🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nâng Cao Năng Lực Lãnh Đạo Của Cấp Ủy, Quản Lý Của Chính Quyền Cấp Xã Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới Hiện Nay
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG
Phó Chủ tịch Hội đồng
Q. Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
PHẠM THỊ THINH
NGUYỄN ĐỨC TÀI
TRẦN THANH LÂM
NGUYỄN HOÀI ANH
2
ĐỒNG CHỦ BIÊN
TS. Lương Trọng Thành, TS. Lê Văn Phong PGS.TS. Bùi Văn Dũng
TẬP THỂ TÁC GIẢ
TS. Lương Trọng Thành
TS. Thịnh Văn Khoa
ThS. Trần Thị Ngọc Diệp
TS. Lê Văn Phong
PGS.TS. Bùi Văn Dũng
ThS. Nguyễn Ngọc Thắng
ThS. Trịnh Thị Phượng
ThS. Hoàng Ngọc Bình
ThS. Hoàng Thị Thanh
ThS. Bùi Thị Hồng
CN. Phạm Thị Tuyết
4
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Qua 10 năm triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 đã đạt và vượt các mục tiêu đề ra, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị các cấp và toàn xã hội, đặc biệt là sự đồng lòng, hưởng ứng của người dân. Đây là chương trình duy nhất đã hình thành được hệ thống bộ máy chỉ đạo, điều hành, quản lý, triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương và hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, vai trò chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền cấp xã được nâng cao, phát huy được hiệu quả, bám sát hơn với thực tiễn, hình thành nhiều mô hình tiêu biểu và có sức lan tỏa lớn. Là cấp cơ sở sát dân nhất, cấp ủy, chính quyền cấp xã không chỉ tiếp thu, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của các cơ quan cấp trên thành hoạt động thực tiễn ở địa phương, mà còn tiếp nhận những phản hồi của người dân về các chủ trương, chính sách đó, để có thể đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
5
Nhằm giúp bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo về vấn đề nêu trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới hiện nay của tập thể tác giả do TS. Lương Trọng Thành, TS. Lê Văn Phong, PGS. TS. Bùi Văn Dũng đồng chủ biên.
Cuốn sách cung cấp cho bạn đọc những vấn đề lý luận chung, các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới; thực trạng năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở nước ta thời gian qua. Trên cơ sở
đánh giá những mặt còn tồn tại, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, các tác giả đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm góp phần nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 9 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY, QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
I- LÝ LUẬN CHUNG
VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY, QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là bước hiện thực hóa quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ đổi mới. Mục tiêu của Chương trình là xây dựng nông thôn mới để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định; giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái
7
được bảo vệ; quốc phòng và an ninh, trật tự được giữ vững.
Thực tiễn quá trình tổ chức xây dựng nông thôn mới cho thấy, để đạt mục tiêu Chương trình đề ra phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó, năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý điều hành của chính quyền cấp xã là yếu tố rất quan trọng và mang tính quyết định. Do đó, nhiệm vụ
đặt ra phải nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới.
1. Một số khái niệm
a) Năng lực lãnh đạo của cấp ủy cơ sở trong xây dựng nông thôn mới
- Năng lực:
Có nhiều khái niệm khác nhau về năng lực. Có quan niệm cho rằng năng lực là “khả năng để thực hiện tốt một công việc như: có năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức”1, hoặc được hiểu là “phẩm chất, tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”2. Cũng có quan niệm __________
1. Nguyễn Như Ý: Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999, tr. 1172.
2. Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học - Nxb. Đà Nẵng, 2000, tr. 661.
8
cho rằng năng lực là “khả năng làm việc tốt”1, là “sức làm việc”2.
Như vậy, có thể thấy năng lực là khả năng hiện thực, sẵn có của chủ thể để thực hiện một hoạt động nào đó, khả năng hoàn thành một công việc hay khả năng biến các yếu tố, điều kiện đã có của tư duy thành hiện thực3.
- Lãnh đạo:
Thuật ngữ “lãnh đạo” cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau: Lãnh đạo là “đề ra các chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện”4 hay “Lãnh đạo là dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể”5. Ở nước ta, thuật ngữ lãnh đạo thường được sử dụng cho các chủ thể là cơ quan của Đảng từ Trung ương đến địa phương trong việc tác động đến các mặt của đời sống xã hội, đến các bộ phận trong hệ thống chính trị và
__________
1. Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1996, tr. 67.
2. Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học - Xã hội, Hà Nội, 1997, tr.532.
3. Xem PGS. TS. Nguyễn Phú Trọng, PGS. TS. Tô Huy Rứa, PGS. TS. Trần Khắc Việt (Đồng chủ biên): Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.85.
4. Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr. 544. 5. Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2008, tr.886.
9
việc điều chỉnh hành vi của nhân dân để họ thực hiện theo chủ trương của Đảng.
- Năng lực lãnh đạo:
Năng lực lãnh đạo là khả năng của một tập thể hay cá nhân đề ra mục tiêu, chủ trương, đường lối và khả năng tổ chức, dẫn dắt tập thể, thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối đó.
- Năng lực lãnh đạo của cấp ủy cơ sở:
Năng lực lãnh đạo của cấp ủy cơ sở là khả năng của cấp ủy trong việc định hướng các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và lãnh đạo thực hiện các hoạt động này nhằm tạo ra sự chuyển biến tiến bộ về mọi mặt của đời sống xã hội ở cơ sở. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy được biểu hiện ở năng lực của từng thành viên cấp ủy và chế độ làm việc chặt chẽ, khoa học trên cơ sở thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, năng lực lãnh đạo của đảng ủy xã là khả năng đề ra nghị quyết xây dựng nông thôn mới sát, đúng thực tế; khả năng lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền cấp xã để cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy các cấp về xây dựng nông thôn mới thành các chương trình, đề án, kế hoạch cụ thể thực hiện; khả năng lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội làm nòng cốt trong tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và tổ chức phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân;
10
khả năng kiểm tra, giám sát toàn bộ công việc của đảng ủy, làm cho chủ trương, nghị quyết của đảng ủy luôn phản ánh được yêu cầu khách quan, thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và nhân dân với Đảng; khả năng sơ kết, tổng kết, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến và bổ sung làm cho chủ trương của đảng ủy ngày càng phù hợp với thực tế khách quan.
Để thực hiện được điều này, năng lực lãnh đạo của đảng ủy xã phải hội tụ đầy đủ các thành tố như: i) Năng lực tư duy lý luận, tư duy thực tiễn hay khả năng nghiên cứu, nắm bắt các quy luật khách quan; ii) Khả năng nhận thức đúng đắn các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới; iii) Năng lực phân tích, dự báo tình hình và đề ra các chủ trương, biện pháp chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới phù hợp với các quy luật khách quan và điều kiện của địa phương, cơ sở; iv) Năng lực hoạt động thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo thể hiện ở việc nắm vững và thực hiện đầy đủ các bước, các khâu trong quy trình lãnh đạo, khả năng lựa chọn phương pháp lãnh đạo, hình thức tổ chức các hoạt động phù hợp nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra để xây dựng nông thôn mới. Nếu thiếu hoặc yếu một trong những thành tố trên đều ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nông thôn mới ở cơ sở hiện nay.
11
b) Năng lực quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới
- Quản lý:
Quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt quan trọng của con người, là chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động. C. Mác đã chỉ rõ: “tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”1.
“Quản lý” chứa đựng nội dung rộng lớn, đa dạng, phức tạp và luôn vận động, biến đổi, phát triển. Vì vậy, khi nhận thức về quản lý, có nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau. Theo Đại từ điển tiếng Việt, quản lý là: “tổ chức, điều khiển hoạt động của một số đơn vị, một cơ quan”2, “trông coi, gìn giữ và theo dõi việc gì”3. Theo bộ môn điều khiển học, quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ
thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy định, __________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 23, tr. 480.
2. Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Sđd, tr.1363.
3. Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Sđd, tr.1363.
12
định luật hay nguyên tắc để cho hệ thống hay quy trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước.
Có thể nhận thấy, quản lý là một trong những hoạt động của con người (cá nhân, tập thể), nhưng đó là một loại hình hoạt động đặc biệt. Nó lấy các loại hình lao động cụ thể làm đối tượng tác động tới nhằm kết hợp chúng lại thành một hợp lực, từ
đó tạo nên sức mạnh chung của một tổ chức. Đó là quá trình chủ thể quản lý sử dụng những công cụ, phương tiện và các cách thức nhất định để tác động vào đối tượng quản lý nhằm đạt tới mục tiêu xác định.
Từ những cách tiếp cận trên, chúng ta có thể hiểu: quản lý là sự tác động có định hướng và tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới mục tiêu nhất định.
- Năng lực quản lý:
Năng lực quản lý là khả năng tác động có ý thức, có mục đích, có căn cứ khoa học, hợp quy luật của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm phát huy sức mạnh các nguồn lực, đảm bảo các hoạt động của tổ chức đạt được các mục tiêu đã đề ra với chất lượng và hiệu quả cao nhất.
- Năng lực quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới:
Quản lý của chính quyền cấp xã là quản lý hành chính nhà nước nằm trong hệ thống quản lý
13
hành chính nhà nước các cấp từ Trung ương tới địa phương. Đó là hoạt động chấp hành và điều hành của chính quyền nhà nước ở cơ sở. Trong đó, hoạt động chấp hành là làm đúng mọi yêu cầu của pháp luật, là hoạt động đưa pháp luật vào thực tiễn quản lý trên địa bàn xã. Hoạt động điều hành là hoạt động chỉ đạo các đối tượng thuộc quyền thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo pháp luật đối với đối tượng thuộc quyền, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của nhân dân, duy trì sự phát triển và ổn định xã hội ở địa bàn cơ sở.
Từ đó có thể nhận thấy, năng lực quản lý của chính quyền cấp xã nói chung chính là khả năng tác động có ý thức, có mục đích, có căn cứ khoa học, hợp quy luật của chính quyền cấp xã tới các lĩnh vực, các mặt hoạt động và các tổ chức, cá nhân ở địa phương nhằm phát huy sức mạnh các nguồn lực, đảm bảo các hoạt động ở địa phương đạt được các mục tiêu đã đề ra với chất lượng và hiệu quả cao nhất.
Như vậy, năng lực quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới là khả năng của chính quyền trong việc chấp hành và điều hành, triển khai các hoạt động tổ chức thực hiện để hoàn thành các tiêu chí, các mục tiêu trong Chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã đúng pháp luật, với kết quả cao nhất, thời gian ngắn nhất. Đó là khả năng nhận thức về một nông thôn mới phát triển toàn diện trên cơ sở biết
14
vận dụng cụ thể, sát hợp các tiêu chí và mục tiêu xây dựng nông thôn mới; khả năng tổ chức và lựa chọn phương pháp, cách làm chủ động, sáng tạo, đột phá nhưng phù hợp với điều kiện, đặc điểm địa phương; khả năng đánh giá, kiểm soát thực trạng, chủ động huy động nguồn lực, không trông chờ đầu tư của cấp trên, lựa chọn tiêu chí dễ làm trước, khó làm sau; khả năng huy động và phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, cộng đồng dân cư, của con em làm ăn xa quê, các doanh nghiệp, các làng nghề... tham gia xây dựng nông thôn mới; khả năng xã hội hóa, lồng ghép các nguồn lực, đồng thời phát huy dân chủ trong thực hiện các nguồn lực đầu tư xây dựng các công trình, các tiêu chí nông thôn mới; khả năng phát huy vai trò giám sát cộng đồng và có sự bàn bạc thống nhất của nhân dân trong việc sử dụng nguồn lực vào các công trình công cộng.
