần đại diện của giai cấp quý tộc thống trị mà cơ sở kinh tế là chế độ đang rơi vào trạng thái tan rã tất yếu, chẳng những hoàn toàn bất lực trong việc đề ra những cải cách xã hội, kinh tế tiến bộ mà còn lao sâu vào việc thực hiện những chính sách đối nội, đối ngoại mang tính chất “chỉ vì ích kỷ phì gia”, “chẳng nghĩ khổ dân hại nước” (như sau này Nguyễn Trãi đã phê phán), làm cho những mâu thuẫn nói trên trở nên hết sức gay gắt. Ngay từ cuối những năm 20 thế kỷ XIV, những biến động xã hội đã nổ ra, dưới hình thức những cuộc nổi dậy liên tiếp của nông dân, nô lệ các điền trang và các tầng lớp dân nghèo khác chống giai cấp quý tộc. Bộc lộ bản chất phản động của mình, nhà Trần đã dùng vũ lực đàn áp mạnh mẽ những cuộc nổi dậy đó. Từ giữa thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XV cuộc đấu tranh vũ trang của các tầng lớp bình dân diễn ra liên tục và ngày càng mở rộng, mặc dù bị quân đội nhà nước phong kiến đàn áp dữ dội. Những đòn giáng mạnh mẽ đó đã làm cho toàn bộ chế độ xã hội - kinh tế phong kiến quý tộc suy yếu đến tận gốc và đặt chế độ nhà Trần trước nguy cơ bị sụp đổ. Trong tình hình đó, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập ra triều đại mới, vào năm 1400. Một chế độ tập quyền càng quan liêu, quân phiệt hơn nữa ra đời. Nếu như về cơ bản, triều đình mới tiếp tục theo đuổi đường lối chính trị của triều đại trước, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương đã cho thực hiện biện pháp mang hai tính chất, vừa trắng trợn tàn bạo, vừa khéo léo mị dân. Nhà Hồ đã tự ham mình vào một thế cô lập rất nguy hiểm, đồng thời phải chống lại tập đoàn quý tộc đã bị đánh đổ của nhà Trần. Trong bài chiếu cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở viện sảnh, cục tham lam lười biếng do Nguyễn Trãi thảo tháng 7 năm thứ 3, năm Canh Tuất (1430) thảo chỉ thị của Lê Lợi sau khi giành được độc lập đã nói lên tình hình trên: “trước kia họ Trình (tức họ Trần) cậy mình mạnh giầu, mặc dân khốn khổ, chỉ ham vui chơi, đắm đuối tửu sắc. Những việc vô ích bầy ra hàng ngày, nào là đánh bạc, vây cờ, chọi gà, thả chim, nào là cá vàng nuôi chậu, chim rừng nhốt lồng khoe tốt, tài năng nhỏ mọn, giành lấy hơn thua, quên hẳn thiên hạ lớn lao, chẳng hề nghĩ kẻ oan uổng bị khổ ở chỗ kìm giam, hai ba năm không được xét hỏi, người thân sơ phải khuất ở tay nội giám, hai ba tháng mà việc chưa xong, khanh tướng lập đảng riêng tây: triều đình thiếu người can giám, cho đến nỗi con vua, cháu chúa bị hại bởi kẻ gian thần, quyền lớn việc to đều lọt vào tay xiểm nịnh. Nhân dân oán ghét mà không biết, lòng trời khiển trách mà chẳng kinh. Chính giao do đó mà suy đồi, kỷ cương do đó mà rối loạn. Họ Hồ đã dùng gian trí để cướp lấy nước, lại lấy gian trí để hiếp lòng dân. Lệnh bảo sao (tiền giấy Hồ Quý Ly ban hành năm 1395) ban bố và mọi người oán nỗi thường sinh; việc di dân thi hành mà mọi người kêu bề thất sở. Giả dĩ thuế má phiền hà, giao dịch nặng, pháp luật ngặt, hình phạt nghiêm. Chỉ vì ích kỷ phì gia, chẳng nghĩ khổ dân hại nước. Yêu người gần, vì tình riêng, họ hàng thì người thấp cũng tôn quý, tiểu nhân mà người nịnh cũng tin dùng. Nhân mừng mà khen thưởng, nhân giận mà phạt giết. Người trung thực phải khóa miệng, kẻ lương thiện phải ngậm oan. Thế mà còn cứ kiêu ngạo, tự tôn, không sợ mệnh trời gieo họa”. Cũng vào giữa thế kỷ XIV, tại phương Bắc, xã hội phong kiến Trung Quốc đã diễn ra những biến động lớn, với những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh nông dân chống giai cấp phong kiến liên tiếp nổ ra. Cầm đầu phong trào này, Chu Nguyên Chương đã lợi dụng được tình cảm Đại hán Tộc trong nhân dân để lật đổ triều đại nhà Nguyên, lập nên một triều đại mới, nhà Minh, năm 1368. Cũng như mọi hoàng đế Trung Hoa trước đó, ở buổi đầu cầm quyền, vua Minh đã lập tức cho chuẩn bị các mặt để thực hiện giấc mộng “bình thiên hạ” cổ truyền, trước nhất là bành trướng trên hướng Đông Nam Á và Nam Á. Theo rõi chặt chẽ tình hình bên trong Đại Việt, ngay từ năm 1377, trong triều đình nhà Minh đã có chủ trương “muốn nhân kẽ hở, tính chuyện xâm chiếm” nước ta. Song giới chóp bu cho rằng thời cơ chưa đến. Nhằm thực hiện kế hoạch đánh chiếm Đại Việt, mở đường tràn vào các nước Đông Nam Á, tiểu lục địa Nam Á, đến tận các nước ven vịnh Pec-xích, triều đình Minh đã bắt tay xây dựng một quân đội thường trực chuyên nghiệp mạnh và một hạm đội trên biển với những thuyền chiến và thuyền vận tải cỡ lớn. Đến đời Minh Thành Tổ (1402-1424), nhà Minh đạt tới giai đoạn cường thịnh nhất, cũng là giai đoạn trực tiếp thực hiện kế hoạch bành trướng nói trên. Ở nước ta, cả hai tập đoàn Trần - Hồ đều đã biết những gì đã diễn ra trên đất đai của đế chế phương Bắc từ cuối thế kỷ XIV, đều nhận thấy hiểm họa ngoại xâm đè nặng lên vận mệnh của Đại Việt. Thế nhưng, do bản chất phản dân hại nước của một giai cấp thống trị đã bị lịch sử lên án, cả hai tập đoàn ấy đều tỏ ra hoàn toàn bất lực trong việc thay đổi đường lối chính trị, trong việc đề ra những chính sách, biện pháp có thể động viên lòng yêu nước của toàn dân, thực hiện đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm. Tình hình Đại Việt sau sự kiện nhà Hồ cướp ngôi Trần được nhà Minh xem là một điều kiện rất có lợi để họ chuyển sang hành động xâm lược vũ trang. Với việc Minh Thành Tổ lên nằm quyền, triều Minh đã đẩy quan hệ giữa hai nước lao nhanh đến chỗ kết cục theo ý của họ: chiến tranh. Về phía họ, đó là một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ngọn cờ mà nhà Minh giương lên, “phù Trần diệt Hồ”, “đánh kẻ có tội, để dựng lại nước đã bị diệt, cứu vớt dòng họ đã bị tuyệt” cố nhiên chỉ là một thủ đoạn nham hiểm hòng tạo điều kiện chính trị có lợi để đạt tới mục đích của chiến tranh là thủ tiêu nền độc lập của dân tộc Việt, biến Đại Việt thành quận, huyện trong đế quốc phương Bắc, làm bàn đạp để tràn xuống Đông Nam Á. Chiến tranh xâm lược của nhà Minh đã diễn ra trên đất nước Đại Việt suốt 20 năm trường, đưa nhân dân Việt vào một cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ, đầy hy sinh, như trong Bình Ngô Đại Cáo đã viết: “Thui dân đen trên lò bạo ngược. Hãm con đỏ dưới hố tai ương Dối trời lừa người, kế gian đủ muôn nghìn khóe. Cậy binh gây hận, ác chứa gần hai chục năm Bại nghĩa thương dân trời đất tưởng chừng muốn đứt. Vét vơ thuế má trăm núi chẳng còn tí gì... Tát cạn nước Đông Hải không thể rửa hết nhơ. Chặt hết trúc Nam Sơn chẳng đủ ghi hết tội ác”. Cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân ta bắt đầu với sự thất bại nhanh chóng của Hồ Quý Ly trong điều kiện lòng dân ly tán “quân trăm vạn người trăm vạn lòng”. Nhưng quân Minh xâm lược đã phải liên tiếp đối phó với các cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt suốt 20 năm trường với 7 năm kháng chiến liên tục thời hậu Trần, từ 1407 đến 1414 và cuối cùng nhân dân Việt đã giành thắng lợi, tiêu diệt và bắt sống hàng mấy chục vạn quân tướng nhà Minh, giải phóng đất nước sau cuộc chiến tranh 10 năm từ 1417 đến 1427 dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, cho nên, “Xã tắc do đó được yên Non sông do đó đổi mới Càn khôn đã bí mà lại thái Nhật Nguyệt đã mờ mà lại trong Để rửa nỗi sỉ nhục ngàn thu”. • CUỘC CHIẾN TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC CỦA NHÀ HỒ Ý đồ chiến lược và chuẩn bị chiến tranh của hai bên. Trước tình hình nguy cơ xâm lược của nhà Minh đã rõ ràng, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương một mặt mở rộng địa giới về phía Nam, đánh Chiêm Thành, Chiêm Thăng Hoa (Quảng Ngãi) đến tận Phan Rang, một mặt tích cực chuẩn bị kế hoạch và lực lượng để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược từ phương Bắc. Hồ Nguyên Trừng thú nhận “không sợ đánh giặc, mà chỉ sợ lòng dân không theo”. Triều Hồ đã đánh giá cực kỳ sai lầm tinh thần yêu nước của dân ta, mặc dù họ thừa nhận “lòng dân là một sức mạnh cực lớn”. Trước và trong chiến tranh, mục đích chính trị tổng quát mà họ theo đuổi vẫn là bảo vệ đặc quyền đặc lợi của tập đoàn đại quý tộc cầm quyền, củng cố chế độ chuyên chính quan liêu, quân phiệt của dòng họ Hồ. Do không có sự ủng hộ của nhân dân nên trong chiến lược của triều Hồ, chiến tranh không mang hình thức chiến tranh toàn dân, mà thuần túy chỉ là cuộc chiến tranh của triều đình và của quân đội. Ngay trước chiến tranh, triều Hồ đã ra lệnh thủ tiêu tổ chức dân binh ở các làng xã, cấm nhân dân mang vũ khí, tiếp tục đàn áp bằng vũ lực những cuộc đấu tranh của nhân dân, giáng vào quyền lợi kinh tế của tầng lớp địa chủ bình dân, thủ tiêu nốt độc quyền kinh tế của phe phái chống đối (thế lực dòng họ Trần). Để làm kế thanh dã, họ ra lệnh cho dân sống trên dải đất mầu mỡ giữa sông Thương, sông Cầu và sông Hồng, vùng trung du đang ở thời kỳ phát triển về kinh tế, bỏ ruộng đất phá nhà cửa, mang của cải về sống ở hữu ngạn sông Hồng... Tư tưởng chủ đạo làm cơ sở cho toàn bộ kế hoạch chiến tranh của triều Hồ là: “Có trăm vạn quân để đối địch với giặc phương Bắc”. Triều Hồ nhận rõ ý định xâm lược của đối phương, nhận định đúng đắn rằng sức mạnh kinh tế và quân sự thời đó cho phép nhà Minh theo đuổi một cuộc chiến tranh với những nỗ lực cần thiết để đạt mục đích của họ. Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng tính toán rằng để đối địch” với quân xâm lược trong một cuộc chiến tranh có thể lâu dài, cần có một tiềm lực kinh tế và nhân lực lớn, biểu hiện một cách cụ thể ở con số một triệu người cầm vũ khí, được huy động vào quân đội trong nhiều đợt. Do vậy, trong kế hoạch chiến tranh, triều Hồ xác định mục tiêu chính trị, quân sự hàng đầu mà quân đội phải thực hiện là bảo vệ vững chắc những khu vực kinh tế và nhân lực có tầm quan trọng sống còn đối với nhà nước, giữ vững được quyền làm chủ vùng đất đai rộng lớn từ châu thổ sông Hồng về phía Nam kéo dài đến Thăng Hoa (Quảng Ngãi). Không để cho quân xâm lược đánh chiếm được những khu vục cốt yếu đó cũng có nghĩa là bảo đảm có một triệu người nhập ngũ, có đủ lương thực, thực phẩm, có đủ vũ khí, phương tiện để “đối địch” với quân xâm lược, đồng thời gây cho nhà Minh những khó khăn lớn trong việc cung cấp, tiếp tế cho một quân đội đông người, cô độc trên một vùng núi cao thưa dân, ít của trong một cuộc chiến tranh kéo dài. Triều Hồ cho rời quốc đô từ Thăng Long bên sông Hồng đến Vĩnh Lộc bên sông Mã, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, đặt tên Tây Đô cho Vĩnh Lộc. Triều đình cho tiến hành kiểm tra số dân trên cả nước, quy định chế độ quân dịch bắt buộc cho người dân từ tuổi 15 đến tuổi 60 để có đủ một triệu người có thể nhập ngũ. Vào cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, ở nước ta khoa học và kỹ thuật đã đạt được tiến bộ quan trọng trên nhiều lĩnh vực: toán học, hình học, cơ học, luyện kim, đúc súng, sử dụng năng lượng tự nhiên (sức gió, sức nước), năng lượng hóa học (thuốc súng), sử dụng vật liệu mới v.v... Mọi thành tựu khoa học và kũ thuật đó đã được nhà Hồ sử dụng vào mục đích quân sự như: đóng “cổ lâu thuyền”, chế tạo thần cơ sang, thần cơ pháo, dùng đá xây dựng các quân thành... Hỏa khí bắt đầu chiếm một thành phần quan trọng trong việc trang bị vũ khí, phương tiện chiến đấu của quân đội. Các nhà quân sự Đại Việt đã có nhiều suy tư, tìm tòi những hình thức và cách thức sử dụng hỏa lực trong lục quân và thủy quân để đánh địch, kết hợp hỏa lực với bạch binh, kết hợp hỏa lực với vận động, đột kích v.v... Về chiến lược quân sự, toàn bộ kế hoạch hành động của triều Hồ đều dựa trên tư tưởng: “Cầm cự với quân Minh, cố thủ nơi hiểm trở, không ra đánh để làm cho quân Minh mòn mỏi”. Trong đường lối đó, mục đích chiến lược thật rõ ràng: đánh cho quân Minh mòn mỏi. Ở đây, không có vấn đề đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng không đặt cho quân đội mình mục tiêu giành những chiến thắng quân sự quyết định, bằng việc thực hiện những đòn đánh tiêu diệt những tập đoàn chiến lược chủ yếu của quân xâm lược. Nhằm đạt mục đích đánh cho quân xâm lược mòn mỏi, làm cho triều Minh nản chí phải rút quân, phương thức tiến hành đấu tranh vũ trang lấy chiến lược phòng ngự làm quyết định. Chiến lược phòng ngự của triều Hồ chống lại chiến lược tiến công của quân địch là có chủ đích, có chuẩn bị sẵn, nó dựa trên một hệ thống quân thành lớn rải ra từ biên giới đến trung tâm đất nước lấy tuyến sông Hồng làm tuyến chiến lược chủ yếu, tập trung chủ yếu lực lượng chủ yếu trên đoạn từ Bạch Hạc đến Đông Đô. Việc xây dựng tuyến phòng ngự chủ yếu này, bằng cách mở rộng, tôn cao, đóng cọc tre trên những đoạn hiểm yếu tuyến đê nam sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kinh Thầy, đến tận cửa sông Bạch Đằng, đã phải dùng đến rất nhiều tiền của nhân lực. Trên hai đầu của tuyến phòng thủ quốc gia dài 800 dặm đó (450 km), ở đoạn sông Lô đổ vào sông Hồng, sông Bạch Đằng đổ ra biển, những xích sắt được giăng qua sông “khóa” các cửa sông đó, nhằm không cho thuyền chiến và thuyền vận tải địch vượt qua để vào sông Hồng và sông Bạch Đằng. Trên hai đường chiến lược từ Pha Lũy (ở biên giới giữa Lạng Sơn và Quảng Tây) đến Đông Đô và từ Phú Lệnh (ở biên giới giữa Tuyên Quang nay thuộc Hà Giang và Vân Nam) đến Bạch Hạc, đã xây dựng những quân thành quan trọng: Pha Lũy, Kê Lăng (Chi Lăng và Phú Lệnh) và nhiều đồn binh nhỏ. Trên hai sườn của tuyến phòng ngự chủ yếu, có hai quân thành lớn Bình Than và Bạch Hạc. Trên đoạn trung tâm có quân thành Đông Đô và Đa Bang. Trên sông Mã có quân thành Tây Đô. Bộ ba Đông Đô - Đa Bang - Tây Đô là những quân thành rất lớn, trong đó lớn nhất là Đa Bang, được Hán Thương xem là “địa điểm xung yếu nhất” của toàn bộ hệ thống quân thành, là “then chốt” của toàn bộ hệ thống phòng ngự. Mọi vật liệu, phương tiện kỹ thuật mới đều được dùng xây dựng thành Đa Bang (xã Cổ Pháp, huyện Quốc Oai, Sơn Tây). Lục quân đảm nhiệm vai trò chủ yếu của phòng ngự. Các đội quân địa phương (quân các lộ) được tập hợp lại, tổ chức thành những cụm quân chủ yếu là bộ binh, kể cả bộ binh giáo gươm và bộ binh cung nỏ, và một số “thần cơ sang”, mỗi cụm từ ba đến năm vạn người, làm nhiệm vụ đồn trú các quân thành trên dải biên giới ở Bình Than, Bạch Hạc. Những vệ quân thường trực tinh nhuệ, du quân (tức quân chủ lực cơ động) được hợp nhất lại thành cụm tập đoàn quân như tập đoàn ở Đa Bang có tới 10 vạn quân. Mỗi cụm như vậy có đủ bộ binh, thần cơ pháo, các đội kỹ thuật, quân vận tải… Tượng binh tập trung trong thành Đa Bang. Những cụm quân thường trực đóng trong 3 thành Đông Đô, Đa Bang, Tây Đô. Thủy quân làm nhiệm vụ hỗ trợ lục quân, cơ động trên các dòng sông thuộc hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã. Các nhà quân sự triều Hồ cho rằng mỗi quân thành, với khả năng kỹ thuật của nó, với một cụm quân mạnh, có kho dự trữ lương thực, thực phẩrn, khí giới, đạn dược, là một cơ sở có tính độc lập cao về chiến thuật, đủ khả năng đối địch với cuộc bao vây công kích lâu dài của quân Minh. Chiến lược phòng ngự sẽ được thực hiện bằng cách: — Làm thanh dã triệt để trên vùng thượng du và trung du trong một khu vực rộng lớn từ biên giới đến tả ngạn sông Lô, tả ngạn sông Hồng, tả ngạn sông Kinh Thầy. Trong khu vực đó quân xâm lược không còn có khả năng lợi dụng một cách đáng kể tài nguyên kinh tế và nhân lực của nước ta. — Cột chặt các cụm quân địch dưới quân thành trong thời gian dài, trên khu vực rừng núi sát biên giới cũng như trước tuyến sông Hồng, trong những trận chiến đấu kiên trì giữ thành, gây cho địch thật nhiều tổn thất. — Giành lấy thời gian để tích lũy lực lượng, phương tiện, lương thực, thực phẩm, đủ sức đối địch lâu dài với quân Minh. Bằng những cách đó các nhà chính trị và quân sự chiến lược triều Hồ mong đạt tới mục đích đánh mòn mỏi quân xâm lược cả về thể chất lẫn tinh thần, làm cho tướng lĩnh và binh sĩ Minh không tin vào thắng lợi, làm cho triều đình Yên Kinh phải tìm phương pháp khác để chấm dứt chiến tranh mà vẫn giữ được “thể diệt”. Đầu năm 1405, vua Minh ra lệnh tiến hành cuộc viễn chinh thứ nhất vào Đông Nam Á. Trong khi hạm đội Trịnh Hòa bắt đầu vượt biển đi đến các đảo Gia-va, Su-ma-tơ-ra và bán đảo Ma-la-ca và một bộ phận nhỏ của hạm đội này đã men theo bờ biển nước ta đến Chăm Pa, thì triều đình Yên Kinh đưa yêu sách đất đai với triều Hồ, một triều đình mà họ không hề công nhận. Hồ Quý Ly đã cắt 59 thôn thuộc khu Cổ Lâu để thỏa mãn một phần yêu sách bành trướng của nhà Minh. Giữa năm 1406, đồng thời với việc triều Minh ra lệnh cho đội quân xâm lược bắt đầu triển khai trên các khu vực xuất phát tiến công, một đạo quân Minh gồm 5.000 người hộ tống “An Nam Quốc vương” Thiên Bình từ đất Quảng Tây vượt biên giới vào nước ta, định tiến về Thăng Long. Hồ Quý Ly đã ra lệnh cho quân đội ở vùng biên giới chặn đánh chúng. Quân Minh bị tiêu diệt, Thiên Bình bị bắt rồi bị giết vì tội phản quốc. Cuộc chiến tranh xâm lược của nước Đại Minh đối với nước Đại Việt đang đến gần. Còn nhà Minh, để đạt mục đích bành trướng, thống trị một miền đất mênh mông từ Đông Nam Á qua Nam Á đến Tây Nam Á, dự tính sử dụng một tiềm lực kinh tế và nhân lực rất lớn kể cả quân đội, hạm đội và dân di cư, thực hiện xâm lược bằng nhiều phương thức, theo từng giai đoạn nối tiếp nhau, rải ra trong nhiều chục năm. Đánh chiếm Đại Việt là mục tiêu quan trọng nhất trong kế hoạch quy mô lớn đó, đòi hỏi có lực lượng đông đảo và tinh nhuệ. Đi đôi với việc tiến công quân sự từ bên ngoài, các nhà chính trị và quân sự Minh còn đặt hy vọng vào những cuộc nổi dậy từ bên trong nước ta của các thế lực trung thành với nhà Trần, kể cả trong quân đội triều Hồ, thực hiện “ngoại công nội kích”, nhằm đạt mục đích chính trị của chiến tranh trong một thời gian không dài, trong khi vẫn chuẩn bị sẵn những lực lượng và phương tiện tăng viện đề phòng trong trường hợp chiến tranh kéo dài. Trong thực tế, sau khi đánh thắng quân đội triều Hồ, nhà Minh đã phải kéo dài cuộc xâm lược vũ trang gần hai mươi năm cho đến khi kiệt sức mất ý chí xâm lược. Trong đợt đầu, nhà Minh quyết định sử dụng tám mươi vạn quân, kể cả quân thường trực chuyên nghiệp và quân bổ trợ (chủ yếu làm nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân sự), thuộc lục quân là chính, và một số thuyền chiến có nhiệm vụ hộ tống đoàn thuyền vận lương. Ngoài ra, nhà Minh còn tập hợp một số tên quý tộc họ Trần làm tay sai, như phong “An Nam Quốc vương” cho Trần Thiên Bình. Về quân sự, mục đích chiến lược của quân xâm lược là đánh bại hoàn toàn quân đội triều Hồ, buộc nhà Hồ đầu hàng vô điều kiện. Họ cho rằng chỉ cần đạt được mục tiêu tiêu diệt lực lượng quân sự đối phương, nhất là quân đội thường trực tinh nhuệ: thì sẽ đạt được các mục tiêu khác như chiếm các trung tâm chính trị, các khu vực kinh tế. Biết rằng nhà Hồ đã hoàn thành việc xây dựng một hệ thống quân thành lớn, khá kiên cố, khó có thể vòng qua, các tướng Minh lựa chọn chiến thuật bao vây - công kích là chính. Đối với từng quân thành, họ sử dụng cụm quân bộ binh có các phương tiện công thành (như súng bắn đạn đồng đặc, máy phóng đá, máy phóng tên lửa, phóng chất cháy, thang vượt hào, thang leo thành cỡ lớn... ) và kỵ binh để hoàn thành nhiệm vụ vây - kích. Mọi kinh nghiệm tích lũy được từ những cuộc công phá các quân thành cỡ lớn của quân Nguyên ở Trung Quốc, mọi phương tiện kỹ thuật công thành có hiệu quả ở thời này, đều được quân Minh dùng trong cuộc chiến tranh xâm lược này. Chiến tranh chủ yếu sẽ diễn ra theo cách tiến công đồng thời trên các hướng chiến lược, bằng những cuộc vận động tiếp cận và bao vây công kích từng quân thành một, cho đến khi đạt tới mục tiêu đánh bại hoàn toàn đối phương. Đó là một cách tiến hành chiến tranh rất tốn kém, tiêu phí nhiều lực lượng và phương tiện. Diễn biến của cuộc chiến tranh. Ngày 19 tháng 11 năm 1406, quân Minh bắt đầu vượt biên giới. Ngay hôm đó, hai lộ quân Minh gồm 80 vạn quân xuất phát từ đất Quảng Tây, Vân Nam đồng thời tiến quân vào Đại Việt. Lộ quân chủ yếu, do tổng binh Trương Phụ trực tiếp chỉ huy, bắt đầu bao vây thành Pha Lũy. Lộ quân Vân Nam, do tổng binh Mộc Thạch chỉ huy, cũng bắt đầu bao vây thành Phú Lệnh. Đó không phải là một công việc dễ dàng, có thể làm xong trong một vào ngày, vì phải đưa những phương tiện công thành đến những vị trí có lợi, trên một địa hình hiểm trở. Nhưng các tướng lĩnh Minh không còn khả năng lựa chọn phương pháp nào khác hơn là “nhổ” từng thành một của đối phương để mở đường tiến vào sâu. Chiến đấu Pha Lũy: Trong quân thành Pha Lũy có 3 vạn quân nhà Hồ trú phòng. Số lượng thì lớn, nhưng vốn là quân địa phương từ nhiều lộ tập hợp lại, chưa được huấn luyện để chiến đấu giữ một thành quan trọng trên hướng tiến quân chủ yếu của địch. Thêm vào đó cụm quân ở vị trí chiến lược này lại kém về tinh thần chiến đấu, sau những tháng năm đóng quân sát địch mà thiếu sự cổ vũ, động viên về chính trị, ít được quan tâm tới đời sống vật chất. Do vậy, trong suốt thời kỳ quân địch tiến hành chiếm lĩnh các vị trí bao vây cụm quân ta “án binh bất động”, không có hành động tích cực nào để phá sự chuẩn bị của địch. Sau khi đưa được những phương tiện công thành đến những vị trí có lợi, những đội xung kích đến sát các hào thành, bắt đầu công kích vào cuối tháng 11. Sau vài ngày chiến đấu, mặc dù quân ta đã đẩy lùi những mưu toan vượt hào và leo thành của các đội xung kích địch, sự hoang mang dao động đã nảy sinh trong số các tướng lĩnh và binh sĩ ta trước sự công phá của các phương tiện phóng đạn đá, đạn đồng của địch. Mới thương vong vài trăm người mà đã hoang mang, dao động chỉ huy thành đã hạ lệnh bỏ thành rút chạy. Chiến đấu Kê Lăng: So với Pha Lũy, thành Kê Lăng lớn hơn và kiên cố hơn nhiều. Cụm quân Hồ trú phòng tại đây có hơn 3 vạn người nhưng tinh thần chiến đấu chẳng hơn gì quân ở Pha Lũy. Tin mất thành Pha Lũy đã làm cho tướng lĩnh và binh sĩ giữ thành mất tinh thần. Quân Minh tiến đến bao vây thành Kê Lăng chuẩn bị công kích vào thượng tuần tháng 12. Cũng như ở Pha Lũy, quân ta đã không có hành động tích cực nào để phá sự chuẩn bị của địch, mặc dù ở đây với kỹ thuật cấu trúc thành tiên tiến, quân ta chiếm được những vị trí rất có lợi, có thể từ đó gây cho địch rất nhiều khó khăn trong việc chiếm lĩnh những vị trí bao vây, nhất là trong việc đưa các phương tiện công thành vào cự ly có hiệu quả. Trong vài ngày đầu quân ta đẩy lùi được các cuộc công kích của địch. Nhưng cũng như ở Pha Lũy, những thiệt hại đầu tiên về người do các phương tiện công thành của địch gây ra đã nhanh chóng gây hoang mang cho các tướng lĩnh toàn thành. Khi tổn thất vài trăm người thì tướng chỉ huy thành lại ra lệnh bỏ thành rút chạy. Chính trong quá trình thoát vây theo kiểu “mạnh ai nấy chạy”, quân ta bị thiệt hại nặng nề. Chiến đấu Phú Lệnh: Trên hướng Tuyên Quang - Bạch Hạc, thường là hướng tiến quân quan trọng nhưng là hướng thứ yếu so với hướng Lạng Sơn - Bắc Giang mà quân phương Bắc xâm lược quen dùng, nhà Hồ chỉ cho xây dựng một quân thành lớn, trên một địa hình rất hiểm trở, ở sát biên giới hai nước. Tại đây cũng có một cụm quân gồm trên dưới 3 vạn người, với chất tinh thần, chiến đấu còn kém hơn nhiều so với các cụm quân Pha Lũy, Kế Lăng. Trong tình hình đó mặc dù lộ quân Mộc Thạnh là một lộ quân có ít kinh nghiệm và phương tiện công thành hơn, cuộc chiến đấu đã diễn ra và kết thúc nhanh chóng hơn. Ở đây, một phần quan trọng tướng binh quân Hồ là quân địa phương miền núi lân cận. Họ đã bỏ thành chạy về quê hương mình, số còn lại đã tan vỡ trên hướng rút chạy về phía sau. Như vậy, trong vòng không đầy một tháng, trái với ý đồ và mong muốn của triều đình Hồ, là ghìm chân lâu dài đại quân Minh trên khu vực rừng núi cao biên giới, gần mười vạn quân địa phương ta đã bị loại khỏi vòng chiến và mất đi những quân thành lớn, những vị trí chiến lược quan trọng, gây thiệt hại không đáng kể cho địch. Tuyến chiến lược sông Hồng và những vùng trung tâm chính trị và kinh tế của đất nước đã bị trực tiếp đe dọa. Trên hướng tiến quân chủ yếu, đại quân Trương Phụ từ Chi Lăng bắt đầu tiếp cận tuyến sông Hồng. Đến Bắc Giang, lộ quân này chuyển sang hướng Tây Nam, đến sông Phú Lương, để giữ an toàn bên sườn. Để đánh lạc hướng đối phương, Trương Phụ, phái một đội kỵ binh tiếp tục tiến theo hướng Nam, nhằm vào Đông Đô. Đội kỵ binh này đã tiến tới Gia Lâm, cơ động “lởn vởn” trong khu vực này, một khu vực vườn không nhà trống. Lộ quân Mộc Thạnh tiến thẳng đến Bạch Hạc, đóng trên bờ Bắc sông Hồng, bắt đầu chuẩn bị tiến công vào cánh trái của tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ. Đó là một nhiệm vụ rất nặng nề, đầy khó khăn, như chính Mộc Thạnh thú nhận: “Những hàng rào gỗ mà bên địch dựng lên đều sát liền sông, quân ta không thể tiến lên được”. Tác chiến của quân Minh khi bắt đầu vượt sông có thể bị thủy quân đối phương đánh vào hai sườn. Để chiếm được một đầu cầu khi đã leo qua hàng rào gỗ đó, lại phải tiếp cận rồi công phá một quân thành cỡ lớn như Bạch Hạc, thì biết bao nhiêu vấn đề về chiến thuật được đặt ra mà tướng lĩnh Minh phải giải quyết. Tổng binh Trương Phụ không có ý định vây kích thành Bạch.Hạc, cũng như thành Đông Đô, vì cho rằng để nhanh chóng phá vỡ tuyển phòng ngự chủ yếu của đối phương, phải công kích vào điểm then chốt của tuyến chiến lược đó, vào đoạn mạnh nhất của nó là quân thành Đa Bang. Mộc Thạnh được lệnh di chuyển lộ quân Minh đến khu vực phía Tây Bắc thành Đa Bang thuộc tả ngạn sông Hồng. Lộ quân Quảng Tây chiếm lĩnh vị trí Đông Nam trong khu vực phía nam Đa Bang. Vào đầu tháng 1 năm 1407, hơn 20 vạn quân Minh đã hoàn thành việc tập hợp tập đoàn chiến lược vây kích Đa Bang. So sánh Đa Bang với Bạch Hạc, Mộc Thạnh nhận định như sau: “Đa Bang là nơi đất cát bằng phẳng có thể đóng quân; nơi ấy tuy thành đất khá cao, bên sườn có mấy tầng hào, nhưng khí giới đánh thành của ta đều đầy đủ, đánh chiếm có phần dễ”. Trương Phụ chỉ thị cho Mộc Thạnh và các tướng lĩnh Minh dưới quyền: “Quân giặc (chỉ quân nhà Hồ) chỉ cậy có thành này, mà chúng ta lập công cũng có một trận này. Tướng sĩ nào trèo lên thành được trước sẽ được đặc cách hậu thưởng, không câu nệ theo thứ bậc thông thường”. Hội chiến Đa Bang: Như đã nói ở phần trên, trên tuyến phòng ngự chiến lược sông Hồng dài 900 dặm, Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng đã chọn đoạn Đa Bang. Hai quân thành lớn Đa Bang và Đông Đô được nối liền với nhau bằng đoạn đê có hàng rào gỗ liên tục trên 30 km; trên đoạn đê đó ở những địa điểm có ý nghĩa chiến thuật, những đồn binh được xây dựng, ngoài ra, ở những đoạn trống có quân tuần tiễu thường xuyên đi lại, cả