🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Muốn An Được An Ebooks Nhóm Zalo Lời mở đầu Ngày chủ nhật và cũng là ngày cuối cùng của tháng 11 năm 2014 tôi nhận được bản thảo cuốn sách Muốn an được an của thiền sư Thích Nhất Hạnh đã được sư cô Hội Nghiêm dịch ra tiếng Việt từ bản nguyên gốc tiếng Anh Being peace. Tôi ngồi vào bàn rồi đọc ngay tức khắc. Và tôi giật mình. Giật mình bởi mình quá may mắn mà không biết đến điều đó. May mắn vì tính đến năm 2015 này tôi được biết đến thiền sư Thích Nhất Hạnh đúng 10 năm. Quá may mắn bởi đêm hôm qua tôi vừa từ Myanmar bay về Việt Nam và trên máy bay có đọc báo thấy tình trạng đói, bệnh ở châu Phi vẫn đang rất cao, rằng ở Ukraina vừa có thêm những dân thường thiệt mạng, tình hình chính trị xã hội bất ổn ở nhiều nơi trên thế giới. Quá may mắn bởi bản thân tôi và rất nhiều đồng nghiệp đã và đang làm việc ở Thái Hà Books đều là Phật tử. Tôi đọc ngay những dòng đầu tiên và phải đọc đi đọc lại vài lần những dòng, những chữ của thiền sư Thích Nhất Hạnh “Nếu tự thân ta không có hạnh phúc, bình an thì chúng ta không thể hiến tặng hạnh phúc và bình an cho ai được, kể cả những người ta thương, những người ta cùng chung sống trong một mái ấm gia đình. Có bình an, hạnh phúc thì chúng ta sẽ mỉm cười và xinh tươi như một bông hoa, khi đó, mọi người chung quanh ta, từ gia đình cho đến xã hội, ai cũng được thừa hưởng.” May mắn thay, bốn thầy trò chúng tôi – tôi và ba lãnh đạo cấp phó của mình là Vũ Trọng Đại, Nguyễn Thị Hương, Phạm Thị Thủy vừa kết thúc phiên họp thường niên lãnh đạo Hiêp hội Xuất bản các nước ASEAN tại Yangon, Myanmar. Bên lề hội nghị chúng tôi tranh thủ khám phá đất nước Myanmar an lành với Yangon, Bago và Kyaikto của bang Môn. Tôi đã đến những nơi này nhiều lần, Bagan, Mandalay, hồ Inle,… nhưng cả ba bạn đồng nghiệp của tôi thì đến Myanmar lần đầu. Các bạn đều tâm sự rằng họ đã thực sự cảm nhận được sự bình an nơi đây, ở đất nước có đến 90% dân số theo Đạo Phật, nhất là tại Golden Rock trên vùng đất phía bắc của Tenasserim. Cả ba đồng nghiệp của tôi đã giật mình nhận ra giá trị đích thực của bình an, rằng may mắn làm sao khi biết đến đạo Phật và được thực tập mỗi ngày những lời Phật dạy. Trong chuyến đi này, tôi và các bạn trẻ cùng nhau thực tập ngắm trời xanh, mây trắng, cây xanh. Chúng tôi cùng thưởng thức gió mát, trăng sao đêm, thậm chí cả cái lạnh của vùng núi cao Kyaikto. Tất cả cùng nhận ra rất rõ, cảm nhận như thật rằng không cần phải cố gắng để có được hạnh phúc. Chúng tôi chỉ cần thả lỏng cơ thể, buông thư toàn thân để thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, để tận hưởng những gì vũ trụ ban tặng cho chúng ta. Đơn giản vậy thôi! Quả thực, mỗi ngày chúng ta có rất nhiều cảm thọ. Khi thì hạnh phúc, lúc thì buồn khổ. Các cảm thọ cứ lần lượt đến với ta như một dòng sông. Rõ ràng việc thực tập thiền là rất quan trọng. Hành thiền để ý thức được, ghi nhận từng cảm thọ, thậm chí ôm ấp từng cảm thọ. Tôi luôn nhắc mình thực tập như vậy. Tôi biết điều này bởi thiền sư Thích Nhất Hạnh đã hướng dẫn chúng tôi cách đây tròn 10 năm, từ 2005 khi tôi may mắn được biết đến Thầy. Nhờ Thầy mà tôi dần biết cách tìm bình an trong chính mình. Tôi đã nhận ra rằng thiền rất giản đơn, có thể thiền tập ở bất cứ đâu và bất cứ giờ nào trong ngày. Thiền không có nghĩa là vào rừng ẩn tu hay trốn tránh xã hội. Nếu như chúng ta cùng nhắc nhau thiền mỗi ngày thì đời sống đẹp biết nhường nào và xã hội sẽ tươi mát vô cùng. Muốn an thì có an. Vấn đề là ta phải muốn. Có hai thời điểm rất quan trọng mà tôi luôn nhắc tâm của mình bình an. Đó là đầu giờ sáng và trước khi ngủ. Tôi hay nhắc tâm an lạc, nhắc miệng mỉm cười thư giãn. Muốn an thì được an mà. Muốn hạnh phúc thì có ngay hạnh phúc mà. Hạnh phúc từ trong ta mới lâu mới bền, chứ hạnh phúc mang từ bên ngoài vào đến và đi nhanh lắm. Đôi khi, bạn cũng như tôi, chúng ta quá bận rộn. Bận đến mức không dành thời gian cho người thân và bạn bè. Bận đến mức không có thời gian để ngắm cây, ngắm trời, ngắm hoa, ngắm đất. Thậm chí quên mất chuyện thở và ta thở tự động như một cái máy, thở không có ý thức. Thật là tiếc. Bạn và tôi vẫn đang bị tập khí lôi cuốn. Bây giờ, đọc Muốn an được an rồi chúng ta luôn tự nhắc mình và nhắc nhau hai chữ bình an để tạo bình an cho chính mình. Cách đây mấy tháng, chúng tôi may mắn được tham gia khóa thiền dành cho giới Tiếp hiện. Trong một tuần bên nhau ở Pak Chong, Thái Lan, chúng tôi đã thiền tập rất tốt trong tình huynh đệ. Tôi biết mình và các thiền sinh khác đã nhận được những lợi lạc lớn lao, nhất là sự bình an. Đến nay, tôi vẫn nhớ nhất là bài hát mà tôi vẫn hát mỗi ngày. Xin được chia sẻ với quý vị. “Để Bụt thở để Bụt đi Mình khỏi thở, mình khỏi đi, khỏi đi Bụt đang thở, Bụt đang đi Mình được thở, mình được đi, được đi Bụt là thở, Bụt là đi Mình là thở, mình là đi, là đi Chỉ có thở, chỉ có đi Không người thở, không người đi, người đi An khi thở, lạc khi đi An là thở, lạc là đi, là đi.” Mong sao ai cũng để ý đến hơi thở, đến bước đi mỗi phút, mỗi giây để có an lạc. Nếu chúng ta biết nhắc nhau và cùng nhau trở về tiếp xúc với bản thân thì mình luôn có an lạc. Muốn an là được an mà. Chúng con thành kính biết ơn thiền sư Thích Nhất Hạnh đã giúp chúng con được thực tập những lời Phật dạy, đưa Đạo Phật vào đời sống thường ngày. Một lần nữa con xin được thành tâm tri ân sư cô Hội Nghiêm đã chuyển ngữ ra tiếng Việt cuốn sách quý này để hàng triệu bạn đọc Việt Nam, nhất là các thiền sinh và Phật tử có cuốn cẩm nang để thực hành. Xin chúc mừng quý vị đã có trên tay cuốn sách quý. Mong rằng chúng ta cùng nhau thực tập, cùng nhau đi như một dòng sông về với đại dương bao la của bình an. Xin hồi hướng công đức xuất bản cuốn sách này đến thiền sư Thích Nhất Hạnh với mong muốn Thầy luôn khỏe mạnh, để hướng dẫn chúng con tu tập mỗi ngày. Nguyễn Mạnh Hùng Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Công ty CP Sách Thái Hà Cuộc sống không chỉ có khổ đau Cuộc sống có rất nhiều khổ đau nhưng cuộc sống cũng tràn đầy những mầu nhiệm như trời xanh, mây trắng, nắng ấm, ánh mắt trẻ thơ… Cuộc sống không chỉ có khổ đau, do đó, chúng ta phải biết tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. Bất cứ lúc nào, những mầu nhiệm ấy cũng có mặt khắp nơi trong ta và xung quanh ta. Nếu tự thân ta không có hạnh phúc, bình an thì chúng ta không thể hiến tặng hạnh phúc và bình an cho người khác, kể cả những người ta thương, những người ta cùng chung sống trong một mái ấm gia đình. Có bình an, hạnh phúc thì chúng ta sẽ mỉm cười và nở ra như một bông hoa, khi đó, mọi người chung quanh ta, từ gia đình cho đến xã hội, ai cũng được thừa hưởng. Chúng ta có cần cố gắng để hạnh phúc không? Có cần cố gắng để thưởng thức vẻ đẹp của trời xanh không? Có cần phải thực tập để có thể tận hưởng được vẻ đẹp đó không? Không. Chúng ta chỉ tận hưởng thôi. Mỗi giây, mỗi phút của đời sống hàng ngày đều có thể như thế cả. Bất cứ lúc nào, ở đâu, chúng ta cũng có khả năng thưởng thức nắng ấm, thưởng thức sự có mặt của nhau, hay thưởng thức hơi thở của chính mình. Chúng ta không cần phải đến Trung Quốc để ngắm trời xanh. Không cần phải đi tới tương lai để thưởng thức hơi thở. Chúng ta chỉ cần tiếp xúc với chúng ngay bây giờ. Nếu chúng ta chỉ để ý đến khổ đau thôi thì rất tội nghiệp. Chúng ta quá bận rộn đến nỗi không có thời gian để nhìn mặt những người ta thương, kể cả những người trong gia đình ta. Ta cũng không có thời gian để nhìn lại chính mình. Xã hội đã tạo ra một lối sống mà ngay cả khi có thời gian rảnh rỗi, ta cũng không biết cách trở về tiếp xúc với bản thân. Ta đánh mất thời gian quý giá của ta bằng cả triệu cách: mở ti vi ra xem, nhấc điện thoại lên gọi, nổ máy xe đi đâu đó… Chúng ta không quen đối diện với chính mình, chúng ta chán ghét bản thân và muốn chạy trốn khỏi bản thân. Thiền là ý thức những gì đang xảy ra trong thân thể, cảm thọ, tâm hành và thế giới. Mỗi ngày có 40.000 trẻ em chết đói. Những nước siêu cường quốc có hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân, đủ để tiêu diệt hành tinh của chúng ta nhiều lần. Tuy nhiên mặt trời mọc sáng nay rất đẹp, những đóa hoa hồng nở ven đường sáng nay là một mầu nhiệm. Cuộc sống đáng sợ nhưng cuộc sống cũng mầu nhiệm. Thiền tập là tiếp xúc với cả hai mặt. Đừng nghĩ rằng chúng ta phải trang nghiêm mới thực tập được. Kỳ thực, thực tập giỏi, chúng ta phải cười nhiều. Gần đây, khi đang ngồi với một nhóm trẻ, thấy Jim cười rất đẹp, tôi nói: “Jim, con cười đẹp lắm!” Em trả lời: “Cám ơn Thầy”. Tôi nói: “Con không cần phải cám ơn Thầy. Ngược lại Thầy phải cám ơn con. Bởi vì nhờ nụ cười của con mà sự sống đẹp hơn. Vì vậy thay vì nói cám ơn, con có thể nói: ‘Đâu có gì đâu thưa Thầy, tự nhiên thôi mà!’” Nếu em bé mỉm cười được, nếu người lớn mỉm cười được thì điều đó rất quan trọng và đáng quý. Nếu trong đời sống hàng ngày ta có thể mỉm cười, ta có khả năng bình an và hạnh phúc thì không những ta mà tất cả mọi người đều được thừa hưởng. Đó là nền tảng căn bản nhất của công việc chế tác hòa bình. Khi thấy Jim cười, tôi rất hạnh phúc. Nếu cậu bé ý thức rằng cậu đang làm cho người khác hạnh phúc thì cậu có thể nói: “Bạn quá tuyệt vời”. Để nhắc nhở mình buông thư và giữ tâm bình an, thỉnh thoảng chúng ta cần nên tham gia các khóa tu, hay ngày quán niệm. Những lúc đó, chúng ta có thể đi chậm lại, mỉm cười, uống trà, trân quý sự có mặt của nhau và sống với nhau như thể mình là người hạnh phúc nhất trên đời. Thực sự, đây không phải là khóa tu (retreat) mà là một sự ưu đãi, một bữa tiệc (treat). Trong khi đi thiền hành, ngồi thiền, nấu ăn, làm vườn… suốt ngày, ta có thể thực tập mỉm cười. Ban đầu có thể hơi khó. Có khi ta lại thắc mắc tại sao ta phải cười. Cười được nghĩa là mình đang có chủ quyền với chính mình, mình là mình, mình không đắm chìm trong thất niệm. Nhìn trên khuôn mặt của các vị Bụt và các vị Bồ Tát, ta cũng thấy được những nụ cười như thế. Tôi xin cống hiến cho các bạn một bài thi kệ để các bạn có thể đọc thầm khi thở và mỉm cười: Thở vào tâm tĩnh lặng Thở ra miệng mỉm cười An trú trong hiện tại Giây phút đẹp tuyệt vời. “Thở vào tâm tĩnh lặng” giống như uống một ly nước mát, chúng ta cảm thấy sự mát mẻ dễ chịu thấm vào châu thân ta. Khi tôi thở vào và đọc lên câu này, tôi thấy hơi thở thực sự làm lắng dịu thân tâm tôi. “Thở ra miệng mỉm cười”. Ta thấy được hiệu quả của nụ cười. Nụ cười làm buông thư hàng trăm bắp cơ trên khuôn mặt ta, làm cho hệ thần kinh ta thư giãn. Nụ cười giúp ta làm chủ bản thân. Vì vậy mà chư Bụt, chư vị Bồ tát luôn mỉm cười. Khi mỉm cười chúng ta sẽ nhận ra được sự mầu nhiệm của nụ cười. “An trú trong hiện tại”. Khi ngồi đây tôi không nghĩ đến một nơi nào khác. Không nghĩ đến quá khứ hoặc tương lai. Tôi ý thức nơi mình đang ngồi. Điều này rất quan trọng. Chúng ta cókhuynh hướng sống trong tương lai mà không phải sống trong giây phút hiện tại, không phải sống trong cái bây giờ, ở đây. Ta thường nói: “Đợi học xong có bằng tiến sĩ rồi tôi mới hạnh phúc”. Đâu dễ gì có bằng tiến sĩ, nhưng khi có bằng tiến sĩ rồi ta vẫn không hạnh phúc, ta lại nói: “Đợi đến khi có công ăn việc làm rồi tôi mới thực sự hạnh phúc, mới thực sự sống được”. Sau khi có công ăn việc làm ta lại đòi có xe hơi. Sau khi có xe hơi, ta đòi có nhà cao cửa lớn. Ta không có khả năng sống trong giây phút hiện tại. Ta có khuynh hướng trì hoãn đến tương lai, một tương lai xa xôi mà