🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nam Bộ Qua Ngôn Từ
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
PHÓ GIÁM ĐỐC – PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
ThS. CÙ THỊ THÚY LAN ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH NGUYỄN THU HƯỜNG ThS. PHẠM VŨ PHƯƠNG LINH ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ LÊ HÀ LAN
NGUYỄN THANH TẤN KIỆT NGUYỄN THU HƯỜNG BÍCH LIỄU
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1360-2020/CXBIPH/23-301/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5016-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/6/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020.
Mã ISBN: 978-604-57-5676-8.
Biên mục trên xuất bản phẩm
của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Hồ Xuân Mai
Nam Bộ qua ngôn từ / Hồ Xuân Mai, Phan Kim Thoa. - H. : Chính trị Quốc gia, 2019. - 176tr. ; 21cm Thư mục: tr. 168-176
1. Ngôn từ 2. Nam Bộ
495.922014 - dc23
CTF0417p-CIP
Lời hà xuấả
Ngôn từ mang nhiều hàm ý, cảm xúc giúp ta hiểu hơn về văn hóa, con người ở vùng đất đó. Trong tiếng Việt, mỗi vùng đất khác nhau có những ngôn từ có sự giống và khác nhau, làm cho tiếng Việt trở nên phong phú hơn, đa thanh, đa sắc hơn. Ở Nam Bộ sự giống và khác nhau giữa tiếng Việt Nam Bộ và tiếng Việt toàn dân; giữa văn hóa của cộng đồng người Việt ở vùng cực Tây Nam Bộ và văn hóa của người Việt thuở khẩn hoang, mở đất.
Để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về văn hóa và con người Nam Bộ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Nam Bộ qua ngôn từ của hai tác giả Hồ Xuân Mai và Phan Kim Thoa.
Trong cuốn sách này, tuy các tác giả không quy những bài viết thành những chủ đề cụ thể nhưng chúng ta vẫn nhận ra đặc điểm văn hóa của người Việt Nam Bộ qua các đặc điểm của ngôn ngữ, cụ thể là ngữ âm, từ vựng và phong cách diễn đạt của người Việt Nam Bộ. Nói cách khác, người đọc sẽ nhận diện được đặc điểm văn hóa của người Việt Nam Bộ qua lớp từ ngữ mà họ sử dụng. Ở chừng mực nào đó, các tác giả cũng đã cố gắng giải thích nguyên nhân vì sao có sự khác biệt, chỉ ra cơ sở hình thành những
6 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
đặc điểm văn hóa và ngôn ngữ của người Việt Nam Bộ. Đây là việc làm rất đáng trân trọng.
Đây sẽ là tập tài liệu quý giá có ích cho những ai muốn nghiên cứu về con người và văn hóa, ngôn ngữ Nam Bộ nói chung và các bạn nghiên cứu sinh, những học viên cao học và các bạn sinh viên.
Xin giới thiệu đến bạn đọc.
Hà Nội, tháng 01 năm 2019
Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
L NÓ ĐẦ
Cuốn Nam B qua ngôn t là tập hợp hầu ht bài viết về Nam Bộ, đã được công bố trên các tạp chí Khoa học xã hội và Ngôn ngữ, Ngôn ngữ và Đời sống. Nội
dung những bài viết trình bày các đặc điểm về ngữ âm, ht bnhnh tqcitht
từ vựng, ngữ pháp trong lời ăn tiếng nói của người Việt Nam Bộ và cách thức người Việt ở đây diễn đạt. Chúng tôi không chia thành những chủ đề riêng vì sẽ tạo ra cảm giác chuyên môn, nặng nề mà chỉ trình bày tản mạn những khía cạnh khác nhau về đặc điểm ngôn ngữ của người Việt Nam Bộ để xem chúng khác như thế nào so với tiếng Việt toàn dân. Qua đây, chúng tôi mun lý giải vì sao văn hóa và ngôn ngữ của người Việt Nam Bộ, cụ thể là Tây Nam Bộ, hoàn toàn khác với ông cha, đng thi mun giúp bạn đọc nhận diện ngôn ng Nam Bộ.
Mặc dù cố gắng nhiu trong qutrnh biên son nhưng giữa mênh mông văn ha Nam Bộ vi nhiu nét đc sc, nên chng tôi kh c th đcp ht cng như kh tránh khỏi hạn chế, mong bạn đọc lượng thứ. Chúng tôi luôn lắng nghe, trân trng vsẵn sng tip thu những góp ý, đnh gimang tnh xây dng tpha đc ginghiêm túc. Những lời góp ý của cc bạn là vàng ngọc đối với chúng tôi.
8 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và tập thể cán bộ, nhân viên Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã nhiệt tình giúp đỡ để đưa sách đến được tay bạn đọc. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn.
NHÓM BIÊN SOẠN
G
1. CƠ SỞ ÌN TN BN CT NGƯ NAM BỘ1
ã ể ầ
Phan Kim Thoa
Người Nam Bộ, cụ thể là miền Tây Nam Bộ, có rất nhiều đức tính đáng trân trọng: đó là sự phóng khoáng và bao dung; cởi mở, rộng rãi; dễ tin và dễ thân thiện với mọi người; dễ dãi và xuề xòa; thẳng thắn, dữ dội, mạnh mẽ nhưng cũng rất dễ mềm lòng... Vậy, điu gì đã khiến cộng đồng người Tây Nam Bộ có được những đặc điểm quý báu đó? Chúng tôi đã đi tìm lời đáp cho những câu hỏi này. Bài viết dưới đây s nêu bốn trong nhiều nguyên nhân hình thành nên những bản chất trên, đng thi so sánh những đặc điểm, bản chất của người miền Tây Nam Bộ trước đây với hiện nay để lm sng tảnh hưởng, tác động của điều kiện sống đối với bản chất con người.
1. Dẫn nhập
Bản chất con người được quyết định bởi nhiều yếu tố khác nhau nhưng chủ yếu là yếu tố xã hội và môi trường tự nhiên. Yếu tố xã hội ở đây bao gồm hoàn cảnh gia đình, cộng đồng sinh sống, giao tiếp; đối tượng giao tiếp; các tôn giáo trong khu vực sinh sống; hoàn cảnh xã hội; đặc điểm giáo dục; bối cảnh thành lập cộng đồng; v.v.. Môi trường tự nhiên nơi sinh sống như địa bàn sinh sống,
1. Bài đã được đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội, số 6 (154)- 2011. Bi ny đ đưc chnh sa vi s đng ca tc gi.
10 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
khí hậu, thời tiết, địa hình... cũng là các yếu tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển bản chất con người. Vậy, hai yếu tố này đã tác động như thế nào đến bản chất người Việt nói chung và người miền Tây Nam Bộ nói riêng?
Khi giao tiếp với người miền Tây Nam Bộ, chúng ta phải thừa nhận rằng họ có gì đó rất phóng khoáng, rất nhẹ nhàng. Vậy, cái gì đã làm nên tính cởi mở ở người miền Tây Nam Bộ? Bản chất phóng khoáng, bao dung của họ là kết quả của một quá trình “tôi luyện” hay vốn như thế? Người miền Tây Nam Bộ được đánh giá sống rất rộng rãi. Phải chăng đó là do họ sống trong một không gian rộng, hay do quá trình giao tiếp và giao thoa giữa các cộng đồng mà có được? Người miền Tây Nam Bộ nổi tiếng không câu chấp, không bắt bẻ, lý sự; cũng không ưa “giữ kẽ” nếu không cần thiết. Cho nên, khi tiếp xúc với cư dân vùng đất này chúng ta thấy toát lên ở họ sự dễ chịu, lòng vị tha, nhân ái và bao dung. Sẽ khó có thể giải thích được vì sao họ lại có những đức tính quý báu đó nếu như không đi sâu nghiên cứu điều kiện sinh sống của họ, bởi lẽ, các điều kiện về tự nhiên và xã hội là những yếu tố cơ bản hình thành đặc điểm của một cộng đồng. Và, chính đặc điểm cộng đồng đã trở thành yếu tố/ động lực tác động, chi phối từng thành viên của cộng đồng, khiến cho mỗi thành viên đều mang trong mình tố chất chung của cộng đồng. Có thể nói, đây là bản chất cộng đồng. Và, đây cũng là lý do tại sao những đặc điểm vừa nêu trên đây
CƠ SỞ HÌNH THÀNH BẢN CHẤT NGƯỜI NAM BỘ 11
không phải là cá biệt, là hiện tượng, là nhất thời mà là
á
bản chất của người miền Tây Nam Bộ, là đặc trưng của
ế
cư dân vùng sông nước này.
ệà
2. Cơ sở hình thành bản chất người Việt ở Nam Bộ 2.1. Bối cảnh hình thành cộng đồng và cơ sở xã hội hình thành đặc điểm, bản chất của người Việt ở miền Tây Nam Bộ1
Nam Bộ nói chung, Tây Nam Bộ nói riêng, là vùng đất mới hình thành. Theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức là mảnh đất này được khai phá vào năm ợáá
1698, nghĩa là mới được biết tới chỉ hơn ba thế kỷ2. Vùng ảó à
đất hoang vu này trước đó rất ít người. Khi ông Lễ Thành hu Nguyễn Hữu Cảnh vào khai phá đất Nam Bộ thì lưu dân khắp nơi, chủ yếu là dân các xứ Thanh - Nghệ và Quảng Nam - Đà Nng, Quảng Ngãi, cũng theo đó mà ầ
đến sinh sống. Như vậy, cư dân chủ yếu ở đây là dân miệt ngoài. Họ phải dựa vào nhau để sống nên họ cần phải tin à ẽ ó ó
tưởng, yêu thương, gạt bỏ hiềm khích, hiềm nghi và mâu thuẫn để gắn bó với nhau. Đây là cơ sở hình thành đặc ứ
điểm dễ tin người đến mức cả tin của cư dân ở vùng đt à ữếố
này. Ở đây cn xét đến mặt tâm lý. Nếu tất cả mọi người ảìà
1. Bài viết của chúng tôi chủ yếu đề cập những tác động của xã hội đối với việc hình thành đặc điểm, bản chất của người miền Tây Nam Bộ, cho nên thời gian cũng như quá trình khai phá, thành lập vùng đất này xin được gác lại.
2. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Tập Thượng. Bản dịch Tu trai Nguyễn Tạo dịch, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa Sài òn xuất bản, 1972.
12 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
đều nghi ngờ, giữ kẽ thì sẽ không đủ sức để chống chọi và vượt qua khó khăn của điều kiện tự nhiên thời bấy giờ. Để có đủ sức mạnh chống lại những thế lực mạnh hơn thì điều kiện tiên quyết là những con người vốn xa lạ, không quen nhau này phải gắn kết thành một cộng đồng; phải chung một lòng, một suy nghĩ, hướng tới lợi ích chung. Điều này cũng buộc mọi người phải tin tưởng vào nhau. Vậy là, từ chỗ bắt buộc, theo thời gian, đã trở thành bản chất của những con người vùng sông nước mà ngày nay, bất cứ một người/ cộng đồng nào muốn sinh sống ở vùng đất này cũng phải trải lòng mình ra mới có thể “trụ” được.
Cũng vì sống đan xen giữa những cộng đồng khác nhau, với những tập tục, văn hóa khác nhau mà tính dung hòa, bao dung của cư dân Tây Nam Bộ rất cao. Trong quá trình chung sống giữa các cộng đồng, những khác biệt văn hóa phải được khắc phục và những tương đồng phải được giữ lại và phát triển. Đây là cơ sở của việc hình thành đặc điểm dễ chịu đến mức dễ dãi, thậm chí là cả tin của cư dân miền Tây. Họ không câu nệ, không chấp nhứt, sẵn sàng tiếp nhận, bỏ qua khác biệt để hướng tới cái chung, cái có lợi cho cộng đồng. Đó là lý do tại sao người miền Tây Nam Bộ, xét về bản chất không hận thù, không hay so đo, cò kè. Nếu vấn đề không quá mức thì hơn thua chút đỉnh nhằm nhò gì!. Do vậy, cộng đồng này có tính xuề xòa, cốt được lòng nhau, được cái tình là đủ còn cái lý thì sau đó hẳng hay!.
CƠ SỞ HÌNH THÀNH BẢN CHẤT NGƯỜI NAM BỘ 13
Ở họ, lòng vị tha, rộng rãi, bao dung được thể hiện qua
ốọ
à ợó ủờấ
câu Chín bỏ một làm mười, nhằm xóa đi những dị biệt. ờ
Không quá nếu xem đây là sự hy sinh cho cộng đồng - một đức tính quý báu không dễ tìm.
ả
Nhưng không phải mọi thứ đều diễn ra một chiều.
Là vùng đất sinh sau đmuộn, dân tứ chiếng đến ề
sinh sống, mang theo nhiều lớp văn hóa và tư tưởng khác ậà
nhau, cho nên, dù có xuề xòa, dễ chịu đến mấy thì vẫn có những khác biệt, mâu thuẫn. Trước yêu cu phải tồn tại và giải quyết những bất đồng, khác biệt, con người ở vùng đất này đã phải tìm cái mới, chung cho tất cả mọi người. Đây là cơ sở hình thành tính bứt phá, đột phá của người miền Tây Nam Bộ sau này. Trong tnh cch của người miền Tây Nam Bộ, có sự cứng rắn, quyết đoán, bản lĩnh đn liều lĩnh của người miền Trung; mềm do, kho
á ìốữáộồ
lo và khôn ngoan của người miền Bắc. Và, cái rất riêng, rất Nam Bộ trong đó chính là sự dữ dội, mạnh mẽ, táo bạo và đột phá. Xt về mặt lý luận thì đây là cơ sở hnh thành đặc điểm mạnh bạo, dạn dĩ và đôi khi là liều lĩnh của cư dân vùng sông nước này. Họ sn sàng chấp nhận
ẵ
tất cả, kể cả khi biết trước điều mình làm là thất bại. Họ xông xáo, dấn thân để tìm điều cn thiết. Dn dà, đặc
é
điểm này trở thành bản chất của cộng đồng. Cho nên, khi tiếp xúc với người Tây Nam Bộ, chúng ta thấy ở họ toát lên tính khí hiên ngang, bản chất mạnh mẽ, dữ dội và bất chấp đến mức không có gì để ngn ngại mà không nói
14 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
thật những gì đang nghĩ, đang làm. Đứng trước những khó khăn mà do dự thì ngay lập tức thất bại sẽ xuất hiện. Cho nên, họ đã nghĩ là phải làm, không để cho bản năng vốn có của con người khống chế. Chính vì thế, cư dân ở vùng đất này luôn là những con người dám nghĩ, dám làm. Nhìn vào tư tưởng của các nhà yêu nước sẽ thấy rõ hơn đặc điểm này. Cùng là nhà nho nhưng quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Hiến Lê chẳng hạn, không giống như các cụ Phan Bội Châu hay Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng. Cũng là đấu tranh nhưng cụ Đồ Chiểu không mượn ai giúp, mà phải chính mình thực hiện: Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh/ Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ. Hay như nhà cách mạng Trần Văn Giàu chẳng hạn, tiếp nhận các tư tưởng khác nhau, trở về nước, đấu tranh bằng hình thức quân sự, lãnh đạo nhân dân đánh trước mới nói sau1. Cái dữ dội, mạnh mẽ của người miền Tây là vậy. Hình ảnh một bà má Nam Bộ sấn tới trước mặt quân thù, phải chăng có nguồn gốc sâu xa cũng từ đây?
Nghiên cứu cơ sở xã hội hình thành đặc điểm, bản chất của người Nam Bộ nói chung, người miền Tây Nam Bộ nói riêng, sẽ là thiếu sót nếu không đề cập một yếu tố khách quan, đó là mối quan hệ giữa lưu dân miệt ngoài
với cư dân bản địa, cụ thể là người Khmer Nam Bộ. 1. Hồi ký Trần Văn Giàu (bản viết tay).
CƠ SỞ HÌNH THÀNH BẢN CHẤT NGƯỜI NAM BỘ 15
Người Khmer Nam Bộ có lịch sử gắn bó lâu đời với mảnh đất Nam Bộ. Cộng đồng này có nhiều mặt đáng trân trọng như đc tin chân thật và chân thành; cả tin,
ọ
thật thà, chất phác. Họ sống trong những sóc - những làng riêng - tạo thành những khu vực riêng, cách biệt với xung quanh. Kinh tế chủ yếu của cộng đồng này là nông nghiệp, dựa vào đánh bắt và trồng trọt. Phật giáo là tôn giáo chính của họ. Đời sống tinh thn của cộng đồng này chủ yếu dựa vào đó. Cho đến nay, những đc tnh này của người Khmer Nam Bộ vẫn đưc duy tr, không thay đổi nhiều. Chính sự tương đồng như trên giữa hai cộng đồng đã ko họ li gn nhau hơn. Bản chất chân thật của người Khmer không thể không ảnh hưởng đến việc hình
ũ
thành đặc điểm dễ tin người đến mức cả tin của người
ầ
miền Tây Nam Bộ. Trong sthật thà, không tnh toán
G
của người miền Tây Nam Bộ không thể không kể đức tính thật thà, rộng rãi của người Khmer Nam Bộ. Người Khmer Nam Bộ sống xởi lởi, có sao nói vậy, không hiềm khích, lý sự hay bắt bẻ. Đặc điểm này không thể không ảnh hưởng đến cư dân Tây Nam Bộ trong quá trình hình thành bản chất chân thành và cởi mở; bộc trực, thẳng
thắn đến toạc móng heo của họ. Đặc điểm không ưa lý ờ
sự, không ưa bắt bẻ này hoàn toàn khác với bậc tiền bối ộ
của họ, những người có công khai phá vùng đất này. Như đã nói, những người theo ông Lễ Thành hu Nguyn Hu Cnh vào Nam vốn thuộc các xứ miệt ngoài. Mà, cư dân ở những nơi này luôn luôn lý sự, bắt bẻ vvặn vẹo.