ngày và đêm. Trên đoạn đó, Nguyên Trừng đã sử dụng 3/4 tổng số quân thường trực tinh nhuệ (khoảng 15 vạn người) phòng ngự. Trong đó riêng thành Đa Bang đã chiếm trên 10 vạn quân gồm đủ mọi binh chủng của lục quân. Thủy quân đóng căn cứ chủ yếu ở cửa sông Luộc và vùng Bạch Hạc, có nhiệm vụ chi viện chiến đấu và hậu cần cho tập đoàn chiến lược trên đoạn phòng ngự chủ yếu. Như vậy tại Đa Bang đã diễn ra cuộc hội chiến quyết định về chiến lược giữa các tập đoàn chủ lực hai bên. Sau khi chuẩn bị chu đáo, vào giữa tháng 1, quân Minh chuyển sang tiến công. Trong nhiều ngày liên tiếp, do thiếu thuyền, quân Minh chỉ có thể dùng những đội quân nhỏ vượt sông để đặt chân lên những bãi cát trên hướng Đông Nam và Tây Bắc Đa Bang. Pháo binh ta đã dùng thần cơ pháo bắn 300 bộ (khoảng 600 - 700 mét); bộ binh dùng thần cơ sang và nỏ, các đội dùng các loại máy phóng đá đánh tan những đội quân vượt sông định đánh chiếm đầu cầu của địch. Sau nhiều thất bại liên tiếp như vậy trên các hướng Đông Nam và Tây Bắc thành Đa Bang, viên tướng Minh phát hiện ra rằng trên chính diện của thành (ở hướng Đông) có những bãi cát dài nhô ra, mà nếu chiếm được sẽ tạo những bàn đạp rất tốt, vì ở ngoài tầm bắn có hiệu quả của mọi phương tiện hỏa lực. Y quyết định cho kỵ binh bất ngờ vượt sông trên đoạn đó. Ngày 20 tháng 1, đã xảy ra một sự kiện mà mới thoạt nhìn thì hình như không quan trọng lắm, song lại có một ý nghĩa quyết định tạo ra bước ngoặt của cuộc hội chiến. Theo thường lệ, nhưng với một cường độ lớn hơn nhiều so với trước quân Minh tiếp tục vượt sông đánh chiếm đầu cầu ở mặt Đông Nam và Tây Bắc, gắng sức mang cả súng, pháo và “vân thê” (loại thang leo thành cao) sang bờ Nam sông. Và cũng theo thường lệ, quân Hồ ra sức đẩy lùi mọi mưu toan đó, gây cho địch những thiệt hại nhất định. Các tướng lĩnh ta vẫn dồn sự quan tâm của mình trên hai hướng đó. Lợi dụng tình hình đó, kỵ binh đã thực hiện vượt sông ngay trên chính diện thành Đa Bang, từ mặt Đông. Người và ngựa địch đã bơi qua sông, kéo theo những tấm da ngựa khô bọc gươm kiếm, cung tên. Đến xế chiều, vài nghìn kỵ binh địch đã chiếm được dải bãi cát dài sát mép nước, một bàn đạp trước sự đối phó không có hiệu quả của quân thủ thành, vì mọi vũ khí phóng đều không “với” được tới chúng. Quân Minh vội vã chuẩn bị đưa qua sông những phương tiện công thành. Thấy rõ nguy cơ, Hồ Nguyên Trừng quyết định tung đoàn voi chiến hòng tiêu diệt kỵ binh địch, chiếm lại những bãi cát trước khi bộ binh và phương tiện công thành địch vượt sông. Các cửa thành được mở ra cho tượng binh tiến công. Tượng binh ta đã đè bẹp kỵ binh địch và đẩy chúng về phía bờ sông. Hiệu quả của đòn đột kích của tượng binh ta đã gây hốt hoảng cho kỵ binh địch. Chỉ huy kỵ binh địch lập tức tập hợp các đội kỵ binh còn ở ngoài khu vực đột kích của đàn voi, dàn đội hình và bắt đầu cơ động nhằm tăng viện cho nơi bị uy hiếp. Hành động của đối phương làm cho viên chỉ huy tượng binh ta hoảng sợ. Thấy lính cưỡi ngựa địch đông hơn gấp mấy lần lính cưỡi voi, thấy địch có thể bao vây mình, viên chỉ huy đó ra lệnh cho tượng binh chấm dứt đột kích, quay lại lao về các cửa thành. Kỵ binh địch cũng tức khắc chuyển sang “truy kích” tượng binh ta đến tầng hào đầu tiên ở ngoài thành. Địch đã phát triển được đầu cầu cửa chúng, đến tận gần chân thành. Lợi dụng tình thế có lợi đó, Trương Phụ lệnh cho bộ binh cùng các đội kỹ thuật công thành dưới sự che chở của kỵ binh vượt sông ồ ạt sang bàn đạp đã chiếm và mở rộng về phía Đông Nam và Tây Bắc. Trong mấy ngày tiếp sau, địch đã đưa được đại quân qua sông chiếm lĩnh các vị trí bao vây trên cả 3 mặt, Đông, Đông Nam và Tây Bắc thành Đa Bang. Thất bại của cuộc xuất kích của tượng binh, đã gây nên một tâm trạng hoang mang trong tướng sĩ giữ thành Đa Bang và cũng ảnh hưởng không lợi đối với tinh thần chiến đấu của những cụm quân Đông Đô, Bạch Hạc... Trong những ngày cuối tháng giêng, địch công thành từ nhiều hướng. Những trận chiến đấu giữ thành đã diễn ra rất ác liệt. Trên mặt Đông và Đông Nam, quân ta đã làm thất bại các mưu toan vượt hào hoặc leo thành của địch. Nhưng ở mặt Tây Bắc, trước sự công kích tập trung của địch, với những thất bại đáng kể, quân ta không ngăn chặn được địch vượt hào và leo thành đã dùng hàng loạt thang cao, địch ồ ạt leo lên mặt thành, chiếm được một mảng thành. Thế lợi chiến thuật này của chúng hoàn toàn chưa phải đã quyết định đối với việc giữ thành. Tiếc thay, nó tác động khá mạnh đến tinh thần chiến đấu của tướng sĩ toàn thành. Lẻ tẻ có những tốp nhỏ quân Hồ đã mở trộm các cửa thành ở mặt Tây để chạy trốn. Trong những ngày tiếp sau, địch công kích mạnh mẽ hơn. Trước tình hình đó, Nguyên Trừng ra lệnh rút bỏ thành Đa Bang. Từ ba phía quân Minh ồ ạt leo lên thành và đánh chiếm thành. Sau khi rút khỏi Đa Bang, Hồ Nguyên Trừng đã ra lệnh cho các cụm quân Bạch Hạc, Đông Đô, Bình Than cũng bỏ thành rút về phía sau. Hội quân trong vùng từ cửa sông Luộc qua Mỹ Lộc (Nam Định) đến cửa Muộn Hải (nay thuộc Xuân Thủy - Hải Hậu, cửa sông Hồng) với ý định lập phòng tuyến mới để chặn cuộc tiến quân của Trương Phụ. Vốn thận trọng, Trương Phụ không cho quân thực hành truy kích, mà trước hết, chiếm đóng tuyến sông Hồng. Theo tuyến đê, các cụm quân Minh đã chiếm đóng Bạch Hạc, Đông Đô, Bình Than. Mộc Thạnh được lệnh tiến xuống cửa sông Luộc để “đối lũy”, quan sát đối phương. Trận cửa sông Luộc: Việc quân Minh tạm dừng tiến công để hoàn thành việc chiếm đóng những vị trí chiến lược xung yếu là một cơ hội có lợi cho quân ta. Hồ Nguyên Trừng đã lựa chọn cụm quân Mộc Thạnh làm mục tiêu cho cuộc tiến công đầu tiên của quân ta. Đây là cuộc tiến công do lục quân và thủy quân cùng phối hợp tiến hành. Một bộ phận quan trọng bộ binh tập hợp từ các cụm quân rút về phía Nam sông Luộc đến sông Ninh Giang cùng 300 thuyền chiến lớn được sử dụng cho cuộc tiến công. Tiếc thay, sự chuẩn bị khá rầm rộ đó đã giúp cho Mộc Thạnh đoán được ý định của Nguyên Trừng và những chỗ yếu của cuộc tiến công của quân ta. Trong khi đó các tướng lĩnh nhà Hồ lại không nắm được những chuẩn bị của đối phương nhằm đánh bại cuộc tiến công của mình. Đầu tháng 3, cuộc tiến công bắt đầu. Hai cánh lục quân và thủy quân ta tiến dọc theo hai bờ sông đã lọt vào một thế trận mà Mộc Thạnh đã khéo léo dàn sẵn và được ngụy trang khá chu đáo. Chờ cho phần lớn hai cánh quân ta lọt vào thế trận, quân Minh chuyển sang công kích. Bị đánh bất ngờ cả hai cánh quân lục - thủy nhanh chóng rơi vào tình trạng rối loạn, không còn khả năng chống trả có hiệu quả. Quân ta chịu những tổn thất nặng. Trong tình thế đó, Nguyên Trừng không còn cách nào khác là cho bộ phận còn lại rút lui về Muộn Hải. Quân Minh tiến đến phía Bắc sông Ninh Giang thì dừng lại. Trận Hàm Tử: Sau thất bại của trận tiến công đầu tiên, Nguyên Trừng ra lệnh cho tập đoàn chủ yếu của quân ta, lúc đó đóng trong khu vực từ sông Ninh Giang đến cửa Muộn Hải khoảng mười vạn người, “hết sức đắp đồn lũy, để tính kế cầm cự lâu dài”, vì cho rằng đại quân Trương Phụ sẽ tiếp tục tiến công. Nhưng Trương Phụ vẫn còn bận rộn vào việc củng cố những thắng lợi chiến lược đã giành được và chuẩn bị đầy đủ cho cuộc tiến công chiến lược từ tuyến sông Hồng đến tuyến sông Mã. Trong thế chờ đợi đó, biết rõ nguyện vọng của Nguyên Trừng muốn chuyển sang tiến công để có được một chiến thắng. Y ra lệnh cho Mộc Thạnh lui quân đến cửa Hàm Tử, chờ đối phương tiến quân mà tiêu diệt. Vào giữa tháng 3, cụm quân đi đầu của địch bắt đầu rời khỏi bờ bắc sông Ninh Giang và rút lên phía Bắc. Quân ta bám sát quân địch cho đến trước cửa sông Luộc thì dừng lại. Thấy Mộc Thạnh tiếp tục lui quân, Nguyên Trừng một lần nữa cho rằng đã có cơ hội thực hiện ý muốn tiến công của mình, nên quyết định đánh thẳng vào cụm quân địch ở Hàm Tử, cách Đông Đô không xa. Bảy vạn quân tinh nhuệ cùng một số lượng thuyền chiến quan trọng tham gia vào cuộc tiến công quy mô khá lớn này. Một lần nữa sự chuẩn bị chiến đấu của quân ta được tiến hành một cách rầm rộ, lộ liễu. Để làm lung lay tinh thần chiến đấu của quân Minh, Nguyên Trừng dùng biện pháp phao tin, khuếch đại số lượng tập đoàn tiến công của mình lên gấp hai, ba lần. Sự chuẩn bị diễn ra như vậy, một lần nữa, đã có thể thấy trước kết cục không tránh khỏi của cuộc tiến công. Cuối tháng 3, từ vùng cửa sông Luộc, tập đoàn tiến công bắt đầu cơ động đến Hàm Tử. Một lần nữa, quân ta đã lọt vào thế trận mai phục của địch, và bị địch đánh bất ngờ. Cuộc rút lui khỏi Hàm Tử biến thành một cuộc rút chạy hỗn loạn, một cuộc tan vỡ lớn. Từ Muộn Hải, bộ phận còn lại của quân đội triều Hồ rút về Thanh Hóa. Trận Lỗi Giang: Trong vòng 4 tháng chiến tranh, quân đội triều Hồ đã không giữ được khu vực phòng ngự biên giới, đã để mất tuyến phòng ngự chiến lược chủ yếu sông Hồng, đã mất những tập đoàn quan trọng nhất trong hội chiến phòng ngự Đa Bang và các trận chiến đấu cửa sông Luộc và Hàm Tử. Tương quan thế và lực đã chuyển biến một cách căn bản, rất có lợi cho quân Minh và rất bất lợi cho quân Hồ. Rút về Thanh Hóa để tổ chức phòng ngự trên tuyến sông Mã trong những điều kiện trên, triều Hồ chỉ còn trong tay những lực lượng quân sự yếu kém, một quân thành tuy lớn (Tây Đô) nhưng cô lập. Trương Phụ quyết định giành lấy thời gian, mở tiếp cuộc tiến công chiến lược, quyết định chĩa thẳng vào thành Tây Đô. Giữa tháng 4, vượt qua dãy núi Tam Điệp trên nhiều hướng, đại quân Minh nhanh chóng tiến đến bờ Bắc sông Mã, bắt đầu cuộc vây kích thành Tây Đô. Cuối tháng đó, những trận chiến đấu phòng ngự của quân Hồ dọc theo sông Lỗi Giang tại Tây Đô đã kết thúc bằng sự tan vỡ của những đội quân thường trực cuối cùng. Đầu tháng 6, trên đường truy kích đến Hà Tĩnh, đánh tan những đội quân địa phương yếu kém, quân Minh đã bắt được Hồ Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng và toàn bộ triều đình của họ tại Kỳ La. Ngay trong tháng 4, khi hành động quân sự vừa kết thúc trên sông Lỗi Giang, vua Minh đã ra chiếu tuyên bố thủ tiêu “vĩnh viễn” nền độc lập của Đại Việt, biến nước ta thành một quận của Trung Quốc, “giáo hóa” dân ta theo “phong hóa Trung Hoa”. Triều đình Minh không lường nổi trước rằng, nếu như cuộc chiến tranh giữa họ với triều đình và quân đội nhà Hồ đã kết thúc bằng thắng lợi của họ, thì họ đã đứng trước một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến tranh thực sự của nhân dân Đại Việt, một cuộc chiến tranh mà kết cục sẽ là sự quét sạch quân xâm lược và bộ máy thống trị của nhà nước Minh ra khỏi Đại Việt, giành lại độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Bài học về nghệ thuật quân sự. Thất bại của cuộc kháng chiến chống Minh do nhà Hồ lãnh dạo có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, sâu xa và trực tiếp. Trong những nhân tố chủ quan và trực tiếp quyết định thất bại của quân đội nhà Hồ có nhân tố hết sức quan trọng về nghệ thuật quân sự. Chỉ sau hơn một thế kỷ, nghệ thuật quân sự ưu việt của Đại Việt, với chiến thắng vẻ vang của nhà Trần chống Nguyên - Mông mạnh nhất trong thời đại đó, hầu như mai một, không còn có một biểu hiện nhỏ nào được vận dụng trong cuộc chiến tranh này. Những quan điểm “phải nới sức dân, làm kế rễ sâu, gốc vững”, “quốc gia tính lực, bỉ tự, tự cầm”, và “dĩ đoản chế trường” của Trận Hưng Đạo hầu như không còn dấu vết trong chiến lược quân sự của nhà Hồ. Nghệ thuật lập thế trận hiểm buộc địch phân tán, đưa địch vào thế buổi chiều, không lợi dụng được thế ban mai, khoét sâu sở đoản của một đội quân xâm lược từ xa tới, đánh vào hậu cần tiếp tế, chặn trước đánh sau, đưa địch vào hiểm địa, đánh những trận bất ngờ với tư tưởng tiến công kiên quyết của Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, Bạch Đằng hầu như không còn trong nghệ thuật quân sự của cuộc chiến tranh chống xâm lược này. Truyền thống toàn dân đánh giặc không còn bóng dáng, mà được thay thế bằng một đội quân đánh giặc cô độc dựa vào thành quách với phương tiện vũ khí mạnh so với đương thời. Những ưu thế về số lượng, về lực lượng và phương tiện, tính chất chính nghĩa cùng với sự chuẩn bị từ trước, những kho tàng lương thực, khí giới, thành quách kiên cố đều không giúp ích gì cho quân đội triều đình Hồ. Đúng như Nguyên Trừng đã nghĩ “Chỉ sợ lòng dân không theo”. Mục đích chiến lược mà Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng xác định là đánh mòn mỏi quân xâm lược, đã thiếu hẳn tính chất kiên quyết của một cuộc chiến tranh tự vệ, chính nghĩa. Mục đích đó không phù hợp với những khả năng của nhà nước Đại Việt và tiềm lực của nhà nước Đại Minh, không phù hợp với tương quan lực lượng đã hình thành khi chiến tranh bắt đầu. Để đạt tới mục đích đó, triều đình Hồ đã xác định chiến lược là phòng ngự đơn thuần, một đường lối có ảnh hưởng quyết định đến tính chất của đấu tranh vũ trang trong toàn bộ cuộc chiến tranh cũng như trên từng hướng tiến công của đối phương, trên từng điểm tiến công của chúng. Việc lựa chọn phòng ngự chiến lược làm hình thức cơ bản của đấu tranh vũ trang đã biểu hiện ở việc thực hiện nhiệm vụ tiêu hao địch, cố thủ các quân thành bằng gần toàn bộ lục quân và thủy quân, từ khu vực biên giới đến các khu vực trung tâm của đất nước trong cuộc chiến tranh kéo dài là biểu hiện nổi bật của ý định, phòng ngự thụ động, tiêu cực. Phòng ngự bị động, chờ địch đến đánh thì đỡ, địch đánh ở đâu thì ở đó chịu đỡ đòn, mất đất thì lùi về phá sau, cũng là phương thức hành động của toàn bộ các cụm quân các tập đoàn tác chiến chiến lược của quân đội và hạm đội triều đình. Phương thức hành động này làm cho các cụm quân, các tập đoàn tác chiến của ta luôn luôn rơi vào một tình thế hiểm nghèo. Trong điều kiện về tương quan lực lượng tổng quát, nếu như quân đội triều Hồ có ưu thế số lượng so với quân xâm lược, thì trên mỗi địa điểm và ở từng thời điểm, quân Hồ luôn luôn rơi vào thế lực yếu hơn nhiều so với quân Minh đối diện. Thật vậy, ở bất cứ nơi nào, từ thời kỳ đầu cũng như các thời kỳ tiếp sau, trước từng quân thành như Pha Lũy, Kê Lăng, Phú Lệnh, cả Đa Bang nữa, bao giờ quân Minh cũng tập hợp đủ lực lượng và phương thức hành động đó của quân Hồ là một điều kiện khách quan giúp cho quân Minh lần lượt hủy diệt hết quân thành này đến quân thành khác, hết cụm quân, tập đoàn này đến cụm quân, tập đoàn khác của ta. Cũng cần nêu lên rằng từ thế kỷ XIV trở về trước các nhà chiến lược Đại Việt đã từng lựa chọn phòng ngự chiến lược là hình thức và phương thức quan trọng của hành động quân sự. Nhưng đó là phòng ngự tích cực, kể cả trong phòng ngự bị bắt buộc hay phòng ngự có ý định trước, phòng ngự kết hợp với tiến công, phòng ngự có phản công và chuyển sang tiến công cho đến khi hoàn toàn đánh bại quân xâm lược. Đó là phòng ngự tạo những điều kiện có lợi để chuyển sang đánh những đòn tiêu diệt lớn đối với quân địch như Lý Thường Kiệt đã phòng ngự trên tuyến sông Như Nguyệt. Hệ thống các quân thành tự nó không phải là vô dụng. Trong điều kiện kỹ thuật của thế kỷ XV, để công phá một quân thành kiên cố (như các quân thành nhà Hồ) phải mất vài ba tháng, thậm chí hàng năm, với những tổn thất đáng kể. Cố nhiên, với điều kiện quân thủ thành có chiến thuật chiến đấu tốt và tinh thần chiến đấu cao. Một mạng lưới quân thành chỉ có tác dụng chiến lược khi giữa những quân thành đó có những cụm và tập đoàn cơ động mạnh tiến công cả tập đoàn địch, vây kích để phối hợp với lực lượng giữ thành. Nhà Hồ hoàn toàn không tổ chức những cụm cơ động như vậy. Chỉ sau khi tuyến phòng ngự chiến lược chủ yếu bị chọc thủng và bị tan vỡ, Hồ Nguyên Trừng mới chuyển sang hình thái tác chiến cơ động phương thức hành động có tính chất tiến công, làm cho chiến lược mang một tính tích cực nào đó. Những trận phản kích cửa sông Luộc và Hàm Tử nói lên điều đó. Song cuộc phản kích do những đội quân vừa bị đánh thua từ nhiều quân thành vội vã tập hợp lại, chưa quen tiến hành những cuộc cơ động tiến công, công tác chuẩn bị không giữ được bí mật nên đã bị thất bại hết sức nặng nề. Tính thụ động, tiêu cực cửa phòng ngự chiến lược cũng có biểu hiện nổi bật trong việc quân đội nhà Hồ hoàn toàn không tổ chức và tiến hành bất cứ hoạt động nào để đánh chặn, tiêu hao địch trong quá trình chúng vận động tiếp cận từ quân thành này đến quân thành khác, từ khu vực biên giới đến tuyến chủ yếu của phòng ngự, cũng như trong quá trình chúng thực hiện bố trí bao vây công kích các quân thành. Chiến thuật giữ thành, nổi rõ trong những trận chiến đấu và hội chiến nối tiếp nhau, cũng mang một tính chất thụ động tương tự. Trước khi địch tiến hành công kích, toàn cụm quân giữ thành đều tự trói mình trong thế chờ đợi tiêu cực. Khi địch công kích, trong lúc các đội súng “thần cơ”, các đội máy phóng đá hoạt động thì bộ binh ngồi không; khi địch bắc thang vượt hào và leo lên mặt thành, thì một bộ phận bộ binh hoạt động, còn đại bộ phận bộ binh và các binh chủng khác không có hoạt động gì. Đó là những trận chiến đấu và hội chiến không có xuất kích, không có phản kích, chẳng những “không ra đánh”, mà cũng không thực hiện được “cố thủ nơi hiểm trở”. Trận xuất kích duy nhất của tượng binh trước thành Đa Bang do tượng binh đơn độc tiến hành không có sự hỗ trợ của bộ binh và các binh chủng khác, nên bị thất bại. Sự thiển cận và tính mạo hiểm của họ đã thể hiện trong việc tiến hành chiến tranh theo ý đồ “cầm cự lâu dài” mà không có lực lượng dự bị chiến lược, không có lực lượng cơ động chiến lược. Trong quá trình chiến tranh, khả năng lập ra và sử dụng những cụm dự bị cơ động như vậy không phải không có. Hai cụm quân Bình Than và Bạch Hạc đã trở thành vô dụng gìn giữ mãi những thành mà quân địch không đánh, thậm chí không kìm chế, vẫn “án binh bất động” trong khi cả hai lộ quân Trương Phụ và Mộc Thạnh phơi bày cạnh sườn, không có gì bảo đảm an toàn khi chúng vận động qua trước mặt hai cụm quân trên để đến bờ bắc sông Hồng đối diện với Đa Bang. Hai cụm quân đó cũng còn “án binh bất động” khi địch vây kích quân thành Đa Bang, để rồi cuối cùng rút lui về phía sau. Và nói chung, trong từng thời kỳ, từng trận chiến đấu và hội chiến, cũng như trong toàn bộ cuộc chiến tranh, họ đã không hề giải quyết được một trong những vấn đề phức tạp của chỉ huy quân đội là vấn đề tổ chức sự phối hợp hành động giữa lục quân và thủy quân, giữa các tập đoàn và cụm quân. Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trong việc lãnh đạo đấu tranh vũ trang và chỉ huy quân đội. Nghệ thuật lãnh đạo chính trị - quân sự của họ trong toàn bộ cuộc chiến tranh cũng như trong từng thời kỳ đều dừng lại ở một trình độ thấp, trước nhất thể hiện nổi bật ở sự bất lực của họ trong việc sử dụng ưu thế vốn có của tính chất chính nghĩa của một cuộc chiến tranh tự vệ, ưu thế đã được tạo ra về số lượng của quân đội, cả về chất lượng của một số binh khí kỹ thuật, thể hiện cả ở việc họ để mất quyền chủ động chiến lược vào tay quân xâm lược và không hề có quyết tâm giành lại quyền chủ động đó. Nghệ thuật quân sự của quân đội Đại Việt thời nhà Hồ đều mang những hình thức và phương thức hành động cứng đờ máy móc, nghèo nàn. Đó là những hình thức và phương thức không phù hợp với tình hình. Những quyết định chiến lược chiến thuật của họ không gây được một bất ngờ đáng kể nào cho địch, không gây được khó khăn nào cho địch, không buộc Trương Phụ, Mộc Thạnh phải thay đổi ý định của chúng. Trình độ nghệ thuật quân sự thấp đặc biệt thể hiện trong việc phân tán lực lượng và phương tiện của mình, trong việc sử dụng lãng phí những lực lượng và phương tiện đó, trong việc họ không biết cách phân tán lực lượng của địch, để cho Trương Phụ và Mộc Thạnh tự do tập trung lực lượng và phương tiện của chúng trên hướng chủ yếu, trên từng địa điểm và thời điểm, nhất là trên điểm then chốt như Đa Bang. • CUỘC KHÁNG CHIẾN THỜI HẬU TRẦN (1407 - 1414). Cuộc kháng chiến thất bại của nhà Hồ đã đưa lịch sử dân tộc ta đến trước một thảm họa. Âm mưu của nhà Minh là không những chiếm nước ta làm thuộc quốc, mà còn muốn thực hiện dã tâm đồng hóa, vĩnh viễn xóa bỏ nước ta và sát nhập hẳn vào lãnh thổ Trung Quốc. Nhưng chúng đã vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của nhân dân Đại Việt, những cuộc khởi nghĩa vẫn liên tiếp nổ ra. Mùa thu năm 1407, ngay sau khi đánh bại nhà Hồ, nền đô hộ của nhà Minh vừa được thiết lập thì nhân dân các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu (Nghệ An) đã nổi lên đốt phá nhà ngục, giết chết bọn quan huyện của địch. Nhân dân thiểu số vùng Châu Quảng Nguyên, Thất Nguyên (Cao Bằng) cũng nổi dậy chống quân Minh. Tổ chức nghĩa quân dựa vào địa thế hiểm trở vùng rừng núi chống cự với giặc, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Ngay ở các vùng như Tây Đô (Thanh Hóa), Từ Liêm (Hà Nội), Thạch Thất (Hà Tây), Đông Triều (Quảng Ninh), v.v... cũng có những nhóm nghĩa quân hoạt động. Đến mức nhà Minh coi những nơi đó là những “ổ quân ác nghịch” như lời Hiếu Thanh nội quan của nhà Minh tâu về triều rằng: “Tại các phủ Tân An (Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh), Kiến Bình (Hà - Nam - Ninh), Lạng Giang (Bắc Giang), các châu Đông Hồ (Đông Triều, Quảng Ninh), Thái Nguyên và vùng sông Sinh Quyết (sông Đáy) dân Nam không phục, họp nhau làm loạn”. Trong số những cuộc khởi nghĩa này có các cuộc khởi nghĩa tương đối lớn như: — Cuộc khởi nghĩa của Phạm Chấn, một thổ hào ở Đông Triều nổi dậy ở Bình Than vào cuối năm 1407. Phạm Chấn lập Trần Nguyệt Hồ làm vua và nghĩa quân tự xưng là quân Trung nghĩa. Nhưng nghĩa quân vừa mới nhóm lên đã bị quân Minh kéo đến đánh bại. Trần Nguyệt Hồ bị bắt, còn Phạm Chấn trốn thoát và về sau vẫn tiếp tục đấu tranh chống quân Minh. — Cuộc khởi nghĩa của Phạm Tất Đại ở Lục Nam (huyện Lục Ngạn, Bắc Giang), nổi dậy chiếm cứ các hang động miền lục Nam (vào cuối năm 1407). — Cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyên Thôi ở huyện Nguyên Lang (Vĩnh Phú) và Trần Nguyên Kháng, Nguyễn Đa Bí ở châu Thái Nguyên, nổ ra vào đầu năm 1408. Những cuộc khởi nghĩa trên đây nổ ra trong từng địa phương nhỏ hẹp, lại không liên kết được với nhau, nên lực lượng phân tán và dễ bị quân địch đàn áp, lần lượt bị thất bại. Nhưng đó cũng là những cuộc đấu tranh đầu tiên sau khi cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, mở màn cho cả một phong trào kháng Minh rộng rãi về sau này. Tiêu biểu cho các cuộc khởi nghĩa trong thời kỳ này, thể hiện tinh thần dân tộc quyết không chịu khuất phục ách nô lệ của nhà Minh là cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Quý Kháng. Trần Ngỗi là con thứ của vua Trần Nghệ Tông (1370 - 1372), đời Trần đã được phong làm Giản Định vương. Sau khi chiếm được nước ta, nhà Minh ra lệnh tìm bắt con cháu và quan lại nhà Trần đem giải về nước. Trần Ngỗi phải lẩn tránh vào bến Yên Mô (Ninh Bình). Có một người yêu nước ở Thiên Trường (Hà - Nam - Ninh) là Trần Triệu Cơ lúc bấy giờ đang chuẩn bị khởi nghĩa liền đem quân đón Trần Ngỗi lên lập thành minh chủ. Ngày 1 tháng 11 năm 1407, Trần Ngỗi tự xưng làm Giản Định hoàng đế, đặt niên hiệu là Hưng Khánh, lập hành cung ở Yên Mô phát động cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh nhằm khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần. Tham gia khởi nghĩa có Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai thủ lĩnh chủ chốt của nghĩa quân. Sau khi cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyệt Hồ thất bại, Phạm Chấn cũng theo Trần Ngỗi. Một số thủ lĩnh khác ở miền Bắc như Trần Nguyên Tôn, Trần Lương Đình, Trần Nghiên Chiêu cũng dần dần tập hợp lực lượng xung quanh Trần Ngỗi. Khi nghĩa quân của Trần Ngỗi vừa mới tập hợp lại ở Yên Mô, bị quân Minh đến đánh. Trần Ngỗi phải rút lui vào Nghệ An. Đến cuối năm 1407, Trần Ngỗi đã tập hợp được một lực lượng khá lớn ở Nghệ An. Đầu năm 1408, nghĩa quân đánh bại và giết chết bọn quí tộc đầu hàng, chiếm giữ miền Nghệ An, Diễn Châu. Ngay sau đó Trương Phụ điều quân vào đàn áp. Trước sức tiến công mạnh của địch, nghĩa quân phải rút vào Hóa Châu. Trương Phụ củng cố ngụy quyền xong, liền rút quân về Đông Quan. Coi như cuộc xâm lược nước ta đã hoàn thành, nhà Minh ra lệnh cho Trương Phụ rút quân viễn chinh về nước, giao việc cai trị cho chính quyền đô hộ vừa được thành lập. Tháng 4 năm 1408, Trương Phụ và Mộc Thạnh rút quân về nước. Lợi dụng thời cơ đó, nghĩa quân Trần Ngỗi tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tiến đánh từ Hoa Châu chiếm lại Nghệ An, tiến vào Tân Bình chiếm Quảng Bình. Sau đó nghĩa quân tiến ra chiếm lấy cả Diễn Châu, Thanh Hóa, giải phóng một vùng rộng lớn. Đó là một thắng lợi to lớn của nghĩa quân, đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa. Ở miền Bắc, phong trào đấu tranh của nhân dân các nơi cũng lên cao, làm cho quân Minh phải đối phó nhiều mặt. Nhân đó, tháng 11 Trần Ngỗi mở cuộc tiến công lớn ra Bắc. Nghĩa quân đã tiến qua các miền Trường Yên (Ninh Bình), Phúc Thành (Hồng Lạc), rồi tiến đánh các căn cứ quân Minh. Nghĩa quân đã mở nhiều cuộc tiến công vào các căn cứ quan trọng của địch như đồn Bình Than, cửa Hàm Tử, chặn đường qua lại ở Tam Giang (Phú Thọ, Tuyên Quang) và đánh phá ngoại vi thành Đông Quan. Thanh thế của nghĩa quân vang dậy khắp nơi. Trước sự hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân, như lời tâu của bọn quan lại đô hộ nhà Minh về triều rằng: “Thế lực của giặc ngày một mạnh, quan quân nhiều lần không đánh nổi...”, vua Minh phải phái Mộc Thạnh, điều động 4 vạn quân ở Vân Nam, Quế Châu, Thành Đô, Tứ Xuyên theo đường Vân Nam tiến sang nước ta tiếp viện cho bọn quan đô hộ Lư Nghi và ra lệnh cho bọn này chuẩn bị sẵn sàng 2 vạn thủy quân cùng với thuyền bè khí giới để phối hợp với viện binh. Cuối năm 1408, 10 vạn viện binh của Mộc Thạnh tiến vào thành Đông Quan hợp lực với quân của Lư Nghi chuẩn bị tiến đánh nghĩa quân. Quân địch tập trung ở bến Bô Cô (Ý Yên, Hà Nam Ninh). Nghĩa quân đóng cọc ở lòng sông và đắp lũy ở hai bên bờ để phòng ngự. Sau khi đánh bại cuộc tiến công của địch, nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Đặng Tất đã tiến công Bô Cô và đánh giặc giỏi, phá tan đại quân của giặc, 10 vạn quân giặc bị giết, Mộc Thạnh cùng với tàn quân giặc chạy thoát vào thành Cổ Động ở gần đó. Chiến thắng Bô Cô là một chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Trần Ngỗi. Sau chiến thắng Bô Cô, Trần Ngỗi chủ trương: “Bây giờ nhân thế chẻ tre, đánh quét một trận ruỗi dài, khiến cho chúng không kịp bịt tai khi bị sét đánh, rồi tiến công thành Đông Quan thì tất phá được”. Nhưng tướng Đặng Tất lại cho rằng: “Hãy bắt hết bọn giặc còn sống sót để trừ mối lo về sau”. Giữa lúc vua tôi đang bàn cãi chưa ngã ngũ thì viện binh của địch đã kịp đến đón Mộc Thạnh từ thành Cổ Động về thành Đông Quan cố thủ. Thời cơ truy kích tiêu diệt hiếm có đã bị bỏ lỡ, nên mặc dù Đặng Tất có cố gắng chia quân bao vây các thành và truyền lệnh đi các lộ để hội binh chuẩn bị tiến công thành Đông Quan, nhưng không thành. Từ đó trong nội bộ nghĩa quân lại nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Vì địa vị và quyền lợi ích kỷ của mình, Trần Ngỗi đã nghe lời dèm pha, lừa giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai tướng trụ cột của phong trào. Cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi đang trên đà phát triển thắng lợi, từ đó bị hao mòn và suy yếu nhanh chóng. Nguyên nhân thất bại chính là vì những người cầm đầu thiếu sự đồng tâm nhất trí với nhau và thiếu khả năng huy động tập hợp lực lượng kháng chiến của toàn dân. Tháng 4 năm 1408, tức một tháng sau khi Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân bị giết, con của các ông là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đã đem một bộ phận nghĩa quân ở Thuận Hóa đón Trần Quý Kháng, cháu nội của Trần Nghệ Tông lập làm vua, xưng là Trung Quang Đế. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn mạnh hơn cả và tồn tại trong thời gian hơn 6 năm. Trần Quý Kháng đã hợp nhất được với lực lượng nghĩa quân Trần Ngỗi, khi làm chủ được khu vực từ Thanh Hóa trở vào, lại tiếp tục tiến ra Bắc hoạt động. Trần Ngỗi tiến đánh miền Hạ Hồng (Hải Hưng). Trần Quý Kháng đóng ở Bình Than. Nhân dân và hào kiệt các nơi nổi dậy hưởng ứng phong trào lại được hồi phục nhanh chóng. Quân Minh phải đóng chặt cửa thành để cố thủ chờ viện binh. Thanh thế của nghĩa quân khá mạnh, lại liên kết được với các nước láng giềng phía Tây và được những nước này giúp đỡ về lương thực. Khi nhận được tin Mộc Thạnh bị bại trận, nhà Minh gấp rút điều thêm quân tiếp viện và cử Trương Phụ làm tổng binh, Vương Hữu làm phó tổng binh đem 47.000 quân sang phối hợp với Mộc Thạnh đàn áp nghĩa quân. Trương Phụ là một viên tướng khét tiếng gian ác và rất am hiểu tình hình, địa thế nước ta. Tháng 6-1409 đạo quân của Trương Phụ từ Nam Ninh (Quảng Tây) qua cửa Pha Lũy hành quân theo con đường lưu vực sông Thương là con đường mà ba năm trước đã tiến đánh nhà Hồ. Trương Phụ đóng quân vào thành Đông Quan phối hợp với Mộc Thạnh tiến hành trấn áp những hoạt động của nghĩa quân ở vùng ngoại vi và vùng Đông Bắc thành Đông Quan. Trước sực tiến công của quân Minh, nghĩa quân vẫn hoạt động mạnh ở lưu vực sông Nhị và sông Thái Bình. Những trận đánh lớn đã diễn ra. Nghĩa quân, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Cảnh Dị, đã bao vây căn cứ Bình Than và giết chết Từ Chính, làm chủ vùng lưu vực sông Thái Bình. Trương Phụ đã huy động một lực lượng khá lớn mở cuộc tiến công vào cửa Hàm Tử nhằm chiếm lại vùng đồng bằng. Nghĩa quân lập doanh trại trên bờ sông, bố trí hơn 600 chiến thuyền ở giữa lòng sông và đóng cọc ở bờ Nam để chống cự. Quân Minh do Trương Phụ chỉ huy theo sông Nhị đánh vào căn cứ của nghĩa quân. Theo chính sử của nhà Minh thì trận đánh ở cửa Hàm Tử rất quyết liệt. Lực lượng nghĩa quân ở đây có khoảng 2 vạn. Bấy giờ vào khoảng hạ tuần tháng 8 âm lịch, gió tây bắc thổi mạnh, rất lợi cho cuộc tiến công của địch. Nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, nhưng thế yếu, nên thất bại, phải rút lui. Sau đó Trương Phụ tiến quân sang vùng lưu vực sông Thái Bình. Trước thế mạnh của quân địch. Trần Quý Kháng và Nguyễn Cảnh Dị liệu sức không chống cự nổi, phải rút lui vào miền Nghệ An. Sau khi căn bản đã đàn áp xong phong trào phản kháng ở miền Bắc, Trương Phụ tiến quân vào Thanh Hóa nhằm đánh vào căn cứ của Trần Quý Kháng. Trương Phụ sai đô đốc Chu Vinh, Thái Phúc thống lãnh bộ binh và kỵ binh tiến trước, còn tự mình chỉ huy thủy binh tiến sau theo sông Nhị vào cửa biển Thần Phù rồi vào Thanh Hóa. Trên những đoạn sông và cửa sông này, nghĩa quân đã đóng cọc, lấp đá để ngăn cản bước tiến của quân địch, Trương Phụ vừa hành quân, vừa phải phá những vật chướng ngại, hơn mười ngày sau mới đến Thanh Hóa rồi cánh quân thủy, bộ của Trương Phụ vừa hội binh ở Thanh Hóa rồi bắt đầu càn quét vùng này. Trần Ngỗi từ Diễn Châu tiến ra Cự Lạc, định theo đường núi tiến ra trấn Thiên Quan (Nho Quan - Ninh Bình) để tập hợp thêm lực lượng kháng chiến ở vùng này. Trương Phụ biết tin chia làm ba đạo quân đuổi theo. Trần Ngỗi chạy đến cách Cát Lợi (huyện Chương Mỹ, Hà Tây) thì bị quân Minh đuổi kịp, phải trốn vào núi và bị bắt ở đó. Từ đó quân địch được tăng viện, nghĩa quân bị thất bại nhiều trận, phải rút lui, nhưng cho đến cuối năm 1409, vẫn làm chủ được khu vực từ Diễn Châu trở vào. Cuối năm 1409, Trương Phụ được triệu hồi về nước để tham gia cuộc Bắc chinh. Mộc Thạnh lên làm tổng binh, tiếp tục đàn áp phong trào giải phóng của nhân dân ta. Lực lượng quân địch còn lại ở nước ta bị giảm sút, đó là thời cơ thuận lợi cho nghĩa binh Trần Quý Kháng mở rộng hoạt động và nhân dân ở khắp nơi vùng dậy đấu tranh. Trong năm 1410, phong trào đấu tranh của nhân dân đã sôi sục khắp nơi và gây cho quân Minh nhiều tổn thất. Nhưng phong trào có một nhược điểm lớn là thiếu sự tổ chức và lãnh đạo thống nhất. Những cuộc khởi nghĩa lúc bấy giờ thường chỉ giới hạn trong từng địa phương nhỏ hẹp, dễ bị cô lập và bị đàn áp. Cuộc khởi nghĩa Trần Quý Kháng tỏ ra không có đủ khả năng liên kết được toàn bộ phong trào thành một lực lượng thống nhất. Giữa năm 1411, sau khi kết thúc thắng lợi cuộc Bắc chinh, nhà Minh lại phái Trương Phụ làm tổng binh phối hợp với Mộc Thạnh tiến hành đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở nước ta. Cùng với việc đem thêm 24.000 quân sang tăng viện, nhà Minh còn tăng cường những thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ. Trương Phụ hành quân theo đường Lạng Sơn đến Đông Quan. Sau khi hội quân với Mộc Thạnh, Trương Phụ quyết định tập trung lực lượng mở cuộc tiến công lớn vào căn cứ của Trần Quý Kháng ở Thanh Hóa. Được tin viện binh của địch đã sang, nghĩa quân Trần Quý Kháng chuẩn bị sẵn sàng chống cự. Nghĩa quân đã xây dựng một phòng tuyến ở sông Nguyệt Thương (hạ lưu sông Mã) bằng cách cắm cọc giữa lòng sông dài hơn 40 trượng, dựng hàng rào hai bên bờ sông dài hơn 2, 3 dặm. Trên 300 chiến thuyền của nghĩa quân chờ sẵn trên sông, cùng với một bộ phận bộ binh mai phục trong núi. Vào khoảng cuối tháng 8, quân thủy, quân bộ của địch hội quân ở sông Nguyệt Thương và bắt đầu mở cuộc tiến công. Nghĩa quân, dưới sự chỉ huy của các tướng Nguyễn Quý, Hồ Cú, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, đã chiến đấu rất anh dũng. Trương Phụ một mặt sai đô đốc Chu Quảng đem chiến thuyền theo dòng sông vừa nhổ cọc vừa tiến, mặt khác, đích thân chỉ huy bộ binh vòng phía sau bất ngờ phá phục binh ở bên núi rồi tiến ra bờ sông phá rào gỗ, phối hợp với thủy binh cùng tiến công. Bị quân địch từ hai mặt thủy bộ đánh dồn lại, phòng tuyến của nghĩa quân bị tan vỡ. Trương Phụ thừa thắng tiến quân vào đến Diễn Châu, (Nghệ An). Trần Quý Kháng phải tạm thời rút lui vào miền Thuận Hóa. Trong lúc đó nghĩa quân ở miền Bắc lại nổi lên rất mạnh, nên cuối năm 1411, Trương Phụ phải tạm ngừng cuộc truy kích Trần Quý Kháng, rút quân về Đông Quan đàn áp những cuộc khởi nghĩa của Lê Nhị, Phạm Kháng. Nhưng phong trào đấu tranh của nhân dân lan rộng khắp nơi mà lực lượng của địch thì có hạn, không thể rải ra mọi nơi được. Nghĩa binh của Trần Quý Kháng ở vùng Thuận Hóa lại lợi dụng thời cơ, mở rộng hoạt động. Phong trào đấu tranh của nhân dân từ giữa năm 1410 thực sự đã lan rộng khắp nước, nhưng vì thiếu tổ chức và lãnh đạo, nên lực lượng bị phân tán. Do đó trước sự đàn áp khốc liệt của địch, các cuộc khởi nghĩa lần lượt bị thất bại và đến giữa năm 1412 thì phong trào nói chung đã có dấu hiệu đi xuống. Sau khi tương đối ổn định được tình hình ở Đông Quan, Trương Phụ lại chuẩn bị lực lượng mở cuộc tiến công lớn vào vùng Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa nhằm tiêu diệt khởi nghĩa Trần Quý Kháng là cuộc khởi nghĩa lớn nhất lúc bấy giờ và từ lâu vẫn làm chủ vùng này. Tháng 10 năm 1412, Trương Phụ dùng chiến thuyền tiến quân vào cửa biển Hà Hòa (Kỳ Anh - Hà Tĩnh). Nhưng vừa lúc ấy có gió bão to, Trương Phụ phải lui quân về Diễn Châu. Tháng 11 Trương Phụ tiếp tục tiến quân vào đến miền lưu vực Ác Giang (sông Ngàn Sâu - Hà Tĩnh). Trước sức mạnh của địch, nhiều phần tử hèn nhát đã đầu hàng. Đến cuối năm 1412, Trương Phụ đã chiếm được vùng Thanh Hóa, Diễn Châu, Nghệ An. Trần Quý Kháng phải lui vào giữ miền Tân Bình, Thuận Hóa. Phong đào đấu tranh ở miền Bắc lúc bấy giờ nói chung có phần lắng xuống, nhưng một số cuộc khởi nghĩa vẫn tiếp diễn và bùng nổ ở nhiều nơi như ở châu Quảng Oai (Hà Tây), phủ Thái Nguyên (Bắc Thái), phủ Lạng Sơn, huyện Lục Nam(Hà Bắc),v.v... buộc Trương Phụ một lần nữa phải tạm ngừng cuộc tiến công, trở về Đông Quan lo ổn định tình hình mặt Bắc. Trần Quý Kháng tuy giữ được miền Tân Bình, Thuận Hóa, nhưng sau nhiều lần thất bại liên tiếp, lực lượng bị tiêu hao nhiều và lương thực gặp khó khăn. Khi Trương Phụ rút ra Bắc, nghĩa quân có chiếm lại được Nghệ An, nhưng lực lượng lúc bấy giờ cũng chỉ còn độ ba, bốn phần mười. Giữa năm 1413, sau khi đã ổn định xong tình hình mặt Bắc và chuẩn bị thêm về lương thực, Trương Phụ, Mộc Thạnh huy động quân thủy bộ, mở cuộc tiến công quy mô lớn vào căn cứ cuối cùng của Trần Quý Kháng. Trương Phụ chiếm lại Nghệ An, Trần Quý Kháng phải rút lui vào Hóa Châu, nhưng vẫn nuôi hy vọng cố thủ thương lượng, cầu phong để cứu vãn tinh thế. Trương Phụ đã bắt và giết sứ giả Nguyễn Biểu. Tháng 8-1413, Trương Phụ đem chiến thuyền từ cửa biển Kỳ La (Nghệ Tĩnh) vượt biển qua cửa biển Hà Hòa, đánh thẳng vào đồn lũy của nghĩa quân ở cửa Nhật Lệ. Bị đánh bất ngờ, nghĩa quân tan vỡ, phải đốt doanh trại rút vào sông Trà Kê (Thừa Thiên) để giữ Hóa Châu. Trương Phụ đuổi theo, chiếm được thành Hóa Châu. Trần Quý Kháng phải rút ra Bắc, định giữ miền Tân Bình. Trương Phụ và Mộc Thạnh hội quân ở Thuận Châu (Quảng Trị), rồi tiếp tục đuổi theo nghĩa quân. Nghĩa quân phải đem toàn bộ lực lượng giữ sông Ái Tử để quyết chiến với địch. Trận đánh trên sông Ái Tử diễn ra trong một tương quan lực lượng rất chênh lệch và bất lợi cho nghĩa quân, nhưng vẫn rất quyết liệt. Trong trận này Đặng Dung đã có lần, nhân ban đêm, đánh úp vào dinh Trương Phụ. Đặng Dung đã nhảy lên thuyền Trương Phụ toan bắt sống, nhưng Trương Phụ kịp trốn xuống một chiếc thuyền thỏ, chạy thoát. Lực lượng nghĩa quân tuy ít hơn nhiều so với địch, nhưng chiến đấu rất anh dũng và gây cho địch nhiều tổn thất. Nhiều thuyền bè, khí giới địch bị đốt cháy và phá hủy, một nửa số quân địch bị tan rã. Cuối cùng, do lực lượng quá ít nghĩa quân phải rút lui ra Bắc. Từ sau trận sông Ái Tử, lực lượng nghĩa quân tan rã, không tập hợp lại được. Trần Quý Kháng và các tướng lĩnh nghĩa quân mỗi người chạy mỗi ngả và đến cuối năm 1413 sang đầu năm 1414, đều lần lượt bị sa vào tay giặc. Bài thơ nổi tiếng của Đặng Dung đã nói lên tâm sự uất hận của sĩ phu yêu nước thời hậu Trần. Cảm hoài: Thế sự du du nại lão hà, Vô cùng thiên địa nhập hàm ca. Thời lai đồ điếu thành công dị, Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. Trì chúa hữu hoài phù địa trục Tấy binh vô lộ vãn thiên hà Quốc thù vi báo đầu tiên bạch Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma. Tạm địch: Việc đời dằng dặc khốn đã già, Trời đất mênh mông chỉ hát ca. Gặp thời đồ tể, câu cá thành công lạ, Lỡ vận, anh hùng nuốt hận đa. Muốn xây trục đất phò Minh chúa Giải binh không thể kéo ngân hà. Nợ nước chưa trả đầu sớm bạc Bao phen mài kiếm dưới trăng ngà. Ngọn lửa đấu tranh của nhân dân ta trong thời gian này tạm thời lắng xuống nhưng không hề bị dập tắt, và chỉ ba năm sau ở Lam Sơn đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, đi tới thắng lợi giải phóng đất nước sau 10 năm khởi nghĩa (1417 - 1427). Như vậy là từ khi quân Minh xâm lược và đặt nền đô hộ ở nước ta cho đến trước cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đã bùng lên phong trào đấu tranh rộng khắp và liên tục của nhân dân ta. Phong trào đó lan rộng từ Bắc chí Nam, từ đồng bằng lên miền núi. Cuộc kháng chiến 7 năm của hậu Trần đã chứng tỏ tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước và truyền thống toàn dân đánh giặc của nhân dân Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi và Trần Quý Kháng là hai cuộc khởi nghĩa lớn nhất trong giai đoạn này, có lúc đã làm chủ suốt từ Thanh Hóa vào phía Nam và mở rộng hoạt động trên địa bàn rộng lớn cả nước. Có lúc đã bao vây cả Đông Quan, nếu nhà Minh không kịp thời tăng viện thì đã có thể giải phóng được đất nước. Cuộc kháng chiến lâu dài này không thành công do nhiều nguyên nhân, cả về chính trị lẫn quân sự có thể nêu mấy điểm chủ yếu sau: Nhân dân có quyết tâm cao chống quân xâm lược, nổi dậy liên tục rộng khắp, nhưng thiếu người lãnh đạo đủ đức tài để tập hợp các phong trào trong toàn quốc, đồng thời trong nội bộ những người lãnh đạo, vua quan lại không làm được những điều mà Trần Quốc Tuấn đã từng nói: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận”, đã nghe lời xiểm nịnh, giết người phù trợ có công, có đức, có tài như Trần Ngỗi đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Trong nghệ thuật đánh giặc còn thiên về tác chiến của quân tập trung, chưa chú ý đúng mức đến phát động toàn dân tham gia chiến đấu, chưa nắm chắc nguyên tắc của nghệ thuật truyền thống, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh, không phát triển cách đánh mai phục, bất ngờ như các chiến thuật du kích, cách đánh tập kích, phục kích để chống lại những cuộc tiến công càn quét của địch, mà còn nặng về dàn trận công khai chống địch khi tương quan lực lượng không phù hợp. Chưa quan tâm đầy đủ đến việc vừa kháng chiến vừa lo bồi dưỡng sức dân ở trong vùng mình kiểm soát và mở rộng lực lượng ra khắp nơi, đánh nơi địch không phòng giữ, tranh thủ nhân dân phát động du kích chiến ở phía sau lưng địch. • KHỞI NGHĨA LAM SƠN Sau cuộc khởi nghĩa của Trần Quý Kháng, đến khoảng giữa năm 1414, hầu hết các cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ khác cũng đều bị thất bại. Đất nước ta lúc này mới thực sự bị chính quyền nhân Minh đô hộ như một quận huyện của chúng. Trương Phụ và Mộc Thạnh rút quân về nước, giao việc trấn thủ Giao Chỉ cho Chu Huy và Liên Xuân. Tuy ngọn lửa đấu tranh bị dẹp xuống, nhưng không hề bị dập tắt, có lúc vẫn bùng lên với những cuộc bạo động lẻ tẻ. Cuộc đấu tranh của nghĩa binh “áo đỏ” ở miền núi tỏ ra rất ngoan cường, địch không thể nào tiêu diệt nổi. Đầu năm 1415 đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyệt Hồ ở vùng Thanh Hóa, buộc nhà Minh một lần nữa phải phái Trương Phụ đem quân sang đàn áp và ở lại trấn thủ Giao Chỉ. Từ năm 1417, nhiều cuộc đấu tranh mới lại bắt đầu xuất hiện ở nhiều nơi, báo hiệu trước một cao trào đấu tranh quyết liệt sắp bùng nổ. Cao trào đó thực sự bắt đầu từ năm 1418 với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và lấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn làm trung tâm. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã gắn liền với tên tuổi của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và những người anh hùng đất Lam Sơn. Cuộc khởi nghĩa chia làm 3 thời kỳ: 1. Sáu năm chiến đấu du kích ở vùng Lam Sơn. “Năm Mậu Tuất dấy hưng nghĩa binh đóng trên sông Lạc Thủy, trước sau hơn hai mươi trận, đều đặt mai phục, dùng kỳ binh, tránh mui nhọn, thừa chỗ hư, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”. Đất Lam Sơn thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Lam Sơn nằm ở tả ngạn sông Chu. Địa hình Lam Sơn và các khu vực này có nhiều rừng thưa và đồi sát nhau, xen kẽ ở giữa là những cánh đồng nhỏ hẹp và lạch núi chạy quanh. Phía Tây tiếp giáp với miền thượng du Thanh Hóa có núi rừng trùng điệp. Nghĩa quân đóng ở đây có thể tỏa xuống miền đồng bằng, có thể di chuyển lên miền thượng lưu sông Mã, và khi cần có thể rút lên miền tây, dựa vào thế núi Pù Kinh (Chí Linh) để bao toàn lực lượng. Ngày 2-1 năm Mậu Tuất (7-2-1418), Lê Lợi và toàn thể nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, kêu gọi nhân dân cùng nổi dậy giết giặc cứu nước. Theo Lam Sơn thực lục, lực lượng đó chỉ gồm có 35 quan võ, một số quan văn, 200 thiết kỵ, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ, 14 con voi, số người tham gia tất cả khoảng 2.000 người. Cuộc khởi nghĩa vừa mới phát động thì quân Minh lập tức tập trung lực lượng lên đàn áp. Tổng binh Lý Bân phái đô đốc Chu Quảng điều quân từ thành Tây Đô lên vây quét vùng Lam Sơn. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, lại chưa có kinh nghiệm chiến đấu, sau một cuộc cầm cự ngắn, Lê Lợi rút lên miền núi phía Tây. Quân Minh đuổi theo ráo riết. Lê Lợi phải rút lên núi Chí Linh. Ở núi Chí Linh nghĩa quân định dựa vào thế cực kỳ hiểm trở của vùng này để cố thủ, tạm tránh cuộc truy đuổi của địch. Trước tình thế nghiêm trọng, Lê Lai xin tình nguyện hy sinh để cứu Lê Lợi và giải vây cho nghĩa quân. Nhưng chỉ 5 ngày sau, quân Minh lại kéo đại quân lên đàn áp, Lê Lợi rút quân lên Lạc Thủy. Dự đoán quân địch đuổi theo, Lê Lợi đã chọn địa hình hiểm trở, bố trí quân mai phục chờ địch. Nghĩa quân đã đánh bại được cuộc truy kích, tiêu diệt được hàng ngàn tên địch và thu nhiều vũ khí, quân nhu. Ba ngày sau trận thất bại, quân Minh lại mở cuộc vây quét lớn. Do có mấy tên phản bội đưa đường, quân Minh đánh úp vào phía sau nghĩa quân. Bị đánh bất ngờ, nghĩa quân không kịp đối phó và bị tổn thất nặng. Trước tình hình đó, Lê Lợi và nghĩa quân phải rút lên vùng núi Chí Linh lần thứ hai, ẩn náu trong 3 tháng. Sau khi quân Minh chấm dứt cuộc bao vây càn quét và rút về Tây Đô, nghĩa quân còn lại hơn 100 người. Lê Lợi sai đắp lũy ở Lam Sơn và ra sức chiêu nạp nghĩa quân, sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thực để củng cố căn cứ, chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới. Lũy Lam Sơn đắp bằng đất hình vòng cung, bên tả ngạn sông Chu, qua Dao Xá. Hào Lương, kéo dài đến Yên Trường (Thọ Xuân, Thanh Hóa), có nơi chân rộng 10m, cao trên 1,8m, mặt luỹ rộng gần 5m, mặt ngoài phía Nam còn có hào. Khi quân Minh điều thêm quân từ Đông Quan, mở cuộc vây quét lớn vùng Lam Sơn, Lê Lợi và bộ tham mưu chủ trương rút khỏi căn cứ, nhử địch tiến sâu lên miền rừng núi hiểm trở. Bằng một trận bố trí mai phục ở Mường Lọt, khiêu chiến nhử địch vào bẫy, nghĩa quân đã làm nên một chiến thắng lớn thứ hai. Căn cứ Lam Sơn từ đó đã trở thành nơi xuất phát tiến công quân địch. Nghĩa quân đã mở trận tiến công đầu tiên vào đồn Nga Lạc, bắt được tướng giặc và diệt được trên 300 tên địch. Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa và những thắng lợi liên tục của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh lại tập trung lực lượng đánh vào căn cứ Lam Sơn. Nghĩa quân phải rút lui vào vùng rừng núi, thực hiện lối đánh du kích, mai phục, quấy rối tiêu hao quân địch. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân di chuyển dần về miền lưu vực sông Mã, sau đó đóng ở Lô Sơn. Ở đây Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã ngoại giao với nước Ai Lao nhờ giúp đỡ vũ khí và voi, ngựa. Nhân khi quân Minh còn phải phân tán lực lượng đối phó với các cuộc khởi nghĩa ở khắp nơi, Lê Lợi tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng. Đến cuối năm 1419, nghĩa quân Lam Sơn từ căn cứ Mường Thôi ở phía Tây Bắc Thanh Hóa theo lối lưu vực sông Mã tỏa xuống hoạt động ở miền Lỗi Giang. Bằng lối đánh mai phục, nhử dịch vào thế hiểm để tiêu diệt, gây cho địch nhiều tổn thất nặng. Trước sự phát triển mạnh mẽ và sự hoạt động ráo riết của nghĩa quân, quân Minh phải lui về cố thủ các đồn để bảo vệ cho thành Tây Đô. Mặc dù vậy, các đồn của chúng như Khả Lam (Lam Sơn), Nga Lạc, Quan Du (Quan Hóa) đều lần lượt bị nghĩa quân bao vây, tập kích. Những chiến thắng liên tiếp ở Bờ Mộng, Thi Lang và nhất là ở Quan Du, đã làm cho thanh thế của nghĩa quân vang dậy và kích động mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân các nơi. Sau thất bại ở Quan Du, quân Minh phải rút về cố thủ thành Tây Đô và các đồn lũy xung quanh để chờ viện binh. Nhân đó nghĩa quân mở rộng hoạt động ra khắp vùng Tây Bắc và thượng du Thanh Hóa. Sau ba năm chiến đấu liên tục, nghĩa quân Lam Sơn đã tỏ rõ một tinh thần chiến đấu dẻo dai, một sức sống mãnh liệt. Sau khi chuẩn bị chu đáo, quân Minh tiến lên đóng ở ải Kình Lọng để chuẩn bị tiến công. Với tư tưởng chủ động tiến công theo lối “dĩ dật đãi lao”, Lê Lợi quyết định bất ngờ tập kích ngay vào doanh trại quân Minh nhằm tiêu hao sinh lực địch và phá chuẩn bị tiến công của chúng. Quân Minh hành quân từ xa đến mệt mỏi, ban đêm bị tập kích bất ngờ nên hoảng hốt và bị tổn thất khá nặng. Với chiến thuật tập kích và phục kích lợi hại, với tinh thần chiến đấu anh dũng, nghĩa quân đã đánh lui nhiều cuộc tiến công của giặc. Lê Lợi sau đó phải chuyển quân đến Quan Du, rồi lên Sách Khôi, được 7 ngày thì quân Minh phối hợp với quân Ai Lao (do sự ép buộc của nhà Minh) kéo đến bao vây với một lực lượng rất đông. Cuộc vây quét này của địch đã dồn nghĩa quân vào một tình thế rất hiểm nghèo. Nhờ tinh thần ngoan cường, anh dũng hy sinh, nghĩa quân đã phá được thế bao vây, chuyển bại thành thắng trong trận Sách Khôi. Sau trận này nghĩa quân lại rút lui về núi Chí Linh để tạm thời tránh những cuộc tiến công lớn của địch, đồng thời để củng cố lực lượng sau những tổn thất trong một số trận chiến đấu liên tiếp. Nghĩa quân phải sống qua những ngày thử thách vô cùng khó khăn, gian khổ, do thiếu thốn lương thực. Căn cứ vào hoàn cảnh và tương quan lực lượng giữa ta và địch, bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định thương lượng đình chiến với địch dưới hình thức trá hàng, tạm thời hòa hoãn với địch. Trong hơn một năm đình chiến, lực lượng nghĩa quân không những được phục hồi nhanh chóng, mà còn được tăng cường về mọi mặt. 2. Chuyển hướng chiến lược vào Nghệ An. Chuyển hướng chiến lược vào Nghệ An theo hiến kế của Nguyễn Chích: “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông... Nay ta trước hãy đánh lấy Trà Long chiếm giữ cho được Nghệ An để làm chỗ đất đứng chân, rồi dựa vào nhân lực tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Đô thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ”. Đây cũng là chiến lược có tính quyết định của cuộc khởi nghĩa. Đúng như nhận định của Nguyễn Chích, Nghệ An là “nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông”. Núi rừng của Nghệ An cũng hiểm yếu không kém gì núi rừng của Thanh Hóa. Nhưng lực lượng của địch ở Nghệ An tương đối yếu. Thành Nghệ An và hệ thống đồn lũy cũng kém vững chắc hơn Thanh Hóa, mặt khác chính quyền đô hộ ở đây cũng mới thực sự được thiết lập từ năm 1414 và chưa được củng cố chặt chẽ. Hơn nữa, Nghệ An, về mặt bắc lại xa các căn cứ trung tâm của địch như Tây Đô và Đông Quan, còn về mặt Nam là miền Tân Bình, Thuận Hóa thì lực lượng của địch rất yếu. Nếu chiếm được Nghệ An thì có khả năng cắt địch ra làm hai, khiến quân địch ở phía Nam hoàn toàn bị cô lập và lực lượng của địch sẽ suy yếu. Chiếm được Nghệ An, nghĩa quân sẽ chiếm được một khu vực “đất rộng, người đông”, có thể cung cấp một nguồn nhân lực, vật lực rất phong phú, tạo ra những chuyển biến căn bản trong sự phát triển lực lượng, làm thay đổi về chất cho cuộc khởi nghĩa. Sau khi đã chuẩn bị chu đáo, Lê Lợi quyết định hành quân tiến vào Nghệ An. Ngày 12-10-1424, nghĩa quân bất ngờ tập kích thắng lợi đồn Đa Căng (Thọ Xuân - Thanh Hóa), thổ quan Lương Như Hốt bỏ chạy, hơn 1.000 quân địch bị tiêu diệt. Sau thất bại ở Đa Căng, quân Minh biết tin Lê Lợi tiến quân vào Nghệ An, nên một mặt chúng huy động quân ở Tây Đô đuổi theo phía sau, mặt khác chúng ra lệnh cho quân lính ở thành Trà Long chặn đánh phía trước. Toán quân chặn phía trước đã bị Lê Lợi bố trí quân và voi mai phục, nhử địch đến, giết trên 2.000 quân, thu hơn 100 ngựa. Trên đường hành quân về phía thành Trà Long nghĩa quân đã liên tiếp đánh tan các cánh quân ngăn chặn ở Bồ Lạp và Trịnh Sơn, làm thất bại hoàn toàn âm mưu truy đuổi và ngăn chặn của quân Minh. Quân Minh rút về thành Nghệ An. Tri phủ Cầm Bành với hơn 1.000 thổ quân rút về Trà Long cố thủ chờ viện binh. Trong tháng 10-1424 nghĩa quân bao vây thành Trà Long và tìm cách chiêu dụ Cầm Bành. Cầm Bành ngoan cố liều chết cố thủ. Sau khi nhận được lệnh, bọn Trần Trí, Phương Chính liền huy động quân thủy bộ ở Nghệ An theo dọc sông Lam mở cuộc phản công lớn đánh lên Trà Long. Theo chủ trương của Lê Lợi: giặc đông, ta ít, lấy ít đánh đông, chỉ ở nơi đất hiểm mới lập được công. Vả lại binh pháp nói: nhử người đến, chứ không để người nhử đến”. Tướng Đinh Liệt được lệnh chỉ huy hơn 1.000 nghĩa quân từ Trà Long theo đường tắt chiếm giữ huyện Đỗ Gia để “cướp đất giành chỗ tiện lợi”, còn Lê Lợi thì đem đại quân xuôi sông Lam, về đóng ở ải Khả Lưu nhằm “giữ chỗ hiểm yếu để đợi giặc”, khống chế con đường hành quân và chặn đầu quân thủy bộ từ thành Nghệ An lên Trà Long. Mấy ngày sau, quân Minh do Trần Trí và Phương Chính chỉ huy, từ thành Nghệ An theo đường thủy bộ dọc sông Lam tiến đến ải Khả Lưu. Bất ngờ thấy nghĩa quân đã lập trại án ngữ mặt Bắc sông Lam, chúng đành phải hạ trại đóng quân ở bờ Nam sông Lam trên bãi Phá Lữ nằm đối diện với ải Khả Lưu qua dòng sông Lam để chuẩn bị tiến công. Lê Lợi dùng kế nghi binh để lừa địch “ban ngày thì dựng cờ đánh trống, ban đêm thi đốt lửa”. Trong lúc đó Lê Lợi phái một lực lượng tinh nhuệ bí mật vượt sông Lam, giấu quân ở bãi Sở nhằm “phục sẵn ở nơi hiểm yếu”. Mờ sáng hôm sau, quân địch từ Phá Lữ vượt sông đánh thẳng vào doanh trại của nghĩa quân. Quân ta vừa cầm cự vừa rút lui nhử địch vào trận địa mai phục. Quân địch tiến sâu vào trận địa mai phục, bị quân ta bất thần xông ra đánh. Đồng thời, cánh quân tinh nhuệ ở bãi Sở cùng đánh úp vào trại giặc ở Phá Lữ. Quân địch bị thiệt hại nặng, “bị chém đầu và chết đuối kể đến hàng vạn người”. Sau đó với trận phục kích Bố Ai: “Quân giặc bị giết không biết bao nhiêu mà kể, thuyền giặc trôi ngổn ngang, thây chết đuối tắc cả sông, khí giới bỏ chồng chất khắp núi”. Sau các chiến thắng Bồ Lạp, Trà Long, Khả Lưu, Bố Ai, thanh thế của nghĩa quân được mở rộng khắp vùng Nghệ An. Quân chủ lực của địch co về thành Nghệ An cố thủ. Nghĩa quân thừa thắng tỏa