🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Số Vấn Đề Về Cách Mạng Và Đổi Mới
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
TS. ĐỖ QUANG DŨNG
Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ
ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH
ThS. HOÀNG NGỌC ĐIỆP
NGUYỄN THỊ KIM THOA
ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ
Trình bày bìa: ĐƯỜNG HỒNG MAI
Chế bản vi tính: PHẠM THU HÀ
Đọc sách mẫu: HOÀNG NGỌC ĐIỆP
NGUYỄN THỊ KIM THOA
BÍCH LIỄU
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1812-2021/CXBIPH/6-18/CTQG Số quyết định xuất bản: 338-QĐ/NXBCTQG, ngày 25/5/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 5 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6838-9.
5
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã chỉ rõ công cuộc đổi mới là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
qua những năm đổi mới đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Trong suốt quá trình đổi mới, chúng ta phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới... Đây cũng chính là những điều kiện tiên quyết để tiếp tục đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững.
Nhằm cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, trao đổi, thảo luận những vấn đề về lý luận đổi mới nêu trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Một số vấn đề về cách mạng và đổi mới của GS.TS. Tạ Ngọc Tấn.
6 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
Cuốn sách tập hợp các bài viết, nghiên cứu chuyên sâu của tác giả về cách mạng và đổi mới, chia thành 4 phần:
Phần thứ nhất: Về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Phần thứ hai: Công cuộc đổi mới: Cách mạng và sáng tạo; Phần thứ ba: Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; Phần thứ tư: Về những vấn đề quốc tế và đối ngoại.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 10 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
7
Phần thứ nhất
VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
8 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
9
“TẠI SAO MÁC ĐÚNG?”
HAY LÀ SỰ KHẲNG ĐỊNH:
“CHỦ NGHĨA MÁC DỨT KHOÁT ĐÚNG!”*
Cuốn sách Tại sao Mác đúng? của tác giả Terry Eagleton - giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Lancaster, Vương quốc Anh viết và được Alex Callinices, Philip Carperter, Ellen Meiksins Wood - là những giáo sư chính trị của Anh, Mỹ đọc và góp ý. Cuốn sách đã được Trường Đại học Tổng hợp Yale, một trường đại học danh tiếng của Mỹ lựa chọn xuất bản đầu năm 2011. Đây là một cuốn sách gây nhiều chú ý của công luận. Ngay sau khi xuất bản, cuốn sách đã nhận được nhiều bình luận, phê bình, nhận xét, đánh giá của giới học giả và báo chí trên thế giới, nhưng tựu trung có hai quan điểm khác nhau. Những người phê bình cuốn sách cho rằng nội dung cuốn sách “thiếu sự chính xác mang tính logic, sử dụng nhiều mỹ từ hay đầy tham vọng về tri thức” (báo Người quan sát, ngày 29/5/2011). Còn bài bình luận đăng trên báo Guardian, ngày 21/5/2011 cho rằng cuốn sách đã “né tránh sự phê phán kinh tế chính trị”. Trong khi đó, rất nhiều người ủng hộ Terry Eagleton lại hết lời ca ngợi cuốn sách. Tờ Financial Times ra ngày 27/5/2011 cho rằng, tác giả cuốn sách xứng đáng là ứng viên giải Nobel Kinh tế vì đã “làm sống lại C. Mác” và khẳng định rằng, “cách tiếp cận của _______________
* Lời giới thiệu cho lần xuất bản thứ nhất bản tiếng Việt tác phẩm Tại sao Mác đúng? của Terry Eagleton, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2012.
10 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
C. Mác là cách xem xét tốt nhất đối với chủ nghĩa tư bản”. Bài bình luận của tạp chí Socialist Review số ra tháng 6/2011 viết: “Cuốn sách này rõ ràng nhằm tới những người lần đầu tiên tiếp cận sâu những tư tưởng của Mác... Nhưng cuốn sách nhỏ này giúp trang bị cho những người xã hội chủ nghĩa thế hệ mới những tư
tưởng cần thiết để giành thắng lợi trong trận chiến sắp tới”. Một bài bình luận đăng trên www.socialistalternative.org viết: “Cuốn sách ra đời rất đúng lúc khi người ta đang phê phán chủ nghĩa Mác là “lạc hậu” và “không phù hợp”, không thể gắn nó với những vấn đề kinh tế và chính trị đương đại. Terry Eagleton đã đưa ra sự điều chỉnh rất cần thiết cho quan điểm thiếu hiểu biết này”...
Cho dù là phê phán hay ủng hộ nhưng với số lượng lớn những bài bình luận, nhận xét, phân tích, đánh giá, xuất hiện gần như cùng một lúc trên các phương tiện truyền thông đại chúng về tác phẩm Tại sao Mác đúng? của Terry Eagleton cũng cho thấy một sự thực rằng: Cuốn sách có sức hấp dẫn lớn đến mức nào!
Điều quan trọng là qua nội dung cuốn sách, Terry Eagleton thể hiện rõ quan điểm của mình là: Ông không chấp nhận định kiến cho rằng chủ nghĩa Mác đã chết và không cần phải nhắc đến nữa. Ông khẳng định Mác là người đầu tiên nhận biết được đối tượng lịch sử được biết đến là chủ nghĩa tư bản, chứng minh nó xuất hiện như thế nào, hoạt động theo quy luật nào và có thể
đi đến chỗ kết thúc ra sao. Chủ nghĩa Mác từ khi ra đời và trong quá trình phát triển của nó luôn là sự phê phán quyết liệt nhất về mặt lý luận, phong phú nhất về mặt thực tiễn, không khoan nhượng nhất về mặt chính trị đối với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Chính vì thế mà Mác cũng nhận được nhiều sự ca ngợi và đồng thời là nhiều sự phê phán, chống đối. Tác giả cuốn
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 11
sách đã lựa chọn 10 vấn đề - sự phê phán phổ biến nhất đối với Mác để phân tích, lý giải, đưa ra những minh chứng vững vàng nhằm phản bác và đi đến khẳng định sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác. Những vấn đề được tác giả lựa chọn`để phản bác đã cơ bản phản ánh đầy đủ các bình diện xã hội lịch sử của chủ nghĩa Mác, đã đặt chủ nghĩa Mác dưới nhiều góc nhìn, lát cắt khác nhau để luận giải và trả lời câu hỏi: Tại sao Mác đúng? Có
thể khái quát nội dung phản bác 10 vấn đề đó như sau: Vấn đề thứ nhất: “Chủ nghĩa Mác đã kết thúc, nó được coi là phù hợp trong thế kỷ XIX, không ăn nhập gì với xã hội phương Tây hậu hiện đại ngày càng không còn giai cấp và dễ dàng biến đổi về mặt xã hội như ngày nay...”. Ở vấn đề này, Terry Eagleton khái quát rằng, hầu hết những phê phán đối với chủ nghĩa Mác đều tuyên bố là hệ thống tư bản chủ nghĩa thay đổi nhiều đến mức không còn nhận biết được so với hệ thống tư bản chủ nghĩa thời C. Mác nghiên cứu, nên tư tưởng của C. Mác không còn phù hợp. Những phê phán đối với C. Mác che đậy căn nguyên sâu xa rằng, chính chủ nghĩa Mác là sự phê phán chủ nghĩa tư bản một cách sâu sắc, toàn diện và khắt khe nhất; đó là sự phê phán duy nhất làm thay đổi bộ phận lớn của thế giới, thậm chí thay đổi cả thế giới. Những người phê phán C. Mác cố tình phớt lờ một điều rõ ràng là C. Mác luôn ý thức được bản chất không ngừng vận động của cái hệ thống tư bản chủ nghĩa mà ông phản bác. Chính nhờ C. Mác mà loài người mới có được những khái niệm về các hình thái lịch sử khác nhau đã song hành hoặc kế tục nhau tồn tại của tư bản: tư bản thương mại, tư bản nông nghiệp, tư bản công nghiệp, tư bản độc quyền, tư bản tài chính, đế quốc,... C. Mác còn nhìn thấy trước được cái mà giờ đây chúng ta gọi là “toàn cầu hóa”. Tác giả đã dẫn số liệu phong phú để chứng minh cho
12 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
sự chuyển đổi từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp, trong đó bao gồm chủ nghĩa tiêu dùng, truyền thông, công nghệ thông tin và các ngành dịch vụ. Ông còn chứng minh rõ ràng rằng sức khỏe của chủ nghĩa tư bản đang suy nhược do cạnh tranh quốc tế gia tăng khiến tỷ lệ lợi nhuận giảm sút, vắt kiệt nguồn đầu tư, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, khủng hoảng kinh tế kéo dài, nền dân chủ xã hội trở
thành một sự lựa chọn chính trị cực đoan và đắt đỏ. Terry Eagleton cho rằng, nguyên nhân gây mất niềm tin vào chủ nghĩa Mác chính là sự cảm nhận dần dần về căn bệnh bất lực chính trị từ phía những người theo chủ nghĩa Mác chứ không phải từ bản thân hệ thống tư bản chủ nghĩa. Trên thực tế, trật tự xã hội tư bản chủ nghĩa ngày càng cực đoan và tàn nhẫn. Tư bản bị tập trung nhiều hơn vào trong tay một số ít người và ngày càng mang tính cướp đoạt chủng tộc. Ngày càng lan rộng tình trạng ngu si văn hoá, nguy cơ đẩy loài người vào cuộc chiến tranh hủy diệt, thậm chí có thể quét sạch loài người ra khỏi trái đất với kho vũ khí hạt nhân khổng lồ. C. Mác đã từng nhận xét rằng, giới hạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản chính là tư bản, mà quá trình tái sản xuất không ngừng của tư bản là ranh giới mà chủ nghĩa tư bản không thể vượt qua. Từ những luận giải trên, Terry Eagleton khẳng định rằng, sự phê phán của C. Mác đối với hệ thống tư bản chủ nghĩa đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Cũng giống với quan điểm này, tác giả Fredric Jameson trong cuốn sách Hệ tư tưởng của học thuyết, xuất bản năm 2008 ở London từng viết: “Chủ nghĩa Mác dứt khoát đúng!”.
Vấn đề thứ hai: “Chủ nghĩa Mác có thể rất đúng đắn về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, khi đi vào thực tiễn thì kết quả lại là khủng bố, độc tài và giết người hàng loạt...
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 13
Chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với thiếu tự do, nó còn đồng nghĩa với thiếu hàng hóa, bởi vì đây chắc chắn là hậu quả của việc xóa bỏ thị trường...”.
Để phản bác sự phê phán trên, Terry Eagleton đã minh chứng và lý giải bằng cả lý luận và thực tiễn rằng, có sự phê phán về chủ nghĩa Mác như trên là do: Sự non kém về lý luận, cách nhìn phiến diện, chụp mũ, lấy một vài hiện tượng, một vài mô hình trong thực tiễn không đúng với học thuyết của Mác để
đổ lỗi cho C. Mác sai. Vì chính C. Mác cũng không bao giờ hình dung chủ nghĩa xã hội lại có thể hoàn thành ở một số nước lẻ tẻ, không có hệ thống và những nước đó đang trong tình trạng nghèo khổ cùng cực. Đây là một nghịch lý khi mà mô hình chủ
nghĩa xã hội thời bao cấp lại cung cấp bằng chứng cho tính hợp lý của chủ nghĩa Mác chứ không phải bôi nhọ học thuyết của C. Mác. Terry Eagleton chứng minh, nếu cho rằng chủ nghĩa xã hội là bất cập, thiếu tự do, nghèo đói, bóc lột thì chủ nghĩa tư bản - có lúc đạt được hiệu quả, nhưng nó làm được điều đó bằng cái giá kinh hoàng của nhân loại. Đó là sự mất tự do được ngụy tạo bằng hình thức tự do; là bất công trong cách phân biệt giàu nghèo ngày càng gia tăng; là nạn diệt chủng, nạn phân biệt chủng tộc; là cưỡng bức, tước đoạt, áp đặt, tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi giá, vô trách nhiệm với sự tồn vong của nhân loại... Tức là, con đường tư bản chủ nghĩa đang đi cũng là đang đe dọa phá hủy toàn bộ hành tinh này.
Thực chất thì, như Terry Eagleton khẳng định, “Những nhà nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử chiếm đoạt nô lệ, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm... Chủ nghĩa tư bản cũng được tôi luyện trong máu và nước mắt, chỉ có điều nó đã tồn tại đủ lâu để người ta quên đi nỗi khủng khiếp đó”.
14 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
Do đó, để loài người có được bước phát triển cao hơn, an toàn, công bằng hơn về vật chất và tinh thần thì cần phải có một hình thái xã hội khác cao hơn xã hội tư bản.
Vấn đề thứ ba: “Chủ nghĩa Mác là một hình thức của thuyết quyết định luận,... Học thuyết về lịch sử của C. Mác chỉ là một phiên bản thế tục của thuyết quyết định luận. Nó công kích sự tự do và phẩm giá của con người đúng như những gì đã xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Bằng biện giải và chứng cứ thực tiễn, Terry Eagleton đã bộc lộ ngụ ý cho rằng: C. Mác không phát minh ra chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản mà chính phong trào chống áp bức, bóc lột của giai cấp công nhân ở châu Âu đã đạt tới tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong thời đại ông sống. Các khái niệm về giai cấp xã hội, ý niệm về giai cấp vô sản cũng là những sản phẩm khoa học quen thuộc của nhiều nhà tư tưởng thế kỷ XIX như Hêghen, William Thompson. C. Mác chỉ là người đã định nghĩa lại một cách cẩn trọng, tỉ mỉ toàn bộ những khái niệm ấy. Trong hệ tư tưởng của C. Mác có hai học thuyết chính. Một là, vai trò cơ bản của kinh tế trong đời sống xã hội. Hai là, ý niệm về sự kế tiếp nhau của phương thức sản xuất trong suốt quá trình lịch sử.
Terry Eagleton đã phân tích đầy sức thuyết phục về sự cần thiết phải hiểu đúng, hiểu đủ về tuyên bố nổi tiếng của C. Mác trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản rằng: “Lịch sử của tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Ở đây phải hiểu đúng tư tưởng của C. Mác rằng, đấu tranh giai cấp là phần cơ bản nhất, là động lực trực tiếp của lịch sử nhân loại.