2. Nội dung năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới
a) Các yêu cầu cơ bản của nông thôn mới
Muốn xây dựng nông thôn mới phải bảo đảm được các yêu cầu cơ bản, đó là:
- Phải có diện mạo nông thôn xanh - sạch - đẹp, có kết cấu hạ tầng từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu sản xuất phát triển và cuộc sống văn minh, hiện đại của người dân. Nông thôn mới
15
phải có những công trình điện, đường, trường, trạm, giao thông, thủy lợi, công trình văn hóa, thể thao, vệ sinh môi trường có chất lượng theo tiêu chuẩn, trong từng nhà dân cũng phải được chỉnh trang lại tường dậu, nhà ở, công trình vệ sinh, chăn nuôi, chuồng trại, cải tạo vườn tạp, ăn ở gọn gàng, ngăn nắp, sạch đẹp...
- Phải có con người mới: Trước hết đòi hỏi đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền phải đổi mới cả tư duy, phong cách, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng động, chủ động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện, vận động quần chúng thực hiện có hiệu quả các công việc của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Mặt khác, phải làm cho người dân có nhận thức đúng đắn vai trò chủ thể của mình trong việc xây dựng nông thôn mới, phải năng động, tránh ỷ lại; đổi mới và thích ứng với cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, mạnh dạn trong đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại, phát triển doanh nghiệp; chủ động trong xây dựng đời sống văn hóa mới.
- Nông thôn mới phải làm cho dân giàu, không ngừng tăng thêm việc làm, thu nhập và có điều kiện để vươn tới một cuộc sống sung túc về cả vật chất và tinh thần; đoàn kết xóm làng, văn minh, hiện đại.
Có thể thấy rằng, những khối lượng công việc phải làm để thực sự xây dựng được nông thôn mới là rất lớn. Thậm chí có những việc mà trong 19 tiêu
16
chí nông thôn mới chưa cụ thể hóa hết. Song ngược lại, có rất nhiều việc có thể làm được hoặc cần ưu tiên làm trước mà chưa đòi hỏi phải có nhiều kinh phí hoặc thậm chí chưa cần phải có kinh phí, nhưng cần phải kiên trì vận động, hướng dẫn nhân dân, tổ chức thành phong trào quần chúng rộng rãi. Sự chuyển biến về con người trong xây dựng nông thôn mới là yêu cầu cơ bản, sâu sắc về chất, có vai trò quyết định cho sự thành công của Chương trình và sự phát triển bền vững ở nông thôn. Theo đó, năng động, sáng tạo là phẩm chất không thể thiếu của đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền.
b) Nội dung năng lực lãnh đạo của đảng ủy cấp xã trong xây dựng nông thôn mới
Năng lực lãnh đạo của đảng ủy cấp xã trong xây dựng nông thôn mới bao gồm những nội dung chủ yếu:
Một là, năng lực quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, từ đó cụ thể hóa thành chủ
trương, nghị quyết, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới phù hợp với thực tiễn địa phương, đơn vị. Hai là, năng lực chỉ đạo, lãnh đạo chính quyền thể chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết của Đảng ở cơ sở thành các chính sách, chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ và giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới ở địa phương.
17
Ba là, năng lực tổ chức, chỉ đạo đối với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp, vận động quần chúng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ và các tiêu chí nông thôn mới của địa phương, đơn vị.
Bốn là, nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị; kịp thời phát hiện và xử lý đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề phức tạp mới nảy sinh trong thực tiễn xây dựng nông thôn mới để rút kinh nghiệm.
Năm là, nâng cao năng lực sơ kết, tổng kết thực tiễn, vừa để nhận diện các điển hình tiên tiến, vừa để điều chỉnh, khắc phục những hạn chế, yếu kém, đồng thời bổ sung hoàn thiện nghị
quyết, nhiệm vụ chính trị ngày càng phù hợp hơn.
c) Nội dung năng lực quản lý của chính quyền trong xây dựng nông thôn mới
Năng lực quản lý của chính quyền trong xây dựng nông thôn mới được thể hiện ở những nội dung sau:
Một là, năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án, quy chế, quy định; phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận và huy động các nguồn lực để xây dựng nông thôn mới.
Hai là, năng lực phối hợp với các cấp, các ngành có liên quan để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
18
Ba là, năng lực phát hiện và đề xuất với cấp trên những vấn đề cần thiết liên quan để thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Bốn là, năng lực tổ chức phát động phong trào toàn dân xây dựng nông thôn mới trong các thôn, xã; trên cơ sở đó, giao nhiệm vụ cho từng đơn vị, cá nhân phụ trách thực hiện các nhiệm vụ.
Năm là, năng lực huy động có hiệu quả các nguồn lực trong nhân dân và sử dụng hiệu quả vốn hỗ trợ của Trung ương, tỉnh, huyện, các tổ chức trong và ngoài nước để xây dựng nông thôn mới.
Sáu là, năng lực tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân biết và thực hiện pháp luật về xây dựng nông thôn mới.
II- SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY, QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY
1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của cấp ủy, chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới
a) Vị trí, vai trò của đảng ủy cấp xã trong xây dựng nông thôn mới
Điều lệ Đảng được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua năm 2011 đã quy định: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở)
19
là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”1. Vì vậy, năng lực lãnh đạo của đảng bộ cơ sở là nhân tố cơ bản tạo nên chất lượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Những thành tựu cách mạng đã đạt được trong 90 năm qua cùng những kinh nghiệm có giá trị về vai trò lãnh đạo của Đảng đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ngay từ cơ sở, mà hạt nhân là vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng.
Cấp ủy cấp xã thực hiện vai trò của đảng bộ cơ sở là trực tiếp lãnh đạo thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng; đồng thời kiểm nghiệm và góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển chủ trương, đường lối của Đảng thông qua hoạt động thực tiễn phong phú của đội ngũ đảng viên và nhân dân. Trong đó, vai trò lãnh đạo của cấp ủy cơ sở là khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ của Đảng với nhân dân; trực tiếp lãnh đạo và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân để phản ánh với Đảng. Do đó, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng nói chung và cấp ủy cơ sở nói riêng là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Trong xây dựng nông thôn mới, nhìn chung cấp ủy các xã luôn năng động, sáng tạo, cụ thể __________
1. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 35.
20
hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng cùng những chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới; chăm lo phát triển kinh tế - xã hội; tạo điều kiện thuận lợi, động viên các tầng lớp nhân dân lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, tăng thu nhập, xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã. Vai trò lãnh đạo của cấp ủy cấp xã về xây dựng nông thôn mới thể hiện trên những nội dung sau:
Thứ nhất, thực hiện vai trò nền tảng chính trị của đảng bộ cấp xã, chủ động đưa ra các chủ trương, định hướng về xây dựng nông thôn mới tại địa bàn.
Cấp ủy cấp xã tiến hành lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, động viên và tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo Bộ tiêu chí quốc gia. Dựa trên chủ
trương về xây dựng nông thôn mới, cấp ủy tiến hành nghiên cứu, tổ chức học tập và triển khai thực hiện; đề ra những chủ trương để định hướng thực hiện cho phù hợp với từng địa phương. Chỉ
đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị tổ chức phong trào xây dựng nông thôn mới theo các văn bản hướng dẫn của Trung ương, tỉnh và huyện. Các cấp ủy nắm tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, tổng kết sáng kiến của quần chúng, giúp cho Đảng và Nhà nước hoàn thiện, bổ sung, phát triển đường lối, chính sách về xây dựng nông thôn mới.
Thứ hai, lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống
21
chính trị cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới ở xã địa phương.
Với vai trò là hạt nhân trong lãnh đạo chính trị, cấp ủy cấp xã có trách nhiệm lãnh đạo thực hiện, bảo đảm để chủ trương của Đảng về xây dựng nông thôn mới được cụ thể hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Cấp ủy cấp xã đã lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp xã quán triệt nghị quyết, chủ trương, phương hướng về xây dựng nông thôn mới của đảng bộ cấp xã; quyết định về công tác tổ chức, cán bộ của hệ thống chính trị lãnh đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới,... Chỉ
đạo chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã thực hiện vai trò nòng cốt trong việc giáo dục, tuyên truyền chủ trương về xây dựng nông thôn mới đến với quần chúng nhân dân. Qua đó huy động được sức mạnh của toàn thể nhân dân chung
tay xây dựng nông thôn mới. Cụ thể như: - Quán triệt nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên và của đảng bộ xã về công tác xây dựng nông thôn mới; thảo luận và quyết định những đề án về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng liên quan đến xây dựng nông thôn mới. - Chỉ đạo ủy ban nhân dân xã lập quy hoạch, kế hoạch về phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách gắn với kế hoạch xây dựng nông thôn mới. - Lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền phối hợp với Mặt trận, các đoàn thể nhân dân trong xây dựng nông thôn mới.
22
- Kiểm tra cán bộ, đảng viên về quá trình thực hiện các nghị quyết của cấp ủy về xây dựng nông thôn mới.
- Đề xuất với huyện ủy và các cấp ủy cấp trên về những nội dung liên quan đến Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Thứ ba, tiến hành giáo dục, rèn luyện và phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Đảng ủy xã có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện nghiêm chỉnh trong thực tiễn; kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ
Đảng; xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng,... Đây là nhiệm vụ lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy. Thực hiện các nhiệm vụ này sẽ góp phần nâng cao năng lực, phẩm chất của cán bộ, đảng viên ở cấp xã trong việc quán triệt, triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Thứ tư, là chỗ dựa đáng tin cậy của quần chúng nhân dân trong triển khai xây dựng mô hình và các tiêu chí về nông thôn mới.
Nhiệm vụ lãnh đạo của cấp ủy là đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
23
của Nhà nước vào cuộc sống; tổ chức để nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là chỗ dựa đáng tin cậy của quần chúng nhân dân trong việc xây dựng nông thôn mới, bởi đây là vấn đề
còn mới mẻ và đầy khó khăn đối với nhân dân. Thực hiện nhiệm vụ chính trị, cấp ủy cấp xã không những đề ra chủ trương, biện pháp đúng, thiết thực; mà đồng thời nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống cho nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, môi trường sống an toàn và bền vững. Nói cách khác, trách nhiệm của cấp ủy là lãnh đạo, chỉ đạo phát triển toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; gắn bó mật thiết với dân; giải quyết kịp thời những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của dân. Khuyến khích nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền, phát triển kinh tế - xã hội,... góp phần xây dựng nông thôn mới.
b) Vai trò quản lý của chính quyền trong xây dựng nông thôn mới
Chính quyền cấp xã là đơn vị thực hiện, đồng thời cũng là nơi kiểm chứng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khai thác tiềm năng tại chỗ ở địa phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội,
24
củng cố an ninh, quốc phòng, tạo điều kiện cho nhân dân địa phương xây dựng cuộc sống ổn định. Đồng thời, thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và dưới sự lãnh đạo của đảng ủy xã.