về các châu huyện, mở rộng khu giải phóng. Nghĩa quân Lam Sơn tiến đến đâu, nhân dân nổi dậy đến đó và tích cực ủng hộ nghĩa quân. Chỉ trong vòng một tháng đã giải phóng tất cả các thôn, huyện thuộc phủ Nghệ An khỏi ách đô hộ của quân Minh. Riêng thành Nghệ An là thành lũy kiên cố nhất của quân Minh ở vùng này, Lê Lợi quyết định áp sát, quây hãm, buộc chúng phải ở vào thế bị cô lập. Nghĩa quân vừa vây hãm thành Nghệ An, vừa chuẩn bị mọi chiến cụ, phương tiện để đánh thành. Quân Minh trong thành Nghệ An do tổng binh Trần Trí chỉ huy, quân số vẫn còn đông, nên cố thủ, chờ quân tiếp viện từ Đông Quan vào. Lý An, tham tướng trấn thủ thành Đông Quan vội đem quân vượt biển cứu viện cho thành Nghệ An. Được tăng viện, địch quyết định mở cuộc phản kích lớn nhằm vào Đỗ Gia để tiêu diệt chỉ huy sở của nghĩa quân. Nghĩa quân đã bố trí trận địa mai phục lớn ở cửa sông Khuất, rồi nhử địch vào để tiêu diệt, đập tan cuộc phản kích của chúng. Hơn 1.000 tên địch bị giết tại trận. Từ đó “giặc đóng chặt cửa thành, không dám ra. Thế là đất Nghệ An đều về ta hết”. Nghĩa quân lúc này có điều kiện xây dựng căn cứ địa ở Đỗ Gia, sau đến thành Lục Niêm. Sau một thời gian củng cố, đến tháng 6-1425 Lê Lợi phái tướng Đinh Lễ tiến ra giải phóng Diễn Châu. Do biết đô ty Trương Hùng được lệnh đem 300 thuyền lương thực từ Đông Quan tiếp tế cho thành Diễn Châu và phán đoán rằng thuyền lương đến, quân địch sẽ mở cửa thành ra đón, nên Đinh Lễ đã bố trí sẵn quân mai phục ở phía ngoài thành. Đúng như dự đoán, ở trận này nghĩa quân đã tiêu diệt trên 300 tên địch, chiếm được nhiều lương thực và thuyền bè của chúng. Sau khi đánh tan quân địch, cả phủ Diễn Châu nhanh chóng được giải phóng. Đinh Lễ để một bộ phận nghĩa quân ở lại vây hãm thành Diễn Châu, rồi thừa thắng cướp thuyền địch vượt biển đuổi theo chúng đến tận Tây Đô. Được tin thắng trận, Lê Lợi liền phái ngay các tướng Lý Triệu, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị đem hơn 2.000 quân tinh nhuệ và 3 voi chiến theo đường tắt đi suốt ngày đêm ra Thanh Hóa tiếp ứng cho Đinh Lễ. Hai cánh quân của Đinh Lễ và Lý Triệu tiến rất nhanh ra Thanh Hóa. Nghĩa quân đã đánh úp thành Tây Đô, giết 500 tên địch và bắt sống được rất nhiều. Nghĩa quân một mặt vây hãm thành Tây Đô, làm tê liệt mọi hoạt động quân sự của địch, mặt khác tỏa về các châu huyện, cùng với nhân dân nhanh chóng giải phóng phủ Thanh Hóa. Việc giải phóng Diễn Châu và Thanh Hóa có ý nghĩa rất lớn. Với những thắng lợi này, nghĩa quân đã mở rộng căn cứ địa từ Nghệ Tĩnh ra đến Thanh Hóa. Cùng với những thắng lợi đó, lực lượng nghĩa quân đã trưởng thành vượt bậc và ngày càng giành thế chủ động. Quân Minh ở vùng Tân Bình (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị), Thuận Hóa (Nam Quảng Trị và Thừa Thiên) trước đây vốn đã yếu, mỏng, nay lại càng bị suy yếu hơn nữa. Lê Lợi chủ trương: “Các bậc tướng giỏi đời xưa bỏ chỗ vững, đánh chỗ hở, lánh chỗ chắc, đánh chỗ trống: như thế thì dùng sức chỉ một nửa mà thành công gấp đôi”. Tháng 8 năm 1425, Lê Lợi phái các tướng Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ, Lê Bồ đem 1.000 quân và 1 thớt voi tiến vào theo đường núi đánh các thành Tân Bình, Thuận Hóa. Dùng chiến thuật dựa vào địa hình hiểm yếu, mai phục nhử địch vào trận địa đã chuẩn bị, nghĩa quân đã làm cho quân Minh bị tan vỡ và tổn thất nặng. Quân địch khiếp sợ phải rút lui vào thành cố thủ. Chỉ trong một thời gian ngắn toàn bộ đất Tân Bình, Thuận Hóa đều được giải phóng (trừ hai thành bị bao vây), làm cho vùng giải phóng của nghĩa quân mở rộng vào đến Hải Vân. Trong gần 8 năm chiến đấu đã qua, thì chỉ trong khoảng 1 năm từ 10-1424 đến 10- 1425, nghĩa quân đã có những bước tiến nhảy vọt. Bước tiến này đã tạo ra những chuyển biến căn bản về tương quan lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thế và lực mới, đưa cuộc khởi nghĩa vào giai đoạn tiến công, trên phạm vi toàn quốc. Sau khi giải phóng được khu vực rộng lớn từ Thanh Hóa vào đến Thuận Hóa, nghĩa quân Lam Sơn đã có một hậu phương vững chắc và lực lượng đã trưởng thành về mọi mặt, tương quan lực lượng giữa ta và địch đã có những chuyển biến căn bản có lợi cho nghĩa quân. Từ cuối năm 1425 đến tháng 9-1426, Lê Lợi đã quyết định mở cuộc tiến công ra các lộ miền Đông Đô. a) Một mặt nghĩa quân vẫn tiếp tục vây hãm các thành từ Thanh Hóa trở vào để giam chân quân địch, mặt khác chia ba đạo quân tiến ra Bắc.. + Đạo quân thứ nhất gồm hơn 3.000 quân do các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triệu, Trịnh Khả chỉ huy, tiến ra vùng Thiên Quan (Nho Quan), Quảng Oai, nhằm uy hiếp mặt Tây Nam thành Đông Quan và chặn viện binh của địch từ Vân Nam sang. + Đạo quân thứ hai gồm hon 2.000 quân và 1 voi chiến do các tướng Bùi Bị, Lưu Nhân Chú, Lê Trương, Lê Ninh chỉ huy, tiến ra vùng Thiên Trường, nhằm giải phóng miền hạ lưu sông Nhị và ngăn chặn đường rút lui của quân Minh từ thành Nghệ An về Đông Quan. Sau đó Lê Lợi lại bổ xung hơn 2.000 quân và 1 voi chiến giao thêm nhiệm vụ tiến ra vùng Lạng Giang để ngăn chặn viện binh của địch từ Lưỡng Quảng đến. + Đạo quân thứ ba gồm 2.000 quân tinh nhuệ do các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy tiến thẳng ra phía Nam Đông Quan để “phô trương thanh thế”. Được tin nghĩa quân tiến về Đông Quan, Phương Chính và Mã Kỳ đem quân ra vây đánh. Tiến quân vào một khu vực đóng quân của địch có thành lũy làm chỗ dựa, là điều khó khăn và bất lợi cho quân ta, nhất là khi quân ta ít hơn địch. Phạm Văn Xảo và Lý Triệu tìm cách điều quân địch ra khỏi căn cứ để tiêu diệt bằng chiến thuật phục kích vận động sở trường của nghĩa quân Lam Sơn. Ở Cổ Lãm, quân Minh bị đánh bất ngờ hơn 1.000 tên bị diệt, “Mã Kỳ chỉ kịp một người một ngựa trốn về Đông Quan”. Quân ta thừa thắng truy kích tiêu diệt địch và tiến sâu vào phía sau cầu Sa Đôi với ý định “muốn chặn đánh dinh sau của Phương Chính”. Nghe tin quân của Sơn Thọ, Mã Kỳ bị thất bại thảm hại ở Cổ Lãm, Phương Chính vội vã ra lệnh bỏ vị trí cầu Sa Đôi, rút quân về Đông Quan cố thủ để tránh đòn tiến công của ta. b) Trước sự phát triển như vũ bão của nghĩa quân, vua Minh phái Vương Thông đem 70.000 quân sang tiếp viện. Sau khi tới Đông Quan, Vương Thông đã nhanh chóng hội quân ở bến Cô Sở. Hai cánh quân vừa rút chạy về Đông Quan, được lệnh gấp rút kéo lên Cô Sở. Với lực lượng tập trung trên 9 vạn quân, Vương Thông tiến đánh Ninh Kiều, khu vực nghĩa quân chiếm đóng. Bằng một số trận đánh thăm dò để nắm tình hình địch và nghi binh, nghĩa quân đã chủ động bí mật rút khỏi Ninh Kiều về lập thế trên ở Cao Bộ (Chương Mỹ - Hà Tây) cách Ninh Kiều 8 km. Từ Cô Sở tiến xuống Ninh Kiều, Vương Thông “vồ hụt” quân ta, phải thay đổi kế hoạch. Sau khi phát hiện ra căn cứ mới của quân ta ở Cao Bộ, hắn dự định chia làm hai cánh quân tiến đánh Cao Bộ: Cánh “chính binh” do Vương Thông chỉ huy đánh chính diện; cánh “kỳ binh” theo đường tắt, đến phía sau quân ta. Hai đạo quân Lam Sơn đã kịp tập trung về Cao Bộ với lực lượng ước khoảng trên 1 vạn. Nằm giữa hai cánh quân địch, quân ta quyết định đánh đòn chủ yếu vào cánh chính binh của Vương Thông, bằng cách tập trung lực lượng để đánh đòn phủ đầu vào bộ phận tiền quân địch. Trận địa mai phục chủ yếu được bố trí ở Tốt Động, một vùng đồng chiêm trũng, lau lách bên cạnh đường “Lai Kinh”, nhằm đánh vào bộ phận trung quân và hậu quân cánh “chính binh” và cả cánh kỳ binh. Để phối hợp với hướng chủ yếu, bộ chỉ huy đã bố trí một trận địa mai phục thứ hai ở Chúc Động. Đây cũng là một cánh đồng, tuy không rộng và sâu như cánh đồng Tốt Động, nhưng lầy lội và nằm sát từ Ninh Kiều đến Cao Bộ, đường “Lai Kinh” và đường tắt đều phải đi qua vùng Chúc Động. Rạng sáng 7-11-1426, Vương Thông ra lệnh cho quân lính xuất phát tiến công Cao Bộ. Cánh chính do Vương Thông trực tiếp chỉ huy, theo đường “Lai Kinh” tiến thẳng đến phía trước Cao Bộ, với đội hình kéo dài, tiến dần về phía Tốt Động. Khi tiền quân của cánh chính binh đã lọt vào trận địa mai phục chủ yếu ở Tốt Động thì hậu quân của chúng cũng đã qua hết Ninh Giang, đã lọt vào trận địa mai phục ở Chúc Động. Theo hiệu lệnh đã quy định trước, quân mai phục của ta ở Tốt Động nhất tề nổi dậy xông vào tiêu diệt địch với khí thế vô cùng mãnh liệt. Vương Thông bị bất ngờ, hàng ngũ quân địch hoàn toàn rối loạn, tinh thần hết sức kinh hoàng, khiếp sợ. Cả một cánh đồng bùn lầy ngập nước đã chôn thây hàng vạn quân địch. Vương Thông bị thương, tướng Trần Hiệp bị quân ta chém chết. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trong khoảng 4-5 giờ. Vương Thông và bọn sống sót tìm đường tháo chạy về Ninh Kiều. Cánh kỳ binh đang trên đường tiến về phía sau Cao Bộ, khi nhận được tin Vương Thông đã bị đại bại ở Tốt Động, vội rút chạy về hướng Chúc Động. Quân mai phục của ta ở trận địa Chúc Động lại bồi tiếp những đòn quyết liệt vào cánh kỳ binh và hậu quân của cánh chính binh đang tháo chạy hỗn loạn. Nghĩa quân đã phá hủy cầu Ninh Kiều chặn đường rút lui của địch về Đông Quan. Một trận quyết chiến thứ hai đã diễn ra ác liệt trên vùng Chúc Động, Ninh Kiều, hàng vạn quân địch bị giết chết và bị bắt sống. Số quân địch liều lĩnh vượt sông bị chết đuối rất nhiều. Một bộ phận theo Vương Thông, Mã Kỳ, cố vượt được qua Ninh Kiều, chạy thoát về Đông Quan. Một bộ phận khác theo Phương Chính chạy theo hữu ngạn sông Đáy, qua bến đò Cô Sở trốn về Đông Quan. Với hai trận Tốt Động, Chúc Động, quân ta đã tiêu diệt trên 6 vạn quân, trong đó bắt sống trên 1 vạn tên. Vương Thông bị thương, tướng Trần Hiệp bị chém tại trận. Quân ta còn thu được rất nhiều chiến lợi phẩm. Trận Ninh Kiều như đê vỡ kiến trôi; trận Tốt Động như gió rung cây gãy. c) Sau trận thất bại ở Tốt Động, Chúc Động, Vương Thông thu thập tàn quân, rút chạy về Đông Quan. Từ đó tên bại tướng này phải chuyển sang thế phòng ngự, cố thủ thành Đông Quan. Được tin thắng trận, Lê Lợi đưa đại quân gồm quân thủy, quân bộ và 20 voi chiến chia làm 2 đường thủy, bộ đi suốt ngày đêm tiến gấp ra Bắc. Ngày 21-11-1426, Lê Lợi tiến ra tây Phù Liệt (huyện Thanh Trì - Hà Nội) đóng quân tại đây và quyết định tiến công vây hãm thành Đông Quan. Với cuộc tiến công ngoại vi thành Đông Quan, quân ta đã tiêu diệt hầu hết các doanh trại địch ở phía ngoài, buộc quân địch từ đó phải rút hẳn vào trong thành cố thủ. Thế giặc ngày càng cùng quẫn, nên phải đắp thêm thành lũy để liều chết giữ thành, chờ viện binh. Lê Lợi dời bản doanh sang Đông Phù Liệt, chủ trương tiếp tục vây hãm thành Đông Quan và mở rộng vùng giải phóng, bổ sung thêm lực lượng. Những thắng lợi dồn dập của nghĩa quân đã làm cho quân địch từ thành Đông Quan cho đến các đồn lũy khác đều rất hoang mang. Để tránh khỏi nguy cơ bị tiêu diệt trước khi viện binh sang, Vương Thông một mặt ra sức tăng cường khả năng cố thủ các thành, mặt khác đưa ra việc thương lượng giảng hòa với nghĩa quân để làm kế hoãn binh. Lê Lợi đã xây dựng một chính quyền độc lớp, quản lý khu vực giải phóng, củng cố hậu phương, tăng cường lực lượng, tích trữ lương thực chuẩn bị chiến thuyền và vũ khí. Với tầm mắt chiến lược, Nguyễn Trãi đã gửi thư cho Vương Thông: “Nay tính hộ các ông, xét có sáu điều phải thua: — Nước lụt chảy tràn, tường rào đổ lở, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất. — Xưa Đường Thái Tông bắt Kiến Đức mà Thế Sung ra hàng. Nay những nơi quan ải hiểm yếu đều có quân và voi đồn giữ, nếu viện binh đến thì tất phải thua, viện binh đã thua, bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai. — Ở nước các ông, quân mạnh, ngựa tốt, nay đóng cả ở miền Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rõi nhìn đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba. — Luôn động can qua, hàng năm đánh dẹp, dân sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư. — Gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến. Đó là điều phải thua thứ năm. — Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc; quân sĩ trong thành thì đều mệt mỏi, tự chuốc lấy bại vong. Đó là điều phải thua thứ sáu”. Vòng vây xiết chặt của nghĩa quân kết hợp với công tác địch vận của Nguyễn Trãi làm cho quân Minh ở thành Đông Quan ngày càng hoang mang, dao động. Lê Lợi chủ trương bao vây các thành còn lại, nghiêm cấm mọi hành động giao dịch mua bán nhằm triệt đường tiếp tế lương thực, đồng thời tìm cách thuyết phục dụ hàng. Nhờ đó nghĩa quân thu phục được thành Nghệ An mà không tốn một mũi tên viên đạn nào. Các thành Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh... tuy địch ngoan cố chống cự, nhưng sự bao vây và dụ hàng của nghĩa quân đã làm cho chúng suy yếu và kiệt quệ. Do đó, khi có viện binh nhà Minh kéo sang, quân địch trong những thành nay không dám hành động gì. Thành Điêu Diên, Thị Cầu, Tam Giang lần lượt phải đầu hàng. Thành Khâu Ôn cuối cùng bị quân ta tiêu diệt. Riêng thành Xương Giang là một cứ điểm trọng yếu nhất của địch trên con đường từ Quảng Tây sang Đông Quan, ở đây quân địch tỏ ra rất ngoan cố, chúng liều chết cố thủ đến cùng, chờ viện binh. Sau hơn 9 tháng bị vây hãm, quân địch bị chết quá nửa, lương thực cạn, quân lính mệt mỏi. Thành Xương Giang bị hạ trước khi viện binh của địch kéo vào biên giới 10 ngày. Như vậy cho đến trước khi viện binh của nhà Minh kéo sang, toàn bộ kế hoạch chuẩn bị diệt viện của nghĩa quân đã được thực hiện đầy đủ. Quân địch chỉ còn cố thủ trong bốn thành cô lập là Đông Đô, Chí Linh, Cổ Lộng và Tây Đô. d) Đến tháng 1-1427, triều đình nhà Minh quyết định điều 2 đạo quân viện binh sang cứu nguy cho Vương Thông. Đạo thứ nhất gồm 10 vạn quân, 2 vạn ngựa, do thái tử thái phó an viên hầu Liễu Thăng chỉ huy với chức tổng binh, tiến theo đường Quảng Tây sang. Đạo thứ hai gồm 5 vạn quân, 1 vạn ngựa do thái phó kiêm quốc công Mộc Thạnh với chức tổng binh chỉ huy tiến theo đường Vân Nam sang. Từ tháng 10-1426 đến tháng 7-1497, nhà Minh đã điều động đến 3 lần viện binh do các tướng Vương An Lão, Vương Thông, Cố Hưng Tổ chỉ huy, tổng cộng đến 10 vạn, liên tiếp kéo sang đều đã bị đánh bại. Lực lượng nghĩa quân lúc đó có khoảng 35 vạn, nhưng còn phải vây hãm khoảng 10 vạn quân địch trong bốn thành và bảo vệ cả một hậu phương rộng lớn. Số quân cơ động có thể tập trung vào nhiệm vụ diệt viện không nhiều lắm. Trong tình hình như vậy, nếu cùng một lúc tiến đánh cả hai đạo viện binh địch thì rõ ràng binh lực của ta bị phân tán. Do đó, bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định chọn đạo quân Liễu Thăng làm đối tượng quyết chiến chủ yếu, tập trung lực lượng tiêu diệt đạo quân này trước và kiềm chế đạo quân Mộc Thạnh ở cửa Lê Hoa. Lê Lợi đã xét đoán: “Mộc Thạnh tuổi già, trải việc đã nhiều, vốn nghe tiếng ta, tất ngồi xem Liễu Thăng thành bại chứ không dám khinh động”. Và đánh giá: “Binh pháp nói: đi 50 dặm để tranh lợi thì thượng tướng phải què. Nay Liễu Thăng đến, đường xá xa xôi, người ngựa mệt mỏi. Ta đem quân nhàn rỗi đánh quân mệt mỏi, lẽ nào không thắng”. Vì vậy bộ chỉ huy nghĩa quân đã bố trí một loạt trận đánh liên tiếp trên đường tiến quân của địch từ ải Pha lũy cho đến Xương Giang nhằm tiêu diệt từng bộ phận, rồi tiến lên tiêu diệt toàn bộ quân địch còn lại. Tận dụng địa hình núi rừng hiểm yếu, bộ chỉ huy nghĩa quân bố trí thế trận và lực lượng khoảng 5 vạn quân vào hướng tiến công chủ yếu. Mười ngày sau chiến thắng hạ thành Xương Giang của nghĩa quân, tức ngày 8-10-1427, đạo quân của Liễu Thăng đột nhập vào biên giới nước ta. Quân ta do tướng Trần Lựu chỉ huy giữ cửa ải Pha Lũy, thực hiện đúng kế hoạch vừa đánh vừa nhử địch vào trận địa quyết chiến. Từ Pha Luỹ quân ta lui về Khâu Ôn. Liễu Thăng tiến xuống chiếm Khâu Ôn, quân ta lại lui về giữ Ải Lưu, sau đó rút về Chi Lăng mai phục. Kết hợp với kế hoạch lui quân nhử địch, Lê Lợi, Nguyễn Trải đã viết thư xin Liễu Thăng rút quân, càng làm tăng sự kiêu căng, chủ quan khinh thường của hắn. Nhất là khi Liễu Thăng tiến vào Ải Lưu dễ dàng như vào chỗ không người, hắn càng ngạo mạn, không nghe những lời can ngăn của các tướng, ra lệnh tiếp tục tiến thẳng về phía ải Chi Lăng. Dãy núi Cai Khinh dốc đứng và dãy núi Thái Hòa trùng điệp là những bức thành cao chắn hai ngả Đông - Tây, khép lấy thung lũng Chi Lăng cùng với những ngọn núi nhỏ bên trong. Địch lọt vào trận địa Chi Lăng tự nhiên như bị ép chặt vào một túi sâu khó thoát, bị dồn vào “đất chết”. Chiến thắng oanh liệt đã được ghi trong “Cáo Bình Ngô”. Ta trước hết phục binh giữ hiểm, đập nát tiên phong. Đưa kỵ binh đánh chặn, cắt đường lương thực. Sang ngày 18 Liễu Thăng bị đánh, Chi Lăng trúng kế. Ngày 20 Liễu Thăng bị bại, Mã Yên phơi thây. Ngày 25, Lương Minh trận hãm bỏ mình. Ngày 28, binh thượng thư Lý Khánh kế cùng thắt cổ”. Ngày 10-10-1427, Liễu Thăng chủ quan, kiêu ngạo, dẫn hơn 100 quân kỵ, hung hăng mở đường tiến vào cửa ải. Tướng Trần Lựu lại đem quân khiêu chiến rồi “giả vờ thua chạy”. Khinh địch và tức tối, Liễu Thăng thúc quân đuổi theo, bám sát Trần Lựu và tiến vào ải Chi Lăng. Liễu Thăng vượt qua cửa ải phía Bắc, tiến đến chân núi Mã Yên thì hoàn toàn lọt vào trận địa mai phục của ta. Ngay lúc đó, phục binh ta bốn mặt nhất tề xông ra quyết chiến. Đội quân khiêu chiến lập tức quật trở lại phối hợp. Cuộc chiến đấu diễn ra thật bất ngờ, mau lẹ. Tượng binh của ta xông thẳng vào đội hình địch, chia cắt và dồn chúng vào cánh đồng lầy lội. Kỵ binh và bộ binh của ta xông ra bao vây cùng với những mũi tên tẩm thuốc độc, các loại đạn đá, mũi lao, phi tiêu từ bốn phía lao vào quân giặc. Liễu Thăng cố chạy thoát ra khỏi cánh đồng lầy lội, nhưng hắn đã bị quân ta phóng lao đâm chết ở sườn núi Mã Yên. Chủ tướng bị giết, cả đội kỵ binh tiên phong của giặc hoảng loạn và đã bị tiêu diệt gọn. Thừa thắng, quân ta chia cắt đội hình của địch và “đập gãy khoảng tiên phong”. Số địch bị diệt đến 1 vạn tên. Quân ta lại bố trí trận địa mai phục thứ hai ở Cần Trạm, đồng thời lại viết thư khích tướng địch. Phó tổng binh Lương Minh lên nắm quyền chỉ huy đạo quân vẫn ngoan cố hung hăng tiến về Cần Trạm. Ngày 15-10-1427, quân địch lại lọt vào trận địa mai phục của nghĩa quân. Trận đánh đã diễn ra trên một chiều dài gần 5km, suốt từ cánh đồng phía Đông Bắc Cần Trạm đến tận nam thị trấn Kép. Lương Minh vừa lên thay Liễu Thăng lại bị những mũi lao của quân ta đâm chết tại trận cùng với khoảng 2 vạn quân bị tiêu diệt. Quân ta chủ động thu quân và nhanh chóng vận động theo đường tắt về phía Nam để tiếp tục tổ chức trận địa mai phục. Sau thất bại Cần Trạm, đô đốc Thôi Tụ lên nắm quyền chỉ huy, cùng với Lý Khánh, Hoàng Phúc, cố sức tập hợp quân lính, gắng gượng thúc quân tiến về Xương Giang. Ngày 18-10, quân địch tiến đến phố Cát, cách Xương Giang 8 km về phía Bắc lại bị quân ta đón đánh. Địch bị thiệt hại nặng, hơn 3 vạn quân bị diệt, Lý Khánh uất ức, “kế cùng thắt cổ tự tử”. Tuy bị thất bại nặng nề, nhưng Thôi Tụ và Hoàng Phúc vẫn cố liều chết tiến về Xương Giang. Khi đến gần Xương Giang chúng mới biết thành đã bị hạ. Hết đường ứng cứu, hy vọng liên hệ với Đông Quan bị tiêu tan. Mệt mỏi, hoang mang, lại bị cô lập, trước mặt sau lưng đều bị đánh, cuối cùng chúng phải “đắp lũy ngoài đồng để tự vệ”. Quân địch phải đóng quân cô lập giữa một vùng đồng ruộng và một vài xóm trơ trọi thuộc xã Tân Dĩnh (Lạng Giang - Hà Bắc), cách Xương Giang 3km. Bộ chỉ huy nghĩa quân đã dự kiến trước và chuẩn bị sẵn một thế trận bao vây tiêu diệt chúng ở vùng này. Quân ta đã “lập hàng rào ở bên bờ tả sông Xương Giang”. Quân thủy bộ của ta lợi dụng đoạn sông Thương này để bố trí bao vây mặt tây và làm chủ các dòng sông Thương và sông Lục Nam ở phía Đông Nam. Mặt Bắc, hai đạo quân của ta sau trận Phố Cát cùng tiến xuống, hình thành thế trận bao vây ép chặt quân địch. Thành Xương Giang nằm trong tay nghĩa quân là một pháo đài vững chắc, chặn đứng đường về Đông Quan của chúng. Sau khi quân địch đã hoàn toàn lọt vào vòng vây khép kín, dày đặc, nhiều tầng nhiều lớp của quân thuỷ bộ ta, bộ chỉ huy nghĩa quân lo tiêu diệt đạo quân Mộc Thạnh. Đúng như kế hoạch đã vạch sẵn, bộ chỉ huy đã ra lệnh cho các tướng giữ ải Lê Hoa là “Chỉ nên đặt quân phục để chờ, chưa nên đánh nhau vội”, chỉ đánh kiềm chế, ngăn chặn không cho địch tiến sâu, đồng thời chuẩn bị lực lượng, chiếm lĩnh sẵn những nơi hiểm yếu để chờ thời cơ phản công. Khi đạo quân viện binh của Liễu Thăng đã bị thất bại nặng nề và bị giam chân ở Xương Giang, Lê Lợi cho một số tù binh mang thư và bằng sắc ấn tín của Liễu Thăng và những tên tướng tử trận đến trại quân của Mộc Thạnh. Mộc Thạnh thất kinh, vội vàng đang đêm đem quân gấp rút tháo chạy về nước. Nghĩa quân đã chuẩn bị trước, lập tức tung quân đánh đuổi. Quân ta thắng lớn ở Lãnh Câu và Đan Xá diệt trên 1 vạn địch, bắt sống 1 nghìn tên và 1 nghìn ngựa, thu nhiều chiến lợi phẩm. Mộc Thạnh chỉ một mình một ngựa chạy thoát về Vân Nam. Chiến thắng ở Lãnh Câu và Đan Xá càng cổ vũ tinh thần quân dân ta ở chiến trường Xương Giang. Vừa xiết chặt vòng vây, Lê lợi, Nguyễn Trãi kiên trì dụ hàng quân địch ở cánh đồng Xương Giang. Quân Minh tỏ ra ngoan cố, không chịu hàng, lại có âm mưu giảng hòa để kéo vào thành Chí Linh, lợi dụng thành lũy này để cố thủ và tiếp tục chiến tranh. Lê Lợi ra lệnh gấp rút hạ thành Chí Linh và gửi tới Thôi Tụ, Hoàng Phúc một bức tối hậu thư. Đúng ngày 3-11-1427, nghĩa quân được lệnh tổng công kích cụm viện binh cuối cùng này. Quân địch đại bại, các tướng chỉ huy lớn nhỏ từ Thôi Tụ, Hoàng Phúc đến Sử An, Trần Duy, v.v... đều bị bắt cùng với hơn 5 vạn quân địch bị giết, một số chạy trốn được, sau cùng đều bị dân ta bắt giữ. Đến đây, hai đạo viện binh của nhà Minh đều bị tiêu diệt và đánh bại. Toàn bộ chiến cục từ Chi Lăng đến Xương Giang, với các trận đánh liên tiếp đã được bố trí và thực hiện đúng kế hoạch dự định. Quân ta hoàn toàn đẩy địch vào thế bị động. Nghĩa quân đã sử dụng tài tình địa hình hiểm trở và chọn quyết chiến điểm một cách chính xác. Sau trận phản kích tuyệt vọng cùng với sự kiên trì thuyết phục của Nguyễn Trãi, cuối cùng Vương Thông đã phải chịu đầu hàng bằng một cuộc đàm phán gọi là “Hội Thề Đông Quan” cam kết rút toàn bộ quân lính ra khỏi nước ta. Ngày 29-12-1427, quân Minh bắt đầu rút lui và đến ngày 3-1-1428 thì đội bộ binh cuối cùng của Vương Thông lên đường về nước. Bình Ngô Đại Cáo đã nêu: Tham tướng Phương Chính, nội quan Mã Kỳ trước cấp hơn năm trăm thuyền, đã vượt biển, vẫn hồn kinh phách lạc. Tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh, lại cho trên mấy nghìn ngựa, đã về nước, còn ngực đập chân run. Nó đã sợ chết tham sống, phải thành khẩn cầu hàng. Ta để cho giặc toàn quân, mà quân ta được nghỉ và đất nước ta sau 20 năm bị mất, nay lại được giải phóng một cách oai hùng. Xã tắc từ đây vững yên. Giang sơn từ nay đổi mới Càn khôn hết bĩ lại thái. Nhật nguyệt hết mờ lại trong Mở rộng nền thái bình muôn thuở Rửa sạch điều hổ thẹn nghìn thu. Bài học lớn trong cuộc chiến tranh bảo vệ và giải phóng tổ quốc, chống xâm lược của nhà Minh trong 20 năm trường là chống kẻ thù lớn mạnh hơn phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, phải có nghệ thuật của chiến tranh nhân dân và luôn quán triệt tư tưởng lấy yếu chống mạnh, phải biết tạo thời lập thế để thắng kẻ định có lực lượng mạnh hơn. Phải có cách đánh phù hợp lừa địch, đưa địch vào những thế trận bất ngờ, bằng phục kích, tập kích - Sai lầm về chiến lược thì quân trăm vạn, thành quách kiên cố cũng chỉ vài tháng là thua, đổ mất nước. Nhưng kẻ thù xâm lược phải luôn nhớ rằng nhân dân Việt Nam có lòng yêu nước sâu đậm, có ý chí quật cường không chịu cam tâm làm nô lệ. Các cuộc khởi nghĩa liên tiếp trong gần 20 năm bị đô hộ của nhân dân đã chứng minh nhân dân Việt Nam không thể bị đồng hóa. Trong 20 năm chống Minh xâm lược, nghệ thuật giải phóng dân tộc đã được xây dựng hoàn chỉnh từ khởi nghĩa ở rừng núi nông thôn tiến hành chiến tranh du kích, đến vây thành diệt viện binh tiến tới chiếm khoanh trì - kết hợp tiến công với nổi dậy của quần chúng, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị binh địch vận và ngoại giao - Trong tác chiến thì luôn quán triệt tư tưởng lấy “yếu chống mạnh hay đánh bất ngờ, ít địch nhiều thường dùng mai phục” lấy đánh vận động là chính - Dùng chiến lược đánh lâu dài, từng bước xây dựng và phát triển lực lượng và thế trận, xây dựng căn cứ địa ở nơi hiểm trở của núi rừng và trong lòng dân ở những nơi địch yếu trước và khi đã có thời cơ thì không bỏ lỡ mà tranh thủ đánh nhanh mở rộng địa bàn. • QUANG TRUNG CHIẾN THẮNG CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA MÃN THANH NĂM 1789 Cuộc chiến tranh xâm lược nước ta diễn ra vào lúc triều Thanh đang ở trong thời kỳ thịnh trị. Năm 1683, Khang Hi đánh chiếm Đài Loan, năm 1718 và năm 1720, Khang Hi đánh Tây Tạng, năm 1754, Càn Long đánh chiếm được Đun-ga-ri (một xứ ở miền Tây Tân Cương). Biên cương của Trung Quốc đã được mở rộng về phía Tây. Đôi mắt của Càn Long nhìn về phương Nam. Gặp lúc Lê Chiêu Thống cho người sang xin “cứu viện”, Càn Long cho rằng cơ hội để bành trướng xuống phương Nam đã đến. Vì thế, Càn Long đáp ứng ngay yêu cầu của Lê Chiêu Thống, tổ chức một đạo quân viễn chinh gồm 29 vạn chiến binh và dân phu, giao cho tổng đốc Lưỡng Quảng và Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh, có đề đốc Hứa Thế Hanh làm phó tướng. Như vậy, Càn Long đã tiến hành cuộc Nam chinh vào lúc triều Thanh đang ở vào độ cường thịnh nhất của nó. Lực lượng của chúng hùng hậu, hậu phương của chúng ổn định, vững chắc. Cả lực lẫn thế của đạo quân viễn chinh nhà Thanh đều mạnh, “khí kiêu” từ thống soái đến binh sĩ đều cao ngất. Về phía ta, tình hình trong nước vào năm 1788 thật vô cùng phức tạp. Nội bộ phong trào Tây Sơn rạn nứt. Lực lượng nghĩa quân Tây Sơn lại phân tán ra cả khắp 3 miền. Ở Bắc Hà, nhiều sĩ phu và nhân dân còn chịu ảnh hưởng cửa nhà Lê. Tại Gia Định phía Nam, Nguyễn Ánh sau lần thất bại thứ 3 đã quay trở lại chiếm được Gia Định, đang ráo riết chuẩn bị quân đội để đánh ra Bình Thuận, mà quân của Nguyễn Nhạc lại yếu, kém. Quang Trung sau khi đánh bại chúa Trịnh, đại quân rút về Phú Xuân, chỉ để lại Bắc Hà một vạn quân. Phía Bắc quân Thanh uy hiếp, tiến quân xâm lược. Phía Nam, lực lượng Nguyễn Ánh, với sự giúp đỡ của Pháp đang phát triển với kỹ thuật của phương Tây, phía Tây quân Xiêm và Vạn Tượng sẵn sàng đợi thời cơ phối hợp. Từ tình hình trong và ngoài trên đây, vấn đề chiến lược đặt ra cho Quang Trung là phải nhanh chóng đánh bại quân Thanh xâm lược, không cho Nguyễn Ánh và Xiêm lợi dụng thời cơ đánh vào sau lưng và bên sườn. Phải tiêu diệt một kẻ thù mạnh hơn, trong tình hình chính trị ở Bắc Hà như Ngô Thì Nhậm nói: “Nay quân Thanh sang đây, tiếng tăm rất lớn. Những kẻ trong nước làm nội ứng cho chúng, phần nhiều lại phao tin đồn nhảm, làm cho thanh thế của chúng to thêm, để lòng người sợ, phải lay động. Quân ta có ai được sai phái đi đâu, vừa ra khỏi thành là đã bị bắt, giết. Số người Bắc Hà thuộc vào số quân của ta, hễ gặp dịp sơ hở là bỏ trốn liền thì thật không phải là chuyện đơn giản. Chiến thắng của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo cũng phải vài tháng trời, chiến thắng của Lê Lợi chống nhà Minh đã phải trải qua thất bại của nhà Hồ và hậu Trần kéo dài ách đô hộ 20 năm”. Mỗi thời một hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều giống nhau ở một điểm: nhân dân Việt Nam đều phải lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn. Các cuộc chiến tranh đều chiến thắng trong một quy luật chung như Trần Hưng Đạo đã nói: “Quần thần đồng tâm, huynh đệ hòa mục, quốc gia tính lực, bỉ tự tự cầm”. Trước tình hình vừa điểm qua, thực là một khó khăn lớn đặt ra trước Quang Trung, nhà quân sự tài ba của dân tộc, một tướng bách chiến bách thắng, trong gần 20 năm trường chiến đấu suốt chiều dài của đất nước từ Nam chí Bắc. Ngày 22 tháng 10 năm Mậu Thân tức 25 tháng 11 năm 1788, 29 vạn quân Mãn Thanh gồm các đạo binh của 4 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu dưới sự chỉ huy của Tôn Sĩ Nghị, tiến vào nước ta trên 3 đường. 