ta không biết là khi nào. Bây giờ không phải là giây phút để ta có thể sống hạnh phúc được. Và có thể suốt đời, không bao giờ ta thực sự sống, không bao giờ thực sự hạnh phúc. Vì thế, nếu có nói về một nghệ thuật sống thì đó là nghệ thuật sống trong giây phút hiện tại. Ý thức là chúng ta đang có mặt ở đây trong giây phút hiện tại, và chỉ có giây phút hiện tại là giây phút đáng sống nhất. “Giây phút đẹp tuyệt vời”. Đây là giây phút duy nhất có thật. Có mặt ngay bây giờ, ở đây và sống hết lòng với giây phút hiện tại là công việc quan trọng nhất của ta. “Lặng, cười, hiện tại, tuyệt vời.” Tôi hy vọng các bạn sẽ thực tập được. Dù cuộc sống có khó khăn cách mấy và nhiều khi rất khó để mỉm cười, nhưng cứ thử đi, rồi các bạn sẽ thấy được hiệu quả của nó. Chẳng hạn như khi ta chào nhau: “Chào anh, chào chị”, thì lời chào đó phải là một lời chào đích thực. Gần đây có một người bạn hỏi tôi: “Làm sao tôi có thể cười được khi trong lòng đầy khổ đau buồn tủi? Tôi thấy không tự nhiên thoải mái chút nào cả.” Tôi nói: “Cô phải mỉm cười với nỗi buồn của cô, bởi vì cô giàu có hơn nỗi buồn nhiều lắm.” Chúng ta giống như cái ti vi vậy, có hàng triệu kênh. Nếu mở kênh Bụt lên thì chúng ta là Bụt. Nếu mở kênh buồn lên thì chúng ta là nỗi buồn. Nếu mở kênh cười lên thì chúng ta là nụ cười. Chúng ta không nên để cho một kênh nào đó xâm chiếm, khống chế, lấn át ta. Trong ta có đủ mọi loại hạt giống. Chúng ta phải nắm lấy tình hình trong tay và khôi phục lại chủ quyền của mình. Khi ta ngồi có ý thức, có bình an, có khả năng thở và mỉm cười được thì ta thực sự là ta, ta có chủ quyền với ta. Khi mở ti vi lên, ta thường để cho chương trình ti vi xâm chiếm. Thỉnh thoảng cũng có những chương trình hay nhưng thường thì chỉ là sự huyên náo, ồn ào. Nhưng vì ta muốn có một cái gì đó đi vào ta hơn là chính bản thân mình, nên ta ngồi đó để cho những chương trình huyên náo tấn công, ngự trị và hủy hoại mình. Cho dù hệ thần kinh của ta đau khổ, kêu la, ta vẫn không can đảm đứng dậy để tắt ti vi. Bởi vì tắt ti vi đi thì chúng ta phải quay về đối diện với chính mình. Thiền thì ngược lại. Thiền giúp chúng ta trở về với chính tự thân mình. Trong xã hội, có cả hàng ngàn thứ như âm nhạc, phim ảnh, sách báo… kết hợp, hòa trộn lại lôi kéo ta đi, khiến ta ngày càng xa rời bản thân. Chúng ta phải ý thức, mỉm cười và biết thở những hơi thở chánh niệm. Đó là thiền tập, là một mặt khác của xã hội. Chúng ta trở về với chính mình để thấy được những gì đang xảy ra, vì chỉ có cái đang xảy ra mới là điều quan trọng nhất. Giả sử các bạn đang mong muốn có một đứa con thì các bạn phải thở và cười cho con của các bạn. Đừng đợi đến khi con mình ra đời rồi mới bắt đầu chăm sóc nó. Các bạn có thể chăm sóc cho con của các bạn ngay bây giờ, thậm chí phải chăm sóc chúng sớm hơn nữa. Nếu các bạn không cười được thì rất nguy hiểm. Chúng ta không thể coi thường được. Có thể các bạn nghĩ rằng: “Tôi đang buồn khổ như vầy làm sao cười được? Phải la khóc lên mới đúng hơn.” Thế nhưng nếu bạn khóc la thì con của bạn sẽ lãnh đủ. Tất cả những gì ta làm đều là làm cho con ta. Cho dù ta không đang mang đứa bé trong bụng thì hạt giống của em bé cũng đã có ở đó rồi. Dù ta không lập gia đình, hay dù ta là đàn ông đi nữa thì những hạt giống của các thế hệ tương lai cũng đã có trong ta. Đừng đợi đến khi bác sĩ báo cho ta biết là ta đang mang thai, ta mới bắt đầu chăm sóc em bé. Nó đã có ở đó rồi. Bất kể ta làm gì, ta như thế nào thì đứa bé đều nhận được hết. Tất cả những gì ta ăn, những gì ta quan tâm, lo lắng đều ảnh hưởng đến đứa bé, đều là cho đứa bé. Bạn nói là bạn không cười được chăng? Hãy nghĩ về đứa bé và mỉm cười với nó, cười cho nó và cho các thế hệ tương lai. Đừng nói rằng nụ cười và nỗi buồn không thể đi chung với nhau được. Đành rằng bạn buồn, nhưng còn đứa bé thì sao? Đâu phải là nỗi buồn của nó. Nó có tội tình gì mà bắt nó phải buồn? Ngay cả những em nhỏ cũng hiểu được trong mỗi người, nữ cũng như nam, đều có khả năng tỉnh thức, hiểu biết và thương yêu. Nhiều em đã nói với tôi rằng chúng không thể tìm ra một người nào mà không có những khả năng hiểu biết và thương yêu ấy. Ở một số người thì những hạt giống này có cơ hội phát triển mạnh hơn, một số người khác thì không, nhưng tất cả đều có đó. Khả năng tỉnh thức, còn được gọi là Phật tánh, là khả năng hiểu biết, thương yêu, cũng như ý thức được những gì đang xảy ra trong thân thể, trong những cảm thọ, tri giác, tâm hành và thế giới. Bụt sơ sinh đang có mặt trong ta, thế nên ta phải cho Bụt một cơ hội để biểu hiện. Nụ cười rất quan trọng. Nếu chúng ta không có khả năng mỉm cười thì thế giới sẽ không có hòa bình, không có bình an. Chúng ta không thể biểu tình chống tên lửa hạt nhân để mang lại hòa bình mà chỉ khi nào chúng ta mỉm cười được, thở được những hơi thở ý thức, chế tác được an lạc thì khi ấy hòa bình mới có thể được tạo dựng. Ba viên ngọc quý Nhiều người trong chúng ta đang lo lắng cho tình trạng của thế giới hiện nay. Không biết lúc nào những quả bom sẽ nổ. Đôi khi ta có cảm giác như nhân loại đang ở bên bờ vực thẳm và ta không biết phải làm gì. Chúng ta thấy bất lực và tuyệt vọng. Những hiểm họa, những bất công xã hội đang lan tràn khắp nơi và mối nguy hại càng ngày càng tiến đến gần mình. Trong tình trạng như thế, nếu sợ hãi, chúng ta sẽ không làm được gì cả, chỉ làm cho mọi thứ càng tệ hại thêm thôi. Chúng ta phải bình tĩnh để nhìn nhận sự việc một cách rõ ràng, sáng suốt. Thiền tập là ý thức được những tình trạng đang xảy ra và tìm cách cứu chữa cho những tình trạng đó. Tôi thích dùng hình ảnh chiếc thuyền nhỏ đang băng qua vịnh Thái Lan. Thường những lúc biển động hay có bão lớn, người ta rất sợ hãi vì thuyền có thể bị sóng gió đập tan tành và bị chìm bất cứ lúc nào. Nhưng nếu trên thuyền có một người giữ được bình tĩnh, sáng suốt, biết được những gì nên làm và những gì không nên làm thì người đó có thể cứu được cho cả thuyền sống sót. Khuôn mặt của người ấy, lời nói của người ấy, cử chỉ của người ấy truyền được cho những người khác sự an bình, trầm tĩnh và sáng suốt. Mọi người nhìn vào có thể đặt niềm tin vào người ấy, lắng nghe người ấy. Một người như thế có thể cứu được không biết bao nhiêu là mạng sống. Thế giới chúng ta cũng giống như một chiếc thuyền. So với vũ trụ thì hành tinh mà chúng ta đang sống là một chiếc thuyền nhỏ. Chúng ta sợ hãi vì tình trạng của chúng ta có vẻ không khá hơn tình trạng của chiếc thuyền trên biển bao nhiêu. Chúng ta biết rằng chúng ta có hơn 50.000[1] vũ khí hạt nhân. Và với 50.000 vũ khí hạt nhân đó loài người đã trở nên rất nguy hiểm. Chúng ta cần những người ngồi yên và có khả năng mỉm cười, có khả năng bước được những bước chân bình an, thanh thản. Chúng ta cần những người như thế để cứu chúng ta. Đạo Bụt Đại thừa nói rằng các bạn chính là người đó, mỗi người trong các bạn là người đó. Tôi có một người học trò tên là Thích Thanh Văn, đi tu lúc sáu tuổi. Lúc 17 tuổi thì bắt đầu học với tôi. Sau đó làm hiệu trưởng trường Thanh niên Phụng sự Xã hội. Thầy đã hướng dẫn hàng ngàn người trẻ làm việc trong cuộc chiến tranh Việt Nam, xây dựng lại những ngôi làng đã bị tàn phá bởi bom đạn, đưa hàng vạn người tị nạn ra khỏi vùng chiến tranh. Thầy rất nhẹ nhàng nhưng cũng rất can đảm. Thầy đã qua đời trong một tai nạn. Lúc đó tôi đang ở Copenhagen, thủ đô Đan Mạch, thì nghe tin thầy mất. Lúc thầy còn là chú tiểu sáu, bảy tuổi, thấy mọi người đem bánh, chuối tới chùa cúng Bụt, thầy muốn biết Bụt ăn chuối như thế nào nên đợi mọi người về hết, chánh điện đóng cửa, thầy rình xem Bụt ăn chuối như thế nào. Thầy chăm chú nhìn vào khe cửa, đợi Bụt với tay ra bẻ chuối, bóc vỏ ăn. Thầy đợi hoài nhưng không thấy gì cả. Thầy nghĩ có lẽ Bụt biết có ai đó đang theo dõi mình nên Ngài không ăn. Khi khám phá ra tượng Bụt không phải là Bụt, thầy bắt đầu đặt câu hỏi: “Bụt ở đâu?” Bởi vì đối với thầy thì Bụt không có ở đây, Bụt không sống giữa loài người này. Và thầy kết luận rằng Bụt không dễ thương lắm vì khi thành Bụt rồi thì Bụt lại bỏ chúng ta để đi đến một nơi khác rất xa xôi. Tôi nói với thầy rằng Bụt là chúng ta, được làm bằng xương bằng thịt chứ không phải bằng đồng, bằng vàng hay bằng bạc. Tượng Bụt chỉ là biểu tượng của Bụt, cũng giống như lá cờ Mỹ chỉ là biểu tượng của nước Mỹ. Lá cờ Mỹ không phải là nước Mỹ, không phải là người Mỹ, không phải là dân tộc Mỹ. Gốc của từ Bụt (Buddha) có nghĩa là tỉnh thức, hiểu biết. Những ai có tỉnh thức, hiểu biết thì được gọi là Bụt. Đơn giản vậy thôi. Khả năng tỉnh thức, hiểu biết, thương yêu gọi là Phật tánh. Khi người Phật tử nói: “Con về nương tựa Bụt” là người ấy bày tỏ niềm tin vào khả năng hiểu biết, tỉnh thức trong chính họ. Người Trung Quốc và Việt Nam nói: “Về nương Bụt trong con”. ‘Trong con’ chỉ cho thấy rõ rằng chính mình là Bụt. Trong đạo Bụt có ba viên ngọc quý. Đó là Bụt, Pháp và Tăng. Bụt là người tỉnh thức. Pháp là con đường tỉnh thức, con đường của tình thương và sự hiểu biết. Tăng là đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. Bụt, Pháp, Tăng liên quan mật thiết với nhau, đôi khi khó phân biệt được cái nào với cái nào. Trong mỗi người đều có khả năng tỉnh thức, hiểu biết và thương yêu. Vì vậy trong mỗi chúng ta đều có Bụt, Pháp và Tăng. Tôi sẽ giải thích thêm về Pháp và Tăng sau. Trước tiên tôi xin giải thích về Bụt, người có khả năng hiểu biết và thương yêu cao nhất. Tiếng Sanskrit, hiểu là prajna (bát nhã), thương là maitri (từ) và karuna (bi). Hiểu và thương không phải là hai thứ khác nhau mà là một. Giả sử một buổi sáng nào đó đứa con trai mình thức dậy, thấy sắp trễ giờ đi học, nó nghĩ nên đánh thức đứa em gái dậy để còn kịp giờ ăn sáng trước khi đi học. Vậy mà, đứa em gái, thay vì nói: “Cám ơn anh đã đánh thức em dậy” thì lại nổi cáu: “Im đi, để yên cho em ngủ”, rồi đá anh một cái. Người anh có thể giận dữ nghĩ rằng: “Mình đã thức nó nhẹ nhàng, dễ thương. Tại sao nó lại đá mình?” Người anh chạy xuống bếp mách ba nó, hay đá lại đứa em gái một cái. Nhưng rồi nó nhớ lại tối hôm qua em mình ho nhiều, chắc là nó bị bệnh. Có thể em mình bị cảm lạnh nên đã hành xử như thế và nó không còn giận đứa em nữa. Giây phút đó nó là Bụt. Nó hiểu và tỉnh thức. Khi hiểu rồi, các bạn không thể nào làm khác được mà chỉ có thương yêu thôi. Các bạn không thể giận được. Để nuôi lớn sự hiểu biết, chúng ta phải nhìn cuộc đời bằng ánh mắt thương yêu. Hiểu được thì thương được. Và khi thương được thì các bạn sẽ làm cho người kia vơi đi nỗi khổ một cách rất tự nhiên. Những ai có tỉnh thức, có hiểu biết, thương yêu thì được gọi là Bụt. Bụt ở trong mỗi chúng ta. Chúng ta cũng có khả năng tỉnh thức, hiểu biết và thương yêu. Tôi thường nói với các em nhỏ rằng nếu hôm nay mẹ hay ba con hành xử dễ thương, có hiểu biết, thương yêu, chăm sóc gia đình chu đáo và mỉm cười tươi vui như một đóa hoa thì các con nên nói: “Mẹ, hôm nay mẹ là Bụt”, “Ba, hôm nay ba là Bụt”. Cách đây 2.500 năm có một người đã tu tập, đã đạt đến sự hiểu biết và thương yêu toàn vẹn mà mọi người trên thế giới ai cũng biết đến và công nhận, đó là Siddhartha. Khi còn trẻ, Siddhartha đã cảm nhận được rằng cuộc sống này đầy rẫy khổ đau, con người không thương nhau đủ, không hiểu nhau đủ. Vì vậy mà Ngài rời cung điện vào rừng thiền định, thực tập hơi thở và nụ cười. Ngài trở thành một vị khất sĩ, tu tập làm phát khởi khả năng tỉnh thức, hiểu biết và thương yêu đến mức cao nhất. Ngài thực tập cùng