Chính vì vậy, chính quyền cấp xã có vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và xây dựng nông thôn mới nói riêng. Cụ thể là:
Thứ nhất, là hệ thống quyền lực có quan hệ trực tiếp với cuộc sống nhân dân.
Thứ hai, triển khai thực hiện tất cả các quyết định, chỉ thị, hướng dẫn của cơ quan nhà nước cấp trên.
Thứ ba, là điều kiện chính trị nhằm bảo đảm cho nhân dân gắn bó với Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết những nhu cầu dân sinh, dân chủ, dân quyền.
Thứ tư, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền cấp xã là ở nơi dân, là việc quy tụ được lòng dân, phát huy tình đoàn kết, truyền thống làng xã, tinh thần làm chủ của nhân dân.
Thứ năm, là nhân tố quan trọng để hệ thống chính trị cấp xã phát huy được vai trò lãnh đạo, tổ chức, đoàn kết toàn dân thực hiện được những mục tiêu xây dựng địa phương có kinh tế - xã hội, văn hoá phát triển.
Đối với chương trình xây dựng nông thôn mới, chính quyền các xã đề ra nghị quyết, kế hoạch, vạch ra các biện pháp xây dựng nông thôn mới
25
theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án xây dựng nông thôn mới, chính quyền các xã tiến hành xây dựng kế hoạch, các chỉ tiêu phấn đấu hằng năm, phân công nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị tổ
chức triển khai thực hiện và trực tiếp giám sát việc thực hiện đó tại địa phương, cơ sở. Đối với việc xây dựng nông thôn mới, chính quyền cấp xã hướng dẫn và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã hội; văn hoá, giáo dục; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội... ở địa phương. Đồng thời kiểm tra, đôn đốc, đánh giá chất lượng, hiệu quả việc thực hiện các chương trình, dự án về phát triển kinh tế - xã hội, tiến độ xây dựng nông thôn mới ở địa phương.
Như vậy, với vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ được quy định như trên, chính quyền cấp xã ở nông thôn thực sự là bộ phận quan trọng của hệ thống hành pháp nhà nước, thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước ở cấp xã, góp phần quan trọng trong việc xây dựng nông thôn mới.
Trong những năm qua, hoạt động của chính quyền cấp xã đã tạo điều kiện cho kinh tế ở hầu hết các địa phương có sự chuyển biến tích cực. Nhiều địa phương từ yếu kém về kinh tế đã phát triển vươn lên, giảm tỷ lệ đói nghèo, tăng số hộ
giàu, tình hình chính trị - xã hội ổn định, dân chủ được tăng cường.
26
Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của chính quyền và là điều kiện quan trọng nhất để nhân dân phát huy vai trò năng động, sáng tạo trong xây dựng nông thôn mới, gắn liền với xây dựng và kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã.
Được sự chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy đảng, chính quyền cấp xã đã góp phần quan trọng nâng cao nhận thức của nhân dân về Quy chế dân chủ ở cấp xã. Chính quyền cấp xã đưa ra các chủ trương để dân bàn, dân quyết định và xây dựng các quy định, quy ước theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nhờ có phát huy dân chủ, nhân dân đã kiến nghị với Đảng và Nhà nước nhiều vấn đề về xây dựng, củng cố chính quyền, điều chỉnh chính sách vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ,... tạo điều kiện để
nhân dân phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo động lực cho phong trào xây dựng nông thôn mới.
2. Xuất phát từ những ưu điểm, hạn chế trong năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới
Trong những năm qua, năng lực lãnh đạo của một số cấp ủy và quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới còn bất cập. Do vậy, việc thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở các xã còn hạn chế, như: xác định
27
mục tiêu xây dựng nông thôn mới chưa thật phù hợp với thực tế địa phương, lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn chậm; tổ chức xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém, chất lượng chưa cao; chậm đa dạng hóa ngành nghề sản xuất dẫn tới tỷ lệ lao động thiếu việc làm trên địa bàn xã còn cao; quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới chưa được phát huy đầy đủ, thiếu cơ chế cụ thể về phát huy dân chủ,... nhiều tiêu chí về nông thôn mới chưa đạt mục tiêu, kế hoạch đề ra cả về tiến độ và chất lượng.
Từ thực tiễn, năng lực định hướng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới của cấp ủy, chính quyền cấp xã có một số ưu điểm và hạn chế sau:
- Ưu điểm:
Số đông cấp ủy cấp xã đã nhận thức được mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, ý thức trách nhiệm xây dựng nông thôn mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Cấp ủy đã tập trung lãnh đạo về an ninh - quốc phòng, luôn cảnh giác cách mạng, chống lại mọi âm mưu phá hoại về tư tưởng chính trị của các thế lực thù địch.
Đội ngũ cán bộ cấp ủy nhiệt tình, có kinh nghiệm thực tiễn, số đông cấp ủy cơ sở đã được đào tạo chuẩn hóa trình độ, biết vận dụng,
28
thực hiện đúng chỉ thị, nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương mình.
Đa số đảng viên có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng.
- Hạn chế:
Công tác tuyên truyền, tổ chức học tập, quán triệt chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở một số cơ
sở chưa được coi trọng đúng mức. Việc triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở nhiều nơi chưa tốt, thậm chí có nơi, có lúc còn vi phạm, gây hậu quả phức tạp, làm suy giảm lòng tin của đảng viên, của nhân dân, làm mất ổn định an ninh, trật tự tại địa phương.
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, thiếu tinh thần trách nhiệm, quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ cơ sở làm suy giảm sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ cán bộ nhìn chung còn yếu và thiếu về chuyên môn, trình độ lý luận; năng lực lãnh đạo điều hành còn hạn chế.
- Nguyên nhân:
Do sự lãnh đạo của cấp ủy đảng ở cơ sở không theo kịp sự thay đổi cơ chế, chính sách chung và thực tiễn ở địa phương; nhiều vấn đề chưa có tiền lệ,
29
chưa kịp tổng kết, bổ sung, hoàn chỉnh; bệnh thành tích, báo cáo sai sự thật để vụ lợi danh dự nhất thời cho tập thể, cá nhân còn tồn tại; một số tổ chức đảng chưa quan tâm đúng mức tới công tác giáo dục chính trị tư tưởng; công tác xây dựng Đảng ở một số nơi bị buông lỏng, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng không được tuân thủ chặt chẽ.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng thiếu thường xuyên; công tác quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở chưa tốt. Nhận thức của đảng viên ở nông thôn còn thấp, không đồng đều.
Cấp ủy cấp trên chưa thật sâu sát cơ sở, có nơi buông lỏng quản lý, dẫn đến tình trạng khi cơ sở làm sai nguyên tắc, sai chính sách, pháp luật, nhưng không nắm được và không chấn chỉnh kịp thời.
Đảng viên ở nông thôn “đông nhưng không mạnh”. Sức ép của dòng họ, thứ bậc, tính cục bộ của làng xóm chi phối rất lớn. Vị trí, vai trò của người đảng viên bị suy giảm trong lãnh đạo thực hiện sự nghiệp đổi mới; vị thế, tiếng nói của đảng viên ở nông thôn rất yếu, ít được quan tâm, ít được xem trọng trong thực tế... Việc tổng kết rút kinh nghiệm, các bài học có tính lý luận và thực tiễn rất ít được phổ biến, truyền đạt, vì vậy trong công tác rất khó có sự sáng tạo; tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu, tình trạng “dĩ hòa vi quý” khá phổ biến trong đảng viên ở
nông thôn hiện nay...
30
Chương II
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY, QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY
Khi bàn đến các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới, cần phải làm rõ “cái gì?”, “bản chất thế nào?”, “có vai trò ra sao?” trong việc hình thành và phát triển năng lực ấy, từ đó có thể xác định chính xác các giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới. Đây là một vấn đề không dễ
dàng, bởi năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền là một năng lực phức hợp, được quy định bởi chức năng, nhiệm vụ của mỗi chủ thể (cấp ủy, chính quyền) và các thành viên (đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ giữ các chức danh trong chính quyền với chức năng, nhiệm vụ
rất khác nhau). Nhưng ở hai chủ thể (cấp ủy,
31
chính quyền) có một điểm chung, từ đó đưa về một hệ quy chiếu để xem xét, đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới. Năng lực ấy phải được thể hiện qua việc tạo ra hệ thống các chỉ dẫn hoạt động, đồng thời phải tổ chức, thu hút, tập hợp quần chúng nhân dân phát huy cao độ tiềm năng, trí sáng tạo và vai trò làm chủ của mình trong xây dựng nông thôn mới, phát triển các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương, cơ sở. Nói cách khác, cấp ủy, chính quyền cấp xã phải chỉ ra cho quần chúng nhân dân biết họ phải làm gì? làm như thế nào? trong các hoàn cảnh xác định. Đồng thời, kích thích được tính tích cực của các cá nhân và tập thể để họ tham gia một cách tự giác, đầy nhiệt huyết vào việc thực hiện các tiêu chí nông thôn mới. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền cấp xã được thể hiện thông qua việc cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nông thôn mới thành những quyết định phù hợp với thực tiễn địa phương, cơ sở; phổ biến, truyền đạt đến quần chúng nhân dân và tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối; kiểm tra, giám sát, điều chỉnh chủ trương, đường lối...
Năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới
32
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đó là tổ hợp các thuộc tính tâm lý của cá nhân (trong một tổ chức cụ thể là cấp ủy, chính quyền) tham gia vào hoạt động (lãnh đạo, quản lý, điều hành thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới), làm cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Không những thế, hiệu quả hoạt động còn chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố
khách quan. Đó là điều kiện tự nhiên, hạ tầng cơ sở, tình trạng giao thông, bầu không khí làm việc, đường lối, chính sách... và chính thực tiễn sinh động của hoạt động lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của cấp xã.
Những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền cấp xã bao gồm yếu tố khách quan (điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và về xây dựng nông thôn mới nói riêng; đặc trưng của hoạt động lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền ở xã...) và những yếu tố chủ quan (nhận thức của cấp ủy, chính quyền về xây dựng nông thôn mới; các nhóm kỹ năng cần thiết trong lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn; phẩm chất tâm - sinh lý của đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chính quyền). Tất nhiên, cấp ủy, chính quyền và các cá nhân giữ các chức danh cụ thể có chức năng,
33
nhiệm vụ khác nhau, đòi hỏi phải có năng lực tương ứng. Tuy nhiên, khi nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới, chúng ta vẫn có thể đưa ra một cách khái quát nhất, những yếu tố chung nhất, sau đó đi vào từng tổ chức, từng chức danh của cấp ủy, chính quyền để cụ thể hóa năng lực của tổ chức ấy, cá nhân ấy vào lĩnh vực, nhiệm vụ đảm trách.
I- NHỮNG YẾU TỐ KHÁCH QUAN
ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY, QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trước hết sẽ ảnh hưởng đến các phẩm chất tâm lý, các tính cách, lối nghĩ, cách làm và phong cách của đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền, là những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền trong xây dựng nông thôn mới. Các phẩm chất của chủ thể tạo thành năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền đều được nảy sinh, phát triển trên những tiền đề, điều kiện khách quan nhất định.
34
Khi điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thay đổi thì nhận thức, năng lực cũng bị thay đổi theo cho phù hợp với đòi hỏi của điều kiện mới.