1. Các đạo quân Vân Nam, Quý Châu do đô đốc Vân Quý Ô Đại Kinh từ Vân Nam qua cửa ải Mã Bạch Quan theo đường Tuyên Hóa (huyện Định Hóa, Thái Nguyên), Tuyên Quang xuống Sơn Tây. 2. Đạo quân Điền Châu do Sầm Nghi Đống chỉ huy, theo đường Long Châu sang Cao Bằng, xuống Thái Nguyên, có đoàn quân tình nguyện Hoa Kiều người Triều Châu đi theo tiến vào Thăng Long. 3. Các đạo lục quân Quảng Đông, Quang Tây do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy, có đề đốc Hứa Thế Hanh làm phó tướng tiến qua ải Nam Quan vào Lạng Sơn theo đường thiên lý (số 1) vào Thăng Long. Từ tháng 7 năm Mậu Thân (1788), Quang Trung đã được Ngô Văn Sở báo cáo về việc chuẩn bị của quân Thanh xâm lược, nên một mặt giao cho các tướng lĩnh ở Bắc Hà sẵn sàng đối phó lúc đầu và chuẩn bị mọi mặt lực lượng, lương thực, sẵn sàng xuất quân ra Bắc đánh quân xâm lược. Theo thư của Đu-sa-in viết cho Bá Đa Lộc, thủy quân của Nguyễn Huệ ở Phú Xuân có tới 120 thuyền chiến và nhiều thuyền chở lục quân có tới 300 voi chiến và nhiều đại bác. Lực lượng địch ngoài 29 vạn quân Thanh, còn có 2 vạn quân của Lê Chiêu Thống. Trước một đạo quân xâm lược lớn như vậy, mà quân Tây Sơn chỉ có hơn một vạn ở Bắc Hà, chủ trương chiến lược của Ngô Thời Nhiệm đã được chấp nhận: cho thủy quân chở đầy các thuyền lương đến vùng Biện Sơn đóng quân, quân bộ lui về giữ Tam Điệp. Hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau giữ chỗ hiểm yếu, rồi cho người về bẩm với chúa công. Thử xem quân Thanh đến thành, khu xử việc nhà Lê ra sao? Lê Chiêu Thống sau khi phục quốc, xếp đặt việc quân, việc nước như thế nào? “Tướng giỏi đời xưa, lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tùy theo tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ. Giống như đánh cờ, trước thì chịu thua người một nước, sau mới được người ta một nước, đừng có đem nước sau làm nước trước, đó mới là tay cao cờ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, cũng như ngọc bích của nước Tấn đời xưa, vẫn nguyên lành chứ có mất gì...”. Tới ngày 13 tháng 1, tức 10 tháng 12 năm 1788 quân Thanh tới bờ Bắc sông Thương. Ngày 20 tháng 1 năm Mậu Thân, tức ngày 17 tháng 12 năm 1788 quân Ngô Văn Sở đã bố trí xong trên tuyến từ Tam Điệp đến Biện Sơn. Đây là một chủ trương chiến lược táo bạo và hết sức chính xác, bảo đảm cho đại quân của Nguyễn Huệ từ Phú Xuân cơ động lực lượng ra Bắc Hà và thực hành phản công ở Bắc Hà, không phải tướng nào cũng dám hạ quyết tâm khi chưa có lệnh của cấp trên. Dám bỏ cho địch chiếm Thăng Long để rồi chiếm lại phải có một lòng tin vững chắc ở cấp trên và lực lượng của mình. Hai lần Nguyễn Huệ xuất quân ra Bắc Hà đánh bại chúa Trịnh; Vũ Văn Nhậm, chỉ trong 10 ngày tiêu diệt hàng chục vạn quân chúa Trịnh trong năm 1786 đã bảo đảm khả năng chiến thắng đó. Vũ Trịnh, một quan lại nhà Lê đã nói với Tôn Sĩ Nghị: “Nguyễn Huệ là tay lão luyện về trận mạc, lại nắm giữ đội quân hùng mạnh... còn ở quốc thành của nước tôi, chỉ có đồ đảng của chúng là bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân mà thôi. Được tin thiên binh đến, bọn chúng chưa biết hư thực thế nào, nên hãy thu quân tạm lánh. Nhưng nghe đâu bọn chúng đóng quân chặn ở núi Tam Diệp, ngăn hẳn từ đất Trường Yên về Nam, mưu đồ lại tiến ra đất Bắc lần nữa. Một tên tỳ tướng còn kiệt thiệt như thế, huống chi tên đại tù trưởng của chúng?”. Nhưng chủ tướng nhà Thanh Tôn Sĩ Nghị lại đánh giá một cách chủ quan khinh địch: “Theo ta xem xét thì chúng chỉ như hạng trâu, dê, sai một người đem thừng buộc lấy cổ mà lôi về, hẳn cũng không khó gì. Đợi khi quân ta đến La Thành, nhổ bãi nước bọt xoa tay là làm xong việc, ngươi hãy chờ mà xem”. Chủ tướng mà kiêu ngạo như vậy làm sao tránh khỏi hậu quả tất nhiên của nó. Ngày 17-12-1788, quân Thanh vào được Thăng Long. Để nghỉ ngơi và cho quân sĩ ăn tết, Tôn Sĩ Nghị bố trí lực lượng theo một thế trận tạm thời. Đạo quân chủ lực của hắn đóng ở hai bờ sông Hồng, giữa có cầu phao qua lại. Phía Nam Thăng Long Tôn Sĩ Nghị bố trí một hệ thống phòng ngự gồm nhiều dồn lũy với 11 vạn quân, mà cứ điểm then chốt là đồn Ngọc Hồi (Thường Tín, Hà Tây) có trên 5 vạn quân chiếm giữ dưới sự chỉ huy của phó tướng Hứa Thế Hanh. Đạo quân Sầm Nghi Đống ở Khương Thượng (Đống Đa, Hà Nội) bảo vệ mặt Tây Nam thành Thăng Long. Đạo quân Ô Đại Kinh đóng ở Sơn Tây. Còn ở Hải Dương có quân Lê Chiêu Thống đóng bảo vệ sườn phía Đông. Ở Nam Thăng Long, phía dưới đồn Ngọc Hồi còn có đồn Hạ Hồi và từ Hạ Hồi đến Gián Khẩu còn có nhiều đồn nhỏ do quân Lê Chiêu Thống đóng giữ, cùng những toán quân Thanh trinh sát tuần tra. Như vậy, hệ thống phòng thủ phía Nam Thăng Long do Tôn Sĩ Nghị bố trí khá vững chắc và cẩn mật, những đồn binh được xây dựng nối tiếp nhau theo những cự ly nhất định trên một tuyến dài theo hướng đường thiên lý với gián cách đủ để báo động và ứng cứu cho nhau kịp thời. Càng gần Thăng Long, những đồn binh lớn càng có binh lực mạnh hơn và được xây dựng kiên cố hơn. Cứ điểm then chốt phía Nam Thăng Long là đồn Ngọc Hồi. Hệ thống cứ điểm phòng thủ có chiều sâu, có trọng điểm. Việc bố trí binh lực của Tôn Sĩ Nghị nhìn chung hợp với chủ trương chiến lược của hắn là cho đại quân Thanh tạm nghỉ ăn tết, rồi sẽ tiếp tục tiến quân xuống phía Nam. Tôn Sĩ Nghị cũng thi hành những biện pháp cảnh giới cần thiết ở hướng Nam. Ở đây, nhược điểm cơ bản của quân địch bộc lộ ra là tính chủ quan khinh địch của tên tướng “thiên triều”. Chính từ nhận định lực lượng Tây Sơn “như vậy nằm trong túi, thò tay lấy ra lúc nào mà chẳng được”, nên quân sĩ lại càng ngông cuồng, chỉ nghĩ đến nghỉ ngơi, cướp bóc. Còn quân của Lê Chiêu Thống thì đói khát, hoang mang, lấy trả thù riêng làm thỏa thích. Giết người, cướp của, hãm hiếp liên tiếp xảy ra, nhân dân Bắc Hà thật là khổ sở oán hận. Bộ mặt bán nước đê hèn của Lê Chiêu Thống ngày càng lộ rõ. Việt sử thông giám cương mục tập XX trang 60 có ghi: “Đường tiếp tế lương thực cho quân Thanh thì xa, nên bao nhiêu lương và tiền mà triều đình thu được của dân đều đem cung cho họ hết sạch. Vài vạn người vừa nghĩa binh các đạo, vừa của binh Thanh Nghệ thì đều đồng lòng không dạ trống đi theo việc binh nhung, lòng người do đấy lại càng chia rẽ tan tác”. Đạo quân xâm lược thì chủ quan, mất cảnh giác, lại dựa vào ngụy quân Lê Chiêu Thống mất tinh thần bảo vệ phía trước và bên sườn, là chỗ yếu cơ bản của quân địch. Biết địch, biết mình, trăm trận không thua, đó là một quy luật quân sự mà người làm tướng không thể quên. Đưa quân xâm lược đất người, cách xa biên giới gần 200 cây số, hành quân của bộ binh thời đó phải mất từ trên 10 ngày đến 20 ngày. Bài học thất bại của Quách Quỳ thời Tống, của Thoát Hoan thời Mông - Nguyên hầu như Tôn Sĩ Nghị chưa hề biết khi xâm lược Việt Nam. 29 vạn quân Thanh nằm gọn từ Sơn Tây, Thăng Long về đến Hạ Hồi. Phía sau và bên sườn chỉ có quân Lê Chiêu Thống. Hệ thống quân lương đặt theo đường thiên lý từ ải Nam Quan về Thăng Long trên 70 hạm, thủy quân không có. Thế trận chiến lược thật là nguy hiểm. Bài học Thoát Hoan với 60 vạn quân thiện chiến nhất của thế kỷ XIII bị tiêu diệt trước thành Thăng Long đang đè nặng lên đầu quân Thanh xâm lược. Tiến quân vào đất nước người, lại không hiểu tài nghệ của quân đội đối phương một cách thấu đáo. Trên 20 năm chinh chiến, suốt từ Nam đến Bắc Hà, quân Sơn Tây đã đánh thắng quân chúa Nguyễn, chúa Trịnh, có cả quân Xiêm tham chiến. Họ có sức cơ động chiến lược rất cao, có nghệ thuật chiến thắng chỉ trong một trận, chỉ trong một ngày diệt 20.000 quân Xiêm với 300 thuyền chiến. Và họ đã chiếm thành Phú Xuân, tiêu diệt 30.000 quân Trịnh phòng giữ trong thành cao hào sâu có cả pháo binh mạnh chỉ trong một ngày một đêm. Tôn Sĩ Nghị làm tướng thống lĩnh xuất quân chiếm thành Thăng Long mà không hề nghiên cứu sự kiện, cũng tại đây ngày 21 tháng 7 năm 1786, mới 2 năm trước, Nguyễn Huệ đã tiêu diệt hàng mấy vạn quân có 100 voi chiến của Trịnh Khải trong 1 ngày. Quan trọng hơn nữa là Quang Trung đã chuẩn bị sẵn quân đội ở Phú Xuân và nghiên cứu cách phá quân Thanh khi chúng xâm lược. Quân đội Tây Sơn không phải chỉ có voi chiến và hỏa hổ như trong 8 điều quân luật của Tôn Sĩ Nghị, mà còn có hàng mấy trăm thuyền chiến đủ các loại. Thủy quân Tây Sơn đã là một quân chủng có thành tích đánh từ Nam chí Bắc, cơ động từ xa hàng 500 - 600 cây số, ra cả các đảo ven biển cách bờ hàng 200 cây số và cả trong sông rạch. Hỏa lực của quân Nguyễn Huệ có cả đại bác cỡ lớn và hàng mấy trăm đại bác dã chiến cơ động trên voi. Súng trường đã được trang bị khá nhiều cho lính bộ binh, chứ không phải chỉ có bạch binh. Với một đối phương thiện chiến trang bị mạnh, kỷ luật nghiêm, có tướng tài bách chiến bách thắng như Nguyễn Huệ, mà coi thường chủ quan thì thất bại là không thể tránh khỏi. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà quyết tâm đánh thắng quân Thanh trong bảy ngày của Quang Trung khi xuất quân lại thành sự thật một cách chính xác cao đến như vậy. Trong khi, Tôn Sĩ Nghị không nắm được và xem thường đối phương, thì trái lại, quân Tây Sơn, đúng như Vũ Trịnh đã nhận xét, là rất hùng mạnh. Ngay từ ngày 21-12-1788, sau khi nghe đô đốc Nguyễn Văn Tuyết báo cáo về việc quân Thanh xâm lăng và quân Ngô Văn Sở đã lui về Tam Diệp, Biện Sơn, Quang Trung đã ra lệnh xuất quân ngày 22-12-1788, ra Nghệ An tuyển mộ thêm quân và định kế hoạch tác chiến. Ngày 26-12-1788 quân thủy bộ đã tới Nghệ An. Năm ngày đi trên 300 cây số, không phải quân thiện chiến làm sao đi nổi. Ngày 20 tháng chạp, tức 15-1-1789, đại quân đã đến Tam Diệp và Biện Sơn, khu vực tập kết. Ngày 30 tháng chạp, lợi dụng ngày tết, chủ lực quân Tây Sơn vượt sông Gián Thủy, mở đầu cuộc tiến công. Chỉ trong 3 ngày, các đồn tiền tiêu từ Gián Khẩu đến Hạ Hồi đều bị quét sạch nhanh gọn, bất ngờ đến mức ngày 4 tháng giêng, khi đại quân của Quang Trung đến Ngọc Hồi thì quân Thanh mới biết. Quân Thanh đã phải kêu lên:“Thật là tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”. Trên 10 vạn quân với 300 voi chiến và mấy trăm chiến thuyền mà lên đường được ngay hôm sau, khi Quang Trung nghe đô đốc Tuyết báo cáo, thì thực là giỏi. Và từ 22 tháng 12 đến 20 tháng 1-1789, trong vòng một tháng trời, vừa hành quân trên 500 cây số, vừa mộ quân thêm vài vạn ở Nghệ An, đặt kế hoạch tác chiến, động viên và chuẩn bị toàn diện cho một chiến dịch tiến công chiến lược tiêu diệt trên 30 vạn quân xâm lược và ngụy quyền Lê Chiêu Thống, thì thật là một điển hình về chỉ đạo, chỉ huy chiến lược quân sự của Việt Nam từ cổ chí kim. Khi đến Tam Điệp, Quang Trung đã được Ngô Văn Sở báo cáo cặn kẽ về tình hình quân Thanh, về lực lượng, hệ thống bố trí, đến tư tưởng, tâm lý từ thống soái đến binh sĩ Thanh và bọn vua quan Lê Chiêu Thống cùng quân ngụy. Từ “phương lược đã định sẵn” tại Phú Xuân, và bất ngờ đánh đòn sấm sét để nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ quân Thanh trong vòng vài ngày, Quang Trung đã xác định thời cơ chiến lược là Tết Kỷ Dậu, sử dụng thời điểm này để tạo yếu tố bất ngờ chuyển hóa tương quan lực lượng. “Thời, thời, thực không nên lỡ”. Yêu cầu chiến lược đặt ra cho Quang Trung là phải đánh nhanh, thắng nhanh, tiêu diệt gọn đại quân Thanh trong vòng vài ngày, vừa nhằm không cho triều Thanh vốn có lực lượng dự bị dồi dào có được thời gian tổ chức và đưa các đạo quân cứu viện đến kịp, vừa nhằm không cho quân Xiêm, Vạn Tượng và Nguyễn Ánh lợi dụng phối hợp đánh vào bên sườn và phía sau. Tiêu diệt nhanh chóng đại quân Thanh vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu chiến lược cấp thiết đối với Quang Trung và chi phối việc vạch kế hoạch tác chiến. Theo kế hoạch này, một cánh thủy quân trên 1 vạn người do đô đốc Tuyết chỉ huy, vượt biển đánh vào miền Hải Dương theo cửa sông Văn Úc, nhằm tiêu diệt quân Lê Chiêu Thống án ngữ tại đây và đề phòng quân thủy Mãn Thanh nếu chiến tranh kéo dài đồng thời đánh vào sườn Đông của quân Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long. Một cánh thủy quân Tây Sơn thứ hai do đô đốc Lộc chỉ huy với 20.000 quân, tiến vào sông Bạch Đằng, rồi vào sông Lục Đầu để sau đó đổ bộ vào Phượng Nhỡn, Kinh Bắc, chặn đường rút lui của quân giặc về nước nếu cần sẽ chặn viện binh địch sang đánh bọc hậu vào Gia Lâm. Hai cánh quân thủy gồm trên 100 chiến thuyền với hàng ngàn đại bác trên thuyền và 30.000 quân thiện chiến đánh vào vài nghìn quân Lê Chiêu Thống bảo vệ Hải Dương và Kinh Bắc, thật như lấy núi Thái Sơn đè lên quả trứng. Thủy quân Tây Sơn lúc đó rất mạnh, đã từng tiêu diệt 20.000 quân Xiêm tại Rạch Gầm, Xoài Mút và tiêu diệt chủ lực quân của chúa Trịnh do Đinh Tích Nhưỡng và Đỗ Thế Dân chỉ huy trên cửa sông Luộc vào phố Hiến chỉ trong đêm 23 rạng ngày 24 tháng 6 năm Bính Ngọ, tức 19-7-1786. Vậy làm sao quân ô hợp của Lê Chiêu Thống có thể chống cự nổi. Sườn phía Đông bị hở, nguy cơ thất bại của quân Trịnh ở Thuỷ Ai sẽ diễn lại ở Thăng Long nếu quân Tôn Sĩ Nghị chống cự mạnh với cánh quân chủ lực của Nguyễn Huệ đánh chính diện từ hướng Nam lên Thăng Long. Là hướng tiến công kỳ binh, phối hợp, rất hiểm trong thế trận tiêu diệt đại quân của Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long, giống như cánh quân từ Vạn Kiếp của Trần Hưng Đạo diệt quân Thoát Hoan năm 1285 tại sông Sách và Quế Võ phối hợp với cánh quân tiến công chính diện của Trần Quang Khải qua Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long. Cánh thủy quân này sẽ vừa bảo đảm chống viện binh chiến lược từ Trung Quốc sang bằng đường thủy và đường bộ, vừa bảo đảm bao vây và phối hợp với hướng tiến công chính diện tiêu diệt gọn quân Thanh từ Thăng Long về phía Nam. Kinh nghiệm diệt quân Trịnh ở trên tuyến sông Gianh và Phú Xuân của thủy quân Tây Sơn, phối hợp với lục quân đánh từ Hải Vân xuống, đã được phát triển thêm một bước. Hướng chủ yếu đánh thẳng vào trên 20 vạn quân Thanh từ Hạ Hồi đến Thăng Long gồm đại quân bộ của Nguyễn Huệ với trên 70.000 quân, vài trăm voi chiến, cùng hàng trăm đại bác dã chiến. Trên hướng tiến công chính diện này, Quang Trung đã đặt một kế hoạch tác chiến hết sức tỉ mỉ, với một trình độ nghệ thuật cao, có sự hiệp đồng từng ngày, từng giờ của ba đạo quân, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Quang Trung. Tập đoàn quân chủ yếu này phải đánh trực tiếp vào trên 20 vạn quân xâm lược đóng trên nhiều điểm có chiều sâu trên 60 cây số gồm 1 tập đoàn mạnh của Hứa Thế Hanh, phó tướng ở Ngọc hồi, Hạ Hồi và 1 tập đoàn do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy, đóng ở Thăng Long, hai bên bờ sông Hồng. Lực lượng của ta chỉ có 7 vạn, nhưng địch gấp 3 lần (trên 20 vạn), đã đóng quân trên 10 ngày, đã dựng công sự phòng ngự, có hỏa lực mạnh, và kế hoạch yểm trợ lẫn nhau. Làm sao trong 7 ngày, từ đêm 30 tết đến sáng mồng bảy phải đánh bại được trên 20 vạn quân này. Tác động phối hợp của hai cánh quân đánh vào sườn và sau lưng tập đoàn địch ở Thăng Long tất nhiên cũng hết sức quan trọng, nếu cuộc chiến trên hướng chủ yếu kéo dài. Trên hướng chủ yếu chỉ có 7 vạn quân đánh trên 20 vạn với chiều sâu trên 60 cây số với quyết tâm vào Thăng Long đúng ngày mồng 7 tết, Quang Trung tổ chức thành 3 cánh quân: Một cánh quân gồm một vạn bộ binh, tượng binh, mang theo pháo và kỵ binh, do đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy, đi theo hướng thượng đạo ra Chương Mỹ, bí mật tiếp cận, tập kích tiêu diệt đồn Khương Thượng do quân Triều Châu và Điền Châu của Sầm Nghi Đống trấn giữ. Đây là một đạo quân ô hợp, tuy đông nhưng chất lượng kém, dễ đánh tan để nhanh chóng thọc sâu thẳng vào chỉ huy sở của Tôn Sĩ Nghị ở Tây Long cung. Cánh quân thọc sâu như một mũi dao nhọn, chọc thẳng vào đầu não của địch, có tác dụng hết sức lớn lao, đánh vào bộ máy chỉ huy của quân Thanh, tạo điều kiện để chủ lực quân của Quang Trung tập trung tiêu diệt đạo quân chủ lực của Hứa Thế Hanh ở Ngọc Hồi. Đòn thọc sâu của Quang Trung hai năm trước đánh thẳng vào chỉ huy sở của Trịnh Khải ở lầu Ngũ Long, tiêu diệt rất nhanh quân chủ lực của chúa Trịnh có hàng trăm voi chiến, lần này được vận dụng và phát huy trong trận tiêu diệt đội quân của Tôn Sĩ Nghị. Thắng lợi của đòn sấm sét bất ngờ này đã được xác định ngay từ khi người chỉ huy lão luyện, bách chiến, bách thắng Quang Trung vạch định kế hoạch. Cánh quân thứ hai gồm 10.000 quân, với hàng trăm voi chiến, do đô đốc Bảo chỉ huy, theo đường Mỹ Đức, Ứng Hòa đến Đại Áng, phía Tây Bắc đồn Ngọc Hồi, có nhiệm vụ bao vây chia cắt Ngọc Hồi và Thăng Long, sẵn sàng đánh quân ứng viện từ Thăng Long xuống, đồng thời làm dự bị chiến lược cho chủ lực quân, khi cần được sử dụng đánh Ngọc Hồi hoặc Thăng Long. Cánh quân chủ yếu gồm 50.000 quân, trên 100 voi chiến và pháo dã chiến mang trên mình voi, do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, đánh dọc đường thiên lý từ Gián Khẩu qua Hạ Hồi, Ngọc Hồi vào Thăng Long. Trận Ngọc Hồi là trận then chốt của chiến dịch. Trong trận này, lực lượng chủ yếu mạnh nhất của Quang Trụng cũng tập trung vào đây. So sánh lực lượng riêng trong trận này, thì quân Tây Sơn có ưu thế cả về số lượng, chất lượng cả binh và hỏa lực. Nguyên tắc quân sự tập trung lực lượng ở nơi quyết định, vào thời điểm quyết định trong hoàn cảnh tương quan ta yếu hơn địch đã được Quang Trung vận dụng một cách kiên quyết và chính xác, khoa học. Trong suốt 20 năm chiến đấu từ Nam chí Bắc, Quang Trung đã từng diệt hàng chục vạn quân của chúa Nguyễn và chúa Trịnh, đã đánh mấy chục trận thì đối với ông lần này là lần đọ sức quan trọng nhất với một đội quân mạnh trong thời bấy giờ. Tương quan lực lượng chung của chiến dịch chiến lược này: ta 1, địch 3 (ta 10 vạn địch 30 vạn). Nhưng so sánh về chất lượng và thế trận, thì lực lượng Tây Sơn mạnh hơn đối phương rất nhiều, cả về tinh thần chiến đấu, chất lượng trang bị, vũ khí, phương tiện, tài năng và kinh nghiệm của chỉ huy các cấp, đặc biệt là của người thống lĩnh tối cao. Rõ ràng thế chủ động tiến công bất ngờ đã thuộc về quân Tây Sơn. Thế trận của quân Tây Sơn vừa bảo đảm thắng nhanh, đồng thời vừa bảo đảm thắng lợi trong hoàn cảnh phải kéo dài. Dù địch có đề phòng, đối phó trong quá trình tác chiến như thế nào, quân Tây Sơn đều có sẵn phương án để chiến thắng. Kế hoạch tác chiến này nếu được thực hiện một cách hoàn hảo thì thắng lợi là tất yếu, quân Thanh không còn cách gì để tránh được thất bại. Không thể quên câu nói của Quang Trung với tướng sĩ ngày 30 tháng 12 năm Mậu Thân trước khi xuất quân: “Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến mồng 7 tháng Giêng vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các người hãy ghi lấy lời ta xem có đúng không”. Tại Ngọc Hồi, do được tập trung cả về quân số lẫn phương tiện chiến đấu, nên lực lượng Tây Sơn chiếm ưu thế áp đảo so với quân thù. Cách bố trí cánh quân của đô đốc Bảo cho thấy Quang Trung vừa hành động táo bạo, vừa rất thận trọng. Cánh này vừa có nhiệm vụ sẵn sàng chi viện cho cánh quân chủ lực nếu việc công phá đồn Ngọc Hồi gặp khó khăn, mặt khác, lại làm nhiệm vụ chủ yếu là bày sẵn thế trận bao vây, nhằm tiêu diệt tại Đầm Mực tàn quân địch rút từ đồn Ngọc Hồi. Cánh kỳ binh do đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy là mũi dao đâm thẳng vào sườn và đầu não đại quân Thanh đóng ở Thăng Long. Sự xuất hiện của cánh quân này đã nâng yếu tố bất ngờ đến cao độ. Bố trí cánh quân vu hồi này, Quang Trung có ý định gây hoảng loạn, dẫn đến tan rã nhanh chóng hàng ngũ quân giặc tại chính sào huyệt của chúng, không chỉ đánh đòn tâm lý mà còn uy hiếp thực sự tính mạng của viên tướng địch chỉ huy, tạo điều kiện tiêu diệt nhanh chóng toàn bộ đại quân Thanh. Kế hoạch chính xác kỳ diệu, lại được thực hiện một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo. Vào giữa đêm 30 tết, đạo quân chủ lực của Quang Trung vượt sông Gián. Đồn tiền tiêu của địch do quân ngụy Lê Chiêu Thống đóng giữ bị tiêu diệt. Quân Tây Sơn thừa thắng, nhanh chóng diệt luôn các đồn quân Thanh ở bờ Bắc sông Nguyệt Quyết và Nhật Tảo, toàn bộ tàn quân và những toán quân Thanh do thám đều bị bắt gọn, không một tên nào trốn thoát. Quân Tây Sơn đã tiến đến Phú Xuyên, cách Thăng Long khoảng trên 30 km, mà quân Thanh đóng ở đồn Hạ Hồi vẫn không hay biết gì. Đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu quân Tây Sơn bí mật bao vây đồn Hạ Hồi, rồi bắc loa gọi hàng. Bị bất ngờ hoàn toàn và khiếp đảm trước lực lượng của quân Tây Sơn, toàn bộ quân địch trong đồn đã đầu hàng nhanh chóng. Ngày 4 tháng Giêng quân Tây Sơn triển khai lực lượng và mờ sáng ngày 5 tháng Giêng tết Kỷ Dậu tiến công đồn Ngọc Hồi. Trận đánh lớn này diễn ra hết sức ác liệt. Dưới sự yểm trợ của hàng trăm khẩu pháo dã chiến Quang Trung tung đội tượng binh gồm hơn 100 voi chiến vào trận. Ngồi trên voi chiến là những binh sĩ Tây Sơn được trang bị súng, cung, nỏ, giáo, lao và hỏa hổ. Đàn voi chiến mở đường cho một đội quân cảm tử gồm 600 người, chia làm 20 toán, khiêng theo những tấm mộc bằng gỗ, phía ngoài quấn rơm ướt. Những tấm mộc này có tác dụng chống đỡ đạn và tên của địch từ trong chiến lũy bắn ra, che chở cho đội quân xung kích nấp sau tiến lên phá cửa lũy, đột nhập vào phía trong doanh trại của địch. Từ những cửa mở do đội voi chiến và đội quân xung kích tạo nên, quân ta tràn vào đồn Ngọc Hồi. Đô đốc Hứa Thế Hạnh, phó tướng của Tôn Sĩ Nghị và tổng binh Thượng Duy Thăng, tướng chỉ huy quân ta dực của Tôn Sĩ Nghị đã bị giết tại trận. Số tàn quân tìm đường tháo chạy về Thăng Long, vấp phải những toán quân Tây Sơn chặn mất lối về, buộc phải chạy dạt về phía Tây và sa vào khu Đầm Mực. Tại đây đô đốc Bảo đã chờ sẵn chúng. Theo Hoàng Lê Nhất thống chí, “Quân Thanh hết hồn, hết vía, vội trốn xuống Đầm Mực, làng Quỳnh Đô”. Thế là toàn bộ quân địch ở đồn Ngọc Hồi đều bị tiêu diệt, trong đó có tên tổng binh Trương Triều Long. Thừa thằng, đại quân chủ lực của Quang Trung cùng đạo quân của đô đốc Bảo tiến thẳng về thành Thăng Long. Cũng vào sáng mùng 5 tháng Giêng, lúc trời còn tối, trên hướng tiến công phối hợp, cánh quân của đô đốc Đặng Tiến Đông mở cuộc tiến công hết sức bất ngờ vào đồn Đống Đa. Đồn này do đạo quân Điền Châu và Triều Châu, với số lượng khá đông, khoảng vài vạn tên, nhưng rất ô hợp của Sầm Nghi Đống, chiếm giữ. Được nhân dân các làng xã, địa phương giúp đỡ, việc chuẩn bị đánh đồn đã giữ được bí mật hoàn toàn. Nhân dân các vùng lân cận lại “mở trận rồng lửa”, dùng rơm và các chất cháy đốt lửa chung quanh đồn để bao vây quân giặc và uy hiếp tinh thần của chúng. Trận đánh diễn ra nhanh chóng. Chỉ sau vài giờ chiến đấu, đại bộ phận quân địch bị tiêu diệt, đồn trại địch bị phá tan, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử tại Đống Đa. Số quân địch chạy thoát ra ngoài bị nhân dân giết và bắt hầu hết. Cánh quân do đô đốc Đặng Tiến Đông dẫn đầu thừa thắng tiêu diệt luôn các đồn Yên Quyết, Nam Đồng, rồi nhanh chóng tràn vào cửa Ô Tây Nam thành Thăng Long. Dẫn đầu một toán kỵ binh, đô đốc Đặng Tiến Đông phóng ngựa đánh thẳng vào cung Tây Long, chỉ huy sở của Tôn Sĩ Nghị. Ngay trước đó, Tôn Sĩ Nghị “sợ mất mật” và ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình vượt trước qua cầu phao rồi nhằm hướng Bắc mà chạy”, khiến cho “quân sĩ các doanh trại nghe tin đều hoảng hốt, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống nước mà chết rất nhiều” (Hoàng Lê Nhất thống chí) Tôn Sĩ Nghị, khi đã vượt khỏi cầu phao sang bờ Bắc sông Nhị, đã không ngần ngại ra lệnh “cắt đứt cầu phao để chặn phía sau” (Thanh sử lược biên), như một áng sử ca của ta đã viết: Qua sông lại sợ truy binh Phù Kiều chém dứt quân mình chết oan (Đại Nam quốc sử diễn ca). Sáng mồng 5 tết Kỷ Dậu, cánh quân của đô đốc Đặng Tiến Đông tiến vào giải phóng thành Thăng Long. Trưa ngày hôm đó đạo quân chủ lực của Quang Trung cùng với đạo quân của đô đốc Bảo cũng tiến vào kinh thành. Các cánh quân thủy do đô đốc Lộc và đô đốc Tuyết chỉ huy đã nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ chiếm Hải Dương và Yên Thế, Phượng Nhỡn, nên Tôn Sĩ Nghị và một số tàn binh phải chạy lội trong rừng, vứt cả ấn, tín để chạy thoát thân. Theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị, số tàn quân Thanh sống sót chạy về đến Quảng Tây trước sau khoảng 5000 người. Một bọn hơn 500 tên trốn tránh trong núi rừng, cuối cùng chạy về được đến Vân Nam. Đấy là tất cả những gì còn lại của 29 vạn quân mà Tôn Sĩ Nghị đã thống lĩnh vượt biên giới sang xâm lược nước ta. Đây là một trong những trận đánh tiêu diệt lớn, nhanh chóng, giòn giã và gọn ghẽ nhất trong lịch sử nước ta. Chiến thắng này cho ta nhiều bài học kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự. — Bài học thứ nhất: cuộc xâm lược của Mãn Thanh năm 1788 - 1789 vào Việt Nam bị thất bại, diễn ra trong hoàn cảnh lãnh thổ nước ta đã kéo dài từ Bắc đến Nam với diện tích gần như hiện nay. Chiều dài đất nước đã gấp 2 lần thời Lý, Trần (khi đó địa giới nước ta mới tới Quảng Bình). Cả trong cuộc xâm lược của nhà Minh ở thế kỷ thứ XV, chiều sâu của đất nước mới đến Phan Rang. Đặc điểm của cuộc chiến tranh xảy ra trong khi nội bộ đất nước chưa thống nhất, chính quyền của Tây Sơn chưa trải khắp cả nước, ở Bắc Hà, ảnh hưởng của nhà Lê còn tác động đến một số bộ phận nhân dân, còn tại phía Nam, Nguyễn Anh còn sức mạnh. Thế chính trị thực sự của Tây Sơn chỉ tương đối vững từ Thanh Hóa, Nghệ An vào đến Bình Thuận. Tổ chức quân sự do đó cũng mới có lực lượng nghĩa quân tập trung mà khác các thời trước, chưa tổ chức quân các lộ, hương quân, cho nên việc tiến hành chiến tranh đều do lực lượng quân sự tập trung đóng vai trò to lớn, còn chiến tranh toàn dân chưa phát huy được như thời Trần. Trước các đặc điểm này, dù biết rõ ý đồ xâm lược của Càn Long, khác hẳn với Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn hoặc Hồ Quý Ly, Quang Trung ngay từ đầu không tổ chức ngăn chặn quyết liệt quân xâm lược phương Bắc từ biên giới Việt Trung, mà chỉ để ở Bắc Hà trên 1 vạn quân. Còn đại quân vẫn tập trung ở Phú Xuân, chuẩn bị sẵn sàng cơ động ra Bắc Hà đánh quân xâm lược khi chiến tranh xảy ra. Thực tiễn chiến lược này thể hiện ý đồ dùng vận động chiến của lực lượng quân đội Tây Sơn để giải quyết chiến tranh, lấy việc tiêu diệt quân xâm lược làm mục tiêu, lấy tiến công, phản công chiến lược làm phương thức tác chiến quyết định. Do đó, ta thấy Quang Trung đã tán thành việc rút quân của Ngô Văn Sở theo mưu kế của Ngô Thời Nhiệm bằng câu nói: “Chịu nhịn để tránh sức mạnh ban đầu của chúng, đành hãy chỉnh đốn đội ngũ, rút về giữ chỗ hiểm yếu, trong thì khiến cho lòng quân kích thích, ngoài thì khiến cho lòng giặc kiêu căng, đó là một kế rất hay”. Dám bỏ Thăng Long để bảo toàn lực lượng, không mất một mũi tên, cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, cũng như ngọc bích của nước Tấn đời xưa vẫn nguyên lành, chứ có mất gì... là một chủ trương chiến lược chính xác đã tạo điều kiện cho việc tiêu diệt quân Thanh trong trận Ngọc Hồi, Đống Đa (Thăng Long) ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu. Bài học chiến thắng quân Mông - Nguyên xâm lược năm 1288 của Trần Hưng Đạo đã được Quang Trung phát triển trung điều kiện hoàn cảnh mới. Vấn đề giải quyết chiến tranh chủ yếu là phải lấy tiêu diệt quân xâm lược, chứ không phải như Hồ Quý Ly đã sai lầm lấy phòng ngự ngăn chặn làm nản lòng địch làm phương thức tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Thắng lợi của Quang Trung và của Trần Quốc Tuấn càng khẳng định nguyên lý cơ bản của việc giải quyết chiến tranh là tiêu diệt lực lượng đối phương, chứ không phải cứ lấy giữ đất làm chính mà bảo vệ được Tổ quốc trong chống chiến tranh xâm lược. Dừng quân ở Thăng Long 40 ngày mà không tiến công tiếp tục quân Tây Sơn ở Tam Điệp là một. sai lầm có tính chất chiến lược của Tôn Sĩ Nghị. Mà theo sử sách của ta còn ghi lại, chỉ một cung nhân già của Lê Chiêu Thống cũng đã thấy như vậy và than thở với mẹ Lê Chiêu Thống: “Xe vua trở về kinh thành đã gần một tháng. Hiệu lệnh ban ra, chẳng qua mới đến các vùng Ứng Hòa, Thường Tín, Từ Sơn, Thuận Thành, Quảng Oai, năm lộ mà thôi. Còn như từ Trường Yên trở về Nam Thanh Hóa là đất căn bản Nghệ An cũng là quân chân tay quân cấm vệ, quân túc trực, đều lấy người ở đấy, thì thật là điều đáng lo rất lớn. Hiện nay việc nước hư thực thế nào, thế giặc mạnh yếu ra sao, những người đứng ngoài mà xem không ai không biết... Tổng đốc họ Tôn từ Thượng quốc tới đây, thế nước và tình hình của giặc chỉ biết đại khái. Đến như các miền cũng có nơi suy yếu, nơi bình thường, chia đồn và mai phục phải tính cho kỹ càng. Viện binh có lúc đánh, lúc nên giữ, phải tùy cơ ứng biến trong chốc lát. Tất cả những điều ấy, họ làm sao mà hiểu được rõ ràng đích xác?... Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc, vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết... E rằng chẳng mấy lâu nữa, hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao nổi?”. Thời cơ để đánh chiếm Tam Điệp, một địa hình hiểm yếu án ngữ miền Trung, giành lấy thắng lợi ban đầu với hai chục vạn quân trong khi quân của Ngô Văn Sở có hơn 1 vạn, bị bỏ lỡ, thể hiện Tôn Sĩ Nghị không có tài về chiến lược quân sự, chưa đủ sức đem đi đánh nước người mà lại phải đối chọi với Quang Trung thì làm sao tránh khỏi thất bại thảm hại. Dù có dùng phòng ngự ban đầu như Lý Thường Kiệt chống Tống, Trần chống Mông - Nguyên trong 2 cuộc chiến tranh năm 1258 và 1285, cũng phải lấy tiêu diệt địch bảo tồn mình làm mục tiêu. Giữ, chặn địch ở đâu, trên sông Như Nguyệt hay tại Thăng Long, Tam Điệp, còn do tình hình cụ thể của từng thời kỳ, nhưng đều phải nhằm mục đích bao đảm tạo thời, lập thế có lợi cho phản công và tiến công chiến lược. Ngay cả không chặn, giữ quyết liệt để đưa địch vào thế trận của ta, tạo ra thời cơ để tiêu diệt địch bằng phản công, tiến công chiến lược như cuộc chiến tranh Trần chống Mông - Nguyên lần thứ 3 năm 1288, hoặc trong chiến tranh Nguyễn Huệ chống Mãn Thanh cũng đều là phương thức chính xác vì nó phù hợp với thực tế khách quan địch, ta, thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Làm tướng soái chỉ đạo chiến tranh không phải là chỉ lo từng tấc đất mà không tính đến hơn thua, thắng bại lợi hại toàn cục, thì không thể đem lại thắng lợi chiến lược, giải quyết chiến tranh được. — Bài học thứ hai rút được từ chiến thắng này Quang Trung đã nêu rõ trong thư gửi Thang Hùng Nghiệp (trong Tây Sơn bang giao tập): “Quân cốt tinh nhuệ không cốt nhiều”. Quân đông mà tinh thần kém, kỹ thuật chiến thuật yếu, trang bị tồi, tướng sĩ thiếu kinh nghiệm thì cũng không thể thắng được. “Đông hàng trăm vạn người mà trăm vạn lòng” như quân của Hồ Quý Ly thì thành cao hào sâu, hỏa lực mạnh cũng thua. Quân của Nguyễn Huệ trong cả quá trình 20 năm chinh chiến, trong các chiến dịch nói chung và trong từng thời, so sánh lực lượng về chiến lược đều ít hơn đối phương, nhưng Quang Trung đều chiến thắng hết sức nhanh chóng, giòn giã, tiêu diệt địch gọn gàng, hoàn thành bất cứ nhiệm vụ chiến lược nào đã được xác định. Tới cuối thế kỷ thứ XVIII mà nghĩa quân Tây Sơn đã tổ chức được hàng chục vạn quân, có cả bộ binh trang bị súng hỏa mai, hỏa hổ, chứ không phải chỉ toàn bạch binh, có đội ngũ chỉnh tề từ dưới lên trên, có các đội từ 60 đến 100 lính, rồi từ 300 đến 500 người, đến đạo 1.500 đến 2.500, cao hơn nữa có doanh, mỗi doanh gồm có 5 đạo với quân số từ 10.000 đến 15.000, tương đương với sư đoàn hiện nay. Trong từng doanh, ngoài bộ binh còn có pháo binh, kỵ binh và tượng binh, mà trong chiến dịch chiến lược diệt quân Tôn Sĩ Nghị, ta thấy các cánh quân của đô đốc Bảo, hoặc đô đốc Đông là từng doanh với hàng vạn quân. Riêng cánh quản chủ yếu có 5 vạn quân do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy, củng gần như một tập đoàn quân nhiều sư đoàn hiện nay. Pháo binh Tây Sơn đã phát triển so với pháo binh đương thời cả về số lượng và chất lượng. Quân Tây Sơn đã dùng pháo binh cả trong phòng ngự và tiến công với số lượng cao, như trong trận Khô Sơn năm 1793, với 4.000 quân phòng ngự đã có 35 đại bác gang, đồng; năm 1801 tại cửa ải Đa Qua, quân Tây Sơn đã đặt 80 đại bác để phòng thủ và trong trận đột phá lũy Trấn Ninh không thành công, quân Tây Sơn đã bỏ lại 700 đại bác trên đường rút lui qua sông Gianh năm 1802. Pháo của Tây Sơn là loại nặng 1.000 cân một khẩu với đạn đường kính mười phân (Đại Nam thực lục). Tượng binh dưới thời Nguyễn Huệ đã thành một binh chủng: trong trận đại phá quân Thanh ở Thăng Long - Ngọc Hồi đã dùng tới 300 voi chiến để xung phong đột phá mở thành. Thủy quân Tây Sơn là một thủy quân mạnh và được sử dụng rộng rãi trong các chiến dịch và trận chiến đấu lớn suốt quá trình vào Nam, ra Bắc chiến chinh. Thủy quân Tây Sơn đã tiêu diệt 20.000 thủy binh Xiêm với trên 300 chiến thuyên ở Rạch Gầm, Xoài Mút ngày mùng 8 tháng chạp năm Giáp Thìn tức ngày 18-1-1785 đã làm mất vía thủy quân Xiêm có tiếng là mạnh lúc đó. Trong các chiến dịch vào Gia Định ra Phú Xuân, đánh Bắc Hà rồi đánh quân Thanh, thủy quân Tây Sơn đều phụ trách từng cánh quân, từng hướng của chiến dịch với số lượng thuyền chiến và thuyền chở quân, vũ khí lương thực đạn dược lớn. Trong trận diệt quân Thanh, việc cơ động thủy quân Tây Sơn là một thuỷ quân mạnh, có các loại thuyền chiến lớn nhỏ bảo đảm tác chiến ven biển, trong sông. Có loại lớn, mỗi thuyền được trang bị 60 đại bác và 700 lính, có loại mang 50 đại bác với 500 lính, có loại vừa với 16 đại bác và 70 lính, có loại nhỏ có 1 đại bác và 50 đến 150 lính. Như vậy đứng về tổ chức, trang bị, quân đội Tây Sơn là một quân đội mạnh so với các quân đội các nước đương thời. Riêng về tinh thần chiến đấu và tài nghệ quân sự thì dưới sự chỉ huy của Quang Trung, quân đội Tây Sơn hơn hẳn quân đội của chúa Trịnh và chúa Nguyễn, hơn cả quân Trung Quốc thời Mãn Thanh của Càn Long, cùng thời với Nguyễn Huệ. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, quân đội Tây Sơn trưởng thành từ nghĩa quân, những nông dân căm thù chế độ phong kiến thối nát, tình nguyện tham gia chiến đấu, có mục đích lý tưởng chiến dấu chính nghĩa vì sự nghiệp giải phóng nông dân, thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Do luôn chiến thắng giòn giã trong nhiều trận chiến đấu và chiến dịch lớn, nên tinh thần chiến đấu của họ rất cao, dựa trên lý tưởng, lòng yêu nước và vững tin vào người chỉ huy, vào khả năng của từng người, từng đơn vị. “Quân cốt tinh, không cốt đông”, đúng như Quang Trung đã tổng kết nguyên nhân sức mạnh bách chiến bách thắng của quân đội Tây Sơn dưới sự chỉ huy của ông. Không phải bất cứ chỉ huy nào cũng đã nắm chắc được nguyên lý này, thực tiễn lịch sử quân sự thế giới và cả trong nước cũng đã chứng minh điều đó. Quân đội thời Lý, dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt và quân đội thời Trần, dưới trướng của tiết chế Hưng Đạo Vương có sức mạnh “nuốt sao ngưu”. Còn quân đội của Hồ Quý Ly thì trăm vạn trăm lòng, đông mà yếu, mới đánh, thậm chí có lúc chưa đánh đã thua. Một bài học lớn cho chúng ta, là cũng vẫn đội quân ấy, chỉ 10 năm sau khi Quang Trung mất, đã bị thất bại liên tiếp dưới thời Quang Toản. Đó cũng là một sự thật phũ phàng, do nhiều nguyên nhân, cả về chính trị, xã hội và quân sự, nhưng một điểm không kém phần quyết định là vai trò hết sức quan trọng của người lãnh đạo, chỉ huy. Quần chúng làm nên lịch sử, nhưng lãnh tụ lại có ảnh hưởng hết sức quan trọng đến chiều hướng của lịch sử. — Bài học thứ 3, qua cuộc chiến tranh chống xâm lược Mãn Thanh là về nghệ thuật đánh tiêu diệt chiến lược, trong thời gian ngắn giải quyết chiến tranh. Lý Thường Kiệt chống Tống xâm lược phải mất 5 tháng, từ tháng 11-1076 đến tháng 3- 1077. Trần Hưng Đạo thắng Mông - Nguyên trong chiến tranh lần thứ hai phải mất 7 tháng từ 1-1285 đến tháng 7-1285; trong chiến tranh lần thứ 3, phải mất 4 tháng, từ tháng 1-1288 đến tháng 4-1288. Quang Trung diệt 29 vạn quân Thanh chỉ trong 2 tháng (từ tháng 11-1788 đến 30-1-1789) kể từ khi Tôn Sĩ Nghị cho quân vượt biên giới nước ta. Còn nếu chỉ kể thời gian quyết chiến chiến lược thì mất tất cả có 5 ngày đêm. Có thể khẳng định là, trong hàng chục thế kỷ chống xâm lược phương Bắc, đây là trận tiêu diệt chiến lược gọn gàng nhất và nhanh nhất của quân dân Việt Nam chống xâm lược. Đúng như đồng chí Trường Chinh đã viết:“Ưu điểm trội nhất của cuộc kháng chiến đời Nguyễn Quang Trung là tiến công nhanh chóng và mãnh liệt”. Từ Phú Xuân hành quân ra Bắc, vượt trên 800 cây số, vừa hành quân, bổ sung thêm quân ở Nghệ An, vừa đặt quyết tâm, kế hoạch tác chiến và tổ chức bảo đảm thực hiện quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược trong những ngày tết Nguyên Đán khi chúng đang nghỉ ngơi, ăn tết, Quang Trung chỉ sử dụng 35 ngày từ 22 tháng 1 năm Mậu Thân tức ngày 22 tháng 12 năm 1788 đến ngày 30 tháng Chạp năm đó tức 25 tháng 1 năm 1789. Hành quân nhanh, tổ chức, chuẩn bị chiến dịch chiến lược nhanh và tiến công nhanh, với tốc độ tiến công trung bình 15 km một ngày đêm, đã làm cho Tôn Sĩ Nghị bị bất ngờ, đi tới hoảng sợ và tháo chạy, bỏ cả quân, vứt cả ấn tín. Chỉ trong 5 ngày, quân của Quang Trung đã tiêu diệt xong đạo quân trên 20 vạn của Tôn Sĩ Nghị. Bất ngờ về chiến lược thường không phải do không biết đối phương sẽ tiến công mình, mà thường là bất ngờ về thời gian và phương thức hành động của đối phương. Trong trận Ngọc Hồi, Thăng Long, quân Thanh đã hoàn toàn bị bất ngờ về thời gian tiến công (nhằm vào ngày tết) và sự tiến quân thần tốc của Tây Sơn, chúng đã phải kêu lên: “Thật là tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên” (Ngô Gia Văn phái Hoàng Lê Nhất thống chí, trang 465). Nói chung các cuộc tiến công của Nguyễn Huệ trong các trận tiêu diệt quân Xiêm, quân chúa Nguyễn ở Gia Định, quân Trịnh ở Phú Xuân, Bắc Hà cũng như trong trận diệt quân Thanh lần này đều hết sức mãnh liệt, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công chính diện hết sức bất ngờ với vu hồi, bao vây chia cắt. Ít có trận nào trong tiến công của quân Nguyễn Huệ phải kéo dài quá một ngày đêm, và các chiến dịch do Nguyễn Huệ chỉ huy thường cũng chỉ trên dưới 10 ngày, với hiệu suất chiến đấu cao, diệt hàng vạn, hàng chục vạn đến 20 vạn tên, giải phóng một địa bàn rộng lớn để giành thắng lợi trong cả cuộc chiến tranh chống xâm lược. Về mặt tác chiến, muốn lấy ít thắng nhiều thì cần tạo ra bất ngờ, tạo thời cơ. Quang Trung đã thấy trước thời cơ và chọn Tết Kỷ Dậu làm thời điểm quyết chiến chiến lược ngay từ khi ông còn ở Phú Xuân. Muốn tiêu diệt địch phải tạo được thế trận bao vây quân địch. Năm mũi tiến công của Quang Trung trong trận đánh Thăng Long được bố trí rất bài bản, vừa hợp lý, vừa rất lợi hại, khác nào giăng lưới bủa vây con thú rừng để rồi sau đó phóng lao đâm chết nó. Quang Trung hiểu rõ địa hình Việt Nam, tận dụng khả năng của các con sông lớn ở Bắc Hà, đặc biệt là điểm hội tụ của 6 con sông (Lục Đầu - Vạn Xuân hay Vạn Kiếp, hay Phả Lại hiện nay), phát huy tác dụng sức mạnh của thủy quân Việt Nam có truyền thống từ thời Lý - Trần. Kẻ thù từ phương Bắc vào đồng bằng Bắc Bộ không thời nào thoát khỏi thế trận bao vây vu hồi chiến lược này. Quang Trung còn chú ý đến các đường hành quân bộ của lực lượng ở hướng chủ yếu, sử dụng đúng địa điểm ngăn chặn chiến lược Tam Điệp, và từ Thanh Hóa xuất quân đường bộ đánh Thăng Long, 5 con đường cơ động của các cánh quân từ phía Nam ra mà Quang Trung đã sử dụng, đến nay vẫn là một phương án tối ưu của dạo quân đánh chính diện. Ngay trong trận đánh lớn ở Ngọc Hồi và Thăng Long, ta cũng thấy tài lợi dụng địa hình của Nguyễn Huệ. Trận Đầm Mực đã thể hiện tài năng lợi dụng địa thế của ông. Muốn đánh tiêu diệt phai có qủa đấm mạnh và dùng quả đấm đó đánh đúng vào mắt xích then chốt, tử huyệt của giặc sức đột phá của nghĩa quân Tây Sơn thật hết sức mãnh liệt. Từ đội voi chiến đến đội xung kích cảm tử, tất cả đã bảo đảm chắc chắn cho việc mở các cửa đột phá để sau đó đánh tung thâm, chia cắt lực lượng địch ra mà tiêu diệt. Đánh chính diện mãnh liệt, đánh vu hồi hiểm hóc, lợi dụng thượng đạo để đánh mũi kỳ binh (của Đặng Tiến Đông), khiến cho quân Thanh liên tiếp bị bất ngờ, hàng ngũ rối loạn. Lập thế trận hiểm hóc, tận dụng thời cơ, tập trung lực lượng ở địa điểm và thời gian quyết định, đánh dòn quyết định, giành thắng lợi nhanh, tiêu diệt gọn địch là đặc điểm của nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ chúng ta cần học tập, nghiên cứu một cách nghiêm túc. Tại chiến trường này, năm 1285 đã diễn ra trận tiêu diệt điển hình quân Mông - Nguyên của Trần Quang Khải ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long và của Trần Hưng Đạo ở sông Sách và Quế Võ, Vạn Kiếp, và cũng ở đây, quân Mãn Thanh đã bị tiêu diệt hết sức nhanh trước cuộc tiến công chiến lược sấm sét trong 5 ngày đầu xuân Kỷ Dậu 1789 của Nguyễn Huệ, với các trận Hạ Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa, Thăng Long lịch sử. CHƯƠNG HAI ĐÁNH PHÁP, ĐUỔI MỸ GIẢI PHÓNG ĐẤT NƯỚC (1945 - 1975) I. CUỘC KHÁNG CHIẾN 9 NĂM CHỐNG THỰC DÂN PHÁP GIẢI PHÓNG NỬA NƯỚC (1945 - 1954) Sau gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đứng lên giành độc lập. Cách mạng tháng Tám thành công nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trẻ tuổi ra đời. Đất nước ta lại ngay lập tức đứng trước một thử thách cực kì nghiêm trọng. Tổ quốc lâm nguy trước âm mưu thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược. Ở miền Bắc 20 vạn quân Tưởng Giới Thạnh kéo vào tước vũ khí quân Nhật, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ, lập chính quyền tay sai Quốc dân Đảng. Ở miền Nam, quân đội Anh trực tiếp vũ trang và giúp thực dân Pháp quay lại xâm chiếm nước ta. Mấy vạn quân Nhật tuy đã đầu hàng nhưng chưa bị tước vũ khí, tiếp tục hành động dưới quyền điều động của quân đội Anh. Nạn đói vừa làm chết hơn hai triệu người ở miền Bắc vẫn tiếp tục đe dọa dân ta. Tình trạng kinh tế suy kiệt cũng là khó khăn to lớn của chính quyền cách mạng. Theo gót chân Anh, thực dân Pháp quay trở lại Nam Bộ, ngày 23-9-1945 chúng nổ súng gây chiến ở Sài Gòn. Trong một thời gian ngắn chúng đánh chiếm Sài Gòn và sau đó cùng quân Anh, đánh lan ra chiếm các đô thị và trục đường giao thông chủ yếu ở miền Nam với ý đồ chiếm miền Nam trong 10 tháng. Nhân dân miền Nam được chi viện của cả nước, với tinh thần anh dũng tuyệt vời đã dùng gậy tầm vông, súng trường cũ kĩ, kết hợp chiến thuật du kích và phương pháp bất hợp tác để chống lại đội quân xâm lược có đủ phi cơ, pháo binh, xe tăng thiết giáp. Các đội du kích thành lập ở các thôn xã cùng một số trung đoàn từ miền Bắc, miền Trung vào chi viện miền Nam hoạt động cùng nhân dân giữ nông thôn, ngăn chặn sự mở rộng chiếm đóng của thực dân Pháp. Thực dân Pháp vấp phải sự chống trả mạnh mẽ của quân dân ta. Sau 5 tháng tiến công chúng chỉ có thể kiểm soát được các đô thị và các đường giao thông chính ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Hàng vạn quân phải rải ra chiếm đóng chống chiến tranh du kích, thực hiện bình định vùng chúng mới chiếm được. Pháp tìm cách điều đình với quân Tưởng và giả vờ hòa hoãn với Chính phủ Việt Nam nhằm đánh chiếm nước ta từng bước. Với sách lược mềm dẻo tài tình, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, tận dụng mâu thuẫn Pháp - Tưởng để tranh thủ củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng cách mạng, đã ký với Pháp Tạm ước 6-3-1946. Riêng đối với miền nam, Tạm ước 6-3 tạo điều kiện pháp lý cho nhân dân ta mở rộng đấu tranh chính trị, phá vỡ ngụy quyền ở cơ sở, thực hiện cuộc khởi nghĩa lần thứ hai, khôi phục và củng cố chính quyền cách mạng ở địa phương. Pháp lợi dụng tạm ước để đưa một số bộ phận quân Pháp vào miền Bắc. Sau hơn một năm gây chiến tranh xâm lược ở Nam Bộ và thi hành Tạm ước Việt - Pháp 6-3-1946, với gần mười vạn quân Pháp đứng chân tại một số vị trí chiến lược trên đất nước ta, có đế quốc Anh, quân Tưởng Giới Thạch giúp sức, thực dân Pháp hòng áp đặt lại chế độ thực dân. Chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa và định mở cuộc tiến công bất ngờ, nhanh chóng đảo chính chiếm Thủ đô Hà Nội lật đổ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 17 và 18-12-1946 Hội nghị bất thường Ban Thường vụ Trung ương mở rộng dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra quyết định phát động cả nước kháng chiến và đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến. Đêm 19-12-1946 kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Sáng 20-12-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi thiêng liêng của Tổ quốc, toàn thể nhân dân Việt Nam đã xiết chặt hàng ngũ, đoàn kết xung quanh Đảng và Chính phủ, nhất tề đứng lên kháng chiến. Sau 9 năm kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý báu. Về giải quyết một cuộc chiến tranh vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc, vừa có tính chất giải phóng dân tộc chống thực dân đế quốc phương Tây trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, mở đầu cho việc phá tan chế độ đế quốc thực dân cũ trên toàn thế giới. Cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm đã trải qua nhiều giai đoạn và thời kỳ nhằm đánh bại từng chiến lược của địch 1. Phá chiến lược “chớp nhoáng” của địch bằng chiến tranh du kích. Sau cách mạng tháng Tám, khí thế cách mạng của cả dân tộc đang dâng lên mạnh mẽ, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã phát triển sau gần một năm tranh thủ xây dựng, chúng ta bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc trong một thế cách mạng non trẻ đang vươn lên đối chọi lại một tên đế quốc mạnh, hơn ta nhiều lần về trang bị. Vì vậy ngay từ trước và sau ngày toàn quốc kháng chiến Đảng đặc biệt quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang, coi đó là công việc quan trọng nhất để chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Đảng ta cho rằng tiến trình và kết cục của chiến tranh là tùy thuộc vào tương quan thế lực giữa ta và địch. Trong tiến trình chiến tranh, muốn tăng nhanh quá trình thay đổi so sánh lực lượng, làm cho lực lượng ta từ chỗ nhỏ yếu hơn địch, lại ở vào thế bị động, chuyển dần đến chỗ lớn mạnh không ngừng và giành được quyền chủ động, thì không có con đường nào khác là phải trường kỳ kháng chiến, giành thắng lợi từng bước, phải phát động toàn dân chiến đấu. Với vũ khí phương tiện và phương thức phù hợp, lấy tư tưởng “tiêu diệt địch” để bảo vệ mình và bồi dưỡng lực lượng, từng bước chuyển từ thế bị động phòng ngự về chiến lược tiến lên giành quyền chủ động chiến lược, tiêu diệt đại bộ phận quân địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Vì vậy ngay từ những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, Đảng ta đã chủ trương phát động một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài để đánh bại một đội quân viễn chinh nhà nghề của thực dân Pháp với chiến lược quân sự “chớp nhoáng” hòng chiếm nước ta trong một thời gian ngắn. Qua kinh nghiệm của thời kì kháng chiến ở Nam Bộ, chúng ta đã không thành công khi dùng hình thức tác chiến phòng ngự trận địa, bao vây ngăn chặn địch từ trung tâm đô thị, mở rộng cuộc chiến tranh ra toàn Nam Bộ và một phần Trung Bộ. Chỉ trong vài tháng, quân đội Pháp đã phá vỡ được các trận địa bao vây các đô thị như Sài Gòn, Nha Trang, Huế và đã dùng đội quân viễn chinh được trang bị hiện đại mở những cuộc hành quân lớn vu hồi từ Nam Bộ đánh ra Nam Trung Bộ, chiếm cả một vùng lãnh thổ lớn đến khu vực Đại Lãnh, Đèo Cả... Kế thừa kinh nghiệm đó của Nam Bộ và truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông ta, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, Đảng ta đã chỉ đạo cách đánh cho các lực lượng vũ trang trong giai đoạn này là: “Triệt để dùng du kích, bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài...”[3]. Đối với một kẻ địch mạnh, có tiềm lực về quân sự, nhưng lại là kẻ đi xâm lược, chúng định thực hiện chiến lược “chớp nhoáng” thôn tính nước ta, trong khi lực lượng ta còn yếu cả về số lượng, trang bị, khả năng chỉ huy và chiến đấu, thì việc vận dụng cách đánh du kích nhằm phân tán binh lực địch, phát động quần chúng, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, thực hiện kháng chiến lâu dài là chủ trương chính xác, nhằm phá chiến lược “chớp nhoáng” của chúng. Đúng như Ăng-ghen đã viết: “Thường xuyên làm tiêu hao lực lượng của kẻ thù, nghiền nát và tiêu hủy một đội quân lớn ra từng mảnh và điều quan trọng nhất là ta không thấy điều đó được bù lại bởi sự tổn thất tương ứng của phía bên kia” và Ăng-ghen còn nói rõ hơn: “Một dân tộc muốn giành được độc lập cho mình thì không được tự giới hạn trong phương thức tiến hành chiến tranh thông thường”. Mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, quân và dân Thủ đô Hà Nội cùng các địa phương đã đồng loạt nổ súng vào quân xâm lược Pháp đang chiếm đóng ở Thủ đô và một số thành phố thị xã quan trọng. Cuộc chiến đấu chủ động vây đánh địch trong các thành phố lớn, thị xã lớn đã diễn ra hết sức quyết liệt. Nó đã đánh bại hoàn toàn âm mưu và kế hoạch của thực dân Pháp hòng đánh vào cơ quan đầu não của ta ở Hà Nội, tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta ở các thành phố, thị xã lớn. Ta đã vây hãm quân địch một số ngày vừa để tiêu hao, bảo toàn mình, mà còn để tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào kháng chiến. Đây là cuộc chiến đấu của các tầng lớp nhân dân thành thị, có vệ quốc quân và tự vệ làm nòng cốt, có nông thôn ngoại thành làm chỗ dựa, chủ động tiến công và chủ động kết thúc trước khi kẻ địch đem toàn lực phản kích, nhằm bảo tồn lực lượng ta. Tiêu biểu của cuộc chiến đấu này là trận chiến đấu trong 60 ngày dêm ở Thủ đô Hà Nội. Bằng cách đánh lúc đó ta gọi là “du kích trận địa chiến”, quân và dân Thủ đô đã cùng một số thành thị khác như Nam Định, Huế, Đà Nẵng đã dũng cảm chiến đấu diệt nhiều địch và kìm được quân Pháp để cho toàn quốc chuyển vào chiến tranh. Một phóng viên hãng thông tấn AFP của Pháp lúc đó tại Hà Nội đã viết như sau: “Trong cuộc chiến tranh kì dị này, người ta có thể chết một cách dễ dàng ở bất kỳ nơi nào, lúc nào mà không thể biết được... Trong đơn vị đóng ở nhà thờ để trông giữ mặt Hàng Bông, một trung úy chỉ huy, đã tính có tới 35 người chết... Việt Minh ban đêm len lỏi vào các phố một cách nhanh nhẹn, không một tiếng động, không một bóng người. Từ trên gác cao, quân Pháp ném lựu đạn xuống - Họ vẫn tiến công hăng hái và bền bỉ với những tiếng hò hét khủng khiếp. Đến sáng họ lại biến như mây khói - Ban ngày, họ tìm nơi chắc chắn nhất, chĩa súng vào các vị trí của đối phương. Tiếng súng nổ cả ban ngày, không phải chỉ ở những nơi có giới tuyến rõ rệt, mà cả ở những khu vực quân Pháp cho là đã quét sạch. Những nơi mà tôi mới đi qua thì một giờ sau, người ta đã thấy những xác lính Pháp chết gục ở đấy rồi...”. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, các đơn vị chủ lực của ta đã rút về hậu phương để bảo toàn lực lượng và xây dựng lực lượng mạnh hơn nữa để kháng chiến lâu dài, và toàn dân đã thực hiện chỉ thị “tiêu thổ kháng chiến”, phá các thành phố, thị xã ta còn làm chủ, không cho địch lợi dụng. Đảng đề ra “nhiệm vụ chính lúc này là bảo toàn chủ lực để kháng chiến lâu dài”[4] phát động chiến tranh du kích. Các trung đoàn tổ chức lại bao gồm các đại đội độc lập và một tiểu đoàn tập trung. Đưa các đại đội độc lập về các huyện để phát động du kích chiến tại cơ sở, kết hợp với tiểu đoàn tác chiến tập trung trên một địa bàn rộng đánh nhanh thắng nhanh là một chủ trương quan trọng. Đảng đưa ra các phương châm chỉ đạo tác chiến như “chiến thuật căn bản của ta là du kích vận động chiến, chú trọng đánh những trận tiêu diệt để làm cho ta hy sinh ít mà thu được kết quả nhiều, thực hiện càng đánh càng mạnh”[5], “để thắng địch, chiến thuật của ta phải là du kích vận động chiến, bộ đội phải biết vận động nhanh chóng mới có thể áp dụng được triệt để chiến thuật du kích”[6]. “Trong hoạt động du kích cần phải tích cực, bí mật, nhanh chóng, tránh mạo hiểm, thực hiện phương châm càng đánh càng mạnh”[7]. Những đơn vị chủ lực tiến hành vận động chiến “phải tập trung bộ đội, củng cố tinh thần bộ đội, dùng lối hành binh rất nhanh chóng, rất bí mật mà đánh mạnh vào những chỗ địch tương đối yếu hay mới chiếm chưa củng cố vị trí, sau đó lập tức rút lực lượng đi nơi khác”[8]. Thực hiện được như vậy nhất định “chiến thuật du kích vận động của quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam sẽ tiêu diệt giặc Pháp”[9]. Đây là sự chỉ đạo tác chiến rất kịp thời và chính xác nhằm phá cuộc tiến công lớn của giặc Pháp, bảo toàn lực lượng ta. Nhờ vậy, khi thực dân Pháp có viện binh vào đầu năm 1947 với lực lượng trên 10 vạn quân, chúng thực hiện cuộc tiến công lớn đánh ồ ạt ở Bắc Bộ, Trung Trung Bộ nhằm giải vây các thành phố, kiểm soát giao thông, định hình thành thế bao vây nhanh chóng chiếm cả nước ta, nhưng đã bị thất bại. Ba thứ quân của ta với phương pháp tác chiến chủ yếu là du kích chiến bám đất bám dân đã phá cuộc tiến công mở rộng địa bàn và tiêu diệt lực lượng của địch. Ta lấy tiến công bất ngờ tiêu diệt địch về chiến đấu - chiến dịch làm phương pháp vừa tiêu hao địch về chiến lược, lấy vũ khí địch đánh địch, vừa bảo toàn lực lượng của ta. Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo học thuyết quân sự Mác - Lê-nin vào điều kiện của Việt Nam, như Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra: “phòng ngự không nên chỉ là tiêu cực, nó phải tập trung sức mạnh của nó trong tính cơ động ở bất cứ nơi nào mà điều kiện cho phép thì những người phòng ngự đều phải có hành động tiến công”[10]. Do đó phong trào chiến tranh du kích đã nổi lên ở khắp nơi, một trung đội, một tiểu đội, một tổ, thậm chí một người cũng có thể làm nên một trận đánh nếu có thời cơ thuận lợi, nhằm tiêu diệt địch, cướp vũ khí địch trang bị cho ta. Nơi nào chưa quán triệt đúng tư tưởng chỉ đạo tác chiến đó thì đều không tránh khỏi bị tổn thất. Như ở Thừa Thiên và Sơn La. Vệ quốc quân và du kích đã rải lực lượng “lập phòng tuyến án ngữ” trên các trục đường giao thông, đương đầu với mũi dùi chủ lực của địch đều bị địch tập trung lực lượng và phương tiện đánh chính diện kết hợp với bao vây vu hồi lần lượt phá vỡ từng tuyến một gây tổn thất cho ta, buộc ta phải rút. Từ đó Bộ Tổng Tham mưu đã phải ra huấn lệnh bỏ cách đánh dàn quân giữ đất, hình thức dồn đống và lối bố trí chính quy hóa, phê phán tư tưởng “phòng ngự bị động rải mành mành, lối trận địa chiến áp dụng và những điều kiện không thể đánh trận địa” đề ra chủ trương “kiên quyết thay đổi cách đánh” và nêu lên sự cần thiết phải chuyển hẳn sang du kích vận động chiến. Những uốn nắn kịp thời này của Bộ Tổng chỉ huy đã làm cho quân và dân ta đứng vững trước các cuộc tiến công ào ạt của địch, rèn luyện quân chủ lực thạo cách đánh du kích, vận động, đồng thời xây dựng lực lượng dân quân du kích đứng chắc tại các địa phương cùng nhân dân đánh dịch. Đây cũng là nét độc đáo về nghệ thuật quân sự của Đảng ta, đã phát động chiến tranh du kích rộng khắp, với sức mạnh của ba thứ quân, với cách đánh du kích vận động chiến, trụ bám dân, bám đất. Ta phân tán chủ lực để hòa vào biển chiến tranh nhân dân, xây dựng và phật huy sức mạnh tổng hợp nhằm chống lại các cuộc phản công và tiến công, phá chiến lược “chớp nhoáng” của địch. Mặc dù địch có tăng viện binh lên 11 vạn, thực hiện các cuộc tiến công lớn, đánh thọc sâu vào các vùng hậu phương nhằm khủng bố nhân dân, hòng diệt chủ lực, đánh phá cơ quan chỉ đạo kháng chiến ta để kết thúc chiến tranh nhanh nhưng ở đâu chúng cũng đều vấp phải tinh thần quyết chiến, cách đánh du kích vận động chiến nhằm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo toàn và phát triển lực lượng ta. Như việc quân và dân ta đã đánh bại cuộc hành quân của 5.000 quân Pháp hòng đánh phá cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ ta ở Ứng Hòa, Chương Mỹ, (Hà Tây). Trung đoàn Thủ Đô và trung đoàn Vệ quốc quân Sơn Tây đã cùng dân quân du kích diệt trên 800 tên địch, đẩy lùi cuộc tiến công, buộc chúng phải rút về Hà Nội. Ở Nam Bộ, trên các trục đường giao thông. Vệ quốc quân đã đánh những trận phục kích xuất sắc, phá hủy từng đoàn tàu xe, diệt gọn nhiều trung đội, đại đội địch, có cả chỉ huy như quan năm: Đờ-sát Tờ-rô-ca, bắt nhiều tù binh, trong đó có cả bộ trưởng ngụy quyền Trương Vĩnh Tống, thu nhiều vũ khí, khí tài. Cuộc tiến công chiến lược “chớp nhoáng” lần 1 thất bại, quân Pháp co về các thành phố, ra sức tăng viện để chuẩn bị cho cuộc tiến công mới, quyết tâm thực hiện cuộc tiến công chiến lược “chớp nhoáng” lần thứ 2 vào Thu Đông năm 1947. Lúc này Trung ương Đảng và Chính phủ đã chuyển lên Việt Bắc để chỉ đạo cả nước kháng chiến. Do lực lượng ta bước đầu đã được củng cố và phát triển, tổng số Vệ quốc quân lên tới 125.000 người, gồm 57 trung đoàn, 19 tiểu đoàn độc lập. Những đội du kích ở khắp nơi trên cả nước, nhiều làng xã đã trở thành pháo đài chiến đấu, đã tạo điều kiện cho “bộ đội chính quy bớt phải lo giữ các địa phương” “di động được dễ dàng, nắm hẳn lấy quyền chủ động làm cho giặc bị tê liệt, bị vây hãm, bị đánh lúc chúng không muốn đánh, bị khốn cùng cả về mọi mặt”. Khi địch mở chiến dịch tiến công lên Việt Bắc, Đảng ta đã ra chỉ thị “phá tan cuộc tiến công mùa đông này của giặc Pháp”, đặt nhiệm vụ cho quân và dân Việt Bắc và cả nước là: “Làm cho địch thiệt hại nặng để không gượng lại được sau chiến dịch mùa đông”[11], “bắt địch chuyển sang thế thủ”[12]. Chỉ thị vạch ra phương hướng hành động là “giam chân quân địch tại các căn cứ đã chiếm, chặt đứt đường giao thông liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúng tiếp ứng và tiếp tế; giữ gìn chủ lực, nhưng cũng phải nhè chỗ yếu của địch mà đánh những trận vang dội, những trận tiêu diệt”[13]. Nên khi mở màn chiến dịch Việt Bắc, quân và dân Bắc Cạn dù bị bất ngờ đã không bị thiệt hại trong cuộc tập kích lớn của quân địch đổ bộ đường không. Binh đoàn Sô-va-nhắc bị quân và dân Bắc Cạn bao vây cô lập giữa rừng sâu. Trên mặt trận Sông Lô, binh đoàn Com muy-nan vừa đổ bộ lên bến Bình Ca định đánh từ Tuyên Quang lên Chiêm Hóa, đã bị quân ta diệt từng trung đội, đại đội, mất sức chiến đấu, phải rút khỏi Đầm Hồng, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Gọng kìm Sông Lô bị bẻ gãy. Trên mặt trận đường số 4, các tiểu đoàn tập trung cùng dân quân đã đánh vận động diệt hàng trăm tên địch tại Đông Khê, Thất Khê, Vũ Nhai, Tràng Xá và phục kích diệt gọn cả một đoàn 33 xe cơ giới, gần 300 tên địch tại Bông Lau. Đường số 4 thành “con đường máu” đối với giặc Pháp. Trên mặt trận đường số 3, các tiểu đoàn tập trung đã tập kích các vị trí Chợ Mới - Phủ Thông, diệt gọn từng trung đội địch trên đèo Gió, đèo Giàng, cắt đứt đường tiếp viện của địch từ Cao Bằng xuống Bắc Cạn. Địch phải rải quân để chữa đường bị ta phá hoại và đóng đồn bốt trên hàng trăm ki-lô-mét để giữ hành lang tiếp tế, lại liên tiếp bị tiêu hao từng bộ phận, binh đoàn Bô-phơ-rê đến được Bắc Cạn thì hết lực lượng. Cuối cùng cả ba binh đoàn tiến công của giặc Pháp đều phải rút chạy khỏi Việt Bắc. Kết quả của chiến dịch này, ta đã diệt hơn 3.000 tên địch, làm bị thương hơn 3.000 tên, gọi hàng 270 tên, đánh bại cuộc tiến công chiến lược của hơn 2 vạn quân viễn chinh Pháp. Đây là một chiến dịch phản công có quy mô tương đối lớn đầu tiên của ta tại căn cứ địa vùng rừng núi, bao gồm các trung đoàn vệ quốc quân các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Tuyên Quang cùng các đơn vị trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy các chiến khu 1, 10. Các đơn vị này nhanh chóng phân tán thành 30 đại đội độc lập và 18 tiểu đoàn tập trung, cùng dân quân du kích đánh địch ở từng huyện, từng khu vực. Với cách đánh chủ yếu là đánh du kích vận động chiến của bộ đội chủ lực, tác chiến với quy mô từng trận cấp tiểu đoàn, trung đoàn, của nhiều trung đoàn phụ trách từng khu vực theo một kế hoạch và chỉ huy thống nhất ở mức độ thấp của Bộ Tổng tư lệnh trong thế trận chiến tranh nhân dân đã tương đối phát triển, không những đã đẩy lùi chiến dịch tiến công của địch vào Việt Bắc, mà còn giải phóng thêm nhiều thị trấn, mở rộng vùng tự do của ta. Kết thúc giai đoạn giữ vững và phát triển lực lượng, bằng chiến tranh du kích, kiềm chế tiêu hao địch, sau một năm kháng chiến toàn quốc, chúng ta đã đánh bại chiến lược “Đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp. Chiến thắng Việt Bắc đã đưa cuộc kháng chiến của ta sang giai đoạn mới. Phương thức tiến hành chiến tranh du kích đã thắng, phá được chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của đội quân nhà nghề có trang bị bảo đảm, có sức mạnh hơn ta. Quân địch muốn đánh nhanh thắng nhanh, ta đã bắt chúng phải đánh lâu dài để đưa chúng vào con đường thất bại. Địch muốn có một cuộc chiến tranh chính quy, có chiến tuyến rõ ràng, ta đã bắt chúng phải chấp nhận một cuộc chiến tranh du kích, không chiến tuyến, xen kẽ triệt để. Địch muốn bắt ta giao chiến công khai để tiêu diệt chủ lực ta, ta đã tránh quyết chiến trong điều kiện không có lợi, để bảo toàn được chủ lực, lại tích cực tiến công tiêu diệt địch trong những điều kiện có lợi cho ta. Địch muốn tập trung lực lượng để tiến công ta, ta đã bắt chúng. phải phân tán lực lượng để chống đỡ. Địch muốn bình định củng cố hậu phương của chúng, ta đã đưa chiến tranh vào địch hậu, biến hậu phương của chúng thành tiền tuyến và hậu phương của ta. Sau chiến dịch Việt Bắc, địch đã thấy hụt hơi, phải bỏ chủ trương tập trung lực lượng viễn chinh từ chính quốc sang mở các cuộc hành quân lớn tiến công vào trung tâm đầu não chỉ đạo chiến tranh và mở rộng địa bàn chiếm đóng để chuyển sang giữ các địa bàn đã chiếm, “tăng cường càn quét bình định, củng cố chính quyền bù nhìn tay sai hòng lấy ngay người và của của ta, dùng người Việt đánh người Việt và mở rộng dần địa bàn theo kiểu “vết dầu loang”. Trước tình hình như vậy, Đảng ta đã nhận định: “Ta bổ sung thực lực có hiệu quả, từ chỗ phòng ngự dần dần tiến lên chỗ cầm cự với địch”. Chủ trương chiến lược và các phương pháp tác chiến đã được xác định trong các hội nghị của Trung ương Đảng lúc đó là: Nhiệm vụ chiến lược “Thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, đẩy địch vào thế đóng giữ” và “Phát triển du kích sau lưng địch, hoạt động du kích một cách tích cực hơn trong vùng địch kiểm soát, ngay trong các thành phố tạm bị chiếm. Học đánh vận động bằng tiểu đoàn tập trung rồi tiến lên thực hiện đánh vận động bằng trung đoàn dã chiến. Đột kích quét cứ điểm nhỏ, chế vũ khí mới để đánh pháo đài (cứ điểm) nhỏ và tiến lên có thể đánh chiến thị trấn. Ra sức chặn đánh các đường giao thông tiếp tế của địch cả trên bộ, dưới thủy và trên không. Mở rộng vũ trang tuyên truyền và địch vận”. Đồng thời phải nắm vững “Mục đích tác chiến thiết thực của ta là, tiêu diệt lực lượng sắc bén của địch cho thật nhiều, giữ gìn và bồi bổ lực lượng của ta chứ không phải lấy việc cố giữ hoặc chiếm lại đất đai làm công việc chính, cũng không phải giữ gìn lực lượng là chạy dài”. Trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo đó, chúng ta đã phát triển chiến tranh du kích ở khắp nơi, đập tan các cuộc hành quân đánh phá bình định. Ta đã có khả năng diệt gọn từng trung đội đại đội địch, có trận đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn dù (như ở Giồng Định - Chợ Lớn). Các đại đội độc lập tiến lên đánh đồn, diệt những toán quân nhỏ lưu động (như đại đội độc lập của trung đoàn Bắc Bắc diệt đồn Cẩm Lý; đại đội 87 Quảng Trị diệt gọn 2 trung đội). Dân quân du kích xã đã có khả năng bao vây đồn giặc và tiêu diệt từng tốp giặc như ở Mao Điền (Bắc Ninh). Đồng thời ở nhiều nơi, nhân dân đã rào làng, đắp lũy, xây dựng củng cố làng chiến đấu và căn cứ du kích, hình thái chiến tranh xen kẽ cài răng lược giữa ta và địch xuất hiện ngày càng rõ rệt, như căn cứ du kích ở Lang Tài, Gia Bình (Bắc Ninh) hoặc ở vùng địch hậu Nam Định - Thái Bình và vùng U Minh - Đồng Tháp Mười Nam Bộ. Thực hiện chiến lược trên, sau 2 năm từ cuối năm 1947 đến đầu năm 1949, ta đã thành công, “biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, đó là thành công lớn nhất của ta trong năng 1948”. Từ đó Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ quân sự là: phải phát triển từ chủ động chiến dịch đi đến chủ động chiến lược từng bộ phận một cách mạnh bạo hơn với tư tưởng chỉ đạo tác chiến “lấy du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phù trợ. Nhưng cần mạnh bạo đưa vận động chiến đi tới và khi đủ điều kiện thì kịp thời nâng vận động chiến lên địa vị quan trong”. Trên cơ sở chiến tranh du kích phát triển mạnh, tư tưởng đánh tiêu diệt địch, bồi dưỡng lực lượng ta ngày càng được quán triệt trong lực lượng vũ trang cả ba thứ quân, làm cho “chiến lược vết dầu loang, lấy người Việt đánh người Việt của địch bị lung lay và ta ngày càng mạnh”. Trong thời kỳ năm 1948 đến 1949 và đầu năm 1950, những sự kiện quân sự chính của chiến tranh đã diễn ra như sau: — Bước vào năm 1948 quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng trên nhiều vùng lãnh thổ nước ta. Ở miền Nam chúng chiếm tất cả các thành phố, thị xã. Tại miền Trung ta chỉ còn 2 khu vực tự do là Thanh Nghệ Tĩnh ở Liên khu 4 và ba tỉnh ở Liên khu 5. Ở miền Bắc địch chiếm hầu hết vùng đồng bằng Bắc Bộ, Tây Bắc và Đông Bắc, ta còn trung du, Thanh Hóa và căn cứ địa Việt Bắc là vùng tự do. Về phía ta, thực tế lực lượng vũ trang cả ba thứ quân, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương có mặt trên hấu hết lãnh thổ đất nước Việt Nam ngay cả ở các thành phố lớn như Hà Nội, ven đô Sài Gòn và vùng ven. Nói chung dân quân du kích, tự vệ của ta thường xuyên có mặt trên các huyện, thị trấn, thị xã trên toàn quốc với số lượng khác nhau. Các trận đánh nổ ra liên tiếp trong hậu phương địch. Các đường như đường số 5 từ Hà Nội đi Hải Phòng - đường số 4 từ Cao Bằng lên Lạng Sơn đã trở thành “con đường không vui, con đường chết, con đường khủng khiếp” của quân Pháp. Hội tề thực sự đại bộ phận là hai mặt, bề ngoài là của địch thực tế là của ta - lòng dân nói chung là ủng hộ kháng chiến. Những làng chiến đấu, khu du kích mọc lên càng ngày càng nhiều, có nơi sát ngay ven đô thị. Trong 2 năm 1948 - 1949, số lần càn quét đánh vào làng chiến đấu chiếm 3/4 tổng số hàng nghìn cuộc hành quân càn quét của địch ở đồng bằng Bắc Bộ. Từ Bắc chí Nam những làng chiến đấu nổi tiếng xuất hiện như: Đình Bảng (Bắc Ninh), Chi Lăng (Lạng Sơn), Vật Lại (Sơn Tây), Cảnh Dương, Cư Nương (Quảng Bình), Khu Xi-tơ (Gia Lai), Tân Phú Trung (Củ Chi). Quân chủ lực của ta hoạt động càng ngày càng mạnh chủ động mở hàng loạt chiến dịch nhỏ trên các chiến trường Bắc Bộ ở Tây Bắc (chiến dịch Sông Thao) và Đông Bắc (chiến dịch Cao - Bắc - Lạng) tiêu diệt nhiều đồn bốt cấp đại đội như Phú Thông, Bần, trận Phố Ràng, Đại Bục và nhiều đoàn xe của địch trên đường giao thông như ở Bông Lau, Lũng Phầy trên đường số 4 ở La Ngà trên đường 20 (diệt 60 xe, viên quan năm Panuyt, tổng tham mưu Pháp quân viễn chinh chết trận, quan năm Đờ Xerinh bị bắt làm tù binh) ở Tầm Vu. Ở Bắc Bộ Thu Đông 1948, ta đã giành chủ động trên một hướng. Trong thời gian này cách mạng giải phóng ở Lào và Cam-pu-chia cũng đang được dấy lên với sự giúp đỡ của cách mạng Việt Nam, phong trào kháng chiến chống pháp ở Hạ Lào và Thượng Lào dưới sự chỉ đạo của Khăm Tày Xi Phăn Đon và Xi Thon Bùm Dan ở Hạ lào và Cay Xỏn Phôm Vi Hản ở Thượng Lào đều phát triển, xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh chiến tranh du kích chống thực dân Pháp, tổ chức chiến dịch Sông Mã, tập kích tiêu diệt đồn Xiềng Khọ, các quân khu 7, 8, 9, 5 ở Nam Bộ và Trung phần đưa cán bộ dân vận và các đơn vị vũ trang sang Cam-pu-chia giúp bạn hoạt động xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang, ở các tỉnh biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Đến cuối năm 1949 phong trào kháng chiến Cam-pu-chia đã phát triển đều khắp trong vùng Tây Nam, Đông Nam, Đông Bắc và Tây Bắc, mười bốn trong mười lăm tỉnh đã có vùng giải phóng và căn cứ du kích. Tháng 5 năm 1949, trong tình thế khó khăn, bị động, chính phủ Pháp đã phải cử đại tướng Rơve, tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp sang nghiên cứu tình hình và cuối cùng Rơve đi đến kết luận là “không thể có một giải pháp quân sự và cũng không còn hy vọng lật lại tình thế để đặt những điều kiện có lợi trong một cuộc điều đình”. Chiến tranh toàn dân được đẩy mạnh, lực lượng vũ trang nhân dân địa phương được mở rộng. Điều đó đã tạo điều kiện để bộ đội chủ lực có thể tập trung lại xây dựng thành những trung đoàn như trước đây và bắt đầu ra đời đại đoàn, nhằm tăng thêm khả năng đánh tiêu diệt lớn hơn, đẩy nhanh quá trình thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch. Cuối năm 1949 quân chủ lực của ta đã có hai đại đoàn 308, 304 và các trung đoàn bộ binh, các binh chủng thông tin, công binh, pháo binh được tổ chức thành các tiểu đoàn. Lúc này lực lượng chủ lực thuộc Bộ Tổng chỉ huy của ta đã đông hơn lực lượng cơ động của địch (toàn Đông Dương lực lượng cơ động của địch có 12 tiểu đoàn, tính đến tháng 8-1950) do phải phân tán chiếm đóng chống chiến tranh du kích. Điều đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đến sự phát triển của cục diện kháng chiến. Từ Thu Đông 1948 đến cuối 1949 bộ đội ta đã liên tục mở trên 30 trận lớn nhỏ có tính chất du kích trên các chiến trường. Mức tập trung trong mỗi trận đánh từ 3 đến 5 tiểu đoàn, nhưng các trận đánh quy mô tiểu đoàn vẫn là chủ yếu với phương châm tác chiến tích cực, chủ động, linh hoạt tiến công, lúc phân tán đánh du kích tiêu hao, tiêu diệt nhỏ địch, khi thì tập trung đánh vận động, phục kích, tập kích vây đồn diệt viện có cả những trận đánh đồn, như Phố Lu - Lào Cai, Đông Khê, v.v... Với tương quan thế lực như vậy, bước vào năm 1950, trước thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, nước ta đã nối liền với các nước xã hội chủ nghĩa. Đây là một sự kiện chiến lược có tính chất bước ngoặt phá vỡ tình trạng chiến đấu trong vòng vây của cuộc chiến tranh chống Pháp xâm lược. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (14-8-1949) đề ra nhiệm vụ tích cực cầm cự ra sức chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang tổng phản công. Giai đoạn phản công và tiến công đi đến giải phóng miền Bắc bắt đầu từ chiến dịch Biên Giới năm 1950 đến chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Đảng đề ra nhiệm vụ quân sự là một mặt chiến đấu để tiêu diệt sinh lực địch, một mặt gấp rút bồi dưỡng và xây dựng quân đội nhân dân” nhằm “thực hiện cho kỳ được nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch”, “quyết tâm giành ưu thế quân sự” trên chiến trường chính. Để mở thông biên giới, thực hiện trực tiếp nối liền nước ta với các nước xa hội chủ nghĩa, đầu tháng 6-1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên Giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở cửa biên giới, củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Kiên quyết tập trung lực lượng tiến công địch trên một hướng quyết định, ở thời điểm quyết định để chuyển từ thế cầm cự, giằng co giữa ta và địch sang thế tiến công, mà lúc đó địch còn tiếp tục tiến công chiến lược với ý định bình định ở hậu địch kết hợp với tiến công mở rộng ra vùng tự do. Nên ta gọi là phản công chiến lược, trên cơ sở tiến triển của thế lực của ta trong nước cộng với sự phá vỡ thế cô lập về chiến lược, kết hợp sức mạnh của toàn dân Việt Nam với sức mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa. Với sự chi viện quốc tế quân chủ lực của ta đã trưởng thành nhanh chóng vượt bậc cả về số lượng, chất lượng, tổ chức trang bị. Chiến tranh du kích tiếp tục được mở rộng, chiến tranh chính quy của các sư đoàn chủ lực bắt đầu xuất hiện và trưởng thành nhanh chóng, càng ngày càng giữ vị trí quan trọng. Hai hình thức chiến tranh song song, kết hợp và thúc đẩy lẫn nhau phát triển, đưa cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam sang một giai đoạn mới vế chất. Các chiến dịch lớn bắt đầu xuất hiện trên cơ sở mở rộng vận động chiến của các binh đoàn chủ lực. Mở đầu vận động chiến của chủ lực là chiến dịch Biên Giới và cũng là mở đầu việc kết hợp đánh tiêu hao rộng rãi, tiêu diệt nhỏ du kích với tiêu diệt chiến chính quy. Từ các chiến dịch với 3 - 5 tiểu đoàn đánh ở cấp tiểu đoàn là chính, quân chủ lực của ta tiến lên mở chiến dịch lớn với 1 đại đoàn, 2 trung đoàn chủ lực cùng với 3 tiểu đoàn địa phương và dân quân du kích của hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Ý nghĩa của việc tiêu diệt sinh lực địch trong chiến dịch này thể hiện rất cao trong cách đánh vận động kết hợp với đánh công kiên. “Đánh điểm diệt viện đã trở thành một phương thức tác chiến chiến dịch của nghệ thuật quân sự chúng ta trong điều kiện kẻ địch còn mạnh, với những khu vực phòng thủ vững chắc từ Cao Bằng đến Lạng Sơn - Tiên Yên - Móng Cái; còn ta thiếu những binh chủng và vũ khí nặng để công kiên”.[14] Hướng chủ yếu của chiến dịch là nhằm vào khâu quan trọng nhưng có nhiều sơ hở trên phòng tuyến. Sau khi cân nhắc và đối chiếu với nguyên tắc chỉ đạo tác chiến, ta quyết định đánh Đông Khê trước. Phân tích chủ trương này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Ta đánh vào Đông Khê là đánh vào nơi quân địch tương đối yếu, nhưng lại là vị trí rất quan trọng của địch, trên tuyến Cao Bằng - Lạng Sơn. Mất Đông Khê, địch buộc phải cho quân đi ứng cứu, ta có cơ hội diệt chúng trong vận động. Phối hợp với chiến dịch Cao - Bắc - Lạng, ta đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các mặt trận Tây Bắc, trung du, đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, Nam Bộ. Mặt trận Tây Bắc thực hiện nghi binh, địch tưởng ta sắp mở chiến dịch ở đây, vội vã cho quân nhảy dù xuống Phú Thọ. Theo đúng kế hoạch, ta đánh Đông Khê và tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm này. Tiếp đó, ý đồ tác chiến của ta là nhử địch vào tròng để “khép vòng lưới thép” thực hiện một trận vận động chiến lớn. Binh đoàn Lơ-pa-dơ từ Thái Khê đi ứng cứu định bất ngờ giành lại Đông Khê đã bị ta phục kích, bao vây tiến công liên tục, bị tiêu diệt gọn tại Khâu Luông và Cốc Xá. Binh đoàn Sác tông từ Cao Bằng rút xuống định hội quân với Lơ-pa-dơ cũng bị ta liên tục bám sát, chặn đánh, bao vây tiến công liên tục, bị tiêu diệt gọn tại điểm cao 477 và Nà Cao đưa chiến dịch tới toàn thắng. Trước những diễn biến nhanh chóng bất ngờ như vậy, quân Pháp hoang mang vội vã rút quân từ Thất Khê, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đình Lập, đến An Châu. Kết quả chiến dịch, ta đã tiêu diệt và bắt sống 8.000 tên địch (trong đó bắt sống 3.500 tên với toàn bộ Bộ chỉ huy của hai binh đoàn). Số đơn vị địch bị diệt gọn lên tới 8 tiểu đoàn, trong đó 5 tiểu đoàn là lực lượng ứng chiến, chiếm tỷ lệ khoảng 50% lực lượng cơ động chiến lược của địch ở Bắc Đông Dương. Đây là con số có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng về khả năng đánh tiêu diệt của quân đội ta, như lời kết luận của đồng chi Tổng bí thư Trường Chinh: “Chiến dịch Cao Bằng - Lạng Sơn đã làm cho ta thấy rõ những khả năng rất lớn của quân và dân ta”, quân đội ta đã tiến bộ, mới ngày nào còn là những đội du kích nhỏ” mà nay đã “tập trung quân lực hàng vạn, đánh theo lối chính quy”. Chiến dịch đã thực hiện đúng mục tiêu mà Đảng đã đề ra là “tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch” làm thay đổi thế trận. Hơn nữa, từ kết quả đó, kẻ địch đã buộc phải bỏ vùng chiến lược Đông Bắc hết sức quan trọng, “ta đã phá tan kế hoạch bao vây chia cắt Bắc Bộ, bao vây căn cứ địa Việt Bắc và phong tỏa biên giới Việt - Trung, làm thất bại kế hoạch lập nước Nùng, nước Mường, nước Thái”. Ta lại thực hiện được mục đích mở rộng và củng cố vững chắc hơn vùng giải phóng, làm phá sản những âm mưu chiến lược “vết dầu loang”, làm thất bại kế hoạch Rơ ve định mở các chiến dịch lớn, tiêu diệt sinh lực ta. Cũng từ đó lực lượng ta được bồi bổ thêm lên làm cho tương quan thế lực giữa ta và địch đã có nhiều thay đổi. Địch buộc phải co lại trong thế phòng ngự bị động. Ta đã bước vào thời kỳ nắm được chủ động về chiến lược ở chiến trường chính là Bắc Bộ. Bước vào những năm 50, được Mỹ tiếp sức, thực dân Pháp chủ trương kiên quyết giữ Đông Dương, tiếp tục thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, “dùng người Việt đánh người Việt”; một cách triệt để hơn, tập trung lực lượng phòng ngự và bình định Bắc Bộ, địa bàn mà chúng coi là “cái then cửa của vùng Đông Nam Á”. Đồng thời chúng ra sức tăng cường về mọi mặt chuẩn bị điều kiện để phản công tiêu diệt chủ lực ta, cố giành quyền chủ động đã mất. Thực hiện chiến lược đó, cuối năm 1950, thực dân Pháp đã cử viên đại tướng Đờ Tát-xi nhi sang Đông Dương. Kế hoạch của Đờ Tát-xi-nhi với ý đồ chiến lược là gấp rút xây dựng một lực lượng cơ động chiến lược mạnh và phát triển ngụy quân lập “vành đai trắng” thực hiện bình định vùng tạm bị chiếm và vùng du kích, bao vây phá hoại vùng tự do của ta. Ý đồ này là nhằm bình định gấp rút và phản công quyết liệt, là sự nỗ lực rất lớn của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ hòng đè bẹp lực lượng ta để giải quyết chiến tranh. Vì vậy chiến lược của Trung ương với mục tiêu trước mắt là phải phá kế hoạch củng cố lực lượng và bình định đồng bằng của địch, giữ vững quyền chủ động chiến lược của ta trên chiến trường Bắc Bộ với phương châm là “đề cao vận động chiến của bộ đội chủ lực và phát triển du kích chiến”. “Riêng khu 3, phải đặc biệt chú trọng du kích chiến tranh đều khắp” và thực hiện chủ trương củng cố và tăng cường bộ đội chủ lực, đồng thời củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích”. Ta đã xây dựng thêm ba đại đoàn bộ binh: 312, 316, 320 và đại đoàn công pháo. Sau khi nhanh chóng chấn chỉnh bộ đội, ta tranh thủ mở liên tiếp ba chiến dịch đánh vào phòng tuyến của địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Chiến dịch Trần Hưng Đạo (chiến dịch Trung du) ta dùng hai đại đoàn 308 và 312 nhằm đánh vào phòng tuyến của địch từ Vĩnh Phú