Terry Eagleton nêu nhiều cứ liệu lịch sử để luận giải mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất,
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 15
khẳng định sự chiến thắng của lực lượng sản xuất trước quan hệ sản xuất, từ đó đi đến khẳng định tư tưởng của C. Mác về sự sụp đổ của giai cấp tư sản và chiến thắng của giai cấp công nhân là “tất yếu như nhau”. Và như vậy, một khi chủ nghĩa tư bản hoàn toàn thất bại thì tất yếu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản sẽ chiến thắng, nhưng không phải “ngủ yên” như thuyết quyết định luận để chiến thắng mà phải hành động và hành động sáng tạo để làm nên lịch sử. Đây là yếu tố khác nhau cơ bản giữa học thuyết Mác và thuyết quyết định luận.
Vấn đề thứ tư: “Chủ nghĩa Mác là giấc mơ về xã hội không tưởng. Nó đặt niềm tin vào một xã hội hoàn hảo, không có khổ cực, đau buồn, bạo lực và mâu thuẫn... Cách nhìn nhận ngây thơ một cách đáng ngạc nhiên này bắt nguồn từ niềm tin ấu trĩ vào bản chất con người. Người ta đơn giản cho rằng, cái xấu xa trong con người không tồn tại... Chính viễn cảnh ngây ngô của C. Mác về tương lai phản ánh sự phi thực tế đến vô lý trong toàn bộ hệ thống quan điểm chính trị của ông”.
Tác giả cuốn sách Tại sao Mác đúng? đã phân tích từ góc độ nhận thức luận về quá khứ, hiện tại, tương lai để khẳng định rằng sự phê phán C. Mác về những vấn đề trên là không đúng. Terry Eagleton đã phân tích, chỉ ra sự khác nhau giữa C. Mác và những nhà triết học không tưởng khác. Theo ông, C. Mác có kế thừa các nhà triết học không tưởng như Fourier, Saint Simon và Robert Owen nhưng ông phản đối tư tưởng của họ trên nhiều chiều cạnh, trong đó có vấn đề cốt yếu là niềm tin của những nhà triết học không tưởng về việc giành thắng lợi trước đối thủ chỉ toàn bằng sức mạnh của lý lẽ. Xã hội đối với họ là một cuộc đấu tranh tư tưởng chứ không phải là cuộc đấu tranh vì lợi ích vật chất. Terry Eagleton cũng lược khảo cách
16 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
nhìn về tương lai không đúng đắn của nhiều học giả khác. Từ đó khẳng định rằng, vấn đề đối với C. Mác không phải là mơ mộng về một tương lai tốt đẹp mà là giải quyết mâu thuẫn hiện tại đang cản trở sự xuất hiện của một tương lai tốt đẹp hơn. C. Mác khẳng định, “tương lai là tất yếu”. Ông phác thảo ra một tương lai mà hình ảnh thật sự của tương lai (xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa cộng sản) chính là sự thất bại của hiện tại. Ở tương lai đó, nội dung sẽ nhiều hơn hình thức.
Terry Eagleton so sánh những nhà tư tưởng có những quan điểm khác nhau về sự phát triển của lịch sử loài người, về bản chất của con người. Ông khẳng định rằng, C. Mác luôn tin vào bản chất thực sự của con người và tin con người có thể biến đổi những điều kiện hiện tồn của mình trong quá trình mà ta gọi là lịch sử. Khi làm được điều đó, con người sẽ biến đổi, hoàn thiện chính mình. Tức là, thay đổi không phải là mặt đối lập của bản chất con người, vì con người là loài sáng tạo, cởi mở và chưa hoàn thiện cho nên con người luôn khát vọng vươn tới tương lai tốt đẹp hơn.
Nếu người ta phê phán khái niệm bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội, thì Terry Eagleton đã chỉ ra rằng, “Chủ nghĩa xã hội không phải là tất cả mọi người đều mặc cùng một bộ quần áo may sẵn. Chính chủ nghĩa tư bản tiêu dùng đã khoác những bộ đồng phục lên công dân của mình...”. Và cuối cùng, ông mượn lời của một tác giả khác - Theodor Adorno để trả lời sự phê phán C. Mác là nhà triết học không tưởng: “C. Mác là kẻ thù của không tưởng chính vì tính hiện thực trong tư tưởng của ông”.
Vấn đề thứ năm: “Chủ nghĩa Mác quy mọi vấn đề về kinh tế. Chủ nghĩa Mác chỉ là một dạng của thuyết quyết định luận về kinh tế... Khi quan điểm của C. Mác bị
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 17
chi phối bởi kinh tế học như vậy, C. Mác đã trở thành một hình ảnh nghịch đảo về hệ thống tư bản chủ nghĩa mà ông từng lên án”.
Tác giả Terry Eagleton đã minh chứng và luận giải rằng, những người phê phán chủ nghĩa Mác đã mạo danh các loại học thuyết như: thuyết đa nguyên, thuyết quyết định luận kinh tế, thuyết kinh tế về lịch sử, thuyết giản hóa luận kinh tế,... để cho rằng chủ nghĩa Mác quy mọi vấn đề về kinh tế rõ ràng là cố chấp, “đơn giản hóa vô lý và lố bịch”. Ông đã lược khảo các tác phẩm của C. Mác, phân tích từng khía cạnh tư tưởng của C. Mác, trên cơ sở đó chỉ ra rằng, theo C. Mác, hoạt động mang tính lịch sử đầu tiên chính là sản xuất ra các phương tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất của con người. Sau đó con người mới học để chơi đàn banjo, viết nên những vần thơ trữ tình hay trang hoàng những mái vòm. Cơ sở của văn hoá chính là lao động. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không có nền văn minh. Chính cách thức con người sản xuất ra đời sống vật chất của mình sẽ đặt ra giới hạn cho các thiết chế văn hoá, luật pháp, chính trị và xã hội mà con người tạo ra. C. Mác nói tổng quát hơn trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức: “Giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị của xã hội ấy”.
Terry Eagleton đã nêu ra hàng loạt dẫn chứng để đi đến xác tín rằng: Chính chủ nghĩa tư bản chứ không phải chủ nghĩa Mác mới theo thuyết giản hóa luận kinh tế. Chỉ có chủ nghĩa tư bản mới tin vào sản xuất vì lợi ích đơn thuần và tin vào nội hàm hẹp hơn của khái niệm “sản xuất”.
Terry Eagleton cũng phân tích kỹ Học thuyết lịch sử của C. Mác, phân tích rõ mối quan hệ giữa kinh tế và đấu tranh giai cấp, tìm hiểu kỹ quan niệm của C. Mác về cuộc sống con người
18 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
trong xã hội xã hội chủ nghĩa - đó là cuộc sống tốt đẹp, trong đó lao động được giải phóng khỏi sự nhọc nhằn, “khổ sai”, để trở thành nhu cầu sống lành mạnh của con người. Nói cách khác, chính C. Mác là người “mong muốn một xã hội mà trong đó kinh tế không còn chi phối và tiêu tốn nhiều thời gian và sức lực nữa”. Từ những luận giải đó, Terry Eagleton khẳng định rõ rằng, cách hiểu chủ nghĩa Mác quy mọi vấn đề về kinh tế là “sự đơn giản hóa chủ nghĩa Mác một cách ngớ ngẩn”.
Vấn đề thứ sáu: “C. Mác là một nhà duy vật đơn thuần... Ông không quan tâm đến các khía cạnh tinh thần của con người và coi ý thức của con người là sự phản ánh của thế giới vật chất... Chủ nghĩa Mác làm cạn kiệt hết tất cả những gì quý giá nhất thuộc về con người, thu gom chúng ta thành một mớ lổn nhổn vật chất bị chi phối bởi ngoại cảnh của chúng ta...”.
Terry Eagleton đã dành nhiều công sức khảo cứu các trào lưu tư tưởng triết học trước C. Mác, đặc biệt là tư tưởng của các nhà duy vật thời kỳ khai sáng thế kỷ XVIII. Ông phân tích kỹ mối quan hệ giữa thể xác với tư duy của con người, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng; phân tích kỹ những ngộ nhận về duy vật lịch sử, duy vật biện chứng và sự vu khống chủ nghĩa Mác liên quan đến những vấn đề này. Từ đó, Terry Eagleton khẳng định rằng, C. Mác là một trong những bộ óc vĩ đại nhất thời hiện đại. C. Mác đặc biệt dị ứng với những ý tưởng ngông cuồng. Ông là một nhà tư tưởng lãng mạn nhưng luôn cảnh giác trước những gì trừu tượng, đồng thời luôn luôn say sưa với những gì cụ thể, rõ ràng. Học thuyết Mác không chỉ là sự giải thích thế giới, mà quan trọng hơn, nó còn là công cụ để cải tạo thế giới, làm cho con người phát triển từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 19
Đó chính là cái làm nên sự khác biệt và cũng đồng thời là sự vĩ đại của học thuyết Mác, điều mà chính ông đã nói đến trong luận cương thứ mười một về Feuerbach.
Terry Eagleton còn chứng minh, C. Mác là một nhà tư tưởng đạo đức xuất chúng. Theo C. Mác, cái thứ đạo đức thống soái trong xã hội tư bản - cái tư tưởng cho rằng “tôi sẽ chỉ phục anh chừng nào tôi được lợi” - là phong cách sống đáng ghê tởm. Những phân tích và chứng minh đó cũng đồng thời là cơ sở để khẳng định, tư tưởng của C. Mác về tôn giáo và tâm linh cũng vượt lên trên những ngộ nhận về chủ nghĩa duy vật trong hệ thống triết học của C. Mác.
Vấn đề thứ bảy: “Nỗi ám ảnh chán ngắt về giai cấp đã khiến chủ nghĩa Mác quá ư lạc hậu. Những người theo chủ nghĩa Mác dường như đã không để ý rằng hình ảnh giai cấp xã hội đã thay đổi không còn nhận ra so với ngày C. Mác viết tác phẩm của mình...”.
Để phản bác có sức thuyết phục sự phê phán đối với chủ nghĩa Mác về vấn đề này, Terry Eagleton đã đi sâu phân tích nhận thức về giai cấp. Ông luận giải về lịch sử hình thành giai cấp trong xã hội, về các giai cấp và bản chất cơ bản của các giai cấp; về các quan điểm, nhận thức khác nhau về khái niệm giai cấp, giai cấp xã hội. Từ những sự minh giải trên, tác giả khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác không định nghĩa giai cấp theo phong cách sống, địa vị, thu nhập, giọng nói, nghề nghiệp hay tình trạng gia đình. Với C. Mác, giai cấp không phải là vấn đề anh cảm thấy thế nào mà là anh đang làm gì, anh đang đứng ở đâu trong một phương thức sản xuất cụ thể.
Terry Eagleton luận giải về quá trình hình thành giai cấp công nhân, khẳng định chủ nghĩa Mác không đặt trọng tâm vào giai cấp công nhân chỉ vì nhìn thấy một số ưu điểm của lao động,
20 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
cũng không đặt tầm quan trọng chính trị vào giai cấp công nhân vì họ được cho là bị chà đạp nhất trong các nhóm xã hội, mà điểm quyết định nhất chính là giai cấp công nhân có được vị trí trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì ở trong hệ thống đó nên giai cấp công nhân quen với cách làm việc được chủ nghĩa tư bản tổ chức, trở thành một lực lượng có kỹ năng, có ý thức tập thể và chính trị tỉnh táo. Họ là những người không thể thiếu được đối với sự thành công của chủ nghĩa tư bản nhưng lại có lợi ích vật chất bị chủ nghĩa tư bản làm cho suy giảm. Chính họ mới có khả năng tiếp quản và vận hành nền sản xuất vì lợi ích của tất cả mọi người, mang sứ mệnh thủ tiêu
chủ nghĩa tư bản và giải phóng tất cả mọi người. Terry Eagleton cũng phân tích rõ những tiên liệu của C. Mác về sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ làm gia tăng quá trình vô sản hóa những nhà chuyên môn, cùng với tình trạng tái vô sản hóa rất nhiều công nhân công nghiệp. Và như vậy, lực lượng giai cấp công nhân sẽ ngày càng lớn mạnh hơn nhiều. Vậy nên luận thuyết về sự tiêu vong của giai cấp công nhân là một sự phóng đại thái quá, phi thực tế.
Vấn đề thứ tám: “Những người mácxít là những người cổ vũ cho hành động chính trị bạo lực. Họ không tán thành biện pháp cải cách dần dần và ôn hòa, mà thay vào đó là sự lựa chọn những cuộc hỗn loạn cách mạng vấy máu. Chỉ có một lực lượng thiểu số giai cấp tiên phong sẽ vùng lên, lật đổ chính phủ và áp đặt ý chí của mình lên đại đa số. Đây là một trong số những điều khiến cho chủ nghĩa Mác và dân chủ không thể song hành tồn tại...”.
Để phản bác lại sự vu khống này, Terry Eagleton đã phân tích rõ khái niệm cách mạng và cải cách, vạch rõ mối liên hệ,
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 21
sự giống và khác nhau giữa hai khái niệm này. Ông dẫn chứng hàng loạt cứ liệu từng có trong lịch sử để chứng minh rằng, rất nhiều cuộc cải cách - thường được coi là hòa bình, ôn hòa - lại làm bùng lên xung đột, đẫm máu, như phong trào dân quyền ở
Mỹ. Ngược lại, rất nhiều cuộc cách mạng - thường được coi là bạo lực - lại diễn ra khá hòa bình như cuộc cách mạng Bônsêvich ở Nga năm 1917. Từ những luận giải về những quan điểm ngụy biện chống lại cuộc cách mạng này nhưng lại ủng hộ
cuộc cách mạng khác, ông khẳng định chủ nghĩa tư bản, từ bản chất của nó, luôn đồng hành với chiến tranh toàn cầu (Chiến tranh thế giới thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai), với bóc lột thuộc địa, diệt chủng và nạn đói. Terry Eagleton so sánh “quá trình đẫm máu” của chủ nghĩa tư bản với những sai lầm về bạo lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa và khẳng định tính chất hòa bình của phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa quốc tế. Ông cũng phân tích rõ những nguyên nhân, những điều kiện dẫn đến thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa và những điều kiện cũng như bài học từ thực tế lịch sử về vấn đề bạo lực cách mạng. Từ sự luận giải của mình, ông khẳng định, chính “những cuộc cách mạng có nhiều khả năng thành công nhất là những cuộc cách mạng ít bạo lực nhất” và “Phong trào công nhân không phải là bạo lực mà là chấm dứt bạo lực”.
Chụp mũ cho cách mạng xã hội chủ nghĩa tính chất bạo lực cũng không khác gì sự vu khống rằng “chủ nghĩa Mác và dân chủ không song hành tồn tại”. Terry Eagleton đã viện dẫn thực tiễn lịch sử phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới, phân tích, lý giải tư tưởng của C. Mác để phản bác sự vu khống đó và đi đến kết luận: “Những cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể là những cuộc cách mạng dân chủ. Chính giai cấp thống trị
mới là nhóm thiểu số phi dân chủ”.
22 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
Vấn đề thứ chín: “Chủ nghĩa Mác tin vào một nhà nước nắm mọi quyền lực trong tay. Sau khi xóa bỏ tư hữu, những nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ thống trị bằng quyền lực và bạo lực, và quyền lực đó sẽ chấm dứt tự do cá nhân...”.
Sức mạnh để phản bác lại những phê phán về C. Mác trong nhóm vấn đề trên là hiện thực không thiên vị trong tư tưởng của C. Mác, cả về lý luận và thực tiễn trong tiến trình lịch sử nhân loại. Để làm được điều này, Terry Eagleton đã luận giải khái quát các quan điểm về nhà nước của các nhà triết học trước C. Mác và cùng thời với C. Mác; luận giải quá trình đúc kết kinh nghiệm, hình thành, phát triển lý luận về nhà nước trong tư tưởng của C. Mác; phân tích những phê phán của C. Mác về sự hà khắc của nhà nước tư bản; minh chứng và luận giải đầy sức thuyết phục tư tưởng của C. Mác về quyền lực và quyền lực nhà nước nói chung, quyền lực nhà nước tư bản, quyền lực nhà nước cộng sản chủ nghĩa nói riêng. Ông chứng minh rằng, cái mà C. Mác hy vọng sẽ tiêu vong trong xã hội cộng sản chủ
nghĩa không phải là nhà nước theo nghĩa là chính quyền trung ương mà là kiểu nhà nước với tư cách là một công cụ bạo lực. Nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý hành chính sẽ tiếp tục sống mãi.
C. Mác tin tưởng vào quyền làm chủ của nhân dân và “hài lòng” với cái bóng lờ mờ của nhà nước được gọi là dân chủ nghị viện. Ông coi dân chủ là quá vĩ đại, không thể giao nó cho một mình quốc hội. Dân chủ phải có tính địa phương, mang tính nhân dân rộng rãi và xuất hiện ở tất cả các thể chế, các hình thức tự quản của xã hội. Nó phải được mở rộng cả trong đời sống kinh tế và đời sống chính trị; phải có nghĩa là sự tự chủ thực sự của nhân dân. Nhà nước mà C. Mác bảo vệ là sự cai trị
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 23
của công dân đối với chính họ, không phải của thiểu số đối với số đông, tức là hòa tan nhà nước vào xã hội. Như thế tức là nhà nước không mang tính phe phái, một nhà nước công dân có tính tự giác cao. Điều này trái ngược hoàn toàn với những luận điểm phê phán chủ nghĩa Mác.
Vấn đề thứ mười: Chủ nghĩa Mác đã trở nên lỗi thời. Nó bị thay thế bởi các học thuyết khác như: phong trào nữ quyền, vấn đề bảo vệ môi trường, chính trị dân tộc, toàn cầu hóa, phong trào vì hòa bình,...
Terry Eagleton đã dày công khảo cứu các tác phẩm của C. Mác, sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác trong thực tiễn, khảo luận lịch sử phát triển chủ nghĩa tư bản, vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản để đi đến khẳng định rằng những người phê phán C. Mác là những người hoặc không hiểu tầng nghĩa sâu xa trong triết học Mác, hoặc không đọc hết các tác phẩm của ông, hoặc cố tình vu khống ông vì mục đích chính trị.
Terry Eagleton cũng luận giải cụ thể rằng, về các phong trào nữ quyền, vấn đề giới, phong trào giải phóng dân tộc, vấn đề giai cấp và dân tộc, phong trào đấu tranh vì hòa bình, đấu tranh bảo vệ môi trường, C. Mác đều có những đóng góp vượt trội trên cả bình diện tư tưởng và hoạt động thực tiễn. Đặc biệt, trên bình diện lý luận thì tư tưởng của ông ngày nay vẫn luôn tỏa sáng. Nhiều trang viết trong tác phẩm của C. Mác cũng như
chính thực tiễn phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã chỉ ra rằng, chính những người mácxít, chứ không phải ai khác, đã và đang trở thành đội quân tiên phong của các cuộc đấu tranh vĩ đại nhất trong lịch sử hiện đại. Đó là đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đấu tranh giải phóng phụ nữ, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đấu tranh bảo vệ môi trường... Khi vạch mặt, chỉ tên bản chất tàn phá sinh thái, sự chạy đua theo lợi nhuận,
24 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
khả năng “không thể nào tạo dựng được hòa bình thế giới” của chủ nghĩa tư bản, Terry Eagleton không ngần ngại kêu gọi: “Nếu nhân loại chúng ta không hành động ngay từ bây giờ thì có lẽ chủ nghĩa tư bản sẽ là mồ chôn chính chúng ta”.
*
* *
Dường như trong khi luận giải, chứng minh và phản bác những ý kiến, quan điểm bôi nhọ, vu khống và những âm mưu nhằm hạ bệ C. Mác cùng tư tưởng của ông, Terry Eagleton đã luôn luôn xuất phát từ một niềm tin không thể lay chuyển vào tính khoa học đúng đắn, tính chất nhân văn của C. Mác. Đó là một niềm tin được thành tạo bởi kiến thức văn hóa uyên thâm, sự hiểu biết sâu sắc, toàn diện về C. Mác, về chủ nghĩa Mác, cũng như sự chiêm nghiệm thực tiễn lịch sử ở những tầng nấc sâu xa, phong phú.
Cần lưu ý rằng, tác giả cuốn sách Tại sao Mác đúng? là giáo sư văn học nên nội dung cuốn sách được trình bày bằng bút pháp linh hoạt, gần gũi với phong cách ngôn ngữ nghị luận văn học hoặc chính luận báo chí hơn là cách diễn đạt mang tính chất luận lý chặt chẽ mà người ta thường thấy trong các tác phẩm lý luận chính trị của các nhà nghiên cứu. Nhiều chi tiết được tác giả trình bày bằng những hình ảnh ẩn dụ, sự so sánh với ngụ ý xa xôi và thậm chí cả những ngôn từ đôi khi mang lại cho người đọc cảm giác về sự hoa mỹ, khoa trương. Điều đó cũng mang lại những hạn chế nhất định do việc chuyển ngữ không thể chuyển tải đầy đủ, hoàn thiện về ngữ nghĩa và cả
khó khăn cho người đọc trong việc tiếp nhận các nội dung trình bày với mạch cảm xúc phong phú của tác giả. Song nếu đọc kỹ, thì sẽ nhận ra rằng, đằng sau mỗi hình ảnh, mỗi ẩn dụ, mỗi sự
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 25
so sánh, mỗi ngôn từ hoa mỹ mà tác giả Terry Eagleton lựa chọn dùng trong tác phẩm đều gợi mở cho người đọc suy nghĩ nhiều chiều và đặc biệt là đều ẩn chứa trong đó sự say sưa, nhiệt thành, một tấm lòng trân trọng, khâm phục của tác giả đối với C. Mác - một bậc thiên tài của nhân loại, cũng như đối với chủ nghĩa Mác mà “Trong suốt lịch sử nhân loại, chưa có một phong trào chính trị nào có tầm ảnh hưởng như phong trào mà C. Mác đã khởi xướng”. Hơn thế nữa, người ta vẫn có thể thấy rất rõ rằng, cuốn sách được viết ra với một sự tỉnh táo khoa học cần thiết, một thái độ trách nhiệm, không thiên vị và sự đánh giá lịch sử rõ ràng và công bằng.
Tại sao Mác đúng? ra đời vào thời điểm mà chủ nghĩa tư bản đang rung chuyển tận gốc rễ với cuộc khủng hoảng tài chính dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, với sự lúng túng về đường lối chính trị của nhiều chính thể tư bản bị quy định trực tiếp bởi cuộc khủng hoảng nợ công đang phủ bóng u ám lên đời sống xã hội cả một khu vực rộng lớn của châu Âu. Cho dù vậy, việc bảo vệ chủ nghĩa Mác đồng nghĩa với việc phê phán hệ thống tư bản chủ nghĩa ngay giữa thành trì của nó, cũng như việc phê phán những luận điểm, âm mưu chống C. Mác trước búa rìu dư
luận ở châu Âu và phương Tây cũng không phải là một việc dễ chịu. Điều đó cho thấy sự nhạy cảm chính trị và sự dũng cảm khoa học của tác giả.
Cũng cần phải lưu ý rằng, tác giả là một học giả phương Tây, không phải là người theo chủ nghĩa Mác (như chính tác giả thừa nhận) nên một số quan điểm, nhận xét trong tác phẩm còn mang tính cá nhân, có thể chưa hẳn đã hoàn toàn chặt chẽ về mặt học thuật, nhất là có những quan điểm không hoàn toàn phù hợp với quan điểm, tư tưởng của chúng ta. Tuy nhiên,
26 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
xét về tổng thể có thể nói rằng, Tại sao Mác đúng? là một tác phẩm có giá trị tham khảo tốt, mang lại cho chúng ta thêm một cách nhìn mới, một cơ sở mới để củng cố niềm tin vào chủ nghĩa Mác với vai trò là nền tảng tư tưởng của công cuộc cách mạng xây dựng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, cuốn sách cũng cho thấy một sự đánh giá trân trọng, phản ánh chiều dư luận tích cực trên thế giới, thể hiện thái độ
đúng đắn, khách quan của thế giới trong việc kế thừa, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác vì sự phát triển tốt đẹp của nhân loại.
27
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
KHÔNG THỂ LỖI THỜI!*
Thời gian gần đây, một số nhà nghiên cứu phương Tây và một bộ phận cán bộ, đảng viên trong nước cho rằng, trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời. Bởi vậy, chúng ta không thể xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh trên nền tảng của học thuyết lỗi thời đó.
Câu hỏi đặt ra là, chủ nghĩa Mác - Lênin có thật là đã lỗi thời không khi xem xét dưới mọi bình diện, từ ý nghĩa khoa học, mục tiêu xã hội đến ý nghĩa thực tiễn? Nếu nó là lỗi thời thì nguyên nhân và cơ sở nào quy định, ngược lại nếu không lỗi thời thì tại sao và do đâu?
Trước hết, những người phủ nhận, cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời thường dựa chủ yếu vào 4 lý do sau đây: Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Thứ hai, chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng theo học thuyết của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin ở Liên Xô, các nước Đông Âu đã bị sụp đổ. Hiện thực sụp đổ có nghĩa là lý thuyết sai lầm. Thứ ba, điều kiện kinh tế và xã hội ở các nước tư bản phát triển được cải thiện _______________
* Báo Nhân dân, kỳ 1, số 22.584, ngày 13/01/2017 và kỳ 2, số 22.585, ngày 14/01/2017.
28 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
rất nhiều so với ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng tỏ chủ nghĩa tư bản là ưu việt. Và thứ tư, một loạt sai lầm, khuyết điểm mà các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta, đã và đang mắc phải, chứng tỏ lý luận về chủ nghĩa xã hội là sai lầm và lỗi thời. Trong bài viết này, tác giả sẽ trao đổi về các lý do đó.
Về lý do thứ nhất, đúng là học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen ra đời từ giữa thế kỷ XIX, trong điều kiện những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản đã trở nên gay gắt, phơi bày tất cả bản chất giai cấp của nó cùng với sự bóc lột người lao động đến cùng cực. C. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tiếp thu có phê phán toàn bộ
những giá trị tinh hoa của quá trình phát triển tư tưởng của nhân loại. Đặc biệt là triết học cổ điển Đức, kinh tế - chính trị học cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán Pháp và Anh đã đóng góp những cơ sở nhận thức quan trọng vào quá trình hình thành học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen. Cũng cần phải nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát hiện ra tính quy luật trong sự vận động của xã hội loài người, trong đó nhân tố quyết định là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Đây chính là cơ sở để C. Mác và Ph. Ăngghen dự báo về tất yếu loài người sẽ tiến tới hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa - với tính cách là quá độ để tiến tới giai đoạn cao là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
V.I. Lênin là người tiếp tục phát triển những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen vào thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong điều kiện mới khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 29
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. V.I. Lênin có nhiều đóng góp vào phát triển các tư tưởng triết học, kinh tế - chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen. Đặc biệt, V.I. Lênin đã phát triển tư tưởng về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản ở một nước tư bản riêng biệt, thậm chí trình độ phát triển chưa cao; xây dựng học thuyết về một chính đảng mácxít kiểu mới; tổ chức cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi và vận dụng học thuyết của C. Mác để phân tích, giải quyết hàng loạt vấn đề trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và Liên bang Xôviết.
Điều hiển nhiên và không thể chối cãi là, dù được hiểu theo nghĩa nào, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột, mưu cầu tự do, hạnh phúc; quy luật về cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng, phát triển đi tới chủ nghĩa cộng sản. Vào thời điểm ra đời của học thuyết này, những tác giả của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phê phán chủ
nghĩa tư bản, chỉ ra bản chất bóc lột, tính quy luật trong sự tồn tại và phát triển của nó. Sự phê phán đó là sâu sắc và phản ánh đúng bản chất của thực tiễn xã hội đương thời. Đó là điều đã được thực tế kiểm nghiệm, được hầu hết các nhà nghiên cứu xã hội thừa nhận cho dù họ theo xu hướng chính trị nào. Từ sự phê phán chủ nghĩa tư bản đương thời, từ phát hiện tính quy luật của lịch sử xã hội loài người và từ cả thái độ nhân văn trước hiện thực tăm tối về sự thống khổ của người lao động dưới ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, C. Mác, Ph. Ăngghen dự báo về một xã hội cộng sản tương lai như một tất yếu lịch sử sẽ
thay thế chủ nghĩa tư bản.
30 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
Cần nói rằng, những gì chủ nghĩa tư bản hiện đại đang thể hiện vẫn không đi ra ngoài tính quy luật mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, càng minh chứng cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, một mặt tăng thêm tiềm lực cho chủ nghĩa tư bản; mặt khác, nó càng thúc đẩy nhanh hơn quá trình xã hội hóa của lực lượng sản xuất, dẫn đến những thay đổi chóng mặt về quy mô, tính chất của quan hệ sở hữu, quản lý, điều hành sản xuất và phân phối của cải xã hội. Quá trình toàn cầu hóa xuất phát trước tiên từ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nói cho cùng cũng như cái “áo” trong khung khổ từng quốc gia đã quá chật hẹp, buộc phải nới ra trên phạm vi toàn thế giới. Sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản theo đó cũng mở rộng mạnh mẽ ra ngoài chính quốc. Sự bóc lột ấy, về bản chất, chẳng khác gì hành vi xâm lược thuộc địa của các đế quốc - tư bản chủ nghĩa trước đây, chỉ có điều nó được che đậy dưới lớp vỏ hào nhoáng, mỹ miều hơn, nó đi vào các quốc gia nghèo khó bằng cửa chính và bóc lột người lao động bằng những lề luật văn minh, sạch sẽ hơn.
Càng giàu mạnh, các thế lực tư bản càng hung hăng, tìm mọi cách để chiếm đoạt các nguồn tài nguyên, của cải của thế giới, chinh phục các quốc gia nghèo khó, yếu thế nhằm phục vụ cho lợi ích của mình. Cuộc chiến tranh Irắc đã đẩy một quốc gia hòa bình vào cuộc chiến đẫm máu, huynh đệ tương tàn suốt hơn một thập niên, đến nay vẫn chưa thấy lối ra. Lý do để phát động cuộc chiến tranh chống lại một dân tộc có chủ quyền, độc lập cách xa nước Mỹ hàng vạn cây số là tàng trữ “vũ khí giết người hàng loạt”, nhưng không hề tìm thấy. Trên thực tế, thì chính nước Mỹ đang tàng trữ lượng vũ khí hạt nhân đủ phá hủy nhiều lần cuộc sống của nhân loại trên toàn cầu. Đất nước Libi
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 31
hòa bình cũng trở thành hỗn loạn sau khi Mỹ và các đồng minh phương Tây can thiệp lật đổ chính quyền dân cử M. Cadaphi. Cho dù Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh đã xin lỗi nhưng điều ấy có nghĩa gì khi đất nước Irắc và Libi đã tan hoang, hàng vạn người dân lành ở đó đã chết, hàng triệu người dân đang sống trong những điều kiện tồi tệ nhất1. Vậy lý do cuộc chiến Irắc là gì nếu không phải là dầu mỏ và lợi ích của những ông chủ, các nhà tư bản Mỹ? Một loạt cuộc cách mạng màu do bàn tay Mỹ và các nước phương Tây phát động ở Libi, Xyri,... đều có chung một hình thái bên ngoài, mục đích ẩn giấu bên trong và hậu quả tồi tệ không khác gì với cuộc chiến ở Irắc.
Mặt khác, nếu nhìn nhận từ góc độ nhân văn, thì chủ nghĩa xã hội là ước vọng ngàn đời của tất cả những người dân lao động, của những con người có lương tâm cùng tình thương nhân loại, muốn sống trong hòa bình, nhân ái. C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát triển chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học khi nhìn nhận nó từ quy luật vận động của lịch sử, như sự
vận động tất yếu từ những cơ sở xã hội, những yếu tố kinh tế, vật chất vốn đã được hình thành ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Như vậy, chủ nghĩa xã hội là phù hợp và hợp lý cả về
phương pháp luận khoa học và tính mục đích nhân văn. Với tính chất là một học thuyết khoa học, những người khai sinh ra chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ muốn và chưa có bất cứ một mệnh đề phán đoán nào để quy các luận điểm trong
_______________
1. Ngày 10/4/2016, khi trả lời phỏng vấn hãng tin Fox News, Tổng thống Mỹ B. Obama đã thừa nhận rằng, sai lầm tồi tệ nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của ông là đã không chuẩn bị một kế hoạch lâu dài cho Libi sau khi lật đổ Tổng thống M. Cadaphi, để gây nên tình trạng hỗn loạn ở
nước này. Năm 2015, cựu Thủ tướng Anh T. Blair cũng đã thừa nhận sai lầm và xin lỗi về việc đưa quân đội Anh tham gia cuộc chiến ở Irắc.
32 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
học thuyết của mình về cách mạng xã hội hay về xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai thành những tín điều siêu hình, cứng nhắc. Trong tác phẩm Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, Ph. Ăngghen đã rất khách quan, khoa học khi luận giải rất tường minh quá trình chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, đồng thời yêu cầu những người cộng sản rằng, khi “... chủ nghĩa xã hội đã trở
thành một khoa học mà ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”1. Trong rất nhiều tác phẩm, C. Mác và Ph. Ăngghen đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức, đánh giá, tổng kết thực tiễn để thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận, nhất là lý luận về con đường hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Ở lời tựa viết cho bản tiếng Đức Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xuất bản năm 1872, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết rằng: “Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời...”2. Quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển cũng luôn được V.I. Lênin quán triệt vận dụng trong nhiều nhận thức thực tiễn để giải quyết mối quan hệ gắn bó giữa lý luận với thực tiễn. Chính sách kinh tế mới chính là một dẫn chứng thực tế sáng rõ về quan điểm đó. Chính V.I. Lênin đã có một định nghĩa đầy tính thực tiễn về chủ nghĩa xã hội mà lâu nay đôi khi những người hậu thế đã bỏ quên hoặc bảo thủ với những định kiến mà không nhìn nhận một cách đúng đắn và nghiêm túc. Người nói: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính
_______________
1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.305; t.18, tr.128.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 33
quyền xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + = ∑ = chủ nghĩa xã hội”1. Nhận định của V.I. Lênin từ gần 100 năm trước vẫn còn nguyên giá trị phương pháp luận đối với
chúng ta hiện nay, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa. Vậy thì tại sao có thể nói rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời. Xin thưa rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời mà chính những người cố tình phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin mới là những người nhầm lẫn, sai lầm, cố tình không nhìn thấy bản chất khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hoặc giả, họ đã cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin vì một lý do chính trị, vì muốn xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin để bảo vệ cho chủ nghĩa tư bản và quyền lợi của một nhóm người tư bản, hoặc được hưởng lợi không chính đáng từ guồng máy của chủ nghĩa tư bản. Nếu có lỗi thời chăng, thì chính là lỗi thời ở cách mà chúng ta chưa nghiên cứu đủ sâu sắc, chưa vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách đúng đắn vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội mà thôi. Tuyệt nhiên không thể là sự lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin! Về lý do thứ hai, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu phải chăng như một bằng chứng hiển nhiên của sự sai lầm, lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin và cùng với nó là con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải chăng có một logic thực tế là chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ là do lý thuyết về chủ nghĩa xã hội là sai lầm? Trước hết, cần phải nói rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thực tế đã mang lại sự thay đổi rung trời chuyển đất, tạo ra một mảng sáng không thể phủ nhận ở Liên Xô, Đông Âu _______________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.36, tr.684.
34 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
và một loạt nước trên thế giới. Nó đã mang lại cuộc sống tốt đẹp cho một phần to lớn của nhân loại. Nó đã tạo nên một sức mạnh to lớn mà trước đó không thể tưởng tượng về nguồn lực vật chất và tinh thần, đủ sức để động viên sức người, sức của, tạo thành lực lượng chủ yếu đánh thắng những lực lượng to lớn của liên minh các thế lực tư bản cũng như đội quân phátxít tàn bạo của trục ma quỷ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Thực tế sinh động từ những thành tựu tốt đẹp của các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội đã động viên, thúc đẩy cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ, hòa bình, giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Hàng loạt dân tộc bị áp bức đã giành được độc lập, tự do dưới ảnh hưởng và sự giúp đỡ vô tư của các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn đầu. Chính chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh rộng lớn, mạnh mẽ của nhân dân lao động trên toàn thế giới đã là động lực thúc đẩy, buộc các thế lực tư bản, đế quốc phải, một mặt thừa nhận quyền tự do, độc lập của các dân tộc trong hệ
thống thuộc địa rộng lớn của chủ nghĩa tư bản thực dân, đế quốc; mặt khác, tạo thành sức ép, buộc các thế lực tư bản có những cải cách xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân lao động ở chính quốc. Chủ nghĩa xã hội đã là một hiện thực hùng mạnh đủ để những chiến lược gia, các nhà lý luận tư sản phải run sợ, đã đưa ra những dự báo về sự thất bại, kết thúc không thể đảo ngược của chủ nghĩa tư bản. Những thừa nhận cay đắng của H. Kitsingiơ, Z. Brêginxki, thời kỳ những năm 60, 70 của thế kỷ XX, vẫn còn nguyên đó trong các cuốn sách, bài báo của họ.
Tất nhiên, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã là một bài học đau đớn không chỉ cho những người cộng sản, mà còn cho cả nhân loại tiến bộ. Đó là kết quả của sự bảo thủ, không nhìn thẳng vào thực tế, chậm đổi mới nhận thức và đổi mới các chính sách như những
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 35
giải pháp cần thiết để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn như những mâu thuẫn tất yếu nảy sinh trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Đó cũng chính là sự sai lầm do những người cộng sản ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây mắc phải do không nhận thức đúng đắn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính biện chứng và quan điểm lịch sử cụ thể trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đã do cố chấp và thiên kiến mà bỏ qua bài học phương pháp luận quý báu của V.I. Lênin, không “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài” để xây dựng, phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội cụ thể không hơn, không kém. Tuyệt nhiên đó không phải là sụp đổ của một học thuyết khoa học, càng không thể là sự sụp đổ về một tương lai tốt đẹp mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới. Điều ấy không chỉ được minh chứng bằng việc ngay ở thời điểm hiện nay, một loạt nước ở tây bán cầu ngay cận kề nước Mỹ đang tìm tòi con đường và cách thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một mô hình mới. Nó cũng được minh chứng bởi một loạt quốc gia ở chính châu Âu, nhất là Bắc Âu đã và đang lấy chủ nghĩa xã hội làm mục đích và cảm hứng để xây dựng, phát triển đất nước mình. Không phải không có lý do, khi họ tự gọi mình là mô hình chủ nghĩa xã hội phúc lợi. Đương nhiên còn một minh chứng hiện hữu là một số nước kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam đã đạt được những thành tựu có tính lịch sử trong xây dựng, phát triển.
Từ tất cả thực tế ấy, không thể nói rằng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước khác sụp đổ trong những năm cuối
36 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
thế kỷ trước có nghĩa là học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội là sai lầm và lỗi thời! Ngược lại, sẽ là ảo tưởng khi nghĩ rằng chủ nghĩa tư bản đang thắng thế. Thực tế đang chỉ ra rằng, chính chủ nghĩa tư bản đang đứng trước những thánh thức đầy nguy hiểm. Chính sự mâu thuẫn lợi ích, căn bệnh bản chất của chủ nghĩa tư bản đang làm nảy sinh sự chia rẽ khó tránh khỏi trong các liên minh tưởng chừng bền vững của họ. Hiện tượng Brexit của nước Anh chỉ là một dấu hiệu đầu tiên và tất yếu của sự khục khặc từ chính trong lòng của nó khi chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu mất đi đối trọng là khối các nước xã hội chủ nghĩa. Khi không còn phải đối mặt với nguy cơ từ bên ngoài thì những mâu thuẫn không thể tránh khỏi về lợi ích sẽ hiện nguyên hình, phá vỡ mối liên kết yếu ớt của các thế lực tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, những cuộc khủng bố đã hiện diện ngay trung tâm của châu Âu, đe dọa không chỉ an ninh mà tạo nên sự bất ổn sống còn của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Về lý do thứ ba, sự hơn hẳn về điều kiện vật chất, trình độ phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ và một số lĩnh vực khác của các nước tư bản phát triển so với các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa hiện nay, phải chăng đã minh chứng cho tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản? Đúng là không ai có thể phủ nhận một thực tế là các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã có được những thành tựu phát triển về kinh tế, khoa học và công nghệ kéo theo những cải thiện nhất định về điều kiện sống của người dân. Nhưng đó mới chỉ là cách nhìn thực tại, phiến diện, không thấy đằng sau và phía trước của sự phát triển ấy là gì.
Trước hết, cần phải nhìn cho rõ những thành tựu đó do đâu mà có. Chủ nghĩa tư bản đã có nhiều trăm năm phát triển. Trên con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản, bánh xe vận hành
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 37
của nó đã lăn đi trong ngập ngụa máu và nước mắt của nhân loại cần lao, thống khổ trên khắp các lục địa. “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm”1, đó là lời tự thú có tính chất phản tỉnh của Terry Eagleton - một học giả người Anh. Chỉ cần mở lại các trang lịch sử của nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha... sẽ thấy ngay những gì mà chế độ tư bản đã hành xử với đồng loại của mình. Những kẻ thực dân từ cựu lục địa châu Âu đã phá vỡ cuộc sống bình yên hàng nghìn năm của các bộ tộc người da đỏ, chiếm đoạt đất đai của họ bằng gươm, súng và cả sự tra tấn dã man, rùng rợn ngoài trí tưởng tượng, bằng cách lột da đầu. Trong cuốn sách Sự tàn sát khủng khiếp cuối thời Victoria (Late Victorian Holocausts), học giả người Anh đã viết rằng, hàng chục triệu người Ấn Độ, châu Phi, Trung Quốc, Braxin, Triều Tiên, Nga và nhiều nước khác đã chết do đói, hạn hán và dịch bệnh vào cuối thế kỷ XIX dưới chế độ thực dân xâm lược. Và ngay ở chính các nước tư bản giàu có hiện nay, có ai dám chắc mọi người dân đều có cuộc sống tốt đẹp. Hàng chục triệu người dân Mỹ không có bảo hiểm y tế chỉ có cách chờ tử thần khi mắc bệnh. Ở bang California, quá nửa nam giới người da đen có ít nhất một lần trong đời phải đi tù...
Làm sao, là người Việt Nam mà ai đó có thể quên được nỗi thống khổ của nhân dân ta trong đêm trường nô lệ hơn 80 năm dưới ách đô hộ của chủ nghĩa tư bản thực dân Pháp? Bao nhiêu người dân Việt Nam đã chết trong các xưởng máy, hầm lò, trên các cung đường, các bến tàu. Những cuộc khởi nghĩa _______________
1. Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng?, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2012, tr.40.
38 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
của Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Yên Bái, Xôviết Nghệ - Tĩnh... bị dìm trong bể máu. Hơn hai triệu người chết đói năm 1945. Thực dân Pháp bóc lột người dân thuộc địa Việt Nam đến tận xương tủy, vơ vét từ vàng, than, sắt, đồng cho đến cả phân bắc để mang về làm giàu cho chính quốc. Gần 20 năm, đế quốc Mỹ thay chân đế quốc Pháp thiết lập nền thống trị, giày xéo đất nước ta. Những nhà tù địa ngục trần gian ở Côn Đảo, Phú Quốc..., những vụ tàn sát ở
Thái Bình (Bình Định) năm 1966, Bình Hòa (Quảng Ngãi) năm 1966, Mỹ Lai (Quảng Ngãi) năm 1968,... vụ B52 ném bom rải thảm khu phố Khâm Thiên, Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), phải chăng đó không phải là tội ác thấu trời của chế độ tư bản Mỹ? Ngỡ tưởng, không phải nhìn đâu xa, chính những trang lịch sử khắc nghiệt và đau thương ấy đã đủ để cho các thế hệ
chúng ta và con cháu chúng ta hiểu được bản chất của chủ nghĩa tư bản! Vậy mà lạ lùng thay, vẫn có người bước ra khỏi biên giới đã hết lời khen hay, khen đẹp cho các nước tư bản, cho các thành phố hào hoa Tây Âu. Họ có biết đâu hoặc cố tình không biết rằng những thành phố đó đã trải qua mấy trăm năm xây dựng bằng sức lao động của bao thế hệ người lao động và cả của cải bóc lột từ các thuộc địa mang về.
Việc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa là công việc rất khó, mang tính khoa học, có tính quy luật, đòi hỏi thời gian, nguồn lực, sự lãnh đạo chính trị đúng đắn và các điều kiện không thể thiếu khác. Theo V.I. Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã giành được chính quyền, bước vào xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, “... có một nhiệm vụ căn bản khác được đề lên hàng đầu, đó là: thiết lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, nghĩa là nâng cao năng suất lao động và do đó
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 39
(và nhằm mục đích đó) phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn”1. Năng suất lao động là một dấu hiệu quan trọng để xác định sự thắng thế của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản. Thế nhưng, cũng theo V.I. Lênin, nâng cao năng suất lao
động là nhiệm vụ khó khăn, cần nhiều thời gian. Người so sánh rằng chỉ cần vài ngày có thể giành được chính quyền, vài tuần có thể dẹp tan được sự phản kháng quân sự của giai cấp bóc lột, nhưng “... vô luận thế nào... cũng phải mất nhiều năm mới giải quyết được vững chắc nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động”2. Trong khi đó, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, tất cả đều có điểm xuất phát là các nước tư bản có trình độ phát triển thấp hoặc trung bình. Thời gian xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa hầu như còn rất ngắn. Liên bang Xôviết (Liên Xô) được thành lập và bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội năm 1921, khi vừa ra khỏi cuộc nội chiến. Mới chỉ có chưa đầy 20 năm hòa bình xây dựng, Liên Xô đã phải trải qua Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại với sự tàn phá vô cùng nặng về sức người và sức của. Hơn 20 triệu người chết, hàng loạt thành phố, làng mạc từ biên giới với Ba Lan cho đến phía tây Mátxcơva bị san phẳng. Từ sau năm 1945, Liên Xô chỉ có hơn 30 năm xây dựng trong hòa bình đồng thời phải đối mặt với cuộc chạy đua vũ trang do Mỹ và phe đế quốc khởi xướng. Tương tự như vậy, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng chỉ có xấp xỉ 30 năm hòa bình xây dựng. Nhưng những thành tựu mà các nước này đạt được là vô cùng to lớn, thậm chí có lĩnh vực vượt qua cả Mỹ và các nước tư bản Tây Âu. Ngoài việc thiết lập cuộc sống công bằng, cải thiện nhanh chóng về nhà ở, giáo dục, văn hóa cho nhân dân, Liên Xô còn đi đầu thế giới về khoa học công nghệ vũ trụ. Vào thời hoàng kim, _______________
1, 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.228-229, 229.
40 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
Cộng hòa dân chủ Đức là quốc gia đảm bảo điều kiện sống cho trẻ em tốt nhất thế giới. Một yếu tố không thể không nhắc tới, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã trở thành đối thủ chính trị không đội chung trời của chủ nghĩa tư bản ở
các nước phương Tây. Người dân các nước phương Tây và các dân tộc thuộc địa nhìn vào các nước xã hội chủ nghĩa như tấm gương, niềm hy vọng cho cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập, đòi dân chủ, dân sinh. Các thế lực tư bản chủ nghĩa nhìn vào đó như mục tiêu phá hoại phải loại bỏ bằng được. Cho đến hôm nay, khi Chiến tranh lạnh đã lùi xa hơn 25 năm, nhưng hầu như cách ứng xử trước đây vẫn còn nguyên trong những trừng phạt kinh tế mà các nước tư bản phương Tây nhằm vào nước Nga.
Đối với Việt Nam, chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước thống nhất theo con đường xã hội chủ nghĩa sau một cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài suốt 30 năm. Ngay sau đó, chúng ta lại phải đối mặt với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Trên thực tế, đất nước chỉ ra khỏi tình trạng chiến tranh từ năm 1989. Chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước từ con số không khi tất cả
những gì có được sau mấy năm hòa bình xây dựng ngắn ngủi đã bị tàn phá hoàn toàn. Hơn thế nữa, hậu quả chiến tranh vô cùng nặng nề. Hàng triệu thương, bệnh binh, người già, trẻ em không nơi nương tự. Đồng ruộng đầy bom, đạn, mìn còn lại. Những gì chúng ta có được hôm nay sau 30 năm xây dựng là đáng trân trọng, đáng tự hào, mặc dù chưa phải đã được như mong đợi. Đương nhiên là không thể so sánh với các nước tư bản đã có mấy trăm năm phát triển mà không cần quan tâm đến sự thống khổ, hy sinh của lớp lớp người lao động thuộc địa và ở chính quốc. Tuy nhiên, công việc xây dựng một
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 41
xã hội mới chưa từng có tiền lệ, không bao giờ là dễ dàng, có tính quy luật của nó, không thể xong trong thời gian ngày một, ngày hai, không thể đốt cháy giai đoạn.
Như vậy, rõ ràng là sai lầm khi chỉ nhìn vào bề ngoài những gì đang có ở các nước tư bản phát triển để so sánh đánh giá tính ưu việt của chế độ tư bản chủ nghĩa so với chế độ xã hội chủ nghĩa. Chỉ có bằng sự phân tích sâu sắc, toàn diện, bằng cách nhìn công bằng, lịch sử mới thấy được nguồn gốc, bản chất của sự giàu có của các nước tư bản phát triển, mới thấy hết được những thành công và đóng góp to lớn của chủ nghĩa xã hội cho sự phát triển của nhân loại và tiến bộ xã hội.
Về lý do thứ tư, phải chăng sự bảo thủ, trì trệ trong nhận thức, những sai lầm, hạn chế và khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin?
Trước hết, chúng ta không hề giấu giếm những sai lầm, hạn chế và khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI trình bày tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi... Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm...”1. Đảng cũng nghiêm khắc thừa nhận rõ rằng, tình trạng trên có những nguyên nhân _______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.60-61.
42 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
khách quan nhưng “trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan”. Đó là những hạn chế trong đánh giá, dự báo tình hình, trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, trong công tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy, chính quyền, v.v..
Việc có những sai lầm, khuyết điểm, khó khăn, hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước âu cũng là khó tránh khỏi. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi thời gian, nguồn lực to lớn. Chúng ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài suốt 30 năm. Cái khó khăn lớn nhất của chúng ta có lẽ trước hết không chỉ từ sự thiếu thốn về của cải, vật chất mà đa phần chính là ở lối nghĩ, tác phong mang nặng tính chất của nền văn hóa nông nghiệp. Không có kinh nghiệm tiền lệ, không có sự hỗ trợ của phe xã hội chủ nghĩa như trước đây. Nhiều thế lực đang dòm ngó, chống phá. Trong điều kiện ấy, những thành tựu mà công cuộc đổi mới đạt được là đặc biệt quan trọng. Chúng ta đã duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao trên 6,5% trong suốt 30 năm thực hiện chính sách đổi mới. Từ GDP bình quân đầu người chỉ 80 USD đã tăng lên mức trên 2.100 USD. Đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước cơ bản. Những điều đó là không thể phủ nhận và mặc nhiên đã được nhiều tổ chức, cá nhân trên thế giới, trong đó có nhiều học giả phương Tây thừa nhận.
Để có được những thành tựu to lớn đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những bước đi dũng cảm về nhận thức, đổi mới mạnh mẽ về chính sách kinh tế - xã hội. Từ một nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng, chúng ta đã chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 43
rồi chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ một nhà nước xây dựng theo mô hình nền chuyên chính vô sản, chúng ta đã chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, chỉ có quan hệ với các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa là chủ yếu, chúng ta đã mở cửa hội nhập quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tổng số 193 thành viên Liên hợp quốc, trong đó có 2 đối tác toàn diện đặc biệt, 15 đối tác chiến lược, 11 đối tác toàn diện, 2 đối tác chiến lược theo từng lĩnh vực.
Từ thực tế ấy, không thể có lý gì để nói rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo thủ, cố chấp hay định kiến mà không đổi mới nhận thức, đổi mới chính sách về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng như không thể đổ cho học thuyết Mác - Lênin có lỗi trong những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
*
* *
Tóm lại, sự sai lầm của những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ngay trong chính những cơ sở, lý do để họ phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin. Ở đây, hoặc là có sự hiểu nhầm về tính chất của học thuyết - chủ nghĩa Mác - Lênin, hoặc là biết vậy nhưng vẫn cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin với định kiến và mục đích chính trị là thay đổi nền tảng tư tưởng, đường lối, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng một lý thuyết khác, bằng một mô hình xã hội khác. Mục đích ấy đơn thuần chỉ để phục vụ cho lợi ích của một nhóm người nào đó, hoàn toàn không phải vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân, không phải vì lợi ích chung của dân tộc.
44 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
Song việc nghiên cứu, chỉ ra những sai lầm, xuyên tạc đối với chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đơn thuần là để bảo vệ sự trong sáng, tính khoa học, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó còn là sự cảnh báo, là lý do để những người cộng sản cảnh giác với nhận thức của mình về chủ nghĩa Mác - Lênin, để tìm hiểu rõ hơn, quán triệt sâu sắc, thường xuyên hơn quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử - cụ thể khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc đề ra đường lối, hoạch định chính sách xây dựng, phát triển đất nước.
45
GIÁ TRỊ TO LỚN CỦA TƯ TƯỞNG PH. ĂNGGHEN TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY*
Phriđrich Ăngghen (1820-1895) là người bạn, người đồng chí gần gũi thân thiết của C. Mác, người đã cùng với C. Mác sáng lập học thuyết Mác - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.
Ph. Ăngghen đã có những cống hiến rất to lớn về tư tưởng, lý luận, trở thành lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin gắn liền với những giá trị bền vững của tư tưởng Ph. Ăngghen bên cạnh tư tưởng của C. Mác. Những giá trị đó đã và đang có ý nghĩa soi sáng cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện mới, với những yêu cầu thực tiễn mới mẻ, đòi hỏi giai cấp công nhân, các đảng cộng sản, đảng công nhân phải vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Ph. Ăngghen để tiếp tục đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản nhằm thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, xóa bỏ mọi áp bức, bất công, mang lại cuộc sống hạnh phúc và sự phát triển toàn diện cho con người.
Sinh thời, Ph. Ăngghen rất khiêm tốn, luôn tự nhận mình là “cây vĩ cầm thứ hai bên cạnh C. Mác”, song những cống hiến to lớn về tư tưởng của Ph. Ăngghen đã được bản thân C. Mác
_______________
* Báo Nhân dân, ngày 27/11/2015.
46 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
ghi nhận là một khối óc sắc sảo, một pho bách khoa toàn thư. V.I. Lênin khẳng định: “Muốn đánh giá đúng đắn những quan điểm của Mác, tuyệt đối phải đọc những tác phẩm của người cùng tư tưởng và người cộng tác gần gũi nhất của Mác là Phriđrich Ăngghen. Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ăngghen”1. Những ai nghiên cứu về chủ nghĩa Mác đều thừa nhận tư tưởng vĩ đại của Ph. Ăngghen bên cạnh tư tưởng của Mác.
Hàng loạt tác phẩm riêng và viết chung với C. Mác đã thể hiện tư tưởng của Ph. Ăngghen có giá trị bền vững với nhiều luận điểm khẳng định thế giới quan và phương pháp luận mácxít giúp giai cấp công nhân, các đảng cộng sản, đảng công nhân có được nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Ý nghĩa thời đại của những tư tưởng của Ph. Ăngghen luôn mang tính thời sự đòi hỏi những người cộng sản phải vận dụng sáng tạo, đồng thời bổ sung phát triển những tư tưởng đó trước yêu cầu, điều kiện mới.
Giá trị to lớn soi sáng thời đại ngày nay của tư tưởng Ph. Ăngghen thể hiện tiêu biểu trên một số lĩnh vực mà chúng ta có thể nhận thấy và khẳng định:
Thứ nhất, Ph. Ăngghen đã cùng với C. Mác xây dựng, tạo lập nền tảng tư tưởng và hoàn thiện lý luận cho học thuyết cách mạng.
Từ sau cuộc gặp gỡ với C. Mác năm 1844, Ph. Ăngghen đã trở thành người bạn, người đồng chí gần gũi thân thiết của C. Mác, xây đắp nên một tình bạn cảm động và vĩ đại của các lãnh tụ vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. _______________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, 1980, t.26, tr.110.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 47
Cùng với C. Mác, Ph. Ăngghen đã viết hàng loạt tác phẩm, từng bước tạo lập cơ sở lý luận cho học thuyết mácxít. Các tác phẩm viết chung với C. Mác tiêu biểu như Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, cùng với nhiều công trình riêng của Ph. Ăngghen như Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh; Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản; Chống Đuyrinh; Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước đều phản ánh tầm vóc vĩ đại của Ph. Ăngghen trong việc bảo vệ và bổ sung, hoàn thiện học thuyết Mác. Ph. Ăngghen đã viết Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản dưới dạng cẩm nang hỏi và đáp, tạo tiền đề để viết tác phẩm chung với C. Mác: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - bản Cương lĩnh vĩ đại đầu tiên của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cần lao... Chỉ có Ph. Ăngghen mới hiểu C. Mác, xử lý phù hợp pho tư liệu to lớn và phong phú của C. Mác, tiếp tục hoàn thiện bộ Tư bản sau khi C. Mác mất.
Thứ hai, trên cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác (triết học, kinh tế học chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học) đều in đậm dấu ấn công lao, tư tưởng của Ph. Ăngghen.
Trên lĩnh vực triết học, Ph. Ăngghen đã vận dụng tài tình phương pháp duy vật biện chứng cùng với C. Mác tạo lập chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cho “chủ nghĩa duy vật hoàn bị” thành “công cụ nhận thức vĩ đại”. Ph. Ăngghen đã rất tài tình trong tìm hiểu nắm bắt các quy luật tự nhiên, giúp C. Mác làm sáng tỏ thêm mối liên hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên.
Trên lĩnh vực kinh tế học chính trị, Ph. Ăngghen đã thể hiện là một nhà kinh tế học, cùng với C. Mác hoàn thiện nhiều công trình lớn, đặc biệt là đã đi sâu nghiên cứu kinh tế tư bản chủ nghĩa, bóc trần bản chất bóc lột giá trị thặng dư - quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
48 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
Ở lĩnh vực chủ nghĩa xã hội khoa học, nhiều câu hỏi được Ph. Ăngghen trả lời đã giúp hai ông hoàn thiện Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, tạo lập và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội khoa học mà linh hồn của lý luận đó là làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của giai cấp công nhân, giai cấp có khả năng tổ chức lãnh đạo xã hội thông qua Đảng Cộng sản, tiến hành cải biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội trên phạm vi từng nước và trên thế giới.
Thứ ba, cùng với C. Mác, Ph. Ăngghen luôn luôn gắn lý luận và thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân vừa với tư cách nhà bác học vừa với tư cách người thầy của giai cấp công nhân thế giới.
Ph. Ăngghen đã lấy hoạt động thực tiễn để kiểm nghiệm, hoàn thiện và phát triển lý luận cách mạng. Chính cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, phong trào công nhân ở các nước Anh, Pháp, Đức... đã giúp Ph. Ăngghen và C. Mác hoàn thiện hệ thống lý luận cách mạng mácxít soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động cần lao.
V.I. Lênin từng nêu nhận xét: “Sau bạn ông là Các Mác..., Ăngghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh”1.
Nhiều tác phẩm của Ph. Ăngghen đều phản ánh sinh động thực tiễn, minh chứng cho mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa lý luận mácxít với thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân.
Thứ tư, Ph. Ăngghen luôn luôn bảo vệ, phát triển, bổ sung chủ nghĩa Mác, làm cho chủ nghĩa Mác luôn luôn có giá trị khoa học và cách mạng.
Ý nghĩa thời đại lớn nhất của học thuyết Mác là giá trị khoa học và cách mạng giúp giai cấp công nhân và các đảng cộng sản, đảng công nhân có được thế giới quan và phương pháp luận khoa học.
_______________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, 1978, t.2, tr.3.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 49
Chính Ph. Ăngghen với tư tưởng lỗi lạc của mình đã luôn luôn tiên phong trong cuộc đấu tranh để bảo vệ và phát triển, bổ sung thường xuyên chủ nghĩa Mác, khẳng định chân giá trị nhiều nguyên lý lý luận soi sáng cho cách mạng thế giới, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng chống lại những luận điểm thù địch chống đối chủ nghĩa Mác.
Thứ năm, những quan điểm có giá trị đặc biệt to lớn của Ph. Ăngghen trong khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa xã hội khoa học, đòi hỏi phải vận dụng, phát triển sáng tạo thường xuyên để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc.
Với Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph. Ăngghen đã trả lời hàng loạt vấn đề lý luận liên quan trực tiếp đến chủ nghĩa xã hội khoa học như: thế nào là giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản; quan hệ giữa giai cấp công nhân với Đảng Cộng sản; hiểu thế nào là xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; mối quan hệ ra sao giữa giai cấp công nhân, dân tộc và quốc tế; các giải pháp cần thiết để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa,...
Chính Ph. Ăngghen là người rất khách quan, khoa học khi đánh giá những giá trị, cống hiến và hạn chế trong tư tưởng của các học giả đại diện cho chủ nghĩa xã hội - đặc biệt là chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX. Ông đã luận giải rất tường minh chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, đồng thời nêu nhiều luận điểm có giá trị thời sự với các đảng cộng sản, đảng công nhân: “... chủ nghĩa xã hội trở
thành khoa học mà ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”. Thứ sáu, Ph. Ăngghen luôn luôn đề cao việc nắm bắt thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận.
Trong rất nhiều tác phẩm, Ph. Ăngghen đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức, đánh giá, tổng kết thực tiễn để
50 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận, nhất là lý luận về con đường hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Lý luận sẽ bị lạc hậu, sẽ bị thực tiễn sinh động phủ định nếu không nắm bắt, dự báo kịp thời những biến đổi của thời đại. Một quan điểm có giá trị phương pháp luận lớn cho các đảng cộng sản, đảng công nhân của C. Mác và Ph. Ăngghen viết trong Lời đề tựa cho xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
vào năm 1872 cho rằng: “Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II”1. Quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển luôn luôn được Ph. Ăngghen quán triệt vận dụng trong nhiều nhận thức thực tiễn giải quyết mối quan hệ gắn bó giữa lý luận với thực tiễn.
*
* *
Ph. Ăngghen sinh ra cách đây 195 năm và mất đi đã tròn 120 năm. Cuộc đời và hoạt động của Ph.Ăngghen gói trọn trong thế kỷ XIX, thế kỷ bão táp của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi công lý, công bằng và cải thiện đời sống. Tuy nhiên, những tư tưởng và thành tựu khoa học của ông vẫn còn nguyên vẹn giá trị và tính thời sự đối với thời đại ngày nay cũng như đối với công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo.
_______________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.18, tr.128.
51
QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẶC TRƯNG VÀ BẢN CHẤT
CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI -
GIÁ TRỊ THAM CHIẾU
TRONG BỐI CẢNH LỊCH SỬ HIỆN NAY*
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp cận, nghiên cứu và tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Người tìm thấy trong lý luận Mác - Lênin sự thống nhất biện chứng của sự giải phóng: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đặc biệt, từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nhanh chóng nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường của cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Bởi vì như Người nhận định: “...chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”1.
_______________
* Báo cáo tham luận tại Hội thảo “Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh và thời đại ngày nay”, tổ chức tại Trường Đại học Tổng hợp Xanh Pêtécbua, Liên bang Nga, ngày 18 và 19/5/2015.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.563.
52 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
Tuy nhiên, khác với các nhà kinh điển mácxít tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ kinh tế, Hồ Chí Minh bằng phương cách tiếp cận từ thực tiễn, nhất là từ hoàn cảnh, điều kiện thực tiễn lịch sử Việt Nam, Người đã đưa ra những quan điểm mới về chủ nghĩa xã hội, trong đó các quan niệm về đặc trưng và bản chất của chủ nghĩa xã hội được thể hiện một cách khoa học, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, đáp ứng với mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Khi nói về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội bao gồm nhiều chỉnh thể; một xã hội mà mọi thiết chế, cơ cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu giải phóng con người, phục vụ
con người, vì sự phát triển con người. Nhìn nhận chủ nghĩa xã hội từ lý tưởng, mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, thể hiện tính hơn hẳn tất cả các chế độ xã hội đã có trong lịch sử, Hồ Chí Minh cho rằng đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội trước hết được thể hiện bằng mục tiêu phục vụ lợi ích của Tổ quốc, phục vụ
nhân dân: “... Làm sao cho dân giàu, nước mạnh”1; “... làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”2, “là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”3; “làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do”, “... nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”4. Mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm hài hòa cả hai nhu cầu “cơm ăn, áo mặc” và “hoàn toàn tự do” của nhân dân, Hồ Chí Minh nêu rõ: Chủ nghĩa xã hội là “... Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là
_______________
1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.XI; t.5, tr.289; t.15, tr.670; t.14, tr.187.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 53
nhân dân lao động”1; chế độ xã hội chủ nghĩa là một “...xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng...”2. Đó là đặc trưng tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm bản chất xã hội chủ nghĩa của hệ thống lý luận và chính sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó, thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu (chỉ trên danh nghĩa), hoặc không đúng với lý tưởng và mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Với đặc trưng bản chất đó, chủ nghĩa xã hội đã khẳng định tính ưu việt, hơn hẳn so với các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, đồng thời cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, hình thành các giá trị mới, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát triển tự do. Cách đặt vấn đề tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục tiêu là một nét đặc sắc, thể hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh.
Khi nghiên cứu các nguyên lý phổ biến của học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, Hồ Chí Minh hoàn toàn thống nhất với các nhà lý luận mácxít về quy luật phát triển của lịch sử - xã hội loài người. Hồ Chí Minh nói: “Cách sản xuất và sức sản xuất phát triển và biến đổi mãi, do đó mà tư tưởng của người, chế độ xã hội, v.v. cũng phát triển và biến đổi... Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ
nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được”3.
Đó là sự vận động theo quy luật phát triển của lịch sử - xã hội, do đó Hồ Chí Minh cho rằng, cần phải thay thế phương
_______________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.VIII; t.11, tr.X; t.11, tr.600-601.
54 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lạc hậu, bằng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ hơn, mở đường cho sản xuất phát triển. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, về kinh tế phải tập trung trước nhất vào phát triển lực lượng sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống nhân dân. Bởi vì đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội là một chế độ có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất phát triển dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; sức sản xuất phát triển cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học - kỹ
thuật của nhân loại vào thực tiễn cuộc sống xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định, chủ nghĩa xã hội phải: “... có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến”1.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng lưu ý rằng, trong thời kỳ quá độ vẫn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhất là một nước như Việt Nam có điểm xuất phát thấp, từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, Việt Nam không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, trải qua thời kỳ quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Từ nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa, từng bước phấn đấu để xây dựng: “... xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”2; Người còn nói: “Chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động sản xuất để được ăn no, mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ”3. Đặc điểm này chi phối tất cả các đặc điểm khác và được thể hiện ra trên tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, cơ cấu xã hội - giai cấp, hệ thống mâu thuẫn, v.v..
_______________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.412; t.13, tr.438; t.13, tr.17.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 55
Về chính trị, theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội có các đặc trưng bản chất sau đây:
Thứ nhất là: Chế độ xã hội - xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân là người quyết định vận mệnh cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực. Chủ nghĩa xã hội là sự
nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân để giành lại quyền lợi cho nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân,...quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1. Chế độ xã hội chủ nghĩa làm cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua đại diện trong các cơ quan nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng; củng cố các hình thức dân chủ đại diện, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của nhân dân.
Thứ hai là: Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công - nông - lao động trí óc, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước có hai chức năng: Dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau, mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232.
56 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
mạnh phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác lại yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đóng vai trò quản lý, điều hành theo hướng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sự sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ và phục vụ quyền lợi của nhân dân.
Thứ ba là: Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội phải là chính đảng mácxít, đại diện cho dân tộc. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Khi Đảng ta đã trở
thành Đảng cầm quyền, mối quan tâm lớn nhất của Người là làm sao cho Đảng không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất, làm mất lòng tin của dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt mối quan hệ máu thịt với nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở dưới nhiều hình thức. Người yêu cầu: “... các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân...”.
Về văn hóa, đạo đức: Cách đây hơn 90 năm, khi gặp Hồ Chí Minh, nhà văn - nhà báo Xôviết Ôxíp Manđenxtam đã có nhận định: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hoá, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”1. Điều khác biệt giữa Hồ Chí Minh với nhiều nhà lý luận mácxít còn thể hiện ở quan niệm về xây dựng nền văn hóa mới và các giá trị đạo đức mới. Hồ Chí Minh cho rằng quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa nói chung và ở Việt Nam nói riêng, là _______________
1. Theo bài: “Thăm một chiến sĩ cộng sản”, đăng trên Tạp chí Ngọn lửa nhỏ, số 39.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 57
quá trình xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng các giá trị đạo đức mà trong đó kết tinh, kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, kết hợp truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc tế.
Người khẳng định, chủ nghĩa xã hội phải tạo ra được các giá trị văn hóa, các giá trị đạo đức mới để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; lấy phát triển văn hoá, đạo đức làm nền tảng xây dựng xã hội, làm động lực để phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng các giá trị văn hóa, các giá trị đạo đức mới (đạo đức cách mạng), đồng thời văn hóa cũng là tiền đề, là động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó không có gì trái với chủ nghĩa Mác - Lênin, mà thực chất là bổ sung cho học thuyết của Mác bằng cách đưa văn hóa, đạo đức thâm nhập vào bên trong của chính trị và kinh tế, tạo nên một sự thống nhất biện chứng giữa văn hóa - đạo đức và chính trị - kinh tế, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”1. Với phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải làm cho phong trào văn hóa có bề rộng, đồng thời phải có bề sâu. Trong khi đáp ứng mặt giải trí thì không được xem nhẹ nâng cao tri thức của quần chúng, đồng thời Người luôn luôn nhắc nhở phải làm cho văn hóa gắn liền với lao động sản xuất.
Về quan hệ xã hội: Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xây dựng cho được mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, thực hiện công bằng xã hội, làm cho mọi người dân đều có cuộc _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.246.
58 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
sống ấm no, hạnh phúc, được phát triển toàn diện. Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, trong xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ không còn sự đối lập giữa những người ở thành thị với những người ở nông thôn; giữa lao động chân tay và lao động trí óc, con người có điều kiện phát triển toàn diện, có sự phát triển hài hòa giữa xã hội và tự nhiên; quan hệ hòa bình, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng hợp lý, thực hiện nguyên tắc phân phối: “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động” (làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng, tất nhiên là trừ người già yếu và các em nhỏ1); quan hệ giữa các dân tộc đều bình đẳng, nhân dân miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
Có thể nói, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề phủ nhận lợi ích cá nhân; trái lại, đề cao, tôn trọng con người cá nhân, các giá trị và con người cá nhân, phát triển mọi năng lực cá nhân vì sự phát triển của xã hội và hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”2. Chủ nghĩa xã hội tạo mọi điều kiện cho sự phát triển nhân cách trong quan hệ hài hòa giữa cá nhân và xã hội. Xã hội tôn trọng mọi cá nhân, đồng thời cá nhân biết đề cao lợi ích xã hội, có thể hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích xã hội. Đây là trình độ phát triển cao của chủ nghĩa xã hội, bản chất đó thuộc về chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ trong đó “mình vì mọi người và mọi người vì mình”.
_______________
1. Nguyên văn theo quan điểm của C. Mác - Ph. Ăngghen: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” (TG.).
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.610.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 59
Các đặc trưng bản chất về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh nêu trên, thể hiện một hệ thống giá trị kế thừa các di sản tinh hoa văn hóa, đạo đức truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa thế giới. Với ý nghĩa đó, những quan niệm về đặc trưng bản chất về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thể hiện tính khoa học, sát hợp với quy luật phát triển của lịch sử, đồng thời phản ánh năng lực tổng kết khái quát từ thực tiễn lịch sử của Người.
Phương pháp tiếp cận của Hồ Chí Minh và những quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội là sự tổng hợp hòa quyện với nhau từ trong cấu trúc nội tại của nó, một hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xã hội, đó là độc lập, tự do, bình đẳng, công bằng, dân chủ, bảo đảm quyền con người, bác ái, đoàn kết, hữu nghị... Trong đó có những giá trị tạo tiền đề, có giá trị hạt nhân. Một khi tất cả các giá trị đó hoàn thành, thì loài người sẽ vươn tới lý tưởng cao nhất chủ nghĩa xã hội, đó là “liên hợp tự do của những người lao động” mà C. Mác, Ph. Ăngghen đã dự
báo. Ở đó, cá tính của con người được phát triển đầy đủ, năng lực con người được phát huy cao nhất, giá trị con người được tôn trọng. Nhưng theo Hồ Chí Minh, đó là một quá trình phấn đấu khó khăn, gian khổ, lâu dài, không thể nôn nóng đốt cháy giai đoạn. Bởi vậy, theo Hồ Chí Minh, cơ sở quan trọng để đánh giá tính ưu việt của một chế độ xã hội không phải chỉ là những lý tưởng, khẩu hiệu được nêu ra, mà là tính chất, mục tiêu và kết quả của cuộc cách mạng mang lại lợi ích cho ai, cho tầng lớp, giai cấp nào trong xã hội. Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra rằng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hoàn toàn không bằng phẳng, mà có vô vàn khó khăn, phức tạp phải vượt qua, Người nhận định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng
60 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
phức tạp, gian khổ và lâu dài”1; “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”2, bởi: “biến đổi một xã hội cũ thành một xã hội mới, không phải chuyện dễ”3; “... thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều”4. Do đó: “...chớ ham làm mau, ham rầm rộ... Đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần”5. Người còn căn dặn phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều rập khuôn, coi thường quy luật vận động khách quan của tự nhiên và xã hội. Hồ Chí Minh viết: “...tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản). Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)...”6. Thiết tưởng đó là bài học quý giá, những cảnh báo từ rất sớm của Người cho những ai có tư duy nôn nóng, chủ quan, giáo điều, ảo tưởng, xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến thất bại.
Tình hình thế giới và trong nước hiện nay đã có nhiều thay đổi: Chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng về lý luận và hệ thống chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới bị đổ vỡ, nhưng có thể nói những quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội vẫn là những quan niệm giàu tính khoa học, tính hiện thực và tính nhân văn cao cả.
Có thể khẳng định chắc chắn rằng, cho dù thế giới đã đổi thay, nhưng những quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội, trước hết là những quan niệm của Người về đặc trưng ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, với _______________
1, 2, 3, 4, 5, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.216; t.9, tr.465; t.13, tr.376; t.12, tr.402; t.9, tr.466; t.8, tr.293.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 61
mục tiêu cao cả là xóa bỏ chế độ người bóc lột người; giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức, bất công, hướng tới xây dựng một chế độ xã hội: “... không có người bóc lột người, mọi người sung sướng, vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người”1 không bao giờ bị lạc hậu. Bởi những quan niệm của Hồ
Chí Minh luôn chứa đựng các thang giá trị mang tính nhân văn, chứa đựng các giá trị hằng số văn hóa phổ biến (chân, thiện, mỹ), mà nhân dân lao động ở bất cứ thời đại nào, quốc gia nào, dân tộc nào trên thế giới cũng đều hướng tới. Riêng đối với Việt Nam, bằng phương pháp tiếp cận khoa học, biện chứng, lý luận gắn liền với thực tiễn, những quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội không hề mang tính giáo điều, hình thức, trái lại rất thiết thực và phù hợp với điều kiện thực tiễn lịch sử, trở thành cẩm nang dẫn dắt cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Trong bối cảnh lịch sử hiện nay, quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng và bản chất của chủ nghĩa xã hội được tham chiếu, nhìn nhận dưới góc độ các chân giá trị mới.
Sinh thời, Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức phải dựa vào nguồn lực con người. Do đó, nhiệm vụ bồi dưỡng sức dân, động viên khuyến khích nhân dân, chăm lo phát triển nhân tài, để mọi nguồn lực trong xã hội toàn tâm, toàn lực phục vụ xây dựng đất nước. Muốn động viên được hết thảy mọi _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.70.
62 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
tầng lóp xã hội phục vụ cho công cuộc cách mạng, phải tôn trọng và khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động, quan tâm đến từng cá nhân, từng đối tượng, con người cụ thể. Coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân trong mối quan hệ thống nhất với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Thực hiện công bằng xã hội trong phân phối lợi ích, chống tham ô, thiên vị. Phải tạo ra được nguồn lao động chất lượng cao, đồng thời phát huy mạnh mẽ các nhân tố bên trong kết hợp với các nguồn lực bên ngoài, phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại.
Xu thế vận động và phát triển của thế giới hiện nay là toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phải nhanh chóng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó phải chú trọng phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, có cơ chế, chính sách đúng đắn để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Mỗi quốc gia, dân tộc phải tăng cường hợp tác quốc tế, đi đôi với việc thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính nhằm góp phần làm gia tăng tiềm lực quốc gia.
Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, chú trọng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, coi đó là cơ sở nền tảng để có thể loại trừ các yếu tố văn hóa ngoại lai độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú, làm giàu nền văn hóa dân tộc. Trên cơ sở phát triển văn hóa, phải tăng cường xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống, ở tất cả các cấp, trên tất cả các lĩnh vực, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 63
phải đi đôi với kỷ cương, kỷ luật; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bộ máy nhà nước phải tinh gọn, hợp lý, trong sạch, vững mạnh. Để có được một Nhà nước vững mạnh, trong sạch, thực sự là của dân, do dân, vì dân, phải đặc biệt quan tâm, chăm lo đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như Hồ Chí Minh đã nhận định: “... trong số người muốn lên chủ nghĩa xã hội thì cán bộ là đầu tiên và cốt cán”1, vì vậy phải có cơ chế kiểm soát, ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Vận dụng sáng tạo những quan điểm Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh và tình hình cách mạng mới, vai trò của Đảng cầm quyền là phải tiếp tục nghiên cứu tìm tòi, tổng kết lý luận - thực tiễn về con đường, bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sao cho ngày càng sát thực, cụ thể hóa, để vạch ra đường lối, bước đi phù hợp, lãnh đạo cách mạng thành công.
Tóm lại, xuất phát từ tinh thần yêu nước, thương dân, khát khao độc lập cho đất nước, tự do cho nhân dân, Hồ Chí Minh đã tiếp cận chủ nghĩa xã hội. Dựa trên cơ sở phương pháp luận mácxít (lịch sử và biện chứng), Hồ Chí Minh đã xây dựng nên các quan niệm lý luận mới về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội. Những quan niệm sáng tạo của Người trong đó hướng tới mục tiêu phục vụ cho quyền lợi và khát vọng của dân tộc, hòa quyện trong tình yêu giai cấp, yêu nhân loại, đượm tính nhân văn, không có ranh giới quốc gia ngăn cách. Những quan niệm đó sẽ tiếp tục phát huy trong bối cảnh lịch sử hiện nay và cả tương lai.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.598.
64
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH -
GIÁ TRỊ NHÂN VĂN VÀ PHÁT TRIỂN*
Là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa thế giới, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát triển, tỏa sáng cùng với quá trình đấu tranh giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam, để lại những giá trị lâu bền đối với kho tàng lý luận cách mạng của Việt Nam và thế giới. Tư tưởng cũng như hoạt động thực tiễn của Người ngời sáng tinh thần nhân văn, hướng tới giải phóng con người, do con người và vì con người, chứa đựng nhiều giá trị mà nhân loại hiện nay đang hướng tới.
1. Giá trị nhân văn và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xác định mục tiêu và con đường cách mạng Việt Nam
Sau Hiệp ước Patơnốt (1884) được ký giữa đại diện Chính phủ Pháp và đại diện triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân Việt Nam rơi vào ách áp bức “một cổ hai tròng”. Độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân
_______________
* Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2015.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 65
trở thành ước mơ, khát vọng cháy bỏng của bất kỳ người dân yêu nước nào, trong đó có Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Sau này, khát vọng đó đã chi phối toàn bộ tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Người; trở thành ngọn cờ chiến đấu và là mục tiêu suốt đời hy sinh, cống hiến của Hồ Chí Minh, trở
thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn của Người. Tiếp cận vấn đề dân tộc dưới góc độ của một người dân mất nước, Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm: độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Độc lập dân tộc là điều kiện, là tiền đề cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam, vì vậy, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”1 đã trở thành một giá trị vĩnh hằng, chân lý thời đại trong tư tưởng của Người. Năm 1945, trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”2. Năm 1946, trước âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”3.
Là một chiến sĩ quốc tế vô sản chân chính, đối với Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh giải phóng không chỉ là của giai cấp vô sản, mà là của những người lao động trên khắp hành tinh, không phân biệt dân tộc, giai cấp, tôn giáo, màu da. Người không chỉ
đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình, nhân dân mình _______________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.130; t.4, tr.3; t.4, tr.534.
66 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
mà góp phần đấu tranh giành độc lập, tự do cho các dân tộc thuộc địa, cho nhân loại cần lao. Quan điểm độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc; đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc khác như là đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình của Hồ Chí Minh là những giá trị vượt thời đại mà không phải nhà tư tưởng hay nhà cách mạng nào cũng có đủ
lý trí và tình cảm để có được. Trong Lời kêu gọi ủng hộ báo Le Paria - tờ báo do Người là đồng sáng lập và là chủ bút, Người viết: “Báo kêu gọi họ, tổ chức họ, nhằm mục đích giải phóng những người bị áp bức khỏi các lực lượng thống trị, thực hiện tình yêu thương và bác ái”1 và “Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được: đó là giải phóng loài người”2.
Vượt qua những lối mòn trong con đường cứu nước của các bậc tiền bối, sau gần 10 năm tìm tòi, nghiên cứu, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”3. Kết luận đó là kết quả
của quá trình khảo cứu những cuộc đấu tranh không thành công của phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, từ kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và từ nhận thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng vô sản, đồng thời từ việc nắm bắt được quy luật, xu thế vận động, phát triển của thời đại.
Yêu thương con người, khát khao giải phóng con người đã trở thành động cơ mạnh mẽ, thành mục tiêu, lý tưởng cao đẹp, biến thành ý chí và hành động của Hồ Chí Minh. Gắn độc lập _______________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.491; t.1, tr.491; t.12, tr.30.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 67
dân tộc với tự do, hạnh phúc của nhân dân là tiền đề cốt lõi dẫn đến sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam - con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường đúng đắn để biến khát vọng, mục tiêu thành hiện thực, đồng thời cũng chính là sự khác biệt giữa con đường cứu nước của Hồ Chí Minh với các bậc tiên liệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”1. Vì vậy, sau khi giành được độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người đều được sung sướng, tự do.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chính là con đường giải phóng con người một cách triệt để nhất, mang tính nhân văn và nhân bản sâu sắc nhất. Con đường đó đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực, gắn kết sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và cuối cùng là đi đến giải phóng con người; từ xóa bỏ áp bức dân tộc, trả lại độc lập, tự do dân tộc; xóa bỏ bóc lột giai cấp tiến tới xây dựng một xã hội không có giai cấp vươn đến cái đích cuối cùng chính là giải phóng con người, xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch con người, làm cho mọi người được hưởng tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát huy năng lực, phát triển toàn diện cá nhân. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, là tiền đề để tiến lên thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội là cơ sở, điều kiện bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, một _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64.
68 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
biểu trưng mẫu mực về sự uyên bác của Hồ Chí Minh trong việc nghiên cứu những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của các nước thuộc địa như Việt Nam. Những luận điểm đó đặt cơ sở và là tiền đề quan trọng cho hành trình phát triển đi tới tương lai tươi sáng của dân tộc. Con đường đó đã dẫn dắt nhân dân ta tiến hành cách mạng thành công, giành độc lập dân tộc, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ lên vị trí của người làm chủ, xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng phát triển và phồn vinh.