với năm anh em đồng tu khác trong vài năm, thực tập khổ hạnh rất tinh tấn, mỗi ngày chỉ ăn một miếng trái cây, một miếng xoài, một miếng ổi hay một miếng khế. Có khi người ta phóng đại lên nói là Siddhartha ăn mỗi ngày một hạt mè. Nhưng khi đến khu rừng ở Ấn Độ nơi mà ngày xưa Bụt tu tập, tôi không thấy hạt mè nào cả. Ở đó người ta không trồng mè. Chỉ thấy dòng sông Anoma ngày xưa Bụt tắm, thấy cội bồ đề nơi Ngài chứng đạo, nhưng cội bồ đề này không phải là cội bồ đề ngày xưa Bụt ngồi mà là cội bồ đề cháu mấy đời của cội bồ đề trước. Một ngày nọ đức Bụt kiệt sức không thể tiếp tục tu tập được nữa. Ngài là một chàng trai thông minh, vì vậy Ngài quyết định đi vào làng khất thực. Nhưng đi được bốn, năm bước thì Ngài té xỉu và bất tỉnh vì quá đói. Khi đó có một cô gái mang sữa vào làng thấy Ngài bèn đến gần. Cô bé thấy Ngài vẫn còn sống, vẫn còn thở nhưng quá yếu nên lấy bát rót sữa, đưa vào miệng Ngài. Ban đầu Siddhartha không phản ứng gì cả nhưng sau đó môi Ngài mấp máy và bắt đầu uống sữa. Ngài uống hết bát sữa và thấy trong người khỏe hơn, rồi từ từ ngồi dậy được. Vì Bụt rất đẹp nên cô bé đưa sữa nghĩ rằng có lẽ Ngài là Thần Núi (god of mountain). Cô quỳ xuống chuẩn bị cầu nguyện thì Ngài đưa tay ra hiệu cho cô đừng làm thế và nói với cô… Bạn có hình dung ra Bụt nói gì với cô bé không? Bụt nói: “Cho ta một ly sữa nữa”. Bởi vì Ngài thấy sữa làm nên điều kỳ diệu. Ngài thấy rằng một khi thân thể khỏe mạnh thì mình mới có thể thiền định thành công được. Sau đó cô bé hỏi thăm Ngài và được Ngài cho biết Ngài là một vị đạo sĩ đang tu tập thiền định nhằm đạt đến sự hiểu biết, thương yêu lớn để có thể giúp đỡ người khác. Cô bé hỏi cô có thể giúp được gì cho Ngài không thì Siddhartha trả lời: “Mỗi ngày đúng vào giờ ngọ, con có thể cho ta một chén cơm được không? Điều đó sẽ giúp ta rất nhiều”. Từ đó trở đi, ngày nào cô bé cũng mang cho Ngài một ít cơm gói trong lá chuối, và thỉnh thoảng cô cũng mang theo một ít sữa. Năm anh em Kiều Trần Như cùng tu với Ngài trước đây biết vậy nên rất xem thường Ngài, nghĩ Ngài không xứng đáng. Họ nói với nhau rằng: “Chúng ta hãy đi nơi khác để tu hành. Ông ta đã uống sữa, ăn cơm, ông ta đã bỏ cuộc, không kiên trì, nhẫn nại.” Thực tế thì Ngài tu tập rất tinh chuyên. Ngày này qua ngày khác, Ngài tham thiền, nhập định liên tục nên tuệ giác, hiểu biết, thương yêu phát triển không ngừng, nhanh như cách Ngài phục hồi lại sức khỏe vậy. Một hôm, sau khi tắm ở sông Anoma, Ngài có cảm tưởng là chỉ cần ngồi thiền thêm một lần nữa thôi là Ngài có thể chứng đạo và trở thành một bậc giải thoát giác ngộ hoàn toàn. Khi Ngài sắp ngồi xuống, lúc này Ngài vẫn còn đi thiền hành, thì có một cậu bé chăn trâu đi tới. Ở Ấn Độ, cách đây 2.500 năm người ta dùng trâu để kéo cày. Và công việc của cậu bé chăn trâu là canh chừng trâu, tắm cho trâu, chăm sóc trâu và cắt cỏ cho trâu ăn. Khi cậu bé chăn trâu đến gần, thấy Siddhartha bước đi rất an nhiên thanh thản, cậu mến Ngài ngay. Cậu muốn nói chuyện với Siddhartha nhưng mắc cỡ. Vì vậy cậu đến gần Siddhartha ba, bốn lần rồi mới nói được: “Chú ơi, cháu rất mến chú.” Có nhiều khi ta thấy một ai đó, ta mến ngay người đó dù ta không biết người đó là ai và cũng không hiểu tại sao. Siddhartha nhìn cậu bé rồi nói: “Ta cũng mến con”. Câu trả lời của Siddhartha khích lệ cậu bé rất nhiều, vì thế cậu bé nói tiếp: “Cháu muốn tặng chú một cái gì đó nhưng cháu không có gì để tặng cả.” Siddhartha trả lời: “Con có cái mà ta rất cần. Con có cỏ xanh rất đẹp mà con vừa mới cắt. Nếu được con có thể cho ta mớ cỏ đó.” Cậu bé rất hạnh phúc là mình có thể cho Siddhartha một cái gì đó. Siddhartha cám ơn cậu bé. Sau khi cậu bé đi rồi Ngài trải mớ cỏ ra làm tọa cụ để ngồi. Khi ngồi xuống, Ngài phát một lời nguyện rất dũng mãnh: “Nếu không chứng ngộ, ta sẽ không rời khỏi nơi này.” Với quyết tâm dũng liệt phi thường, Ngài nhập định suốt đêm và khi sao mai vừa mọc thì Ngài đạt ngộ, trở thành một vị Bụt, một bậc giác ngộ hoàn toàn, đạt đến khả năng hiểu biết và thương yêu cao nhất. Bụt ở lại đó hai tuần, sống trọn vẹn với chính mình, thưởng thức hơi thở, bước chân, nụ cười, có mặt cho chính mình cũng như với thế giới chung quanh. Mỗi ngày cô bé vẫn mang sữa đến cho Ngài và cậu bé chăn trâu vẫn đến thăm Ngài. Ngài dạy cho hai đứa trẻ về pháp môn tỉnh thức, hiểu biết và thương yêu. Trong Tạng Pali có kinh Chăn Trâu, nói về 11 kỹ thuật mà một cậu bé chăn trâu phải có, như: nhận diện trâu, hun khói đuổi muỗi cho trâu, chăm sóc vết thương trên mình trâu, giúp trâu qua sông, tìm nơi có đủ nước và cỏ cho trâu ăn v.v… Sau khi liệt kê 11 kỹ thuật chăn trâu, đức Bụt nói với quý thầy, thiền tập cũng giống như vậy, và Ngài liệt kê ra 11 kỹ năng tương đương, như nhận diện năm uẩn của con người, đem đạo lý giải thoát giảng dạy cho những người chung quanh để họ tránh được những khổ đau dằn vặt trong thân tâm, tránh những con đường đưa tới sắc dục danh lợi, biết nương vào đức hạnh và kinh nghiệm của những bậc đi trước, biết quý trọng những niềm an vui do thiền tập đưa tới, biết nương vào diệu lý bốn sự thật để biết đến bến bờ giải thoát, biết rằng bốn lãnh vực quán niệm là mảnh đất tốt nhất để làm phát sinh giải thoát v.v… Hầu hết những câu chuyện nói về cuộc đời của đức Bụt đều bỏ sót sự kiện hai tuần Ngài ở lại dưới cội bồ đề sau khi thành đạo, gặp gỡ, dạy dỗ cho cô bé đưa sữa và cậu bé chăn trâu, đi thiền hành và chơi với nhau. Tôi tin chắc là điều này đã xảy ra. Nếu không tại sao Bụt có thể nói Kinh Chăn Trâu? Sự thật là khi cậu bé chăn trâu lớn lên, đã trở thành đệ tử của Bụt. Hai tuần sau, Ngài thấy mình cần phải rời khỏi cội bồ đề để đi chia sẻ phương pháp hiểu biết và thương yêu cho mọi người nên Ngài nói với cô bé đưa sữa và cậu bé chăn trâu rằng: “Rất tiếc là bây giờ ta phải rời khỏi nơi đây. Chúng ta đã sống với nhau những ngày rất hạnh phúc, nhưng ta phải đi để tiếp xúc và chia sẻ con đường ta đã khám phá ra với mọi người.” Ngài suy nghĩ xem ai là người mà Ngài có thể chia sẻ được sự hiểu biết và thương yêu này. Ngài nghĩ ngay đến năm người bạn đồng tu mà Ngài đã thực tập chung trước đây. Ngài đi cả ngày để tìm năm người này. Khi Ngài đến nơi năm anh em ở thì họ vừa mới ngồi thiền xong. Họ ngồi nhiều lắm. Bây giờ họ rất gầy. Chúng ta cũng có thể tưởng tượng được họ gầy gò cỡ nào. Một trong số họ thấy Bụt đi đến liền nói với những vị khác: “Nếu ông ta đến thì đừng đứng dậy, đừng ra cổng đón tiếp ông ta. Đừng đi lấy nước cho ông ta rửa chân tay. Bởi vì ông ta đã bỏ cuộc, ông ta đã ăn cơm, uống sữa, ông ta không kiên trì bền chí.” Thế nhưng khi Bụt đến thì phong thái an nhiên và tĩnh lặng của Ngài đã gây ấn tượng rất lớn đến nỗi họ không thể không đi lấy nước cho Ngài rửa chân và lấy ghế cho Ngài ngồi. Bụt nói với họ: “Này các bạn, tôi đã tìm ra con đường giải thoát, con đường của hiểu biết và thương yêu. Hãy ngồi xuống đi, tôi sẽ chia sẻ những gì tôi đã tìm được cho các bạn.” Ban đầu họ không tin. Họ nói: “Siddhartha, trước đây khi thực tập với chúng tôi Ngài đã bỏ cuộc. Ngài đã ăn cơm và uống sữa. Làm sao Ngài có thể trở thành một bậc giác ngộ toàn vẹn được? Ngài nói đi. Chúng tôi không thể tin được điều này.” Đức Bụt nói: “Này các bạn, có bao giờ tôi nói dối với các bạn không?” Kỳ thực, Ngài không bao giờ nói dối với ai cả và năm người bạn đều công nhận điều này. “Trước đây tôi chưa bao giờ nói dối với các bạn và bây giờ tôi cũng không nói dối với các bạn. Tôi đã là một người giác ngộ hoàn toàn và bây giờ tôi sẽ chia sẻ với các bạn. Hãy ngồi xuống đi, tôi sẽ nói cho các bạn nghe. Cả năm người cùng ngồi xuống nghe Bụt nói. Ngài giảng bài pháp thoại đầu tiên cho họ. Nếu các bạn muốn đọc những lời Ngài dạy thì hãy tìm trong kinh Tứ Đế, giải thích những nguyên tắc cơ bản của đạo Bụt. Đó là khổ, tập (nguyên nhân của khổ đau), diệt (sự chấm dứt khổ đau) và đạo (con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau). Tôi đã đọc nhiều câu chuyện về cuộc đời đức Bụt và thấy Bụt cũng là một con người như chúng ta, ấy vậy mà có những họa sĩ vẽ hình Bụt mà không thấy Bụt giống như một con người. Có rất nhiều tượng Bụt, nhưng ít có tượng đẹp và đơn giản. Bất cứ lúc nào nếu muốn vẽ hình Bụt thì các bạn hãy ngồi xuống thở năm, mười phút, mỉm cười buông thư trước khi cầm bút vẽ. Sau đó vẽ một đức Bụt thật đơn giản. Đơn giản mà đẹp, với một nụ cười bình an trầm tĩnh trên môi. Nếu được, các bạn có thể vẽ thêm vài em bé ngồi chung quanh Ngài. Đức Bụt hãy còn trẻ, không cau có, không hung dữ, không quá nghiêm trang, với một nụ cười nhẹ nhàng buông thả. Chúng ta phải đi theo hướng này để khi nhìn vào Bụt là ta mến Bụt ngay như em bé chăn trâu và cô bé đưa sữa vậy. Khi nói: “Con về nương tựa Bụt”, chúng ta cũng nên hiểu rằng: “Bụt cũng đang nương tựa mình”. Bởi vì nếu không có phần đầu (con) thì phần thứ hai (Bụt) không thể trọn vẹn được. Đức Bụt cần chúng ta để cho sự tỉnh thức, hiểu biết, thương yêu trở nên có thực mà không phải chỉ tồn tại như những khái niệm. Đó phải là những gì có thực ảnh hưởng lên đời sống của ta. Bất cứ lúc nào tôi nói: “Con về nương tựa Bụt”, tôi cũng nghe: “Bụt về nương tựa tôi”. Đây là bài kệ trồng cây: Tôi gởi tôi cho đất Đất gởi đất cho tôi Tôi gởi tôi nơi Bụt Bụt gởi Bụt nơi tôi. “Tôi gởi tôi cho đất” cũng giống như “Con về nương tựa Bụt”. Tôi quán tưởng mình là một cái cây. Cây sống được là nhờ đất. Cây nương tựa nơi đất. Nhưng “Đất gởi đất cho tôi” bởi vì mỗi chiếc lá rơi xuống sẽ mục nát và phân hủy làm cho đất màu mỡ hơn. Chúng ta biết rằng cây cối làm cho đất đai màu mỡ, tốt tươi, xinh đẹp. Sở dĩ đất mẹ của chúng ta xanh và đẹp là nhờ cây. Vì vậy trong khi cây cần đất mẹ thì đất mẹ cũng cần cây để làm hiển lộ một hành tinh xanh đẹp. Thế nên khi nói: “Tôi gởi tôi cho đất” thì ‘tôi’ (cái cây) cũng phải nghe những lời khác: “Đất gởi đất cho tôi”. “Tôi gởi tôi nơi Bụt, Bụt gởi Bụt nơi tôi”. Rất rõ ràng rằng tuệ giác và sự hiểu biết thương yêu của Bụt Thích Ca Mâu Ni cần chúng ta để trở nên có thật trong đời sống này. Vì vậy công việc quan trọng của chúng ta là thắp sáng sự tỉnh thức, nuôi lớn hiểu biết và thương yêu. Tất cả chúng ta đều là Bụt, bởi vì chỉ có qua chúng ta thì hiểu biết thương yêu mới trở nên xác thực và hiệu quả. Thầy Thanh Văn đã qua đời trong lúc giúp đỡ mọi người. Thầy là một phật tử thuần thành, một đức Bụt nhân từ, bởi vì thầy có khả năng giúp cả hàng vạn nạn nhân của cuộc chiến. Nhờ thầy mà sự tỉnh thức, hiểu biết, thương yêu trở nên có thật. Vì vậy, chúng ta có thể gọi thầy là Bụt, tiếng Sankrit là Buddhakaya (Phật thân). Để đạo Bụt trở nên có thật thì phải cần Phật thân, một thân thể để thực hiện những hành động tỉnh thức. Nếu không, đạo Bụt chỉ là ngôn từ. Thầy Thanh Văn là một Phật thân. Đức Thích Ca Mâu Ni là một Phật thân. Nếu chúng ta có tỉnh thức, có hiểu biết, thương yêu thì mỗi chúng ta đều là một vị Bụt. Viên ngọc quý thứ hai là Pháp. Pháp là lời Bụt dạy, là con đường của tình thương và sự hiểu biết. Trước khi Bụt nhập diệt, Ngài nói với đệ tử rằng: “Này quý thầy, ngày mai nhục thân của ta sẽ không còn nữa, nhưng Pháp thân của ta sẽ luôn còn đó để giúp đời. Quý thầy hãy lấy giáo pháp của ta làm người thầy cho chính mình, người thầy không bao giờ bỏ mình mà đi.” Đó là Pháp thân. Pháp cũng có thân. Thân của giáo lý, thân của con đường. Như các bạn đã thấy, ý nghĩa của pháp thân rất đơn giản. Pháp thân nghĩa là lời dạy của Bụt, là cái hiểu của mình về giáo