ầG
16 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
Quảng Nam hay cãi là vậy. Vậy sao hậu duệ của họ lại xuề xòa, dễ chịu đến mức dễ dãi? Về mặt chủ quan, về logic thì họ phải thay đổi để liên kết và cố kết cộng đồng bởi nếu không, họ sẽ không đủ sức chống chọi lại các thế lực mạnh hơn. Nhưng về khách quan, đặc điểm trên của người miền Tây Nam Bộ không thể không chịu ảnh hưởng từ bản chất của cộng đồng người Khmer ở vùng đất này. Nói cách khác, cùng với yêu cầu nội tại, sự tác động của yếu tố Khmer trong quá trình hình thành bản chất của người miền Tây Nam Bộ là rất lớn.
2.2. Vai trò của tự nhiên đối với sự hình thành đặc điểm, bản chất của người Việt ở miền Tây Nam Bộ Nam Bộ là vùng đất rộng, phì nhiêu, nhiều kênh rạch và hai dòng sông lớn là sông Tiền và sông Hậu; địa hình tương đối bằng phẳng; giao thông bằng đường thủy là chính và rất thuận tiện. Khí hậu ở đây cũng thuận lợi, không khắc nghiệt như ở miền Bắc và miền Trung. Nam Bộ chỉ có hai mùa: nắng và mưa. Thuở ban đầu, đây là vùng đất hoang vu. Tất cả những yếu tố này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành đặc điểm, bản chất con người ở Nam Bộ.
Nam Bộ nhờ có điều kiện tự nhiên thuận lợi, mùa màng không thường xuyên bị thất bát, nên con người nơi đây không phải lo sợ nhiều về cái ăn cái mặc; không phải lo toan chưa có được miếng ăn cho buổi sáng đã phải tính đến những ngày tiếp theo nên họ sống thoải mái và tính
CƠ SỞ HÌNH THÀNH BẢN CHẤT NGƯỜI NAM BỘ 17
ậ
tình khác hơn so với người sống ở những nơi cđiều kiện tự nhiên khắc nghiệt, khó khăn.
ổ
Đưc thiên nhiên ưu đãi, không thường xuyên bị thiên tai, con người sống trong điều kiện ny không phải tính đến chuyện xây một căn nhà kiên cố, chỉ cần đơn giản và nhiều khi đơn giản đến mức tạm bợ. Nhờ điều kiện thiên
nhiên ưu đãi, khí hậu, thời tiết không quá khắc nghiệt, ầ
khiến cho con người ở những nơi như vậy ăn mặc đơn giản, không cu kỳ, tươm tất. Lâu dn, thói quen này trở thành đặc điểm cơ bản của cộng đồng. Người miền Tây Nam Bộ nổi tiếng đơn giản, mộc mạc, không cu kỳ trong cách ăn ở có lẽ được hình thành trên cơ sở này. Bất kỳ nơi đâu, người Nam Bộ nói chung, cũng có thể cắm dùi, làm nhà. Mà nhà thì cũng đơn giản, chỉ cn vài đoạn cây cắm xuống làm cột, một ít cây gác ngang để kê sạp nằm; mái lợp bằng lá dừa; vách cũng vậy. Chỉ đơn giản ở
như vậy, họ đã có nhà, có cửa. Có lẽ chính vì đơn giản như ầ
vậy mà trước đây, khái niệm xây dựng không mấy phổ biến ở khu vực này, mà chỉ là làm nhà, chính xác hơn là
mần nhà1. Nghĩa là, với người miền Tây Nam Bộ, mặc ộ
và ở chỉ là phương tiện còn cái chính thì không phải như ộ ờ ó
thế nên hết thế hệ này đến thế hệ khác, họ sống rất đơn giản vmộc mạc, làm thành bản chất sống còn của cộng đồng này.
1. Mãi đến gn đây, khi đời sống thay đổi, nhận thức của họ ọ
cũng thay đổi thì từ này mới trở nên phổ biến.
18 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
Địa bàn sinh sống đi lại thuận lợi, không bị trở ngại giúp con người đi lại thoải mái, dễ giao lưu, tiếp xúc; dễ thông thương, dễ đến với nhau và cởi mở nên con người rất dễ quen nhau. Bản chất của người miền Tây Nam Bộ gắn liền với đặc điểm này. Không cần biết nhau lâu mới có thể giao tiếp thân tình như nhiều nơi khác, người Nam Bộ nói chung, Tây Nam Bộ nói riêng, chỉ cần gặp nhau, sau vài câu là đã có thể thân tình, bày tỏ ngay. Họ không cần phải e dè, xét nét, dò lòng người đang nói chuyện với mình; mà cứ tự nhiên, thoải mái trong nói chuyện, không giữ kẽ, không kín kẽ, ý tứ gì cả, bởi họ tin người khác như chính mình. Với họ, mọi người đều như nhau. Cho nên, gặp một người trông tuổi hơn tía má thì họ gọi bằng ngoại, bằng má Hai, là bà cóc, bà cốc một cách rất tự nhiên, rất thật lòng, chẳng chút ngại ngùng. Với cư dân những nơi khác, khi được gọi như vậy sẽ cảm thấy “không an toàn”, có gì đó kỳ kỳ, phải dè chừng nữa là gọi người khác.Thế nhưng, với người miền Tây Nam Bộ, họ rất dễ đến với nhau bằng tấm lòng chân thật, thiệt tình đó.
Người miền Nam nói chung, Tây Nam Bộ nói riêng, nổi tiếng không lo tính toán, dành dụm cho ngày mai. Một chàng công tử Bạc Liêu “đốt tiền nấu trứng” chỉ nhằm thỏa mãn mục đích “tỏ ra mình giàu”. Hành động này rất cá biệt và đáng lên án. Người miền Tây Nam Bộ rất chịu chơi và sẵn sàng “chơi xả láng, sáng dậy sớm” để đi làm bù lại. Họ không cần biết bữa sau, hôm sau ăn gì, sống
CƠ SỞ HÌNH THÀNH BẢN CHẤT NGƯỜI NAM BỘ 19
bằng gì. Từng có câu hát nhại Sáng ăn cơm sườn/ Chiều ú
ăn nước tương/ Tối leo lên giưng/ Nằm nghe cải lương để nói về đặc điểm ny của cư dân nơi đây.
Bản chất không lo xa, không cn dành dụm, phóng ầ
khoáng có cơ sở của nó. Đất Nam Bộ phì nhiêu, màu mỡ và
bao la. Cư dân ở đây mần chơi, ăn thiệt, không phải lo sợ ầ
bão tố mùa màng thất bát. Thời tiết cng không quá khắc
nghiệt đến mức phải lo sợ mà đề phòng. Họ sống trong ầéé
điều kiện trên cơm dưới cá rt thun li cho mưu sinh, hơn na điều kiện sinh sống của họ không chứa nhiều rủi ro, bất trắc như cư dân ở miền Trung hay ở đồng bằng sông Hồng, cho nên, họ cứ thoải mái, không tn tiện đến mức
hà tiện như người miền Trung, cũng không gói ghm đề ó
phòng cn trng như người miền Bắc. Như vậy, bản chất
căn cơ ca cha ông khi mới vào Nam lập nghiệp đã được ẽ
thay th bằng sự rộng rãi, hào phóng đn mc xả láng. ó
Như vy, cththy, môi trường tự nhiên đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành bản chất của con người.
3. Bản chất của người Việt ở Nam Bộ hiện nay Hoàn cảnh xã hội, điều kiện tự nhiên hiện nay trên thế
á
giới nói chung, Việt Nam nói riêng, hoàn toàn khác so với vài chục năm trước; càng khác xa so với mấy thế kỷ trước. à
Bản chất con người cũng theo đó mà thay đổi. Bản
á
chất của người Việt ở Nam Bộ nói chung cũng không nằm ẵ
ngoài quy luật.
ầ
20 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
Môi trường tự nhiên hiện nay đã thay đổi nhanh chóng theo chiều hướng xấu dần. Điều kiện tự nhiên ở Nam Bộ không còn như trước. Đất không còn màu mỡ, phì nhiêu; sông ngòi đã trở nên cạn kiệt; mưa bão và hạn hán xảy ra thường xuyên, đe dọa nghiệm trọng đời sống của người dân, đặc biệt là nông dân. Cho nên, người dân Tây Nam Bộ hiện nay cũng đã ý thức được sự đe dọa của tự nhiên, họ không còn từ xả láng nữa, mà phải tích cóp, dành dụm để đề phòng về sau. Đồng ruộng không còn mênh mông nữa mà đã “co lại” do dân số tăng nhanh. Nông dân không còn đủ đất để canh tác nên khả năng dư dả cũng không còn. Cảnh trên cơm dưới cá không còn, nên họ không thể tiếp tục phóng khoáng. Thời tiết dần trở nên khắc nghiệt khiến cư dân phải nghĩ đến một ngôi nhà kiên cố hơn, phải xây nhà chứ không thể tiếp tục đơn giản. Cách ăn ở của họ cũng vì thế mà không còn đơn giản, phong phanh tấm áo như trước nữa.
Điều kiện xã hội cũng đã thay đổi sâu sắc hơn. Vùng đất này hiện đang tiếp nhận nhiều cộng đồng người từ những nơi khác, chủ yếu là những người ở miệt ngoài vào. Đặc trưng văn hóa của họ tiếp tục giao thoa với văn hóa của cư dân ở những nơi mới tới nên có sự thay đổi. Đời sống công nghiệp khiến con người trở nên tất bật, không đủ thời gian để thăm hỏi nhau nên bản chất dễ thân thiện cũng dần dần thay đổi. Các khu đô thị, khu công nghiệp dần mọc lên, đời sống của họ cũng dần phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt, không thể giữ được
CƠ SỞ HÌNH THÀNH BẢN CHẤT NGƯỜI NAM BỘ 21
bản chất Chín bỏ một làm mười hay xuề xòa được nữa. Tính cộng đồng, tình làng nghĩa xóm cũng theo đó mà
ầ
khác đi.
Trên đây chỉ là một vài nhận xt bước đu, còn biết ả
bao điều về bản chất của con người miền Tây Nam Bộ hiện nay cn phải nói thêm sđưc đcp trong một bài viết khác.
ừ
ả
ế
ở
ỏ
ầầ
ũ
2. NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ1 Hồ Xuân Mai
Phan Kim Thoa
1. Từ ngữ cụ thể, chính xác, trực tiếp và văn hóa Nam Bộ
Khi giao tiếp với người Nam Bộ, chúng ta sẽ nhận thấy họ thường sử dụng những từ ngữ đúng với nội dung giao tiếp. Chẳng hạn, để tỏ thái độ không vừa lòng, một người miền Tây Nam Bộ sẽ nói trực tiếp và rất ấn tượng là Bộ mầy/bây khùng hay sao vậy?, Mầy/bây nói gì bậy bạ vậy?,... Từ ngữ trong những câu hỏi trên chính xác với nội dung nghi ngờ đúng - sai, chính xác - không chính xác và cụ thể với nghĩa của nó, tức mức độ tin tưởng của người nghe. Họ không cần phải thay bộ mầy khùng... và bậy bạ... thành hình như anh chưa nghĩ kỹ thì phải..., ...đảm bảo chính xác rồi chứ... Họ nghĩ và nói đúng với điều mình nghĩ. Vì nghi ngờ nên hỏi bằng từ thể hiện nội dung đó (nói) bậy bạ (gì vậy), (Bộ mầy/bây) khùng (hay sao vậy)? Những cách nói như vậy sẽ rất khó nghe đối với những cộng đồng khác nhưng đó là đặc trưng trong lời ăn, tiếng nói của cộng đồng này.
Thấy hai người quen, một nam đi với một nữ, người Nam Bộ sẽ chào Tụi bây dắt nhau đi đâu đó? chứ không
1. Bài đã được đăng trong Kỷ yếu Hội thảo 40 năm Khoa học xã hội Nam Bộ nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, 2015. Bài này được chỉnh sửa với sự đồng ý của tác giả.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 23
sử dụng từ ngữ nói vòng, nói tránh để giảm độ xốc như:
HỜI
Hai cậu/bạn đi chơi vui nhỉ? Trong đời sống, trừ những trường hợp hết sức cn thiết phải sử dụng cách nói không trực tiếp, nói vòng, thì người Nam Bộ đều sử dụng những từ ngữ thể hiện đúng và chính xác nội dung mình muốn trao đổi. Đó là lý do tại sao tới nhà gái để thăm dò thái độ
của gia đình và biết mặt cô gái mình dự định sẽ cưới cho ấ
con, người Nam Bộ không hề dạm ngõ hay sơ giao, ngỏ lời, mở lời mà là coi mắt. Mắt của người con gái có bị làm sao đâu mà coi? õ ràng, gia đình bên trai tới nhà gái để xem cô gái đẹp - xấu, duyên - không duyên,... tức nhìn thử có được, có vừa mắt, ưng ý không nhưng họ chẳng cn phải sử dụng những từ ngữ hoa mỹ, mà huỵch toẹt là đi coi mắt. Tại sao vậy?
Tính chính xác, cụ thể của người Nam Bộ còn được ầ
thể hiện ở lớp từ ngữ so sánh và chỉ mức độ, như sẽ thấy ở dưới. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy trong câu nói của cộng đồng min Tây Nam Bộ thường có những từ ngữ ví von, những từ chỉ mức độ. Đây là đặc trưng của lời ăn, tiếng nói của họ, không phải ngẫu nhiên. Để khen hay chê một người, cư dân Tây Nam Bộ chắc chắn không nói nửa vời kiu như: khá, cng được, thế thì còn gì bằng, ổn rồi, anh giỏi thế, v.v.. Đây là những lời khen, nhưng mức độ của nó là gì thì những từ ngữ ã
trên không thể giúp chúng ta biết được rrng. ặp những từ ngữ như vậy, chúng ta hiểu đó không phải là
ààợỉửớựồ
cách nói của người Nam Bộ. Nếu là cộng đồng Nam Bộ ýủáả
24 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
thì đó phải là được quá sá/trời, giỏi một cái, siêng một cái, xạo một nước, hỗn một nước, lì bà cố, ngon hết sẩy, lâu hoắc/một cái, xa một cái; hoặc cách nói giàu hình ảnh đầu gáo dừa, sọc rằn, rằn ri, mắt bù lạch, mỏ cá hô, rị mọ, cà rị cà mọ, v.v.. Chính nhờ cách nói đặc trưng này mà khi nghe chúng ta cảm thấy tin tưởng, yên bụng. Nếu trực tiếp nghe người Nam Bộ nói như vậy, cùng với giọng điệu và ngữ âm, thái độ của họ khi nói, chúng ta sẽ cảm thấy họ đã phơi bày tất cả, không giấu giếm hay đang có ý đồ gì khác.
Cái gì đã tạo nên cách nói như vậy?
Người Nam Bộ thẳng thắn, bộc trực. Họ không quanh co, rào đón trước sau. Văn hóa của cộng đồng này là vậy, cho nên, lời ăn tiếng nói của họ cũng vậy. Họ nghĩ như thế nào, nói như thế đó, không cần phải uốn lưỡi bảy lần, không sợ người đối diện phật ý. Họ nói đúng nội dung cần nói, ít khi thay bằng những từ ngữ tương đương. Chính vì vậy, chúng ta thấy lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ có phần mộc mạc, ít trau chuốt, không nhiều từ ngữ hoa mỹ. Đây là lý do tại sao nhiều nhà nghiên cứu cho rằng người Nam Bộ ít diễn đạt và khi diễn đạt thì kém thuyết phục, thậm chí còn khiến người khác bực mình. Nhưng đây cũng là sự thể hiện bản tính chân thật, chất phác và khi tiếp xúc với họ, chúng ta cảm thấy yên tâm, không sợ bị bắt bẻ, không cần phải giữ ý, giữ kẽ. Họ sử dụng những từ ngữ thẳng ruột ngựa, không rào trước đón sau,
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 25
không che giấu ý đồ đằng sau từ ngữ, câu chữ. Đó là một phn đặc trưng văn hóa của cư dân miền sông nước Tây Nam Bộ. Khi nghiên cứu văn hóa và con người Nam Bộ, chúng ta thường nói như vậy. Nhưng bằng cách nào để hiểu được đc trưng đ? Đt trưng đó được biểu hiện như thế nào? Trước hết, được biểu hiện qua ngôn ngữ. Nghe một người nói, chúng ta có thể đánh giá được họ nhờ vào đặc điểm âm thanh, từ ngữ, ngữ điệu của câu. Một người xảo ngôn thưng có bản chất không thật. Một người lừa dối thường ngụy biện ngôn từ. Một người đạo mạo, ra v, lên mặt thường lên giọng, quan trọng hóa những điều mình nói. Tất cả những điều này đều vi phạm nguyên tắc giao tiếp, bởi lúc đó người nói đã không tôn trọng người đối diện, tức vi phạm nghiêm trọng văn hóa trong
giao tiếp1.
ầầ
Người Nam Bộ cũng vẫn nói vòng, nói tránh như ầ
cộng đồng miền Bắc v miền Trung nhưng rất ít khi sử dụng. Cho nên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng người Nam Bộ không kho ăn nói, lời lẽ ít trau chuốt, rất dễ ầ
mất lòng người khác2. Chủ yếu họ sử dụng những từ
ngữ đúng với nội dung cn diễn đạt, chính xác với mục é
đích cn giao tiếp. Mà, quy luật của ngôn ngữ là càng ò
1. Cn phân biệt giữa lời nói thật bụng với ngôn ngữ ngoại ự ể ệảí
giao, vì trong rất nhiều trường hợp, ngôn ngữ ngoại giao chỉ để ngoại giao còn sự thật có khi hoàn toàn không phải vy. 2. Xem Trn Ngọc Thêm (Chủ biên): Văn hóa người Việt vùng ẻầ
Tây Nam Bộ, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thnh phHChMinh, 2013, tr. 303-306.
26 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
chính xác, càng cụ thể thì càng tạo ra một lượng thông tin lớn. Đây là một trong những lý do tại sao người Nam Bộ nói rất ngắn gọn, câu không dài dòng văn tự nhưng đầy đủ ý.
Không phải người Nam Bộ không có cách nói có tính công thức. Cộng đồng này cũng có những cụm từ cố định để giao tiếp. Ví dụ, Mũi cá rồng, Lưng tôm, Thằng đó cù lao lắm, đâu ai biết tới nó, Miệng (nói như) tép lội, Nó (mần ăn) giàu kiểu nước nhảy,...Những cách nói như trên thường diễn đạt trực tiếp nội dung, không phải để mào đầu, rào đón trước sau nhằm giảm độ xốc, tức giảm phản ứng nơi người nghe. Loài cá rồng vùng nước ngọt Tây Nam Bộ có mũi thấp, tẹt, có thể nhìn thấy một phần bên trong. Một người có mũi như vậy là mũi xấu. Cù lao là bãi đất, cồn cát nằm giữa sông hoặc được bao bọc bởi những con sông. Người sinh sống ở đây biệt lập với xung quanh. Thằng đó cù lao lắm, đâu ai biết tới nó thì cù lao được chuyển thành tính từ với tất cả những nét nghĩa của nó: cô đơn, đơn độc, một mình, khép kín, lập dị, v.v.. Người Nam Bộ không sử dụng những từ ngữ thay thế cho những trường hợp tương tự, chẳng hạn sống khép kín hay ít xã giao... Họ cứ huỵch toẹt bằng một từ cụ thể, chính xác đến không thể nào thay thế được là Thằng cù lao. Cách diễn đạt này vừa hình ảnh, lại rất gần gũi và quen thuộc với con người Nam Bộ; chính xác đến mức không thể thay thế. Lấy đặc điểm của cù lao để gắn cho con người đã là một sự liên tưởng
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 27
độc đáo nhưng sự chính xác của việc liên tưởng đó mới thật sự đáng khâm phục bởi nó giúp chúng ta thấy được sự nhạy bn, thông minh của cư dân nơi đây.
ầ
Tương tự, miệng cá chạch rất xấu, môi trên dài hơn
môi dưới và hơi khoằm. Một người có miệng như vậy chắc chắn không đẹp. Vì miệng chồm về trước như vậy ũ
nên cảm nhận của người xung quanh v ngưi như ny sẽ là người hồ đồ, hàm hồ, nói lấy được: Con nhỏ mỏ cá chạch đó hồ đồ thấy mẹ. Một người xấu, đặc biệt là cái miệng, sẽ có sự mặc cảm nào đó. Cho nên, để tránh chạm vào nỗi đau của đối tượng, chúng ta có thể sử dụng những từ đồng nghĩa để thay thế. Tuy nhiên, mọi
từ ngữ đồng nghĩa, dù chính xác đến mức độ nào cũng ầ
đều không phải là nó. Có phải vì vậy mà người Nam Bộ không sử dụng từ thay thế? Câu trả lời là không. Trong giao tiếp hng ngy, cộng đồng Tây Nam Bộ ít khi để ý tới đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ. Họ rất đơn giản: cụ thể, chính xác, rõ ràng và trực tiếp, nghĩ sao nói vậy. Họ
éénói đúng nội dung cn nói, bằng những từ ngữ thể hiện
nội dung đó mà không sợ người nghe phật ý. Cho nên, nghe người Nam Bộ nói, chúng ta có thể liên tưởng chính
é
xác đối tượng. Tuy nó khó nghe, thô kệch nhưng mộc mc vchân thnh, là biểu hiện của linh hồn cộng đồng này. Đó là nt đẹp văn hóa của cộng đồng Tây Nam Bộ. ầà
Nhưng vì sao người Nam Bộ không lý sự, quanh co, rào trước đón sau trong giao tiếp? Vì sao họ thích diễn đạt
28 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
trực tiếp, làm thành đặc điểm ngôn ngữ và là biểu hiện văn hóa của một cộng đồng?
Có ba nguyên nhân sau:
Trước hết, vùng đất mới Nam Bộ, đặc biệt là cực Tây Nam Bộ, có rất nhiều loài sinh vật mang đặc trưng miền sông nước nên những cộng đồng khác tới đây sinh sống sẽ không biết tên gọi cũng như đặc điểm của chúng. Vì vậy, để người khác có thể hiểu được, bắt buộc cả người nói lẫn người nghe đều phải diễn đạt đúng, chính xác đối tượng. Yêu cầu ban đầu này được lặp lại, thường xuyên, đều đặn và lâu dần đã trở thành thói quen trong giao tiếp ngôn từ của cộng đồng cư dân Tây Nam Bộ: họ phải diễn đạt trực tiếp, cụ thể và chính xác đối tượng.
Thứ hai là vấn đề ngôn ngữ. Mặc dù đều sử dụng tiếng Việt nhưng chắc chắn giữa hai cộng đồng người Việt ở Bắc Bộ và Trung Bộ phải có những khác biệt nhất định về từ ngữ cũng như cách diễn đạt, đặt tên cho sự vật, sự việc. Đứng trước vùng đất mới Nam Bộ, cả hai vừa bỡ ngỡ, lại không mấy hiểu nhau. Để tránh những hiểu nhầm có thể dẫn đến những mâu thuẫn, bắt buộc họ phải nói đúng, gọi tên đúng các đối tượng.
Nguyên nhân lớn nhất khiến cộng đồng người Nam Bộ bắt buộc phải diễn đạt cụ thể, chính xác đối tượng là hai cộng đồng người Việt ở Trung Bộ và Bắc Bộ thuở ban đầu khi tiếp xúc với cộng đồng người Khmer ở
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 29
Tây Nam Bộ chc chn gp rất nhiu khó khăn bởi họ bất đồng ngôn ngữ. Trong nhiều trường hợp họ phải “minh họa” bằng vật cụ thể. Đây là lý do tại sao trong tất cả các kết hợp chệch chuẩn của lời ăn tiếng nói của cư dân Tây Nam Bộ đều gắn liền với một vật cụ thể nào đó của miền sông nước. Lâu dn, tính cụ thể đã trở thành đặc điểm của cư dân miền sông nước Cửu Long và do đó, người Nam Bộ lại có cách diễn đạt chẳng giống ai, cụ thể, chính xác đến mức không thể thay thế được. Một người thường nịnh bợ, ton hót rất sn sàng làm tôi
ầầ
mọi nhưng cũng sn sàng phản trắc thưng bị gán cho
ầ
biệt danh đồ tà lọt1. Một người có râu đóng ba chòm như ngạnh cá chốt được người Nam Bộ gọi là (thằng)
à
râu cá chốt. Ngưi như vậy thường là k nịnh bợ, chỉ có thể làm k sai vặt, cũng là đồ cái thứ tà lọt. Một người ấề
phụ nữ môi dưới hơi trề, cong ôm môi trên được liên tưởng đến miệng cá leo. Theo kinh nghiệm dân gian ở
Nam Bộ, người như vậy chỉ giỏi ăn hàng, giỏi ngồi lê đôi mách. Người có phn ót dẹp được gọi là đầu cá trê. Còn nếu như đu/trán hơi nhô về phía trước được gọi
1. Chúng tôi ngờ hai từ tà lọt có nguồn gốc từ tiếng Khmer. ầ
Bằng chứng là trong tiếng Khmer có rất nhiều từ có yếu tố tà đứng trước trong tổ hợp như tà pét (tên một địa phương ở Campuchia), Tà Lơn (tên ngọn núi) chẳng hạn. Ông Thạch Nghĩa, cán bộ Kiểm tra Đảng thành phố Trà Vinh và ông Trn Sô Kha Php, cán bộ Trường Văn hóa - Nghệ thuật Sóc Trăng đều là người Khmer cũng đã cho biết tà lọt trong tiếng Khmer có nghĩa là lính, đy tớ, tay sai, v.v.. Vậy tà lọt mà người Nam Bộ đang sử dụng có nguồn ầ
gốc Khmer với nghĩa vừa nêu.
30 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
là đầu cá dồ. Người có môi trên hơi hiên ngang xông ra phía trước và hơi khoằm thì người miền Tây không gọi là mỏ khoằm, mặt khoằm mỏ ó như người miền Bắc, mà là mỏ cá chạch. Bất kỳ người nào, nếu vô tích sự, chẳng làm được việc gì, tức dở bẹc/ẹc thì người Nam Bộ sẽ “chơi” một tên gọi mới nghe đã “bốc mùi” - đồ (cái thứ) cá sình. Nhìn một người khó ưa, thấy ghét, hung dữ, xấu xí,... người Nam Bộ đã thủ sẵn một đối tượng để miêu tả: mặt hà bá. Một người, thường là đàn ông, có eo nhỏ mà vai rộng được liên tưởng tới loài ếch và như vậy mình ếch được sử dụng để chỉ đối tượng này. Bất cứ ai, lúc nào cũng kêu ca, đòi hỏi được gọi bằng một tên là miệng bù tọt1. Còn nếu lúc nào cũng oang oang mà chẳng nhằm mục đích gì được cho là (cái thứ) miệng ếch, v.v..
Một đặc điểm rất dễ nhận thấy là hầu hết những cụm từ cố định được sử dụng trong giao tiếp của người Nam Bộ thường mang nét nghĩa xấu, tiêu cực; rất ít những từ ngữ như vậy có nét nghĩa tích cực. Đây cũng là một trong những đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của người Nam Bộ. Quan sát những ví dụ vừa nêu trên, chúng ta sẽ thấy được đặc điểm này.
Một đặc điểm khác cũng rất thú vị là khi người Nam Bộ sử dụng những cụm từ để diễn đạt thì tất cả những cụm từ đó đều gắn liền với sông nước. Cho nên, nó không
1. Loài sinh vật giống như nhái nhưng nhỏ hơn.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 31
lẫn lộn vào bất kỳ cách nói nào của những cộng đồng
ờó
khác. Thằng cù lao đó đâu ai biết tới nó có nghĩa là gì?
ì
Chắc chắn, nếu không phải là những người sinh sống ở những nơi có cù lao thì không thể biết được. Tương tự, để hiểu được nghĩa của câu Nó (mần ăn) giàu kiểu nước nhảy thì phải hiểu nước nhảy, phải gắn liền với
ọ
đặc điểm con nước để thấy được sự khác biệt giữa nước
é
nhảy (bờ) với nước bò, nước trườn, nước vọt, nước đứng,
ẵ
nước ròng, nước rặt, nước lớn, nước nhỏ, nước bình, nước dừng, nước hỗn, v.v.. Khi hiểu được sự khác biệt, chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa của nước nhảy (bờ) trong câu Nó (mần ăn) giàu kiểu nước nhảy. Nếu không, chắc chắn sẽ
ọằ
rất khó hiểu hoặc giải thích sai. Nước nhảy, nước vọt, nước hỗn là đặc điểm phát triển của con nước: nhanh, bất ngờ nhưng không phải mọi thời gian, mọi lúc đều xuất hiện những con nước như vậy. Nó xuất hiện bất ầ
thường và chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, sau đó
phải trở về với quy luật phát triển của tự nhiên. Nghĩa é
là nó không lâu, không vĩnh viễn. Khi đánh giá Nó (mần é
ăn) giàu kiểu nước nhảy chắc chắn hàm ý của dân gian cũng vậy. Bởi lẽ, dân gian quan niệm rằng mọi thứ đều phải có căn cơ, mọi vật đều phải có lý do thì nó mới (phát triển) bền vững. iàu một cách bất thường thì nhất định sẽ không thường.
Điều thú vị thứ ba cn đi sâu lý giải là hu hết những từ ngữ trong những cách nói như trên của cư dân miền sông nước Tây Nam Bộ thường là những từ thun Việt.
32 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
Vậy, lý do của nó là gì?1
Về cấu trúc, câu của người Nam Bộ thường ngắn gọn, không nhiều mệnh đề, đặc biệt khi trong câu giao tiếp có sử dụng cụm từ cố định. Vì sao? Khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy các cụm từ này khi xuất hiện trong
1. Chúng tôi cho rằng, để lý giải vấn đề, cần phải đặt đối tượng vào bối cảnh của nó. Thứ nhất, người Việt từ thời Lê Thánh Tông, đã bắt đầu chuyển xuống phía Nam, thoát khỏi sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo như Li Tana đã nhận xét (Li Tana, Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, Nxb. Trẻ, 2014, tr. 16) và bắt đầu sử dụng từ ngữ của những cộng đồng, những tộc người phía Nam. Đến khi vào phương Nam sinh sống thì số lượng từ gốc Hán đã rất ít. Cho nên, bắt buộc họ phải vay mượn của cộng đồng sở tại-người Khmer. Lâu dần, những từ ngữ mới vay mượn trở thành vốn từ ngữ trong kho tàng từ vựng của họ. Đó là lý do tại sao trong lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ nói chung có rất ít từ Hán - Việt. Những thế hệ tiếp theo, trừ một số ít trường hợp được đi học, còn lại phần lớn không thường xuyên tiếp xúc với từ ngữ gốc Hán. Càng về sau, số lượng từ gốc Hán trong lời ăn tiếng nói của các thế hệ con cháu của họ nhất định sẽ mờ nhạt hơn, ít hơn. Thứ hai, người Việt từ hai miền Bắc Bộ và Trung Bộ khi vào lập nghiệp ở vùng đất mới chắc chắn gặp khó khăn trong giao tiếp với những người sinh sống ở đây, cụ thể là người Khmer. Ngôn ngữ của dân tộc này tuy cùng chung ngữ hệ với tiếng Việt (Austroasiatic) nhưng đặc điểm âm tiết, từ vựng rất khác với tiếng Việt. Riêng phần chữ viết thì họ vay mượn của người Ấn Độ và chịu ảnh hưởng không nhỏ từ lớp từ vựng của dân tộc này. Thêm vào đó, họ không chịu sự tác động của văn hóa cũng như chữ Hán như người Việt, nên khả năng hiểu từ gốc Hán khi giao tiếp với người Việt là rất khó. Ngược lại, người Việt cũng không thể nghe, hiểu được tất cả những từ ngữ của người Khmer trong giao tiếp. Do vậy, người Việt lúc bấy giờ chỉ có thể sử dụng những từ ngữ đơn giản nhất, dễ hiểu nhất để giao tiếp và đó là lý do tại sao trong lời ăn tiếng nói của cư dân miền sông nước Tây Nam Bộ rất ít từ ngữ Hán - Việt.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 33
lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ thường nằm trong một kết hợp chệch chuẩn như: Râu cá chốt, Mắt bù lạch, Lưỡi đuôi lươn, Thằng cù lao, Đầu cá chốt/ cá dồ/ cá trê, v.v.. Chính nhờ những kết hợp chệch chuẩn như vậy mà câu thường ngắn gọn, cấu trúc câu không quá phức tạp, lượng thông tin, dù là những câu ngắn gọn nhất, cũng ầ
đy đủ và khái quát nhất. Bất kỳ người Việt Nam Bộ nào khi nghe những câu như trên cũng đều phải hiểu,
ầ
é
và phải hiểu giống nhau mà không thể khác hơn. Sở dĩ như vậy là khi ngôn ngữ đã trở thành cái biểu trưng, là
ẻầ
cái đại diện duy nhất cho lời ăn tiếng nói của một cộng đồng thì nó phải là sự lựa chọn duy nhất của cộng đồng
ầ
đó. Mọi li giải thích khác với cộng đồng sẽ trở thành vô nghĩa. Vì thế, những kết hợp chệch chuẩn như trên trở ó
thành những quy ước mang tính văn hóa của họ - cư dân
ầ
Tây Nam Bộ.
Ngôn ngữ có khả năng biểu trưng hóa hiện thực. Khi ộ ặ
chúng ta sử dụng âm thanh để gọi tên một sự vật thì tất cả những thuộc tính, đặc điểm của sự vật đó đều được A
biểu trưng trong cái âm thanh đó, đúng như nhà ngôn Rầ
ngữ học Hoàng Tuệ đã nhận xt: Ngôn ngữ là một hệ
Ấ
thống tín hiệu hóa thực tế bằng âm thanh (...). Chỉ con người mới có khả năng dùng ngữ âm mà tín hiệu hóa thực tế như vậy1. Cho nên, khi chúng ta gọi đúng tên của sự vật, sự việc thì mặc nhiên âm thanh đó đã thể hiện
1. Hoàng Tuệ: Cuộc sống ở trong ngôn ngữ, Nxb. Tr, Thành phố Hồ Chí Minh, 2014, tr. 23.
34 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
tất cả những đặc điểm của sự việc, sự vật đó. Và như vậy, chúng ta đã tiết kiệm được số lượng từ ngữ cần thiết nhưng vẫn diễn đạt được đầy đủ nhất, chính xác nhất và lớn nhất, khái quát nội dung cần thể hiện. Cũng chính vì vậy chúng ta thấy trong diễn đạt, người Nam Bộ đã sử dụng rất ít từ ngữ nhưng tất cả đều được thể hiện.
2. Từ ngữ giàu hình ảnh và văn hóa của người Nam Bộ
Một câu ý tại ngôn ngoại thường ít từ, ngắn gọn nhưng buộc người khác phải suy nghĩ bởi lượng thông tin lúc này được dồn nén trong số lượng hữu hạn các âm tiết. Muốn có được một câu như vậy, người nói phải có khả năng lựa chọn và tổ hợp từ đúng, chính xác, phù hợp với nội dung cần giao tiếp và ngữ cảnh giao tiếp. Đáp ứng yêu cầu này không dễ1. Bởi lẽ, ngoài độ nén, từ ngữ trong những cách nói như vậy còn phải có những đặc điểm riêng để đạt hiệu quả giao tiếp. Ngôn ngữ giàu hình ảnh là một trong những giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu trên.
Đây lại là đặc điểm sử dụng từ ngữ của cộng đồng Tây Nam Bộ.