Điều kiện tự nhiên và hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khách quan của sự hình thành và phát triển văn hóa. Văn hóa, xã hội và con người quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình hình thành và phát triển. C. Mác đã khẳng định rằng: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”1. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người đã tác động vào tự nhiên và tác động lẫn nhau, hình thành nên những quan hệ xã hội của chính mình. Không có con người trừu tượng, mà chỉ có những con người sống, hoạt động trong một xã hội nhất định, một thời đại nhất định, với những điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Quá trình con người sống, lao động, giao tiếp để cải tạo thế giới xung quanh, xây dựng xã hội của mình, con người cũng bộc lộ những tình cảm, cảm xúc, hứng thú, tâm tư, nguyện vọng... và rất nhiều thói quen, tập quán của mình. Đó chính là phương thức chuyển tải cái bản chất con người một cách sinh động và cụ thể thông qua những biểu hiện tâm lý với tư cách là một bộ phận của ý thức.
__________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.11.
35
Bản chất con người được hình thành nên hay bộc lộ trong cuộc sống hiện thực. Con người chịu sự tác động trực tiếp của điều kiện tự nhiên, kinh tế, của các quan hệ xã hội, các thành quả văn hóa và nhờ đó con người hội nhập vào các quan hệ xã hội, góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ xã hội. Các phẩm chất tâm lý, các nét tính cách của con người chịu sự tác động trực tiếp của môi trường văn hóa - chính trị - xã hội, trong đó có cả các yếu tố tích cực và các yếu tố tiêu cực. Theo đó, những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở cấp xã (mang đậm dấu ấn của nền văn minh lúa nước) đã ảnh hưởng lớn đến lối sống của cư dân nông thôn nói chung và của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng, từ lao động sản xuất đến sinh hoạt hằng ngày như ăn, mặc, đi lại đến tác phong lao động, giao tiếp... tạo nên nét đặc thù của họ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Những yếu tố đặc thù đó bao gồm những mặt tích cực như: truyền thống yêu nước, yêu quê hương, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, tương thân tương ái, cần cù lao động, trọng đạo đức, trọng danh dự, trọng tình cảm, v.v.; đồng thời cũng bao gồm những hạn chế, tiêu cực như: tính tổ chức, tính kỷ luật và tác phong còn hạn chế, lối tư duy theo hướng kinh nghiệm chủ nghĩa, thiếu tính duy lý và sáng tạo, tâm lý nông dân sản xuất nhỏ, bảo thủ, hẹp hòi, cục bộ địa phương... Những mặt tích cực và tiêu cực
36
đó luôn vận động, đan xen lẫn nhau tạo nên cả thuận lợi, khó khăn và cản trở quá trình hình thành, phát triển năng lực lãnh đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền cấp xã còn thể hiện ở chỗ, trong hoạt động thực tiễn, những phương pháp, cách thức, phương tiện tác động của cấp ủy, chính quyền đều bị quy định bởi điều kiện, hoàn cảnh khách quan. C. Mác đã từng chỉ ra rằng, nhân loại bao giờ cũng đặt ra cho mình những nhiệm vụ có thể giải quyết được, điều đó có nghĩa, trong nhiệm vụ mà con người đặt ra, thì điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đã ít nhiều mách bảo khả năng của hiện thực, mách bảo phương tiện và phương pháp để có thể thực hiện được mục tiêu ấy. Theo đó, các chủ trương, chính sách thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của cấp ủy đảng, chính quyền cấp xã phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của địa phương, cơ sở thì mới có thể đem lại thành công và có tính khả thi. Những điều kiện về tự nhiên như: vị trí địa lý, khí hậu, đất đai, tài nguyên... đặt ra cho cấp ủy, chính quyền cấp xã bài toán phải giải quyết trong việc định hướng cho sự phát triển của địa phương như thế nào về
37
không gian, mạng lưới dân cư, hạ tầng kỹ thuật để phát huy tiềm năng, thế mạnh, hạn chế những bất lợi; là cơ sở để xây dựng quy hoạch đất đai, vùng sản xuất, chuyển đổi cơ cấu giống cây, con; lựa chọn phương thức, hình thức tổ chức sản xuất... Những điều kiện về chất lượng nguồn nhân lực, mức sống, mức thu nhập của cộng đồng dân cư, hạ tầng cơ sở, các yếu tố về văn hóa, tín ngưỡng... đặt ra cho cấp ủy, chính quyền cấp xã là phải sử dụng nguồn nhân lực ra sao; phát triển cơ cấu kinh tế, cơ cấu nghề nghiệp thế nào; lựa chọn các hình thức, xác định nội dung trong công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân cũng như trong tổ chức các phong trào thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, với đặc điểm tâm lý, phong tục, tập quán, thói quen, điều kiện kinh tế của các tầng lớp nhân dân ở địa phương...
Như vậy, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vừa tác động, ảnh hưởng đến quá trình hình thành, phát triển phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên - yếu tố quan trọng tạo nên năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền cấp xã, vừa đòi hỏi cấp ủy, chính quyền cần phải có những đáp ứng phù hợp trên nhiều phương diện, vừa phải có khả năng nắm bắt đường lối,
38
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của cấp trên về xây dựng nông thôn mới, vừa phải biết vận dụng cho phù hợp với thực tiễn địa phương, từ đó đưa ra những chủ trương, giải pháp tổ chức hợp lý. Hay nói cách khác, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới. Điều đó được thể hiện ở hai khía cạnh chủ yếu là: các cấp ủy đảng, chính quyền cấp xã phải trên cơ sở nhận thức những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương để vận dụng vào hoạt động thực tiễn, đưa ra những quyết định, phương pháp, cách thức sử dụng nguồn lực cũng như phát huy vai trò của nhân dân một cách đúng đắn, phù hợp; đồng thời, chính điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội là những điều kiện hoàn cảnh khách quan tác động đến quá trình hình thành phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở, như đặc điểm tâm lý, năng lực tư duy, đạo đức, tác phong, thói quen sinh hoạt, v.v.. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới được hình thành, phát triển và được thể hiện ở việc đề ra chủ trương, biện pháp, giải pháp phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương để từ đó phát huy những lợi thế, khắc phục những bất lợi
39
nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu, yêu cầu xây dựng nông thôn mới, đem lại lợi ích cho nhân dân và cho sự phát triển của địa phương.
2. Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới
Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới đã tác động sâu sắc và trực tiếp đến đời sống mọi mặt của các tầng lớp nhân dân ở cấp xã, làm thay đổi trạng thái tâm lý, thay đổi cách nghĩ, cách làm của người nông dân và các mối quan hệ khác ở nông thôn; đồng thời tác động trực tiếp đến năng lực lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới.
Trước hết, cần phải nhận thấy, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, nhất là chủ trương về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới hiện nay đã tác động trực tiếp đến tâm lý, cách nghĩ, cách làm của người nông dân và các mối quan hệ ở nông thôn. Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và
40
xây dựng nông thôn mới đã tạo tiền đề cho sự thay đổi lớn ở nông thôn, đời sống mọi mặt của cư dân nông thôn được cải thiện rõ rệt. Nông dân phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới của Đảng, Nhà nước. Phong trào lao động sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, làm giàu, xây dựng cuộc sống gia đình, làng xã văn minh, hạnh phúc đã thực sự trở thành phong trào của hàng triệu quần chúng nông dân, tạo nên một sự chuyển biến, lan tỏa, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Nhờ đó, một bầu không khí tâm lý xã hội năng động, tích cực đã hình thành và phát triển. Nhiều thuộc tính tâm lý tích cực cũng đã bắt đầu xuất hiện, làm thay đổi bước đầu nếp nghĩ, cách làm truyền thống của người nông dân mà lịch sử đã in dấu đậm nét trong tư duy và đời sống tâm lý của họ. Có thể xem đó là thành quả to lớn về
tâm lý, tinh thần, tạo tiền đề để gặt hái được những kết quả to lớn hơn nữa trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Mặc dù vẫn còn có những tâm trạng tiêu cực, còn có sự hoài nghi, thậm chí dao động về niềm tin ở một bộ phận nông dân, nhưng những biến đổi tâm lý theo hướng tích cực vẫn là chủ đạo. Những biến đổi tích cực đó có thể được khái quát trên một số điểm cơ bản như:
41
Thứ nhất, chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã huy động được nhiều tiềm năng trí tuệ, năng lực của con người mà trước đây, trong thời kỳ tập trung quan liêu, bao cấp dường như bị bỏ quên. Sự biến đổi nhanh chóng của thị trường trên thực tế đã làm cho các quan hệ kinh tế - xã hội trở nên phong phú và phức tạp hơn, kéo theo những biến đổi trong nhu cầu của nông dân trên mọi lĩnh vực sản xuất và sinh hoạt hằng ngày, cả nhu cầu vật chất lẫn nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú, đa dạng và luôn luôn mở rộng. Nó không đơn điệu, nghèo nàn, giản đơn và khép kín như trước nữa. Điều đó làm cho tính năng động của người nông dân tăng lên rõ rệt. Hơn nữa, thông qua các quan hệ của thị trường, sự năng động, nhạy bén của người lao động đã được đền bù xứng đáng hơn bởi nó không chấp nhận lối phân phối theo kiểu bình quân, cào bằng. Người lao động nỗ lực nhiều thì thu được kết quả nhiều. Điều đó đã tạo nên tâm trạng phấn khởi cho người dân nông thôn. Ở nông thôn xuất hiện ngày càng nhiều triệu phú biết kinh doanh và làm ăn giỏi. Người nông dân đã năng động tìm cách thế chấp, tín chấp nhằm tạo vốn làm ăn đã không còn là chuyện lạ ở trong các làng xã. Điều mà từ trước đến nay chưa hề có ở nông thôn.
Thứ hai, không những tâm trạng tích cực và niềm tin của nông dân tăng lên do kinh tế có
42
phần khá hơn, do sức lao động của mình được đánh giá đúng hơn mà còn do các thiết chế chính trị được đổi mới theo hướng mở rộng dân chủ, khiến cho các định hướng giá trị ngày càng hoàn thiện hơn. Điều này được phản ánh qua nhu cầu dân chủ của nông dân cao hơn và đa dạng hơn. Dân chủ đã thành giá trị chung có tính phổ quát, chiếm vị trí cao trong hệ thống giá trị ở nông thôn. Do những biến đổi đó mà người nông dân hiện nay không chấp nhận những việc làm khuất tất của một số cán bộ, đảng viên, một số tổ chức xã hội... Việc Nhà nước ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở đã nhanh chóng đáp ứng được đòi hỏi của nông dân.
Có thể nhận thấy, những biến đổi trong nhu cầu và định hướng giá trị hiện nay đã phản ánh phần nào những biến đổi trong tâm lý truyền thống của nông dân dưới tác động của cơ chế thị
trường. Truyền thống yêu quê hương, đất nước, yêu lao động được củng cố và phát huy mạnh mẽ. Người nông dân cũng thêm yêu lao động, có ý chí tự lực, tự cường, vươn lên trong cuộc sống. Những khái niệm yêu nước, yêu lao động, cần cù trong cuộc sống được mở rộng và thêm vào những nội dung mới như ham học tập, tìm tòi, thử nghiệm, năng động, sáng tạo, quyết tâm vượt khó, dám nghĩ, dám làm, biết làm giàu cho bản thân, cho gia đình, cho quê hương, cho đất nước...