pháp, là con đường của tình thương và sự hiểu biết. Sau này, người ta gọi là chân như, bản thể (nền tảng của vạn pháp). Tất cả những gì có khả năng giúp ta tỉnh thức đều có Phật tánh. Khi ngồi một mình nghe tiếng chim hót, tôi trở về với chính mình, theo dõi hơi thở và mỉm cười. Có khi nó hót như muốn gọi lại lần nữa. Tôi mỉm cười và nói với chim: “Tôi nghe rồi”. Không chỉ có âm thanh mà hình ảnh cũng có thể nhắc nhở chúng ta trở về với ngôi nhà đích thực của chính mình. Buổi sáng, khi mở cửa sổ, thấy ánh sáng lùa vào, chúng ta cũng có thể xem đó như là tiếng gọi của Pháp, và trở thành một phần của Pháp thân. Đó là lý do tại sao người tỉnh thức nhìn đâu cũng thấy Pháp. Một hòn sỏi, một cây tre, tiếng khóc của trẻ thơ, bất cứ thứ gì cũng đều có thể là tiếng gọi của Pháp. Chúng ta nên thực tập như thế. Một ngày nọ, có một vị xuất sĩ đến tham vấn với Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ngài Tuệ Trung là một người thầy nổi tiếng trong nền Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 13. Thời kỳ này Phật giáo rất hưng thịnh ở Việt Nam. Vị xuất sĩ hỏi: “Thế nào là Pháp thân thanh tịnh, không tỳ vết?” Ngài Tuệ Trung chỉ vào đống phân ngựa. Thoạt nghe, ta thấy như đó là một quan điểm thiếu tôn kính đối với Pháp bởi vì người ta thường dùng những từ ngữ thanh cao, trang nhã để mô tả Pháp. Tuy nhiên đôi khi Phật Pháp không thể dùng ngôn từ để diễn bày. Cho dù ta có nói Pháp thanh tịnh, không tỳ vết đi nữa thì điều đó cũng không có nghĩa là Phật pháp tách rời những thứ ô uế, không thanh tịnh. Thực tại, thực tại tối hậu, vượt thoát tất cả mọi ý niệm, dù là ý niệm thanh tịnh hay ô uế. Vì thế câu trả lời của Ngài Tuệ Trung nhằm đánh thức tâm trí vị xuất sĩ kia, giúp vị ấy buông bỏ tất cả mọi ý niệm để có thể thấy được tự tánh các Pháp. Người thầy cũng là một phần của Pháp thân. Vì Thầy giúp mình tỉnh thức. Cách thầy nhìn, cách thầy sống, cách thầy tiếp xử với mọi người, mọi loài và thiên nhiên giúp ta nuôi lớn hiểu biết và thương yêu trong đời sống hàng ngày của ta. Có rất nhiều cách để chuyển tải giáo pháp như thuyết pháp, viết sách, lưu hành băng giảng. Tôi có một người bạn tu thiền ở Việt Nam, khá nổi tiếng, nhưng không có nhiều người đến học hỏi với thầy. Có người thâu băng những buổi nói chuyện của thầy để phát hành, và người ta chỉ biết được thầy qua những băng giảng đó. Tuy nhiên, cho dù thầy không giảng dạy thì sự có mặt của thầy cũng giúp chúng ta rất nhiều trong việc tỉnh thức, xây dựng hiểu biết và thương yêu. Bởi vì thầy là một phần của Pháp thân. Pháp không chỉ được diễn tả bằng lời, bằng âm thanh mà chính tự tính của nó đã là Pháp rồi. Đôi khi không cần làm gì cả mà ta giúp cho người khác nhiều hơn là làm. Ta gọi đó là đạo đức vô hành. Cũng giống như một người có khả năng ngồi yên trên chiếc thuyền trong cơn giông bão vậy. Người đó không cần phải làm gì nhiều mà sự có mặt của người đó làm cho tình trạng đổi thay. Đó cũng là một mặt của Pháp thân, là thân giáo: không cần nói, không cần dạy, chỉ cần có mặt thôi. Điều này không chỉ đúng với con người mà những loài khác cũng thế. Hãy nhìn những cái cây trong vườn nhà mình đi. Cây sồi chỉ cần là cây sồi. Đó là tất cả những gì nó có thể làm. Nếu cây sồi không phải là cây sồi thì có thể tất cả chúng ta sẽ lâm nguy. Vì thế cây sồi cũng đang thuyết pháp. Cây sồi không làm gì cả, không phục vụ trong trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, không thuyết pháp, thậm chí không cần phải ngồi thiền, mà bằng sự hiện diện của nó, cây sồi vẫn rất hữu ích cho tất cả chúng ta. Mỗi khi nhìn vào cây sồi chúng ta có niềm tin. Những ngày hè oi bức, ngồi dưới gốc cây sồi ta cảm thấy thoải mái, mát mẻ và thư thái. Chúng ta biết rằng nếu cây sồi hay những cây khác không có mặt ở đó thì chúng ta sẽ không có không khí trong lành để thở. Chúng ta cũng biết rằng trong những kiếp xa xưa chúng ta đã từng là cây. Có thể chúng ta đã từng là cây sồi. Điều này không chỉ có đạo Bụt mới nói đến mà khoa học cũng nói đến. Loài người là một loài rất trẻ, chúng ta chỉ có mặt mới đây thôi. Trước đó chúng ta đã là đá cuội, là chất khí, là khoáng vật, rồi sau đó chúng ta là những sinh vật đơn bào. Chúng ta là cây và bây giờ chúng ta trở thành con người. Chúng ta phải nhớ lại những quá khứ xa xưa của chúng ta. Điều này không có gì khó cả. Chúng ta chỉ cần ngồi xuống, thở cho thật bình an và nhìn lại thì chúng ta sẽ thấy được quá khứ của ta. Khi ta la mắng cây sồi, cây sồi không bực bội khó chịu, khi ta khen ngợi cây sồi, cây sồi cũng không vì thế mà hỉnh mũi lên. Chúng ta có thể học được giáo pháp từ cây sồi. Cây sồi là một phần của Pháp thân. Chúng ta có thể học được từ mọi thứ chung quanh ta và trong ta. Cho dù ta không ở chùa, không ở tu viện, không ở trong những trung tâm tu học, ta vẫn có thể thực tập được. Bởi vì Pháp có mặt quanh ta, mọi thứ đều đang thuyết pháp. Bông hoa nào, hạt sỏi nào, ngọn lá nào cũng thuyết Pháp Hoa Kinh. Tăng là đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. “Tăng thân” là một từ Sanskrit mới. Tăng cũng cần có một thân. Trong gia đình, nếu ta thực tập hơi thở ý thức, nụ cười tươi vui, nhận diện Bụt trong ta và trong con cái ta thì gia đình ta trở thành một Tăng thân. Nếu gia đình ta có chuông thì chuông là một phần của Tăng thân. Bởi vì tiếng chuông giúp ta thực tập. Nếu chúng ta có tọa cụ thì tọa cụ cũng là một phần của Tăng thân. Rất nhiều thứ giúp ta thực tập như không khí để thở, con đường để đi, gốc cây để ngồi… Nếu gần nhà mình có một công viên hay bờ sông thì chúng ta quả thật là may mắn, bởi vì chúng ta có thể đi thiền hành ở đó. Chúng ta phải nhận diện, khám phá ra tăng thân chung quanh ta. Chúng ta có thể mời bạn bè tới thực tập chung với nhau, cùng nhau thiền trà, ngồi thiền, đi thiền… Chúng ta phải cố gắng thành lập một Tăng thân ở nhà hay ở địa phương. Có Tăng thân chúng ta sẽ thực tập dễ dàng hơn. Siddhartha, khi thực tập với năm thầy tu khổ hạnh và bắt đầu uống sữa lại thì năm thầy bỏ đi. Vì vậy Ngài đã nhận cây bồ đề làm Tăng thân của Ngài. Ngài nhận cậu bé chăn trâu, cô bé đưa sữa, dòng sông, cây cối và chim chóc quanh Ngài làm Tăng thân. Có những người sống trong trại tập trung cải tạo, không có Tăng thân, không có trung tâm thiền tập nhưng họ vẫn thực tập được. Họ xem những thứ chung quanh họ là một phần của Tăng thân. Có người còn thực tập đi thiền trong nhà tù. Cho nên, trong khi chúng ta còn may mắn, còn có khả năng tìm ra nhiều yếu tố để thành lập Tăng thân thì chúng ta phải tiến hành ngay. Bạn bè chúng ta, con cái chúng ta, anh chị em chúng ta, nhà ta, cây xanh trong vườn ta, tất cả những yếu tố đó đều có thể là một phần của Tăng thân. Thiền tập hay thực hành theo đạo Bụt là để cho chúng ta có bình an, thanh tịnh và hạnh phúc, làm phát khởi hiểu biết và thương yêu. Chúng ta thực tập không phải cho hạnh phúc bình an của riêng ta mà cho hạnh phúc bình an của gia đình và xã hội. Nếu nhìn kỹ hơn chúng ta sẽ thấy ba viên ngọc quý này thực ra chỉ là một. Trong một cái có chứa đựng hai cái kia. Trong Bụt có tánh Bụt (Phật tánh) và thân Bụt (Phật thân) mà trong Bụt cũng có Pháp thân, vì không có Pháp thân thì Bụt không thể thành Bụt được. Trong Bụt cũng có Tăng thân, vì Bụt ăn sáng với cây bồ đề, với những cái cây khác, với chim chóc và môi trường quanh Ngài. Trong một trung tâm thiền tập cũng có Tăng thân. Ở đó có sự hành trì theo con đường của tình thương và sự hiểu biết. Cho nên Pháp thân có mặt, giáo pháp có mặt. Tuy nhiên giáo pháp không thể trở nên sinh động và có thật nếu không có sự sống và con người. Vì vậy Phật thân cũng đang có mặt. Nếu Bụt và Pháp không có mặt thì Tăng thân cũng không có mặt. Không có chúng ta thì Bụt cũng không có thực, Bụt tồn tại chỉ là một ý niệm. Không có các bạn thì Pháp lấy ai để được hành trì. Pháp phải được hành trì bởi một ai đó. Không có các bạn thì Tăng thân cũng không thể có được. Vì vậy khi nói: “Con về nương tựa Bụt”, ta cũng nghe: “Bụt về nương tựa con”. “Con về nương tựa Pháp”, “Pháp về nương tựa con”. “Con về nương tựa tăng”, “Tăng về nương tựa con.” [1] Số liệu năm 1987. Cảm thọ và tri giác Theo đạo Bụt, con người do năm uẩn hợp thành. Đó là sắc (sắc tức là sắc thân, gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), thọ, tưởng, hành và thức. Mỗi ngày chúng ta có rất nhiều cảm thọ, khi thì hạnh phúc, khi thì buồn khổ, khi thì giận dữ, bực bội hay sợ hãi, và những cảm thọ này xâm chiếm tâm thức ta. Cảm thọ này đi lên trấn ngự một thời gian rồi tiếp đến cảm thọ khác, rồi đến cảm thọ khác nữa. Cứ như thế, chúng đi như một dòng sông mà ta phải nhận diện và xử lý. Thiền tập là ý thức được từng cảm thọ đó. Tâm lý học Phật giáo (duy biểu) trong tác phẩm Abhidharma (Tỳ Bà Đạt Ma) nói rằng thọ có ba loại: lạc thọ, khổ thọ và trung tính. Khi giẫm phải gai, chúng ta có một khổ thọ. Khi có ai đó nói điều gì dễ thương với ta như: “Anh thông minh quá” hay “chị đẹp quá” thì ta có một lạc thọ. Còn khi chúng ta không thấy khổ cũng không thấy lạc là trung tính. Nhưng khi đọc Abhidharma (Tỳ Bà Đạt Ma) và thực tập theo giáo lý đạo Bụt thì ta thấy sự phân tích này không đúng lắm. Cái gọi là trung tính có thể trở thành lạc thọ. Nếu chúng ta ngồi thật đẹp, thực tập hơi thở và nụ cười thì có thể chúng ta rất hạnh phúc. Ngồi như vậy, ta ý thức rằng ta đang hạnh phúc vì ta không đau răng, mắt ta còn sáng để thấy được tất cả mọi hình ảnh và sắc màu, điều đó không mầu nhiệm hay sao? Đối với một số người thì làm việc là khổ và họ đau khổ khi phải làm việc. Nhưng với một số người khác thì cấm họ làm việc là họ khổ. Đối với tôi, làm việc là hạnh phúc, là lạc thọ. Những công việc như đóng sách, làm vườn, làm thơ, đi thiền, dạy trẻ em… đem lại cho tôi rất nhiều hạnh phúc. Vì vậy khổ hay lạc là tùy thuộc vào cách nhìn của mỗi người. Chúng ta nói ‘thấy đường’ là một cảm thọ trung tính. Nhưng những người mù thì họ có thể đổi bất cứ thứ gì để có được đôi mắt sáng. Nếu điều này xảy ra thì đó là một phép lạ, một món quà kỳ diệu đối với họ. Còn chúng ta, đang có đôi mắt sáng, có thể thấy được tất cả mọi hình và mọi sắc nhưng chúng ta lại không hạnh phúc. Nếu muốn thực tập, chúng ta có thể ra ngoài trời, ngắm những chiếc lá, những đóa hoa, ngắm nhìn các em nhỏ, những cụm mây… ý thức rằng chúng ta rất may mắn và hạnh phúc với những điều ấy. Hạnh phúc hay không là tùy thuộc vào ý thức của chúng ta. Khi bị đau răng, ta nghĩ rằng không đau răng là hạnh phúc, nhưng khi không đau răng, ta vẫn không hạnh phúc. Nếu thực tập thắp sáng ý thức thì chúng ta trở nên rất giàu có và rất, rất hạnh phúc. Thực tập đạo Bụt là một cách thông minh để thưởng thức sự sống. Hạnh phúc luôn có đó. Chúng ta cứ việc tận hưởng đi. Tất cả chúng ta đều có khả năng chuyển hóa những cảm thọ trung tính thành những cảm thọ hạnh phúc (lạc thọ) và có thể kéo dài hạnh phúc đó trong một thời gian dài. Điều này ta có thể chế tác được khi đi thiền hay ngồi thiền. Nếu ta hạnh phúc thì mọi người chung quanh ta có thể thừa hưởng được, xã hội có thể thừa hưởng được và tất cả mọi loài đều có thể thừa hưởng được. Trong các thiền viện thường có những câu kinh khắc trên các bảng gỗ để ngoài thiền đường cho mọi người thực tập, như: “Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng”. Đời mình được làm bằng mỗi ngày, mỗi giờ, và mỗi phút giây đều rất quý giá. Chúng ta có lãng phí thì giờ, ngày tháng của ta không? Ta có lãng phí cuộc đời của ta không? Ta có lãng phí tuổi trẻ của ta không? Đây là những câu hỏi rất quan trọng. Thực tập đạo Bụt là sống tỉnh thức trong mỗi phút, mỗi giây. Chúng ta không chỉ thực tập khi ngồi thiền, đi thiền, mà chúng ta thực tập bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Điều này tuy hơi khó nhưng chúng ta có thể làm được. Chúng ta đã có những phương pháp thực tập cụ thể và hiệu quả. Trong ngày, sự thực tập của ta phải được duy trì từ lúc ngồi thiền, đi thiền cho đến những lúc không ngồi thiền, không đi thiền. Đó là nguyên tắc cơ bản của thiền tập. Nhận thức bao gồm cả những ý niệm về thực tại. Khi nhìn vào cây bút chì, chúng ta có nhận thức về cây bút chì, nhưng thực tại cây bút chì có thể rất khác với cây bút chì trong tâm ta. Khi các bạn nhìn vào tôi thì có thể cái tự thân tôi rất khác với cái tôi mà các bạn đang nhận thức. Để có được một tri giác đúng đắn, chúng ta cần có một cái nhìn trực tiếp. Khi nhìn vào bầu trời ban đêm, có thể các bạn thấy một vì sao rất đẹp và mỉm cười với nó. Nhưng các nhà khoa học có thể cho bạn biết rằng ngôi sao đó không còn nữa. Nó đã tắt cách đây mười triệu năm rồi. Vì vậy tri giác của ta thường sai lầm. Khi nhìn thấy cảnh mặt trời lặn rất đẹp, chúng ta rất hạnh phúc và nghĩ rằng mặt trời đang có đó cho chúng ta. Nhưng kỳ thực nó đã lặn cách đây tám phút rồi. Phải mất tám phút để mặt trời chiếu xuống hành tinh của chúng ta. Thực tế là chúng ta không bao giờ thấy được mặt trời trong giây phút hiện tại. Chúng ta chỉ thấy được mặt trời của quá khứ. Giả sử chúng ta đang đi bộ trong lúc trời chạng vạng, chúng ta thấy một con rắn và hét lên. Nhưng khi rọi đèn pin vào thì hóa ra đó lại là một sợi dây. Đó là một tri giác sai lầm. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta có rất nhiều tri giác sai lầm. Nếu không hiểu được anh, thì có thể tôi sẽ còn giận anh hoài. Chúng ta không có khả năng hiểu nhau. Đó là nguồn gốc chính của nỗi khổ đau của con người. Có một người đang chèo thuyền ngược dòng vào một sáng sương mù. Bỗng nhiên người đó thấy một chiếc thuyền khác đang lao xuống, thẳng về phía mình. Ông la lớn: “Cẩn thận, cẩn thận” nhưng chiếc thuyền vẫn đâm vào ông khiến cho thuyền ông chao đảo, suýt bị chìm. Ông ta rất tức giận và la người kia một trận. Nhưng khi nhìn kỹ lại, ông không thấy ai trên thuyền cả. Thì ra chiếc thuyền ấy bị đứt dây neo và trôi xuôi theo dòng nước. Cơn giận của ông biến mất. Và ông phá lên cười. Tri giác sai lầm có thể làm phát sinh nhiều khổ thọ. Đạo Bụt dạy chúng ta nhìn sâu vào lòng sự vật để hiểu được tự tánh của chúng mà không bị lạc vào những khổ đau và những cảm thọ khó chịu ấy. Đức Bụt dạy chúng ta rằng: “Cái này có vì cái kia có”. Em có thấy không, vì em mỉm cười cho nên tôi hạnh phúc. Nhờ cái này có nên cái kia có, nhờ cái kia có nên cái này có. Đó gọi là duyên sinh. Giả sử anh và tôi là hai người bạn. Thì an lạc, hạnh phúc của tôi tùy thuộc rất nhiều vào anh và niềm an lạc, hạnh phúc của anh cũng tùy thuộc rất nhiều vào tôi. Tôi có trách nhiệm đối với anh và anh có trách nhiệm đối với tôi. Bất cứ tôi làm sai điều gì anh cũng khổ đau và bất cứ anh làm sai điều gì tôi cũng khổ đau. Vì vậy để chăm sóc cho anh thì tôi phải chăm sóc cho chính tôi. Trong tạng Pali có kể một câu chuyện về hai cha con làm xiếc. Người cha đặt một cây tre dài trên trán, và người con gái leo lên đứng trên cây tre ấy. Hai cha con hành nghề như thế để kiếm tiền mua gạo và thức ăn. Một ngày nọ người cha nói với con: “Con ơi, mình phải chăm sóc cho nhau. Con phải chăm sóc cho cha và cha phải chăm sóc cho con để hai cha con mình được an toàn. Tiết mục biểu diễn của mình nguy hiểm quá”. Bởi vì nếu người con rơi xuống thì cả hai sẽ không còn có thể kiếm sống được nữa. Có thể người con sẽ bị gãy chân và họ sẽ không có gì để ăn cả. “Con ơi, mình phải lo cho nhau để tiếp tục sinh sống”. Đứa con gái rất thông minh. Nó nói: “Cha ơi, cha phải nói như vậy nè, mỗi người chúng ta phải tự chăm sóc cho chính mình, cha phải chăm sóc cho cha, con phải chăm sóc cho con để chúng ta có thể tiếp tục kiếm sống được. Bởi vì trong khi biểu diễn cha phải lo cho cha, cha chỉ cần lo cho mình cha thôi. Cha phải giữ thật vững và phải rất tỉnh táo. Điều đó sẽ giúp cho con. Và khi con leo lên con cũng phải tự lo cho chính con. Con leo rất cẩn thận, không để điều gì sai lầm xảy ra. Cha phải nên nói như vậy cha ạ. Cha lo cho cha đàng hoàng và con sẽ lo cho con đàng hoàng. Như vậy thì chúng ta mới tiếp tục kiếm sống được.” Đức Bụt cũng đồng ý là người con gái nói đúng hơn. Vì vậy, là bạn bè với nhau thì hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào nhau rất nhiều. Theo như giáo lý này thì tôi phải chăm sóc tôi và bạn phải chăm sóc cho bạn. Bằng cách đó chúng ta sẽ nâng đỡ, yểm trợ nhau rất nhiều. Đây là cách nhìn đúng nhất. Nếu tôi chỉ nói: “Bạn không được làm cái này, bạn phải làm cái kia” mà tôi không chăm sóc tôi cho đàng hoàng, tôi toàn gây ra những sai sót thì câu đó chẳng giúp ích gì cả. Tôi phải chăm sóc tôi, tôi biết là tôi phải có trách nhiệm cho hạnh phúc của bạn. Và nếu bạn cũng làm như vậy thì mọi chuyện sẽ ổn thỏa. Đó là cách nhận thức dựa trên nguyên lý duyên sinh. Đạo Bụt rất đơn giản, ai cũng có thể học hỏi và thực tập được. Đức Bụt có một phương pháp đặc biệt giúp ta hiểu rõ đối tượng nhận thức. Ngài dạy rằng để hiểu rõ được cái gì thì chúng ta phải là một với cái đó. Cách đây 15 năm tôi thường giúp đỡ các trại trẻ em mồ côi và những nạn nhân của chiến tranh Việt Nam. Ở Việt Nam họ gởi những lá đơn có kèm theo tấm hình nhỏ dán ở bên góc với tên, tuổi và hoàn cảnh của các em. Chúng tôi dịch những lá đơn này sang tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hà Lan hoặc tiếng Đức để tìm người bảo trợ, giúp đứa trẻ có đủ thức ăn và sách vở đến trường. Khi có người bảo trợ, những đứa trẻ này được đưa vào ở chung với một gia đình nào đó. Những gia đình này có thể nhận làm cô, chú hoặc ông bà của các cháu. Rồi chúng tôi gởi tiền về cho gia đình đó để gia đình có thể chăm sóc cho đứa trẻ. Mỗi ngày tôi dịch 30 lá đơn sang tiếng Pháp. Cách tôi làm là tôi không đọc lá đơn vội mà thong thả nhìn vào tấm hình của đứa trẻ, và chỉ trong vòng 30, 40 giây sau tôi trở thành một với đứa trẻ. Rồi tôi mới cầm bút lên và dịch. Tôi không hiểu tại sao và như thế nào, nhưng luôn luôn như thế. Sau đó, tôi nhận ra rằng tôi không phải là người dịch những lá đơn này mà cả đứa trẻ và tôi cùng làm. Tôi và đứa trẻ trở thành một. Nhìn vào khuôn mặt của đứa trẻ, tôi có động cơ để làm, tôi trở thành đứa trẻ, đứa trẻ trở thành tôi và chúng tôi cùng dịch. Rất tự nhiên. Các bạn không cần phải thiền tập nhiều để làm được điều đó. Chỉ cần nhìn, cho phép mình có mặt và thả mình vào đứa trẻ, đứa trẻ trong các bạn. Đây là một ví dụ minh họa về cách nhận thức mà Bụt đã dạy. Để hiểu được cái gì chúng ta phải là một với cái đó. Trong tiếng Pháp có từ comprendre, nghĩa là hiểu, là biết. Com nghĩa là một, là cùng nhau. Prendre nghĩa là cầm lấy, nắm lấy. Để hiểu được cái gì chúng ta phải cầm cái đó lên và trở thành một với nó. Người Ấn Độ có một ví dụ rất hay. Một hạt muối muốn đo độ mặn của đại dương, muốn biết đại dương mặn như thế nào thì hạt muối ấy phải hòa mình vào đại dương và trở thành một với đại dương, hạt muối sẽ biết được rõ ràng và hoàn hảo. Ngày nay các nhà vật lý nguyên tử cũng đã bắt đầu làm như thế. Khi đi sâu vào thế giới hạ nguyên tử (subatomic particles) họ có thể thấy tâm mình trong đó. Một điện tử trước hết là ý niệm của ta về điện tử. Đối tượng nghiên cứu của ta không còn tách rời với tâm ta nữa. Tâm ta hoàn toàn nằm trong đó. Các nhà vật lý hiện đại nghĩ rằng danh từ người quan sát không còn giá trị nữa. Họ khám phá ra rằng một khi còn sự phân biệt giữa người quan sát và đối tượng quan sát thì ngành khoa học nguyên tử hạt nhân (subatomic nuclear science) còn chưa thể đi xa được. Vì vậy họ đề nghị từ tham dự. Các bạn không phải là người quan sát mà là người tham dự. Khi cho pháp thoại cũng vậy, tôi không muốn khán thính giả ở ngoài quan sát và chỉ nghe thôi. Tôi muốn họ là một với tôi, cùng nhau thở và thực tập. Người nói và người nghe phải trở thành một thì mới có cái hiểu biết và nhận thức đúng đắn. Bất nhị nghĩa là không phải hai, nhưng cái không phải hai đây cũng không phải là một. Vì vậy mà thay vì nói một ta nói là bất nhị. Bởi vì nếu có một thì phải có hai. Nếu chúng ta muốn tránh hai thì phải tránh luôn một. Kinh Satipathana dạy về phương pháp thiền tập căn bản từ thời của Bụt đã ghi lại: “Vị hành giả phải quán chiếu thân thể trong thân thể, cảm thọ trong cảm thọ, tâm ý trong tâm ý và đối tượng tâm ý trong đối tượng tâm ý.” Lời lẽ rất rõ ràng. Sự lập lại: “Thân thể trong thân thể” không chỉ để nhấn mạnh tầm quan trọng của nó, mà quán thân trong thân nghĩa là mình không đứng ngoài thân để quán chiếu. Mình phải là một với nó, không có sự phân biệt giữa đối tượng quán chiếu và người quán chiếu. Quán thân trong thân nghĩa là mình phải là một với thân mà không nên nhìn thân thể như một đối tượng quán chiếu. Thông điệp này đã quá rõ ràng. Bất nhị là một từ quan trọng trong thiền tập đạo Bụt. Ngồi cũng chưa đủ. Chúng ta phải có mặt trong lúc ngồi. Có mặt như thế nào? Cũng như khi ta ăn cũng vậy, phải là ăn cái gì, không thể là ăn khổng ăn không. Ý thức thì phải ý thức cái gì. Giận thì phải giận cái gì hay giận ai. Cho nên, có mặt phải là có mặt cho cái gì. Cái đó là cái đang xảy ra trong thân thể, trong cảm thọ, trong tâm thức và trong đối tượng tâm thức. Trong khi ngồi thiền, ta phải có mặt. Có mặt cho cái gì? Có mặt cho hơi thở. Mình không chỉ là người thở mà mình là thở, mình là cười. Cũng giống như chiếc ti vi có cả triệu kênh, khi bật nút thở lên thì mình là thở. Nếu bật nút bực bội lên thì mình là bực bội. Mình là một với nó. Bực bội và thở không phải là những thứ ở ngoài ta. Mình phải quán chiếu để thấy được mình và chúng là một. Khi giận ta phải quán chiếu như thế nào? Là một người con Bụt, là một người thông minh, ta phải xử lý cơn giận như thế nào? Tôi không xem cơn giận như là một cái gì xa lạ cần phải đấu tranh chống lại hay phải phẫu thuật để cắt bỏ nó đi. Tôi biết cơn giận là tôi. Tôi là cơn giận. Bất nhị không phải là hai. Tôi phải chăm sóc, xử lý cơn giận bằng tình thương, sự quan tâm, nhẹ nhàng với tinh thần bất bạo động. Bởi vì cơn giận là tôi. Tôi phải chăm sóc cơn giận như là tôi chăm sóc em mình, quan tâm và thương yêu, vì bản thân tôi là cơn giận, tôi ở trong nó, tôi là nó. Trong đạo Bụt, chúng ta không xem cơn giận, sự hận thù, tham lam là những kẻ thù cần phải đấu tranh chống lại hay tiêu diệt. Nếu tiêu diệt cơn giận thì ta cũng tiêu diệt luôn chính ta. Xử lý cơn giận như thế cũng giống như biến bản thân ta thành một bãi chiến trường, xé mình ra thành nhiều mảnh, một mảnh đứng về phía Bụt, một mảnh đứng về phía ma. Đấu tranh như thế tức là ta bạo động với chính ta. Nếu không có từ bi với chính mình thì ta không có từ bi với ai cả. Khi giận chúng ta phải ý thức là: “Tôi đang giận. Cơn giận là tôi. Tôi là cơn giận.” Đó là điều đầu tiên cần phải làm. Trong trường hợp bực bội sơ sơ, thì việc nhận diện sự có mặt của cơn bực tức, thở vài hơi thở và mỉm cười là đủ để chuyển hóa cơn bực thành một nguồn năng lượng tích cực như tha thứ, hiểu biết, thương yêu. Bực bội, giận dữ là một năng lượng phá hoại. Tuy nhiên, chúng ta không thể tiêu diệt được năng lượng, chúng ta chỉ có