đến Hà Bắc. Bộ đội ta với những chiến thuật “bôn tập” diệt đồn, đánh điểm diệt viện, đánh gần, đã tiêu diệt được một số cứ điểm có công sự vững chắc của địch và đánh bại cuộc hành quân ứng chiến của binh đoàn cơ động số 3 của địch. Nhưng địch đã lợi dụng địa hình trống trải, cho máy bay ném bom và pháo binh bắn phá dữ dội vào quân ta. Mặc dù địch có lúng túng, nhưng ta cũng không còn lực lượng dự bị để phát triển chiến dịch. Chiến dịch Hoàng Hoa Thám ta dùng 7 trung đoàn đánh vào phòng tuyến của địch trên đường số 18, diệt được 4 cứ điểm, định nhử quân địch tiếp viện, nhưng không thành công. Chiến dịch Quang Trung mở ra nhằm vào Hà Nam Ninh. Đây là nơi yếu nhất của địch ở đồng bằng Bắc Bộ. Đại đoàn 308 lần đầu tiên đánh vào một tỉnh lỵ, cùng với một số đơn vị của đại đoàn 304 đánh công kiên vào một số cứ điểm của địch ở Ninh Binh. Sau khi diệt được địch trong thị xã, địch điều quân ứng chiến lớn đối phó với sự chi viện của không quân đã giành lại được thị xã. Đây là ba chiến dịch quy mô đầu tiên đánh vào phòng tuyến kiên cố của địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Mặc dù ta đã tiêu diệt được hơn 1 vạn tên địch (trong đó gần một nửa là quân cơ động), nhưng đến khi kẻ địch tăng cường máy bay, đại bác, với hỏa lực mạnh, công sự vững chắc, sức cơ động cao thì lực lượng ta cũng bị tiêu hao, buộc phải lui quân. Chúng ta mắc một số khuyết điểm, như lời nhắc nhở của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Khuyết điểm là chủ lực, bộ đội địa phương và du kích đều muốn đánh to, ăn to, thiếu nghiên cứu hiểu rõ tình hình khả năng ta và địch một cách tỉ mỉ để định mục đích và cách đánh thích hợp”. Vì vậy, trên chiến trường chính tuy vẫn giữ được quyền chủ động, nhưng chúng ta chưa giành được ưu thế quân sự, chưa phá được phòng tuyến địch, chưa thay đổi được tình thế ở đồng bằng Bắc Bộ. Đây cũng là một bài học về chọn hướng tiến công chiến lược. Đồng bằng Bắc Bộ tuy có một vị trí hết sức quan trọng đối với cả ta và địch, ngay từ đầu đến cuối cuộc kháng chiến vẫn là chiến trường chính, nhưng nếu chọn là chiến trường đánh lớn thì khó có thể đạt được mục đích tiêu diệt chiến. Do so sánh trang bị của ta và địch lúc đó, khó có thể đánh tiêu diệt lớn địch ở khu vực trống trải và ở sát ngay trung tâm quân sự, chính trị, kinh tế, nơi địch tập trung và cơ động được thuận lợi, phát huy được sức mạnh của không quân, pháo binh, xe tăng, thiết giáp và cơ giới. Sau các chiến dịch dó, địch tăng cường “chiến tranh mọi mặt ở vùng tạm bị chiếm và vùng du kích”, làm cho chiến tranh du kích của ta gặp nhiều khó khăn mới. Chúng ra sức tập trung lực lượng củng cố phòng tuyến quyết giữ đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Sau một năm ra sức củng cố thế phòng ngự, tiến hành bình định, tăng cường lực lượng, địch cho rằng, chúng có thể phản công giành lại quyền chủ động chiến lược và quyết định đưa 20 tiểu đoàn gồm phần lớn lực lượng cơ động chiến lược đánh chiếm Hòa Bình, nhằm cắt đứt đường liên lạc tiếp tế, phá sự chuẩn bị tiến công của ta, thu hút chủ lực ta để tiêu diệt. Ta quyết định mở hai chiến dịch Hòa Bình, dùng ba đại đoàn 308, 312, 304 vây hãm và tiêu diệt quân cơ động của địch ở mặt trận Hòa Bình, hai đại đoàn 320, 316 phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương phá bình định, phát triển chiến tranh du kích vùng sau lưng địch ở đồng bằng Bắc Bộ. Khi ở mặt trận Hòa Bình ta đã bao vây, kìm chân và tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh lực tinh nhuệ và phương tiện chiến tranh của địch thì cuộc tiến công của bộ đội chủ lực tiến sâu vào vùng tạm bị chiến đã tiêu diệt hàng loạt vị trí then chốt của địch, làm rung chuyển hệ thống chiếm đóng của chúng. Và ở Hòa Bình sau khi bị thiệt hại nặng, đến tháng 2-1952 quân địch phải rút chạy. Kết qủa của chiến dịch là, ta đã tiêu diệt 22.000 tên địch. Riêng ở mặt trận sau lưng địch ta diệt 15.000 tên, diệt và bức hàng hơn 1.000 đồn bốt. Vùng du kích của ta được mở rộng và nối liền với nhau thành thế liên hoàn với 2 triệu dân được giải phóng. Đến đây, phần lớn kết qủa bình định đồng bằng Bắc Bộ trong cả năm 1951 của địch bị phá vỡ. Âm mưu phản công tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, giành lại quyền chủ động chiến lược của địch bị thất bại. Tuy vậy, đến giữa năm 1952, thực dân Pháp vẫn cố tập trung binh lực, tiến hành nhiều cuộc càn quét lớn nhỏ nhằm bình định lại đồng bằng Bắc Bộ, cứu vãn tình thế. Nhưng giặc Pháp vẫn không sao gượng lại được như trước khi chúng đánh ra Hòa Bình. Quyền chủ động về chiến lược đã chuyển dần về tay ta. Mùa thu năm 1952 Đảng quyết định chuyển hướng tiến công chủ yếu của bộ đội chủ lực đánh vào Tây Bắc, nhằm mục đích: “Tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng đất đai”. Các đại đoàn 308, 312, 316, trung đoàn 148 và đại đoàn 351 đánh địch ở Tây Bắc. Đại đoàn 320 và đại đoàn 304 đánh ở vùng sau lưng địch (Liên khu 3). Đợt 1 của chiến dịch, ta tiến công phân khu Nghĩa Lộ và tiểu khu Phù Yên. Sau 13 ngày chiến đấu, ta đã quét sạch địch ở khu vực giữa sông Thao và sông Đà từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai. Địch đối phó bằng việc điều 3 GM (binh đoàn cơ động) mở cuộc hành binh đánh lên Phú Thọ, Đoan Hùng, nhằm phá hoại hậu phương chiến dịch của ta, thu hút chủ lực ta về đỡ đòn cho Tây Bắc nhưng chúng đã bị hai trung đoàn 246, 176 cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích đánh ngăn chặn, tiêu hao nhiều sinh lực và cuối cùng bị trung đoàn 36 của sư 308 được Bộ tổng tư lệnh điều từ Tây Bắc hành quân cấp tốc về Phú Thọ đánh tiêu diệt gần trọn một binh đoàn cơ động ở Chân Mộng, Trạm Thản - Phú Lộc. Cuộc hành quân của địch lên Phú Thọ hoàn toàn thất bại, địch bỏ chạy khỏi Phú Thọ. Đợt 2 chiến dịch, ta vượt sông Đà đánh vào khu phòng thủ của địch trên cao nguyên Mộc Châu. Bộ đội ta đã tiêu diệt gọn một loạt cứ điểm kiên cố, mỗi cứ điểm trên dưới 1 tiểu đoàn địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn. Để tránh khỏi bị tiêu diệt, địch vội vã co cụm về Nà Sản, xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh đối phó với ta. Thấy không chắc thắng, ta chủ động kết thúc chiến dịch ngày 10 12-1952. Chiến dịch Tây Bắc đã thu được thắng lợi to lớn. Địch bị tiêu diệt 13.800 tên ở cả hai mặt trận Tây Bắc và Đồng Bằng. Nhiều tiểu đoàn, đại dội thuộc các binh đoàn cơ động của địch bị diệt gọn. Hệ thống ngụy quân ngụy quyền của địch ở Tây Bắc bị tan rã. Ta đã giải phóng được tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), một số huyện thuộc các tỉnh Lai Châu, Yên Bái. Căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố vững chắc. Chiến dịch này chứng tỏ bộ đội ta đã tiến bộ rõ rệt về trình độ đánh công kiên và đánh vận dộng, khắc phục được khó khăn về tiếp tế và có khả năng đánh lớn ở một chiến trường cách xa hậu phương. Sau chiến thắng Tây Bắc, ta cùng với bạn Lào mở chiến dịch Thượng Lào, tiến công Sầm Nưa, đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng phần lớn đất đai Thượng Lào, xây dựng và mở rộng căn cứ du kích, tạo điều kiện đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân Lào. Kế hoạch Đờ Tat-xi-nhi thất bại hoàn toàn. Thực dân Pháp càng lún sâu vào thế phòng ngự bị động. Chúng ta đã tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng chiến lược, đánh bại âm mưu bình định và phản công của địch, giữ vững và phát huy quyền chủ động chiến lược của ta, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới, chuẩn bị cho thắng lợi Đông Xuân 1953-1954. Trong giai đoạn hai cuộc chiến tranh kéo dài gồm 3 năm từ sau Thu Đông 1947 đến cuối năm 1950 mà ta gọi là giai đoạn cầm cự, với mục tiêu chiến lược được xác định là, tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, ta đã đánh bại chiến lược bình định vùng tạm chiếm, lấy người Việt đánh người Việt và mở rộng địa bàn theo kiểu vết dầu loang của địch và ta đã giành được ưu thế về chiến lược, quyền chủ động chiến lược đã thuộc về ta trên toàn chiến trường. Phương thức chiến tranh du kích dã làm thất bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh bằng quân viễn chinh Pháp; phương thức kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy đã đánh bại chiến lược bình định và rnở rộng theo “vết dầu loang”, lấy người và của của Việt Nam đánh người Việt của thực dân Pháp. Tăng cường du kích chiến tranh kết hợp với phát triển chiến tranh chính quy của các binh đoàn chủ lực, mở các chiến dịch chính quy cả ở tiền tuyến và hậu phương đã đem lại thắng lợi chiến lược, đưa cuộc chiến tranh trường kỳ sang giai đoạn quyết định, giành thắng lợi cuối cùng. Giai đoạn tổng phản công bắt đầu với chiến cục Đông Xuân 1953-1954. 4. Đánh bại kế hoạch Na-va bằng cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc chiến tranh. Trước những thất bại liên tiếp ở Đông Dương, thực dân Pháp chủ trương tranh thủ thêm viện trợ của Mỹ, tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hòng tìm ra một “lối thoát vinh dự”. Kế hoạch Na-va chính là sản phẩm của chiến lược đó. Nó được đẻ ra từ những thất bại trước đó. Nó cũng là nỗ lực cao nhất và cuối cùng của thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Na-va chủ trương: Bước 1: Thu Đông 1953 và Xuân 1954 giữ thế phòng ngự chiến lược, tránh quyết chiến ở miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam, nhằm chiếm đóng tất cả các vùng tự do còn lại ở miền Nam, nhất là vùng tự do Liên khu 5 và Hậu Giang - Nam Bộ. Bước 2: Vào Đông Xuân 1954 - 1955 với khối chủ lực cơ động xây dựng xong, tập trung toàn bộ lực lượng quyết chiến với chủ lực ta trên chiến trường miền Bắc, giành thắng lợi quyết định. Để thực hiện kế hoạch, thực dân Pháp đã tổ chức thêm 107 tiểu đoàn ngụy binh, tăng khối chủ lực cơ động lên đến 100 tiểu đoàn bộ binh và 10 tiểu đoàn dù. Trong sáu tháng cuối năm 1953, địch đã mở hàng chục trận càn quét tại các cùng sau lưng chúng ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Nam Bộ, ráo riết bình định, bắt lính. Chúng tập trung một nửa lực lượng cơ động chiến lược và một lực lượng chiếm đóng rất lớn (tất cả 106 tiểu đoàn) hoạt động ở đồng bằng Bắc Bộ trên chiến trường chính. Thấy rõ âm mưu chiến lược của địch, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá tình hình một cách khách quan, khoa học, đề ra đường lối chỉ đạo cuộc kháng chiến và quyết tâm đánh bại kế hoạch chiến lược Na-va. Về chiến lược quân sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm: “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do”. Bộ đội chủ lực ở chiến trường Bắc Bộ thì phải dùng vận động chiến linh hoạt để tiêu diệt từng mảng sinh lực địch, làm cho địch yếu đi, phối hợp với công kiên chiếm từng bộ phận, để giành lấy những cứ điểm và thị trấn nhỏ, ở đó địch sơ hở, yếu ớt. Làm như vậy để đạt mục đích đánh chắc thắng, mở rộng vùng tự do. Đồng thời có thể dùng công kiên chiến hút lực lượng của địch đến mà đánh, phân tán lực lượng địch, làm rối loạn kế hoạch của địch tạo điều kiện cho vận động chiến”. “Chiến trường sau lưng địch phải mở rộng du kích chiến để tiêu diệt và tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch, để chống địch càn quét bảo vệ tính mạng và tài sản cho dân; để quấy rối, phá hoại, kiềm chế địch, tuyên truyền giáo dục quần chúng những vùng đó, thu hẹp nguồn ngụy binh của địch, mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích của ta, thành lập và củng cố những căn cứ kháng chiến sau lưng địch”. Thực hiện chủ trương đó, Bộ Chính trị đã phê chuẩn phương án: dùng chủ lực đánh vào những hướng địch sơ hở là Tây Bắc Việt Nam và Lào, là nơi địch yếu nhưng không thể bỏ được, buộc địch phải phân tán đối phó. Trong khi đó, ta đẩy mạnh chiến tranh du kích trên khắp các chiến trường toàn quốc, phối hợp chiến đấu với bạn Lào, tranh thủ tiêu diệt địch. Đó là cách bảo vệ vùng tự do chủ động và tích cực nhất, khi có đủ điều kiện và có thời cơ thì tiến tới giải phóng các vùng đất đai, dân cư, địa bàn có ý nghĩa chiến lược. Một điều hết sức quan trọng trong lúc này là, ta đã ở vào thế chủ động chiến lược. Sự kết hợp với du kích chiến và vận động chiến trong những năm 1950 đến 1952 ở trong thế tranh chấp giằng co quyết liệt giữa ta và địch đã tiêu diệt được một bộ phận quan trọng lực lượng quân sự địch, bồi dưỡng và phát triển lực lượng ta; mở rộng được nhiều vùng căn cứ, ngăn chặn, đánh bại âm mưu bình định của địch, làm cho cục diện chiến trường sau lưng địch thay đổi có lợi cho ta; buộc chúng phải thường xuyên đối phó bị động, tạo điều kiện cho ta củng cố vùng tự do, xây dựng bộ đội chủ lực; làm thay đổi tương quan thế lực giữa ta và địch. Ta đã có thể mở các chiến dịch tiến công ngày càng lớn trên mặt trận chính diện. Đúng như Hồ Chủ Tịch đã nhận định: “Những sự thật đó chứng tỏ thế địch ngày càng yếu, thế ta ngày càng mạnh”. Quân và tân ta ra sức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội cũng được tăng cường. Qua chỉnh quân, sức mạnh về tưtưởng, tổ chức và khả năng nâng cao trình độ chiến thuật, kỹ thuật của quân đội ta được tăng lên gấp bội. Thế trận chiến tranh nhân dân của ta ngày càng vững chắc, chúng ta có khả năng chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp trên phạm vi cả nước và trên toàn Đông Dương. Trước tình hình như vậy, qua kinh nghiệm các chiến dịch lớn đã diễn ra, Bộ Chính trị vẫn đề ra các nguyên tắc về chỉ đạo chiến lược và chỉ đạo tác chiến hết sức thận trọng, vững chắc cho chủ lực là: “Tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, đánh chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt, chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh”. Giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán trên mặt trận sau lưng địch, chúng ta đã đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố và phát triển các căn cứ du kích, khu du kích, và sử dụng một bộ phận chủ lực tiến sâu vào vùng sau lưng địch, phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch để đẩy mạnh mọi mặt đấu tranh, phá tan kế hoạch bình định của địch, mở rộng vùng tự do. Hàng loạt đồn bốt địch bị tiêu diệt, các căn cứ du kích của ta được mở rộng ở khắp nơi, ngay cả ở đồng bằng Bậc Bộ. Vị trí của du kích chiến lúc này đã hỗ trợ đắc lực cho các cuộc tiến công vận động chiến của chủ lực trên mặt trận chính diện. Chính nhờ đó mà ta đã thực hiện phân tán địch, khoét sâu mâu thuẫn của một đạo quân đi xâm lược vừa phải dàn quân ra chiếm đất để bình định, kìm kẹp nhân dân, bóc lột sức người, sức của, vừa muốn tập trung lực lượng để đối phó với chủ lực của ta ngày càng lớn mạnh. Trong khi đó chủ lực của ta thực hiện tác chiến vận động, căng địch ra trên khắp chiến trường Đông Dương theo một quy định thống nhất, buộc địch phải bị động đối phó, đồng thời lại biết tập trung lực lượng, giành thắng lợi quyết định ở khu vực quyết định. Phương châm đó đã được thể hiện cụ thể bằng nhịp điệu tiến công vận động thích hợp, đánh lạc hướng phán đoán của địch, điều động lực lượng cơ động của địch ra Thượng Lào, Luông - Pra - băng, Sê-nô, rồi Tây Nguyên; tạo điều kiện cho ta tập trung lực lượng ở Điện Biên Phủ. Kết hợp với chủ lực, lực lượng vũ trang nhân dân địa phương đã kiên quyết đánh trả mãnh liệt các cuộc càn quét của địch, đánh mạnh vào sau lưng chúng, trói chân những lực lượng cơ động của địch tại nơi chúng điều đến để tiêu hao và không cho chúng ứng cứu lẫn nhau. Khi thế trận của chúng ta đã phát triển đến độ chín muồi cũng là lúc trong tay Na-va chỉ còn vài tiểu đoàn cơ động trên tổng số 84 tiểu đoàn cơ động toàn Đông Dương. Riêng ở đồng bằng Bắc Bộ chúng có 44 tiểu đoàn, thì tại Điện Biên Phủ đã có 21 tiểu đoàn, số còn lại Na-va đã phải lần lượt ném ra khắp các chiến trường Đông Dương và bị trói chân ở đó. Trong khi đó, bộ đội chủ lực của ta đã tập trung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ với lực lượng trên 27 tiểu đoàn. Quyết tâm đánh Điện Biên Phủ là một quyết tâm táo bạo và sáng suốt, khoa học, đánh ngay vào chỗ địch tập trung quân thiện chiến nhất, nhưng bị cô lập ở rừng núi, xa các căn cứ, trong thế bị bao vây, bất lợi về địa hình. Mặc dù ta còn có nhiều khó khăn về chiến thuật, về cung cấp vật chất, về lãnh đạo tư tưởng bộ đội, song những khó khăn đó đều có thể khắc phục được. Quân đội ta đã làm cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trở thành một “địa ngục trần gian” giam hãm 17 ngàn quân viễn chinh Pháp. Sau 55 ngày đêm chiến đấu quyết liệt, toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã bị ta tiêu diệt. Chúng ta đã toàn thắng trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Kế hoạch Na-va bị phá sản hoàn toàn. Trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 ta đã tiêu diệt 112.000 tên địch, thu 19.000 khẩu súng các loại, có 81 pháo, bắn rơi và phá hủy 177 máy bay, giải phóng nhiều vùng chiến lược ở đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ. Riêng ở mặt trận Điện Biên Phủ, ta đã tiêu diệt và bắt làm tù binh 16.000 tên địch của 17 tiểu đoàn bộ binh và quân dù của 3 binh đoàn chủ lực; 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh tổng cộng 21 tiểu đoàn. Đây là một chiến dịch tiêu diệt chiến có ý nghĩa chiến lược rất to lớn. Chiến dịch Điện Biên Phủ là một chiến dịch tiến công trận địa hợp đồng binh chủng, đã tiêu diệt cả một tập đoàn cứ điểm mạnh, phức tạp, kiên cố, do lực lượng tinh nhuệ nhất của địch đóng giữ. Nó đã đẩy quân Pháp tới trước nguy cơ là, các hệ thống phòng ngự khác yếu hơn Điện Biên Phủ nhiều sẽ tiếp tục sụp đổ. Với những trận tiêu diệt chiến ở các khu vực khác nhau, tuy rất xa các địa bàn, khu vực có ý nghĩa chính trị, kinh tế lớn như, Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Đà Nẵng v.v..., nhưng nó đã làm cho địch mất hết tinh thần khi tiếp tục chiến tranh hòng giành thắng lợi trong cuộc đọ sức cuối cùng với ta. Cũng như trong chiến dịch Biên Giới năm 1950, do ta tiêu diệt một lượng lớn tinh nhuệ của địch ở trên dọc đường số 4, địch đã phải bỏ chạy không những khỏi các cứ điểm, đồn bốt, căn cứ vững chắc ở biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn..., mà còn phải bỏ chạy khỏi nhiều nơi khác, như Lao Cai, An Châu, ngay cả ở những chỗ chưa bị uy hiếp lớn. Chiến thắng Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là trận tiêu diệt Điện Biên Phủ, đã buộc địch bỏ chạy ngay cả ở đồng bằng Bắc Bộ và rung động cả chính phủ Pháp ở Pa-ri. Chiến dịch Điện Biên Phủ đã trở thành chiến dịch tiêu diệt chiến chiến lược có ý nghĩa hết sức lớn lao. Bằng một chiến dịch tiêu diệt chiến chiến lược, chúng ta đã đánh qụy lực lượng chủ yếu - con chủ bài cuối cùng của địch. Nó đã giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trải qua 9 năm trường kỳ kháng chiến, đi từ chiến tranh du kích, tiêu thổ kháng chiến để phá chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của quân địch mạnh hơn, đến kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, lấy phát động toàn dân, chiến đấu toàn diện cả quân sự, chình trị, kinh tế, kết hợp đánh vận động chiến của bộ đội chủ lực với mở rộng chiến tranh du kích ở địch hậu, quân và dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, phá tan hết chiến lược này đến chiến lược khác của địch; đi từ tiêu diệt nhỏ đến tiêu diệt địch trong chiến dịch với quy mô lớn dần và kết thúc chiến tranh với chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch tiến công chiến lược Điện Biên Phủ. Mấy bài học lớn rút ra trong chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược: Thực tiễn là chân lý. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sau 9 năm trường kỳ đã chứng minh một cách hùng hồn đường lối chủ trương của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là hết sức khoa học và sáng tạo. Nhiệm vụ của chúng ta là, phải viết những trang lịch sử hào hùng của dân tộc một cách chính xác và rút ra những bài học điển hình của cuộc chiến tranh chống thực dân trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cho dân tộc ta và một phần cả cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Các dân tộc thuộc địa luôn luôn nhắc tới Điện Biên Phủ, Hồ Chí Minh chính là vì thắng lợi của chiến tranh Việt Nam, chống thực dân Pháp đã có một vị trí quan trọng, đóng góp vào việc làm tan vỡ và thủ tiêu chế độ thuộc địa thực dân cũ, cùng với các cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc bị thực dân đế quốc phương Tây đô hộ trong mấy thế kỷ qua. Chúng ta có thể khẳng định, một quy luật của chiến tranh nói riêng và của cách mạng nói chung là “không có đường lối chiến lược đúng thì không thể có thắng lợi”. Việc rút ra những bài học đúng chỉ có thể thực hiện được nếu biết khái quát hiện tượng khách quan, kinh nghiệm thực tiễn thành lý luận một cách khoa học. Không thể có thắng lợi nếu giáo điều, sao chép cái của người khác, không thể thành công nếu không nắm vững quy luật của chiến tranh cách mạng và không có sáng tạo. Phương thức tiến hành chiến tranh: — Đúng như Ăng-ghen đã nêu: “Một dân tộc muốn giành được độc lập cho mình thì không được tự giới hạn trong những phương thức tiến hành chiến tranh thông thường. Khởi nghĩa của quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp mọi nơi, đó là phương thức duy nhất, nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể thắng một dân tộc lớn, mà đội quân ít mạnh hơn có thể đương đầu được với đội quân mạnh hơn và có tổ chức tốt hơn”. Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc kháng chiến toàn dân, đã đi từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, và đã kết hợp hai hình thức chiến tranh trong quá trình phát triển và kết thúc chiến tranh thắng lợi. Phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân của Việt Nam được khái quát trong đường lối quân sự của Đảng, từ cuộc kháng chiến chống Pháp, qua chiến tranh chống Mỹ, giải phóng Miền Nam là, dựa vào sức mạnh toàn dân, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh chính quy. Chiến tranh nhân dân địa phương có nhiệm vụ, sát thương rộng rãi, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, phá hủy các phương tiện chiến tranh, ngăn chặn và làm chậm bước tiến của địch, phân tán lực lượng, làm rối loạn thế trận của chúng, hãm địch vào thế sa lầy, nguy khốn, bị bao vây, chia cắt tạo điều kiện thuận lợi cho các binh đoàn chủ lực và cùng các binh đoàn chủ lực thực hành phản công, tiến công, tiêu diệt lớn quân địch. Sức mạnh của chiến tranh nhân dân địa phương là sức mạnh của các lực lượng tại chỗ, chiến đấu bền bỉ dẻo dai, trụ bám, liên tục tiến công, đánh địch cả phía trước, phía sau, hai bên sườn, vận dụng nhiều phương pháp chiến đấu linh hoạt, của chiến tranh du kích. Chiến tranh chính quy với đoàn chủ lực giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt những lực lượng lớn của quân xâm lược và cùng chiến tranh nhân dân địa phương kết thúc chiến tranh thắng lợi. Nguyên tắc chủ yếu của nghệ thuật quân sự: Tích cực tiến công tiêu diệt địch. Nguyên tắc chủ yếu của nghệ thuật quân sự của các cuộc chiến tranh là “tiêu diệt địch bảo vệ mình”. Chỉ có tiêu diệt địch, tiêu diệt được lực lượng vũ trang địch mới bảo vệ được mình, mới giải phóng được đất đai, mới giành và giữ được quyền làm chủ của nhân dân, mới phát động được toàn dân chiến đấu càng ngày càng mạnh, mới thay đổi được tương quan thế - lực, mới giành được quyền chủ động, chuyển hóa được thế chiến lược, buộc địch là kẻ đi xâm lược bao giờ lúc đầu cũng mạnh hơn ta phải chuyển từ chủ động tiến công sang bị động phòng ngự về chiến lược. Và ta, trên cơ sở thay đổi tương quan lực lượng mới có thể chuyển được từ thế bị động chống đỡ sang chủ động phản công, tiến công về chiến lược. Muốn tiêu diệt địch phải tiến công, cho nên “tư tưởng chiến lược tiến công” là bao trùm trong các hoạt động tác chiến. Bất kỳ trong thời kỳ nào của chiến tranh giải phóng dù có phải phòng ngự về chiến lược, thậm chí rút lui, tiêu thổ kháng chiến trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh thì cũng phải dùng hành động tích cực, phải tiến công trong chiến đấu, chiến dịch chứ không thể bị động phòng ngự. Đúng như Ăng-ghen đã viết: “Thường người ta cho rằng tiến công sẽ đem lại thắng lợi lớn, vì vậy một quân đội giữ thế thủ, tức là tiến hành một cuộc chiến tranh có tính chất phòng ngự nghiêm ngặt thì thường hay mở những chiến dịch tiến công, thậm chí trong các chiến dịch phòng ngự cũng tiến hành những hoạt động tiến công”. Và với những câu khái quát hết sức dễ hiểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lời kêu gọi nhân dịp bảy năm toàn quốc kháng chiến đã viết: “Tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt” và Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo tại hội nghị lần thứ ba của Trung ương Đảng tháng 1-1954 như sau: “Bộ đội chủ lực ở chiến trường Bắc Bộ thì phải dùng vận động chiến linh hoạt, để tiêu diệt từng mảng sinh lực địch, làm cho địch yếu đi, phối hợp với công kiên chiếm từng bộ phận, để tranh lấy những cứ điểm và thị trấn nhỏ, ở đó địch sơ hở, yếu ớt...” Tư tưởng đánh tiêu diệt đã ăn sâu vào đầu óc của mỗi người chỉ huy và lãnh đạo chiến đấu, chiến dịch và chiến tranh của Việt Nam, không một người Việt Nam nào đã biết sử Việt Nam mà có thể quên được các trận tiêu diệt chiến như Bạch Đằng, Chi Lăng, Như Nguyệt, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, Tốt Động, Trúc Động, Đông Đô, Chi Lăng, Xương Giang, Ngọc Hồi, Thăng Long, Điện Biên Phủ, các trận quyết chiến lịch sử giành và giữ độc lập của Tổ quốc. Bài học trong kháng chiến chống Pháp, với những trận tiêu diệt lớn ở các chiến trường rừng núi, như Biên Giới, Điện Biên Phủ, rất xa các trung tâm chính trị, kinh tế, quân sự nhưng đã buộc địch phải chịu thua và bỏ cả một địa bàn chiến lược, thậm chí cả 1/2 nước Việt Nam. Muốn đánh tiêu diệt một kẻ thù mạnh hơn ta, phải quán triệt và vận dụng một số nguyên tắc truyền thống của Việt Nam đã được ông cha ta khái quát như: Trần Hưng Đạo đã nêu: “Địch cậy trường trận, ta cậy đoản binh. Dĩ đoản, chế trường là lẽ thường của binh pháp”. Nguyễn Trãi đã viết: “Lấy yếu đánh mạnh phải đánh bất ngờ, lấy ít địch nhiều thường hay mai phục” và “người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi, được thời, có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời, không thế thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy, sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay mà thôi”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thành mấy câu ngắn gọn: