🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Số Vấn Đề Về Bảo Vệ Tổ Quốc Trong Thời Kỳ Mới
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG
Phó Chủ tịch Hội đồng
Q. Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
NGUYỄN ĐỨC TÀI
NGUYỄN NGUYÊN
NGUYỄN HOÀI ANH
2
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong những năm qua, nhất là hơn 30 năm đổi mới đất nước, Đảng ta đã thường xuyên đổi mới tư
duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Đồng thời, đã tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hệ thống quan điểm lý luận của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, nhất là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
5
khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, vừa tạo ra những thời cơ, thuận lợi mới, vừa có những nguy cơ, khó khăn, thách thức mới tác động đến công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang và sẽ đặt ra nhiều vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn cần được đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ hơn.
Với mong muốn giúp độc giả có thêm tài liệu tham khảo, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản lần thứ hai, có chỉnh sửa cuốn sách Một số vấn đề về bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới của Thiếu tướng, PGS.TS. Nguyễn Vĩnh Thắng. Cuốn sách tập hợp một số bài viết của tác giả những năm gần đây
6
về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân trong thời kỳ mới, trong đó một số vấn đề đã được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong hoạt động lý luận của tác giả và đã có chỉnh sửa, cập nhật thông tin mới.
Trong cuốn sách này, tác giả đã đi sâu nghiên cứu, phân tích, làm rõ thêm những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước đã, đang và sẽ có sự vận động, biến đổi mới tác động đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Cuốn sách được chia làm bốn phần:
Phần thứ nhất: Bảo vệ Tổ quốc và mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Phần thứ hai: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong thời kỳ mới
Phần thứ ba: Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng trong thời kỳ mới
Phần thứ tư: Đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
7
Hy vọng đây là cuốn sách tham khảo hữu ích cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quán triệt và thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 8 năm 2018
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT8
Phần thứ nhất
BẢO VỆ TỔ QUỐC
VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA XÂY DỰNG VỚI BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
9
10
HỌC THUYẾT CỦA V.I. LÊNIN
VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VỚI SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ MỚI
Trung thành và phát triển một cách sáng tạo tư tưởng vũ trang quần chúng bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa của C. Mác và Ph. Ăngghen phù hợp với những điều kiện lịch sử mới; từ thực tiễn công cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền Xôviết non trẻ, bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới được ra đời từ sau cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, V.I. Lênin đã tổng kết thành hệ thống quan điểm lý luận mới, bổ sung, phát triển, hoàn thiện thêm những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, xây dựng nên học thuyết bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, một bộ phận cấu thành quan trọng trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội trong những thập kỷ vừa qua cũng như trong điều kiện hiện nay cho thấy, học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I. Lênin đã,
11
đang và sẽ là cơ sở cho mọi học thuyết, đường lối quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng.
Trong học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin đã nêu lên hàng loạt vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc đối với công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa như: về tính tất yếu
khách quan phải bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; về mục tiêu, nhiệm vụ, phương thức, lực lượng và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vai trò quản lý của Nhà nước đối với công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; về xây dựng và củng cố khả năng quốc phòng của đất nước; về việc thành lập tổ chức quân sự, xây dựng quân đội kiểu mới - Hồng quân Công nông - để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa; về vấn đề vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; về mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, v.v..
Khẳng định tính tất yếu khách quan phải bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin đã đi từ sự phân tích một cách có cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn từ quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản và hệ thống tư bản chủ nghĩa đối với tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới. V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa xã hội không thể đồng thời thắng lợi
12
trong tất cả các nước. Trước hết, nó thắng lợi trong một nước, hoặc trong một số nước, trong khi các nước khác, trong một thời gian nào đó, vẫn còn là những nước tư sản hay tiền tư sản. Tình trạng đó không những sẽ gây ra những va chạm, mà còn làm cho giai cấp tư sản các nước khác trực tiếp muốn tiêu diệt giai cấp vô sản chiến thắng của nước xã hội chủ nghĩa”1. Vì vậy, V.I. Lênin khẳng định: “Không cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa, thì chúng ta không thể tồn tại được. Giai cấp thống trị không bao giờ nhường chính quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai cấp bị trị phải chứng minh trên thực tế rằng họ không những có khả năng lật đổ bọn bóc lột, mà còn có khả năng tự tổ chức, huy động hết thảy để tự bảo vệ lấy mình”2.
Như vậy, cùng với việc tổ chức xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, một nhiệm vụ tất yếu, rất quan trọng, phản ánh cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp để giải quyết mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được đặt ra cho tất cả các nước xã hội chủ nghĩa là: bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chống mọi âm mưu và hành
động can thiệp, xâm lược, lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, thù địch.
____________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t. 30, tr. 173.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 38, tr. 165-166.
13
Từ trước khi nổ ra cuộc Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lênin đã chuẩn bị những tiền đề lý luận để giải quyết vấn đề bảo vệ các thành quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, V.I. Lênin đã nêu lên sự cần thiết phải tỏ rõ thái độ của giai cấp công nhân đối với vấn đề bảo vệ Tổ quốc. Khẳng định tính tất yếu khách quan của việc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin tuyên bố: “Kể từ ngày 25 tháng Mười 1917, chúng ta là những người chủ
trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành “bảo vệ Tổ quốc”, những cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới, là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc, bảo vệ nước Cộng hòa Xôviết với tính cách là một đơn vị trong đạo quân thế giới của chủ nghĩa xã hội”1.
Trong học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin đã đề cập đến mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc, bảo vệ Nhà nước Xôviết non trẻ, bảo vệ thành quả cách mạng. Trong điều kiện công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chủ yếu phải chống lại sự tấn công bằng vũ trang của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động mưu toan lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa, hòng giành lại cái “thiên đường” đã ____________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 36, tr. 102.
14
mất, thì trong phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh đến việc giai cấp vô sản và quần chúng lao động phải tiến hành một cuộc chiến tranh bằng vũ
trang để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đề cập đến lực lượng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin nhấn mạnh lực lượng của quần chúng lao động, của công - nông - binh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự tổ chức, quản lý của chính quyền Xôviết. V.I. Lênin đã chỉ ra sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sức mạnh tổng hợp, cả
sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, đặc biệt, trong điều kiện còn có những khó khăn nhất định về vật chất, về vũ khí trang bị kỹ thuật, V.I. Lênin đã đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng và phát huy sức mạnh tinh thần trong chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin cho rằng: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”1. V.I. Lênin đã quan tâm đến việc phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò tổ chức, quản lý của Nhà nước Xôviết trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin chỉ rõ: “Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu tất cả các tổ chức của Đảng, trước tiên, phải đem toàn lực ra để thực hiện những biện pháp sau đây, mà các tổ chức của Đảng và nhất là các công ____________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 147.