thể chuyển nó thành một nguồn năng lượng khác có tính cách xây dựng hơn. Tha thứ là năng lượng xây dựng. Giả sử chúng ta đang ở trong sa mạc, và chúng ta chỉ có một ly nước bùn thì chúng ta phải chuyển hóa ly nước bùn đó thành ly nước trong để uống, chúng ta không thể đổ nó đi. Chúng ta phải để một hồi cho nó lắng xuống và nước trong sẽ xuất hiện. Cũng như vậy, chúng ta phải chuyển hóa cơn giận thành một nguồn năng lượng tốt có tính cách xây dựng hơn, bởi vì cơn giận chính là mình. Ngoài cơn giận thì chúng ta không còn gì cả. Đó là thiền tập. Ban đầu tôi có đưa ra ví dụ về cậu bé trai, lúc đầu giận em gái, nhưng sau đó biết em mình bị sốt, nó hiểu, quan tâm và tìm cách giúp đỡ. Vì vậy năng lượng phá hoại của cơn giận, nhờ có hiểu mà được chuyển hóa thành năng lượng thương yêu. Thực tập về cơn giận, trước hết là ý thức về cơn giận: “Tôi là cơn giận”, sau đó nhìn sâu vào bản chất của cơn giận. Cơn giận do vô minh mà sinh ra và là đồng minh hùng hậu của vô minh. Nhận thức là nhận thức về cái gì đó như nhận thức về thân thể, cảm thọ, tâm ý, thiên nhiên và xã hội. Chúng ta nên có một nhận thức đúng đắn về cây sồi để thấy được Phật tánh của nó. Chức năng của cây sồi cũng giống như của một vị thầy. Chúng ta phải nhận thức đúng về hệ thống kinh tế, chính trị để thấy được những gì đang xảy ra, những gì đang sai lầm để sửa đổi và làm hay hơn. Nhận thức rất quan trọng cho sự an lạc và hòa bình của chúng ta. Cho nên nhận thức phải vượt thoát những cảm xúc và vô minh. Trong đạo Bụt, kiến thức được coi như là một chướng ngại cho sự hiểu biết, giống như một tảng băng làm cho hoa không thể vươn lên được. Người ta nói rằng nếu chúng ta nắm giữ cái gì đó và xem đó là chân lý, rồi mắc kẹt vào đó thì cho dù sự thực có đến gõ cửa nhà ta, ta cũng không chịu mở cửa. Để cho sự vật có thể tự nó hiển lộ, chúng ta phải sẵn sàng buông bỏ cái thấy của chúng ta về chúng. Đức Bụt có kể một câu chuyện rất thú vị về điều này. Có một người góa vợ, có đứa con năm tuổi. Ông ta rất thương con. Một hôm ông đi vắng, kẻ cướp đến, đốt phá toàn bộ ngôi làng và bắt cóc đứa con trai của ông. Khi trở về, thấy làng mạc, nhà cửa tiêu tan ông hoảng sợ. Ông thấy một thi thể cháy đen của một đứa trẻ và nghĩ đó là con trai mình. Ông bứt tóc, bứt tai, đấm ngực và khóc lóc cho đến điên dại. Ông làm lễ hỏa táng và lấy tro bỏ vào trong một cái túi bằng nhung rất đẹp. Đi đâu ông cũng mang theo bên mình dù là khi làm việc hay đi ngủ. Một ngày nọ đứa con trai của ông trốn thoát khỏi tay bọn cướp và tìm đường về nhà. Nó về đến ngôi nhà mới của cha nó vào nửa đêm và gõ cửa. Các bạn có thể tưởng tượng điều gì xảy ra không? Vào lúc đó người cha trẻ vẫn mang bọc tro bên mình và khóc. Ông lên tiếng: “Ai đó?” Đứa trẻ trả lời: “Con đây ba. Ba mở cửa cho con đi. Con trai của ba nè.” Trong trạng thái buồn khổ, lo lắng, người cha nghĩ rằng chắc là đứa trẻ nghịch ngợm nào đó đang trêu chọc mình. Ông la đứa trẻ và đuổi nó đi. Đứa trẻ vẫn tiếp tục kêu cửa. Nó gõ đi gõ lại mấy lần, nhưng người cha vẫn không chịu mở cửa cho nó vào. Chờ đợi một hồi lâu, cuối cùng đứa trẻ đành phải bỏ đi. Từ đó, hai cha con không hề gặp nhau nữa. Sau khi kể câu chuyện này Bụt nói: “Đôi khi chúng ta nắm giữ một cái gì đó và cho đó là chân lý, rồi mắc kẹt vào đó thì khi sự thật đến gõ cửa, chúng ta cũng từ chối, không chịu mở cửa.” Bảo vệ kiến thức không phải là cách hiểu biết đúng đắn. Hiểu nghĩa là buông bỏ kiến thức của mình. Chúng ta phải có khả năng buông bỏ kiến thức của ta như người leo thang. Nếu ta bước lên nấc thang thứ năm và cho rằng ta đang ở trên nấc thang cao nhất thì ta không có hy vọng leo lên nấc thang thứ sáu. Cách hay nhất là ta phải buông bỏ nấc thang thứ năm. Theo đạo Bụt, muốn hiểu ta phải có khả năng buông bỏ những kiến thức, quan điểm của ta để vượt thoát. Đây là giáo lý quan trọng nhất. Cũng vì lý do đó mà tôi sử dụng hình ảnh của nước để nói về cái hiểu. Kiến thức thì cứng nhắc, nó sẽ làm cản trở sự hiểu biết. Nước thì trôi chảy, có thể thâm nhập được. Trái tim thiền tập Thiền tập không nằm ngoài xã hội, không trốn tránh xã hội mà là chuẩn bị để đi vào lại xã hội. Ta gọi là đạo Bụt nhập thế, hay đạo Bụt dấn thân. Khi đến một trung tâm tu học nào đó, có thể ta có cảm tưởng là mình bỏ lại mọi thứ sau lưng, như gia đình, xã hội, bỏ lại tất cả những vấn đề rắc rối liên quan đến gia đình và xã hội. Mình đến thực tập với tính cách cá nhân để tìm kiếm an lạc. Nghĩ như vậy đã là vô minh rồi, bởi vì trong đạo Bụt không có cái gì là cá nhân cả. Cũng giống như tờ giấy là hoa trái, là sự kết hợp của nhiều yếu tố mà ta có thể gọi những yếu tố ấy là những yếu tố không phải giấy. Cá nhân được làm bằng những yếu tố không phải là cá nhân. Nếu là nhà thơ, chúng ta sẽ thấy được đám mây đang trôi nổi bồng bềnh trong tờ giấy. Không có mây thì sẽ không có mưa, không có mưa thì sẽ không có nước, không có nước cây sẽ không lớn lên được, và không có cây chúng ta không thể nào làm ra giấy. Vì vậy mây có mặt trong tờ giấy. Sự có mặt của tờ giấy phụ thuộc vào sự có mặt của đám mây. Giấy và mây rất gần gũi thân thiết với nhau. Chúng ta hãy nghĩ về những thứ khác như ánh nắng mặt trời. Ánh nắng mặt trời rất quan trọng vì rừng cây không thể lớn lên mà không có ánh nắng mặt trời. Con người chúng ta cũng vậy, chúng ta không thể lớn lên mà không cần ánh nắng mặt trời. Vì vậy người tiều phu cần mặt trời để có cây đốn củi, cây cũng cần ánh nắng mặt trời để được làm cây. Cho nên nhìn vào tờ giấy chúng ta thấy ánh nắng mặt trời. Nếu nhìn sâu hơn nữa với con mắt của các vị Bồ tát, con mắt của những người tỉnh thức, chúng ta thấy không chỉ có mây và ánh nắng mặt trời trong tờ giấy mà tất cả mọi thứ đều nằm trong tờ giấy. Lúa mì để làm nên bánh mì cho người tiều phu ăn, ba mẹ người tiều phu cũng có mặt trong tờ giấy. Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka) nói rằng chúng ta không thể tìm ra một thứ gì mà không liên quan đến tờ giấy. Vì vậy, ta nói giấy được làm bằng những yếu tố không phải giấy. Mây là một yếu tố không phải giấy. Rừng cây là một yếu tố không phải giấy. Ánh nắng mặt trời là một yếu tố không phải giấy. Giấy được làm bằng tất cả những yếu tố không phải giấy. Nếu chúng ta nhìn rộng hơn, trở về những yếu tố không phải giấy cho đến nguồn gốc của những yếu tố không phải giấy ấy, như từ đám mây đến bầu trời, từ ánh nắng mặt trời đến mặt trời, từ người tiều phu đến cha mẹ của người tiều phu thì tờ giấy là không. Không cái gì? Không có một thực thể riêng biệt. Nó được làm bằng những yếu tố vô ngã, những yếu tố không phải giấy, và nếu lấy tất cả những yếu tố không phải giấy ra thì tờ giấy thực sự không có. Tờ giấy không có một cái ngã riêng biệt. Không trong trường hợp này nghĩa là không có một cái ngã riêng biệt. Giấy có đầy đủ mọi thứ, có cả toàn thể vũ trụ nhưng không có một cái ngã riêng biệt. Sự có mặt của một tờ giấy nhỏ cho thấy sự có mặt của toàn thể vũ trụ. Cũng vậy, một cá nhân được làm bằng những yếu tố không phải cá nhân. Làm sao các bạn nghĩ là mình có thể bỏ lại mọi thứ sau lưng khi đến một trung tâm tu học được? Nỗi khổ đau mà các bạn mang trong mình cũng là của xã hội. Các bạn mang nỗi khổ đau trong mình cũng là mang xã hội trong mình. Các bạn mang tất cả chúng tôi trong các bạn. Khi thiền tập, các bạn không chỉ thiền tập riêng cho cá nhân các bạn mà cho cả toàn xã hội. Các bạn tìm phương án giải quyết cho những vấn đề của các bạn cũng không phải là cho cá nhân của các bạn mà cho tất cả mọi người. Người ta hay xem thường lá, cho lá là con của cây. Đồng ý lá là con của cây, được sinh ra từ cây, nhưng lá cũng là mẹ của cây. Lá tổng hợp nhựa nguyên, nước, chất khoáng, chất khí cùng với ánh nắng mặt trời, chuyển thành nhựa luyện để nuôi cây. Như thế thì lá trở thành mẹ của cây. Tất cả chúng ta đều là con của xã hội nhưng chúng ta cũng là mẹ của xã hội. Nếu chúng ta bị bứng văng ra khỏi xã hội thì chúng ta không thể biến xã hội thành một nơi có thể chung sống được cho chúng ta và cho con cháu chúng ta. Tôi đã làm vườn nhiều năm và tôi biết có những loại cây rất khó để cấy ghép. Muốn cấy ghép ta phải dùng thuốc kích thích để giúp chúng đâm rễ dễ dàng. Tôi tự hỏi liệu trong thiền tập có thể tìm thấy một loại năng lực, sức mạnh nào có thể giúp cho những người bị mất gốc (bị bứng văng ra khỏi xã hội) cắm rễ lại vào xã hội được hay không? Thiền tập không phải là chạy trốn khỏi xã hội. Thiền tập là để trang bị cho mình khả năng hội nhập lại với xã hội. Trong các trung tâm thiền tập có những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm, ví dụ như một số người trẻ thấy mình không thoải mái khi sống với xã hội, vì vậy họ vào chùa tu. Họ không biết một sự thật rằng là họ không thể đến trung tâm tu học với tính cách cá nhân. Đến trung tâm tu học với nhau, họ hình thành một xã hội khác. Là một xã hội (dù ở trong trung tâm tu học) thì nó cũng có những vấn đề như những xã hội khác. Trước khi đến một trung tâm tu học, họ hy vọng tìm thấy được sự bình an trong thiền tập. Nhưng giờ đây, khi thực tập và hình thành một xã hội mới, họ vỡ lẽ ra rằng cái xã hội này thậm chí còn khó hơn cái xã hội lớn bên ngoài nữa. Toàn là những người xa lạ. Sau vài năm họ thấy thất vọng, tình trạng còn tệ hơn trước khi đến trung tâm tu học. Điều này xảy ra là do ta hiểu lầm thiền tập, do ta hiểu lầm mục đích của thiền. Thiền là cho tất cả mọi người mà không phải chỉ cho những người thực tập. Đưa trẻ em đến trung tâm tu học là điều rất tự nhiên. Ở Làng Mai, trẻ em thực tập chung với người lớn. Thỉnh thoảng làng mở cửa cho thiền sinh mang theo con cái đến thực tập chung với nhau. Chúng ta chăm sóc trẻ em rất đặc biệt. Khi trẻ em hạnh phúc, người lớn cũng hạnh phúc. Có ngày tôi nghe các em nói chuyện với nhau: “Sao ở đây ba mẹ mình dễ thương quá vậy?” Có người thực tập được 14 năm rồi mà chưa bao giờ chỉ cho con cái thực tập. Chúng ta không thể thực tập một mình. Chúng ta phải thực tập chung với con cái chúng ta. Nếu con ta không hạnh phúc, không thể cười được thì ta cũng không thể cười được. Khi chúng ta bước được một bước chân an lạc thì bước chân ấy không chỉ cho ta mà còn cho con cháu ta và cho cả xã hội. Tôi nghĩ rằng sống ngoài xã hội rất khó. Nếu không cẩn trọng, ta có thể bị văng ra khỏi xã hội và một khi bị văng ra khỏi xã hội thì ta không thể làm gì được để giúp thay đổi tình trạng xã hội, không thể biến xã hội thành một nơi để có thể dễ dàng chung sống với nhau được. Thiền tập là một phương pháp giúp ta có mặt cho xã hội. Điều này rất quan trọng. Chúng ta đã chứng kiến những người thấy mình bị lẻ loi, xa cách với xã hội và không thể hội nhập được với xã hội. Điều này cũng có thể xảy ra với tất cả chúng ta nếu ta không cẩn thận. Tôi biết nhiều người thực tập đạo Bụt ở Mỹ rất trẻ và có trí thức. Họ đến với đạo Bụt không phải bằng tín ngưỡng mà bằng cánh cửa tâm lý. Nhiều người ở Tây phương khổ đau nhiều vì tâm lý, chính vì vậy mà họ đã trở thành Phật tử, thực tập thiền để giải quyết những vấn đề tâm lý ấy. Nhiều người vẫn sống với xã hội, nhưng một số thì bị văng ra khỏi xã hội. Sống khá lâu trong xã hội này, chính bản thân tôi cũng thấy khó sống, không thể đi theo xã hội được. Nhiều thứ xảy ra khiến tôi không muốn làm gì cả, chỉ muốn rút về trong cái vỏ của mình. Nhưng sự thực tập giúp tôi tiếp tục duy trì, tiếp xúc với xã hội bởi vì tôi ý thức rằng nếu từ bỏ xã hội thì tôi sẽ không có khả năng giúp thay đổi tình trạng. Hy vọng rằng những ai đang thực tập đạo Bụt thành công, có khả năng đứng vững trên đôi chân của mình thì ở lại với xã hội. Đó là niềm hy vọng của chúng ta cho sự an an lạc và hòa bình thế giới. Cách đây hơn 30 năm, lúc đó tôi khoảng 27, 28 tuổi, tôi có làm một bài thơ về một thầy tu rất đau khổ đã từ bỏ xã hội để đến trung tâm thiền tập. Vì chùa là cửa từ bi nên mọi người ai cũng tiếp đón thầy. Khi một ai đó có nhiều khổ đau, họ tìm đến chùa chiền hoặc trung tâm tu học. Trước hết là để được xoa dịu và an ủi. Những người trong chùa có đủ từ bi để cho họ đến, cho họ một nơi để khóc. Người đó cần bao lâu, bao nhiêu năm để khóc? Chúng ta không biết. Nhưng cuối cùng họ nương tựa vào chùa, vào trung tâm tu học và không muốn trở lại xã hội nữa. Đã quá đủ cho thầy ấy. Thầy nghĩ là thầy đã tìm thấy được một ít an lạc. Nhưng một ngày nọ tôi đến châm lửa đốt cái thất nhỏ, nơi trú ngụ cuối cùng của thầy. Theo thầy thì thầy không có gì khác ngoài cái chòi tranh đó. Thầy không có một nơi nào để đi bởi vì xã hội không phải của thầy. Thầy nghĩ thầy phải đi tìm giải thoát cho riêng mình. Nhưng dưới ánh sáng của đạo Bụt thì không có một cái ngã cá nhân như thế. Như chúng ta đã biết, khi đến một trung tâm tu học chúng ta mang theo tất cả những thương tích, những vết thẹo từ xã hội và chúng ta cũng mang theo cả xã hội. Trong bài thơ này tôi là người thầy tu trẻ đó và cũng là người đến châm lửa đốt chòi tranh. TÔI SẼ XIN RẰNG TẤT CẢ Nếu hỏi rằng “người muốn bao nhiêu” tôi sẽ xin rằng “tất cả” tôi tham lam hơn ngày xưa, tham lam tột độ, cả ngài, cả tôi cả người thiên hạ xuôi về, sáng hôm nay, trong duy nhất nhiệm mầu. ôi những mảnh rời nhau, khổ đau. tách rời ngoài đại thể! đã từ lâu, ngàn vạn đời, chúng tôi tự tìm, sờ soạng, trong ngục tù giả trá an vui sáng hôm nay em tôi trở về quỳ dưới Phật đài mắt đầm đìa lệ, ôi những linh hồn đi tìm bến đỗ (hình bóng của tôi xưa phiêu lưu ngàn năm, một hôm sầu khổ, khao khát bến bờ) hãy để yên cho em quỳ lâu trên điện Phật cho lệ em thầm lặng chảy cho lệ em mặc sức tràn trề hãy để yên cho quỳ lâu thêm nữa đủ thì giờ cho lệ em khô ráo bởi vì người ơi, một sáng mai kia, tôi sẽ đến châm lửa vào túp lều nho nhỏ của em ở ven đồi túp lều duy nhất còn lại của đời em cho lửa cháy lên cao cho tan hoang tất cả cho chỗ nương tựa cuối cùng tan rã cũng như chiếc bè, trên đại dương, tan rã để vỏ cứng hồn em, trong hỗn độn nhiệm mầu, sẽ vỡ toang, tràn trề ánh sáng! tôi sẽ gặp em, bên ánh lửa hồng cháy rực của túp lều nước mắt sung sướng chan hòa tôi nhìn em và khi cầm tay em, tôi hỏi rằng: “em muốn bao nhiêu” tất nhiên em sẽ cười và sẽ xin rằng “tất cả ”. Đối với tôi, trung tâm thiền tập phải là nơi mà ta có thể trở về với chính mình để hiểu rõ mình, hiểu rõ thực tại và làm lớn mạnh thêm hiểu biết thương yêu trong ta, chuẩn bị để trở lại xã hội. Nếu không thì đó không phải là một trung tâm tu học đích thực. Khi chúng ta đạt được sự hiểu biết đúng đắn thì chúng ta có thể trở lại xã hội và đóng góp đích thực cho xã hội. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta có nhiều hình thức sinh hoạt khác nhau. Có khi ngồi thiền, có khi không ngồi thiền. Hai thời điểm này rất khác nhau nhưng liên quan mật thiết với nhau. Ta thường nghĩ rằng khi ngồi thiền là mình thực tập chuyên sâu (intensively) còn khi không ngồi thiền là mình không thực tập chuyên sâu. Kỳ thực thì chúng ta có thể thực tập cái không thực tập một cách chuyên sâu. Đó là “tu vô tu tu”. Chúng ta đã tạo ra một bức tường ngăn cách giữa thực tập và không thực tập. Thực tập chỉ dành cho những thời công phu như ngồi thiền, đi thiền, tụng kinh… còn lại thì chúng ta không thực tập. Làm sao để ta có thể hòa trộn hai thời điểm này lại với nhau? Làm sao để ta có thể đem thiền ra khỏi thiền đường? Đem thiền vào nhà bếp và văn phòng? Làm thế nào để thời gian ngồi thiền ảnh hưởng tốt đến suốt thời gian còn lại trong ngày của ta, ảnh hưởng đến những lúc ta không ngồi thiền? Khi bác sĩ chích thuốc cho ta thì không những thuốc ảnh hưởng lên cánh tay ta mà nó còn ảnh hưởng lên toàn bộ cơ thể. Nếu trong ngày ta thực tập một giờ ngồi thiền thì một giờ đó phải ảnh hưởng lên 24 giờ mà không phải chỉ ảnh hưởng trong giờ ngồi thiền thôi. Một nụ cười, một hơi thở phải mang lại lợi ích cho ta cả ngày mà không phải chỉ có lợi ngay lúc thở và lúc cười. Chúng ta phải thực tập như thế nào để lấy đi ranh giới giữa thực tập và không thực tập. Khi đi trong thiền đường, ta bước những bước chân thật chậm rãi và cẩn trọng. Còn ở phi trường thì ta bước nhanh hơn, ít chánh niệm hơn. Làm thế nào để ta có thể thực tập được lúc ở phi trường và ở chợ? Đó là đạo Bụt nhập thế, hay đạo Bụt dấn thân. Đạo Bụt nhập thế không chỉ có nghĩa là sử dụng đạo Bụt để giải quyết những vấn đề chính trị, xã hội, để chống lại những trái bom nguyên tử hay những bất công xã hội mà trước hết là để giải quyết những vấn đề trong đời sống hàng ngày. Vì vậy chúng ta phải mang đạo Bụt vào trong đời sống hàng ngày của ta. Tôi có một người bạn thực tập hơi thở ý thức khi gọi điện thoại, điều đó giúp cô ấy rất nhiều. Một người khác thì đi thiền hành từ điểm hẹn này đến điểm hẹn khác, bước những bước chân chánh niệm từ dãy nhà này sang dãy nhà khác trong khu thương mại ở Denver. Khách qua đường nhìn ông mỉm cười, những cuộc gặp gỡ của ông dù với những người khó tính đến mấy cũng biến thành vui vẻ và thành công. Chúng ta nên đưa sự thực tập trong thiền đường vào trong đời sống hàng ngày. Thực tập như thế nào để hiểu được cảm thọ, tri giác của mình. Chúng ta không chỉ xử lý cảm thọ, tri giác trong lúc ngồi thiền mà phải xử lý chúng suốt ngày. Chúng ta phải pháp đàm với nhau làm thế nào để thực hiện được điều đó. Chúng ta có thực tập hơi thở ý thức khi gọi điện thoại không? Chúng ta có mỉm cười khi lặt rau, làm bếp không? Chúng ta có thực tập buông thư sau mỗi giờ làm việc không? Những câu hỏi này rất thiết thực. Nếu chúng ta biết ứng dụng đạo Bụt vào bữa cơm tối, vào thời gian rảnh rỗi và ngủ nghỉ thì đạo Bụt sẽ đi vào đời sống hàng ngày của ta. Và như vậy sẽ có những ảnh hưởng lớn đến những mối quan tâm của xã hội. Bụt, Pháp, Tăng trở thành những vấn đề hàng ngày của ta trong mỗi giây, mỗi phút mà không phải là những lời giảng giải xa xôi. Tâm chúng ta như một dòng sông, trong đó có những tư tưởng, cảm thọ luôn trôi chảy không ngừng. Thực tập thi kệ nhắc nhở chúng ta ý thức về những gì đang xảy ra. Khi chúng ta tập trung tâm ý vào thi kệ thì ngay giây phút đó thi kệ là tâm. Thi kệ tràn ngập tâm thức ta trong vòng nửa giây, mười giây hay một phút. Sau đó ta có thể đọc một bài thi kệ khác cho những công việc tiếp theo. Ăn cơm im lặng, tôi cũng đọc thi kệ trước rồi mới bắt đầu ăn. Ăn xong, tôi đọc một bài thi kệ khác và uống một tách trà. Giả sử ta có một giờ ngồi thiền và sau đó là năm giờ không ngồi thiền, rồi đến ba giờ ngồi thiền thực tập chuyên sâu. Thì giữa thời gian thực tập và thời gian không thực tập ấy có dính líu gì với nhau không? Tâm lúc thực tập và tâm lúc không thực tập có liên quan gì với nhau? Ngồi thiền giống như một bài thi kệ vậy, một bài thi kệ im lặng dài. Cái quan tâm chính của tôi là làm thế nào để việc thực tập thi kệ ảnh hưởng đến tâm thức ta lúc không thực tập thi kệ. Những tài xế lái xe đôi khi cũng cần những bảng chỉ đường. Bảng chỉ đường và đường là một, bởi vì bảng chỉ đường sẽ giúp mình đi một quãng đường dài cho đến khi bảng chỉ đường kế tiếp xuất hiện. Không có sự khác biệt nào giữa bảng chỉ đường và đường. Đó là điều ta nên làm khi thực tập thi kệ và ngồi thiền. Thi kệ giúp ta trở về với chính mình và khi đọc thi kệ xong ta vẫn tiếp tục thực tập theo như một dòng chảy. Nếu chúng ta không nhận ra được sự hợp nhất giữa thi kệ và thời gian còn lại của ngày, giữa bảng chỉ đường và đường thì chúng ta sẽ bị ngăn cách hoàn toàn (absolute compartmentalization), cái mà tiếng Pháp gọi là cloisons étanches, nghĩa là không có liên hệ gì giữa hai thứ, không thể hòa nhập được. Tâm lúc thực tập thi kệ và tâm lúc không thực tập thi kệ hoàn toàn khác biệt, tâm lúc ngồi thiền và tâm lúc không ngồi thiền không dính líu gì với nhau cả. Làm thế nào để thi kệ ảnh hưởng lên đời sống hàng ngày của ta, kể cả những lúc ta không thực tập thi kệ? Làm thế nào để thời gian ngồi thiền thâm nhập được vào đời sống hàng ngày của ta, vào những giờ ta không ngồi thiền? Chúng ta phải học hỏi phương pháp thực tập để mỗi bài thi kệ, mỗi phút ngồi thiền, mỗi bước chân thiền hành ảnh hưởng đến suốt ngày của ta. Mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi dòng tư duy đều có ảnh hưởng của nó. Cho dù chỉ một cái vỗ tay của tôi thôi cũng ảnh hưởng khắp mọi nơi, ảnh hưởng đến cả những tinh hà. Mỗi cái ngồi, mỗi bước chân, mỗi nụ cười đều ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của ta và của những người khác. Sự thực tập của ta phải được dựa trên nền tảng đó. Khi ngồi thiền hay đi thiền hành, chúng ta phải để ý đến chất lượng mà không phải là số lượng. Chúng ta phải thực tập một cách thông minh. Phải chế tác ra những phương pháp thực tập thích ứng, phù hợp với hoàn cảnh của chúng ta. Tôi muốn kể cho các bạn nghe một câu chuyện về một người phụ nữ chuyên niệm danh hiệu Bụt A Di Đà. Mỗi ngày bà đều dùng chuông mõ để niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” ba thời, mỗi thời một tiếng đồng hồ. Khi niệm đến một ngàn lần thì bà thỉnh chuông. Mặc dù đã thực tập như thế cả 10 năm rồi nhưng bà vẫn là một người khá hẹp hòi, ích kỷ và hay chửi mắng người khác. Người láng giềng của bà thấy vậy, muốn dạy cho bà một bài học, nên một ngày nọ sau khi bà ta dâng hương, thỉnh ba tiếng chuông và bắt đầu tụng: “Nam Mô A Di Đà Phật” thì ông ta đến ngay cửa nhà bà và gọi: “Bà Nguyễn, bà Nguyễn”. Bà rất bực mình vì đây là lúc bà đang tu mà ông ta cứ đứng trước nhà gọi tên bà. Bà tự nhủ: “Mình phải chiến thắng cơn giận của mình mới được, mặc kệ ông”. Rồi bà tiếp tục: “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật…” Người đàn ông tiếp tục gọi lớn tên bà. Cơn giận của bà càng lúc càng dữ dội hơn. Bà đấu tranh với nó rồi tự hỏi: “Liệu mình có nên ngưng tụng mà ra mắng cho ông ta một trận không?” Tuy thế bà ta vẫn tiếp tục tụng và đấu tranh gắt gao hơn. Ngọn lửa giận dữ bốc lên nhưng bà vẫn tiếp tục: “Nam Mô A Di Đà Phật”. Người đàn ông biết được và tiếp tục kêu lớn: “Bà Nguyễn, bà Nguyễn”. Không chịu được nữa, bà quăng chuông mõ, chạy ra cửa và la lên: “Ông không biết tôi đang niệm Phật hả? Sao ông cứ gọi tên tôi hoài vậy? Ông đang làm cái trò gì thế?” Người đàn ông cười và nói: “Tôi mới gọi tên bà có mười phút mà bà đã nổi giận đùng đùng như vậy, thử hỏi bà gọi tên Bụt cả mười năm nay thì Bụt giận đến cỡ nào?” Do đó, vấn đề không phải là làm nhiều mà là làm đúng. Nếu thực hành đúng chúng ta sẽ trở nên tử tế hơn, dễ thương hơn, có hiểu biết và thương yêu hơn. Khi ngồi thiền hay đi thiền hành chúng ta nên để ý đến chất lượng mà không phải đến số lượng. Nếu chỉ để ý đến số lượng thôi thì chúng ta chẳng khác gì bà Nguyễn. Tôi nghĩ rằng bà đã học được bài học của mình và sẽ làm tốt hơn. Làm việc cho hòa bình Ở Làng Mai nước Pháp, chúng tôi nhận được rất nhiều thư từ từ các trại tị nạn ở Singapore, Mã Lai, Indonesia, Thái Lan và Philippin. Mỗi tuần nhận cả hàng trăm lá thư và mỗi lần đọc là thấy đau lòng nhưng cũng phải đọc, phải tiếp xúc với những khổ đau đó. Chúng tôi cố gắng giúp nhưng những