43
Tâm lý của người tiểu nông sản xuất nhỏ, tự túc, tự cấp đã và đang chuyển dần thành tâm lý của người nông dân sản xuất hàng hóa cho thị trường. Thay vì kiểu độc canh lúa nước, canh tác lạc hậu, tự cung, tự cấp, khép kín, cam phận, tự bằng lòng, người nông dân bắt đầu hướng tới thị trường, biến ruộng thành vườn, chuyên canh, thâm canh, đa dạng hóa ngành nghề, hàng hóa, sản phẩm lao động, tính toán đầu vào - đầu ra. Tâm lý bảo thủ, kinh nghiệm chủ nghĩa ít nhiều được hạn chế. Cách suy nghĩ theo lối ước lệ, thiếu đầu óc tổ chức hành động thực tế dần được thay thế bằng cách suy nghĩ lôgích, khoa học, sát thực tế hơn. Người nông dân quan tâm tới pháp luật hơn và thói quen trọng lệ hơn luật cũng có phần mờ nhạt dần... Đặc biệt là xu hướng mở cửa, hội nhập của nền kinh tế dưới tác động của cơ chế thị trường đã khiến cho người nông dân chuyển từ xu hướng tâm lý hướng nội, khép kín sang xu hướng tâm lý hướng ngoại, giao lưu, mở cửa, hội nhập, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới hiện nay. Như vậy, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới không những mở đường cho sự phát triển mà còn quy tụ được sức dân, lòng dân, phát huy sức mạnh nội sinh của nhân dân,
44
tạo sự đồng thuận của xã hội. Đồng thời cũng đã, đang đặt ra những đòi hỏi đối với sự lãnh đạo của cấp ủy, quản lý điều hành của chính quyền cấp xã phải đúng đắn hơn, năng động hơn, sáng tạo hơn để mang lại an sinh, an ninh cho nhân dân, góp phần tạo sự ổn định và phát triển ở cơ sở.
Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và về xây dựng nông thôn mới nói riêng chính là tiền đề, là điều kiện để năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới được hình thành, phát huy tác dụng và có điều kiện bộc lộ, phát triển. Thực tiễn cho thấy, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội đã đáp ứng được yêu cầu phát triển mà thực tiễn đặt ra, đáp ứng được đòi hỏi bức xúc và nguyện vọng chính đáng, thiết thân của người nông dân và cư dân nông thôn. Chính đường lối, chủ trương đó đang đặt ra những yêu cầu về năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền cấp xã. Đó là sự năng động, sáng tạo, sự vững vàng, tận tâm, tận lực trong cụ thể hóa và tổ chức thực hiện, biến đường lối, chủ
trương đó thành hiện thực. Việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đòi hỏi cấp ủy, chính quyền cấp xã phải có quyết tâm chính trị cao, có kế hoạch chỉ đạo cụ thể,
45
chủ động, sáng tạo, sâu sát, liên tục, trong đó đặt ra yêu cầu cao về vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và của Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới để huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc cùng với sự quan tâm của toàn xã hội, phát huy vai trò chủ thể của nhân dân.
Trên tinh thần đó, nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra đòi hỏi cấp ủy, chính quyền xã phải giải quyết, đó là: vấn đề thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, khai thác các lợi thế của địa phương để phát triển ngành nghề; đổi mới hình thức tổ chức sản xuất; duy trì, phát triển các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cơ sở chế biến nông sản thực phẩm, sửa chữa cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, đẩy mạnh hoạt động dịch vụ phục vụ đời sống, gắn sản xuất với dịch vụ chế biến nông sản, nâng cao giá trị nông sản, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, mở rộng ngành nghề, tạo thêm việc làm cho thanh niên đến tuổi lao động và việc làm cho lao động dư thừa theo thời vụ; có chương trình cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, chăm lo chế độ phúc lợi xã hội, chú trọng phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, hạ tỷ lệ phát triển dân số; phấn đấu giảm hộ nghèo, tăng hộ khá, hộ giàu; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; thực hiện công bằng xã hội, chống tham ô, tham nhũng, xây dựng nếp sống văn hóa trên địa bàn dân cư... Việc xác
46
định nhiệm vụ chính trị, biện pháp tổ chức thực hiện phải là sản phẩm trí tuệ của tập thể cấp ủy, chính quyền, do đó phải được bàn bạc dân chủ, công khai, thấu đáo, trong quá trình tổ chức thực hiện cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra, phát huy những ưu điểm, uốn nắn lệch lạc, điều chỉnh, bổ sung những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra, rút ra những kinh nghiệm và nhân rộng những điển hình tiên tiến. Thực tiễn cho thấy, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nếu không được tổ chức một cách chu đáo, cụ
thể, không huy động được mọi tiềm năng trí tuệ và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân thì đường lối vẫn chỉ là “lý thuyết suông”. Như vậy, chỉ có cấp ủy, chính quyền nào trên cơ sở nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng nông thôn mới, quán triệt vận dụng phù hợp vào điều kiện thực tiễn của địa phương; vận động, phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhân dân trong thực hiện các tiêu chí nông thôn mới, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, thì đó mới là một cấp ủy, chính quyền vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo, quản lý, trên cơ sở đó xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đem hết lòng nhiệt tình, khả năng sáng tạo, sáng kiến của mình mà thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới phát triển bền vững, văn minh, hiện đại.
47
3. Đặc trưng của hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cấp xã
Đặc trưng của hoạt động lãnh đạo, quản lý ở xã ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới. Vị trí, vai trò, đặc trưng của cấp xã quy định hoạt động của hệ thống chính trị nói chung và của đảng ủy, chính quyền cấp xã nói riêng. Cấp xã là cấp hành động, là nơi tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là nơi diễn ra các phong trào, hoạt động của nhân dân để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới nói riêng, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Nhân dân và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở xã là lực lượng góp phần to lớn, quan trọng và quyết định vào việc kiến tạo, sáng tạo sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Cấp xã còn là môi trường xã hội để rèn luyện, thử thách cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Một trong những đặc điểm thực tiễn của đổi mới ở nước ta chính là đổi mới bắt đầu từ cơ sở, chính những tâm tư, nguyện vọng, sáng kiến, cách làm ở cơ sở là căn cứ để Đảng hoạch định
48
đường lối đổi mới. Những kinh nghiệm, sáng kiến từ cơ sở được phân tích, tổng kết, khái quát thành bài học, thành lý luận, thành quyết sách với đổi mới từ trên, ở các cấp lãnh đạo, quản lý. Sự bắt gặp giữa đổi mới từ dưới lên với đổi mới từ trên xuống đã tạo ra sự đồng thuận để hiệu ứng xã hội của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới có sức mạnh lan tỏa, bền bỉ. Đó chính là lòng dân và ý Đảng, và khi đường lối, nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, được thể chế hóa thì ý Đảng - lòng dân - phép nước hòa quyện làm một. Bởi vậy, hoạt động lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý, điều hành của chính quyền cấp xã có những đặc trưng riêng. Những đặc trưng đó chính là những nhân tố khách quan tác động đến năng lực lãnh đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền cấp xã. Cấp ủy, chính quyền cấp xã hoạt động trong điều kiện có tính đặc thù bởi tính phức tạp của địa bàn xã: bộ máy chuyên trách nhỏ, công việc cụ thể, nảy sinh hằng ngày, hằng giờ, gắn với các quan hệ xã hội phức tạp. Vị trí, vai trò, đặc trưng của cấp xã quy định hoạt động của cấp ủy, chính quyền. Những đặc trưng đó là: tính trực tiếp, tính toàn diện, tính tổng hợp và tính cụ thể trong công việc. Cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã hằng ngày, hằng giờ gần gũi tiếp xúc với dân không chỉ trong giờ hành chính, không chỉ trong thời gian
49
làm việc ở văn phòng mà còn trong các buổi sinh hoạt ở địa bàn, ngoài giờ hành chính. Cuộc sống và công tác của họ gắn liền với họ tộc, làng xóm...
Tính trực tiếp trong hoạt động lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã thể hiện ở chỗ cấp ủy, chính quyền trực tiếp triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại địa phương; đưa ra những quyết định, giải pháp thực hiện, đồng thời trực tiếp tổ chức thực hiện chủ trương, giải pháp đó ngay tại địa phương; trực tiếp kiểm nghiệm, chứng thực tính đúng đắn của các chủ trương, giải pháp, trực tiếp chứng kiến kết quả lãnh đạo của mình và của đội ngũ cán bộ, đảng viên tại địa phương. Chính vì thế, để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao, đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền phải gần gũi, đi sâu, đi sát quần chúng; am hiểu quần chúng; phải có khả năng, kỹ năng tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút quần chúng tham gia; phải thực hiện tốt phương châm “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin” và phải có phong cách: trọng dân, gần dân, thân dân, hết lòng, hết sức phụng sự nhân dân. Quản lý, điều hành của chính quyền đòi hỏi phải thực sự cụ thể, chi tiết, thiết thực, hiệu quả; phải công tâm, khách quan và phải phát huy cao độ vai trò làm chủ của nhân dân, biết dựa vào dân, đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân;
50
đồng thời đòi hỏi đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền phải giỏi tác nghiệp, giỏi thực hành lý luận, có kỹ năng ứng xử phù hợp với phong tục, tập quán của dân cư và phải làm công tác dân vận. Có như vậy thì mới thực sự là chính quyền của dân, làm đúng sự ủy quyền của nhân dân, thực hiện dân chủ và tránh được quan liêu, tham nhũng.
Cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung và về xây dựng nông thôn mới nói riêng. Sự đúng, sai trong đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được thể hiện trực tiếp ở xã, cả về phương thức thực thi lẫn sự phù hợp hay không phù hợp của đường lối đó với lợi ích của người nông dân và cư dân nông thôn. Người dân ngoài các nghĩa vụ theo luật, họ
chỉ hoạt động vì lợi ích của chính mình. Do đó, cấp ủy, chính quyền cấp xã nếu không cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, đơn vị, phù hợp với lợi ích của nhân dân thì sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ một cách hiệu quả, ngược lại còn có thể thất bại vì gặp phải sự phản đối của người dân. Đồng thời, nếu không triển khai tốt nhiệm vụ cấp trên giao thì cấp ủy, chính quyền cấp xã có thể bị đánh giá là yếu kém. Theo đó, dung hòa giữa hai áp lực này là yêu cầu đặt ra
51
đối với năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới.
Tính toàn diện trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền cấp xã thể hiện ở chỗ cấp xã là nơi tiếp nhận và trực tiếp truyền đạt, hướng dẫn, triển khai tổ chức thực hiện đến từng người dân tất cả các nghị quyết chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể. Vì thế, công tác lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã bao hàm tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội; hội tụ đầy đủ mọi nội dung lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, đoàn thể cấp trên, từ đó tác động đến từng cán bộ, đảng viên, từng người dân, đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, biến thành hiện thực sinh động trong cuộc sống.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, môi trường lãnh đạo, quản lý ở xã có xu hướng mở rộng. Việc giải quyết những vấn đề như
tệ nạn ma túy, mại dâm; vấn đề dân tộc, tôn giáo; vấn đề xóa đói, giảm nghèo... không chỉ giới hạn trong từng xã mà nó còn liên quan đến phạm vi cả nước, thậm chí cả khu vực và thế giới. Cấp xã cũng là cấp đang diễn ra sự thay đổi nhanh chóng về nhiều lĩnh vực và ngày càng gia tăng tính phức tạp.