Trong hầu hết các trường hợp, để miêu tả một sự vật, sự việc, người Nam Bộ đã gắn liền nó với một hình ảnh cụ thể nào đó, thể hiện sự liên tưởng khá độc đáo, bất ngờ nhưng không xa lạ bởi nó là những sự việc, sự vật quen
1. Xem Hồ Xuân Mai: Ngôn ngữ báo chí và Biên tập báo, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, 2014, tr. 67-77.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 35
thuộc, gn gũi. Có thể xếp các đối tượng được liên tưởng ầ
của cộng đồng Tây Nam Bộ vào hai nhóm chính là sự vật ầ
không tự di chuyển được như cây, cỏ, hoa, trái, những ầ
vật dụng trong nhà; và nhóm sự vật di chuyển được như các loài cá và sinh vật khác trong nước. Thuộc nhóm thứ nhất chúng ta thấy có những cách nói giàu hình ảnh như mặt chát trái bần; mặt (chùng như) đáy dó (vó); mặt hầm hinh; đầu như thúng giạ; miệng lươn/ như miệng tàu cá1; mặt mâm; mặt tấm thớt; tóc rsậy; rđiên điển;... Thuộc nhóm thứ hai lsvt cthdi chuyn đưc chúng ta có mỏ cá hô; đầu cá dồ; mắt ốc bươu/ốc lác; nói như tép
é
lội; dai như đỉa;... Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy những đặc điểm rất thú vị là những từ ngữ giàu hình ảnh như trên chỉ gắn liền với một loài sinh vật thuộc sông nước Nam Bộ,
ầầchứ không phải là từ chứa yếu tố có nước.
é
Một đặc điểm rất dễ nhận thấy là cách nói giàu hình ảnh như trên của người Nam Bộ thường gắn liền với đặc ầ
điểm, bản chất hay hoạt động của con người. Cho nên, nếu chú ý chúng ta sẽ thấy một vấn đề rất thú vị là nếu so sánh bản chất, đặc điểm động thì đối tượng được so sánh thường thuộc nhóm thứ hai; còn lại thuộc nhóm
ầ
thứ nhất nhưng số lượng nhóm này không nhiều bằng ểệ
1. Ở nơi nước chảy hoặc miệng đìa, người ta đào một hục (hố) sâu và thường là thẳng đứng khiến cho dòng chảy bị thắt nút cổ chai. Hục (hố) này được gọi là tàu hay tàu cá. Khi bơi tới chỗ miệng hố này, cá thường tranh nhau đi trước/ ăn mồi nên phải nhảy và như vậy sẽ rơi xuống tàu cá.
36 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
nhóm thứ hai. Tất cả những đối tượng được đem ra so sánh, liên tưởng đều rất thân thuộc với đời sống của cư dân Tây Nam Bộ, toàn là những vật xung quanh họ, gần gũi. Thế nhưng, khi đi vào lời ăn tiếng nói của họ thì nó trở thành biểu trưng, là đặc điểm riêng của cộng đồng này. Đây cũng là một biểu hiện văn hóa trong ngôn ngữ của cộng đồng vùng sông nước chín rồng.
Về phương thức, việc liên tưởng của người Nam Bộ được thể hiện dưới các hình thức so sánh trực tiếp thông qua từ các so sánh như, hơn hoặc qua các kết hợp chệch chuẩn. Nếu so sánh trực tiếp, nội dung đó sẽ được thể hiện qua kết cấu là một câu hoặc một ngữ. Ví dụ: (nói) lãng như cái đìa, nhiều hơn cá rặt sòng, ăn tạp hơn cá dồ, v.v.. Còn nếu sử dụng các kết hợp chệch chuẩn thì những từ, ngữ được so sánh sẽ trở thành tính từ, ví dụ: mặt hầm hinh, mũi cá rồng, mắt bù lạch, lưng tôm, v.v..
Về nghĩa, hầu hết các hình thức liên tưởng trong lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ đều có nét nghĩa tiêu cực hoặc nhẹ hơn là không tích cực. Rất ít những trường hợp liên tưởng theo kiểu này mang nghĩa tích cực. Chẳng hạn, để miêu tả một người có dáng đi chậm chạp, có vẻ
nặng nhọc, người Nam Bộ không sử dụng từ phục phịch như người miền Bắc mà là lạch bạch: Nó đi lạch bạch như vịt đẻ. Một người giỏi ăn lười lao động được so sánh Ăn như xáng múc, mần/làm như lục bình trôi. Để miêu tả một người xấu xí, người Nam Bộ không nói xấu hơn
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 37
Thị Nở mà là xấu hơn hà bá1. Khi người Nam Bộ nói Cha nội
ứ
đó dê bà cố thì chắc chắn họ cũng không thể biết được bà cố là gì nhưng của câu trên là sự việc đã đến tận cùng bản chất
ầ
của nó. Còn phụ nữ mà đu tóc rối bung, bù xù thì không phải lrối như tổ quạ hay rối như đống rơm mà gi là tóc ô rô. Đây là loại cây thân mềm, mọc ở vùng nước lợ, nơi sình ly. Ô rô có cấu tạo rất đặc biệt: mỗi mắt có một chùm gai như cây xương rồng mà thân ô rô thì toàn những mắt nên mỗi nhánh có vô số gai. Thêm vào đó, vì là loài thân mềm nên rất dễ ngã vào nhau, tạo thành một đống rối bời. Vậy, cch ni tóc ô rô
vừa mang ngha rối, bù xù, lại vừa tạo v hung dữ. Như vậy, diễn đạt bằng từ ngữ giàu hình ảnh là đặc điểm của cư dân miền sông nước Cửu Long, thể hiện bản chất của cộng đồng này. Cư dân ở đây không đặt vấn đề sang trọng, phô trương để che mắt thiên hạ. Họ sống mộc mạc, đủ no là được, không cu kỳ nên lời ăn tiếng nói ũ
của họ cũng chân thành, chất phác, đơn giản như chính những vật xung quanh. Thm chnhu cầu rất cn thiết
ầ
cho cuộc sống là giàu sang, phú quý thì họ cũng chỉ mong
é
cầu, vừa, đủ, xài2 mà không cu phú, quý, vinh, hoa hay R
1. Cả Thị Nở lẫn hà bá đều chưa ai có thể thấy, nên tha hồ mường tượng theo cách riêng của mình. Như vy, khi so sánh vậy ẻ
thchắc chắn cái xấu đã đến mức tận cùng của nó. Có điều, khi so sánh với Thị Nở, người nói chỉ nhằm đến mục đích miêu tả cái xấu còn khi so sánh với hà bá, ngoài mục đích này, thì thái độ của người nói được bộc lộ rất cụ thể.
ẻ
2. Đây là bốn loại trái cây: mãng cầu, dừa, đu đủ và xoài. Do cách phát âm của người Nam Bộ, xoài trở thành xài, được đồng nghĩa với xài, tiêu xài. Còn dừa và vừa đều được người Nam Bộ phát âm là dừa, nên có nghĩa là đủ, không cn nhiều.
38 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
giàu sang tột đỉnh! Không một hình ảnh nào trong liên tưởng của người Nam Bộ mang ý nghĩa cao siêu, xa lạ với đời sống của cộng đồng. Họ chỉ cần những điều có thật, thực tế, không viển vông, mơ tưởng. Lời ăn tiếng nói của cộng đồng này cũng từ đó mà hình thành: sử dụng những hình ảnh đời thường gắn liền với những từ ngữ thể hiện sự mộc mạc, chất phác của họ.
Nhưng đây lại là hạn chế trong lời ăn tiếng nói của họ: đôi khi chính vì diễn đạt giàu hình ảnh mà trở nên trần trụi, rất dễ mất lòng người đối diện. Cùng là chê, nhưng nếu nói Mầy không thuộc hạng đẹp trai ai mà thương thì không làm tổn thương người nghe bằng câu Mỏ cá hô của mầy ai mà thương. Ngoài ra, cách so sánh cụ thể, chính xác này rất dễ gây ra xung đột, mâu thuẫn. Thực tế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng người Nam Bộ không khéo trong lời ăn tiếng nói là vì lý do này.
Nhưng rõ ràng, việc sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh để diễn đạt của cư dân Tây Nam Bộ đã phần nào giúp chúng ta thấy được sự thông minh, sắc sảo và nhạy bén của những con người giàu lòng bao dung này: họ liên tưởng nhanh, chính xác và phù hợp với từng đối tượng. Nếu không như vậy thì làm sao có thể sử dụng hai từ xà nẹo để chỉ hai người nam nữ ở bên nhau và thường ôm ấp và xà quần để chỉ trạng thái quanh quẩn, lòng vòng, và có biết bao nhiêu cách nói giàu hình ảnh khác, cũng đều liên quan mật thiết đến yếu tố sông nước. So sánh những cách liên tưởng trong những ví dụ sau chúng ta sẽ thấy
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 39
được điều đó: mặt nhăn như trái bần (người miền Bắc/ toàn dân: mặt nhăn như khỉ ăn ớt), đầu rối như đám ô rô ầ
(người miền Bắc/toàn dân: đầu như tổ quạ, ổ rơm/ đống rơm), nói vòng vo như rạch Cái Tắc (người miền Bắc/ toàn dân: nói vòng vo tam quốc), miệng tôm mồm tép ể ệ
(người miền Bắc/toàn dân: lắm chuyện, lắm mồm/hồ đồ), mình đen như cá lóc nướng trui (người miền Bắc/toàn à
dân: đen như cột nhà cháy), nước mắt cá sấu (người miền Bắc: vờ khóc), đầu bự cá dồ (người miền Bắc/toàn dân: ầ
đầu to), nằm như xuồng gối ụ/lên bờ (người miền Bắc/ toàn dân: vô dụng), mặt hà bá (người miền Bắc/ton dân: mặt cô hồn), răng cá sấu (người miền Bắc/toàn dân: răng như răng cọp/hổ), buông dầm cầm chèo (người miền Bắc/ toàn dân: tháo vát, linh hoạt), làm ăn nước lớn (người ựế
miền Bắc/toàn dân: nhiều vốn, dám đầu tư), chạy sông é
nhỏ (người miền Bắc/toàn dân: đồ chết nhát, không dám liều), chạy nước lớn (người miền Bắc/toàn dân: phóng bạt mạng, lao vun vút), v.v.. Sự chính xác đối với từng trường
ầà
hợp như thế cho chúng ta thấy được sự gắn bó, tình yêu
é
của những con người lam lũ Tây Nam Bộ đối với cảnh vật, sông nước nơi đây. Những quan sát tinh tế, cụ thể còn cho chúng ta thấy được công sức của những thế hệ ông cha đã dày công tìm tòi, sáng tạo mi có được.
Điều thú vị thứ hai là từ ngữ được sử dụng trong à
lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ tuy rất gn gũi, thực tế nhưng lại có khả năng khái quát rất cao và đây là một trong những yếu tố tạo ra ngôn ngữ văn hóa cho cộng đồng này.
40 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
Câu Chạy sông nhỏ ngoài nét nghĩa thực là di chuyển trên sông nhỏ, với hàm ý là đồ chết nhát, không dám liều thì nét nghĩa thứ hai được hiểu là sự kém bản lĩnh, kém ý chí,... hoàn toàn khác với đồ chết nhát, không dám liều, bởi cách diễn đạt này chỉ có một nét nghĩa đen. Hay như nước mắt cá sấu so với vờ khóc. Vờ khóc chỉ giả khóc chứ không phải khóc thật. Một Thừa tướng đời hậu Hán Tào Tháo vờ khóc khi bị tướng nhà Tây Thục Quan Vân Trường chặn lối Hoa Dung; một ông Lưu Bị trên hai mươi lần giả khóc để giải nguy, cầu cứu,... là những ví dụ. Người vờ khóc nhằm đánh lừa để đạt mục đích. Vì vậy, vờ khóc chỉ xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể, còn nước mắt cá sấu không có ý là khóc. Đó chỉ là đặc điểm sinh học của loài bò sát này; lúc nào khóe mắt nó cũng có nước và người Nam Bộ đã rất nhanh trí khi sử dụng hình ảnh này để miêu tả bản chất một con người. Đó cũng là vờ khóc, nhưng với người Nam Bộ thì hành động này không dừng lại ở mức độ đó, mà còn là sự giả dối, bản chất ranh ma, gian xảo, quỷ quyệt. Với nằm như xuồng gối ụ/lên bờ đúng là có nghĩa vô dụng, vô tích sự, chẳng làm được việc gì nhưng, nằm như xuồng gối ụ/lên bờ trong cách dùng của người Nam Bộ thì nó có hàm ý không phải vốn nó không có ích, chẳng sử dụng được gì mà là bị bắt buộc phải như vậy, khác với vô dụng, vô tích sự.
Điều thú vị thứ ba, là ngoài những từ ngữ được mượn từ các tác phẩm văn chương, thì hầu hết từ ngữ giàu hình ảnh của người Nam Bộ là những từ thuần Việt. Trong
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 41
khi đó, từ ngữ trong cách nói tương ứng của người miền
é
Bắc thường là từ Hán - Việt. Nếu thống kê, chắc chắn éểé
chúng ta sẽ có những kết quả thú vị. Đây là chỗ không é
nhiều người để ý khi nghiên cứu ngôn ngữ Nam Bộ. é
3. Từ chỉ mức độ và ngữ khí từ trong trong lời ăn tiếng nói
Khi giao tiếp với người Nam Bộ, chắc chắn chúng ta sẽ thường xuyên nghe những cách nói như rủi một cái, rủi đanh, thẳng bon, y bon, y chang, ngay bốc/chốc/
ầầ
trân/chát, méo xẹo, xéo xẹo, lé xẹ, tréo quẹo, tréo ngoe cẳng ngỗng, dở bẹc/khẹc/ẹc/òm, số dách, trớt mánh, vô mánh, xíu xiu, cái éc, chút éc, trớt huớt, tổ chảng, chà
ó ý à
bá, bá chấy, dữ dằn, khỏe re, xuôi xị, bí xị, bí rị, bành ki1,
1. Theo T điển Hán - Việt thông dụng của Lạc Thiện, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1991, thì bành nghĩa là lớn, như bành trướng (膨 脹): sình, trương to ra. Cả hai từ này đều c bộ nhục (月). Không biết có phải từ bành trong những từ có kết cấu bành + một yếu tố thun Việt ở trên cũng chính là từ bành này không. Nếu đúng như vậy thì đây chính là biểu hiện của sức sáng tạo của cộng đồng cư dân Tây Nam Bộ, vì trong Từ điển ó ĩ
tiếng Việt do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên, trừ từ bành trướng thì không còn t nào có cấu tạo gồm bành với một yếu tố thun Việt như
á
những ví dụ vừa nêu. iêng từ bành ki thì chúng tôi nghi đây là từ ùờộ ó ó àý
vay mượn của tiếng nh bulky (số lượng lớn, cồng kềnh) mà ra và nay đã hoàn toàn Việt hóa. Vì sao không nghi bành ki cũng có nguồn gốc từ chữ Hán? Vì chúng tôi thấy trong 9 yếu tố ky/ki trong từ điển của Lạc Thiện vừa nêu không có từ nào kết hợp với bành mà cũng không có từ nào có nghĩa là lớn. Cho nên, chúng tôi tin đây là từ vay
à
mượn từ tiếng nh, được đọc Việt hóa và có sự trùng hợp ngẫu nhiên ầ
với bành trong những từ đã liệt kê. Không biết nghi ngờ của chúng ầ
tôi đúng hay sai, xin các bậc túc học chỉ giáo thêm.
42 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
trớt lớt/ trợt lớt, trật lất, chút tẹo, í ẹ, rị mọ, cà rị cà mọ, lãng nhách, vô duyên một cái..., v.v.. Những tổ hợp này góp phần tạo ra tính chính xác, cụ thể và giàu hình ảnh như ở trên. Đặc biệt, cách nói như vậy đã làm bộc lộ bản chất của người nói. Nhờ có rị mọ mà chúng ta biết được sự chậm chạp của một người và nhờ có cà rị cà mọ mà chúng ta liên tưởng một người vừa chậm chạp, vừa lặp lại đến khù khờ. Khi nghe những câu, những tổ hợp như nói trớt huớt, rổ méo xẹo, mắt lé xẹ, (miệng rộng) chành bành, cân ngang chàng, quần áo ủi láng cón, bí rị nghĩ chưa ra, chia xíu xiu, còn chút tẹo, ... thì có thể đoán biết được đó là người Tây Nam Bộ. Họ thường sử dụng những từ ngữ chỉ mức độ ở cuối trong tổ hợp như một sự khẳng định mức độ của nội dung câu nói, tạo ra sự tin tưởng tương đối với người nghe. Mặt khác, chính cách nói giàu hình ảnh này có khả năng đạt hiệu quả cao trong giao tiếp. Quan sát kỹ những từ đứng sau trong những tổ hợp trên, chúng ta thấy đều là những từ chỉ mức độ, nhằm làm tăng mức độ của từ đứng trước. Một trật lất, chút tẹo hoàn toàn khác với trật hay chút. Chính những yếu tố chỉ mức độ trong những tổ hợp tạo ra sự khác biệt đó.