2. Giá trị nhân văn và phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực của cách mạng Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”1. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, với tình thương yêu, kính trọng, tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh và năng lực sáng tạo vô tận của con người, Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân là lực lượng quyết định sự thành bại của cách mạng. Ngay từ năm 1921, Người đã nhìn ra sức mạnh vĩ đại của nhân dân các dân tộc thuộc địa: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.453.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 69
hoàn toàn”1. Người đi đến khẳng định, dù trong cách mạng giải phóng dân tộc hay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có lực lượng của nhân dân thì việc khó mấy, to mấy cũng làm được:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”2.
hay:
“Gốc có vững cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”3.
Theo Hồ Chí Minh, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế là rất quan trọng nhưng không được ỷ lại, dựa dẫm; không để ảnh hưởng đến độc lập, tự chủ của đất nước. Theo Người, “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ
thì không xứng đáng được độc lập”4. Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ của nhân dân trong cách mạng: “...đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”5, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính là một nhân tố đưa cách mạng Việt Nam tới thành công.
Đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là yêu cầu khách quan của cách mạng, là bài học lớn, là chân lý của thời đại, chân lý của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”6.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt trong một Mặt trận Dân tộc thống nhất là điều kiện quyết định thắng lợi của cách mạng. Vượt qua các bậc tiền bối và những người cùng thời trong việc tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ
Chí Minh yêu cầu mọi con dân nước Việt hay tất cả con rồng _______________
1, 2, 3, 4, 5, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.48; t.15, tr.280; t.5, tr.502; t.7, tr.445; t.3, tr.596; t.13, tr.119.
70 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
cháu tiên, con Lạc cháu Hồng, dù sống ở trong nước hay định cư ở nước ngoài cùng đoàn kết, đồng tâm hiệp lực trong Mặt trận Dân tộc thống nhất, có khối liên minh công nông làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Khối đoàn kết đó phải luôn đặt lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập tự do, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi cơ bản của toàn dân lên trên hết, trước hết, đồng thời quan tâm giải quyết từng bước quyền lợi chính đáng của các
giai cấp, các tầng lớp nhân dân và của mỗi cá nhân. Với niềm tin mãnh liệt vào phẩm giá, tính hướng thiện của con người, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần khoan dung, chủ động xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau cùng hướng tới tương lai. Ngay cả đối với những người lầm đường, lạc lối, Người cũng yêu cầu phải có tấm lòng nhân ái, khoan dung; phải thực hành chữ bác ái, sẵn sàng tha thứ, không truy cứu những lỗi lầm đã qua; nặng về giáo dục, nhẹ về xử phạt; dìu dắt, khuyến khích, nâng đỡ họ, giúp họ bỏ đường tà theo đường chính, hoan nghênh họ cùng phấn đấu cho sự nghiệp chung của dân tộc vì họ đều là máu đỏ da vàng, cũng đều là con dân nước Việt, đều có ít hay nhiều lòng ái quốc.
Để phát huy được sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phát huy vai trò của Đảng Cộng sản trong tổ chức, tập hợp lực lượng và lãnh đạo cách mạng. Sớm phát hiện ra những khác biệt căn bản giữa Việt Nam với các nước phương Tây, nhạy bén với những dấu hiệu của thời đại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin khi chỉ ra quy luật ra đời của Đảng Cộng sản chính là sản phẩm kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 71
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Người khẳng định: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”1. Người nhiều lần khẳng định, Đảng ta là một Đảng cách mạng, một Đảng vì dân, vì nước, do đó tất cả mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đều hướng tới mục tiêu cao nhất là phục vụ con người, phục vụ nhân dân. Tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Người đã chỉ rõ: “... Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân”2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân nhưng Đảng không phải từ trên trời sa xuống mà Đảng ra đời và phát triển từ trong lòng xã hội, từ trong nhân dân, do nhân dân nuôi dưỡng, che trở và bảo vệ, giành được thắng lợi là do phát huy được vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân. Vì vậy, Đảng phải luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, “... cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”3. Hồ Chí Minh xác định, gắn bó với nhân dân không phải là vấn đề sách lược trong một thời điểm lịch sử nhất định, càng không phải nhằm lợi dụng lòng tin và sức mạnh của nhân dân để thực hiện mục đích của giai cấp mình mà là một thuộc tính bản chất của Đảng Cộng sản, là cơ sở xã _______________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.289; t.12, tr.402; t.5, tr.326.
72 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
hội cho sự tồn tại và phát triển của Đảng. Cán bộ, đảng viên phải luôn luôn ghi nhớ mình vừa là người lãnh đạo cũng đồng thời là “công bộc”, là “đày tớ” của nhân dân, phải luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”1. Xem xét, đánh giá về Đảng trong sự vận động và phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh trăn trở với sứ
mệnh của đội tiên phong của giai cấp công nhân và dân tộc, lực lượng tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của toàn dân tộc. Người cũng tiên liệu về những nguy cơ của một Đảng cầm quyền đó là quá trình ngày càng gia tăng của sự thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống... của đội ngũ cán bộ, đảng viên với những biểu hiện như trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, đó là những trở
lực của sự phát triển. Vì vậy, Người yêu cầu Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới; Đảng phải là đạo đức, là văn minh; phải đẩy lùi mọi biểu hiện thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền.
3. Giá trị nhân văn và phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển xã hội
Giá trị nhân văn và phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh không giới hạn trong khuôn khổ giải quyết vấn đề giải phóng con người khỏi ách nô lệ, kìm kẹp của chế độ thực dân phong kiến mà còn là giải quyết vấn đề xây dựng vị thế con người, trả
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.672.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 73
lại những giá trị đích thực thuộc về con người với tư cách là chủ và làm chủ trong xã hội.
Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của học thuyết Mác - Lênin, không chỉ luận giải sự ra đời và bản chất của chủ nghĩa xã hội từ phương diện kinh tế, đồng thời còn từ khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam; từ phương diện văn hóa và đạo đức, hướng tới các giá trị nhân đạo, nhân văn mácxít. Hồ Chí Minh khẳng định, chủ nghĩa xã hội là đem lại những gì tốt đẹp nhất cho con người, mọi giá trị cá nhân đều được tôn trọng, mọi cá nhân được phát triển một cách toàn diện trong mối quan hệ hài hòa với con người xã hội.
Trên hành trình xây dựng một nước Việt Nam ngày càng phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: giành được độc lập rồi phải ra sức kiến quốc. Khát vọng của Người là xây dựng một nước Việt Nam phát triển hùng cường: “Sau 80 năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn cầu”1.
Vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng là vấn đề nhà nước. Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nhà nước phản ánh những giá trị tiến bộ và nhân văn của thời đại và Người đã hiện thực hóa tư tưởng đó trong xây dựng mô hình Nhà nước Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Nhân dân Việt Nam từ thân phận của người nô lệ trở thành người làm chủ, có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, của dân tộc; là người tổ chức nên các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương thông qua thực hiện chế độ
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.34-35.
74 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín để bầu các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền lực nhà nước; Nhà nước lấy mục tiêu cao nhất là phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong Nhà nước đó, Hiến pháp và pháp luật được xây dựng dựa trên ý chí và nguyện vọng của nhân dân, là phương tiện hữu hiệu trong quản lý xã hội, làm cho đất nước ngày càng ổn định và phát triển.
Khi nói đến chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh trước hết đến yếu tố kinh tế. Người ý thức rất rõ, xây dựng và phát triển kinh tế vững mạnh là để không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân. Từ luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kinh tế quyết định chính trị và chính trị tập trung ở
kinh tế, Hồ Chí Minh luận giải một cách dễ hiểu “có thực mới vực được đạo”1, “dân dĩ thực vi thiên”2. Người nhận thức được vai trò của lực lượng sản xuất là điều kiện vật chất cho sự tồn tại và phát triển; nhìn thấy được tiềm năng của các thành phần kinh tế; quan tâm tới đội ngũ doanh nhân Việt Nam; chú trọng xây dựng 5 loại hình kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác xã, kinh tế cá nhân, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Ngay từ năm 1953, trong tác phẩm Thường thức chính trị, khi bàn về chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ, Hồ Chí Minh nêu ra bốn điểm mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta: công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, công nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài.
Hồ Chí Minh quan niệm kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội tồn tại ngang nhau, có vị trí và vai trò vừa độc lập, vừa bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Người đã sớm có tầm nhìn về sự đồng _______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.754; t.13, tr.375.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 75
thuận giữa phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, giữa phát triển với bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên. Đó là điều kiện tạo sự ổn định và phát triển lâu dài.
Quan tâm tới đời sống vật chất và tinh thần của con người, Hồ Chí Minh chủ trương chú trọng phát triển văn hóa. Ngay từ năm 1943, quan niệm về văn hóa của Người đã hàm chứa nhiều giá trị mang tính thời đại, thể hiện tầm nhìn chiến lược trong xác định vị trí, vai trò của văn hóa: “... Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”1. Người hướng tới xây dựng một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng trong đó kế thừa những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với tinh thần quốc tế trong sáng. Trong nền văn hóa đó, con người được xác định vừa là động lực, vừa là mục tiêu, đồng thời là thước đo của sự phát triển về văn hóa. Xác định văn hóa cũng là một mặt trận; văn hóa soi đường cho quốc dân đi, Hồ Chí Minh đã đưa những giá trị văn hoá đi sâu vào trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, coi văn hóa là nguồn sức mạnh, là động lực, mục tiêu, một hệ điều tiết xã hội trong quá trình phát triển. Sinh thời, Người đặc biệt chú ý canh tân và phát triển đất nước bằng cách xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí, phát triển giáo dục đào tạo, tạo điều kiện cho mỗi người phát huy được hết mọi năng lực sẵn có của mình. Luận điểm của Người: “Một dân tộc
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.458.
76 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
dốt là một dân tộc yếu”1 mang tính thời đại, phản ánh điều kiện để phát triển của bất kỳ một quốc gia nào.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng của người cách mạng, “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”2, “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”3. Khi cách mạng đang lúc gian khổ cũng như khi đã thành công, xây dựng và rèn luyện đạo đức luôn là một đòi hỏi cấp thiết. Đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh xây dựng là kết tinh những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, của nhân loại trong lịch sử, đạo đức cộng sản được vận dụng phù hợp với cách mạng Việt Nam, hướng tới những giá trị tốt đẹp của con người, giá trị chân, thiện, mỹ trong giải quyết các mối quan hệ với tự nhiên và xã hội. Những khái niệm, phạm trù, mệnh đề trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh như trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư mang bản chất giai cấp công nhân, tính cách mạng và nhân văn sâu sắc. Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức cách mạng giống như người trồng lúa phải có công chăm bón, diệt cỏ, trừ sâu lúa mới tốt, mỗi người phải phấn đấu bền bỉ suốt đời để cho phần tốt, phần thiện nảy nở như hoa mùa xuân còn phần xấu mất dần đi, những vết tích xấu xa của xã hội cũ, những tiêu chuẩn đạo đức đã lỗi thời và _______________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.7; t.5, tr.292; t.11, tr.601.
Phần thứ nhất: VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 77
lạc hậu, những cái ác, cái xấu, cái vô đạo đức trong mỗi người và trong xã hội cần phải đẩy lùi.
Đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cũng vượt qua giới hạn chật hẹp trong phạm vi một quốc gia dân tộc, mở rộng trên phạm vi thế giới, đó là tinh thần quốc tế trong sáng và tình yêu thương con người, yêu thương đồng loại, đặc biệt là những người lao động, những người bị áp bức trên toàn thế giới.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt đến xây dựng con người - nguồn lực quyết định sự thành công của sự nghiệp xây dựng và phát triển xã hội. Người chỉ rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”1, “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”2. Theo Hồ Chí Minh, con người xã hội chủ nghĩa hay còn gọi là con người mới là con người toàn diện, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể, có tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình; có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, có tinh thần quốc tế trong sáng, lối sống lành mạnh; có tác phong xã hội chủ nghĩa: làm việc có kế hoạch, biện pháp, có quyết tâm, tổ chức, kỷ luật, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; không sợ khó, sợ khổ, làm việc vì lợi ích của xã hội, tập thể và của bản thân; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ để xứng đáng là người chủ và người làm chủ.
Đối với Hồ Chí Minh, việc xây dựng con người phải đặt ra từ đầu và cần được quan tâm suốt quá trình phát triển của đất _______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.66; t.11, tr.528.
78 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁCH MẠNG VÀ ĐỔI MỚI
nước, vì vậy, không cần phải chờ cho kinh tế, văn hoá phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng xong con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Giá trị nhân văn và phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh có sức lay động hàng triệu con tim, khối óc không chỉ của những người Việt Nam mà còn với nhân dân yêu chuộng hòa bình và tiến bộ trên thế giới. Tư tưởng của Người không chỉ là sự cảm thông, chia sẻ với nỗi đau, mất mát, sự nhọc nhằn của con người mà quan trọng hơn cả là đã thức tỉnh, tổ chức họ đứng lên đấu tranh chống áp bức dân tộc, chống bất công xã hội, chống nghèo đói, lạc hậu, dốt nát, hướng tới độc lập, tự do, hạnh phúc bằng con đường thực sự cách mạng và khoa học, phản ánh ước mơ, nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với điều kiện thực tế của xã hội Việt Nam, đồng thời phản ánh quy luật, xu hướng vận động của thời đại.
*
* *
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ biệt chúng ta về với thế giới người hiền nhưng giá trị nhân văn và phát triển trong tư tưởng của Người vẫn đang tỏa sáng cùng với dân tộc và thời đại. Tư tưởng của Người đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam; là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc. Giá trị nhân văn và phát triển trong tư tưởng của Người là cơ sở để Đảng ta xây dựng chủ trương, đường lối phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại... nhằm xây dựng một nước Việt Nam phát triển, hướng tới con người, do con người và vì con người trong thời kỳ hội nhập và mở cửa. Nhiều luận điểm và mệnh đề trong tư