52
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các khu công nghiệp... đã làm cho bộ mặt xã thay đổi từng ngày theo hướng hiện đại, song bên cạnh đó cũng xuất hiện hàng loạt vấn đề khó khăn, bức xúc nảy sinh như vấn đề mất đất của người nông dân, vấn đề chuyển đổi việc làm, vấn đề môi trường sống...
Nếu cấp ủy đảng, chính quyền cấp xã không mở rộng dân chủ, bàn bạc, hợp tác, tạo điều kiện cho người dân cùng tham gia vào việc ra quyết định, giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh thì khó có thể đưa được đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống, khó có thể thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, mục tiêu xây dựng nông thôn mới. Bởi vậy, đòi hỏi cấp ủy, chính quyền cấp xã trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, nhất là trong xây dựng nông thôn mới, phải quán triệt sâu sắc quan điểm phục vụ nhân dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm, hợp tác, chú trọng mở rộng Quy chế dân chủ; thực sự gần dân, đi sâu, đi sát dân chúng; khiêm tốn, học hỏi, cầu thị; nâng cao tính khoa học, tính thiết thực, hiệu quả; khắc phục lối làm việc quan liêu, hành chính, mệnh lệnh, thường xuyên đối thoại, giải quyết những vướng mắc của nhân dân... Đây là những phẩm chất cần thiết, những yếu tố quan trọng tạo nên năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới.
53
Xã là cấp tổ chức thực hiện, cấp hành động nên hoạt động lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền phải mang tính tổng hợp. Cấp ủy, chính quyền cấp xã phải có khả năng lãnh đạo, quản lý mọi mặt; đội ngũ cấp ủy, cán bộ chính quyền không chỉ nói được mà quan trọng là làm được. Sự thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa nhận thức và hành động, giữa lý luận và thực tiễn của họ sẽ góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền trong xây dựng nông thôn mới. Cấp ủy, chính quyền cấp xã vừa phải quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung và về xây dựng nông thôn mới nói riêng, vừa phải tuyên truyền, vận động và chỉ đạo thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương đó. Không chỉ vậy, cấp ủy, chính quyền cấp xã còn phải kiểm tra, giám sát, tổng kết kinh nghiệm để thực hiện tốt chức trách của mình. Đặc trưng của cấp xã đòi hỏi đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền cần phải rèn luyện và chú trọng bồi dưỡng các kỹ năng thực hành, như: kỹ năng tuyên truyền, thuyết phục; kỹ năng kiểm tra, giám sát; kỹ năng tiếp dân; kỹ năng xử lý tình huống; kỹ năng viết báo cáo; kỹ năng tổ chức và điều hành hội nghị... Có thể nhận thấy, năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã được hình thành và phát triển thông qua những hoạt động thực tiễn.
54
Một trong những đặc điểm trong hoạt động lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã đó là phải rất cụ thể, các phương thức giải quyết cũng phải rõ ràng, không thể dừng ở mức định hướng. Điều này rất dễ nhận thấy trong việc tổ chức xây dựng nông thôn mới. Để thực hiện thắng lợi từng tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới thì cấp ủy, chính quyền cấp xã không thể đưa ra chủ trương chung chung mà phải có biện pháp, cách thức cụ thể, chi tiết, rõ người, rõ việc, rõ cơ chế, rõ trách nhiệm và rõ về kết quả. Theo đó, cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã cần phải có chuyên môn sâu, am hiểu thực tế, vừa có kỹ năng quản lý chi tiết, cụ thể từng việc, vừa có khả năng bao quát nhiều lĩnh vực và phải có kinh nghiệm, kỹ năng xử lý tình huống.
II- NHỮNG YẾU TỐ CHỦ QUAN ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY, QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1. Nhận thức của cấp ủy, chính quyền cấp xã về xây dựng nông thôn mới
Nhận thức là một thành tố cấu thành năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã về xây dựng nông thôn mới và là biểu hiện của năng lực này. Nhận thức có vai trò vô cùng
55
quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, quản lý nói chung và hoạt động lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới nói riêng. Đây chính là cơ sở để rèn luyện kỹ
năng và hình thành thái độ của đội ngũ cấp ủy viên và cán bộ chính quyền cấp xã. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn, sâu sắc và đầy đủ về mục tiêu, yêu cầu, nội dung của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; nhận thức sâu sắc về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, cá nhân và có kỹ năng tổ chức, triển khai trong thực tiễn sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới trước tiên phải thể hiện ở nhận thức, sau đó là kỹ năng trong chỉ đạo thực tiễn, sự hiểu biết về chức năng, nhiệm vụ tương ứng với từng tổ chức, từng cá nhân cấp ủy viên và cán bộ chính quyền; hiểu biết và nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới. Điều này thể hiện ở việc nắm bắt, am hiểu đúng đắn, sâu sắc chủ trương, đường lối, chính sách đó cũng như cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề ra nó; sự hiểu biết về con người, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở địa phương mình; sự hiểu biết về khoa học lãnh đạo, quản lý...
Trên cơ sở nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
56
xây dựng nông thôn mới, với những thông tin đầy đủ chính xác về thực tiễn, cấp ủy, chính quyền cấp xã thực hiện quá trình tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình ở địa phương để xác định tiềm năng, khả năng và những hạn chế trong việc triển khai nhiệm vụ. Từ đó có cơ sở chính xác để đưa ra những quyết định và tổ chức thực hiện phù hợp với đặc điểm, điều kiện, tình hình của địa phương. Thực tiễn quá trình xây dựng nông thôn mới cho thấy, nhiều cấp ủy đảng, chính quyền xã do nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới nên lúng túng trong triển khai thực hiện; vừa có biểu hiện nóng vội, chạy theo phong trào, vừa có biểu hiện trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của cấp trên...
2. Các nhóm kỹ năng
- Nhóm kỹ năng cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới thành những quyết định cụ thể phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương.
Kỹ năng này phải được thể hiện qua các công việc cụ thể như: xác định mục tiêu, lập kế hoạch và ra quyết định,... Để làm được điều này đòi hỏi cán bộ cấp ủy, chính quyền phải có kỹ năng dự báo, thu thập và xử lý thông tin; kỹ năng giao tiếp, thiết lập
57
mối quan hệ để tìm hiểu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và con người ở địa phương mình; kỹ năng lập kế hoạch và ra quyết định...
Mục tiêu thực hiện các tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giúp xác định chính xác, rõ ràng những vấn đề cần phải thực hiện. Đồng thời, cũng là cơ sở định lượng để cấp ủy, chính quyền theo dõi, điều tiết hoạt động, đảm bảo thuận lợi hơn trong việc ghi nhận thành quả của cá nhân, tập thể
trong xây dựng nông thôn mới. Người có kỹ năng xác định mục tiêu trong hoạt động sẽ luôn biết đề ra các chỉ tiêu cần đạt phù hợp với điều kiện và phương tiện thực hiện mục tiêu đó. Không những thế, họ còn biết điều tiết để đảm bảo tính hiện thực của việc thực hiện mục tiêu, giảm thiểu những sai sót hoặc xung đột về mặt lợi ích của cá nhân và các nhóm dân cư trong quá trình thực hiện mục tiêu đặt ra.
Mục tiêu là kết quả hoặc trạng thái của địa phương trong tương lai; vừa có tính chất định hướng hành động, vừa xác định rõ các tiêu chí đo lường kết quả của hành động sao cho ở thời điểm cần hoàn thành mục tiêu, cấp ủy, chính quyền cấp xã có thể
biết được mục tiêu đã được hoàn thành ở mức độ nào. Ngoài ra, mục tiêu còn mang tính thời hạn với điểm bắt đầu và kết thúc theo thời gian cụ thể. Việc hoàn thành mục tiêu không phải chỉ được đo lường bằng các tiêu chí quy mô và chất lượng mà còn phải
58
được xem xét về khoảng thời gian thực hiện. Hơn nữa, một mục tiêu trong xây dựng nông thôn mới phải là kết quả của hành động có chọn lựa theo hướng tối thiểu hóa nguồn lực huy động, sử dụng và tối đa hóa độ hài lòng của người thụ hưởng mà ở
đây là người dân nông thôn. Chính vì vậy, xác định mục tiêu là một công việc quan trọng và không dễ dàng trong hoạt động lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã. Xác định mục tiêu phù hợp với điều kiện thực tế, khả thi và sử dụng hiệu quả nguồn lực hiện có để thỏa mãn nhu cầu của dân cư, thì tự người dân sẽ tích cực hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu. Ngược lại, mục tiêu không đúng sẽ gây bất mãn trong dân cư và sử dụng lãng phí nguồn lực khan hiếm của địa phương, cơ sở, tăng thêm chi phí quản lý do phải khắc phục kết quả sai
lầm trong việc thực hiện mục tiêu không đúng. Kỹ năng lập kế hoạch được hiểu là kỹ năng xác định con đường, biện pháp, cách thức, thời gian, nguồn lực phù hợp để thực hiện tốt nhất mục tiêu, yêu cầu và các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Người có kỹ năng lập kế hoạch là người đưa ra được các chỉ dẫn hiệu quả đối với việc xây dựng nông thôn mới, là người biết lựa chọn phương án tối ưu trong điều kiện có thể. Biết tính toán những hoạt động nào là cần thiết và để đạt hiệu quả cao cần phải khai thác các nguồn nhân lực và vật lực như thế nào. Điều này liên quan đến việc nhận
59
thức, đánh giá đúng khả năng và biết phát huy sức mạnh của nhân dân ở địa phương. Theo đó, sau khi đã xác định được mục tiêu của địa phương, cơ sở về xây dựng nông thôn mới thì cần phải có kỹ năng lập kế hoạch, chương trình hành động thực hiện mục tiêu. Đó chính là tổng thể các nỗ lực của cấp xã cùng với tổng nguồn lực và phương thức sử
dụng nguồn lực tương ứng để đạt tới mục tiêu. Kỹ năng cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới phải được thể hiện ở kỹ năng ra quyết định (bao gồm các nghị quyết, quyết định của cấp ủy đảng và của chính quyền cấp xã). Ra quyết định là quá trình xác định vấn đề và lựa chọn một số phương án khác nhau. Biểu hiện của kỹ năng này là biết phát hiện đúng, trúng vấn đề cần giải quyết và vận dụng; xác định mục tiêu và phân loại các mục tiêu theo thứ tự ưu tiên (ví dụ: cấp ủy, chính quyền căn cứ vào điều kiện thực tế của địa phương để lựa chọn khâu đột phá theo phương châm “Dễ làm trước, khó làm sau” trong xây dựng nông thôn mới); xây dựng phương án giải quyết và lựa chọn phương án tối ưu. Trong lựa chọn, cần phải cân nhắc, đánh giá các phương án khác nhau. Thực tế, nhiều phương án liên quan đến những sự kiện khó đoán trước trong tương lai, vì vậy cần phải xác định rõ mục tiêu, lựa chọn và xử lý thông tin tin cậy, chính xác, hình dung được
60
kết quả của mỗi phương án đưa ra. Điều này không dễ dàng vì đối với mỗi vấn đề nảy sinh, có thể có nhiều giải pháp khác nhau và việc so sánh, đối chiếu, đánh giá sẽ tốn không ít công sức, thời gian và tiền của. Đặc biệt là những vấn đề lớn trong xây dựng nông thôn mới, như: vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi hình thức tổ chức sản xuất, phát triển ngành nghề sử dụng lao động...
- Nhóm kỹ năng phổ biến và truyền đạt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới đến cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Đây là một kỹ năng quan trọng trong quá trình tổ chức xây dựng nông thôn mới. Kỹ năng này sẽ làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng, đầy đủ, thấu đáo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
xây dựng nông thôn mới, trên cơ sở đó sẽ tích cực tham gia, đóng góp vào việc thực hiện thắng lợi chủ trương đó. Để làm được việc này đạt hiệu quả cao đòi hỏi cấp ủy, chính quyền cấp xã (chủ yếu thông qua đội ngũ cấp ủy viên và cán bộ giữ các chức danh của chính quyền) phải có sự hiểu biết nhất định về lý luận và am hiểu tình hình địa phương. Đối với từng tổ chức, cá nhân, từng địa bàn, từng nhóm dân cư, cấp ủy, chính quyền cấp xã cần phải hiểu được mặt mạnh, mặt yếu của họ, trên cơ sở đó tác động vào nhận thức, tình cảm và
61
hành động cho phù hợp. Tác động có hiệu quả hay không phụ thuộc vào sự nhạy cảm, khả năng thuyết phục của đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã. Sự nhạy cảm khiến cho đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã biết đồng cảm, chia sẻ với người dân. Dựa trên những hiểu biết về thực trạng điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán của địa phương và của dân cư để xác định nhiệm vụ, nội dung cũng như những điều kiện thực hiện để tác động phù hợp, có sức thuyết phục với quần chúng. Kỹ năng thuyết phục không chỉ bằng lời nói mà còn quan trọng hơn là bằng việc làm, bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”1. Sự
gương mẫu và uy tín của bản thân người cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã tạo nên khả năng lôi cuốn quần chúng nhân dân tham gia phong trào xây dựng nông thôn mới một cách tích cực, sôi nổi, có hiệu quả. Thực tiễn ở nhiều địa phương cho thấy, sự gương mẫu đi đầu của đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi hình thức tổ chức sản xuất, đi đầu trong phong trào hiến đất, hiến tường rào để xây dựng đường giao thông nội đồng, nội thôn xóm,... đã có __________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 284.
62
sức khích lệ lớn đối với nhân dân trong địa bàn chung sức xây dựng nông thôn mới. Những thành quả thực tiễn góp phần khẳng định tính đúng đắn, nâng cao sức thuyết phục của những chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung và về xây dựng nông thôn mới nói riêng đối với quần chúng nhân dân.
- Các kỹ năng tổ chức thực hiện để biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới trở thành hiện thực ở địa phương mình.
Năng lực tổ chức thực hiện của cấp ủy, chính quyền cấp xã thể hiện ở khả năng tổ chức, bố trí, sử dụng tổ chức, cá nhân, cán bộ, công chức phù hợp, đúng thế mạnh, sở trường; tập hợp, lôi cuốn các tầng lớp nhân dân vào thực hiện thắng lợi các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Các kỹ năng này giúp cho cấp ủy, chính quyền cấp xã sử dụng và khai thác có hiệu quả nguồn lực của cá nhân, tập thể, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của mỗi cá nhân, của cộng đồng, lợi thế của địa phương để tạo nên phong trào hành động cách mạng rộng lớn nhằm chung sức xây dựng nông thôn mới. Có thể nhận thấy, năng lực tổ chức thực hiện là thành tố quan trọng, cốt lõi và là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới. V.I. Lênin đã từng chỉ ra rằng: “Chúng ta cần có
63
một đại hợp tấu; chúng ta phải xây dựng kinh nghiệm cho mình để có thể phân phối đúng các vai trong dàn hợp tấu, để đối với người này thì giao cây vĩ cầm đầy tình cảm, đối với người kia thì giao cây đàn trầm cuồng bạo, đối với người khác nữa thì giao cho cây gậy chỉ huy dàn nhạc”1. Hiệu quả xây dựng nông thôn mới phụ thuộc vào phong trào của quần chúng nhân dân. Cấp ủy, chính quyền cấp xã cần có khả năng thu hút, tập hợp được nhân dân, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trên cơ sở nhìn thấy nắm bắt thực trạng điều kiện kinh tế - xã hội, con người của địa phương; thuận lợi, khó khăn của cá nhân, tập thể; phong tục, tập quán của địa phương; các mối quan hệ phức tạp tác động lên quá trình hoạt động. Từ đó, đưa ra các chủ trương, quyết định phù hợp để phát huy thuận lợi, khắc phục những khó khăn nhằm hoàn thành tốt các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
Trong quá trình tổ chức thực hiện các quyết định, cấp ủy, chính quyền cấp xã cần có kỹ năng nắm bắt dư luận xã hội để có thể xử lý tình huống một cách nhanh chóng, kịp thời, nhất là khi triển khai các chủ trương, quyết định mới về xây dựng nông thôn mới như: đổi mới hình thức tổ chức sản xuất; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; thực __________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 8, tr. 108.
64
hiện dồn điền, đổi thửa; huy động sự đóng góp của nhân dân hoặc khi có những vấn đề phức tạp nảy sinh... Có thể khẳng định, xử lý tình huống là một kỹ năng đặc biệt quan trọng và cần thiết, góp phần tạo nên năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới. Kỹ năng xử lý tình huống của cấp ủy, chính quyền cấp xã thể hiện ở khả năng phát hiện và phân tích tình huống; khả năng dự báo, dự đoán; khả năng sử dụng quyền lực trong điều hành; khả năng đề ra phương án, giải pháp để giải quyết tình huống... Thực tiễn công tác lãnh đạo, quản lý ở cấp xã trong xây dựng nông thôn mới có nhiều tình huống nảy sinh, như về tài chính (thiếu kinh phí để triển khai dự án, kinh phí bị thất thoát, sử dụng sai mục đích...); tình huống nảy sinh khi huy động sức dân; tình huống nảy sinh do thiên tai, do va chạm làng xóm, dòng tộc... Cấp ủy, chính quyền cấp xã muốn xử lý tình huống tốt cần phải nắm vững và biết vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tế địa phương; phải am hiểu thực tiễn (kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương...); phải có tính quyết đoán, khả năng dự báo, sự nhạy cảm và phải gần dân, hiểu dân, tin dân, có trách nhiệm với dân...
Kỹ năng tổ chức thực hiện còn thể hiện ở việc kiểm tra, đánh giá hoạt động của các cá nhân, tập thể trong xây dựng nông thôn mới. Chức năng
65
kiểm tra, đánh giá là một trong những chức năng cơ bản của lãnh đạo, quản lý. Việc tiến hành kiểm tra đúng, kịp thời, có hiệu quả sẽ có tác động giáo dục, điều chỉnh các cá nhân, tổ chức hoàn thành các chủ trương, nghị quyết, quyết định mà cấp ủy, chính quyền đã ban hành. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”1. Người nhấn mạnh: “Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra.
Nếu tổ chức sự kiểm tra được chu đáo, thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười gấp trăm”2.
Kiểm tra, đánh giá giúp cho cấp ủy, chính quyền cấp xã hiểu rõ hơn về những thuận lợi, khó khăn; sự phù hợp hay không phù hợp của cách thức tiến hành; giữa mục tiêu và điều kiện thực hiện; giữa kết quả thực hiện với dự kiến ban đầu. Kiểm tra, đánh giá giúp cho cấp ủy, chính quyền cấp xã và quần chúng nhân dân nhìn nhận đúng về thành quả của mình. Kỹ năng kiểm tra, đánh giá thể hiện ở việc thu thập và xử lý thông tin, kịp thời phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, dự báo __________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 636, 637-638. 66
triển vọng phát triển. Có như vậy, cấp ủy, chính quyền cấp xã mới có thể xem xét và điều chỉnh kịp thời, có lý, có tình những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
xây dựng nông thôn mới.
Năng lực tổ chức thực hiện còn thể hiện ở việc sơ kết, tổng kết thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn mới. Sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm là một khâu không thể thiếu trong quá trình tổ
chức thực hiện nhiệm vụ chính trị. Sơ kết, tổng kết giúp cấp ủy, chính quyền cấp xã rút kinh nghiệm những gì đã làm, phát hiện những nhân tố mới, mô hình mới, điển hình mới, những thành công để
phát huy, nhân rộng. Đồng thời, phát hiện, khắc phục những thiếu sót, hạn chế và những bất cập trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện. Hơn nữa, sơ kết, tổng kết góp phần bổ sung làm cho chủ
trương, kế hoạch về xây dựng nông thôn mới ngày càng đúng đắn hơn, phù hợp hơn...
3. Phẩm chất tâm - sinh lý của đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chính quyền cấp xã
Để có năng lực lãnh đạo, quản lý tốt, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu xây dựng nông thôn mới, trước hết đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chính quyền phải có sức khỏe, có mong muốn hoạt động, có
67
quyết tâm hoạt động nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn xây dựng nông thôn mới. Người cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã có ý tưởng mới, chương trình hành động hay cần phải có sức khỏe thì mới có thể biến ý tưởng đó, chương trình hành động đó thành hành động thực tế. Hơn thế nữa, trong quá trình thực thi nhiệm vụ, có nhiều vấn đề nảy sinh, cản trở, đòi hỏi đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ
chính quyền cần có ý chí nỗ lực, khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có nhiều phẩm chất tâm - sinh lý góp phần vào quá trình hình thành, phát triển chất lượng và năng lực của đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền - một thành tố quan trọng ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới.
Thứ nhất, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng, kiên trì với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Đây là phẩm chất đầu tiên cần có của người cán bộ nói chung, của đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã nói riêng, nhất là trong điều kiện hiện nay khi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới nói riêng đang đặt ra những yêu cầu cao, cấp bách.
68
Đó là phải lãnh đạo, quản lý điều hành để cải tạo hiện trạng của địa phương theo hướng tốt hơn, phát triển hơn, đổi mới cái cũ, lạc hậu, cái không phù hợp và làm mới những cái chưa có trong tiền lệ; dẫn dắt địa phương, đơn vị hướng tới mục tiêu xây dựng nông thôn mới; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn; nâng cao dân trí, đào tạo nông dân có trình độ sản xuất cao, có nhận thức chính trị đúng đắn, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới; xây dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững theo hướng hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, sản phẩm nông nghiệp có sức cạnh tranh cao; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và hiện đại, nhất là đường giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, khu dân cư,...; xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, văn minh, giàu đẹp, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; an ninh trật tự được giữ vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường, xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức...
Nếu không có bản lĩnh chính trị vững vàng, không kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng, không kiên trì với sự nghiệp, đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
69
và xây dựng nông thôn mới thì rất dễ bị lệch lạc và dẫn tới chệch hướng, khó có thể thực hiện thắng lợi các tiêu chí nông thôn mới. V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ
có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”1. Bản lĩnh chính là sự kết tinh các giá trị chính trị - tinh thần của người cán bộ cấp ủy, chính quyền, sự tổng hợp các phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực thực tiễn tạo thành một trạng thái tinh thần bền vững, ổn định, bảo đảm sự kiên định về lập trường, quan điểm trước những tác động phức tạp của diễn biến tình hình chính trị - xã hội; có đủ năng lực để
vượt qua mọi thử thách, khó khăn để hoàn thành tốt trọng trách được giao. Bản lĩnh chính trị của người cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới được thể hiện ở sự kiên định mục tiêu, lý tưởng, lập trường cách mạng của Đảng; sự vững vàng về tâm lý chính trị và ý chí vượt qua những khó khăn, trở ngại trong quá trình phát triển của địa phương; sự bình tĩnh, tỉnh táo, nhạy bén và quyết đoán trong các hoạt động lãnh đạo, quản lý. Bản lĩnh chính trị còn thể hiện ở tính tích cực, chủ động và kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện thiếu trách nhiệm, __________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 44, tr. 449.