Một đặc điểm cần lưu ý là tùy theo từ chỉ mức độ mà nội dung của cả tổ hợp sẽ ở thang mức độ nào. Cùng một đặc điểm là dở nhưng dở bẹc khác với dở khẹc và dĩ nhiên không thể giống với dở ẹc hay dở òm. Mức độ của dở trong những tổ hợp trên hoàn toàn khác nhau, sắc thái cũng khác nhau. Nếu dở òm là cái quá dở của
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 43
vị giác, thì dở khẹc tuy cũng do vị giác cảm nhận nhưng đã là tận cùng của cái dở trong cảm nhận đó. Còn dở bẹc ầ
và dở ẹc giống nhau ở mức độ của khả năng, năng lực, nhưng dở ẹc thường để đánh giá cái dở của chất lượng hơn là năng lực trong dở bẹc. Nếu nghe một người nói những câu có chứa những từ ngữ trên, cùng với đặc điểm ngữ âm và cách thức diễn đạt, chúng ta sẽ thấy chất Nam Bộ hiện ra. Nói cách khác, từ chỉ mức độ trong lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ có ở hai cực và thường là tuyệt đối vkhông cnhiều từ ở mức độ tương đối. Điều đó cũng có nghĩa là nếu một người hoặc vật nào đó được khen thì sẽ được xem là tận cùng của cái tốt, như khôn bà cố, ngon hết sẩy, ngon một cái, giỏi một cái, giỏi một nước, khôn một nước, v.v., còn nếu bị đánh giá thấp thì sẽ rơi vào tận cùng của cực ngược lại, chẳng hạn: ngu bà cố, ngu một cái, ngon một cái, dở một cái, v.v.. Như vậy là có vấn đề để chúng ta suy nghĩ, thắc mắc, cùng là bà cố, một cái nhưng rõ ràng thang độ của nó thuộc về cực nào thì còn phải tùy vào từ đứng trước nó trong tổ hợp. Đã thẳng bon thì không còn vật nào thẳng hơn. Còn nếu xéo xẹo thì chắc chắn nó đã lệch khỏi chuẩn cỡ một góc bẹt. Một người có đôi mắt lé xẹ thì có lẽ tròng mắt nằm
ầ
tận cùng của khóe mắt. Chính nhờ được miêu tả bằng những từ chỉ mức độ tuyệt đối như vậy mà người nghe sẽ có cảm giác tin tưởng, không có gì phải nghi ngờ và có một ấn tượng rất mạnh về đối tượng. Nhưng ở mặt ngược lại, chúng ta thấy đây là biểu hiện của tính cực đoan
44 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
trong cộng đồng này: đã tốt, hay là phải tận cùng của cái hay, cái tốt; còn nếu đã dở, kém thì cũng phải tận cùng của cái dở, cái kém đó. Bởi lẽ, người Nam Bộ là vậy. Đã thương thì dù lạ hay quen cũng đều có thể là má Hai, tía ơi, ngoại ơi, con nè, trái lại một khi đã ghét thì ngay lập tức quân bây, đồ thằng chó, đồ con chó, đồ con đĩ hà bá.
Nghĩa là, họ rất dữ dội nhưng cũng rất mềm lòng; quyết liệt, mạnh mẽ nhưng đôi khi thiếu sự quyết đoán. Đây là mặt tốt, mặt mạnh của cộng đồng này nhưng là hạn chế ở khả năng thuyết phục trong giao tiếp.
Nếu quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy một điều thú vị là hầu hết những từ chỉ mức độ trong những tổ hợp trên đều không có nghĩa; rất ít những trường hợp như vậy mà có nghĩa. Ví dụ, các yếu tố chảng trong tổ chảng, bành chảng1; dằn trong dữ dằn; re trong khỏe re, êm re; xị trong xuôi xị, bí xị; rị trong bí rị; lớt/huớt trong trớt lớt (huớt)/ trợt lớt2, lất trong trật lất, tẹo trong chút tẹo, tí tẹo;...đều là những yếu tố không có nghĩa. Thế nhưng, khi đứng vào tổ hợp, thì trở nên có nghĩa và thể hiện mức độ của từ đứng trước nó.
1. Như chúng tôi đã nói ở trên, bành trong tổ hợp này hoàn toàn khác với bành trong bành ky/ i bởi lẽ đây là một từ gốc Hán.
2. Chúng tôi cho rằng trớt trong những tổ hợp trớt mánh, trớt lớt/ trợt lớt, trớt huớt là do cách phát âm của từ trượt mà ra, tức hụt, hụt hẫng, vuột khỏi, tuột khỏi... Bằng chứng là chúng ta thấy trong cộng đồng này có từ trợt trong trợt té, trợt chưn, cẳng, giò (chân).
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 45
Cũng có những trường hợp tất cả các yếu tố đều không có nghĩa như chà bá, bá chấy 1, í ẹ, rị mọ, cà rị cà mọ, lãng
é
nhách, lãng xẹt, rủi đanh, số dách, trớt mánh, trớt lớt/
é
trợt lớt, trớt huớt, tuốt luốt, mị mị, mút mút, v.v., nhưng
à
khi tất cả đứng vào tổ hợp, chúng đã thể hiện được mức
áạé
độ cùng cực của thang độ và tạo ra nghĩa cùng cực đó. Khác với (1) và (2), tất cả những tổ hợp trong (3) đều không liên quan đến yếu tố nước. Đây là một điểm hết ạế
sức thú vị và đặc biệt, bởi lẽ, trong hu hết trường hợp ở
ngôn ngữ mang đặc trưng văn hóa của cộng đồng Tây Nam Bộ, thì yếu tố nước phải thường xuyên xuất hiện trong đó và luôn chiếm tỷ lệ rất cao. Thế nhưng, ở những
ầ
ví dụ trên thì không một tổ hợp nào mang yếu tố này. Một đặc điểm khác cn phải nhắc lại là phn lớn những từ trong tổ hợp, đặc biệt là những từ chỉ mức độ, đều là từ thun Việt. Quan sát kỹ, chúng ta thấy không có yếu tố chỉ mức độ nào trong những tổ hợp trên là từ Hán - Việt. Và nếu tra Từ điển từ ngữ Nam Bộ2 thì hoàn ì ể ệ
toàn đây là những từ của người Nam Bộ. Điều này cho thấy đặc điểm sử dụng từ chỉ mức độ của người Nam Bộ là rất cao, thường xuyên, và đều khắp, rất khác với cộng đồng người miền Bắc và người miền Trung.
1. Bá trong hai trường hợp này có thể có từ gốc Hán nhưng trong những kết hợp trên, chúng đã hoàn toàn mất nghĩa, trở thành yếu tố chỉ mức độ của cả tổ hợp.
2. Huỳnh Công Tín: Từ điển từ ngữ Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, H Ni, 2007.
46 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
Trong giao tiếp, người Nam Bộ thường sử dụng ngữ khí từ, như: nghen, nhen, à nghen, hen/hén/heng/héng, chèng ơi, mèng ơi, mèng đéc ơi, chèng đéc, chèng đéc ơi, hôn, hông, hổng, v.v1.. Khi nghe những câu như Bây lớn bộn à nhen, Mèng đéc ơi, tui đâu có biết ổng xỉnh, nghe ổng chử2 tưởng bả đi tứ sắc nữa rồi!, Chèng ơi, bà mẹ nó, bỏ quên cái soi3 ở nhà bây giờ ông kêu tui ngó sao ngó?, Mầy có nghe tía mầy nói gì hôn?, v.v. thì không thể không biết đó là một người Nam Bộ. Chỉ họ mới có cách nói rất riêng, rất Nam Bộ này. Ở đó, từ ngữ họ dùng không thể lẫn với từ ngữ toàn dân. Và cũng như từ chỉ mức độ, ngữ khí từ trong giao tiếp của người Nam Bộ hoàn toàn thuần Việt, hầu như không có từ Hán - Việt.
Nhưng, xét về mặt ngôn ngữ học, những ngữ khí từ này có giá trị, ý nghĩa như thế nào trong câu? Còn xét về nguồn gốc, vì sao từ ngữ của người Nam Bộ lại đặc biệt như vậy? Đây là những câu hỏi chưa có câu trả lời. Tất cả các nhà ngôn ngữ học khi nghiên cứu ngôn ngữ Nam Bộ đều lướt qua những đặc điểm trên nhưng hoàn toàn chưa một công trình nào quan tâm đến việc phải đưa ra cách
1. Xem thêm 1) Hồ Xuân Mai - Một số đặc điểm của câu hỏi - đáp trong giao tiếp của người miền Tây Nam Bộ, Tạp chí Ngôn ngữ học, số 2-2014; - Phương ngữ Nam Bộ qua từ xưng hô, từ chỉ mức độ và ngữ khí từ (trên cứ liệu báo Phụ nữ tân văn), tạp chí Khoa học xã hội, 2004; 2) Trần Ngọc Thêm (Chủ biên): Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, Sđd, tr. 319.
2. Lẽ ra phải viết là xỉn, chửi nhưng chúng tôi cố ý viết đúng âm của câu để bạn đọc hình dung được ngữ âm của người Nam Bộ. 3. Cái soi là cái kính.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 47
lý giải khoa học. Cùng là tiếng Việt toàn dân nhưng rõ ràng, cách thức sử dụng cũng như từ ngữ mà người Nam Bộ sử dụng hoàn toàn không thể lẫn vào ngôn ngữ toàn dân mà mang đặc trưng của vùng/miền rất rõ rệt. Cơ sở sông nước cng không thể lý giải đưc đặc điểm này. Bởi lẽ, đặc điểm sông nước nói riêng, tự nhiên Nam Bộ nói chung, chỉ có thể giúp cộng đồng này sáng tạo ra lớp từ ngữ mới mang đặc trưng của vùng sông nước và có được
luồng hơi ko dài như đã thấy, chứ không thể giúp cư ọ ù
dân vùng sông nước có được những từ chỉ mức độ và ngữ ớ
khí từ như trên. Hơn nữa, như đã thấy, những từ ngữ
trong mc 3 hon ton Nam Bộ nhưng không hề mang ầó
yếu tố của sông nước vcũng không thể dựa vào sự tiếp é
xúc, giao tiếp giữa các dân tộc trong khu vực mà có. Bởi é
vì, tiếp xúc ngôn ngữ giữa cộng đồng người Việt di cư với ì
người Khmer hoặc người Hoa hay người Chăm chỉ có thể xảy ra trường hợp vay mượn hoặc làm thay đổi ngữ âm, chứ không thể có được éc trong chút éc hay rẹt trong bở rẹt, xiu trong xíu xiu, xẹo trong méo xẹo, xéo xẹo, v.v.. Vậy chúng từ đâu mà có? Một trong hai yếu tố, cụ thể là yếu tố đứng trước, trong tổ hợp là từ toàn dân, vậy còn yếu tố thứ hai? Cơ chế hình thành là gì? Đây là những câu hỏi tưởng dễ nhưng hoàn toàn không phải. Khi nghe,
ầ
chắc chắn chúng ta biết mười mươi đó là từ ngữ của người Nam Bộ nhưng để biết được nguồn gốc của nó thì không hề đơn giản. Chính vì thế, trong nhiều trường hợp, người à
48 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
ta đã quy cho nó cái gốc Khmer hoặc Hoa1. Tuy nhiên, theo chúng tôi, trước khi đưa ra kết luận về một vấn đề, rất cần phải có những chứng cứ khoa học, đáng tin tưởng thì mới có sức thuyết phục. Nếu không, nó sẽ rất dễ rơi vào tình trạng quy nạp theo chủ quan, làm sai lệch sự thật như một vài quyển từ điển hiện nay2.
Vậy cơ sở nào hình thành ngữ khí từ trong lời ăn tiếng nói của cộng đồng Tây Nam Bộ?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ phải bắt đầu từ câu hỏi vai trò của nó trong câu là gì? Chúng ta đều biết vai trò của ngữ khí từ là làm cho câu trở nên nhẹ nhàng, êm dịu và mượt mà hơn. Chính vì vậy, khi giao tiếp với người Nam Bộ, chúng ta cảm thấy gần gũi, thân mật, không có khoảng cách. Sự mộc mạc, chân thành; bản chất hiền lành của những con người vùng sông nước Tây Nam Bộ cũng một phần được thể hiện qua ngữ khí từ. Vậy thì, con đường hình thành ngữ khí từ của người Nam Bộ là gì? Khảo sát thực tế ở 13 tỉnh, thành thuộc đồng bằng sông Cửu Long chúng tôi có mấy nhận xét sau:
- Vì đồng bằng Nam Bộ rộng, bằng phẳng, không bị chắn bởi các ngọn đồi, dãy núi như hai vùng đất Trung Bộ và Bắc Bộ nên tiếng nói của cư dân ở đây tương đối vang xa. Cho nên, khi người dân vùng Trung Bộ tới đây
1. Xem Trần Ngọc Thêm (Chủ biên): Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, Sđd, tr. 331-333.
2. Xem Sái Phu: Viết nhịu (lapsus calami), Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr. 30, 32.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 49
định cư, những âm đục và khô, tức của họ trở nên mềm hơn, nhẹ hơn và lâu dn đã mất hẳn, không còn chát ầ
chúa nữa. Còn khi người miền Bắc tới vùng đất này thì ó
ngữ âm của họ cũng trở nên ít luyến ly hơn và càng về sau, những âm mềm của cư dân miền Bắc đã hoàn toàn nhược hẳn, chỉ còn nghe hơi gió, chẳng hạn nhé/nhỉ/nhá nhe/nhen, hen/hén/heng/héng; trời/giời (với âm xát, mặt
lưỡi, bật hơi) - chời (mặt lưỡi)/chèng/chèn; v.v.. - Quá trình cộng cư giữa các dân tộc trong khu vực
ầ
đã dẫn đến hiện tượng giao thoa về mặt ngôn ngữ, làm thay đổi ngữ âm của hai cộng đồng Bắc Bvà Trung Bộ theo hướng mềm mi và nhẹ hơn. Còn về mặt chủ quan, rất có khả năng những cộng đồng mới tới biết đặc điểm
ầ
tiếng nói của mình khó nghe đối với những cộng đồng khác nên cố gắng phát âm nhẹ hơn, mềm hơn để không gây khó khăn cho người nghe. Thêm vào đó, người Nam
ầ
Bộ vốn giàu tình cảm, cảm xúc và nó được thể hiện ngay trong lời ăn tiếng nói: họ đã đệm vào cuối câu những từ é
có khả năng tạo ra sự thân thiện, gn gũi và đó là những ngữ khí từ như đã thấy ở trên.
4. Ngôn ngữ cộng đồng và tính cộng đồng trong ộ
giao tiếp ngôn từ của cư dân Tây Nam Bộ Ngôn ngữ cộng đồng (community language) của một cộng đồng người chính là sự lựa chọn tối ưu của họ trong
ầ
giao tiếp. Ngôn ngữ cộng đồng của cư dân Tây Nam Bộ
ẻà
cũng là tiếng Việt nhưng cách thức họ sử dụng có những ốồí
50 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
đặc điểm không có trong tiếng Việt toàn dân. Từ “cá” trong tiếng Việt toàn dân được hiểu như chúng ta đã biết. Khi nó được phơi khô thì nó vẫn là “cá” nhưng dĩ nhiên ở một trạng thái khác, cá khô. Với người Nam Bộ, trong những trường hợp như vậy, họ đã sử dụng tiếng Việt theo cách thức của mình, con khô, mà chẳng mấy khi gọi đó là (con) cá khô. Và khi nó được phát âm theo đặc điểm của tiếng nói Nam Bộ, chúng ta chỉ nghe một âm tiết có trọng âm, âm tiết còn lại không có trọng âm 0-1, tức khô, mất hẳn âm tiết con trước đó, hoàn toàn khác với tên gọi của tôm, mực ở cùng trạng thái: tôm khô, mực khô. Khắp Tây Nam Bộ đều có chung một đặc điểm như vậy trong phát âm và giao tiếp. Và còn biết bao những khác biệt khi người Nam Bộ sử dụng ngôn ngữ toàn dân. Chẳng hạn, với hai cộng đồng Bắc Bộ và Trung Bộ, mỗi chục được hiểu rất toán học là mười nhưng với người Nam Bộ, nó tùy thuộc vào quy ước, bởi rất có thể không phải là mười mà là mười hai, mười bốn... và thậm chí là hai mươi bốn. Mọi người đều hiểu như vậy. Hay như từ trứng. Không một người Việt Nam nào không hiểu nhưng với người Nam Bộ có sự phân biệt: hột vịt, hột gà nhưng trứng cút1 mà không phải là hột cút hay quả hột cút. Vậy thì, cách sử dụng từ ngữ toàn dân ở mỗi vùng/miền có khác nhau, làm thành đặc điểm ngôn ngữ của cư dân nơi đó.
1. Nghe những người đầy xe đi bán rao Hột gà nướng, hột vịt lộn, hột vịt vữa, trứng cút lộn, khoai lang nướng, bắp xào đây sẽ thấy được điều thú vị này.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 51
Tương tự, cùng là ngữ pháp của tiếng Việt toàn dân nhưng vẫn có một cái gì đó rất khác biệt trong lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ. Khi nghe một câu nói ngang ngang Đã nó hô là chiều mai (nó) mới về mà! thì chúng ta vẫn biết, vẫn hiểu nhưng rõ ràng có một sự khác biệt nào đó trong cảm nhận1.
Đó là ngôn ngữ của một cộng đồng, ngôn ngữ cộng đồng. Một khi ngôn ngữ cộng đồng được chuẩn hóa, trở thành biểu tượng trong lời ăn tiếng nói của cộng đồng đó thì chính là ngôn ngữ văn hóa của họ. Trường hợp tiếng Việt Nam Bộ là một ví dụ. Cùng ltiếng Việt nhưng tiếng Việt Nam Bộ có những đặc điểm riêng có những nt mà tiếng Việt toàn dân không thể có được. Khắp Tây Nam Bộ, không ai không biết Làm buổi đứng, coi mắt, ngộ, ngộ thiệt, thiệt ngộ, chèn(g) đéc ơi, mèn(g) ơi, be
ộ
mười bốn/mười bảy, ngộ thiệt, thiệt ngộ, cặp dách/ vách mé dưới, đào tàu cá, miệt ông Đùng, v.v. là gì2. Tính cộng đồng trong ngôn ngữ là vậy.
1. Xem thêm Hồ Xuân Mai, - “Một số đặc điểm của câu hỏi - đáp trong giao tiếp của người miền Tây Nam Bộ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, 2014; - “Bây-my, Chị-chế, nh-hia trong xưng hô của người miền Tây Nam Bộ”, Tạp chí Khoa học xã hội, 2011; Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, 2012; in lại trong Nam Bộ: Nhìn từ Văn hóa, Văn học và Ngôn ngữ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011.
2. Be mười bốn/mười bảy: chỉ độ dày của be xuồng, tức là độ dày của tấm ván hai bên xuồng, tương ứng với mười bốn, mười bảy milimet. Hiện nay cách nói không còn phổ biến như trước vì trong đời sống của cộng đồng Tây Nam Bộ có sự thay đổi về ngành
ầ
nghề: nghề đóng xuồng không còn phát triển như trước nên từ ngữ gắn liền với nó cũng theo đó mà mt dn.
52 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
Như vậy, tính cộng đồng và thống nhất trong sử dụng ngôn ngữ của cư dân Tây Nam Bộ rất cao, nếu không nói là tuyệt đối. Đặc điểm này được thể hiện qua các mặt: sáng tạo và sử dụng chung lớp từ ngữ, cùng hiểu một nội dung, cách thức diễn đạt giống nhau; với cùng một đặc trưng ngữ âm. Bằng chứng là, cả khu vực rộng lớn Tây Nam Bộ không có sự khác biệt về từ ngữ và cách sử dụng cũng như không có sự khác nhau trong cách hiểu. Hai tỉnh cách xa nhau như Kiên Giang ở cực Tây Nam Bộ với Long An ở gần Đông Nam Bộ chẳng hạn, chắc chắn sẽ hiểu và biết cách sử dụng những từ bở rẹt, vô mánh, xíu xiu, cái éc, chút éc, trớt huớt, tổ chảng, chà bá, bá chấy, dữ dằn, khỏe re, xuôi xị, bí xị, bí rị, bành ki, trớt lớt/trợt lớt, trật lất, quạu quọ, quậy quọ, v.v. như thế nào, trong trường hợp nào và nghĩa của nó ra sao. Từ Long An đến tận mũi Cà Mau, tất cả đều sử dụng chung một vốn từ tiếng Việt toàn dân và vốn từ ngữ do chính họ sáng tạo, với tất cả những đặc điểm về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp cũng như cách thức diễn đạt. Ở họ, không có sự khác biệt tới mức có thể sẽ không hiểu, kể cả những trường hợp phát âm mềm hóa.
Đặc điểm trên hoàn toàn khác với người miền Trung. Ở đó, người dân Quảng Nam gọi là chảo thì người Quảng Ngãi thường gọi là xanh. Người Huế gọi là tụi nó thì người dân Quảng Ngãi gọi là nẩu. Và chắc chắn từ dẫy nê sẽ không hề dễ hiểu với rất nhiều người, nếu như họ không biết đặc điểm tiếng nói của cư dân vùng này.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 53
Hay như tđi mô rứa của người dân đất Quảng Nam sẽ không được chuộng ở các vùng từ Quảng Ngãi đến Nam Trung Bộ. iêng người Quảng Ngãi thì câu hỏi tương tự sẽ là đi dâu dẫy.
Về mặt ngữ pháp, người dân trong cả khu vực rộng lớn Tây Nam Bộ cũng sử dụng ngữ pháp toàn dân nhưng vẫn có riêng một cấu trúc: Đã + chủ ngữ + vị ngữ1. Tất
cả đều sử dụng và hiểu đúng nội dung theo cấu trúc này. G
Nếu như tạo ra cấu trúc này là một hành động sáng tạo Aầ
của một cộng đồng thì việc sử dụng thống nhất nó trong ếáừ
giao tiếp là biểu hiện văn hóa của cộng đồng đó. Ngoài ra, chính sự thống nhất tuyệt đối trong sử dụng ngôn ngữ, trong lời ăn tiếng nói của cộng đồng Tây Nam Bộ đã cho chúng ta thấy đây là ngôn ngữ cộng đồng, không
A
phải là trường hợp riêng l. Thêm vào đó, tính cộng đồng
ũ
ngôn ngữ cao còn cho thấy vai trò của ngôn ngữ trong phát triển văn hóa - xã hội ở khu vực này.
Chúng ta lại phải đặt ra câu hỏi: vì sao có sự thống nhất trong sử dụng từ ngữ ở cộng đồng cư dân Tây Nam Bộ? Bởi vì, địa hình của khu vực này cũng bị chia cắt thành những vùng nhỏ, bị cách biệt nhau bởi những con sông. Vậy, khả năng thống nhất trong sử dụng ngôn từ của đối tượng sẽ phải rất thấp mới đúng. Thế nhưng, trên ừ
thực tế, chúng ta thấy vốn từ vựng của cộng đồng này ề
1. Xem Hồ Xuân Mai: “Một số đặc điểm của câu hỏi - đáp ọ
trong giao tip ca ngưi miền Tây Nam B”, Tlđd.
54 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
hoàn toàn thống nhất, rất cao. Tại sao? Tại sao chỉ cách nhau một đèo Hải Vân mà ngữ âm, từ vựng và đặc điểm diễn đạt của người Huế với người Quảng Nam - Đà Nẵng khác nhau? Còn từ Long An, Tiền Giang đến Cà Mau, có biết bao con sông và khá xa về khoảng cách nhưng không hề có sự khác nhau nào? Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ Nam Bộ bắt buộc phải để ý đến đặc điểm này.
Tính thống nhất, cộng đồng cao sẽ dẫn đến tính biểu trưng, tính đại diện rất cao và đây là một trong những con đường ngắn nhất làm xuất hiện ngôn ngữ văn hóa của người dân Tây Nam Bộ. Một cách diễn đạt giàu hình ảnh như mặt hà bá, mặt hầm hinh ban đầu chỉ đơn giản là so sánh, nhưng về sau, trở thành đại diện cho lời ăn tiếng nói của cả cộng đồng; rất điển hình của cư dân miền sông nước. Ngoài ra, đó còn là biểu hiện văn hóa của cư dân miền sông nước Tây Nam Bộ.
5. Nói như viết - văn hóa của cư dân Tây Nam Bộ Người Nam Bộ dễ dãi, xuề xòa, xởi lởi, cởi mở,... trong giao tiếp, trong đời sống. Tất cả những đặc điểm này được thể hiện trước hết qua lời ăn tiếng nói hằng ngày của họ và cả trong văn bản viết. Một kiểu chào hỏi Tụi bây dắt ông Hai đi đâu đó? sẽ rất ít khi xuất hiện trong lời ăn tiếng nói của hai cộng đồng người miền Bắc và miền Trung thì đây lại là đặc điểm trong giao tiếp ngôn từ của cộng đồng cư dân miền sông nước Tây Nam Bộ. Nếu áp dụng cách chào hỏi này với người miền Bắc,
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 55
nhất định sẽ gặp nhiều khó khăn. Tại sao là dắt khi cả hai người không ai có vấn đề gì về sức khỏe? Thế nhưng, chẳng ai trong cộng đồng Tây Nam Bộ bắt b, lý sự
ẵ
khi nghe một người chào như vậy. Bởi lẽ, tất cả đều có
AG
chung đặc điểm trong giao tiếp ngôn từ. Tất cả đều dắt chứ không phải mời một cách lễ php, cung kính: Sao bây không dắt ông Hai đi uống cà phê? Bây giờ tao dắt mầy đi ăn, v.v.. Mặc nhiên, nghe như vậy là hiểu người nói đã mời, đã rất lịch sự, không khuôn mẫu, khách sáo, trang trọng với những từ ngữ xin mời, xin rước, rước, đón,... Cả người nói lẫn người nghe đều có chung cách hiểu như vậy mà không có sự khác biệt. Bởi, tất cả đều ầ
đơn giản, xuề xòa, dễ dãi như nhau, nghĩ sao nói vậy. Cho nên, một người đã quen với những cung cách hình thức khi giao tiếp với cộng đồng Tây Nam Bộ sẽ rất khó à
chịu vì cảm thấy bị coi thường, thiếu tôn trọng. Ngược lại, một người sinh sống Tây Nam Bộ nếu nghe những câu xin mời, xin rước ông dùng bữa, rước anh ăn cơm cũng cảm thấy rất khó chịu, bởi nó không thiệt bụng, rất khách sáo và thậm chí là dối trá. Với cộng đồng Tây ằ
Nam Bộ, một người thiệt bụng phải là Bữa nay làm thôi à
nôi cho thằng nhỏ, lát (dì) Tư qua nghen! Xt nội dung ngữ nghĩa và logic, câu này không có từ nào mời. Có chăng, ở đó chỉ là thông báo và kêu. Thế nhưng, không một người Nam Bộ nào nghĩ như vậy, mà đó là lời mời
với tất cả sự tôn trọng, thiệt tình, thiệt bụng, tốt bụng, kính trọng, v.v.. Nhưng chính sự dễ dãi này đã dẫn đến
56 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
sự sỗ sàng, ngang bằng trong giao tiếp và đây là chỗ hạn chế của cộng đồng này.
Người Nam Bộ vốn nổi tiếng với tính phóng khoáng, ngang tàng, ngang bướng và bất chấp. Điều này được thể hiện ngay trong vốn từ ngữ của họ: Nhằm nhò con mẹ gì!, Ăn thua con mẹ gì!, Ba cái thứ lẻ tẻ đó cần mẹ gì!, Lo làm gì cho mệt, chơi mút mùa mơi (mai) tính, Cứ chơi xả láng đi, sợ gì!, Chơi tới bến, Quậy tới bến, Chơi mút mùa Lệ Thủy, Cho nó đi cho rồi, chút đỉnh, nhằm nhò gì!, v.v.. Họ phóng khoáng. Họ bất chấp tất cả. Bản chất đó được thể hiện qua lớp từ ngữ như vừa thấy. Nhằm nhò (gì) có nghĩa là không ảnh hưởng, không chịu tác động, còn Nhằm nhò con mẹ gì! thì ngoài nét nghĩa như trên còn có một nét nghĩa khác mà chỉ những chủ thể sử dụng nó mới có thể hiểu đầy đủ nhất: nếu có ảnh hưởng cũng chẳng sợ, chấp nhận ảnh hưởng và nói theo cách của cư dân Tây Nam Bộ là cầu cho được ảnh hưởng,... Nghĩa là bất chấp, ngang tàng, sẵn sàng đón nhận những rủi ro. Ngoài ra, câu Nhằm nhò con mẹ gì! còn có một nét nghĩa khác là mình có nhiều, dư giả thì bấy nhiêu đó có ảnh hưởng gì đâu! Nhưng câu này, trong một hoàn cảnh khác, thì lại được hiểu ở cực đối lập: trong lúc khó khăn/ cần thiết thì chỉ bấy nhiêu có thấm tháp vào đâu, nghĩa là không đủ.
Như vậy, qua giao tiếp, qua lớp từ ngữ, chúng ta thấy được phần nào bản chất của người Nam Bộ. Con người
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 57
thì phóng khoáng còn từ ngữ thì không cn lựa chọn. Con người thì bướng bỉnh còn từ ngữ thì thhin sự bất chấp. Chẳng mấy khi cộng đồng cư dân ở đây để ý đến việc phải lựa chọn cẩn thận từ ngữ để trao đổi. Sử dụng từ ngữ nào cng được, miễn sao hiểu là được. Chúng ta có thể hiểu chất Nam Bộ là nhờ vậy. Cả cộng đồng rộng lớn Tây Nam Bộ đều sử dụng chung một lớp từ vựng chứ không phải của riêng một đối tượng hay một tiểu khu vực nào. Nó đã trở thành quy ước của cư dân Tây Nam Bộ, là tài sản vô cùng quý báu của họ. Nó là biểu hiện văn hóa của một cộng đồng. Ở mặt ngược lại, văn hóa của một cộng đồng - cộng đồng Tây Nam Bộ - được thể hiện trước hết là ở ngôn ngữ, cụ thể là ngôn từ giao tiếp. Cho nên, chúng é
tôi cho rằng, không cn phải tìm đến những vấn đề phức é
tạp, chỉ cn khảo sát lớp từ vựng của con người Nam Bộ ầ
cũng có thể nghiên cứu bản chất cư dân nơi đây. Đó chính
là ngôn ngữ - văn hóa và là văn hóa - ngôn ngữ của họ. ầ
Người Nam Bộ nói như viết. Các đặc điểm về hàm ẵ
ngôn, hàm ý - những câu nói có cánh - trong câu nói của é
người Nam Bộ thường rất ít1. Những cách nói vòng, nói tránh, nói giảm,... trong lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ tuy có nhưng không phải là đặc trưng của cộng đồng
này. Đặc điểm này khác với những cộng đồng khác. Cùng ầ
một sự việc, khi còn nghi ngờ, rất có thể người miền Bắc nói Ông bà chắc đã dự tính kỹ rồi thì người Nam Bộ sẽ
1. Xem Hồ Xuân Mai: Ngôn ngữ báo chí vbiên tp bo, Sđd, ầ
tr. 159-171.
58 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
huỵch toẹt ngay: Mầy biết con mẹ gì mà nói?, Mầy nói thiệt không?, Mầy nói chắc không?, v.v.. Những từ ngữ như vậy sẽ dễ xúc phạm hay là chạm đến lòng tự ái của người tham gia giao tiếp nhưng trên thực tế, với cộng đồng cư dân Tây Nam Bộ, trừ những trường hợp hết sức đặc biệt, điều đó chẳng mấy khi xảy ra. Bởi lẽ, tất cả đều có chung một đặc điểm giao tiếp: bộc trực, toạc móng heo, sỗ sàng, trực diện ngôn từ. Họ không cần phải sử dụng từ thay thế, cũng không cần e dè, giữ ý, giữ kẽ. Họ không có thói quen rào đón, không vòng vo tam quốc, không cần phải tìm từ thay thế nếu không phải trong hoàn cảnh hết sức bắt buộc. Họ cứ nghĩ thế nào viết như thế và nói như thế nào viết như thế. Cho nên, câu của người Nam Bộ thường rất chân thật, không nhiều những yếu tố tu từ1. Họ thiệt bụng nên câu nói của họ cũng trần trụi, chất phác, thiệt thà. Họ chất phác, cởi mở nên câu nói của họ cũng không chứa những ẩn ý. Gặp nhau, dù thân tình hay mới quen, mời uống rượu thì ngồi xuống đây làm bậy ít ly còn mời ăn thì làm tô cháo/tô bún đi. Vậy là làm, làm bậy chứ không phải là ăn. Nếu cộng những từ ngữ này với cách nói không sử dụng từ xưng hô hoặc/ và đại từ thì đặc trưng văn hóa Nam Bộ hiện ra rõ ràng nhất.
1. Khảo sát ngẫu nhiên 100 bài viết về đề tài tình yêu của sinh viên năm thứ tư ngành Khoa học xã hội của một trường đại học ở Tây Nam Bộ, chúng tôi thấy có 13% sử dụng biện pháp tu từ trong diễn đạt.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 59
Một nguyên nhân khác dẫn đến việc hình thành chất Nam Bộ trong diễn đạt nhưng chưa một nhà nghiên cứu nào chú ý: từ ngữ trong lời ăn tiếng nói, trong giao tiếp
ếò
của người Nam Bộ thường rất ít yếu tố Hán - Việt. Trừ những trường hợp cụ thể phải viện dẫn các điển tích, điển cố hoặc sử dụng từ Hán - Việt, phn lớn những trường hợp còn lại, lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ thường chỉ những từ ngữ thun Việt. Chính vì lý do này mà câu
ầ
của người Nam Bộ thường rất mộc mạc, đơn giản, không
ầ
cu kỳ, nghèo nàn; không mang sắc thái trang trọng, cổ kính. Đặc điểm thú vị này, cho tới nay, chưa nhiều nhà ầ
nghiên cứu để ý.
ọ
6. Cấu trúc câu và văn hóa Nam Bộ
Người Việt coi trọng tôn ti, vai vế trong giao tiếp. Đặc điểm này được thể hiện trước hết qua lời nói. Với người ầ
ngang bằng thì khác nhưng với những người lớn hơn thì phải Thưa bác, cháu là người vùng..., Dạ, con cảm ơn bác, G
Con nghe nói là..., v.v.. Đây là cách xưng hô trang trọng, có văn hóa. Ở đó, cấu trúc câu phải đy đủ các thành phn chủ ngữ và vị ngữ, phải có từ xưng và từ để hô. Các thành phn phụ, nếu không có cũng có thể chấp nhận được. Những kiểu câu đảo ngữ, những câu vô xưng, nếu đem ra giao tiếp với những người lớn tuổi hơn thì hậu quả sẽ khó lường.
ứ
Thế nhưng, đây lại là cấu trúc câu giao tiếp đặc trưng của cư dân Tây Nam Bộ. Với cộng đồng này,
60 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
sử dụng cấu trúc đảo ngữ Đã + câu để giao tiếp là một hình thức phổ biến1. Kiểu cấu trúc này được chia thành hai tiểu loại Đã + người ta + động từ và Đã + chủ ngữ đối tượng + vị ngữ.
Với tiểu loại thứ nhất, chủ ngữ người ta chính là người đang tham gia giao tiếp, tức người đang nói. Thế nhưng, không mấy khi họ nói là Tôi đã nói... hoặc Cháu/ con đã nói... mà tất cả đều Đã người ta nói.... Điều này chứng tỏ rằng chủ thể giao tiếp đặt người ta vào vị trí ngang bằng hoặc ít ra là không muốn chịu nhỏ hơn người đối diện. Cho nên, khi nghe một câu như vậy, chúng ta sẽ có cảm giác ngang ngang, thiếu hẳn tính tôn ti trong giao tiếp. Mặt khác, chính cấu trúc đảo ngữ Đã + người ta + động từ cho thấy thái độ thiếu tôn trọng của người nói đối với người nghe, thể hiện thái độ rất ngang bướng của người nói.
Với tiểu loại thứ hai, chủ ngữ đối tượng được xác định có thể là ngôi thứ ba số ít như nó, ổng, ảnh, chỉ, hắn, bả,... Vì chủ ngữ được xác định nên tính vô trật tự, vô tôn ti được thể hiện ngay trong cấu trúc Đã + chủ ngữ đối tượng + động từ: Đã nó nói là mai nó mới về mà hỏi hoài. Ở đây, tính ngang bằng vai vế trong giao tiếp được bộc lộ rất rõ trong cấu trúc câu.
1. Xem Hồ Xuân Mai: “Hai đặc điểm trong câu hỏi-đáp của người miền Tây Nam Bộ”, Tlđd.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 61
Tuy nhiên, việc phân tích như trên chỉ có thể đúng với những người quen sử dụng một cấu trúc câu đy đủ trong giao tiếp, với tính tôn ti trong xưng hô. Với cộng đồng Tây Nam Bộ, mọi nội dung vừa phân tích đều không có giá trị. Họ không nghĩ rằng nói như vậy để giao tiếp là km văn hóa hay thiếu lịch sự, thiếu tôn trọng người đối diện. Họ hoàn toàn không biết và cũng không cn phải biết đó là cấu trúc gì, miễn sao nói, nghe và hiểu được là được. Vì sao? Vì cả cộng đồng đều sử dụng chung một cách nói như vậy và họ chấp nhận nó như một thói quen, một sự hiển nhiên. Nó đúng vì đó là chuẩn ngôn ngữ, là quy ước của cộng đồng. Mà, chuẩn ngôn ngữ hay quy ước ngôn ngữ của một cộng đồng thì không một ai có thể giải thích vì sao cũng như không thể nói nó sai. Nó đúng. Nó là văn hóa của cộng đồng sử dụng nó. Mọi thứ trên đời này, tốt hay xấu, đều do quy ước mà ra. Khi mọi người cho đó là tốt thì nó tốt, và ngược lại. Còn cộng đồng khác nhìn vào, đánh giá thì đó là chuyện của cộng đồng đó, không liên quan đn cộng đồng chủ thể. Mọi hình thức chuẩn mực đều do con người đặt ra và nó lệ thuộc vào một tập thể, một tổ chức và rộng hơn là cộng đồng sử dụng cái chuẩn đó. Cho nên, chuẩn của tôi có thể không phải là chuẩn của anh nhưng không phải vì thế mà cho rằng chuẩn của tôi không phù hợp, không đúng. Chuẩn ngôn ngữ cũng vậy. Nó mang tính chất cộng đồng, tộc người. Cộng đồng Tây Nam Bộ có cách nói như trên - sử
ỏáủ
dụng cấu trúc vô xưng Đã + người ta + động từ thì đó ờềộ
62 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
chính là chuẩn ngôn ngữ của họ, là biểu tượng của lời ăn tiếng nói, là văn hóa của họ. Vậy, nó đúng. Nó là văn hóa của cư dân miền sông nước Tây Nam Bộ. Và cũng chính vì vậy khi nghe những câu có cấu trúc vô xưng xuất hiện, chúng ta mặc nhiên hiểu đó là ngôn ngữ của cộng đồng Tây Nam Bộ, là văn hóa của họ.
Ngôn ngữ thể hiện văn hóa của một cộng đồng. Nó tồn tại theo cái lý riêng của nó và là biểu hiện trí tuệ của chủ thể sử dụng nó như nhà ngôn ngữ học Hoàng Tuệ đã nói. Không thể đặt yêu cầu phải giải thích vì sao nó tồn tại như vậy mà không tồn tại theo hình thức khác. Nó là sự lựa chọn tối ưu của một cộng đồng. Cho nên, nhìn vào cách thức tồn tại của một ngôn ngữ, chúng ta có thể hiểu được đặc điểm văn hóa của cộng đồng đó. Ngược lại, văn hóa của một cộng đồng không thể tồn tại ngoài ngôn ngữ. Chính vì thế, hiểu được văn hóa của một cộng đồng, chúng ta sẽ sử dụng ngôn ngữ của họ tốt hơn. Chúng ta sẽ cảm nhận sự phi lý đến không thể tưởng tượng, nếu tư duy theo logic, nhưng nó vẫn tồn tại I have my car repaired. Thế nhưng, với những cộng đồng xem tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp của mình thì sự tồn tại trên là hiển nhiên. Nó hiển nhiên tới mức chẳng cần phải để ý. Ngược lại, một câu Nghe vậy là lên nước ngay thì chỉ có người Việt mới hiểu, trong ngữ cảnh cụ thể nào đó.
Ngôn ngữ - văn hóa của một cộng đồng là như vậy.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 63
7. Ngữ âm và văn hóa Nam Bộ
Ở trên chúng ta đã thấy đặc điểm ngữ âm của người Việt Nam Bộ. Đó chính là hành vi văn hóa của cộng đồng này. Người Việt ở đây nói Ai như con Tư Đẹt vậy bây? Chèng đéc ơi, bây dìa hồi nào vậy cà? Mà chồng bây có dìa hôn? Chèng ơi, bây đi cng mấy năm rồi à nghen! Cỡ nầy coi bộ đẹp gái dữ à nghen! Bây dô chỏng chờ Hai lát Hai hỏi chuyện bây đó. Vì sao ngữ âm của người Việt Nam Bộ lại có những đặc điểm như trên? Những t
chèn(g) đéc, dìa, hôn, bộn, nghen/hen/héng, dô, chỏng, ầ
hồi (sớm) mơi, v.v; những gau gác/dau dác; (cá) gô/dô có từ khi nào? Nguyên nhân hay điều kiện hình thành cc tny là gì? Vì sao tiếng nói của cộng đồng cư dân Tây Nam Bộ lại có những đặc điểm trên?
Việc lựa chọn ngữ âm của cộng đồng này xuất phát từ chính những điều kiện của cuộc sống: điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội như đã thấy. Đó là sự lựa chọn mang tính chất tối ưu mà cộng đồng đã chấp nhận. Cho nên, sẽ là một sự áp đặt, ràng buộc đến khó chịu nếu đưa ra yêu cu phải phát âm đúng, theo chuẩn ngôn ngữ về ngữ âm đối với cộng đồng Tây Nam Bộ. Bằng cách A
nào để cộng đồng này nói một cách rõ ràng mà không phải là một cách rõ gàng/dõ dàng? Làm sao để họ phải ầ
cố gắng uốn lưỡi để bật ra một âm tr đúng theo cấu âm của nó? Với họ, điều đó không cn thiết, thậm chí là vô nghĩa, không phù hợp với thói quen của cộng đồng. Phát âm như thế nào không phải là vấn đề quan trọng, mà
64 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
điều cốt lõi là miễn sao người nói và người nghe hiểu nhau, tức nghe được, hiểu được, là được. Đó là văn hóa, một thứ văn hóa đã được chắt lọc, tinh luyện từ bao đời của cộng đồng. Giao tiếp là ứng xử. Mà đã như vậy thì vấn đề không nằm ở chỗ phải phát âm ra sao, đúng hay sai, mà phát âm có phù hợp với cộng đồng không, có giúp cho người nghe hiểu hay không. Vì mọi người đều giống nhau ở đặc điểm văn hóa nên họ không còn câu chấp ở mặt hình thức (ở đây là ngữ âm), mà chủ yếu là phần nội dung. Như vậy, nó còn là biểu hiện của sự dễ dãi, xuề xòa, một sự cởi mở và phóng khoáng của họ. Chỉ cần nội dung chính, mọi râu ria đều không quan trọng. Dần dà, bản chất phóng khoáng dẫn đến hiện tượng lười hóa trong phát âm, tức thói quen lười uốn lưỡi, lười rung đầu lưỡi khi phát âm những phụ âm rung.
Hơn nữa, hiện tượng lười hóa cũng mang lại những lợi ích nhất định: người Nam Bộ đã lợi dụng cách phát âm sai để hình thành cách nói lái, tạo thành những câu đố rất thú vị. Ví dụ: mèo đuôi cụt → mục đuôi kèo, chín bến đò → chó bến đình, mỏ kiến → miếng cỏ, trái cau →
trâu cái, giáo chức → dứt cháo, bác Năm → băm nát, v.v.1. Nói cách khác, cách phát âm mang tính đặc trưng
1. Mọi người đều biết, do phát âm không phân biệt giữa c/t, n/nh, n/ng, u/o... khi những chữ này đứng ở cuối âm tiết nên xảy ra tình trạng trên nhưng người Nam Bộ nói chung, Tây Nam Bộ nói riêng, chẳng ai để ý đến chuyện đúng-sai trong phát âm như đã nói, miễn sao mọi người đều hiểu là được. Đây là nét đặc trưng văn hóa của cộng đồng này.
NGÔN NGỮ - VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ 65
của người dân Nam Bộ là nt văn hóa của họ và quan trọng hơn, nhờ có tình trạng nói sai mà người Nam Bộ đã tạo ra những cách nói mang tính nghệ thuật khác trong G
sử dụng ngôn từ của cư dân nơi này.
Nếu cái sai không được điều chỉnh kịp thời thì lâu ngày nó sẽ trở thành cái đúng. Chẳng hạn, khi nói Nhà nước sẽ hỗ trợ nông dân bằng cách thu mua lúa tạm trữ
thì chúng ta đã sử dụng sai tiếng Việt. Vì sao? Vì hỗ trợ ầ
là một từ gốc Hán, có nghĩa là tác động qua lại, giúp đỡ
qua lại. Vậy, hỗ trợ trong câu trên là sự giúp đỡ qua lại ầ
giữa Nhà nước và nông dân nhưng nếu hiểu như thế thì ầ
không ổn vì trong trường hợp này chỉ có Nhà nước mua
(giúp) còn nông dân thì chẳng giúp gì. Thế nhưng cách ầ
nói trên vẫn rất thịnh hành, xuất hiện trên hu hết các phương tiện thông tin đại chúng. Tương tự, cả hai cấu trúc câu Đội A đến từ địa phương x và Ngày hôm qua, tại Hà Nội, đã diễn ra Hội nghị về nước hoàn toàn sai so với truyền thống tiếng Việt. Thế nhưng không ai biết đó là sai. Nó đang đi vào đời sống ngôn ngữ của xã hội Việt Nam như một sự thay thế cách nói truyền thống và là quy luật phát triển nội tại của ngôn ngữ. Nhiều thế hệ tiếp theo sẽ tin rằng những cách nói trên vốn là của cha ông, mà
không mảy may nghi ngờ. ữ
Đó cũng chính là trường hợp tiếng Việt Nam Bộ hiện nay. Có lẽ ban đu một người nào đó phát âm sai do phải
é
điều chỉnh tiếng nói của mình nhằm đáp ứng yêu cu
66 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
của người nghe, dẫn đến tình trạng phát âm sai1. Nhiều người cùng có chung yêu cầu như vậy đã dẫn đến tình trạng sai tập thể. Và rồi, cái sai tập thể đó đã trở thành đặc trưng của một cộng đồng, làm thành nét riêng của họ. Đó là lý do tại sao bao nhiêu thế hệ người Nam Bộ cứ mặc nhiên nói sai nhưng họ không hề mặc cảm với cái sai đó và mặc nhiên chấp nhận nó. Đặc trưng ngữ âm, đến lượt mình, đã trở thành chất văn hóa của cư dân Tây Nam Bộ. Nếu chúng ta yêu cầu cộng đồng này phải phát âm đúng với bản chất của mỗi âm thì chắc chắn không thể mà cũng không cần thiết, thậm chí là vi phạm đặc điểm văn hóa của họ2.
1. Hiện nay chúng ta thấy một thực tế phổ biến là (những) người khi tới sinh sống ở một vùng/ miền nào đó thì họ thường phải rất cố gắng để hòa nhập tiếng nói-tức ngữ âm-của mình với cộng đồng sở tại và chỉ trong một thời gian ngắn, tiếng nói của họ đã thay đổi. Có lẽ đây cũng là trường hợp ngữ âm Nam Bộ hiện nay: do các bậc tiền bối vào đây sinh sống hoặc đã cố gắng điều chỉnh ngữ âm của mình hoặc do bắt chước tiếng nói của những người sở tại nên lâu dần tiếng nói của họ thay đổi. Nhiều thế hệ tiếp theo cứ vậy mà nói, tạo thành đặc trưng ngữ âm Nam Bộ như chúng ta biết.
2. Thật ra, không bao giờ có chuẩn phát âm. Mặt khác, chúng tôi cho rằng việc bắt buộc phải phát âm đúng theo bản chất và đặc điểm ngữ âm của các âm tiết là một việc làm phản khoa học và vi phạm về mặt văn hóa của các cộng đồng. Ngôn ngữ tự nhiên của các cộng đồng đã góp phần làm giàu bản sắc văn hóa của dân tộc đó và giữ gìn nó. Nếu chúng ta buộc mọi người ở các cộng đồng này phải phát âm đúng thì đặc trưng văn hóa, bản sắc văn hóa của các cộng đồng sẽ bị triệt tiêu.
3. NAM BỘ QA NGÔN TỪ1
ầ
Hồ Xuân Mai Phan Kim Thoa é
Mỗi tộc người, mỗi vùng đất li có riêng những đặc trưng văn hóa. Nam Bộ, cụ thể là Tây Nam Bộ cũng vậy. Đc trưng văn ha được biểu hiện trước hết ở ngôn từ, trong lời ăn tiếng nói của cộng đồng. Nhưng, yu tno ầ
đã tạo ra li ăn ting ni? Bằng cách nào để tiếp cận, phát hiện? Những câu hỏi này chưa được các nhà ngôn ầ
ngữ học, văn hóa học trả lời.
1. Bằng con đường ngôn ngữ, chúng ta hiểu được đặc trưng văn hóa của một cộng đồng. Với người dân Nam Bộ cũng vậy. Tiếp xúc với cư dân ở đây chúng ta sẽ hiểu được nt văn hóa và đặc trưng ngôn từ mà họ sử dụng. Vì đời sống gắn liền với sông nước nên phn lớn từ ngữ được sử dụng trong giao tiếp hng ngy của cộng đồng này gắn liền với sông nước. Để chỉ những sự việc liên quan đến các vấn đề xã hội, người miền Tây có vô số
ầ
những từ như chìm xuồng (giấu kín việc gì đó), đổ lp (đổ lợp - bị hớt tay trên; vợ bị người khác ln lút), hầm hinh (không chắc ăn, nguy hiểm), mất cả chì lẫn chài (mất hết, không còn gì), qua cầu (thoát khỏi nguy hiểm (thường
1. Bài đ đăng trong Kỷ yếu Hội thảo 40 năm Khoa học xã
ầ
hội Nam Bộ nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Viện Khoa học Xã
ờở áộồ
hội vùng Nam Bộ, 2015. Bi ny đưc chnh sa vi s đng ca tc gi.
68 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
liên quan tới pháp luật), qua phà (qua cầu), thả nước lớn (bỏ nhiều vốn; điều kiện dễ dàng cho công việc làm ăn), chết chìm;... Người miền Tây gắn một sự việc, một người với những gì đáng sợ nhất nhưng cũng đáng xem thường nhất của cuộc sống miền sông nước là hà bá và chết chìm. Hà bá nghĩa là thần sông. Đời sống của những người ở miền sông nước thường gặp nguy hiểm khi đi ghe xuồng nên rất sợ (thần) hà bá. Vậy là tất cả những gì đáng ghét nhất, đáng nguyền rủa nhất thì người Nam Bộ gắn cho từ hà bá: mặt hà bá, thứ hà bá, đồ hà bá, con nhỏ hà bá, con đĩ hà bá, v.v.. Khi ngộ hà bá thì coi như đã giao đời cho vị thần này, đôi khi không tìm được xác. Cho nên, một người đi lâu, vắng mặt lâu thì hay bị hỏi Mầy đi gặp hà bá hay sao tao không gặp mầy?
2. Người Nam Bộ vốn xuề xòa. Đặc điểm này có cơ sở khoa học. Hầu hết cư dân ở đây đều đến từ những vùng đất xa lạ, khác nhau về văn hóa, ngôn ngữ. Khi sinh sống bên nhau tất sẽ nảy sinh mâu thuẫn. Cho nên, để phải nương tựa nhau tạo thành sức mạnh để chinh phục thiên nhiên, họ cần chấp nhận khác biệt và dung hòa với nhau, lâu dần thành tính xuề xòa, nghĩ sao nói vậy. Đây là một trong những cơ sở dẫn đến những câu nói trổng, ngang ngang Dìa chưa?, Đã ta kêu đừng đi mà hổng nghe, Làm bậy ly. Bất kể đối tượng giao tiếp ở vị trí nào, người Nam Bộ cũng đều sử dụng chung những cách nói như trên. Chúng ta sẽ không bao giờ tìm được công thức trong giao tiếp của cư dân ở đây, kiểu: Nói có hồn thiêng..., Bởi ...
NAM BỘ QUA NGÔN TỪ 69
cho nên.., Vì ...cho nên..., Xin phép cho tôi được..., Nước
ầ
sông không ảnh hưởng nước giếng,..., Cái sảy nảy cái ung,..., Mồm/miệng liền tai,...,... Tiếp xúc với người miền Tây, chúng ta không cảm thấy họ dối trá, công thức, mà rất thiệt bụng. Họ sử dụng từ ngữ trực diện để giao tiếp chứ không phải để rào đón, mào đu; không kho lo, dài
ầ
dòng văn tự. Cho nên, câu của người Nam Bộ nói chung thường rất ngắn gọn, chỉ đủ cung cấp lượng thông tin.
ầé
Một câu Ông nói lại thử xem sao tôi khó hiểu quá có tới
ì
mười âm tiết nhưng lượng thông tin quá ít. Trong khi đó,
ừ
để diễn đạt nội dung trên, cư dân Tây Nam Bộ chỉ cn năm âm tiết là đủ: (Mầy) nói bậy bạ gì dzậy?.
ầ
ị ỏ
Tiếp xúc với cư dân Tây Nam Bộ, chúng ta không có cảm giác khách sáo, lừa dối ngôn từ, không câu chấp: Ông Bảy, bữa nay nhà (con) có giỗ (à) nghen!. Ừa! Bây cho hay thì tao đi!. Thậm chí, chỉ là: (Bà) Hai ơi, bữa
ầế
nay có đám à nghen!. Ừa, tụi bây dìa đi lát/chặp (bà) Hai qua mà không nhiều lời. Ở những câu trên, chúng
ể
ta không thấy có từ nào có nội dung mời, mà chỉ là thông
ể ụ
báo một sự việc. Thế nhưng, với ngưi Tây Nam Bộ thì
ọ ấậáệà òớ
đó là mời, là tấm lòng chân thành, là thiệt bụng. Cách hiểu là vậy nên tính cộng đồng trong lời ăn tiếng nói ở đây rất cao. Cách mời khác cũng rất Nam Bộ, rất cộng đồng là dắt: dắt đi ăn, dắt đi chơi, dắt coi phim, dắt đi nhậu, dắt đi mần. Thậm chí, một người con trai chim một cô gái, không cưới hỏi thì cũng gọi là dắt: dắt về một con nhỏ, dắt về làm vợ, dắt gái. Bạn trai tới nhà bạn gái chơi
70 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
cũng vậy, dắt trai về nhà. Có ai trong họ bị làm sao đâu mà phải dắt? Đây chỉ là cách nói, là từ ngữ của cư dân Tây Nam Bộ, là ngôn ngữ văn hóa của họ. Toàn những từ ngữ bình dị, không trau chuốt, lựa chọn.
3. Người miền Tây phóng khoáng, bộc trực. Về cơ sở khoa học, chúng ta thấy những lớp người thuộc bậc tiền bối phải đối diện với vô vàn khó khăn, gian khổ khi tới định cư vùng đất phương Nam. Trước những khó khăn như vậy, họ phải bất chấp tất cả, đương đầu với tất cả và thắng tất cả. Họ phải mạo hiểm, dám nghĩ, dám làm. Lâu dần, thái độ ứng xử này đã trở thành thói quen và những lớp người nối tiếp theo đã thừa hưởng nó, làm thành bản chất ngang tàng, phóng khoáng, xông xáo của cư dân vùng sông nước và được thể hiện trước hết là lời ăn tiếng nói của họ. Đó là lời nói “trổng trổng, ngang ngang” không có tôn ti, trật tự giữa người lớn và người nhỏ trong cấu trúc vô xưng Đã + chủ ngữ + nội dung , Đã + người ta + hô/ kêu là + nội dung (Đã người ta hô là...) khiến cho chúng ta cảm thấy ở cộng đồng này có thái độ bướng, ngang, thiếu phép tắc, v.v.. Thật ra, đó không phải là thiếu tôn trọng người đối diện trong giao tiếp, mà đơn giản là thói quen, là văn hóa, đặc trưng văn hóa của cư dân miền sông nước. Khi nghe những ngữ như nhằm nhò gì!, nhằm mẹ gì!, nhằm con mẹ gì!, nhằm nhò gì ba cái chuyện/thứ lẻ tẻ đó!, v.v. thì mặc nhiên chúng ta hiểu đó là người miền Tây Nam Bộ. Họ bất chấp. Họ dữ dội, quyết liệt,
NAM BỘ QUA NGÔN TỪ 71
mạnh mẽ như vậy. Họ ngang bướng. Đó là ngôn ngữ văn hóa của một cộng đồng.
4. Người miền Tây giàu sức sáng tạo. Khi giao tiếp với người miền Tây, chúng ta sẽ được nghe cách diễn đạt rất ấn tượng, rất mạnh mẽ của cư dân miền sông nước. Để miêu tả một vật có độ rất thẳng, không có chỗ nào vênh, vừa khít, người Nam Bộ sử dụng từ ngay trân.
Cũng từ này, để diễn đạt mức độ đúng, không lệch so ầ
với vị trí ban đu, người Nam Bộ có câu Nó đứng ngay
trân chỗ này. Ngay trân có nt nghĩa khác là đúng, đúng ầ
phóc. Cho nên, để diễn tả một sự việc có tính chính xác, đoán đúng, cư dân Tây Nam Bộ thường nói Tao đoán/nói ngay trân liền?. Khi đoán đúng khiến người khác không thể quanh co gọi là Ngay chốc: Tao đoán ngay chốc. Cách diễn đạt này khiến cho người nghe nhận biết mức độ của lời nói, từ đó thêm phn tin tưởng.
Ngôn ngữ là vốn chung nhưng ở những cộng đồng khác nhau sẽ được vận dụng sao cho phù hợp với các điều kiện của mình. Đó là lý do tại sao khi người Tây Nam Bộ
é
nói chuyện, chúng ta có cảm giác từ ngữ của họ vô cùng phong phú, giàu hình ảnh, giàu sắc thái biểu cảm, sáng tạo: có chút ét, đi cái ét, làm cái ét; ngay chốc, ngay chò, ngay chừ, ngay đơ; thẳng băng, thẳng cẳng, thẳng giò, thẳng chưn; dữ lắm, dữ dằn, dữ hôn; thất kinh, thất hồn, thất vía; dễ sợ, dễ ớn, dễ ghê, dễ tởn; lung lắm/quá, quá lung; rị mọ, cà rị cà mọ, dữ dằn, dữ ác, dữ ác hôn, dữ hôn,
72 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
dữ thần, dữ thần thiên (hoặc chi) địa. Hay để miêu tả một vật có kích thước lớn, người Nam Bộ có từ chà bá, lớn chà bá, tổ, tổ chảng, bự, bự tổ, bự chảng, bự tổ chảng, bành, bành chảng, bự/lớn bành chảng, bành ky/ki, bành kì/kỳ nái, bà cố... giàu hình ảnh bởi qua cách diễn đạt của họ, chúng ta như thấy được sự vật, sự việc; rất cụ thể, rất sống động. Những từ này giàu sắc thái biểu cảm bởi mỗi từ như vậy thể hiện một tình cảm, một mức độ, một cung bậc. Và sức sáng tạo ở người miền Tây thì như đã thấy là vô cùng lớn. Từ một từ, họ có thể tạo thành hàng loạt những từ mới mà từ toàn dân không có. Ví dụ như từ ăn với ăn bòn ăn mót, ăn cám sú, ăn mối, ăn chỉa, ăn ké, ăn chùng, ăn chịu, ăn (cơm) chùa, ăn dộng, ăn đờn,...
Vì thế, con người Nam Bộ mảnh đất Nam Bộ sẽ còn hấp dẫn nhiều người, đặc biệt là các nhà nghiên cứu.
4. DỆ NAM BỘ
Hồ Xuân Mai
Phan Kim Thoa
1. Tiếng nói của một cộng đồng
Không phải đợi tới khi thấy một người quấn chiếc
ữừ à
khăn rằn trên vai, qun bà ba ống vo (xăn) lên quá nửa
ể ệ
gối còn ống kia trên gối; cũng không phải chờ tới khi thấy một cô gái ngồi trên chiếc xuồng ba lá, chân khua chèo tay vá lưới còn miệng thì hát câu lý con sáo qua
í ụ ừ
sông, hay gì gì đấy mới biết đó là người Nam Bộ. Chỉ cn nghe một câu thôi, một câu như Đâu đâu có ên zậy? hay Chèn ơi, ông Hai đươn cái ghế khéo quá hén! thì những
ì ếộ từ trong đó, như ên, chèn, đươn (đan), ghế (rế-vật dùng
à
lót dưới nồi để tránh lọ), hén cùng với ngữ âm mềm đến yếu lòng ta zậy, thì cũng đủ biết chắc chắn đ là người Nam Bộ, không thể là người của bất cứ vùng nào khác. Bài viết của chúng tôi chủ yếu đề cập khu vực Tây Nam Bộ, nơi mà sự biến đổi ngữ âm và từ vựng đang được bảo lưu tốt nhất.
Nhưng trước khi đề cập đặc trưng ngôn ngữ của người Việt khu vực này, thiết nghĩ cn phải nói qua vài nt của cộng đồng dân cư ở khu vực để thấy được nguyên nhân của nó. Trước hết, ở đây có bốn dân tộc sinh sống đan xen với bốn loại hình chữ viết và ba ngữ hệ sinh sống đan xen. Đời sống văn hóa - xã hội chắc chắn cũng phải
74 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
có sự giao thoa, pha trộn. Tiếp xúc pha trộn ngôn ngữ (code-mixing) bắt buộc cũng phải diễn ra ở tất cả các cấp độ: ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa và ngữ pháp. 2. Biến đổi ngữ âm
Tiếng Hoa của người Hoa thuộc ngữ hệ Hán - Tạng, mẫu tự hình vuông; tiếng Chăm thuộc ngữ hệ Nam đảo (Austronesia), thuộc nhánh Tây Java. Người Chăm và người Khmer đều mượn mẫu tự người Ấn nhưng về sau người Chăm còn mượn thêm mẫu tự của Arập. Theo nhiều nhà ngôn ngữ thì tiếng Chăm không có thanh điệu. Tiếng Việt và tiếng Khmer đều thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasia) nhưng tiếng Việt thuộc nhóm Việt - Mường và có sáu thanh. Người Việt mượn mẫu tự Latinh để ghi âm. Như vậy, bốn dân tộc ở đây có riêng bốn loại hình văn hóa, bốn thứ tiếng đan xen nhau. Điều này chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng pha trộn. Đó là lý do tại sao tiếng nói của tất cả các dân tộc ở đây đều khác với ngôn ngữ cội nguồn1 nhưng trước hết hãy đề cập tiếng Việt của người Việt. Người Việt Tây Nam Bộ có gốc từ vùng Trung Bộ và Bắc Bộ2. Thế nhưng ngữ âm của cộng đồng
1. Chúng tôi sử dụng từ “cội nguồn” để chỉ ngôn ngữ gốc của mỗi dân tộc.
2. Xem Hồ Xuân Mai trong - Tiếng Việt và sự phát triển văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2016; - Ngôn ngữ Văn hóa Nam Bộ, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2015; Phan Kim Thoa: “Đi tìm Cơ sở hình thành bản chất người Nam Bộ”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 6 (154)-2011; - Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, tập Thượng, bản dịch của Tu trai Nguyễn Tạo, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa Sài Gòn xuất bản, 1972.
DẤU HIỆU NAM BỘ 75
khu vực này hoàn toàn khác xa với tiếng nói của bậc tiền bối. Ở đó, chúng ta không nghe những âm thanh khô, đục nhức nhối đến chói tai của cư dân khu IV và khu V, cũng không có cái âm uốn o, luyến láy đến lảnh lót của cư dân vùng châu thổ sông Hồng. Tiếng nói của người vùng Tây Nam Bộ đủ trong, đủ mềm, đủ dịu và mượt A
mà, nhẹ nhàng, ngọt lịm. Trong âm thanh của họ, chúng Ấ
ta không thấy được sự chua ngoa, cay cú và cũng không A
thấy có sự đạo mạo ngôn từ. Đây là một trong ba lý do mà khi nghe người miền Tây Nam Bộ nói, chúng ta cảm
thấy tin tưởng, không lo sợ hay phải giữ kẽ. Vậy cái gì đã A
làm nên đặc điểm đó? Các điều kiện về tự nhiên giữ một vai trò quyết đnh đối với đặc điểm này. Đồng rộng mênh mông không thể không ráng ko dài luồng hơi. Mùa nước nổi, ngồi trên xuồng, trên sàn gọi sang xuồng hoặc nhà khác cũng phải ráng hơi. Một khi âm thanh ngân dài thì cao độ của nó sẽ bị giảm, không còn cái gồ ghề, tức tối hay chát chúa nữa. Không gian Nam Bộ không bị núi đồi cản trở nên âm thanh phát ra không bị dội ngược lại,
ộ
yếu tố buộc người nói phải gào to, tạo thành âm đục và khô. Nhờ vậy, tiếng nói của người Nam Bộ nói chung là mượt mà.
Điều kiện xã hi là cơ sở thứ hai tạo ra đặc điểm ngữ âm của cộng đồng Tây Nam Bộ. Đó là sự giao thoa với ba dân tộc Hoa, Khmer và Chăm, đặc biệt là với người Khmer. Điều chắc chắn là trong giao tiếp, buổi ban đu
G
của những ngày mới khai hoang, người Việt di cư phải
76 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
điều chỉnh tiếng nói của mình để người Khmer có thể nghe dễ hơn. Và như đã nói, tiếng Khmer không có dấu thanh, nên người Việt lúc bấy giờ buộc phải nói nhẹ hơn; các thanh thuộc âm vực bổng như sắc, hỏi, ngang phải được hạ cao độ. Việc làm mang tính bắt buộc này nhằm giúp người Khmer dễ nghe, việc giao tiếp đạt hiệu quả. Mục đích ban đầu là vậy nhưng lâu dần, những thế hệ tiếp theo mang trong mình đặc điểm ngữ âm này: nhẹ hơn ông cha và bớt đối lập giữa khai âm vực bổng - trầm, vốn tạo ra âm thanh chát chúa, gai góc trong tiếng nói của cư dân khu IV, khu V và độ luyến láy, réo rắc của cư dân vùng châu thổ sông Hồng. Do đó âm thanh nhẹ và trong đã trở thành đặc trưng của tiếng nói Tây Nam Bộ nói riêng.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao đề cập nhiều sự giao tiếp giữa hai cộng đồng người Việt và người Khmer mà hầu hết các nhà ngôn ngữ học ít nói tới sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt - Hoa và Việt - Chăm? Thực ra, người Việt Tây Nam Bộ phải tiếp xúc với tất cả các cộng đồng ở khu vực này nhưng tiếp xúc Việt - Khmer là đặc biệt nhất. Về thời gian, tiếp xúc Việt - Khmer xuất hiện trước rất lâu so với hai cộng đồng còn lại. Về ngôn ngữ, tiếng Việt và tiếng Khmer cùng một ngữ hệ như đã thấy ở trên nên khả năng có cùng một số lượng từ vựng là rất lớn, thuận lợi trong giao tiếp. Hai ngôn ngữ này cùng một loại hình đơn lập như tiếng Hoa nhưng khác với ở chỗ, người Hoa sử dụng mẫu tự hình vuông để ghi âm nên khả năng thích hợp với tiếng Việt Nam Bộ không cao. Thêm vào đó, ưu thế về thời gian
DẤU HIỆU NAM BỘ 77
như vừa nói đã khiến cho hai cộng đồng Việt - Khmer gắn bó với nhau hơn. Thứ ba, tính cộng đồng ca người Hoa và người Chăm rất cao nên khả năng giao tiếp bên ngoài của họ hạn chế. Người Khmer cũng sống khp kín nhưng bản chất họ hiền lành, chất phác, rất dễ gn gũi trong khi ầ
đó, từ trong sâu thẳm, người Việt nói chung, Tây Nam Bộ ầ
nói riêng, luôn có khoảng cách nhất định với người Hoa. Người Chăm vừa khác ngữ hệ, vừa chưa tiếp xúc nhiều ầ
về văn hóa với chúng ta nên mức độ giao tiếp cũng bị giới hạn rất lớn. Do đó, giao lưu, tiếp xúc Việt - Khmer trở nên é
đặc biệt nhất. Như vậy, tiếp xúc Việt - Khmer Nam Bộ đã óà
quyết định rất lớn đối với ngữ âm -tiếng nói của cộng đồng người Việt ở đây. Cho nên, cùng là người Việt nhưng tiếng nói của người Việt Tây Nam Bộ hoàn toàn khác với tiếng ờ
nói của những thế hệ vào Nam lập nghiệp. Những phụ âm ầ
xát và tắc-xát, những phụ âm rung đã gn như biến mt trong tiếng nói của người Việt Tây Nam Bộ. Chúng đã bị mềm hóa trong phát âm. Người Việt Tây Nam Bộ không có phụ âm rung “r” mà hoặc là “g” hoặc là “d”. Cho nên, ấệ
chúng ta nghe cộng đồng cư dân ở đây nói “gổ” (rổ), “gau gác” “rau rác” hay “dau dác”1. Nghe là vậy nhưng nó hoàn toàn khác với cư dân vùng sông Hồng: bởi khi cư dân vùng
1. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan từng kể câu chuyện ông nghe: khi mới vào Nam, đơn vị của ông được người dân cảnh báo là “Coi chừng con gái chun dô mùng”. Không ai hiểu, hỏi lại mới biết là địa bàn đơn vị ông ở có nhiều rái cá, chúng dạn tới mức có thể chui vô mùng... Nhưng do phát âm như đã thấy nên “con rái” thành ... “con gái”.
78 NAM BỘ QUA NGÔN TỪ
châu thổ sông Hồng phát âm nhưng âm tiết có “d”, chúng ta nghe như “z” hơn là “d”.
Câu hỏi thứ hai cần phải được trả lời: người Khmer sống tập trung ở hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, trong khi người Việt di cư vào Nam phải tiến từ từ và từ vùng đất Sài Gòn - Gia Định xuống; vậy tại sao tiếng nói của cư dân khu vực từ Long An đến Bến Tre, Tiền Giang
những nơi vốn không có nhiều người Khmer-cũng có chung đặc điểm ngữ âm như vậy? Để trả lời câu hỏi này chúng ta phải lưu ý đến tính thống nhất cao trong lớp từ vựng (như sẽ thấy ở dưới) của cư dân vùng sông nước Cửu Long. Thứ hai, nếu để ý kỹ, chúng ta sẽ thấy các âm mặt lưỡi và âm hầu của người Việt vùng Gò Công, Mỹ Tho, Chợ Gạo (Tiền Giang), Bến Tre và khu vực huyện Trần Văn Thời-đặc biệt là thị trấn Sông Đốc, rất giống nhau. Chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian để giải thích hiện tượng này nhưng chưa đủ cơ sở, mà bước đầu chỉ là nghi vấn: phải chăng đây là hiện tượng “hóa thạch ngoại vi” - tức bảo lưu ngữ âm - của một lớp ngữ âm cùng một cộng đồng? Tuy nhiên, đây mới là giả định, cần phải tìm hiểu kỹ hơn các đợt di cư để củng cố cho giả thuyết này1.
1. Xem Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Sđd; Li Tana: Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17- 18, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2014, từ tr. 16-19.
Riêng ngữ âm của người Việt ở Bến Tre có chỗ rất cần giải thích: tổ hợp phụ âm tr trong tiếng nói toàn dân đã được người dân ở đây phát âm thành t, cho nên Bến Tre thành Bến Te, Giồng Trôm thành Giồng Tôm.