15
đoàn phải thi hành, nhằm làm cho các tầng lớp đông đảo hơn nữa của giai cấp công nhân tham gia tích cực vào công cuộc phòng thủ đất nước”1.
Trong học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin đã đề cập khá toàn diện đến khả năng phòng thủ đất nước, đặc biệt là vấn đề xây dựng và củng cố quốc phòng cả về tiềm lực và thế trận quốc phòng. Người khẳng định: “chính vì chúng ta chủ trương bảo vệ Tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà”2. Theo V.I. Lênin, sự nghiệp xây dựng và củng cố quốc phòng là sứ mạng của nhà nước chuyên chính vô sản trong tổ chức, quản lý xây dựng và bảo vệ xã hội mới, xã hội chủ nghĩa; đồng thời, đó còn là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự tổ chức, quản lý của Nhà nước vô sản. Vì vậy, “nghĩa vụ tuyệt đối của toàn thể quần chúng lao động - là đem hết sức mình ra để khôi phục và tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước”3 và V.I. Lênin yêu cầu “mọi người phải có thái độ nghiêm túc đối với việc quốc phòng”.
Trong công cuộc xây dựng và củng cố nền quốc phòng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin
____________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 38, tr. 325.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 35, tr. 480-481. 3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 36, tr. 153.
16
đã đề cập đến hàng loạt vấn đề về cơ sở của sức mạnh quốc phòng; về mục tiêu, nhiệm vụ, tính chất của nền quốc phòng; về xây dựng, củng cố tiềm lực và thế trận quốc phòng. Đặc biệt, V.I. Lênin đã rất coi trọng việc xây dựng và phát huy mạnh mẽ ưu thế chính trị - tinh thần của chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa và những con người mới - sản phẩm của chế độ mới, coi đó là cơ sở trực tiếp quyết định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, điều đó là hoàn toàn đúng nhưng chưa đủ. Bởi vì, theo V.I. Lênin, cơ sở sâu xa quyết định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là việc thực hiện thắng lợi công cuộc cải tạo và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật mới để không ngừng hiện đại hóa nền quốc phòng của đất nước, hiện đại hóa lực lượng vũ trang, hiện đại hóa quân đội xã hội chủ nghĩa.
Cùng với việc quan tâm tăng cường khả năng phòng thủ của đất nước, xây dựng và củng cố nền quốc phòng, thì vấn đề tổ chức, xây dựng quân đội kiểu mới - Hồng quân Công nông cũng được V.I. Lênin đề cập một cách khẩn trương, nghiêm túc và toàn diện. Vì để tiến hành chiến tranh chống lại kẻ thù có quân đội chính quy được trang bị và huấn luyện đầy đủ thì phải thành lập quân đội công nông thường trực, chính quy, được trang bị và huấn luyện tốt. Chỉ mấy tháng sau Cách mạng Tháng Mười, vào đầu năm 1918, V.I. Lênin đã ký sắc lệnh thành lập Hồng quân và Hải quân Công nông. Đồng thời, Người đã chỉ rõ những vấn đề rất cơ bản
17
về lý luận xây dựng quân đội kiểu mới, nhất là những vấn đề về bản chất giai cấp, tính chất, chức năng, nhiệm vụ của quân đội kiểu mới; về những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và xây dựng quân đội kiểu mới, v.v..
Việc thực hiện thắng lợi cách mạng bạo lực, đập tan nhà nước tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định đối với cách mạng vô sản. Nó thể hiện giai cấp công nhân đã giải quyết xong vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng vô sản. Nhưng xét về toàn bộ nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì việc giành được chính quyền mới chỉ là bước đầu. Giai cấp công nhân còn phải tổ chức và lãnh đạo toàn dân xây dựng chế độ xã hội mới về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Đây là nhiệm vụ mà V.I. Lênin cho là khó khăn nhất, vì vấn đề là phải cải biến một cách mới mẻ những cơ sở sâu xa nhất - những cơ sở kinh tế của đời sống hàng chục triệu con người và cũng là nhiệm vụ cao cả nhất, vì chỉ sau khi thực hiện thắng lợi nhiệm vụ ấy thì mới làm cho nước nhà thực sự trở thành một nước xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, V.I. Lênin đã đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đi đôi với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I. Lênin viết: “Một khi chúng ta đã bắt tay vào công cuộc hòa bình kiến thiết của chúng ta, thì chúng ta sẽ đem hết sức mình để tiến hành công cuộc đó không ngừng. Đồng thời,... hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng
18
của nước ta và của Hồng quân ta như chăm lo con ngươi trong mắt mình”1.
Lập trường cách mạng và khoa học, tinh thần sáng tạo của C. Mác và Ph. Ăngghen về bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa đã được V.I. Lênin bổ sung, phát triển, hoàn thiện, đổi mới không ngừng bằng những kết luận được rút ra từ việc tổng kết, khái quát thực tiễn mới nâng lên thành học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sau Cách mạng Tháng Mười ở các nước xã hội chủ nghĩa đã khẳng định những giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những tư tưởng cơ bản trong học thuyết của V.I. Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không những có giá trị lịch sử, mà còn có ý nghĩa hiện thực tiếp tục chỉ đạo công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Ngày nay, công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mỗi nước, trên cơ sở trung thành phải biết vận dụng và phát triển một cách sáng tạo những nguyên lý phổ biến, những vấn đề có tính nguyên tắc trong học thuyết của V.I. Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước về vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị, địa - văn hóa và địa - quân sự; về truyền thống lịch sử văn hóa ____________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 44, tr. 368.
19
dân tộc; về trình độ phát triển kinh tế - xã hội; về quan hệ giữa nước đó với các nước khác trong khu vực và trên thế giới để xác định chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phù hợp nhằm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết của V.I. Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trong quá trình lãnh đạo công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã đề ra đường lối chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đúng đắn, sáng tạo và đã triển khai tổ chức thực hiện đem lại những thành tựu to lớn, toàn diện, bảo đảm cho Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc, tạo cơ sở cho việc tổ chức và triển khai công cuộc xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, từng bước hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên đất nước ta.
Trong thời kỳ mới, công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiếp tục diễn ra trong bối cảnh mới với những nhận định rất quan trọng của Đảng ta về bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của
20
nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”1.
Trong những điều kiện đó, hơn lúc nào hết, chúng ta phải tiếp tục trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết của V.I. Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện nay ở nước ta. Trong đó, phải tiếp tục khẳng định những vấn đề rất cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa; kết hợp phương thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh phi vũ trang để bảo vệ Tổ quốc; tổ chức và động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tạo nên lực lượng tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc; phát huy sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh của truyền thống và hiện đại trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 13.
21
Theo đó, phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, có kinh tế phát triển, chính trị, xã hội ổn định, văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố và tăng cường. Phải chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và ngày càng hiện đại, chăm lo xây dựng cả tiềm lực quốc phòng - an ninh và thế trận quốc phòng - an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc. Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đặc biệt là xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò tổ chức, quản lý, điều hành của Nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội và tính tích cực chính trị, tình cảm, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân của mọi người dân Việt Nam yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, cả người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam đang định cư, sinh sống và làm việc ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc trong công cuộc xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, biến những tư tưởng của V.I. Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thành sức mạnh hiện thực trên đất nước ta.
22
TƯ DUY CỦA ĐẢNG TA VỀ MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC
VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ MỚI
Thực tiễn công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay cho thấy vấn đề mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vấn đề rất cơ bản của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, ngày càng được Đảng ta nhận thức rõ hơn và toàn diện hơn trong quá trình đổi mới tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự cần thiết phải đổi mới tư duy, phát triển lý luận về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới là đòi hỏi từ thực tiễn của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, dưới sự tác động, chi phối của đặc điểm tình hình mới. Sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa gắn với thực tiễn
23
phát triển của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, thể hiện qua các kỳ đại hội của Đảng, các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được thể hiện cụ thể trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng.
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991 đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám khóa IX, đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa với các nội dung: “Một là, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; năm là, bảo vệ
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; sáu là, giữ vững ổn định chính trị và
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 16.
24
môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”1.
Đảng ta đã nhận thức rõ hơn mối quan hệ thống nhất và chặt chẽ giữa các nội dung trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Các nội dung trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại trong một chỉnh thể thống nhất, không tách rời, bảo vệ nội dung này cũng có nghĩa là góp phần bảo vệ nội dung khác và ngược lại.
Đặc biệt, trong những năm qua, trước sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, trước xu thế toàn cầu hóa, mở cửa, hội nhập và trong điều kiện các thế lực thù địch đã thay đổi chiến lược chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, chống phá Việt Nam, Đảng ta không ngừng phát triển nhận thức lý luận về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trên các lĩnh vực, đặc biệt là lợi ích kinh tế, chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống được đặt ra một cách gắt gao hơn.
____________
1. Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 45-46.
25
Đảng ta đã nhận thức đúng đắn rằng, trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế; trước sự chống phá của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” để thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” xã hội ta từ
bên trong thì vấn đề bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc càng gắn bó, quan hệ chặt chẽ với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng hơn bao giờ hết. Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa vừa phải bảo đảm lợi ích đất nước, lợi ích quốc gia dân tộc, vừa phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tư duy mới của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, bên cạnh việc tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã quan tâm đến vấn đề “bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội”1.
Quan điểm an ninh toàn diện trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 109.
26
thể hiện sự đúng đắn và phù hợp với sự phát triển mới của tình hình thế giới, đặc biệt là trước sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại trong điều kiện mới. Với việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta đã và sẽ tham gia vào môi trường thông tin ngày càng rộng lớn hơn. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại, các phương tiện công nghệ cao như máy tính, mạng internet, thư điện tử, làm cho “biên giới” quốc gia không còn chỉ là lãnh thổ, không phận, hải phận, mà đã xuất hiện khái niệm “biên giới mềm”, “biên giới thông tin”. Vì vậy, vấn đề kiểm soát, phát hiện, ngăn chặn những cuộc xâm nhập, “tiến công mềm” từ bên ngoài bằng các thủ đoạn thông tin trên các mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa được đặt ra một cách gay gắt hơn trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đi đôi với quá trình phát triển nhận thức lý luận của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vấn đề nhận thức về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa và trách nhiệm trong tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của các tầng lớp nhân dân cũng không ngừng được nâng cao. Mỗi người dân Việt Nam yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, dù hoạt động trên bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội, trên địa bàn nào, trong môi trường nào cũng đều có ý thức về hoạt động của mình, của ngành mình là để góp phần thực hiện
27
thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; từ đó mà đề cao ý thức trách nhiệm công dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở cơ sở, ở cơ quan, đơn vị, ở địa bàn hoạt động.
Trong bối cảnh mới, khi mà phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, làm giàu chính đáng đang trở thành động lực phấn đấu của mọi tầng lớp nhân dân, thì việc nâng cao ý thức trách nhiệm của công dân trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là cơ sở quan trọng làm cho sức mạnh tổng hợp của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được củng cố, tăng cường; đồng thời phát triển mạnh mẽ các phong trào toàn dân bảo vệ Tổ quốc, toàn dân giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.
Thực tiễn quá trình đổi mới đất nước trong hơn 30 năm qua cho thấy, các mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thực hiện ngày càng tốt hơn. Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc đã tạo điều kiện thuận lợi và môi trường hòa bình cho sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân, từng bước hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
28
Trong điều kiện tình hình chính trị, quân sự trên thế giới từ năm 1986 đến nay có nhiều diễn biến rất phức tạp, thì những thành tựu đạt được trong nhận thức và tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hết sức quan trọng. Điều đó không chỉ thể hiện tính đúng đắn của những quan điểm lý luận của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, mà còn thể hiện sự nhận thức, ý thức trách nhiệm công dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, trong thời gian qua ở nước ta vẫn còn có những biểu hiện nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhất là những biểu hiện không quan tâm đầy đủ đến mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, thiên về nhấn mạnh đến mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, mà không gắn chặt vấn đề bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng.
Những nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, thậm chí còn có những nhận thức chưa đúng, từ đó dẫn tới trong tổ chức hoạt động thực tiễn chưa phù hợp là do nhiều nguyên nhân khác nhau, có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
29
quan từ chính trình độ, khả năng nhận thức và thái độ, trách nhiệm, tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quá trình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đồng thời có nguyên nhân từ sự
chống phá của các thế lực thù địch đối với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Những nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, thậm chí chưa đúng về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Một là, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân trong nhận thức còn có sự tách rời giữa Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa, chỉ thừa nhận việc bảo vệ Tổ quốc hoặc bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và ngược lại.
Sở dĩ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đó là do họ chưa nhận thức đầy đủ quan niệm về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Họ chưa hiểu đầy đủ và sâu sắc rằng, Tổ quốc ở đâu và bao giờ cũng gắn với một chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cụ thể, hay nói cách khác là Tổ quốc phải có “tính từ”. Sự xuất hiện và tồn tại của các loại tổ quốc trong lịch sử bao giờ cũng gắn với một chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cụ thể, chẳng hạn Tổ quốc phong kiến, Tổ quốc tư sản, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa xuất hiện sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
30
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một Tổ quốc được tồn tại và phát triển trên một “cương vực” riêng, có một nền văn hóa, ngôn ngữ riêng và một chế độ kinh tế, chính trị, xã hội xã hội chủ nghĩa gắn với đất nước (chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên) và gắn với lịch sử, gắn với những con người, cộng đồng người tồn tại và phát triển trên đất nước đó. Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trong đó phải bao gồm các yếu tố cơ bản như cấu thành hai mặt: mặt tự nhiên - lịch sử và mặt chính trị - xã hội, đó là lãnh thổ (vùng đất, vùng biển, vùng trời), tài nguyên, chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Theo đó, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải bao gồm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội xã hội chủ nghĩa. “Bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc” như V.I. Lênin đã từng chỉ dẫn.
Cần nhận thức rằng, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thể hiện ở cả hai mặt thống nhất quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời trong Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa: mặt tự nhiên - lịch sử và mặt chính trị - xã hội. Vì vậy, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (nói một cách khái quát, ngắn gọn nhưng đầy đủ nhất) chính là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhận thức đầy đủ, đúng đắn nhất về mục tiêu, nhiệm vụ
31
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới phải bao gồm cả vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, thậm chí nhận thức chưa đúng về nội dung bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Có một tình hình thực tế là, trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân khi nói đến mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thì họ đều thừa nhận, tán thành, nhưng khi nói đến bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa thì họ lại tỏ ra do dự, thậm chí có người không tán thành!
Việc một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có những nhận thức chưa đúng, thậm chí chưa tán thành mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa có thể do từ sự nhận thức chưa toàn diện, chưa đầy đủ, chưa khách quan về sự khác nhau giữa tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa với những hạn chế, khuyết tật cụ thể trong mô hình của một xã hội xã hội chủ nghĩa cụ thể.
Trước sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, trước những hạn chế, bất cập trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại, trong đó có nước ta, đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có những nhận thức không đúng
32
về chế độ xã hội chủ nghĩa, từ đó đã dẫn tới suy giảm niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa, không có hành động tích cực trong góp phần đấu tranh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cùng với những hạn chế trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và dẫn tới hành động không tích cực đấu tranh để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, là sự kích động, chống phá của các thế lực thù địch với chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là một trong những nhân tố tác động rất thâm độc, nguy hiểm làm sai lệch nhận thức và hành động của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với nội dung bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Các thế lực thù địch luôn đặt việc chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa là một mục tiêu quan trọng, xuyên suốt trong quá trình chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội không bao giờ muốn có một đất nước Việt Nam đổỉ mới và phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, ngược lại chúng muốn cho đất nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vì thế mà cùng với mục tiêu chống phá độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chúng luôn tìm mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.
33
Hằng ngày, hằng giờ bằng những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” hết sức thâm độc và nguy hiểm, các thế lực thù địch tìm mọi cách để gieo vào đầu óc một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta về sự phá sản của chủ nghĩa Mác - Lênin; quy sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa cụ thể vào sự sụp đổ của lý tưởng xã hội chủ nghĩa; ca ngợi, tán dương, cổ suý cho chủ nghĩa tư bản vốn là một chế độ bóc lột từ trong bản chất của nó nhưng đang tìm mọi cách tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại để tồn tại và thích nghi.
Trong những điều kiện đó, để nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn kích động, chống phá của các thế lực thù địch, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới cần quan tâm làm tốt những nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục đi sâu nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, không chỉ là nội dung mà cả hình thức thể hiện để
mọi người có thể dễ dàng nhận thức được sự thống nhất, gắn bó chặt chẽ giữa các nội dung trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, trên cơ sở đó, tiếp tục giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân
34
dân để mọi người có nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, từ đó quyết tâm hành động thực tiễn
góp phần bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xác định những quan điểm, chủ trương, nội dung, giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bước hiện thực hóa mục tiêu, mô hình chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Thứ tư, cần có những chủ trương, biện pháp hữu hiệu tiếp tục đấu tranh khắc phục những biểu hiện trái với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa trên các mặt tư tưởng chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống; đấu tranh đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, tích cực và kiên quyết đấu tranh phòng, chống có hiệu quả mọi âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, vạch trần tính chất phản động của chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống. Đấu tranh phòng, chống nguy cơ
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” xã hội ta từ bên trong do tác động của “diễn biến hòa bình”.
35
VẤN ĐỀ "TỰ BẢO VỆ"
TRONG CÔNG CUỘC BẢO VỆ TỔ QUỐC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Phát triển những quan điểm về bảo vệ Tổ quốc từ thực tiễn hơn 30 năm đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là việc tiếp tục phát triển tư duy lý luận về bảo vệ Tổ
quốc, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo quan điểm Nghị quyết lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Đảng đã tiếp tục phân tích dự báo tình hình những năm sắp tới, trong đó đã chỉ rõ hơn mức độ của những thách thức đang đặt ra đối với nước ta: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu
36
“diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”1. Những thách thức lớn đó đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào.
Như vậy, có thể thấy, bối cảnh mới của tình hình quốc tế, khu vực, trong nước đang và sẽ đặt nước ta tiếp tục đứng trước những thách thức lớn, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tư duy về bảo vệ Tổ
quốc phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh phải “Nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị”.
Quan điểm về nâng cao khả năng “tự bảo vệ” của Đảng ta trong điều kiện hiện nay ở nước ta không chỉ hoàn toàn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về một cuộc cách mạng chỉ
thực sự có giá trị khi nó biết tự bảo vệ, mà còn rất phù hợp với thực tiễn của cuộc cách mạng ở nước ta hiện nay. Đây là vấn đề rất quan trọng, nhất là trong điều kiện chúng ta đang phải hằng ngày, hằng giờ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” và quá trình “tự diễn biến” , “tự chuyển hóa” từ bên trong do tác động của “diễn biến hòa bình” và sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr. 75.
37
cộng với những tiêu cực nảy sinh trong quá trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng”1 đang hằng ngày, hằng giờ làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, đối với uy tín của các tổ chức đảng và chính quyền, đe dọa đến sự sống còn của chế độ. Đã đến lúc chúng ta phải đặt vấn đề này một cách thật đúng mức cả về mức độ, về tính chất đặc biệt nguy hại của nó để tìm ra phương cách giải quyết kịp thời, hữu hiệu.
Cần nhận thấy rằng, nguyên nhân của tình trạng này phải được cắt nghĩa một cách có cơ sở khoa học, thuyết phục, phải tìm đúng căn nguyên mới hy vọng tìm đúng giải pháp khắc phục. Một loạt các nguyên nhân có thể kể ra, nhưng trong đó phải đặc biệt quan tâm đến quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong do tác động của “diễn biến hòa bình” và sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, quá trình mở cửa hội nhập quốc tế; cộng với việc không thường xuyên tích cực tu dưỡng, rèn luyện của một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự buông lỏng, xem nhẹ công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện của tổ chức.
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr. 75.
38
Quan điểm của Đảng về nâng cao khả năng tự bảo vệ là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp, nhất là trong tình hình hiện nay. Chỉ có nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, tăng cường sức đề kháng, khả năng “tự miễn dịch” trước sự tác động của chiến lược “diễn biến hòa bình” và sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, mới hy vọng đem lại cho chúng ta một khả năng “tự bảo vệ” tốt hơn.
Thực tiễn những năm qua, những sự việc cụ thể diễn ra vừa qua cho chúng ta thấy rõ một thực tế là, trong điều kiện các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” để thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong thì phương thức bảo vệ có hiệu quả nhất lại chính là “tự bảo vệ”. Ở đâu và lúc nào, tổ chức nào, con người nào biết thường xuyên, tích cực, chủ động, biết tự tổ chức bảo vệ lấy tổ chức mình, con người mình, thì ở đó, lúc đó, tổ chức, con người đó đủ sức vượt qua mọi thử thách, đứng vững và phát triển tiến lên. Ngược lại ở đâu, lúc nào, tổ chức, con người nào xem nhẹ, sao nhãng việc chăm lo đến vấn đề “tự bảo vệ” thì ở đó, lúc đó, tổ chức, con người đó bị sa ngã. Không ít người đã không bị gục ngã trong chiến tranh vũ trang ác liệt mà lại bị gục ngã bởi “viên đạn bọc đường” trong điều kiện hòa bình, dưới sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, sự cám dỗ của đồng tiền.
39
Để nâng cao khả năng “tự bảo vệ” của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị cần phải xác định những giải pháp đúng đắn, phù hợp, có cơ sở khoa học mới hy vọng đem lại hiệu quả, có thể kể đến những giải pháp như sau:
Một là, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện của tổ chức với tự giáo dục, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện của mỗi người, trong đó vấn đề tự giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng.
Vị trí, vai trò của giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện với tự giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện và mối quan hệ giữa chúng có lẽ không phải bàn thêm. Song vấn đề ở đây lại chính là việc xác định rõ phương hướng, nội dung giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao được khả năng “tự
bảo vệ”.
Để nâng cao khả năng “tự bảo vệ” thì mỗi tổ chức, mỗi con người hoạt động trên bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội đều không chỉ phải giỏi xây dựng trên lĩnh vực hoạt động đó, mà còn phải giỏi bảo vệ trên lĩnh vực hoạt động đó. Tổ chức đó, con người đó phải rất “chuyên” về lĩnh vực mà mình đang hoạt động. Chưa bao giờ mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ lại gắn bó khăng khít như hiện nay. Mặt khác, chỉ có “chuyên”, có hiểu biết sâu sắc trong lĩnh vực hoạt động đó là rất cần nhưng chưa đủ, mà vấn đề có ý nghĩa quyết định cho việc nâng cao khả năng
40
“tự bảo vệ” lại chính là ở chỗ mỗi tổ chức, mỗi con người phải rất “hồng” trên lĩnh vực mà mình đang hoạt động, đang đảm nhiệm.
Có thể nói, xét ở góc độ “tự bảo vệ” thì chưa bao giờ mối quan hệ giữa đức và tài, giữa “hồng” và “chuyên”, giữa phẩm chất và năng lực trong mỗi tổ chức, mỗi con người lại gắn bó chặt chẽ, khăng khít như hiện nay. Có thực sự coi trọng kết hợp giữa giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện với tự giáo dục, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện; có thực sự quan tâm đầy đủ
đến cả hai mặt cơ bản: đức và tài, “hồng” và “chuyên”, phẩm chất và năng lực mới đem lại khả năng “tự bảo vệ” cao nhất.
Hai là, mỗi tổ chức, mỗi con người phải kết hợp trau dồi, rèn luyện cả phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác.
Để nâng cao khả năng “tự bảo vệ” thì vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất lại chính là khả năng tự đề kháng, “tự miễn dịch” của mỗi tổ chức, mỗi con người trước sự tác động của “diễn biến hòa bình” và sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Để có được khả năng đó thì mỗi tổ chức, mỗi con người phải thường xuyên tích cực học tập nâng cao nhận thức về đặc điểm tình hình, về yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là việc thường xuyên cập nhật những kiến thức mới, hiện đại để không tụt hậu với thời cuộc; đồng thời phải thường xuyên theo dõi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, tăng cường cảnh giác,
41
không bị động, bất ngờ. Mặt khác, phải đặc biệt chăm lo bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đặc biệt là vấn đề bản lĩnh chính trị, chăm lo rèn luyện đạo đức, lối sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, kỷ luật tự giác, nghiêm minh.
Trong một thế giới đầy biến động, phức tạp như hiện nay, trong điều kiện thực hiện nền kinh tế thị trường, mở cửa như hiện nay thì vấn đề bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, kỷ luật là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với mỗi tổ chức, mỗi con người. Mặt khác, chỉ có phẩm chất và năng lực thôi thì vẫn chưa đủ, mà một vấn đề không kém phần quan trọng để nâng cao khả năng “tự bảo vệ” là vấn đề phương pháp, tác phong công tác. Sự thiếu sâu sát, cụ thể, tỉ mỉ trong phương pháp, tác phong công tác nhiều khi cũng dẫn đến những hậu quả khôn lường. Song, ngược lại, một thái độ luôn luôn cầu thị, khiêm tốn lắng nghe, luôn biết tự điều chỉnh những thái độ, hành vi không phù hợp thì nhiều khi lại tăng thêm hiệu quả cho việc “tự bảo vệ”, tự điều chỉnh rất lớn.
Ba là, thường xuyên tăng cường vai trò quản lý, giám sát của tổ chức đối với mỗi hành động của tổ chức và mỗi con người trong tổ chức đó, tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội.
Vấn đề “tự bảo vệ” trước hết là ở vai trò chủ quan của mỗi tổ chức, mỗi con người, nhưng trong mối quan hệ giữa tổ chức với tổ chức, giữa tổ chức
42
với con người thì việc tăng cường vai trò quản lý, giám sát của tổ chức nhằm giúp tổ chức, con người nâng cao khả năng “tự bảo vệ” trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh đều có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ở đây vai trò quản lý, giám sát là ở
chỗ giúp cho mỗi tổ chức, mỗi con người biết tự tăng cường khả năng “tự bảo vệ”, biết được khả năng, mức độ “tự bảo vệ” của mình đến đâu, chỗ nào phù hợp, chỗ nào chưa phù hợp để có phương
án điều chỉnh.
Để nâng cao khả năng “tự bảo vệ” của mỗi tổ chức, mỗi con người, thì vấn đề tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội là cực kỳ quan trọng. Phẩm chất chính trị, đặc biệt là bản lĩnh chính trị, năng lực, đạo đức, lối sống, phương pháp, tác phong công tác, kỷ luật, theo đó là khả năng “tự bảo vệ” của mỗi tổ chức, mỗi con người sẽ được nâng cao khi chúng ta có được một cơ chế giám sát, phản biện xã hội. Có thể coi đây như là một trong những “công cụ” rất hữu hiệu để “đo” khả năng “tự bảo vệ” của mỗi tổ chức, mỗi con người. Vấn đề quan trọng là phải có cơ chế phù hợp giữa việc giám sát, phản biện xã hội với yêu cầu đặt ra cho mỗi tổ chức, mỗi con người phải điều chỉnh thái độ, hành vi, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng là nói cứ nói, còn làm cứ làm, hoặc nói một đường lại làm một nẻo, không cần điều chỉnh, sửa chữa.
Bốn là, thường xuyên đấu tranh phòng, chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hòa bình” của
43
các thế lực thù địch, hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế.
“Diễn biến hòa bình” và sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập là một trong những yếu tố làm nảy sinh vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tuy nhiên, không thể
không đề cập đến nguyên nhân trực tiếp là việc không thường xuyên tích cực tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên. Song, một giải pháp mang tính chất đồng bộ cho việc nâng cao khả
năng “tự bảo vệ” thì không chỉ có vấn đề nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác như đã đề cập ở trên, mà một giải pháp quan trọng là phải đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường, mở cửa. Có thể coi đây là giải pháp ngăn ngừa “từ xa”, chuẩn bị cho việc “tự bảo vệ” tốt nhất để không phải “tự bảo vệ” là phương án có lợi nhất, hiệu quả nhất. Đó chính là việc kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt “xây” và “chống”, kết hợp giữa bảo vệ với “tự bảo vệ” trong công cuộc bảo vệ
Tổ quốc ở nước ta hiện nay nói chung, kết hợp giữa bảo vệ với “tự bảo vệ” trong mỗi con người, trong từng tổ chức, cơ quan, đơn vị nói riêng.
44
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA XÂY DỰNG VỚI BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là học thuyết của V.I. Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, về mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đặc biệt là từ năm 1991 đến nay, Đảng ta đã thường xuyên quan tâm đến việc bổ sung, phát triển tư duy lý luận về mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, và đã giành được những thành tựu to lớn góp phần vào thắng lợi của
45
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết phải đổi mới tư duy lý luận về mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ sự thay đổi tư duy chiến lược của chủ nghĩa đế quốc trong chống phá các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, chống phá cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng, từ xâm lược bằng phương thức vũ trang là chủ yếu sang xâm lược bằng phương thức phi vũ trang, bằng “diễn biến hòa bình” để
thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong là chủ yếu. Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, nhất là từ những hạn chế, bất cập trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như: những biểu hiện chệch hướng trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Xuất phát từ thực tiễn nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, nhất là ở Liên Xô cũng cho chúng ta những bài học kinh nghiệm cả thành công và cả những vấp váp, sai lầm.
46
Đảng ta không chỉ nhận thức rõ sự cần thiết phải đổi mới tư duy lý luận về mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, mà còn bổ sung, phát triển những luận điểm rất cơ bản về mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thời kỳ lịch sử mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã xác định mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”1.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ra Nghị quyết về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Đề cập đến sự cần thiết phải ban hành một nghị quyết riêng về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Đảng ta chỉ rõ: Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay,
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Sđd, tr.10.
47
quy luật đó được biểu hiện tập trung trong hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tiếp tục khẳng định quan điểm chỉ đạo: “Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau”1.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh là một quan điểm lý luận mới, một chủ trương đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta; là sự cụ thể hóa việc giải quyết hài hòa sự kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Việc nhận thức và giải quyết hài hòa sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là bước phát triển mới về quan điểm lý luận và sự lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta đối với sự nghiệp
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Sđd, tr. 9.
48
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thời kỳ từ năm 1986 đến nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”1.
Trong nhận thức lý luận của Đảng ta, nội dung mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thể hiện ở chỗ, lấy xây dựng để bảo vệ, xây dựng cũng là một phương thức hữu hiệu để bảo vệ, trong xây dựng có bảo vệ, trong bảo vệ có xây dựng. Với ý nghĩa đó, xây dựng đất nước vững mạnh, kinh tế phát triển bền vững, đời sống của các tầng lớp nhân dân ngày càng nâng cao, tình hình chính trị - xã hội ổn định... là tạo điều kiện vững chắc cho bảo vệ Tổ quốc. Đó là “phương thức hữu hiệu” để bảo vệ Tổ
quốc. Khắc phục, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế cũng là bảo vệ, là tạo điều kiện vững chắc cho bảo vệ. Trong bảo vệ có xây dựng, có bảo vệ tốt mới tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng; và bản thân
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 82.
49
lực lượng trực tiếp bảo vệ cũng phải tham gia xây dựng đất nước; tăng cường quốc phòng, an ninh là trực tiếp nhằm giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, tạo sức mạnh cần thiết để ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, cũng là tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững.
Quan điểm lý luận của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn được thể hiện nhất quán. Đây cũng là biểu hiện sinh động về sự vận dụng nhuần nhuyễn những bài học thực tiễn đã diễn ra trong lịch sử vào điều kiện mới của Đảng ta xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc trong quá trình cách mạng Việt Nam.
Quan điểm lý luận của Đảng coi xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau, ngày càng được cụ thể. Theo đó, xây dựng là gốc của bảo vệ và bảo vệ là để xây dựng tốt hơn; xây dựng phải gắn bó với bảo vệ. Gắn bảo vệ với xây dựng là sự phát triển trong quan điểm lý luận của Đảng, phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
Trong điều kiện hòa bình xây dựng đất nước và phải đối phó với các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, trong quá trình thực hiện, Đảng ta luôn nhận thức rõ và đã được thể hiện sâu sắc trong các kỳ Đại hội Đảng từ
50
năm 1986 đến nay: bảo vệ không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, nhất là phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế; đi đôi với xây dựng phải đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong do tác động của “diễn biến hòa bình” là những vấn đề rất quan trọng trong nhận thức và tổ chức thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới đã dần dần khắc phục được những nhận thức chưa đầy đủ, chưa đúng, thậm chí còn biểu hiện nhận thức lệch lạc như:
- Chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc về sự cần thiết phải đổi mới tư duy về mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, khi mà các thế lực thù địch đã thay đổi tư duy chiến lược trong chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, chống phá Việt Nam.
51
- Chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay không chỉ là chống lại những nguy cơ xâm lược bằng vũ trang từ bên ngoài, mà còn phải chống lại những nguy cơ từ bên trong như phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ để thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong và cả những nguy cơ nảy sinh trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đó, vẫn có quan niệm không đúng trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc trong các lĩnh vực cụ thể
của đời sống xã hội. Còn nặng về quan niệm nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc chỉ “khuôn” vào nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, mặc dù đây là một mối quan hệ rất cơ bản.
Đồng thời, nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới còn có ý nghĩa quan trọng trong việc khắc phục một số biểu hiện không
52
đúng về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thể hiện trên một số vấn đề cụ thể như:
- Khắc phục nhận thức kinh tế đơn thuần trong phát triển kinh tế, cho rằng các đơn vị và tổ chức kinh tế chỉ làm nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, còn nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ
Tổ quốc là của riêng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. - Khắc phục nhận thức quân sự đơn thuần trong thực hiện chiến lược quốc phòng, an ninh, cho rằng hoạt động của lực lượng vũ trang chỉ thuần tuý là hoạt động quân sự mà không thấy hết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội còn là để bảo vệ Tổ quốc và lực lượng vũ trang cũng cần phải tham gia vào sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đội quân chiến đấu, công tác và sản xuất.
- Khắc phục những biểu hiện tách rời giữa hai chiến lược của cách mạng Việt Nam; làm gắn bó hơn giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh trong cùng mục tiêu thống nhất: vừa bảo đảm phát triển của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vừa giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
53
Quan điểm đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, không có nghĩa coi quốc phòng là nhiệm vụ thứ yếu; xác định bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu thường xuyên” không có nghĩa là không chú ý tập trung cho nhiệm vụ
trung tâm là phát triển kinh tế.
Mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa không chỉ được thể hiện trong quá trình nhận thức, phát triển quan điểm lý luận, mà còn được thể hiện trong tổ chức thực tiễn hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ năm 1991 đến nay. Mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được cụ thể hóa trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và trong quá trình xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân.
Trong hoạch định và thực hiện các kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội đã ngày càng quan tâm đến việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Việc cụ thể hóa mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn đã tạo cơ sở quan trọng cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.
54
Mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã được quan tâm giải quyết ở tất cả các cấp, các ngành trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Quan điểm kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, trong mỗi tổ chức, mỗi con người, mỗi ngành, mỗi cấp, đã được nhận thức và giải quyết ngày càng tốt hơn.
Thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ năm 1991 đến nay đã khẳng định những thành tựu quan trọng trong giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, đó là kết quả cụ thể của việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn còn những hạn chế, bất cập cả trong nhận thức và trong tổ chức hoạt động thực tiễn. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn có biểu hiện tách rời giữa xây dựng với bảo vệ. Còn có biểu hiện tuyệt đối hóa mặt hoạt động này mà chưa coi trọng đúng mức mặt hoạt động kia; chưa thấy hết sự gắn bó khăng khít, tác động biện chứng và tạo
55
điều kiện cho nhau giữa hai mặt hoạt động xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; ở một số người vẫn còn có biểu hiện coi bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm riêng của lực lượng vũ trang.
Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới cần tiếp tục nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ, toàn diện hơn quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; nhận thức rõ hơn quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam.
56
Phần thứ hai
XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN VỮNG MẠNH TRONG THỜI KỲ MỚI
57
58
"THẾ TRẬN LÒNG DÂN"
TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG BẢO VỆ TỔ QUỐC THỜI KỲ MỚI
Lịch sử chiến tranh nhân dân Việt Nam trong chiều dài hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc là lịch sử của những cuộc chiến tranh chính nghĩa nhằm giải phóng dân tộc và bảo vệ
nền độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đó là lịch sử của những cuộc chiến tranh của một nước đất không rộng lắm, người không đông lắm, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học - kỹ thuật và tiềm lực quân sự còn hạn chế, nhưng lại phải đương đầu với những thế lực xâm lược có quân số đông, vũ khí, trang bị hiện đại, có tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học - kỹ thuật và tiềm lực quân sự lớn mạnh.