70
tham ô, tham nhũng, vi phạm lợi ích của nhân dân. Cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã nếu không có bản lĩnh chính trị vững vàng, không kiên định, không kiên trì thì khi gặp khó khăn sẽ
rất dễ nản lòng, không còn ý chí phấn đấu, từ bỏ mục tiêu và do đó, khó có thể dẫn dắt tập thể thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra.
Thứ hai, trí tuệ mềm dẻo, linh hoạt.
Trí tuệ mềm dẻo, linh hoạt giúp cho đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chính quyền cấp xã có khả năng phân tích tình huống một cách chính xác, có khả năng giải quyết các tình huống kịp thời và dễ thích nghi với những biến đổi về kinh tế, xã hội ở địa phương. Người cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã có trí tuệ linh hoạt, mềm dẻo có thể dễ dàng tìm ra những giải pháp thích hợp để giải quyết các tình huống thực tiễn nảy sinh, cũng như việc xác định được kế hoạch hoạt động của tập thể. Đặc biệt là trong điều kiện nông thôn Việt Nam với mô hình làng, xã mang tính chất khép kín, quan hệ họ hàng, dòng tộc, với nền sản xuất cơ bản là sản xuất nông nghiệp lạc hậu, manh mún... Hơn nữa, suốt một thời gian dài nước ta phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp đã tạo nên một kiểu tư duy tiểu nông với cách nghĩ đơn giản, máy móc, xơ cứng. Vì vậy, xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
71
chủ nghĩa và xu hướng hội nhập quốc tế, đô thị hóa ở nông thôn hiện nay đòi hỏi đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chính quyền cấp xã phải có trí tuệ mềm dẻo, linh hoạt.
Thứ ba, khả năng quan sát.
Phẩm chất này giúp cho đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã có cái nhìn tổng thể, bao quát, toàn diện, cũng như cái nhìn chi tiết, cụ thể. Khả năng quan sát giúp cho đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chính quyền cấp xã có thể giải quyết tốt những tình huống mâu thuẫn nảy sinh, những mối quan hệ phức tạp trong công việc để đảm bảo sự hài hòa, thống nhất trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Kỹ năng điều hành, tổ chức thực hiện được hình thành và phát triển chỉ khi đội ngũ cán bộ cấp ủy đảng, chính quyền có tri thức, có kinh nghiệm thực tế và có khả năng quan sát, giúp lựa chọn, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ hợp lý, chọn đúng người, giao đúng việc; đảm bảo sự đoàn kết, nhất trí trong nội bộ; sắp xếp nội dung công việc tuần tự, đặc biệt là khả năng chỉ huy, điều hành, biết đưa ra những quyết định đúng lúc, đúng thời điểm, có giá trị thuyết phục cao.
Thứ tư, năng động, sáng tạo, có phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ, khoa học, sâu sát, cụ thể. Năng động, sáng tạo giúp cho đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chính quyền cấp xã có được những sáng kiến trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình.
72
Sự sáng tạo, năng động thôi thúc việc tìm tòi những cách làm mới, mô hình hay trong xây dựng nông thôn mới phù hợp với hoàn cảnh, với sự biến đổi kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị, đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân và mục tiêu, yêu cầu của xây dựng nông thôn mới. Thực tiễn xây dựng nông thôn mới cho thấy, mọi biểu hiện của sự trì trệ, không dám đổi mới của đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chính quyền cấp xã là một trong những nguyên nhân làm cho việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gặp khó khăn. Xây dựng nông thôn mới không chỉ là xây dựng về cơ sở vật chất, nâng cao đời sống của người dân mà quan trọng hơn là phải xây dựng con người mới ở nông thôn, năng động, sáng tạo, biết tận dụng lợi thế để phát triển. Đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã cần phải nhận thức thấu đáo nội dung của xây dựng nông thôn mới để hoạch định những công việc cần làm và xác định cách làm phù hợp.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới đang đặt ra và đòi hỏi công tác lãnh đạo của cấp ủy, quản lý điều hành của chính quyền cấp xã phải đổi mới về tư duy chiến lược phát triển, đổi mới các khâu trong quá trình lãnh đạo, quản lý, điều hành; biết huy động và phối hợp một cách nhịp nhàng các nguồn lực,
73
phát huy sức mạnh tổng hợp phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển của địa phương. Điều này đã đặt ra cho đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã phải thật sự năng động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chủ động trong đề xuất sáng kiến để tạo dựng các nguồn lực cho sự phát triển của địa phương, sáng tạo các hình thức, biện pháp trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ; không thụ động trông chờ, ỷ lại sự chỉ đạo của cấp trên; luôn tìm chọn con đường, biện pháp tối ưu để hoàn thành công việc, với hiệu quả cao. Nhưng sự nhanh nhạy, năng động, sáng tạo phải thống nhất với nguyên tắc “tính Đảng” - nghĩa là phải đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cách làm “giữ cho tròn” hoặc “bung ra hết cỡ” bằng mọi giá, chạy theo thành tích cũng đều sai lầm và xa lạ. Để thực hiện thành công các tiêu chí nông thôn mới, đòi hỏi cấp ủy, chính quyền cấp xã phải có “cách làm việc khoa học” đúng với quy luật khách quan, mang tính kế hoạch, bài bản, sáng tạo và hiệu quả. Phong cách lãnh đạo, quản lý khoa học đòi hỏi phải “đặt kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực”; đồng thời phải có "óc tổ chức", xếp đặt công việc cho rõ ràng, tổ chức, động viên cán bộ và nhân dân thực hiện và phải "khéo kiểm soát" để tổng kết "rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng". Đối lập với phong cách khoa học là thói tùy tiện,
74
chủ quan, duy ý chí, thiếu kế hoạch, luộm thuộm, không có hiệu quả...
Bên cạnh đó, người cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã phải có phong cách dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Phong cách dân chủ là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo, quản lý ở
cấp cơ sở, khơi dậy được sự tham gia nhiệt tình, và những đóng góp sáng tạo của quần chúng nhân dân trong thực hiện các tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới. Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến"1. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới hơn bao giờ hết đòi hỏi cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã phải "Đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân"2, hiện thực hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân thụ hưởng”. Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước, người cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã phải biết phát huy trí tuệ và sức mạnh của nhân dân, huy động hợp lý các nguồn lực trong dân để xây dựng nông thôn mới; mọi huy động đóng góp của dân phải được bàn bạc, công khai, dân chủ, đồng thuận cao trong cộng đồng dân cư để nhân dân hiến kế, đề xuất __________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 284, 75.
75
cách thức thực hiện. Khi nhân dân thấy được kết quả, lợi ích thiết thực, sẽ tăng thêm lòng tin, đồng lòng, đồng thuận, sự đồng hành của nhân dân trong quá trình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Bởi vậy, đem tài dân, sức dân, của dân, tức là đem toàn bộ sức người, sức của, tinh thần, vật chất, tài năng, của cải, tài sản trong dân để làm lợi cho dân chính là triết lý phát huy trí tuệ của dân để làm lợi cho dân. Cấp ủy, chính quyền cấp xã chỉ là người tổ chức, chỉ dẫn, còn lại phụ thuộc rất nhiều ở người dân, người thực sự là chủ.
Cấp xã là cấp gần dân nhất, sát dân nên muốn lãnh đạo thành công, người cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã phải có phong cách đi sâu, đi sát quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải “đi sát cơ sở, nằm ở cơ sở”1 để hỏi dân, học dân và hiểu dân, qua đó mới có thể nắm được dân tâm, dân tình, dân ý. Có đi sâu, đi sát quần chúng thì mới kiểm nghiệm được sự sát đúng của các chủ trương, chính sách, mới phát hiện được những nhân tố mới, điển hình tiên tiến, cách làm hay để ủng hộ và nhân rộng; kịp thời khắc phục những hạn chế, giải quyết những vấn đề mới nảy sinh. Do đó, để có thể tổ chức thực hiện thắng lợi các tiêu chí quốc gia __________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 277. 76
về xã nông thôn mới, đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã phải sâu sát nhân dân, phải thực sự nắm rõ tình hình, rõ từng người, rõ từng việc, không thể chung chung, đại khái. Đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã phải bảo đảm: sâu sát tình hình sản xuất và đời sống của nông dân; sâu sát với thực tiễn địa bàn cơ sở; sâu sát với nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân; sâu sát với tình hình diễn biến của thị trường nông sản hàng hóa để thực hiện tốt công tác định hướng, hướng dẫn, hỗ trợ tích cực nông dân phát triển sản xuất, đáp ứng được yêu cầu của thị trường, nâng cao thu nhập của người nông dân. Từ đó người dân có điều kiện để tiếp tục
tham gia đóng góp xây dựng nông thôn mới. Thứ năm, tính quyết đoán.
Phẩm chất này thể hiện sự phát triển cao của ý chí. Điều này giúp cho đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã vượt qua những khó khăn, thử thách, “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” để thực hiện có hiệu quả mục tiêu đã đặt ra. Quyết đoán là đưa ra quyết định nhanh, dứt khoát, mạnh mẽ để giải quyết vấn đề nào đó. Trong cuộc sống, nhiều tình huống thực tế buộc con người phải đưa ra quyết định ngay trong khi kết quả có thể còn chưa rõ ràng. Quyết đoán không phải là liều mạng mà là đưa ra quyết định trên cơ sở suy xét, phán đoán về bản chất của vấn đề,
77
xu hướng diễn biến, với sự tự tin vào bản thân, lòng dũng cảm và tinh thần dám chịu trách nhiệm. Đó là một phẩm chất không thể thiếu ở người lãnh đạo, quản lý, của những người có ý chí, mục tiêu rõ ràng. Tuy nhiên quyết đoán không có nghĩa là cố chấp, khăng khăng giữ ý kiến của mình mà không biết linh hoạt điều chỉnh khi hoàn cảnh thay đổi hay khi giải pháp đưa ra thể hiện một số bất cập. Quyết đoán cũng không có nghĩa là bảo thủ, không để tâm đến ý kiến của người khác hay lợi dụng vị thế của mình để đưa ra quyết định độc đoán, đánh mất sự ủng hộ của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhờ có phẩm chất này, người cán bộ cấp ủy, chính quyền với tư cách đại diện cho cấp ủy, chính quyền ở xã thể hiện ý chí quyết tâm chính trị cao, không chùn bước trước những khó khăn trở ngại trong quá trình thực hiện các tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới; thể hiện sự quyết liệt, quyết đoán trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Kinh nghiệm cho thấy, nơi nào cấp ủy, chính quyền và cả hệ
thống chính trị vào cuộc với quyết tâm chính trị cao, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện một cách thống nhất, đồng bộ, xác định rõ nội dung trọng tâm, trọng điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo và phù hợp với điều kiện thực tiễn cụ thể của từng địa bàn thì nơi đó tình hình có sự chuyển biến tốt và đạt kết quả cao theo mục tiêu,
78