🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Trăm Cái Bóng Ebooks Nhóm Zalo HWANG JUNGEUN Hà Linh dịch MỘT TRĂM CÁI BÓNG dựa theo bản in của NXB Hội Nhà văn & Nhã Nam năm 2019 Rừng Tôi nhìn thấy cái bóng ở trong rừng. Mới đầu tôi không nhận ra ngay nó là cái bóng. Thoáng thấy một dáng lưng rẽ bụi rậm, tôi ngỡ phía đó cũng có đường đi, trông dáng đó lại quen quen nên tôi đã bám theo nó tiến vào trong. Càng vào trong rừng càng sâu, càng vào trong tôi càng bị dáng lưng ấy hút lấy mà cứ thế tiến mãi tiến mãi. ‘Eun Gyo.’ Tôi chợt quay người theo tiếng gọi, Mu Jae đang đứng đó. ‘Đi đâu thế?’ Anh hỏi. ‘Thì đi thôi.’ ‘Đi đâu?’ ‘Đi theo.’ ‘Theo ai?’ ‘Người đằng kia,’ tôi đáp rồi ngoái nhìn, người trước mặt đã biến mất không còn thấy bóng. Mu Jae gạt cành cây tiến về phía tôi, hỏi người đó trông thế nào. Tôi đang định trả lời thì nhớ ra đó chỉ là một dáng lưng không hình tướng cụ thể. ‘Đầu nhỏ, vai hẹp và ngăm đen,’ tôi tả. ‘Giống Eun Gyo?’ ‘Ừ.’ Giống tôi, khoảnh khắc đáp vậy tôi mới ngớ người. Tôi hạ chân giẫm xuống đám lá sồi và quả thông găm dưới đất mềm, đường viền quanh bàn chân tôi có gì là lạ. Duỗi dài mảnh thật mảnh từ ngón út bàn chân phải tôi, cái bóng đang vắt qua bụi rậm vươn về đâu đó. ‘Hóa ra là cái bóng.’ Đến lúc đó tôi mới nhận ra. ‘Đừng đi theo thứ giống như cái bóng!’ Mu Jae nói. Không hiểu sao dáng hình anh lại mờ ảo thế, tôi nheo mắt nhìn, và tôi thấy mưa bóng mây mảnh như mạng nhện đang rơi. Tôi đứng yên, mí mắt ướt mưa trĩu nặng. Nước tụ thành giọt ở mười đầu ngón chân tôi xuội xuống. Nước đọng trên môi tôi mằn mặn. Tôi đứng thẫn người hồi lâu. ‘Quay lại nhé?’ Mu Jae nói rồi quay người, tôi theo anh vạch đám cỏ xào xạc xào xạc tiến ra khỏi rừng. Cây cỏ rậm rạp đến độ tôi không tưởng tượng nổi bằng cách nào mình vào được đến tận đây. Tôi gạt đám cỏ cây, như đã dai dính hơn vì ngấm mưa, tiến về phía trước. Áo quần tôi đã thấm ướt gần hết. Nước mưa vương trên lông mày rồi chảy xuống mắt tôi, tôi dụi mắt. ‘Khóc à?’ ‘Có khóc đâu.’ Chúng tôi cứ đi như thế mãi một lúc lâu mà xung quanh vẫn là rừng sâu không rõ phương hướng. ‘Làm sao bây giờ.’ Mu Jae dừng bước bảo. ‘Hình như lạc đường rồi.’ ‘Cứ đi tiếp nhé?’ ‘Cũng chỉ còn cách đi tiếp thôi mà.’ ‘Cứ tạm đi tiếp xem sao.’ Dính mưa, nền rừng căng phình, trơn đến mức như thể chỉ cần trượt chân một lần là sẽ trượt mãi trượt mãi. Cảm giác chân mình xon xót, tôi cúi nhìn, thấy chân đầy vết xây xước do cây cỏ cứa vào. Vết xước dài nhất thấm nhựa cỏ ngả màu xanh ngắt. Từ lúc biết chân bị xước, hễ cử động tôi lại thấy xót. Sang trái rồi sang phải, bước đi với cái bóng không ngừng duỗi dài phía sau lưng, chỉ mình việc nhấc chân lên đặt chân xuống thôi cũng khó nhọc. Thấy tôi chốc chốc lại đứng khựng không đi nổi, Mu Jae bèn tiến lại gần, xem xét những vết xước trên chân tôi. ‘Anh Mu Jae, lạnh quá.’ ‘Tại cứ đứng nguyên một chỗ đấy.’ ‘Chết mất.’ ‘Chết mất?’ ‘Cảm giác như chết đi được vậy.’ ‘Câu cửa miệng của cô đấy à?’ ‘Thì tại tôi cảm giác như chết đi được thôi.’ Mu Jae lấy tay áo lau nhựa cỏ cho tôi rồi đứng thẳng dậy, nhìn tôi chằm chằm. ‘Vậy mình chết nhé? Ngay ở đây!’ Anh nói quá khẽ khàng khiến tôi thảng thốt. Tôi ngỡ ngàng ngước nhìn Mu Jae. Anh đang cúi nhìn tôi bằng cặp mắt đen thẫm. Mái tóc anh thường ngày vốn bù xù, giờ điềm đạm xẹp xuống vì bết mưa. ‘Eun Gyo,’ Mu Jae cất tiếng. ‘Nếu không thực sự định chết thì đừng nói bừa như vậy.’ ‘Vâng.’ ‘Đi tiếp thôi,’ Mu Jae nói rồi tiến lên trước, tôi bước theo anh. Nước mắt lưng tròng. Tôi những muốn mặc kệ cái người lạnh lùng kia đi trước rồi tự bước theo ý mình, nhưng trong khu rừng này, giữa tình cảnh đến cả cái bóng của mình cũng đã sống dậy, tôi chỉ còn biết gạt nước mắt mà đi. ‘Khóc à?’ ‘Có khóc đâu.’ Giữa lúc chúng tôi vừa đi vừa trò chuyện, không khí xung quanh bỗng nhẹ hẳn. Mu Jae dừng bước, xòe lòng bàn tay ngửa lên trời. ‘Tạnh mưa rồi.’ ‘Ừ.’ ‘Ăn kẹo cao su nhé?’ ‘Ừ.’ Mu Jae rút trong túi áo ra một thanh kẹo cao su nhăn nhúm, xé làm đôi rồi chìa cho tôi một nửa. Tôi bóc hai lớp vỏ bọc âm ẩm, bỏ kẹo cao su vị nho xanh vào miệng. Ngọt, ngọt quá đỗi, nước miếng túa ra đến độ cằm tôi gai lên. Tôi gấp vỏ kẹo phẳng phiu rồi cất vào túi áo, vừa nhai kẹo cao su vừa cần mẫn bước đi. Mỗi lần bàn chân ẩm ướt chịn xuống nền rừng, khí lạnh sắc buốt liền phả lên. Ở một xó xỉnh nào đó trong khu rừng này, mình sẽ tan chảy vào thứ khí lạnh tê tái kia mất, tôi nghĩ. Quanh đám rễ cây trồi lên khỏi lớp đất mùn như gân nổi, mọc đầy nấm mũ tròn. ‘Anh Mu Jae,’ tôi gọi. ‘Liệu chúng ta có ra được khỏi đây không?’ ‘Cũng không biết nữa.’ ‘Nếu không ra nổi thì làm thế nào?’ ‘Chắc là sẽ chết?’ ‘Sẽ chết ư?’ ‘Rồi cũng sẽ chết thôi mà, ở một nơi nào đó, vào một lúc nào đó, nếu không ra được thì sẽ chết ở trong này thôi.’ ‘Tôi sợ.’ ‘Eun Gyo sợ ư?’ ‘Anh Mu Jae không sợ sao?’ ‘Sợ chứ.’ ‘Anh sợ ư?’ Mu Jae sải chân bước và nói. ‘Tôi cũng sợ.’ Chúng tôi bước đi trong im lặng một lúc lâu. Mưa đã tạnh, nhưng từ khu rừng no nước mưa, hơi ẩm tỏa ra bí bách đến ngạt thở. Dù đã mải miết bước nhưng tôi vẫn thấy lạnh bụng, nếu trời tối thì biết làm thế nào đây, tôi lo lắng. ‘Anh Mu Jae,’ tôi lại gọi. ‘Anh kể chuyện cho tôi nghe đi.’ ‘Kể chuyện gì?’ ‘Chuyện gì cũng được.’ ‘Tôi chẳng biết chuyện gì cả.’ ‘Chỉ cần một chuyện thôi.’ ‘Ừm,’ Mu Jae ngập ngừng rồi nói tiếp. ‘Kể chuyện cái bóng nhé?’ ‘Sao cứ nhất định phải là cái bóng?’ ‘Hợp với không khí này mà.’ ‘Tôi không thích chuyện cái bóng.’ ‘Tôi chỉ biết mỗi chuyện cái bóng.’ ‘Vậy anh kể đi.’ ‘Ừm,’ Mu Jae bắt đầu kể. ‘Có một thiếu niên.’ ‘Ừ.’ ‘Tên cậu ấy là Mu Jae.’ ‘Anh Mu Jae.’ ‘Ừ.’ ‘Là chuyện về anh Mu Jae?’ ‘Là chuyện về thiếu niên Mu Jae.’ ‘Chuyện về chính anh Mu Jae?’ ‘Đã bảo chỉ là chuyện về thiếu niên Mu Jae thôi mà. Tôi kể tiếp nhé?’ ‘Vâng.’ ‘Có một thiếu niên tên Mu Jae. Gia đình Mu Jae sống trong một căn phòng rất rộng mà không treo một bức tranh nào. Gia đình gồm chín người cả thảy. Mẹ, bố, sáu người chị và Mu Jae.’ ‘Những sáu người chị?’ ‘Mu Jae là con thứ bảy, cũng là con út.’ ‘Họ nhiều con nhỉ.’ ‘Nhiều ư?’ ‘Tại sao lại nhiều như thế nhỉ?’ ‘Chắc là vì thế đấy,’ Mu Jae hơi nghiêng đầu về một bên. ‘Chắc là vì họ thích làm chuyện đó.’ ‘Chuyện đó?’ ‘Làm tình.’ Mặt ửng đỏ, tôi bước theo Mu Jae. ‘Eun Gyo,’ Mu Jae nói. ‘Chuyện này có tục quá không?’ ‘Không tục một tí nào.’ ‘Chẳng phải hơi tục ư?’ ‘Tục cũng không sao.’ ‘Eun Gyo thích chuyện tục à?’ ‘Tôi bảo là có tục cũng không sao.’ Thấy tôi căng thẳng đáp trả, Mu Jae bật cười khúc khích. ‘Tóm lại, vì thế mà bố mẹ Mu Jae đã đẻ được bày đứa con.’ ‘Rồi sau đó thế nào?’ ‘Bố mẹ cậu thiếu niên Mu Jae ấy đã mắc nợ, có lẽ vậy.’ ‘Có lẽ?’ ‘Cũng có thể nói là hiển nhiên họ đã mắc nợ.’ ‘Việc mắc nợ sao lại là hiển nhiên được?’ ‘Con người có thể sống mà không mắc nợ ư?’ ‘Có người vẫn sống mà không nợ nần gì đấy thôi.’ ‘Chưa chắc!’ Mu Jae tạm ngừng lời vì mải nắm rễ cây leo xuống dốc, rồi anh nói tiếp. ‘Tôi không ưa lắm những người huênh hoang vỗ ngực rằng mình có thể sống mà không mắc nợ. Nói thô thiển một chút, trừ trường hợp không thèm mượn dạ ai ra đời, cứ thế chui từ trong rừng ra rồi cứ thế trần trụi sống không động đến bất kỳ sản phẩm công nghiệp nào, trừ người như thế ra thì bất cứ ai tuyên bố rằng mình không nợ nần gì tôi đều cho là loại trâng tráo cả.’ ‘Sản phẩm công nghiệp thì không tốt à?’ ‘Ý tôi không phải vậy, sản phẩm công nghiệp vốn được sản xuất hàng loạt từ các loại nguyên liệu và chất hóa học nên trong quá trình sản xuất hẳn sẽ có nhiều khuất khúc chứ, phải không? Như sông ngòi bị ô nhiễm hay nguồn lao động bị trả công quá rẻ mạt. Ý tôi là, dù mua một đôi tất thật rẻ thì, để có giá rẻ như vậy ít nhất cũng đã phải phát sinh nợ nần ở một công đoạn nào đó.’ ‘Ra là thế.’ ‘Nói chung là, bố mẹ cậu thiếu niên Mu Jae đã mắc nợ.’ ‘Ừ.’ ‘Trong trường hợp gia đình Mu Jae, họ mắc nợ vì đứng tên ký thay giấy tờ cho người khác. Vì số tiền nợ quá lớn, bố Mu Jae đã phải nai lưng làm lụng để vừa trả lãi, trả lãi thôi chứ chưa kể đến trả gốc, vừa kiếm tiền trang trải sinh hoạt cho gia đình chín người, và rốt cuộc cái bóng của ông đã sống dậy. Chuyện là thế đấy. Vào một đêm thứ Sáu mưa rơi, thiếu niên Mu Jae đang ngồi ở mé sàn gỗ nhìn mưa trút xuống khoảnh sân hẹp đọng thành từng vùng lỗ chỗ trên mặt sân. Vừa khi đó, bố Mu Jae bước vào sân với đội giày lấm lem bùn đất. Mu Jae chào bố, nhưng ông bố mặt tái nhợt chỉ chằm chằm nhìn cậu con trai rồi đi thẳng vào phòng nằm. Ông cứ nằm ngó trân trân lên trần nhà như thế tới tận tối, ai hỏi gì cũng không thưa, sau cùng mới kể rằng cái bóng của ông đã sống dậy. Trong lúc đang đứng mở ô trước quầy rượu ven đường, ông thấy cái bóng của mình đã sống dậy từ lúc nào không hay. Cái bóng, Mu Jae nghe tiếng mẹ mình rít lên vì kinh sợ. Cái bóng của ông đã sống dậy ư? Thế ông có đi theo nó không? Ông có đi theo cái bóng không? Mẹ Mu Jae hỏi giọng run rẩy. Bố Mu Jae gật đầu. Ông đã theo nó bao xa? Mẹ Mu Jae lại hỏi. Một đoạn thôi, tôi đi theo nó một đoạn rất ngắn thôi. Bố Mu Jae đáp. Mẹ Mu Jae ngồi xoay về phía các con, gạt nước mắt. Bố Mu Jae ngoảnh đầu nhìn vợ, trấn an. Bà đừng khóc như thế, tôi sẽ cẩn thận. Ông sẽ cẩn thận ư? Lần sau nó còn sống dậy nữa tôi sẽ cẩn thận không đi theo nó quá xa. Xa gần gì thì đáng lẽ ông cũng đừng đi theo nó mới phải, đáng lẽ ngay từ đầu ông đã không được đi theo nó mới phải. Tôi sẽ không đi theo nó nữa. Ông hứa chứ? Tôi hứa, tôi hứa mà. Tuy hứa vậy nhưng từ sau hôm đó, bố Mu Jae chẳng ăn uống cũng chẳng nói năng gì, rồi ngày một trở nên tiều tụy, cứ như thể ông vẫn hay lén đi theo cái bóng của mình. Rồi hầu như bạ đâu ông cũng thình lình buông ra những câu, Hễ nhìn thấy đâu đó dáng dấp một ai giống hệt ta thì ấy chính là cái bóng của ta, Một khi cái bóng sống dậy ta sẽ sức cùng lực kiệt vì bị nó ám ảnh, Đầu tiên ta sẽ sống khổ sống sở vì không thể kiềm chế ham muốn đi theo cái bóng đã sống dậy khỏi mình…, và cuối cùng ông thân tàn ma dại mà chết.’ ‘Chết ư?’ ‘Chết.’ ‘Đơn giản như vậy sao?’ ‘Con người thì, cũng có thể chết đơn giản lắm.’ ‘… Cái bóng của tôi cũng có sức uy hiếp đến nhường ấy?’ ‘Chẳng rõ nữa,’ Mu Jae đáp. Còn tôi cố bước nhanh để không bị anh bỏ cách quá xa. ‘Liệu tôi sẽ thế nào, anh Mu Jae, tôi sẽ chết sao, chết đơn giản như vậy sao?’ ‘Đừng đi theo nó.’ Mu Jae đột ngột quay lại nhìn tôi. ‘Dù cái bóng có sống dậy, chỉ cần cẩn thận không đi theo nó là được.’ Chúng tôi bước tiếp. Chốc chốc dưới chân lại vang lên tiếng cành cây gãy nghe như tiếng xương ẩm vỡ vụn. ‘Anh Mu Jae,’ tôi cất tiếng. ‘Làm tình, chuyện đó hay ho đến vậy à?’ ‘Chẳng lẽ lại không hay?’ ‘Lẽ nào lại hay?’ ‘Hay thì mới có những cặp vợ chồng đẻ tới mấy đi con chứ.’ ‘Cũng chưa chắc chuyện đó có hay thật không.’ ‘Eun Gyo tò mò à? Tôi tò mò vậy thôi.’ ‘Ra khỏi đây rồi mình làm thử nhé?’ ‘Liệu có ra nổi không?’ ‘Rừng đâu kéo dài mãi được.’ ‘Tôi chỉ muốn làm với người tôi thích thôi.’ ‘Vậy chỉ cần thích là được.’ ‘Thích ai?’ ‘Tôi.’ ‘Để xem.’ ‘Tôi thì thích đấy.’ ‘Thích ai?’ ‘Eun Gyo.’ ‘Anh đừng đùa.’ ‘Tôi không đùa. Tôi thích thật. Tôi thích Eun Gyo.’ Vừa trò chuyện vừa bước đi không nghỉ, cuối cùng chúng tôi đến một trại chăn nuôi. Mặt trời đã sắp lặn. Nhìn kìa, tôi quay sang nhìn theo hướng Mu Jae chỉ, thấy cái bóng của mình không biết từ khi nào đã trở về như cũ, cùng với bóng của Mu Jae đang duỗi dài về hướng khu rừng chúng tôi vừa thoát khỏi. Hai con nai trong trại chăn nuôi nghe thấy tiếng người liền chạy về một góc. Tôi và Mu Jae len vào trong đi vòng quanh trại, giữa mùi lông và mùi phân của các loài ăn cỏ, rồi bước ra một khoảnh sân. Một đôi vợ chồng đang ăn cơm dưới bóng đèn tròn mắc ở đầu mái hiên dõi mắt nhìn chúng tôi. Bởi trời cũng đã tối, chúng tôi quyết định ngủ nhờ lại nhà họ một đêm. Rửa ráy xong, chúng tôi thay sang quần áo họ cho mượn rồi ăn chực họ một bữa cơm gói lá dâu tằm đã hâm nóng. Đêm buông giữa lúc chúng tôi đang ăn. Anh chồng tự giới thiệu mình là nông dân và cho chúng tôi biết tên cùng vị trí đại khái của ngôi làng. Gọi là làng nhưng vài ki lô mét quanh đó cũng chỉ có mình nhà họ coi được là nhà, anh chồng nói vậy rồi hứa sáng hôm sau sẽ lái xe tải chở chúng tôi tới chỗ bắt được xe buýt. Cảm ơn anh, tôi và Mu Jae cùng đáp. Một con bướm đêm khổng lồ chao liệng trên đầu chúng tôi, đập cánh vào bóng đèn rồi bay mất. ‘Eun Gyo.’ Kẹp chiếc gối nhồi vỏ trấu bèn bẹt sát cạnh sườn, Mu Jae đứng đó. ‘Hẹn gặp lại sáng mai.’ Sau khi anh chồng và Mu Jae đi vào phòng bên, chị vợ và tôi thu xếp chỗ ngủ. Có vẻ bức vách rất mỏng, vì tôi nghe đâu như có tiếng thì thầm. Chị vợ vừa tắt đèn, trước mắt tôi liền tối đen như bị khóa kín. Không còn nhìn thấy bất cứ thứ gì. Một lát sau vẫn tối y nguyên. Tôi thử giơ tay lên rồi hạ dần xuống mặt, nhưng ngay cả bàn tay ấy cũng không hiện hữu trước mắt. Chị vợ ngáy khe khẽ. Từ vỏ gối tỏa ra mùi như rơm rạ cháy. Hu u u, hu u u, ngoài kia cú đang kêu. ‘Anh Mu Jae,’ tôi khẽ gọi. ‘Có cú ngoài kia.’ Chẳng rõ Mu Jae đã ngủ hay không nghe thấy mà từ bên kia bức vách không một lời đáp lại. ‘Cú kêu ngoài kia.’ Tôi nói vậy, rồi trong bóng tối mịt mùng đến ngay sát mặt mình cũng không nhìn rõ, tôi nằm im, tự nghi ngờ đôi mắt của chính mình. Xoáy tóc và xoáy tóc và thứ không phải xoáy tóc Chia tay Mu Jae ở ga tàu điện ngầm, tầm giữa trưa thì tôi về đến khu gần nhà. Tôi thất thểu bước trên con đường nắng chang chang. Cái bóng ngắn và sẫm, hơi đồ sang bên phải, tựa phần lòng đào của quả trứng chưa chín tới lem ra ngoài, chuyển động theo từng nhịp chuyển động của cơ thể tôi. Ý nghĩ cái bóng của mình có thể sống dậy thật cứ luẩn quẩn trong đầu, nên đã băng qua dãy cửa hàng quen và tiến vào con ngõ quen rồi mà tôi vẫn thấy như đang ở nơi xa lạ. Rẽ vào ngõ, lúc lướt qua cửa sổ một nhà nào đó, tôi nghe có tiếng ti vi vọng tới. Hình như trên ti vi đang tường thuật trực tiếp một trận bóng chuyền, tiếng phát âm từ spike rất mạnh, nhưng nghe không giống tiếng người mà như tạp âm điện tử. Spike, spike, spike, tôi thử nhại theo rồi lại rẽ vào ngó kế. Đút tay vào túi, tôi đang nghĩ “Nghe từ spike được phát âm thành tiếng thế này thật là…” thì hoàn toàn không nhớ ra mình định nghĩ gì tiếp nữa. Có góc giấy nhọn đâm vào ngón tay tôi. Tôi lôi ra, là mẩu giấy gói nửa thanh kẹo cao su Mu Jae đã chia cho lúc ở trong rừng. Tôi lấy ngón cái gập mẩu giấy kêu sột soạt, như vò một cái tai khô queo. Tôi bóc những tờ quảng cáo pizza và gà rán dán đầy cửa rồi bước vào trong nhà. Dù tôi đã đi vắng cả một ngày trời nhưng căn nhà vẫn tối om và chẳng có gì khác lạ. Tôi cởi quần áo quyện mùi bùn đất, lấy khăn lau, bật đèn rồi bước vào buồng tắm. Dưới bóng đèn tròn gắn trên trần nhà cao, tôi cúi đầu nhìn cái bóng của mình. Dưới ánh đèn và trên nền gạch lát, cái bóng nhìn to và nhạt hơn chút ít, tôi vừa nghĩ vậy vừa thử nhấc chân trái lên. Hạ chân trái xuống, tôi nhấc chân phải lên. Hạ chân phải xuống tôi lại nhấc chân trái lên, rồi tôi nhảy bật lên hòng nhấc cả hai chân khỏi mặt đất. Trong một thoáng, cái bóng nhạt đi và tỏa rộng ra, khi hai chân tôi hạ xuống đất, cái bóng lại nối vào bàn chân tôi như cũ. Chân trần, tôi bật nhảy thêm hai ba lần nữa rồi ngước lên nhìn bóng đèn tròn, mở nước nóng gội đầu. Vừa lau bọt chảy vào mắt, tôi vừa nghĩ, dẫu mình có đi theo cái bóng ở trong rừng mãi mãi không thể trở về thì vẫn sẽ có ai đó dán quảng cáo lên của nhà này và pizza vẫn sẽ được bán. Tôi trở ra phòng, kéo chăn đắp lên đến bụng rồi nằm xuống. Trời về chiều oi nóng nhưng ngón chân tôi lạnh buốt. Nghĩ chắc do để chân hướng Bắc nên tôi khẽ dịch người quay chân về hướng Đông, đầu gối hướng Tây. Nằm hướng không quen tôi lại lục đục trở mình rồi dịch người lần nữa. Liên tục xê dịch như thế một hồi cuối cùng tôi lại quay về hướng nằm cũ, nhưng giờ cứ thấy có gì đó không quen. Cảm giác người mình bị nhấc bổng lên ở thắt lưng, đang rung bần bật như kim la bàn. Chốc ngủ chốc tỉnh, tôi nghĩ ngợi mông lung hết chuyện nọ chuyện kia. Tôi đang làm việc trong một trung tâm thương mại chuyên về đồ điện tử nằm giữa lòng thành phố. Trung tâm được chia thành tòa A, tòa B, tòa C, tòa D và tòa E, năm tòa nhà vốn tách rời nhau nhưng trong suốt bốn mươi năm đã được cải tạo cơi nới nhiều chỗ, rồi không biết từ bao giờ và bằng cách nào chúng đã liền lại thành một khối mà nếu chỉ thoáng nhìn bằng mắt thường thì khó lòng nhận ra. Tôi và Mu Jae gặp nhau ở trung tâm thương mại ấy. Tôi làm chân sai vặt kiêm tiếp nhận đơn hàng ở tiệm sửa chữa của chú Yeo, còn Mu Jae đang vừa làm vừa học nghề tại xưởng sản xuất biến áp của chú Gong. Một ngày nọ, tôi cầm cái biến áp cũ cần thay dây đồng đi xuống xưởng, bắt gặp Mu Jae giữa không gian chật hẹp đó. Anh đeo tạp dề và ống tay bảo hộ, đứng cạnh chú Gong đang quay cái guồng cuộn dây đồng. Tôi đưa cái biến áp cũ ra, Mu Jae đỡ lấy cục nặng trịch ấy bằng một tay rồi đặt xuống mặt bàn chất đống dây đồng, sau đó ghi lại số điện thoại và tên tiệm. Mu Jae không để lại chút ấn tượng gì trong tôi ngoài chữ viết rất đẹp. Trong suốt một thời gian dài, tôi có gặp anh vài bận lúc ra vào xưởng hay lên xuống tòa nhà nhưng cũng chẳng có cảm xúc gì đặc biệt. Lúc chia tay, chúng tôi đã hẹn thứ Hai gặp lại, liệu thứ Hai đi làm có gặp Mu Jae không nhỉ, tôi vừa nghĩ vừa lơ mơ ngủ. Khi giật mình tỉnh giấc thì đã quãng mặt trời lặn. Ánh hoàng hôn tràn ngập căn phòng. Tôi nhận ra mình đã để quên túi đựng cơm hộp trong rừng. Chú Yeo chớp mắt khi nghe tôi kể chuyện cái bóng của mình sống dậy. Chú đang ngồi trên một cái ghế đầu, tay phải cầm cây kim dò của dao động ký. Dưới món tóc lòa xòa nhiều sợi bạc gần như đã muối tiêu, vầng trán chú Yeo cau lại, chú chớp mắt một lần, hai lần rồi hỏi. ‘Thế rồi sao?’ ‘Cháu đã đi theo nó.’ ‘Đi theo ư?’ ‘Đi theo một lát thôi ạ.’ ‘Đáng lẽ cô đừng đi theo nó mới phải.’ ‘Cháu sẽ không đi theo nữa.’ ‘Đúng đấy.’ Nói rồi chú Yeo chạm đầu kim dò vào bảng điện và quan sát màn hình máy. Trên màn hình nhỏ cỡ lòng bàn tay, dải màu xanh trôi ngang vẽ nên những gợn sóng nhấp nhô nhấp nhô. ‘Cái bóng ấy mà.’ Chú Yeo cất giọng rồi chẳng nói thêm lời nào nữa, đăm đăm nhìn màn hình thật lâu. Lúc tôi tưởng chú đang trầm ngâm suy tư thì chú liền nhấc kim dò khỏi bảng điện cắm sang chỗ khác, lúc tôi ngỡ chú đang tập trung làm việc thì bỗng nhiên chú lại mở lời, ‘Cái bóng ấy mà…’ Cứ lập lờ như vậy, chú Yeo tập trung vào thứ gì đó rồi một lát sau mới nói tiếp. ‘Thế tâm trạng cô lúc đi theo cái bóng như thế nào?’ ‘Không tệ ạ. Cháu cứ bị cuốn theo nó.’ Nghe tôi bảo vậy chú Yeo liền gật đầu như muốn đồng tình, ‘Chính thế. Đáng sợ ở chỗ đó đấy, nếu mình cứ để cái bóng lôi kéo mà đi theo nó không chút cảnh giác là tự dưng sẽ thấy nhẹ nhõm ngơ ngẩn, thích lắm, cũng vì thích quá nên mình cứ đi theo nó mãi, riết rồi chết dở đấy, con người nếu liên tục mất cảnh giác thì sẽ trở nên ngu muội mà, cái bóng sẽ ập tới tấn công khi mình ngu muội nhất.’ Chú Yeo nói xong mới lặng lẽ đặt cây kim dò xuống mặt bàn. ‘Cô chờ xem, giờ nó sẽ lớn lên đấy.’ ‘Lớn lên ạ?’ ‘Lớn lên chứ.’ ‘Vậy nó sẽ thành thế nào ạ?’ ‘Sẽ đặc lại. Nói thế nào nhỉ, có sức người hơn chăng, đại loại thế.’ ‘A.’ ‘Đừng lo lắng quá. Người ta chẳng bảo dù bị cáo cắn thì chỉ cần thần trí vững vàng là sống được đấy thôi.’ ‘… Không phải hổ sao ạ?’ ‘Hổ á?’ ‘Dù bị hổ cắn thì chỉ cần thần trí vững vàng là sống được ạ.’ ‘Hổ hay cáo cũng như nhau cả thôi.’ Chú Yeo đẩy cái bóng đèn gắn chao sắt tây hình bán cầu gần sát bảng điện rồi nói tiếp. ‘Ý tôi là, trước những thứ sẵn nanh nhọn thì bằng mọi cách mình phải biết giữ tinh thần cho tỉnh táo.’ ‘Cái bóng có răng ạ?’ ‘Nó là thứ gắn với loài có răng thì dĩ nhiên phải có răng chứ? Một khi cái bóng sống dậy cô sẽ thấy quá nhiên nó rất giống mình, vì nó là bóng của mình mà.’ Tôi đang nghe chú Yeo nói đến đó thì cơm hộp đặt ăn trưa được giao tới. Chú Yeo kêu nhạt miệng, bỏ hộp cơm đó không động đến. Một mình tôi ăn cơm hộp hiệu Thiếu Gia, rồi vì chú Yeo rủ ăn đá bào nên ăn cơm xong tôi rời tiệm đi mua đá bào theo lời chú sai. Tiệm sửa chữa tọa lạc ở tòa B trong số năm tòa A, B, C, D, E. Là tòa nhà thứ hai nếu bắt đầu tính từ tòa A ở phía Bắc. Cứ đi qua tám cửa hàng lại có một gian bỏ không đã nhiều tháng liền nên tòa nhà không giấu nổi vẻ hoang tàn, song dẫu vậy tòa B này vẫn là nơi nhiều người ra vào nhất. Ở tầng một nhìn ra bãi đỗ xe quanh năm khuất bóng âm u có bán đồ điện tử gia dụng cỡ nhỏ như lò sưởi, quạt hay máy phát thanh; từ tầng hai lên tầng bốn, hiện vẫn đang tiếp tục cầm cự bằng mọi giá giữa cảnh kinh doanh ảm đạm, là các cửa hàng nhỏ bán linh kiện máy móc, thiết bị nghe nhìn cùng các đồ dùng sinh hoạt như chối hoặc khăn lau cỡ đại; tầng năm nơi có tiệm sửa chữa lại toát ra vẻ đìu hiu hơn hẳn các tầng khác với nào nhà kho, nào phòng giám định đá quý, phòng nghiên cứu sóng vô tuyến hay cả những văn phòng mờ ám vừa nghiên cứu gì không rõ vừa kiêm cả dịch vụ nghe trộm. Lúc đi xuống những bậc cầu thang đã tù mép vì cọ xát với đủ loại hàng hóa nặng nề, tôi nghe có tiếng gọi. Tôi quay lại, thấy Mu Jae đang bước xuống cầu thang, anh đeo ống tay bảo hộ, cổ tròng tạp dề. ‘Eun Gyo có đến hai cái xoáy tóc nhỉ.’ ‘Tôi biết.’ ‘Eun Gyo từng nhìn thấy rồi à?’ ‘Không.’ ‘Eun Gyo chưa từng nhìn thấy à?’ ‘Chưa.’ Tôi đang định đáp mình chẳng có cớ gì để tự nhìn xoáy tóc của chính mình cả và hỏi lại, “Chẳng phải xoáy tóc là thứ nếu không chủ tâm cố nhìn thì không thể nhìn thấy hay sao,” thì Mu Jae đã kêu, ‘Tiếc thật. Xoáy tóc của Eun Gyo có hình dạng rất thú vị đấy.’ ‘Xoáy tóc cũng có hình dạng khác nhau ư?’ ‘Có chứ.’ Mu Jae đáp rồi bước nốt những bậc cầu thang còn lại đến đứng trước mặt tôi. Anh nhìn sâu vào mắt tôi. Nghĩ đảo mắt đi thì chắc hơi kỳ nên tôi nhìn lại. Tuy cứ nhìn chằm chằm như vậy cũng kỳ, nhưng giờ đã quá muộn không thể đưa mắt đi nữa nên tôi đành tiếp tục nhìn thẳng vào mắt anh. Mu Jae lặng lẽ cười. ‘Sao anh lại cười?’ ‘Tôi có cười đâu. ‘Anh vừa cười mà.’ ‘Eun Gyo ăn trưa chưa?’ ‘Chưa.’ Tôi còn đang đứng sững, đỏ bừng mặt vì ngỡ ngàng với chính mình khi ăn rồi mà lại trả lời chưa ăn, thì anh rủ, ‘Vậy cùng đi ăn cơm đi.’ Tôi theo anh, tiếp tục bước xuống cầu thang. Từ tầng một tòa nhà, chúng tôi băng qua bãi đỗ xe rồi tiến vào những con ngõ tỏa khắp xung quanh trung tâm thương mại như những nhánh cây. Đi qua hàng bán dây cáp và dãy cửa hàng bán các loại dụng cụ, chúng tôi lách vào một ngách hẹp trải dài những tiệm bán và sửa đồng hồ. Những người đàn ông đang ngồi đọc báo sau khi kê giá trưng bày ra trước cửa nhìn chằm chằm chúng tôi đi qua. Cứ lẳng lặng đi theo Mu Jae kể cùng kỳ nên chốc chốc tôi lại gợi chuyện nọ chuyện kia, giữa lúc đó có nhắc đến chuyến dã ngoại tập thể hôm thứ Bảy. ‘Bốn mươi sáu người đấy.’ ‘Gì cơ?’ ‘Ở trên núi ấy. Chú Yeo bảo vậy, lúc điểm danh xuống núi chắc chắn đã có đúng bốn mươi sáu người.’ ‘Chú ấy bảo thế à?’ ‘Đúng bốn mươi sáu không thiếu một người, y như lúc đầu nên họ không ngờ có đến hai người đã bị rớt lại trong rừng. Như vậy tức là ai đó đã trà trộn vào thế chỗ hai người bị thiếu.’ ‘Lẽ nào lại là vậy?’ ‘Liệu có phải cái bóng không nhỉ?’ ‘Không biết nữa.’ ‘Cũng có thể người ta đếm nhầm,’ Mu Jae nói, rồi anh đột ngột len vào giữa hai tiệm đồng hồ. Tôi cứ tưởng lại là một ngõ ngách nào nữa nhưng hóa ra đó là cửa một quán mì lâu đời. Mu Jae vào quán, chọn một bàn phía trong rồi tháo ống tay bảo hộ, cuộn lại để lên mặt bàn. Người phục vụ mang cái ấm nóng rẫy đựng nước xuýt ra đặt đấy rồi đi mất. Mu Jae rót nước xuýt ra cốc cho tôi. Mằn mặn và bùi bùi. Mì lạnh với canh sườn hầm cay quán này rất ngon, nghe Mu Jae giới thiệu vậy tôi bảo mình sẽ ăn canh sườn hầm cay. Tới khi nhận bát canh nóng bỏng miệng tôi lại ước giá mình gọi món lạnh. Mu Jae ăn mì lạnh không có một giọt mồ hôi, còn tôi vừa quệt mồ hôi vừa húp canh sườn. Mỗi lần Mu Jae cúi xuống mút mì, cái xoáy tóc khó roong gần đỉnh đầu anh lại lọt vào mắt tôi. ‘Xoáy tóc ấy,’ tôi lên tiếng. ‘Nếu hỏi mười người xem họ nghĩ mình có xoáy tóc hay không thì liệu sẽ có mấy người giơ tay nhỉ?’ ‘Ừm,’ Mu Jae trả lời. ‘Chưa biết chừng sẽ có một hai người không giơ tay ấy.’ ‘Cũng có thể tất cả sẽ giơ tay chứ.’ ‘Cũng có thể.’ ‘Vậy nếu hỏi những người nghĩ mình có xoáy tóc rằng ai từng nhìn thật kỹ xoáy tóc của mình chưa thì sẽ có mấy người giơ tay nhỉ?’ ‘Mấy người nhỉ.’ ‘Anh Mu Jae, trước giờ tôi luôn coi xoáy tóc chỉ là xoáy tóc mà thôi, chưa bao giờ nghĩ chúng cũng có hình dạng riêng.’ ‘Xoáy tóc là xoáy tóc nhưng có lẽ xoáy tóc cũng không phải là xoáy tóc đâu.’ ‘Ý anh là sao?’ ‘Eun Gyo thử nói xem: xoáy tóc.’ ‘Xoáy tóc.’ ‘Xoáy tóc.’ ‘Xoáy tóc.’ ‘Xoáy tóc.’ ‘Lạ thật.’ ‘Xoáy tóc.’ ‘Xoáy tóc, càng nói càng có vẻ như xoáy tóc này không phải xoáy tóc mà chúng ta đã biết ấy.’ ‘Chính thể đây. Xoáy tóc.’ ‘Xoáy tóc.’ ‘ Xoáy tóc ấy mà,’ Mu Jae nói. ‘Mỗi cái lại một khác đấy. Hồi nọ tôi từng đọc được trong sách rằng xoáy tóc của mỗi người đều mang hình dạng khác nhau.’ ‘Thật ư?’ ‘Thế mà tất cả lại đều được gọi chung là xoáy tóc, cũng tiện, nhưng nếu đặt mình vào quan điểm của xoáy tóc thì đó lại là một sự áp đặt không nhỏ đâu.’ ‘Quan điểm của xoáy tóc?’ ‘Nếu đặt mình vào quan điểm của xoáy tóc thì hẳn sẽ có một xoáy tóc nghĩ thế này, Cái quái gì vậy, thằng xoáy tóc kia vốn dĩ có giống mình tí nào đâu chứ. Thế cho nên càng nói xoáy tóc lại càng thấy gợn gợn kỳ kỳ, không phải sao?’ ‘Hay là thế nhỉ?’ ‘Xoáy tóc.’ ‘Xoáy tóc.’ ‘Xoáy tóc.’ ‘Khó quá.’ ‘Khó nhỉ.’ ‘Xoáy tóc.’ ‘Xoáy tóc, xoáy tóc,’ tôi vừa nói vừa chăm chú nhìn mẩu hành đã khô dính chặt lấy góc bàn. Xoáy tóc là xoáy tóc nhưng có lẽ xoáy tóc cũng không phải là xoáy tóc, rốt cuộc nghĩa là sao đây, giữa dòng suy ngẫm tối thoáng hoang mang. Tôi cứ ngồi như vậy, hoang mang. ‘Eun Gyo,’ Mu Jae lấy đũa xắn đôi quá trứng trong bát mì và hỏi. ‘Eun Gyo thích canh sườn hầm cay à?’ ‘Vâng.’ ‘Tôi thích mì lạnh. ‘ ‘Vậy ạ.’ ‘Eun Gyo còn thích gì nữa nhỉ?’ ‘Tôi thích linh tinh cái này cái kia.’ ‘Là thích cái gì?’ ‘Thì cái này cái kia linh tinh thôi.’ ‘Tôi thích người có xương quai xanh thẳng.’ ‘Ra vậy.’ ‘Phải, tôi rất thích.’ ‘Thích xương quai xanh?’ ‘Thích Eun Gyo.’ ‘… Xương quai xanh của tôi không thẳng một tí nào.’ ‘Không thẳng tôi cũng thích, vì tôi thích Eun Gyo mà.’ ‘Vậy ư? ‘Ăn trứng nhé?’ ‘Vâng.’ Mu Jae gắp nửa quả trứng vừa tách đôi vào bát tôi, nửa còn lại bỏ vào miệng. Trong tấm gương treo trên bức tường tít phía xa của quán mì, tôi đang ngồi đối diện Mu Jae, mặt đỏ bừng. Mu Jae hỏi tôi tại sao lại nhễ nhại mồ hôi thế. Tại canh nóng quá, tôi đáp rồi đưa giấy ăn lên, dấn xuống vầng trán đẫm mồ hôi. Chú Yeo lấy thìa trộn đá bào và đậu đỏ cho đều rồi hỏi. ‘Eun Gyo biết vị đậu đỏ không?’ ‘Đậu đỏ ngọt quá nên cháu ít ăn.’ ‘Không ngọt lắm đâu.’ ‘Đậu đỏ ấy,’ chú Yeo xúc một thìa đá bào lên ăn, tạm ngừng lời rồi lại nói tiếp. ‘Hồi còn trẻ tôi cũng không thích đậu đỏ lắm đâu. Nhưng nói sao nhỉ, càng có tuổi dần dần lại càng nghiện chăng, vị nó khó tả mà. Nếu bảo ngọt thì ngọt, bảo thanh thì thanh, bảo cay thì cay, mà bảo bùi cũng lại bùi, rồi đâu đó còn có cả vị ngăm ngăm đắng nữa. Mùa hè nóng bức ăn đậu đỏ với đá bào, mùa đông lạnh lưng lạnh bụng bỏ đậu đó vào ninh với gạo nếp, mùa nào thức này cứ tự nhiên nhớ ra như vậy. Nhân nhắc đến đâu đỏ, tôi có một ông bạn cực kỳ thích đậu đỏ. Ông ấy là chủ một nhà máy sản xuất linh kiện điện tử nhỏ. Nghĩ bản thân thiệt thòi không được học hành tử tế, ông ấy đã gửi các con và vợ qua Mỹ còn mình thì ở lại Hàn Quốc làm lụng kiếm tiền gửi sang. Ông ấy cho con đi học trường tư ở cái vùng gì gì bên Mỹ ấy, nên học phí với phí sinh hoạt cũng chẳng vừa. Mà còn tỷ giá tiền tệ nữa chứ. Dẫu ở nhà làm ăn được nhưng tỷ giá chênh lệch gấp mười lần thì cũng khó mà kham nổi. Ngoài lo liệu công việc ở nhà máy ông ấy còn phải làm thêm nhiều việc khác nữa. Mang danh giám đốc mà ông ấy còn chẳng có xe riêng mà đi. Mỗi lần gặp nhau tôi lại hỏi gia đình xa cách thế thì sống kiểu quái gì, ấy thế mà ông ấy chỉ ha ha cười. Tiền vé máy bay cũng không đơn giản nên một năm ông ấy chỉ sang Mỹ một lần, quyết tâm lắm thì hai lần, phải tầm cuối năm hay dịp Trung Thu mới dám bay sang.’ Nói đến đây chú Yeo nhai đá bào một hồi rồi mới kể tiếp. ‘Một ngày nọ, sang năm mới chưa được bao lâu, quá nửa đêm tôi vẫn đang mò mẫm trong phòng làm việc. Ba bốn hôm trước đó tôi có nhận sửa một cái đèn điện tử chân không, mà triệu chứng hơi phức tạp nên phải đánh vật với nó tới tận khuya. Giữa lúc đó ông bạn tôi mở cửa, ló vào hỏi, Ông có đây không? Vẫn ở đây hả? Nửa đêm nửa hôm không hiểu ông ấy mua được ở đâu đem tới hai bát cháo đậu đỏ. Rồi ông ấy rủ ăn nên tôi cũng ăn. Vừa ăn tôi vừa hỏi ông ấy đợt cuối năm đã qua bên đó chơi hả thì ông ấy đáp ừ. Đoạn, ông ấy kể tôi nghe chuyện này. Ở bên đó rộng lắm, đất rộng, nhà cũng rộng, con cái ông ấy đã lớn cả, chúng lớn lắm, đến tuổi dậy thì hết rồi, đứa con gái đầu Jenny đã mười lăm tuổi. Một hôm, mấy đứa bạn Jenny đến chơi nhà, ông ấy mở lời chào chúng nó, Hi, nice to meet you, nhưng Jenny lại ra vẻ khinh khỉnh rồi mau chóng dẫn bạn lên phòng mình. Sau khi đám bạn về hết con bé bảo ông ấy thế này. Bố, lúc có bạn con ở đây con mong bố đừng nói một lời nào cả. Bố phát âm tiếng Anh kỳ cục, con ngượng với bạn lắm. Nghe con gái mình nói vậy, sau một thoáng sửng sốt ông bạn tôi bật cười, nhưng ông ấy cứ nghĩ mãi về chuyện đó. Thẻ rồi ông ấy gọi Jenny ra ghế xô pha ngồi, quở nó rằng nói như thế với người bố vất vả kiếm tiền nuôi mình là không được. Con bé Jenny lại bảo ông ấy đừng có làm ra vẻ người bị hại, rằng ông không có tư cách giáo huấn gì tôi, rằng tuy ông là bố tôi nhưng ông có bao giờ ở bên cạnh tôi đâu. Con bé nói bằng tiếng Anh à? Tôi hỏi thì ông ấy lưỡng lự gật đầu tỏ ý đúng là vậy. Thế ông nghe thủng được hết à? Tôi lại hỏi, ông ấy đáp rằng thì cũng đại khái đoán được ý. ‘Xót xa thay cho bạn, tôi giận dữ điên người mà không dám tỏ ra mặt, chỉ vừa cắm cúi ăn cháo đậu đỏ vừa hỏi tiếp. Thế ông đến đây để nói chuyện đó à? Nghe thể ông bạn tôi lấy hai tay vò mặt chổi và bảo rằng cái bóng của ông ấy đã sống dậy. Thế nào nhỉ, ông ấy kẻ đem đem hễ mình tắt đèn định đi ngủ là cái bóng lại leo lên cửa sổ. Nhà ông ấy ở tít trên tầng ba mươi mà cái bóng cứ leo lên cửa sổ.’ Chú Yeo kể đến đó rồi mím chặt miệng, mặt tối sầm, và như không còn lòng dạ nào kể tiếp, chú cặm cụi xúc đá bào ăn. ‘Thế nên hồi cái bóng của tôi sống dậy,’ chú Yeo cất tiếng. Câu ấy đột ngột nảy ra sau khi chú Yeo ăn sạch sẽ đến thìa cuối cùng thứ đá bào đã tan hòa thành nước đậu đỏ, giữa lúc đó chú cũng đã kịp sửa xong và gửi cái ăm li của một vị khách gói trong bọc vải mang tới. Tôi đã rất hoảng hốt. ‘Cái bóng của chú từng sống dậy ạ?’ ‘Ừ, cũng đã từng…’ Chú Yeo chớp mắt nhìn tôi như lấy làm lạ. ‘Tôi sống từng này tuổi đầu cũng đã kinh qua đủ chuyện rồi nên cũng khó mà chưa thấy cái bóng bật dậy cho được. Nó thình lình vụt đứng dậy, ngoài hiên nhà tôi, lúc tôi đang xỏ giày. Chắc đến lúc rồi đây, tôi vừa đoán vậy vừa nhớ tới ông bạn xưa, nhìn cái bóng tôi cũng lại nghĩ, có lẽ chữ “sởn gai ốc” được sinh ra chính là để tả cảm giác chứng kiến cảnh tượng này. Phải làm sao đây, tôi chạm vào cái bóng. Sống dậy một cái là nó cứ kéo riết mình theo, may mà tôi vững tinh thần chứ nói dại mồm không phải thì cũng chẳng biết thế nào. Cơ mà trên hết, phản ứng của gia đình tôi rất lạ. Cái bóng chỉ quanh quẩn trong nhà tôi không đi đâu xa, chẳng hiểu người nhà tôi không nhìn thấy nó thật hay và không nhìn thấy nữa. Ví như, cái bóng chết tiệc đó có lúc còn ngồi xen vào mâm cơm gia đình tôi. Những lúc như thế, rất tự nhiên người nhà tôi đều ngồi tránh chỗ nó ra. Hay khi đưa đĩa kim chi củ cải hoặc bát cơm mới xới họ cũng thường tránh cái bóng của tôi rồi mới vươn tay ra, cả khi nói chuyện, những người ngồi hai bên cái bóng cũng vừa nói vừa hơi nghiêng đầu nhìn nhau.’ ‘Vậy là họ nhìn thấy cái bóng còn gì?’ ‘Nhìn thấy chứ. Vì họ cứ giả bộ không nhìn thấy thứ rõ ràng là nhìn thấy được nên tôi đã thử chỉ về phía cái bóng nói, “Cái bóng đó, là cái bóng đó.” Kiểu thế này.’ Vừa nói chú Yeo vừa chập ngón cái và ngón trỏ bàn tay trái lại như muốn véo vào hư không. Rồi nhăn nhó mặt mày, ra chiều ghê tởm lắm, chú Yeo chăm chăm nhìn tôi. ‘Sự đã thành như vậy hẳn mình ra sao họ cũng mặc, hẳn mình có bỏ đi theo cái bóng kia họ cũng chẳng bận tâm. Đấy, làm sao tôi không nghĩ thế cho được? Tôi đi tặc lưỡi nghĩ, “Chết tiệt, hay bỏ quách đi theo cái bóng cho rồi.”’ ‘Chú đã đi theo nó à?’ ‘Đi theo chứ. Nhưng có đi theo cũng chẳng được tích sự gì. Vì cứ có một giọng nói bám theo tôi.’ ‘Giọng nói ạ?’ ‘Giọng của chính tôi, cản lại, “Đừng đừng.” Thế nên đi chưa được mười dặm tôi đã bỏ cuộc lộn trở về nhà. Thật chẳng ra làm sao. Loại như tôi, để đi theo cái bóng của chính mình cũng không nổi. Đêm hôm đó cũng chẳng hiểu tại sao trăng lại tròn và sáng thế, nhìn rõ mồn một từng miệng núi lửa.’ Chú Yeo nói rồi thở dài thườn thượt. Tôi thử tưởng tượng dáng chú lếch thếch dắt cái bóng duỗi dài về nhà trong đêm trăng sáng trông rõ cả từng đường viền miệng núi lửa. Chú Yeo cất giọng nói tiếp. ‘Dạo này thỉnh thoảng nó cũng sống dậy đấy, nhưng tôi nghĩ cái bóng cũng chẳng phải thứ gì ghê gớm. Nghĩ thế ít nhiều tôi đã thấy dễ chịu hơn. Thực ra nó đâu phải không ghê gớm, nhưng cứ nghĩ nó không ghê gớm thì đôi khi cảm thấy nó cũng chẳng ghê gớm gì thật, rồi thời gian trôi qua, có lẽ thực sự nó đúng là không ghê gớm chút nào đâu. Cái bóng ấy mà, nó cũng có lúc đứng lên lúc nằm xuống chứ, phỏng? Dĩ nhiên nghĩ thì cũng rờn rợn. Cái thứ vốn chẳng là gì bỗng một khoảnh khắc lại trở thành thứ rất là gì, khi đó, có cảm giác như mình bị kéo vào vùng vô tận vậy, gọi là gì nhỉ, tận đời chăng. Kiểu như vậy.’ Chú Yeo lôi cái tua vít trong ngăn kéo bàn ra rồi bắt đầu xoay những con ốc gắn trên vỏ một chiếc ăm li khác. Trong tiệm sửa chữa có hai cái bàn. Cái kê phía cửa số là bàn chú Yeo dùng, còn tôi dùng cái đặt song song gần đó. Cái bàn sắt của chú Yeo hơi võng xuống ở giữa vì chồng ăm li, có ba ngăn kéo đều không đóng nổi về góc móp méo hết cả. Trong ba ngăn kéo, cái nông và dài gắn dưới mặt bàn đựng vô số tua vít, hai cái bên trái chứa đủ thứ tạp phí lù đến độ một câu đơn giản khó có thể tóm tắt cho hết. Nhiều năm trước, công việc đầu tiên tôi làm ở tiệm sửa chữa chính là sắp xếp lại hai ngăn kéo đó. Những mẩu dây thép, ốc vít, tay cầm tua vít, băng cát xét, nhãn mác, túi đựng thuốc viên, đơn thuốc, giấy nhớ, bột sắt, dây điện, các mảnh kim loại mỏng không biết long từ đâu ra, chip IC, mẩu vỡ từ bảng điện, túi zip thủng, ruột bút bi, kim khâu, dây hàn, đồng hồ đeo tay, nắp chai nước ngọt, dây da, dây cao su, dây thừng, những mẩu giấy bị vo tròn sau khi lau cái gì đó, hộp phim máy ảnh nhưng lại đựng hồ hoặc nước xả vải, bột cà phê, bụi vẻ tròn thành viên, mẩu thuốc lá đã hút sát đến đầu lọc, sâu bọ khô đét lăn lăn nhìn như hạt ngô, sơ đồ mạch điện được gấp như cái vẩy đập*… ngoài ra tôi còn phát hiện mấy thứ khô queo nhìn đi nhìn lại cũng không hiểu là cái gì, hoặc thậm chí có móc gài áo lót nữ, không thể tổng hợp hết được. Cái ngăn kéo to nhất và sâu nhất ở dưới cùng bao gồm tất cả những thứ kể trên cộng thêm rất nhiều tiền xu. Chú Yeo bảo hễ có xu lẻ là chú vứt vào đó, tôi bới đủ thứ đổ tạp nham ra thì thấy một lớp dày ụ dưới đáy ngăn kéo. Trải báo ra nền nhà, tôi ngồi một ngày rưỡi đếm và phân loại tiền xu. Chú Yeo tuy cằn nhằn xu kêu lẻng xẻng điếc tai nhưng cũng không bảo tôi dừng tay đếm. Các chủ cửa hàng khác ban sáng thấy tôi ngồi đếm tiền xu xế chiều quay lại hóng, hỏi tôi vẫn còn đang đếm à. Phải đến suýt soát lúc mặt trời lặn tôi mới đếm xong. Một triệu ba trăm năm mươi bảy nghìn sáu trăm won. Tôi chia mỗi loại xu vào một túi, sau đó phải chất lên cái xe kéo chuyên chở ăm li để kéo đến ngân hàng vì quá nặng. Tôi dỡ từng túi đựng tiền xu xuống trước máy đem tiền, đổ tiền vào rồi đợi, đổ tiền vào rồi đợi, đổ tiền vào rồi đợi, cứ lặp đi lặp lại như thế. Cuối cùng tôi kiểm tra tổng số tiền. Một triệu ba trăm năm mươi bảy nghìn sáu trăm hai mươi won. Tôi giữ lại hai mươi won chênh lệch, còn đâu gửi hết vào ngân hàng. Chú Yeo vô cùng ngạc nhiên, không ngờ trong cái ngăn kéo mình bỏ bẵng suốt mấy năm trời lại chứa số tiền lớn đến vậy. Vài năm sau, cái ngăn kéo lại đầy lên nhưng chú Yeo báo vẫn chưa đến lúc, cứ để kệ nó đấy. Cái ngăn kéo như thế nào thì tiệm sửa chữa cũng y hệt vậy. Tiệm tối tăm và ngổn ngang đồ đạc, tựa khoang bụng một con cá voi bằng kim loại. Quang cảnh tiệm trông như thể có một chiều không gian thứ ba rưỡi lơ lửng bên trên thình lình bị thủng toang đáy vì trong giây lát mọi thứ ào ào tuôn hết xuống. Từ khi bắt đầu đi làm ở tiệm chú Yeo, trong vòng khoảng một năm tôi vừa làm việc vừa dọn dẹp lại tiệm. Tôi cất vào tủ đứng hoặc ngăn kéo những phụ phẩm chú Yeo tiện đâu bỏ đó chất chồng thành đống. Tôi dán nhãn phân loại dây điện, ốc vít và các loại dụng cụ rồi xếp gọn vào một chỗ. Tôi chia ra và sắp lại theo thứ tự đơn nhận sửa những ăm li chất tùy tiện lên tít tận trần nhà hoặc quanh cửa ra vào. Tuy tiệm đã gọn gàng hơn trước kia nhiều nhưng vì lượng đồ đạc vẫn ngồn ngộn như xưa nên những người mới tới lần đầu vẫn thường đứng ở cửa há hốc miệng rồi hỏi làm thế nào chúng tôi biết được ở đâu có cái gì. Chú Yeo đã ở đó sửa các thiết bị âm thanh trong suốt hơn ba mươi năm. Tuy chú lấy phí sửa chữa rẻ hơn hẳn so với tay nghề nhưng lại có tật hơi lề mề, nhiều khi đến mức phát bực, nên thỉnh thoảng cũng nổ ra cãi vã với những khách hàng khó tính hoặc vô lễ. Chú Yeo thường chấm một dấu son nhỏ ở mặt trong đồ đạc gửi sửa của những vị khách đó, để sau này nếu họ nhờ người khác hay giả bộ như chưa từng có xích mích mà tự mình mang đến tiệm sửa tiếp thì chú sẽ có cái thú vui mở nắp ra kiểm tra vết sơn mà nhớ lại a ha đây là cái gã hồi này hồi nọ. Rồi sau đó chú cũng vờ như không có gì, sửa đồ và trả lại cho họ. Nhìn xuống dưới qua khung cửa sổ cũ đã hứng gió mưa đằng đẵng mấy chục năm trời sẽ thấy những tầng mái tôn phẳng phờ quanh quán mì lâu đời mà tôi và Mu Jae cùng ăn trưa hôm nọ. Thỉnh thoảng có đôi ba con mèo lang thang trên đó. Chấn song cửa sổ làm bằng gỗ, đen kịt và đã dần ẩm mục. Ấn tay vào là mủn ra như bánh quy ỉu do ngấm nước. Những đêm bão, tôi thường trằn trọc không ngủ nổi vì cứ tưởng tượng những chấn song cũ kỹ bị gió giật thổi bay, theo gió chao liệng trên không rồi rơi sầm sập xuống mái tôn. ‘Cháu đến rồi.’ Anh Yu Gon chào rồi chui tọt vào trong tiệm. ‘Ông chủ có thể cho cháu vay hai nghìn won được không ạ?’ ‘Cậu định làm gì?’ Chú Yeo hờ hững hỏi lại. Anh Yu Gon khẽ đưa tay vuốt vuốt vạt áo trước đính cúc trắng, trả lời. ‘Cháu định tiêu ạ.’ ‘Chứ cậu định tiêu vào đâu?’ ‘Cháu định mua xổ số.’ ‘Ôi giời.’ ‘Lần này cháu đã tính toán không sai vào đâu được.’ ‘Cái sự tính toán không sai vào đâu được của cậu đó, đã có bao giờ đúng chưa?’ ‘Lần này khác ạ.’ ‘Khác chỗ nào?’ ‘Khác ở chỗ lần này không sai vào đâu được.’ Nói rồi anh Yu Gon dựng thẳng lưng ngồi xuống cái ghế đầu đặt ở góc tiệm, bắt đầu làm nhảm những chuyện không đầu không cuối. Hôm nay, từ sáng ngón chân cháu đã bị đau, ngón chân cháu mà đau như thế là thời tiết sẽ xấu lắm, thấy ban sáng trời có vẻ đẹp cháu đã tạm an tâm nhưng đến chiều quả nhiên không khí chùng hắn xuống, chú có thấy thế không, trên đường lên đây cháu thấy một cửa hàng có cái xô cắm hai ba cái ô đi mưa chẳng biết có phải để bán không nữa, hôm nọ hình như cháu có bỏ quên ô ở tiệm, tuy không có nó còn ở đây không nhưng không còn thì cháu cũng chẳng buồn đâu vì hẳn một lúc nào đó nó đã được đem ra dùng tức là có ích cho ai đó, lại nói đến chuyện còn mất, hai người ăn cơm mà còn một miếng trứng thì thật là khó xử phải không ạ, trứng rán ấy, chú có thích trứng rán không, cháu thì thích lắm… anh Yu Gon vừa luyên thuyên những chuyện mà người khác nghe hay không anh cũng chẳng quan tâm, vừa đặt cái máy tính bỏ túi cũ đã mòn bóng không lúc nào rời tay lên đầu gối, mân mân mê mê. Không dễ đoán anh Yu Gon tầm bao nhiêu tuổi. Anh nhìn trẻ mà lại toàn mặc áo quần cú mang phong cách xa xưa, tuy vận đồ cũ nhưng dáng vẻ bao giờ cũng gọn gàng, gọn gàng đấy song có những lúc anh cứ để mặc nước mũi trong trong thò lò chẳng buồn chùi, trông anh vừa ra dáng thông minh lại cũng vừa có vẻ ngốc nghếch, vừa vô ý lại vừa quá đỗi tinh ý. Một tuần anh Yu Gon ghé tiệm sửa chữa độ một hai lần. Theo những gì tôi nghe được từ chú Yeo, anh Yu Gon đã ra vào tiệm từ hồi còn thiếu niên, từ đó đến nay cỡ cũng phải hơn chục năm rồi, thế nên tôi chỉ có thể đoán anh ấy khoảng ba mươi, bốn mươi tuổi. Anh Yu Gon đi đâu cũng có một cọc xổ số buộc dây chun cất trong túi áo. Hễ có ai tỏ ý quan tâm tới cọc xổ số đó là anh liền bừng bừng giận dữ khua gõ cái máy tính bỏ túi, sau một hồi cần mẫn tính toán gì không rõ anh sẽ giơ máy tính ra cho người kia xem rồi giải thích rằng vì thế nọ nên sẽ thành thế kia nên tổ hợp số tuần này chắc chắn sẽ là thế này không sai vào đâu được. “Con người là giống không đáng kỳ vọng nhưng xổ số lại là thứ rất đáng.” Anh Yu Gon hay nói vậy, hoặc: “Có vỏn vẹn hai nghìn won mà lẽ nào ông chủ không cho cháu vay được sao?” Có lần anh Yu Gon được chú Yeo cho vay, nhưng cũng có lần anh nói hết chuyện nọ chuyện kia rồi ra về như không hề bận tâm chuyện tiền nong, nên tôi đoán có lẽ anh ghé tiệm không nhất thiết chỉ để vay tiền. Cũng có khi mấy tuần anh Yu Gon mới lại đến, mặt trắng bệch, ngồi im không nói một lời, cuối cùng bỏ về. ‘Anh Yu Gon đến đây làm gì thế chú nhỉ?’ Tôi hỏi. Chú Yeo đáp rằng vì anh ấy cô đơn. ‘Anh Yu Gon cô đơn ạ?’ ‘Cô đơn chứ.’ Trong số những khách buôn bán thiết bị âm thanh hay ghé tiệm cũng có người hỏi chú Yeo sao lại đưa tiền cho loại người như anh Yu Gon, nhưng càng những người nói vậy chú Yeo lại càng tỏ ý cảnh giác. ‘Tôi uống chút nước được không ạ?’ Anh Yu Gon hỏi lúc ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Đợi tôi cho phép rồi anh Yu Gon mới lặng lẽ đứng dậy khỏi ghế, thận trọng lách người tiến sâu vào trong tiệm, tránh không động vào góc cạnh của các máy móc. Sau khi chăm chăm nhìn cái giá gắn máy lọc nước nóng lạnh, lưỡng lự một lúc lâu, anh nhón một cái cốc giấy, lấy nước lạnh. Tiếp theo, anh như muốn pha thêm nước nóng nữa, nhưng muốn vậy lại phải bấm cái nút an toàn ở van vòi nước nóng, tức phải dùng cả hai tay. Có vẻ anh Yu Gon đang không biết làm sao với bàn tay cầm máy tính bỏ túi. Sau một hồi lúng ta lúng túng, anh Yu Gon kẹp cái máy tính vào cạnh sườn, rón rén giơ ngón tay ra bấm nút lấy nước nóng, cuối cùng chậm rãi uống nước. Dù biết nhìn chằm chằm là bất lịch sự nhưng tôi vẫn không thể rời mắt khỏi anh Yu Gon. ‘Chào chú.’ Mu Jae bước vào tiệm sửa chữa. Sau khi chào hỏi ngắn gọn chú Yeo, anh đặt hai cái biến áp đã sửa xong xuống nền nhà rồi ngay lập tức quay lưng đi ra ngoài. Cũng đã lâu không gặp lại Mu Jae sau bữa trưa “xoáy tóc, xoáy tóc” nên vô thức tôi cứ dõi theo anh. Thình lình Mu Jae quay lại vẫy tay với tôi. Tôi nhìn anh như muốn hỏi, vừa gọi tôi đấy à. Anh gật đầu. Đợi tôi ra khỏi tiệm, Mu Jae liền lôi từ túi tạp dề ra một vật tròn và sáng. Trong cái chậu cây tròn trịa đỏ như một quả hồng, vươn lên cặp mầm lá mũm mĩm. Là đồ nhựa được làm rất mượt nhìn không bị bóng chút nào. ‘Nếu gây ra tiếng động hoặc cất tiếng nói, Mu Jae vừa nói vừa chìa món đồ ra, ‘cái này, nó sẽ cử động đấy.’ Đôi mầm lá uốn cong như cặp lông mày ngay tức khắc nhún lên nhún xuống như để chứng minh cho lời Mu Jae. Tôi nhận lấy chậu cây mà Mu Jae nói đã nhìn thấy và mua trên đường đi làm về. Hôm nào gặp lại nhé, Mu Jae chào tạm biệt rồi đi xuống xưởng, còn tôi đứng nhìn mãi theo anh. Giấu chậu cây trong lòng bàn tay, tôi quay bước trở vào tiệm. Anh Yu Gon không biết từ bao giờ đã quay lại ngồi ở góc gần cửa ra vào, anh nhìn tôi hỏi. ‘Cô ốm đấy à?’ ‘Không ạ.’ ‘Mặt cô đỏ lắm.’ Có đỏ đâu ạ, tôi chống chế rồi đặt chậu cây lên nóc tủ đứng. Hai mầm lá đang siêng năng nhún nhảy. Đập vẩy (ddakji) là trò chơi truyền thống của Hàn Quốc, vẩy được gấp bằng giấy và ghép lại thành hình vuông dẹt. Khi chơi. Đặt vẩy của đối phương trên mặt đất và dùng hết sức ném vẩy của mình xuống sao cho vẩy của đối phương nẩy lên và lật sang mặt sau. (Mọi chú thích đều của người dịch) Miệng ăn miệng Tháng Tám, trời đổ mưa. Hầu như ngày nào cũng mưa. Mưa xối xả như trút, rồi tạnh, trời vừa thoáng hưng hửng ngay lập tức lại sầm sì, rồi lại mưa, lại trút rào rào rào rào, rồi mưa mảnh hạt dần, rả rích suốt đêm, thứ thời tiết thù hằn dai dẳng ấy cứ kéo dài mãi không dứt. Đắp chăn thì nặng người nên thỉnh thoảng tôi bật bếp sưởi để đó nằm ngủ. Sáng, đang mở tủ lạnh tôi phát hiện ra một chú ếch xanh. Suýt chút nữa tôi đã giẫm nát nó. Chú ếch nhỏ có ngón tay cái, xanh chuối trong suốt. Tôi bắt nó lên. Tôi vừa chọt chọt cái mỏng phính ra như quả tầm bóp thì ếch ta liền phòng nọng cằm kêu ộp một tiếng rồi xoay mình đối hướng trên lòng bàn tay tôi. Vốn cứ nghĩ ếch là động vật máu lạnh thì thân nhiệt cũng sẽ thấp, tôi rất ngạc nhiên khi chú ếch trên tay mình không lạnh chút nào. Những ngón chân của chú nhỏ xíu, mảnh và trong suốt, tách khỏi nhau một cách tinh tế. Lỡ giẫm phải thì không biết thế nào, tôi lấy làm sửng sốt với chính mình. Trên đường đi làm tôi đặt chú ếch lên nhành cỏ đuôi cáo mọc ở luống đất trồng hoa. Dưới sức nặng của chú ếch, phiến cỏ hơi cong xuống. Chú nhẹ nhàng dán mình lên lá cỏ rồi thình lình nhảy phắt vào trong bụi rậm, biến mất. Xuống xe buýt, tôi vừa đung đưa ô vừa băng ngang qua bãi đỗ xe của trung tâm thương mại. Trong lúc đợi thang máy, nhìn thấy một tờ giấy dán trên tường, tôi ngây người ra đọc. Tờ giấy ghi tiêu đề “Cuộc họp các chủ thuê mặt bằng để để đạt hướng giải quyết kế hoạch giải tỏa trung tâm thương mại điện tử” kèm thông báo ngày giờ và địa điểm cụ thể. Tôi đợi chú Yeo đến hỏi về việc giải tỏa, chú bảo rằng chuyện này đã có từ xưa rồi mà chưa bao giờ được triển khai cụ thể cả. Lần này chắc có việc gì cấp bách nên mới phải họp chăng, tuy nói vậy nhưng chú Yeo lại ra vẻ thong thả như thể vẫn còn xa xôi lắm. Thế nhưng, sau ngày họp lại có một tờ thông báo khác dán trên tường báo ngày họp mới, rồi còn có cả băng-rôn chăng ngang… khiến bầu không khí khá là chộn rộn. ‘Đi uống sake nhé?’ ‘Hôm nay là thứ Hai mà.’ ‘Thứ Hai thì làm sao nhỉ? Dạo này hay mưa nên lạnh bụng,’ nói rồi Mu Jae tiến lên trước. Tôi đi theo anh, đi uống rượu vào một ngày thứ Hai. Trên đường chúng tôi gặp anh Yu Gon. Anh Yu Gon đang ôm chặt một cái túi giấy đựng ổ cắm chuyền, đứng loay ha loay hoay tìm ô ở trước lối ra vào tòa nhà. Nhìn cách Mu Jae chào hỏi anh Yu Gon thì có vẻ thỉnh thoảng anh ấy cũng ghé qua xưởng chú Gong. ‘Tôi lạnh. Vì gấu quần tôi bị ướt.’ Nghe anh Yu Gon nói giọng thiểu não Mu Jae liền ép anh ấy đi uống rượu cùng. Chúng tôi vào ngồi trong một quán rượu gần bến xe buýt. Mu Jae và anh Yu Gon gọi sake, còn tôi gọi bia. Nhân viên phục vụ đem dưa chuột cùng salad rong biển ra làm đồ nhắm. Trong cốc sake của Mu Jae và anh Yu Gon lờ lững chiếc vây cá nóc đã nướng qua lửa. ‘Cái này là vây đuôi phải không nhỉ?’ ‘Hình như là đuôi đấy.’ ‘Nhìn như một con bướm đêm khổng lồ vậy.’ ‘Liên tưởng tới bướm đêm lại thấy cứ rờn rợn ấy nhỉ?’ ‘Quả cũng thể thật.’ Chúng tôi nhìn vào cốc sake, chuyện qua chuyện lại, rồi im lặng uống rượu suốt một lúc lâu. Mưa vẫn đang rơi. Tê chân, tôi nắm lấy cổ chân thì thấy da thịt mình lạnh ngắt. Dạo này tôi rất hay về nhà trong cảnh bị ướt cổ chân. Chú ếch ban sáng giờ thế nào nhỉ, tôi nghĩ. Liệu nó có vẫn an toàn trong luống hoa không. Dù gọi là luống hoa nhưng cũng chỉ be bé thôi, chưa biết chừng nó đã nhảy ra khỏi đó rồi. Ếch thì nào có biết đến ranh giới của luống hoa nên hẳn nó đã nhảy phốc đi chỗ khác, và lần này chưa biết chừng đã bị giẫm bẹp dưới chân ai đó. Nếu nó chết thì liệu tôi, cái kẻ đã chẳng suy tính trước sau mà đem bỏ nó vào luống hoa kia, có phải là người xấu không nhỉ? Giữa lúc nghĩ ngợi mông lung tôi đã uống hết nửa chỗ bia. Cửa sổ nhìn ra ngoài, mặt kính mờ hơi nước. Mu Jae lấy đầu ngón tay chà chà kính, ở bên kia mặt kính liền hiện lên những giọt nước mưa đọng. Từ phía nhà bếp đưa ra mùi rau xào xì dầu. Đặt chiếc máy tính bỏ túi không lúc nào rời tay xuống bên cốc rượu, anh Yu Gon chốc nắm lấy cốc chốc lại buông tay, rồi nhấp một ngụm rượu, anh lên tiếng. ‘Hai người biết mọt ẩm không?’ ‘Biết chứ.’ ‘Không phải rận gỗ đâu mà là mọt ẩm cơ.’ ‘Hai loài khác nhau à?’ ‘Khác chứ. Chúng là hai loài sinh vật hoàn toàn khác nhau,’ anh Yu Gon nói vậy rồi vẽ đi về lại một hình tròn lên mặt bàn. ‘Rận gỗ có thể cuộn mình lại tròn như thế này nhưng mọt ẩm thì không đâu. Phòng tôi ở có nhiều mọt ẩm lắm. Không biết chúng trốn ở đâu rồi thình lình chui ra, giờ nhìn chỗ nào cũng thấy. Tôi sẽ giết hết bọn mọt ẩm.’ Mu Jae bảo, ‘Mọt ẩm không hại gì lắm. Chúng cũng có hút máu người đâu.’ Anh Yu Gon nghiêm sắc mặt, chằm chằm nhìn Mu Jae. ‘Vấn đề nằm ở tiêu chuẩn đánh giá hại hay không hại. Theo tiêu chuẩn của tôi thì mọt ẩm đủ hại rồi. Trong từ điển cũng có nói đấy. Dù theo từ điển, cái sự gây hại của chúng chỉ dừng ở mức xúc phạm về mặt thẩm mỹ thôi. Mọt ẩm tuy rất nhỏ nhưng lại di chuyển nhanh nhờ có rất nhiều chân. Một loài sinh vật như thế nhỡ chui vào tai trong lúc tôi đang ngủ chẳng phải là chuyện rất kinh khủng hay sao?’ ‘Chúng hay chui vào tai anh à?’ Tôi vừa hỏi thì anh Yu Gon quay sang nhìn tôi chằm chằm, ‘Nhỡ đâu. Chuyện đó cũng có thể lắm chứ. Tôi không thể chịu đựng nổi. Mỗi lần nghĩ đến chuyện chúng chui vào tai mình ấy. Bởi vậy ai vào phòng tôi cũng bị cấm đụng tới quyển Kinh Thánh.’ ‘Kinh Thánh?’ ‘Tôi dùng nó để giết bọn mọt ẩm. Quyển Kinh Thánh có độ dày vừa phải, sẽ bay vừa khéo theo khoảng cách mình ngắm. Dù là tường hay trần nhà cũng không vấn đề. Chỉ cần mở ra thế này rồi ném là được.’ Vừa nói anh Yu Gon vừa xòe hai bàn tay trên mặt bàn như thể đang mở sách ra xem. ‘Việc này cứ lặp đi lặp lại khiến cả quyển Kinh Thánh lẫn tường nhà tôi đều nát tươm. Kinh Thánh nhiều trang nên không sao nhưng tường lại không được vậy, nên hằng tuần tôi đều phải dán lại tường.’ ‘Ra là vậy.’ ‘Cũng phiền phức không vừa đâu.’ Một nhóm người mặc Âu phục ồn ã đi vào quán rượu. Họ đứng ngoài cửa giũ ô, gập ô, bàn tán chỗ đằng này đẹp hơn chỗ đằng kia, huyên náo một hồi rồi mới ổn định vào chỗ. Lúc nhóm người toàn thân nồng mùi vải ẩm đó đi ngang qua, góc một chiếc túi xách may mũi đột rất chắc chắn đâm về phía tôi. Đương lúc tôi so một bên vai để tránh thì Mu Jae quay sang hỏi. ‘Eun Gyo, cái bóng dạo này thế nào?’ ‘Cái bóng à… Cũng không có gì đặc biệt, cũng không có dấu hiệu gì là sẽ lại sống dậy, cứ vậy thôi.’ Nghe tôi trả lời, Mu Jae liền dặn, ‘Dù nó có dấu hiệu sống dậy thì cũng đừng đi theo.’ ‘Tôi có đi theo đâu.’ Tôi nói, toan đưa cốc lên miệng thì bắt gặp ánh mắt anh Yu Gon đang trân trân nhìn mình. ‘Cái bóng của cô đã sống dậy à?’ ‘Vầng, tự dưng nó sống dậy.’ ‘Vậy ư? Của tôi thỉnh thoảng cũng thế,’ vừa nói anh Yu Gon vừa đẩy cái cốc hơi nhích về phía trước. Những tưởng anh Yu Gon muốn cụng ly, tôi đưa cốc mình ra chạm cốc anh, nhưng nghĩ lại thì hình như không hẳn vậy, vì anh ấy có vẻ giật mình. Anh Yu Gon hơi nhíu mày, mân mê cái cốc rồi kéo về như muốn giấu kín trong lòng bàn tay. ‘Nhưng mà,’ anh Yu Gon nói. ‘Hai người nghĩ rằng mọt ẩm thực sự không cắn sao, chúng có miệng mà, lẽ nào lại không cắn. Sở hữu một cái miệng chắc chắn là có ý nghĩa để cắn thứ gì đó.’ ‘Đó là hồi tôi mười hai tuổi. Cha tôi mất. Do bị vật nặng đè. Ông đang làm việc ở công trường xây dựng một khu chung cư thì bị cục đối trọng trên cần cẩu tháp từ độ cao ba mươi mét rơi xuống đè trúng người. Vì quá ư hiển nhiên là ông đã chết, nên cục đối trọng bị bỏ nguyên ở vị trí đó suốt ba tiếng liền. Trước khi nhìn thấy thi thể cha tôi, mẹ tôi khăng khăng phủ nhận, một mực không tin, rốt cuộc đã xuống công trường để tận mắt chứng kiến hình ảnh cuối cùng của chồng mình. Tôi ngồi cạnh cô tôi đã mặc sẵn tang phục. Tuy hồi đó còn nhỏ nhưng đến giờ tôi vẫn nhớ như in mọi chi tiết tỉ mỉ về lễ tang. Sàn căn phòng rộng rãi là nơi tổ chức tang lễ lạnh đến ngỡ ngàng lúc tôi đặt chân lên; mẹ tôi, đang ngồi bình thản đến kỳ dị sau khi trở về lễ tang, bỗng túm lấy vạt áo tôi nói điều gì đó; vạt áo tôi lặng lẽ mặc tay mẹ giằng kéo; giọt mồ hôi nho nhỏ đọng trên cổ mẹ lúc bà cúi người về phía tôi; mùi hạnh nhân cháy phả ra từ bộ tang phục mẹ tôi mặc; một bên ngực mẹ lộ ra do dây buộc cố định váy bị tuột; và câu nói của mẹ tôi, Kia không phải cha con đâu, những kẻ căm ghét mẹ đã giấu ông ấy đi rồi tráo con lợn vào bảo nó là cha con đấy, khiến trong đầu tôi ngay lập tức hiện lên hình ảnh một con lợn đang nằm trên giường kim loại lạnh ngắt… những chi tiết kiểu như vậy. ‘Cái giường sắt mòn bóng sau bao lần sượt qua những xác người bọc vải, cái giường tôi chưa từng nhìn thấy. Đến bây giờ tôi vẫn lấy làm khó hiểu, tại sao đường nét và cảm giác về một thứ mình chưa bao giờ tận mắt nhìn lại có thể hiển hiện trong tâm trí rõ rệt đến thế. ‘Đã có rất nhiều khách đến viếng. Các tín đồ Cơ đốc giáo lui tới liên tục. Tôi còn nhớ, bài cầu nguyện họ ngâm cho người đã khuất, lúc nghe như luân khúc lúc lại nghe như tiếng niệm Phật. Ngày làm lễ nhập quan, mọi người cầm nến đi vào trong phòng cha tôi nằm. Cha tôi đã được mặc áo vải gai, tay chân mặt mũi cũng đã được buộc tròn lại bằng vải gai. Vì quá đông người nên tôi không thể từ đằng sau chen vào bên trong được. Tôi không tài nào nhận ra trong số những người đang đứng chắn trước mặt mình có ai đã từng quen biết cha tôi hồi còn sống. Hầu hết đều là những gương mặt xa lạ, tới mức tôi trộm nghĩ có lẽ giữa những người hăm hở xông vào trong kia chắc không ít người đứng đó thuần chỉ vì muốn được truyền chút cảm hứng từ thi thể bất hạnh của cha tôi. Từ chỗ đứng tôi chỉ nhìn được khuôn mặt nghiêng của mẹ qua khe cánh tay một bà cô mặc áo khoác đen nồng mùi mồ hôi. Được họ hàng dìu đỡ, mẹ tôi đứng nắm chặt cây nến bằng cả hai tay, cây nến nghiêng quá đỗi đến nỗi tôi cứ phải chăm chăm dõi theo, sợ rằng lửa sẽ rớt vào quan tài gỗ cha nằm, dù chuyện đó thật khó lòng xảy ra. ‘Sau lễ tang, mẹ tôi lưu lại bệnh viện một thời gian rồi mới về nhà, cõng theo cái bóng trên lưng. Cái bóng đã khá lớn rồi nên sậm màu đến khó tả. Mẹ tôi và cái bóng dính chặt lấy nhau đến độ không còn phân biệt nổi là cái bóng đang bám vào mẹ tôi hay mẹ tôi đang bám vào cái bóng nữa. Hồi đó, cô tôi có đến nhà tôi ở ít lâu để săn sóc hai mẹ con tôi. Cô tôi và tôi, hai cô cháu đã cố thử đủ mọi cách, lấy chổi quét lưng mẹ, la hét, rồi vãi đậu đỏ, nhưng cũng chẳng ích gì. Cái bóng kêu, Sợ quá, sợ quá, song trong giọng nó không nghe ra chút sợ hãi nào. Mẹ tôi chẳng tắm rửa cũng chẳng ăn uống tử tế, chỉ im lìm nằm lì trong phòng cùng cái bóng. ‘Một ngày nọ, cô tôi và tôi dọn nhà, những mong làm vậy có thể phần nào giúp vực dậy tâm trạng của cả nhà. Tôi phát hiện ra một cái hộp bằng kim loại to cỡ hộp đựng cơm ở trong góc tủ lạnh. Cái hộp lạnh buốt, không biết đã nằm đó bao lâu rồi. Tôi mở nắp hộp, thấy bên trong có mấy cây son. Những cây son màu cam, đỏ, hồng không chỉ đọng hơi nước mà còn phủ một màng mỏng trông như mốc, vì đã để quá lâu. Tôi đem cái hộp cho cô tôi xem, cô bảo vứt đi nên tôi cũng chẳng suy nghĩ gì nhiều, cứ thế vứt nó ra khỏi nhà. Ngày hôm sau, cả tôi lẫn cô đều quên luôn rằng từng tồn tại một cái hộp như thể. ‘Đến một ngày nọ, mẹ tôi sai mang cái hộp đó tới. Ban đầu, hai cô cháu tôi hoang mang không hiểu cái hộp đó là hộp nào. Nghe mẹ tôi giải thích một đôi câu, chúng tôi liền nhận ra đó chính là cái hộp đã bị vứt đi. Mẹ tôi hỏi ai vứt, tôi trả lời là mình vứt. “Mang về đây,” mẹ tôi nói, và từ ấy bà chỉ lặp lại đúng một câu đó. Dù cô tôi có nói đỡ rằng chính cô đã sai tôi vứt cái hộp đi, nhưng mẹ tôi vẫn không rời mắt khỏi tôi một khắc. Cõng cái bóng trên lưng, mắt sáng rực, mẹ tôi ra lệnh, “Mang về đây.” ‘“Mang về đây,” mẹ tôi nói, “Mang về đây,” cái bóng của mẹ tôi nói. “Mang về đây,” cái bóng của mẹ tôi nói. “Mang về đây,” mẹ tôi nói. “Mang về đây, Mang về đây,” giữa lúc cái bóng và mẹ tôi thay phiên nói, giọng mẹ yếu dần đến mức không nghe rõ nữa. ‘Giờ chỉ còn mình cái bóng, sau khi ngóc lên một khối tròn tròn tựa cái đầu gần chỗ vai phải mẹ tôi, liên tục nói, “Mang về đây, Mang về đây, Mang về đây.” Một lỗ hổng, chắc là cái miệng, lõm vào giữa khối tròn tròn đen ngòm ấy, hết mở ra lại đóng vào, nói, “Mang về đây, Mang về đây, Mang về đây,” rồi đột ngột nó bắt đầu cất tiếng khác. Đó không còn là lời nói có nghĩa nữa mà chỉ là những tiếng ma vi hay ma ve đơ được phát âm theo một kiểu kỳ lạ như thể cái bóng chỉ có mục đích phát ra âm thanh mà thôi. Cái hộp vứt từ mấy hôm trước thì đã mất từ mấy hôm trước rồi làm sao mang về được nữa, cô tôi cầu xin, tôi cầu xin, rốt cuộc cả hai cô cháu tôi rạp người xuống cùng cầu xin, nhưng sự tha thứ vẫn chẳng đến với chúng tôi. Từ sàn nhà, tôi ngước lên nhìn mẹ tôi và cái bóng của bà. Lúc ấy, cái bóng đã khom mình, phủ kín người mẹ tôi đen kịt, còn mẹ tôi như không biết hay cũng chẳng quan tâm, mặc kệ cái bóng, chỉ thỉnh thoảng mở miệng ma về đơ nhại lại theo nó. Tôi đã nhìn thấy cái miệng ấy. Cái miệng yếu ớt, cái miệng bị cái bóng nuốt chửng, tôi đã nhìn thấy cái miệng ấy của mẹ tôi, hé ra khép vào, hoàn toàn không hay lưỡi bên trong đã bị cái bóng thì thụt nhuộm cho đen thui. Tôi không biết mình đã dõi nhìn cái miệng ấy bao lâu. Cái bóng kìa, nghe tiếng cô gọi tôi quay đầu lại và thấy. Phần chóp cái bóng của tôi duỗi dài về phía lối vào nhà, đã từ sàn nhà ngóc lên và đang phơ phất tựa mép giấy gập. ‘Đó là lần đầu tiên cái bóng của tôi sống dậy.’ Lúc anh Yu Gon nói vậy, ở sâu trong quán, nhóm người nọ bắt đầu đập bàn. Một người trong nhóm năm người đứng dậy, ừng ực uống bia từ cốc vại. Nút thắt cà vạt nới lồng buông tới tận cúc áo thứ ba, sức nặng của cốc bia khiến cổ tay anh ta gồ rõ những đường gân. Tay trái ấn bụng, anh ta uống một hơi hết cốc bia. Các bạn đồng hành của anh ta, bằng năm nắm tay hay tám nắm tay gì đó, đập bàn dồn dập dần, cho đến tận khi anh ta đặt cái cốc còn đọng chút bia xuống mặt bàn. Mu Jae, anh Yu Gon và tôi lặng thinh dõi mắt về phía nhóm khách. Đám nhân viên đứng tì khuỷu tay lên quầy, nhìn họ với vẻ ngán ngẩm. ‘Tôi phải đi đây.’ Chúng tôi quay lại, thấy anh Yu Gon đã đứng dậy từ khi nào và đang ôm khư khư cái túi giấy. ‘Anh uống thêm chút nữa rồi hẵng đi.’ Mu Jae cản, nhưng anh Yu Gon từ chối, bảo, ‘Nhắc đến chuyện đó khiến nơi này như chật ních những cái bóng ấy,’ rồi rời khỏi quán rượu. Anh Yu Gon từ chối mượn ô, cứ thế lao vào màn mưa. Tiễn anh ấy đi rồi Mu Jae và tôi ngồi nán thêm một lúc lâu. Trong cốc rượu anh Yu Gon bỏ lại, đọng mẩu vây cá nóc ướt nhẹp. Mu Jae lấy cớ rượu nguội bị tanh, chừa lại một chút rượu trong cốc. Mưa bây giờ rơi mảnh đến nỗi phải đứng gần cột đèn đường mới nhìn rõ. Dưới mái hiên, mỗi người chúng tôi mở ô riêng của mình rồi đi về phía ga tàu điện. Dường như bây giờ mới ngấm men say, tôi vừa gượng cánh tay đã mềm oặt cố cầm ô cho chắc vừa đỏ bừng mặt bước đi trên con đường ướt nước. Đón ánh đèn đường cùng ánh điện từ những cửa hàng mở khuya, bóng chúng tôi trải dài. Bóng tôi và bóng ô thoáng chồng lên nhau, nhưng đậm nhạt có chút khác nhau. Hóa ra cả trong đêm cái bóng cũng chẳng biến mất, vừa đi vừa nghĩ, mắt tôi dán xuống bàn chân mình. Mu Jae hỏi tôi đang nghĩ gì mà đăm chiêu ‘Cũng không có gì,’ tôi đáp. ‘Tôi chỉ đang hơi oải, vì muốn làm gì đó hay hay mà chẳng nghĩ ra gì cả.’ ‘Vậy mình ra đằng kia ngồi tạm một lúc đi.’ Tôi nhìn theo hướng tay Mu Jae chỉ, thấy một cái chòi nghỉ dưới giàn tử đằng trước một tòa nhà lớn, có lẽ là chỗ nghỉ cho nhân viên tòa nhà. ‘Chắc ghế ướt cả rồi, liệu có ngồi được không?’ Tôi hỏi. Đang thầm nghĩ “hơn nữa ngồi đó có gì vui” thì nghe tiếng Mu Jae gọi, anh đã kịp chạy lại chỗ cái chòi xem xét một lượt băng ghế dài. ‘Bên này không sao!’ Tôi ngồi xuống theo chỉ dẫn của Mu Jae, cảm thấy chỗ mình ngồi cũng không ướt lắm. Mu Jae ngồi cạnh tôi, chừa ra một khoảng ở giữa. Dưới giàn tử đằng, hai chúng tôi giương ô che, ngồi sánh vai nhau. Những cánh hoa tử đằng ướt nhẹp rải khắp sàn lát đá đọng nước. Chốc chốc, từ giàn tử đằng tựa mái vòm của chòi nghỉ, lại có hạt mưa nhỏ xuống ô. Ngồi dưới tán ô lắng nghe tiếng mưa rỏ lộp độp, thú vị hay không thì không rõ, nhưng cảm giác uể oải chẳng mấy chốc như dịu hẳn. ‘Hát một bài nhé?’ Mu Jae gợi ý. Eun Gyo thích bài gì?’ ‘Tôi thích bài “Thất giáp sơn”.’ ‘Tôi không hát được bài đó.’ ‘Anh Mu Jae không biết bài “Thất giáp sơn” à?’ ‘Tôi biết nhưng không hát được.’ ‘Tại sao?’ ‘Từ đoạn “nương đậu” tôi đã nghẹn cả cổ lại rồi.’ ‘Nghẹn cổ?’ ‘Bài hát kể về một cô gái đang nhổ cỏ nương đậu, cô khóc ướt đẫm cả tay áo, vừa nhổ cỏ cô vừa gieo vào mỗi gốc đậu một hạt nước mắt, rồi bỏ lại mẹ già trên đỉnh núi chỉ vang vọng tiếng chim kêu, cô đi lấy chồng…’ ‘Ra là vậy.’ Chúng tôi lặng thinh ngẩng đầu ngắm trời đêm. Những chiếc ô tô bật đèn pha lướt qua, rọi vàng những dải mưa. ‘Nghe nói, nếu đem luộc lá cây tử đằng,’ Mu Jae bỗng cất tiếng, ‘rồi uống nước luộc đó thì vợ chồng gương vỡ sẽ lại lành đấy.’ ‘Vậy ư?’ ‘Khi nào gương vỡ, chúng mình luộc lá tử đằng lên uống nhé?’ Sửng sốt trước câu Mu Jae nói, tôi lúng búng, ‘Tôi với anh có phải vợ chồng gì đâu chứ?’ Lọt thỏm trong tán ô, Mu Jae cười toe. ‘Hừm,’ tôi húng hắng ho. ‘Lành vỡ như nào tôi không biết, nhưng anh Mu Jae này, ngồi thế này thật thích, ấm bụng nữa.’ ‘Ừ.’ ‘Tự dưng thích thật đấy.’ Vừa nói tôi vừa ngồi ngước nhìn trời đêm. Từ hôm đó suốt mấy tuần liền tôi không gặp riêng Mu Jae lần nào. Độ quãng cuối mùa mưa, máy móc đổ về tiệm sửa chữa nhiều hơn. Trong vô vàn loại máy hỏng hóc hiếm có cái nào hư biến áp nên tôi cũng chẳng có việc gì cần xuống xưởng chú Gong. Mu Jae có mấy lần lên tiệm sửa chữa, nhưng hình như xưởng bên đó cũng bận nên anh thường chỉ làm xong việc rồi vội vàng xuống ngay. Thi thoảng tình cờ đi qua, tôi ngó vào xưởng thì chỉ thấy mình chú Gong đang cuốn dây đồng hoặc hút thuốc, còn Mu Jae vắng bóng. Tôi bị cảm rồi. Một hôm, anh Yu Gon tìm tới tiệm, thông báo vậy rồi kể lể hết chuyện nọ đến chuyện kia. Trước khi ra về anh đưa cho tôi năm thanh sô cô la, bảo thay cho tiền rượu hôm trước. Mất điện Nối tiếp mùa mưa là kỳ nắng nóng. Trời xanh vút tầm mắt, mây trắng và dày, nhìn rất thích, nhưng ngày cũng như đêm, nóng nực không tả nổi. Chỉ cần đi dưới nắng một lát thôi mồ hôi đã túa ra nhễ nhại và sau khi trán ráo mồ hôi thì lưu lại một cảm giác thật khó chịu. Chủ nhật, định bụng đi hóng gió, lâu lắm tôi mới lại leo lên xe đạp. Tôi đạp xuôi xuống bờ kênh rồi đổi hướng vòng sang khu nhà bố tôi ở. Đang thả lỏng chân chậm rãi nhấn pê đan, tôi thình lình dồn sức guồng chân đạp. Sau khi đạp qua đoạn đường dài ba bến xe buýt, tôi đã tới nhà bố. Tường bao quanh nhà mới bị đổ, chưa được xây lại khiến sân nhà bề bộn phơi ra. Tôi khóa xe vào đường ống nước, tra chìa khóa mở cửa vào nhà. Con về rồi, tôi chào nhưng không thấy động tĩnh gì nên đoán chắc bố vắng nhà. Có lẽ bố đã đi đâu đó với bộ đồ câu. Tôi mở hết cửa ra vào cùng cửa sổ rồi bắt tay dọn dẹp, dù trong nhà cũng chẳng mấy bừa bộn. Cửa sổ nhà bố mở ra hướng Nam nên sàn nhà được chiếu sáng rõ. Tôi đưa chổi quét, đám bụi cuộn xoáy vẩn lên. Ngửi thấy mùi nước sông, tôi mở cửa buồng tắm thì thấy bên trong để ba cái chậu cao su to. Cả ba đều đựng đầy cá. Một chậu cá chép, một chậu chạch, chậu còn lại, trông thoáng hơn hẳn hai chậu nhung nhúc kia, lững lờ mấy con cá nheo. Cảnh này tôi đã thấy nhiều từ hồi nhỏ nên cũng chẳng lạ lẫm gì. Tôi ngồi xổm, chăm chú nhòm ba cái chậu. Vài con cá chép ở giữa chậu đã ngửa mình phô bụng bạc, nổi lềnh phềnh trên mặt nước. Gần đó, một con cá chép mình nhỏ nằm dính trên mặt sàn lát gạch men. Bị phơi trần ra không khí, vảy và mắt nó đã khô coong. Tôi hơi nhích chân vì tê, vừa va phải cái chậu đựng chạch thì mặt nước liền sủi lên sùng sục. Tôi ngồi yên nhìn một lúc rồi thọc tay vào chậu chạch. Nước trong chậu nhơn nhớt. Tuy không hay tỏ thái độ ra mặt nhưng tôi ghét cay ghét đắng việc bố để cá sống ở trong buồng tắm như thế này. Thật khó mà lẳng lặng chịu đựng cho nổi, cái cách cả căn nhà nồng mùi tanh tưởi từ đám cá cứ ba bốn ngày bố lại bắt mang về, cái cách lòng bàn tay tôi dính đầy vảy cá khi nắm vòi nước hay rờ tới bồn rửa mặt, cái cách tôi đang ngồi bồn cầu tiểu tiện thì đập ngay vào mắt mấy cái vảy cá dính dưới sàn gạch men, cái cách hễ tôi tắt điện đặt người nằm xuống là nghe vọng lại tiếng cá mú bì bõm thoi thóp. “Bố, bố, bố tính để chỗ cá này cho ai ăn?” Tôi từng ba bốn bận hỏi bố như vậy, còn bố, dù cũng có lần thoáng tỏ vẻ khó chịu, chỉ nghe để đấy chứ tuyệt nhiên không trả lời. Tôi đã lớn lên dưới tay ông bố ấy. Ông bố tuy cần mẫn chuẩn bị cơm hộp cho con nhưng thức ăn kèm theo luôn chỉ là củ cải muối vàng - sự dưỡng dục từ một ông bố có thể cho là vô tâm mà cũng có thể coi là bản tính khô khan. Giữa hai bố con chúng tôi không có nhiều những cuộc chuyện trò đáng nhớ. Hồi tôi còn nhỏ, hễ đến dịp lễ tết họ hàng tụ tập, các cô các bác lại cực lực giục bố tôi tái hôn, nhưng bố thường né tránh, vẻ như phiền toái lắm, nên mãi chẳng có tiến triển gì. Mẹ tôi thì đã bỏ nhà đi từ hồi tôi còn bé tí nên tôi cũng không biết gì nhiều về mẹ. Tất cả những gì tôi biết đều nhờ bập bõm nghe chuyện các cô bác bàn tán, chuyện mẹ tôi là gái tiếp viên quán nhậu, chuyện cả nhà đều ngỡ ngàng khi bỗng một ngày bố thình lình đưa mẹ về ra mắt, chuyện sau đó bố mẹ tôi sống chung với nhau mà không cưới xin gì, chuyện mẹ tôi rất xinh, rất trẻ, ngực rất nở nên cuối cùng, như tất cả mọi người lo ngại, đã bỏ nhà trốn theo tình nhân. Tôi hầu như không có một ký ức nào của chính mình về mẹ. Những hình dung có thể được coi là ký ức thì đều rất mơ hồ. Cảm giác lưu lại ở bàn tay tôi từng đôi ba lần nắm gấu váy vải bông in họa tiết sặc sỡ, mùi kẹo cao su, cánh tay mảnh mai kéo tay tôi thật mạnh lên xe buýt, có lẽ tôi vẫn hằng nghĩ những hình dung ấy là ký ức về mẹ. Khi bỏ nhà đi, mẹ tôi đã đổ sạch cái hộp các tông đựng phấn trang điểm rồi cất vào đó một nắm dây buộc tóc. Những sợi dây chun gắn quả dâu, củ cà rốt, quả dưa hấu, hoa tím bằng nhựa, giờ tôi đã làm mất cả chẳng còn lại cái nào. Quét tước xong, tôi đang định đóng cửa thì phát hiện có con gì đen đen nằm ở cầu thang. Là con ve. Một con ve bụng bự với một đầu cánh bị rách. Chết chưa nhỉ, tôi mới chạm vào nó định nhìn cho rõ thì con ve liền nhỏm cái đầu cùng phần ức bè bè dậy như muốn thách thức tôi thử chọc vào nó xem. Qua người quen của người quen của người quen, chính bố đã hỏi tìm giúp tôi việc làm ở tiệm sửa chữa của chú Yeo. Tôi bỏ học năm mười bảy tuổi. Vì bị bạn học bắt nạt. Tôi đã chịu đựng đủ trò, cả những trò khó có thể được định nghĩa đơn giản chỉ là “trò trẻ con”. Tôi cứ nghĩ rồi sẽ đến ngày bọn bắt nạt tôi sẽ tự chán ngấy và thấy phiền toái thôi, cho đến một hôm chạm mặt một con bé cùng khóa trên đường đến trường. Nó đi ngược chiều với tôi. Vốn nó là đứa lắm trò quá quắt nhất trong cái hội bắt nạt nên tôi thầm nghĩ chắc chắn nó sẽ lại kiếm chuyện với mình. Tôi căng thẳng ngẩng đầu bước tới, nhưng từ phía đối diện, con bé đó lại cúi đầu như thể xấu hổ mà lướt qua tôi. Tôi đi tiếp, nghĩ chắc hôm đó nó không có hứng, nhưng hôm sau nó lại hùa vào với nhóm kia bắt nạt tôi hết mình, nhìn con bé đó như vậy tôi cảm giác có thứ gì đó rã rời sụp đổ. Ngay cả việc tôi điềm tĩnh chịu đựng sự bắt nạt vô lý này cũng trở nên thật vô nghĩa. Và không còn muốn gắng gượng tồn tại trong một bầy đàn thêm nữa, tôi đeo cặp rời khỏi trường. Lũ ngốc, lũ ngốc, tôi vừa nghĩ vậy vừa đi bộ về tận nhà, rồi đến tối tôi vẫn cứ nghĩ, Lũ ngốc, Lũ ngốc. Kể từ hôm đó tôi không quay lại trường nữa. Thấy tôi đã đến giờ đi học mà vẫn ở nhà, bố cũng chẳng hỏi một lời. Những ngày như vậy kéo dài, được một tháng thì chính tôi mới là người hết chịu nổi sự im lặng và thông báo mình sẽ bỏ học, bố tôi cũng chỉ đáp, ừ, rồi thôi. Tôi nói mình muốn thử kiếm việc làm bố tôi cũng chỉ đáp, “Ừ,” rồi thôi. Tôi kể mình mới tìm được một căn phòng cho thuê gần đây và đã chuyển hết đồ đạc đến đó, lúc tôi đứng trước cửa nhà chào, Con đi đây, bố tôi cũng chỉ đáp, “Ừ,” rồi thôi. Từ xa vọng tới tiếng ve đồng thanh kêu ve ve, con ve phía cầu thang cũng ngay lập tức cất tiếng e e kêu theo. Tôi lấy bí ngô trong tủ lạnh ra xắt nhỏ nấu canh. Đem bí ngô được xắt qua loa xào với dầu, cho thêm tôm muối, nêm nếm gia vị rồi đổ nước vào nồi. Tôi áng chừng lượng nước vừa đủ một nồi canh ăn được ba bốn bữa, đợi canh sôi tôi múc riêng một bát cho mình. Bày tỏi ướp xì dầu cùng kim chỉ cạnh bát canh, tôi ngồi ăn cơm với canh bí ngô, một mình, không có bố trong chính ngôi nhà của bố. Tôi hướng mắt nhìn ra ngoài qua khung cửa sổ mở toang. Một người phụ nữ luống tuổi đầu chít khăn đang kéo chiếc xe tay chất đầy thùng đựng nước lên con dốc dẫn tới suối nước khoáng. Từ nơi cao và xa nào đó bầy ve đang kêu râm ran. Từ phía cầu thang cũng vọng lại tiếng e e. Như không còn sức kêu cho đúng điệu, con ve e e đứt quãng thêm dăm ba bận rồi im bặt. Rửa bát xong tôi bước ra khỏi nhà, thấy con ve đã nằm ngửa bụng lên trời. ‘Con đi đây, tôi nói rồi đóng cửa.’ Chú Park, chủ một tiệm sửa chữa có quy mô tương đương tiệm chú Yeo nằm bên tòa A, ghé thăm tiệm chúng tôi. Chú Park giơ hai bộ ăm li đèn điện tử chân không ra khỏi xe kéo, phân trần rằng đã xem xét mấy ngày rồi vẫn chưa sửa được nên nhờ chú Yeo giúp đỡ. Trong lúc chú Park với chú Yeo vừa nghiên cứu bộ ăm li vừa bàn bạc, tôi mang chiếc ghế ọp ẹp ra mời bạn đồng hành của chú Park ngồi. Đó là một ông cụ ăn vận chỉnh tề và lịch thiệp. Ông không hề để bụng chiếc ghế úi xùi, ngay ngắn ngồi xuống, chăm chú theo dõi hai “kỹ sư” làm việc. Chú Yeo gác bộ ăm li sang một bên, quay qua hỏi chú Park về chuyện giải tỏa tòa A. Dường như bên tòa A đã bắt đầu đồn ra đồn vào vài phương án cụ thể. Nghe đâu ban quản lý dự án đã đề nghị cấp chi phí di dời cho cả những chủ kinh doanh thuê mặt bằng không có giấy phép đăng ký kinh doanh, và trong trường hợp các chủ kinh doanh đồng ý chuyển sang một khu chợ tạm sắp xây dựng xong thì sau này sẽ được tạo điều kiện buôn bán làm ăn mà chỉ cần nộp mỗi phí quản lý. Nghe qua thì bùi tai đấy nhưng giờ ngay đến mấy ông chủ cũng còn đang tò mò không biết khu chợ tạm được hứa hẹn kia nằm ở đâu, chú Yeo tỏ ý hoài nghi mà nói vậy. Thế ông có định chuyển sang cái khu chợ tạm đó không? Chú Yeo hỏi chú Park. Chú Park đáp rằng mình có định chuyển. ‘Ở đó thì có gì chứ?’ ‘Thì cũng chưa có gì.’ ‘Chưa có gì thì ông chuyển qua đó làm gì?’ ‘Chắc rồi sẽ khá hơn chứ.’ Giữa lúc hai chú chuyện trò qua lại, ông cụ đi cùng chú Park chúi người về phía tôi hỏi. ‘Cô có thấy bà cụ khi nãy đứng ngoài kia không?’ ‘Vừa có một bà cụ đứng ngoài kia ư?’ tôi nghi hoặc, trả lời mình chẳng thấy ai cả. Nghe vậy chú Park liền quay sang phía chúng tôi nói, ‘Mẹ đang ở nhà mà bố.’ Rồi chứ giới thiệu ông cụ đi cùng mình với chú Yeo, lúc ấy đang hết sức ngạc nhiên. Bố tôi đấy, quá nửa cái bóng của ông cụ mới ngóc dậy ở đâu đó cách đây không lâu, kể từ đó ông cụ ăn nói cư xử khác thường lắm, khiến tôi không dám để cụ ở nhà một mình, đành dắt theo đi khắp nơi thế này, hy vọng ra ngoài sẽ giúp cụ lấy lại sinh khí, đỡ bị cái bóng ám. Nghe chú Park giải thích thế tôi mới để ý thấy riêng phần bóng quanh chân ông cụ nhạt màu bất thường. Lúc chú Yeo chào, ông cụ vẫn mỉm cười chào lại lịch thiệp không tỏ chút gì khác lạ, nhưng chỉ một lát sau ông cụ đã dáo dác nhìn quanh rồi bỏ ra ngoài khiến chú Park phải chạy theo nắm tay dắt vào. Mẹ đang ở nhà mà bố, chú Park nói. Không, ta không tìm bà ấy mà đang tìm cái bóng của ta, ông cụ đáp nhưng vẫn đi theo chú Park vào trong và lại ngồi ngay ngắn xuống ghế, như đã hoàn toàn quên rằng vừa mới đây mình còn định đi đâu. Chú Park và chú Yeo quay lại đàm đạo về bộ ăm li. Thỉnh thoảng mắt tôi lại chạm mắt bố chú Park. Hễ bốn mắt chạm nhau ông cụ lại hỏi tôi chuyện gì đó. Như về thời tiết hôm qua hay về một bộ ăm li cổ mà ông cụ rất quý, rồi đang yên lành, chốc chốc ông cụ lại tìm cụ bà “vừa lúc nãy còn ở đây”, mỗi lần như thế chú Park lại nói, “Mẹ đang ở nhà mà bố.” Ông cụ nắm tay chú Park, người con trai đã tuổi trung niên, ngoan ngoãn rời khỏi tiệm sửa chữa. Chúng tôi tiễn hai bố con họ tới tận lối ra vào tòa nhà. ‘Khi nào đến lượt tòa B giải tỏa mình có dọn sang chợ tạm không ạ?’ Tôi hỏi. Chú Yeo lắc đầu. ‘Muốn sang đó cũng phải có tiền mới sang được.’ ‘Thế mình đi đâu hả chứ?’ ‘Tòa C,’ chú Yeo đáp. ‘Bên đó liệu còn chỗ không?’ ‘Tòa B mình đã trống hoác trống huơ thế này thì tòa C còn thế nào nữa, bên đó trống quá kể cũng đáng ngại nhưng đã làm ăn ở đây ngót nghét ba mươi năm rồi đâu thể dọn đi nơi khác được,’ chú Yeo gãi đầu đáp. Hôm đó, trên đường xuống tầng một tôi gặp Mu Jae. Nghe tiếng gọi, tôi quay sang thì thấy Mu Jae đang đứng bên kia bãi đỗ xe. Tay ôm một túi đồ trông nằng nặng, hình như anh đang bận việc gì đó. Mu Jae ngó trái ngó phải rồi băng qua bãi đỗ xe tiến tới chỗ tôi. ‘Lâu rồi không gặp.’ ‘Ừ.’ ‘Tôi gọi điện cho Eun Gyo được không?’ ‘Được, anh gọi nhé.’ ‘Vậy cho tôi số điện thoại đi.’ Tôi toan viết số điện thoại cho Mu Jae thì phát hiện ra cả hai chúng tôi đều chẳng cầm theo thứ gì có thể dùng để viết. Tôi đọc số điện thoại hai lần rồi hỏi Mu Jae liệu có nhớ nổi không. ‘Nhớ được chứ. Tôi sẽ gọi điện đấy,’ Mu Jae nói rồi đi. Tôi nhìn theo dáng lưng anh mãi một lúc lâu. Kể từ hôm đó đã mấy ngày trôi qua mà chẳng có điện thoại gọi tới. ‘Rồi, vậy khỏi đi,’ tôi một mình sưng sỉa. Tôi đang rửa cốc thì mất điện. Đèn đóm bỗng nhiên tối thui. Tủ lạnh phát ra tiếng mô tơ quay rù rù vô vọng rồi cũng xịt ngóm. Tịch mịch. Muốn trước tiên bỏ tạm cái cốc đang cầm trên tay xuống, tôi đặt nó vào vị trí tự ước lượng là giá đỡ. Nhưng có lẽ tôi đã tính sai, cái cốc rơi xuống đất, vỡ đánh choang một tiếng chói tai. Suốt một lúc, tôi đứng đông cứng ngươi. Chắc chắn các mảnh thủy tinh đã bắn tung tóe khắp sàn, nhưng tối quá không nhìn thấy gì nên tôi chẳng biết phải di chuyển theo hướng nào. Nghĩ hay là thử bật bếp ga lên xem sao, tôi bật bếp, nhưng thật khó mà soi rõ sàn nhà bằng lửa bếp ga. Nhà có nến ở đâu không nhỉ, tôi nghĩ, song chợt nhớ ra mình chưa bao giờ bỏ tiền mua mấy thứ nến niếc gì, rốt cuộc đành ngậm ngùi tắt bếp. Tôi cầm một mảnh giẻ vừa lau đằng trước chân vừa nhích từng chút một. Bắp chân tôi đau nhói. Cố chịu cơn đau, tôi nhích dần lên và dừng lại lúc tới ngưỡng cửa phòng ngủ. Tôi sấp người, tì trán lên bậu cửa. Tôi không muốn động cựa thêm nữa. Mép ngoài bàn chân tôi buốt nhói như bị mảnh thủy tinh găm vào, bắp chân cũng chẳng khá hơn. Cảm giác có máu đang chảy, tôi thử áp lòng bàn tay vào chỗ đau, quả nhiên một chất dấp dính vừa như máu lại vừa như mồ hôi đang lan ra. Tôi nhấn lòng bàn tay lên chỗ đau buốt. Tôi không nhúc nhích, cũng không tài nào ngẩng đầu lên được. Vì cảm giác lưng hẫng hẳn đi khi vừa bị thương vừa quỳ sấp người trong bóng tối, và như thể cái bóng của tôi đang sống dậy. Tôi thấy sợ. Vì ý nghĩ chưa biết chừng cái bóng của mình đã sống dậy từ nãy rồi và đang đứng lẫn vào bóng tối trong một xó xỉnh nào đó. Và bởi thế, hình như bóng tối đang càng lúc càng tăm tối hơn. Một nỗi niềm gì như phẫn nộ “đến một cây nến cũng không mua phòng hờ thì còn sống mà làm gì” trào lên rồi lắng xuống, một nơi nào đó khó xác định trong tôi bỗng râm ran đến khó chịu, khiến tôi bật khóc tức tưởi, nín khóc rồi lại càng sầu não hơn. Tôi gí mũi xuống bậu cửa, vừa chằm chằm nhìn một vết mờ mà tôi đoán là vân gỗ vừa ngửi mùi bậu cửa nửa ẩm nửa khô. Chẳng thà, tôi nghĩ. Chẳng thà mình biến quách thành một cái gì tối tăm, vì một thứ tối tăm thì đã tối sẵn rồi, và vì đã tối sẵn rồi mình sẽ chẳng còn sợ bóng tối nữa, không phải thế ư, trở thành một thứ tối tăm đáng thương thì sẽ thế nào nhỉ, thứ tối tăm đáng thương đó sẽ là gì nhỉ, gọi nó là gì được nhỉ, ôi chẳng biết nữa, chẳng biết nữa, hãy trở nên tối tăm đến không còn biết gì nữa đi thôi, đã đến nước này rồi, tôi đang mở mắt mông lung nghĩ ngợi thì điện thoại đổ chuông. Tôi di chuyển theo hướng chuông reo. Quờ quạng cái giá thấp tè, tôi lôi điện thoại ra, trong lúc mò mẫm đã nhỡ tay làm rơi thứ gì nho nhỏ từ trên kệ xuống đất. Vẫn cúi sấp người, tôi nghe điện thoại, là Mu Jae. Eun Gyo, Mu Jae cất tiếng gọi tên tôi bằng một giọng khàn khàn rồi bật ho. ‘Ở đằng ấy cũng mất điện à?’ ‘Ừ.’ ‘Ở đây cũng tối lắm,’ tôi trả lời rồi nín thinh. ‘Eun Gyo,’ Mu Jae gọi. ‘Sao lại khóc thế?’ ‘Có khóc đâu.’ ‘Có khóc mà.’ ‘Kệ tôi.’ ‘Sợ à?’ ‘Vâng.’ ‘Ngốc.’ ‘Tôi không ngốc.’ ‘Ngốc,’ Mu Jae nói rồi thở dài. ‘Anh Mu Jae,’ tôi gọi. ‘Ừ,’ Mu Jae đáp. ‘Đừng cúp máy.’ ‘Tôi không cúp máy đâu.’ ‘Bảo tôi ngốc cũng được nhưng đừng cúp máy.’ Tôi nói, rồi ghé sát tai lắng nghe âm thanh vọng lại từ Mu Jae ở phía bên kia đầu dây. ‘Hát một bài nhé?’ ‘Anh hát đi.’ ‘Hát bài gì nhỉ?’ ‘“Dấu giày”.’ ‘Eun Gyo, bài đó như thế nào nhỉ?’ ‘Dấu giày trên tuyết trắng.’ ‘Dấu giày nối bước chân cún con. Là ai, là ai mới sớm tinh mơ đã xa rời.’ ‘Không được rồi.’ ‘Sao vậy?’ ‘Tôi lại nghẹn cổ rồi.’ ‘Bài này anh cũng nghẹn cổ sao?’ ‘Thì bài hát kể người ra đi vào sớm tinh mơ mà chỉ có mình cún con đi tiễn, cũng chỉ để lại mỗi dấu giày.’ ‘Vậy thì thôi.’ ‘Eun Gyo không thấy thế à?’ ‘Để người ta hát gần hết cả bài rồi.’ ‘Tôi sẽ hát bài khác.’ ‘Thế anh kể chuyện đi.’ ‘Chuyện gì nhỉ?’ ‘Chuyện thiếu niên Mu Jae.’ ‘Lần trước đã kể đến đâu rồi?’ ‘Đến đoạn bố thiếu niên Mu Jae chết, sau đó như thế nào?’ ‘Có một thiếu niên.’ ‘Ừ.’ ‘Tên cậu thiếu niên ấy là Mu Jae,’ Mu Jae nói rồi im lặng mãi một lúc. ‘Thôi, không kể nữa nhé.’ ‘Tại sao?’ ‘Kể chuyện ấy giữa đêm hôm thế này rùng rợn quá.’ ‘Chuyện ấy thì có gì rùng rợn nhỉ?’ ‘Vì đấy là chuyện về một cậu thiếu niên, sau khi bố mất và để lại một đống nợ nần, đã phải vừa lớn lên từng ngày vừa còng lưng trả nợ.’ ‘Vậy ư?’ ‘Để trả nợ cậu ấy lại mắc nợ, để trả lãi từ món nợ này cậu ấy lại mắc vào một món nợ khác, cậu ấy phải toàn tâm toàn lực trả nợ, giữa bao nợ nần cậu ấy lại nợ thêm phí sinh hoạt cứ ngày một phình to, cứ mãi như vậy. Eun Gyo kể chuyện gì đi. Một chuyện mà không rùng rợn đến mức kia ấy,’ Mu Jae nói. ‘… Vậy tôi kể chuyện Omusa nhé.’ ‘Omusa?’ ‘Anh Mu Jae không biết Omusa à?’ ‘Không.’ ‘Omusa là cửa hàng bán bóng đèn của một cụ ông. Nói bóng đèn nhưng không phải bóng đèn tròn mình thường sử dụng đâu, mà là mấy cái bóng nhỏ xíu bán hai mươi won, năm mươi won hay một trăm won để lắp vào các thiết bị điện tử cơ ấy. Mua bóng đèn ở Omusa bao giờ cũng sẽ được thêm một bóng. Mua mười bóng được mười một bóng, mua bốn mươi bóng được bốn mươi mốt bóng, mua năm mươi bóng được năm mươi mốt bóng, mua một trăm bóng được một trăm linh một bóng, mỗi lần mua đều được cho dôi ra một bóng.’ ‘Là do ông cụ bán hàng đếm nhầm à?’ ‘Ban đầu tôi cũng tưởng vậy, nhưng lần nào mua cũng thấy được cho dư bóng đèn, dù chỉ dư đúng một cái thôi, nên tôi nghĩ chắc không phải ngẫu nhiên đâu. Một hôm tôi đã đánh bạo hỏi. Nghe tôi hỏi, ông cụ chủ tiệm đang đếm bóng đèn liền dừng tay ngẩng lên nhìn tôi chằm chằm. Tôi căng thẳng tưởng mình đã hỏi gì thất thố, nhưng để ý kỹ mới nhận ra ông cụ đang hơi nhích miệng. Như thể đang gắng sức lắm để cất tiếng vậy. Mãi sau ông cụ mới nói, rằng trên đường mua bóng đèn mang về hàng có thể bị vỡ, hoặc bị thiếu, mà tiệm Omusa lại nằm ở chỗ xa xôi nên ông bỏ thêm một bóng để khách hàng không phải đi đi lại lại vất vả. Nghe ông cụ nói vậy, thế nào nhỉ, tôi đã cảm động theo một cách rất đỗi thuần khiết ấy, tại vì, anh Mu Jae biết không, bình thường vẫn hay có kiểu khuyến mãi mua một tặng một mà. Ở mấy cái siêu thị lớn ấy, anh Mu Jae đã mua hàng kiểu đó bao giờ chưa?’ ‘Cũng thỉnh thoảng.’ ‘Khi mua một món đồ mà được tặng thêm một món y chang ta dễ nảy sinh cảm giác mình được lợi, nhưng có bao giờ ta nghĩ điều đó là sự chu đáo hay quan tâm đâu.’ ‘Đúng thế thật nhỉ.’ ‘Ở Omusa, tuy chỉ được tặng thêm một cái bóng đèn nhỏ xíu chẳng đáng tiền nhưng cảm giác như rất được trân quý, nên tôi thích lắm.’ ‘Ra thế.’ … … ‘Anh Mu Jae.’ ‘Ừ.’ … … ‘Giờ anh kể chuyện cho tôi nghe đi.’ ‘Chi bằng để tôi hát một bài.’ ‘Hát cũng được.’ ‘Dấu giày trên tuyết trắng… Dấu giày trên con đường núi đơn côi…’ Vừa mới đây còn bảo nghẹn cổ không hát nổi mà giờ Mu Jae đã hát trọn cả bài. Thậm chí cả khi tôi yêu cầu hát thêm lần nữa, anh cũng không từ chối, vẫn trầm ấm cất tiếng ca… trên tuyết trắng… Omusa Tôi từng có lần lạc ngay giữa trung tâm thương mại khi chạy việc vặt cho chú Yeo. Trong vô thức tôi đã đi nhầm từ tòa B sang tòa A. Dù đã qua lại khu này lâu năm nhưng chỉ toàn đi những đường hay đi nên tôi hoàn toàn lạc lối giữa các tòa nhà vừa giống lại vừa khác nhau một cách quá đỗi tinh tế. Tôi leo lên tận tầng ba mươi để xác định lại phương hướng. Đứng trên sân thượng hóng gió, tôi cúi nhìn. Năm tòa nhà, bắt đầu từ tòa A rồi đến các tòa B, C, D, E kéo dài về phía con sông trung tâm thành phố. Trông tựa năm cỗ xe khách khổng lồ, không bánh xe, đang lê bụng nối nhau đi thì chợt đỗ khựng lại ở đó. Trừ tòa A cao nhất, các tòa khác đều chỉ có tám tầng. Trước nay tôi mới chỉ chạy việc cho chú Yeo đến tòa C, chưa từng đi tới các tòa sau. Tôi áp sát người vào rào chắn, nhìn xuống sân thượng tòa B. Một người đàn ông mặc chiếc quần rão lụng thụng đang vừa hút thuốc vừa từ sân thượng bên đó nhìn xuống thành phố. Tôi ước lượng đại khái vị trí rồi phóng mắt tìm, nhưng thật khó mà xác định được nơi mình cần đến chỉ qua lời chỉ dẫn chung chung của chú Yeo. Tôi bất lực quay lại tòa B nhờ chú Yeo vẽ cho cái bản đồ. Chú Yeo dặn tôi dù bị lạc ở đâu, lạc kiểu gì cũng đừng đi sang tòa A mà phải xuống tầng một. Nhìn bản đồ chú Yeo vẽ bằng những đường cong mơ hồ lên mặt sau tờ giấy nhớ, tôi đã tìm được đến nơi. Nơi tôi tìm đến chính là Omusa. Omusa là một tiệm bán bóng đèn. Omusa không phải nơi có thể tình cờ phát hiện khi đi lướt qua, Omusa chỉ có thể đến khi biết rõ rằng có một cửa tiệm như vậy tồn tại ở một nơi như vậy. Cùng tôi làm chuyến đi tới Omusa nhé. Dù bạn đi bằng tàu điện hay xe buýt, cũng hãy xuống ở bến đối diện rạp chiếu phim giữa trung tâm thành phố. Sau đó đi bộ về phía khu trung tâm thương mại bán các mặt hàng điện tử nằm cách đó khoảng một trăm mét, băng qua dãy các quầy hàng bày bán thằn lằn khô; đồng hồ báo thức, thắt lưng giả da, đồ cao su, pin, giày, mũ… đến góc phía Bắc tòa A. Len qua các quầy đèn điện có gương tựa vào các cột chống ngoài trời, vòng sang bên phải đi vào tầng một tòa nhà được dùng làm bãi đỗ xe, bạn sẽ bắt gặp những cụ ông cụ bà lấy thùng giấy thay bình phong quây thành những khoảng không gian hình tam giác vuông ở giữa cầu thang và nền đất. Ở đó có một bà cụ tóc bạc trắng cắt ngắn ngang vai, trừ những khi trời mưa, lúc nào cũng ngồi cách “nhà” mình độ hai mét nhìn ra ngoài đường lớn như thể đang chờ đợi ai. Một lần nọ, trên đường đi qua tôi thấy một người qua đường tới chìa cho bà cụ một ổ bánh mì. Bà cụ nhìn chằm chằm ổ bánh mì người ấy chìa ra, với vẻ hết sức sửng sốt bà nhận lấy ổ bánh, kẹp vào giữa ngực và đầu gối, rồi lại đưa mắt nhìn ra đường lớn. Đi qua nhà bà cụ; tiếp tục bước theo con đường giữa bên phải là bãi đỗ xe, bên trái là những quầy đèn điện và dụng cụ, tới khi xuất hiện con ngõ đầu tiên, bạn hãy đảo chân đi vào trong ngõ, tại đây bạn sẽ gặp một dì bán hàng mặt lạnh tanh đang hấp dồi lợn. Chỉ đặt đúng một cái thùng phuy chẳng cần đồ đoàn gì đặc biệt, dì đã bán hàng ở đó suốt hai mươi năm trời. Bước tiếp, bạn sẽ đi qua những người đàn ông đang gà gật sau khi bày biện vào trong tủ kính nào đồng hồ quả quýt, đồng hồ báo thức cổ; đồng hồ đeo tay cũ, thìa đũa bạc xỉn mầu; những ki ốt nhỏ bán thuốc lá, nước giải khát và trứng luộc; những tiệm sửa chữa radio đời cũ cùng những hàng bán linh kiện… hàng nào cũng như tiệm nào, chật chội đến nỗi không thể kê thêm dù chỉ một cái bàn. Bước vào con ngõ đâm xuyên qua dãy hàng quán, hay đúng hơn chỉ là một cái ngách tối thui, tin hin tựa khoảng phân cách giữa hai tòa nhà, bạn sẽ thấy bên tay phải một quán ăn xập xệ không biển không bàn ghế, chỉ chuyên giao cơm trưa với duy nhất một thực đơn là cơm trắng với canh và đồ ăn kèm, đối diện quán ăn đó chính là Omusa. Tối om và lụp xụp như thể suốt từ những năm bảy mươi vẫn chưa từng một lần xây sửa. Tuy là tiệm bán bóng đèn nhưng soi sáng cả căn tiệm chỉ có độc một dây bóng đèn tròn ánh xanh vàng treo tường. Sin sít. Nếu soạn một cuốn từ điển bằng tranh thì minh họa cho từ “sin sít” chắc chắn sẽ là quang cảnh trong tiệm Omusa. Chính thế, sin sít. Sin sít đến độ sau khi nghĩ ra từ “sin sít” bạn không còn có thể nạy ra bất cứ từ nào khác để miêu tả khung cảnh trước mắt. Hiện lên giữa khung cảnh ấy là ông cụ chủ tiệm tuổi đã vào độ cổ lai hy, mái tóc dày bạc phơ. Ông cụ ngồi trên ghế đẩu, trước mặt kê chiếc bàn gỗ, sau lưng là giá cất bóng đèn lèn chặt kín những hộp các tông to bằng viên gạch xây tường. Ngồi dưới bóng đèn tròn tỏa ra thứ ánh sáng tù mù, ông cụ lúc nào cũng chăm chú nhìn cái gì đó và đắm chìm trong suy nghĩ, phải đến khi có khách đến hỏi mua bóng đèn, ông mới lặng lẽ đẩy ghế đứng dậy, không đáp một lời. Không vội vàng cũng không lưỡng lự, ông cụ run rẩy đi tới một điểm xác định trên giá, lôi ra một hộp, tựa như rút một viên gạch, giữa vô vàn những hộp các tông hay giấy bồi, không hộp nào mới hơn hộp nào. Đem cái hộp ra đặt lên mặt bàn, ông cụ mở nắp hộp đã mềm oặt để đó rồi đi đến một giá khác, lấy một túi ni lông to cỡ lòng bàn tay đem về bàn. Sau đó ông cụ thong thả mở hết cỡ miệng túi và bóp sao cho tròn, xong xuôi thì thò tay phải vào hộp bốc một vốc bóng đèn bé bằng móng tay rồi thả từng bóng từng bóng vào cái túi đang há miệng chờ trên tay trái. Trông chẳng khác nào mớm mồi cho bầy chim nhạn non - một so sánh thú vị tôi từng hóng được một hôm nào đó, trong lúc đứng giữa hàng khách đợi đến lượt mình. Vì ở Omusa thời gian chỉ trôi theo nhịp độ riêng của ông cụ chủ tiệm nên dẫu có bận việc thì sau khi hối hả cuốc bộ đến tận Omusa và yêu cầu bán cho mình loại bóng này bóng kia, các vị khách vẫn thường đứng ngẩn ngoài cửa tiệm mà ngó vào trong hoặc vừa bóc trứng luộc ăn ở ki ốt gần đó vừa đợi tới lượt nhận hàng rồi ra về. Tuy chậm chạp nhưng ông cụ chủ tiệm Omusa tập trung trong từng động tác, mỗi động tác lại thấm đẫm phẩm cách, nên khách hàng dù sốt ruột đến đâu cũng không thể giục giã hay hối thúc. Cũng có vài người cực kỳ nóng vội buông lời phàn nàn, nhưng chưa một ai từng bỏ Omusa sang tiệm khác. Vì những giá bóng đèn ở Omusa đã được tích lại từ lâu nên ở đây có mọi loại bóng không thể tìm được ở bất cứ nơi nào khác. Nếu nhìn kỹ bạn sẽ thấy có những hộp được đánh dấu bút bi nhỏ xíu, nhưng những hộp không dấu má gì còn nhiều hơn gấp bội, và chỉ mình chủ nhân của chúng biết rõ có gì ở đâu. Thực sự, dù bạn có yêu cầu loại bóng đèn nào thì ông cụ chủ tiệm Omusa, tuy chậm chạp thật đấy, cũng sẽ không lạc lối mà đến thẳng giá lấy ra đúng loại bóng bạn cần. Nếu ông cụ chết đi thì những bóng đèn kia sẽ thế nào? Nếu không còn ông cụ nữa thì ai sẽ biết được ở đâu cất những gì? Phải chăng tất cả những điều cổ quý đều sẽ bị coi là cũ kỹ lỗi thời mà vứt bỏ? Rời Omusa trở về tôi thường trở nên u sầu vì những suy nghĩ như vậy. Trong số những người năng lui tới tiệm sửa chữa cũng có vài người hay nói những lời tương tự về tiệm và chú Yeo, mỗi lần nghe được những lời ấy tôi lại ngẫm nghĩ về lịch sử tiệm mình. Một ngày nọ tôi tìm đến Omusa mua bóng đèn thì không thấy ông cụ chủ tiệm cũng chẳng thấy những giá cất bóng đèn đâu. Trống không, chỉ còn bức tường tối om ở lại. “Ra vậy, ông cụ mất rồi.” Tôi nghĩ. Tôi quay về tiệm sửa chữa báo tin cho chú Yeo, suốt một lúc thật lâu gương mặt chú lộ vẻ rối bời. Chúng tôi không thể sửa và phải trả lại những đơn hàng cần những loại bóng đèn này đã không còn mua được. Đúng lúc ấy những đơn hàng như thế lại ùn ùn đổ về tiệm. Lạ thật, có những người mà khi họ còn ta chưa biết quý, chỉ đến khi mất đi ta mới nhận ra họ quan trọng đến nhường nào, thật đáng tiếc, thỉnh thoảng tôi và chú Yeo lại bảo nhau như vậy. Tôi trở lại tìm Omusa vào quãng qua hè chớm thu. Trong số những người thường xuyên tới tiệm sửa chữa có một chú họ Kwak. Trạc tuổi chú Yeo lại cùng có thú chơi thiết bị âm thanh, chú Kwak từ lâu đã hay qua lại tiệm. Chú Kwak vốn là lính cứu hỏa, sau khi về hưu chú bảo chẳng còn chốn nào khiến mình cảm thấy gắn bó, và cũng kể từ đó chú bắt đầu năng lui tới tiệm sửa chữa của chú Yeo. Ông xem hộ tôi cái này với, chú Kwak chui vào trong tiệm, cầm theo một bộ ăm li cũ của Đức. Cái thứ cũ rích này còn xem xét gì nữa, nói vậy song chú Yeo vẫn thụp người xuống ngồi xổm cạnh chú Kwak, vừa hút thuốc vừa ngắm nghía bộ ăm li. ‘Nó làm sao?’ ‘Bên trái bị tịt tiếng rồi.’ ‘Sao ông lại thịt nó vậy?’ ‘Nào biết tôi đã thịt hay làm gì nó, chỉ biết là nó xuất âm tệ hẳn đi.’ ‘Nó vốn cứng lắm mà nhỉ?’ ‘Hôm trước nó bị sét đánh trúng còn gì. Tôi đoán là từ hôm đó.’ ‘Ông thông minh đấy.’ ‘Thì tôi thông minh mà.’ ‘Biết rồi.’ ‘Tôi để nó cho ông đấy.’ ‘Để tôi thư thư mấy bữa.’ ‘Đèn tín hiệu cũng hỏng rồi, thay luôn cho tôi nhé.’ ‘Lấy đâu ra đèn mà thay?’ ‘Tôi mua đem đến rồi đây.’ Nói rồi chú Kwak lục túi lôi ra cái túi ni lông quen thuộc. Ông kiếm đâu ra thứ bóng hiếm có khó tìm này thế? Đáp lại câu hỏi của chú Yeo, chú Kwak bảo trên đường đến đây đã ghé Omusa mua. Chú Yeo và tôi sửng sốt ngó chú Kwak trân trân. Hoàn toàn không để ý đến vẻ ngạc nhiên của hai chú cháu tôi, chú Kwak chìa cái túi ni lông đựng bóng đèn tiệm Omusa ra. ‘Ông cụ chuyển đi rồi mà.’ Tôi tìm đến nơi chú Kwak chỉ thì quả có Omusa ở đó. Trong con ngách lùi sâu hơn một chút so với vị trí ban đầu. Ngoại trừ đã lắp bóng đèn huỳnh quang tử tế và trần nhà cao hơn so với trước đây thì Omusa vẫn vậy, vẫn tách biệt, vẫn treo tấm biển nhỏ viết chữ Omusa bằng bút lông và vẫn sin sít một cách khó diễn tả nên lời. Ông cụ chủ tiệm vẫn ngồi trên ghế đẩu sau bàn gỗ, quay lưng lại giá cất bóng đèn. ‘Bán cho cháu hai mươi bóng cầu chì.’ Tôi vừa dứt lời ông cụ liền từ tốn đẩy ghế đứng dậy. Và tôi đợi. Ngay trước khi đông về, người ta ra quyết định giải tỏa tòa đầu tiên trong năm tòa nhà của trung tâm thương mại. Lễ khởi công diễn ra vào thứ Hai. Đến dự là những nhà báo cùng quan chức nhà nước mà tôi mới chỉ thỉnh thoảng thấy trên mặt báo hay ti vi. Dàn xe tải quấn băng-rôn nhìn như đeo yếm đỗ cạnh sảnh lễ chờ tới lượt. Mỗi băng-rôn được cố định ngay chính giữa đầu xe bằng hai sợi dây thừng dày cộm. Tôi chằm chằm nhìn những tấm băng-rôn in cụt lủn hai chữ “Chúc Mừng”. Quan khách tham dự đứng một lúc ở phía sau rồi rời chỗ, di chuyển vào thang máy đi lên tòa B. Ngày hôm sau, trên đường đi làm tôi ghé qua sạp báo thì thấy báo nào báo nấy đều giật tít với những cụm từ na ná nhau kiểu “giải tỏa trung tâm thương mại bán đồ điện tử” hay “lùi vào dĩ vãng”. Tờ báo đặt giao tới tiệm sửa chữa cũng chẳng khác gì. Chú Yeo trải tờ báo lên thùng loa vẫn dùng làm bàn mỗi khi ăn cơm, rồi vừa húp canh vừa dọn đống chén đĩa đựng thức ăn sang một bên, chú chăm chú đọc báo. Tôi hỏi tại sao bên tòa A đồng ý giải tỏa nhanh thế thì chú Yeo đáp rằng do bên đó kinh doanh manh mún quá. Tại một tòa nhà mà quyền kinh doanh gần như đã không còn, các chủ kinh doanh chỉ lo kiếm bữa nay không biết đến bữa mai, cũng chẳng còn khoản phí quyền lợi nào để trông chờ thì hiển nhiên họ sẽ thấy khoản tiền hỗ trợ di dời đó là một món lớn và nhanh chóng nhận tiền mà dọn đi thôi, chú Yeo giải thích. Dù mới chỉ có mình tòa A sắp bị giải tỏa nhưng báo nào báo nấy đều giật tít theo cùng một khuôn, khẳng định chắc nịch như thể toàn bộ trung tâm thương mại sắp bị san bằng và xóa sổ nay mai. Chú Yeo bảo họ làm vậy chính là để sớm thủ tiêu quyền kinh doanh ở các tòa còn lại, dễ dàng mưu đồ các bước tiếp theo. Gặp kẻ sắp chết không những không