nỗi khổ ấy quá lớn nên đôi khi cũng thấy nản lòng. Người ta nói rằng một nửa số thuyền nhân bị chết trên đại dương, chỉ có một nửa là đến được bên kia bờ của Đông Nam Á. Nhiều cô gái trẻ, nhiều thuyền nhân bị hải tặc hãm hiếp. Cho dù Mỹ và nhiều nước khác tìm cách giúp chính phủ Thái Lan ngăn chặn tình trạng cướp biển này, nhưng hải tặc vẫn tiếp tục gây ra nhiều khổ đau cho những người tỵ nạn. Một hôm chúng tôi nhận được một lá thư báo cho biết có một bé gái trên thuyền đã bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp. Cô bé nhảy xuống biển và chết ngay trên biển. Cô bé chỉ mới 12 tuổi. Khi mới nghe những tin như thế các bạn sẽ rất tức giận hải tặc. Tự nhiên các bạn muốn đứng về phía em bé. Nhưng khi nhìn sâu hơn thì các bạn sẽ thấy khác. Nếu đứng về phía em bé thì quá dễ rồi. Chúng ta chỉ việc lấy súng ra bắn tên hải tặc đó, nhưng chúng ta không thể làm như thế. Khi thiền quán, tôi thấy rằng nếu tôi được sinh ra trong ngôi làng hải tặc, được lớn lên trong những hoàn cảnh như người hải tặc kia thì bây giờ tôi cũng đã là một tên hải tặc. Có rất nhiều khả năng để tôi có thể trở thành hải tặc lắm. Chúng ta không thể lên án những người hải tặc một cách quá đơn giản như vậy. Trong khi quán chiếu tôi thấy được nhiều đứa trẻ được sinh ra trên vịnh Thái Lan, mỗi ngày có cả hàng trăm đứa, nếu chúng ta là những nhà giáo dục, những nhà chính trị, những nhà hoạt động xã hội mà chúng ta không làm gì để giải quyết tình trạng này thì trong vòng 25 năm nữa một số trong chúng sẽ trở thành hải tặc. Đó là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Nếu bây giờ các bạn và tôi được sinh ra trong ngôi làng chài lưới thì có thể trong vòng 25 năm nữa chúng ta sẽ trở thành hải tặc. Nếu các bạn cầm súng bắn tên hải tặc kia tức là các bạn bắn tất cả chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta đều có trách nhiệm cho tình trạng ấy. Sau khi thiền quán một hồi lâu, tôi làm một bài thơ, trong đó có ba đối tượng: cô bé 12 tuổi, tên hải tặc và tôi. Chúng ta có thể nhìn nhau và nhận ra nhau trong mỗi người không? Tựa đề của bài thơ là Hãy gọi đúng tên tôi. Bởi vì tôi có rất nhiều tên, khi nghe một trong những cái tên này tôi phải trả lời: “Có tôi đây”. HÃY GỌI ĐÚNG TÊN TÔI Đừng bảo ngày mai tôi đã ra đi Bởi vì chính hôm nay tôi vẫn còn đang tới Hãy ngắm nhìn tôi thoát hình trong từng phút, từng giây Làm đọt lá trên cành xuân Làm con chim non cánh mềm chiêm chiếp vui mừng trong tổ mới Làm con sâu xanh trên cuống hoa hồng Làm gân viên ngọc trắng tượng hình trong lòng đá Tôi còn tới để khóc để cười Để ước mong, để lo sợ Sự xuất nhập của tôi là hơi thở Nhịp sinh diệt của tôi cũng là tiếng đập một lần của hàng triệu trái tim. Tôi là con phù du thoát hình trong mặt nước Và là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du Tôi là con ếch bơi trong hồ thu Và cũng là con rắn nước trườn đi Tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái Tôi là em bé nghèo Uganda, bao nhiêu xương sườn đều lộ ra, hai bàn chân bằng hai ống sậy Tôi cũng là người chế tạo bom đạn Để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á phi Tôi là em bé mười hai Bị làm nhục nhảy xuống biển sâu Tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim chưa biết nhìn biết cảm Nỗi vui của tôi thanh thoát như trời Xuân, ấm áp cỏ hoa muôn lối Niềm đau của tôi đọng thành nước mắt, ngập về bốn đại dương sâu. Hãy nhớ gọi đúng tên tôi Cho tôi được nghe một lần tất cả những tiếng tôi khóc tôi cười Cho tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một Hãy nhớ gọi đúng tên tôi Cho tôi giật mình tỉnh thức Và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ Cánh cửa Xót Thương. Trong thiền có một câu chuyện kể về một người đàn ông đang cưỡi ngựa, ông ta phi rất nhanh. Một người đàn ông khác đứng bên lề đường hỏi lớn: “Ông đi đâu đó?” Người đàn ông đang cưỡi ngựa đáp: “Tôi không biết, hãy hỏi con ngựa”. Có thể chúng ta đang cười ông ấy nhưng đó cũng là trường hợp của chúng ta. Chúng ta đang cưỡi rất nhiều con ngựa mà chúng ta không kiểm soát được. Sự phát triển vũ khí cũng là một con ngựa. Chúng ta đã cố gắng hết sức nhưng chúng ta vẫn không điều khiển được những con ngựa này. Cuộc sống của chúng ta quá bận rộn. Trong đạo Bụt, giới quan trọng nhất là sống trong ý thức, ý thức được những gì đang xảy ra. Cái đang xảy ra đó không phải chỉ ở đây thôi mà còn ở kia nữa. Ví dụ như khi ăn một miếng bánh mì, chúng ta phải ý thức về những người nông dân đang trồng lúa mì, đang sử dụng rất nhiều thuốc trừ sâu, nhiều chất độc hóa học. Ăn bánh mì, chúng ta cũng phải chịu chung phần nào trách nhiệm trong việc hủy diệt hệ sinh thái của chúng ta. Khi ăn thịt hay uống rượu, chúng ta ý thức rằng ở những nước đang phát triển có tới 40.000 trẻ em đang chết đói mỗi ngày. Và để có được một miếng thịt hay một chai rượu, người ta phải dùng rất nhiều ngũ cốc. Vì vậy, ăn một tô ngũ cốc có thể hóa giải được những khổ đau trên thế giới nhiều hơn là ăn một miếng thịt. Một chuyên gia kinh tế sống ở Pháp nói với tôi rằng ở các nước Tây phương nếu người ta giảm ăn thịt và uống rượu 50% thì cũng đủ để thay đổi tình trạng thế giới. Chỉ cần giảm 50% thôi. Mỗi ngày, khi làm, nghĩ hay nói điều gì ta phải nói, nghĩ và làm với sự bình an. Nếu ý thức được cách sống của mình, ý thức cách ta tiêu thụ, cách ta nhìn nhận vấn đề thì ta biết cách chế tác an lạc ngay trong giây phút hiện tại, giây phút ta đang sống. Chẳng hạn như khi cầm lên một tờ báo Sunday (Chủ Nhật), chúng ta ý thức rằng tờ báo này rất nặng, có thể nặng tới một hai ký. Để in ra một tờ báo như vậy có thể người ta cần đến cả khu rừng. Khi cầm tờ báo lên chúng ta phải ý thức điều đó. Nếu ý thức rõ chúng ta có thể làm gì đó để thay đổi tình trạng. Ở chùa tôi, tôi là người đầu tiên lái xe gắn máy. Hồi đó không có thi kệ lái xe gắn máy. Chúng ta phải thực tập thông minh, phải cập nhật và làm mới để cho sự thực tập của chúng ta phù hợp với thời đại ngày nay. Gần đây tôi có viết một bài thi kệ lái xe để thực tập trước khi nổ máy. Hy vọng nó sẽ giúp ích cho các bạn. Trước khi cho máy nổ Tôi biết tôi đi đâu Xe với tôi là một Xe mau tôi cũng mau. Đôi khi ta không thực sự cần đi hay cần dùng xe, nhưng vì muốn chạy trốn bản thân nên ta phải nổ máy xe lên để đi đâu đó. Nếu đọc lên bài thi kệ: “Trước khi cho máy nổ, tôi biết tôi đi đâu” thì đó có thể là một tín hiệu cho ta thấy rằng ta không cần đi đâu cả. Đi đâu ta cũng không trốn thoát được chính mình. Ta phải luôn luôn đối điện với chính mình. Tốt hơn thì ta tắt máy và đi thiền hành. Và điều đó có thể thú vị hơn. Người ta nói rằng trong những năm trước, hơn 300.000 héc ta rừng đã bị tàn phá bởi những cơn mưa axit, và một phần là do xe cộ gây ra. “Trước khi cho máy nổ, tôi biết tôi đi đâu” là một sự thực tập rất thâm sâu. “Tôi sẽ đi đâu? Có phải đi đến chỗ hủy diệt không?” Bởi vì nếu rừng cây bị chết thì loài người cũng sẽ chết. Nếu cây cối và động vật không sống được làm sao ta sống được? “Xe với tôi là một”. Chúng ta có cảm tưởng rằng chúng ta là ông chủ, còn chiếc xe chỉ là một dụng cụ, nhưng điều đó không đúng. Có xe hơi chúng ta sẽ trở nên khác. Có cây súng trong tay chúng ta trở nên rất nguy hiểm. Có cây sáo trong tay chúng ta trở nên rất dễ chịu, nhẹ nhàng, vui tươi. Với 50.000 trái bom nguyên tử loài người chúng ta sẽ trở nên nguy hiểm nhất trên Trái đất này. Chúng ta chưa bao giờ nguy hiểm như hiện nay. Chúng ta nên ý thức về điều đó. Giới căn bản nhất là ý thức được những gì chúng ta đang làm và tình trạng mà chúng ta đang sống trong mỗi phút, mỗi giây. Và những giới khác sẽ dựa theo những căn bản đó. Chúng ta phải nhìn sâu vào lòng sự vật để thấy rõ vấn đề. Khi một người bơi lội thích thú với dòng sông thì người đó phải có khả năng thấy được mình là một với dòng sông. Một ngày nọ, khi đang ăn trưa với mấy người bạn ở trường đại học Boston, tôi nhìn xuống và thấy được dòng sông Charles. Xa nhà đã lâu nên khi thấy dòng sông là tôi thích ngay. Sông Charles rất đẹp. Vì vậy tôi đi xuống rửa mặt và ngâm chân dưới sông ấy như tôi vẫn thường làm lúc ở quê. Khi tôi quay lên, một giáo sư hỏi: “Nguy hiểm quá, thầy có súc miệng bằng nước sông đó không?” Tôi trả lời: “Có”. Ông nói: “Vậy thì thầy phải đi bác sĩ ngay”. Tôi quá đỗi ngạc nhiên vì không biết là sông ở đây ô nhiễm đến như vậy. Người ta gọi chúng là những con sông chết. Ở Việt Nam có những con sông rất nhiều bùn, nhưng không dơ như vậy. Có người cho tôi biết dòng sông Rhine ở Đức cũng có quá nhiều chất hóa học đến nỗi mà người ta có thể rửa phim sang hình trong đó. Chúng ta phải có khả năng thấy được mình là những nhà bơi lội giỏi, mà cũng là những dòng sông đang trải qua những nỗi sợ hãi và hy vọng của chúng. Nếu chúng ta không có khả năng làm được điều đó thì chúng ta không có cơ hội để được an lạc. Nếu tất cả các con sông đều chết thì thú vui được bơi lội trong dòng sông sẽ không còn nữa. Nếu chúng ta là một người leo núi, một người thích miền quê, thích núi rừng xanh tươi thì chúng ta biết rằng rừng núi là buồng phổi nằm ngoài thân thể ta. Ấy vậy mà chúng ta đã làm gì để cho hơn ba trăm ngàn héc ta rừng bị tàn phá bởi những cơn mưa axit. Chúng ta giam mình trong cái bản ngã nhỏ bé, chỉ nghĩ đến những điều kiện thuận lợi trước mắt cho riêng mình trong khi lại phá hủy những cái lớn lao hơn. Một ngày nọ bỗng nhiên tôi nhận ra rằng mặt trời là trái tim của tôi, nằm ngoài thân thể tôi. Nếu trái tim tôi ngừng đập thì tôi sẽ chết, nhưng nếu mặt trời, một trái tim khác của tôi ngừng hoạt động thì tôi cũng sẽ chết ngay lập tức. Ta phải có khả năng thấy rõ thực chất của ta (We should be able to be our true self). Nghĩa là ta phải có khả năng thấy được ta là dòng sông, là rừng cây để hiểu được tình trạng của chúng và đem lại hy vọng cho tương lai. Đây là cái nhìn bất nhị. Trong khóa tu ở trung tâm Thiền Tập Providence, tôi đã yêu cầu một thiền sinh quán tưởng mình là một người bơi lội trong dòng sông, sau 15 phút thực tập hơi thở ý thức, người ấy quán tưởng mình là dòng sông. Người đó phải trở thành dòng sông để có thể bày tỏ mình trong ngôn ngữ và cảm thọ của dòng sông. Sau đó tôi yêu cầu một người phụ nữ gốc Xô Viết, quán chiếu mình là một người Mỹ, sau vài hơi thở ý thức, quán chiếu mình là một công dân Xô Viết với tất cả những nỗi sợ hãi và hy vọng cho hòa bình. Những bài tập này liên quan đến cái nhìn bất nhị. Những thanh niên phụng sự xã hội ở Việt Nam cũng đã thực tập như vậy. Nhiều người đã bị chết trong quá trình phụng sự. Tôi đã làm một bài thơ cho những anh chị em trẻ của tôi, khuyến khích động viên họ chết như thế nào để không gây hận thù và bạo động. Đó là bài Dặn Dò: Xin hứa với tôi hôm nay Trên đầu chúng ta có mặt trời Và buổi trưa đứng bóng Rằng em không bao giờ thù hận con người. Dù con người Có đổ chụp trên đầu em Cả ngọn núi hận thù Tàn bạo, Dù con người Giết em, Dù con người Dẫm lên mạng sống em Như là dẫm lên giun dế, Dù con người móc mật moi gan em Đày ải em vào hang sâu tủi nhục, Em vẫn phải nhớ lời tôi căn dặn: Kẻ thù chúng ta không phải con người. Xứng đáng chỉ có tình xót thương Vì tôi xin em đừng đòi điều kiện Bởi không bao giờ Oán hờn lên tiếng Đối đáp được Sự tàn bạo con người Có thể ngày mai Trước khuôn mặt bạo tàn Một mình em đối diện. Hãy rót cái nhìn dịu hiền Từ đôi mắt Hãy can đảm Dù không ai hay biết Và nụ cười em Hãy để nở Trong cô đơn Trong đau thương thống thiết Những người yêu em