Trong những điều kiện đó, để chiến thắng được các thế lực xâm lược lớn mạnh, trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam, ông cha ta đã có nhiều kế sách khôn ngoan để tạo nên sức mạnh chiến thắng các thế lực xâm lược. Trong đó,
59
việc quan tâm xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng để phát huy sức mạnh tổng hợp chiến thắng các thế lực xâm lược có quân số đông, vũ khí trang bị kỹ thuật quân sự nhiều và hiện đại là một nét đặc sắc của nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong suốt chiều dài
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân dân ta lại phải tiếp tục đương đầu với một đội quân xâm lược lớn mạnh, có quân số đông, vũ khí trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại. Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới - Thời đại Hồ Chí Minh phải tiếp tục giải quyết một bài toán lịch sử mới: Làm thế nào để nhân dân ta và Quân đội ta có thể chiến thắng được đội quân xâm lược ở một chiến trường rừng núi hết sức phức tạp về địa hình, khí hậu, thời tiết trong điều kiện đất nước vừa mới giành được độc lập chưa lâu, còn muôn vàn khó khăn chồng chất, quân đội còn non trẻ, vũ khí trang bị còn ít và thô sơ?
Vận dụng và phát triển sáng tạo nghệ thuật quân sự vô sản, nhất là nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân, nghệ thuật phát huy vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong chiến tranh chính nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Kế thừa truyền thống, kinh nghiệm đấu tranh dựng nước
60
và giữ nước của dân tộc ta qua hàng ngàn năm lịch sử, nhất là truyền thống, kinh nghiệm xây dựng và phát huy sức mạnh của nhân dân, của “cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”, của nghệ thuật “lấy yếu đánh mạnh”, “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều”, “toàn dân là lính”, “chúng chí thành thành”... Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm chăm lo xây dựng sức mạnh tổng hợp, cả vật chất và tinh thần, đặc biệt là chăm lo xây dựng và phát huy sức mạnh của “thế trận lòng dân” để làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đây là biểu hiện sinh động, nét đặc sắc trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới - Thời đại Hồ Chí Minh.
“Thế trận lòng dân” trong chiến dịch Điện Biên Phủ là nét đặc sắc trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới - Thời đại Hồ Chí Minh không phải tự nhiên mà có. Đó là cả một quá trình chăm lo xây dựng, bồi dưỡng, gắn kết, quy tụ, khơi dậy và phát huy sức mạnh “lòng dân” của Đảng ta, của Nhà nước ta, của các cấp, các ngành và của toàn dân để tạo nên “thế trận”, cùng với các nguồn sức mạnh khác, chúng ta đã làm nên chiến thắng huy hoàng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.
“Thế trận lòng dân” trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ là sự gắn kết và quy tụ sức mạnh
61
của quân đội với nhân dân. Trong những ngày đêm gian khổ, khó khăn, chiến đấu, hy sinh ở mặt trận Điện Biên Phủ, bộ đội và dân công đã kề vai, sát cánh chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Đó còn là sự gắn bó, đồng cam, cộng khổ, cùng nhau chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, những ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” của bộ đội và nhân dân, nhất là nhân dân các dân tộc Tây Bắc.
“Thế trận lòng dân” trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ là sự gắn kết và quy tụ sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến. Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn của một đất nước vừa giành được độc lập, nhưng hậu phương của chiến tranh, nhất là hậu phương ở chiến trường Tây Bắc đã được củng cố, xây dựng, đặc biệt là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân để tập trung sức chi viện cho tiền tuyến. Do thực hiện tốt chính sách cải cách ruộng đất nên nông dân rất phấn khởi đẩy mạnh sản xuất, hăng hái đóng thuế nông nghiệp, xung phong tòng quân và đi dân công phục vụ chiến dịch. Những kết quả đạt được trong cải cách ruộng đất đã động viên, khích lệ, làm nức lòng các chiến sĩ đang chiến đấu ở ngoài mặt trận.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị là huy động tại chỗ và tích cực vận chuyển từ hậu phương ra tiền tuyến, một cuộc vận động nhân
62
dân “Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng” đã được triển khai rầm rộ, rộng lớn chưa từng có trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Chỉ trong một thời gian ngắn đã huy động được một khối lượng lớn sức người, sức của ở vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, ở Việt Bắc cũng như ở vùng bị tạm chiếm chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ.
Ngược lại, những chiến thắng vang dội của các chiến sĩ ở ngoài mặt trận, nhất là những chiến công vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, dũng cảm, hy sinh vì thắng lợi của chiến dịch đã có sức lay động, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần của không chỉ các chiến sĩ đang trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu ở mặt trận, mà còn có ý nghĩa động viên tinh thần của nhân dân ở hậu phương làm tăng thêm tinh thần đoàn kết, gắn bó, động viên, khích lệ lẫn nhau giữa tiền tuyến với hậu phương, hậu phương với tiền tuyến, tạo nên “thế trận lòng dân” ngày càng gắn bó vững chắc.
“Thế trận lòng dân” trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ là biểu hiện của việc khơi dậy và phát huy sức mạnh của quân đội và nhân dân các dân tộc Việt Nam phát huy tinh thần yêu nước, sẵn sàng đứng lên chấp nhận mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.
63
Khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước Việt Nam trong hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam lên chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại mới - Thời đại Hồ Chí Minh. Vì thế, chúng ta đã khơi dậy và phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống để làm nên một “thế trận lòng dân” mới trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Việc khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước trong chiến dịch Điện Biên Phủ tạo thành “thế trận lòng dân” vững chắc trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại mới đã được thể hiện sinh động ở việc chúng ta đã tạo ra được một phong trào thi đua giết giặc lập công sôi nổi, rộng khắp từ cán bộ đến chiến sĩ, từ
những người trực tiếp chiến đấu đến những người phục vụ chiến đấu trong suốt “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, “máu trộn bùn non”, nhưng “gan không núng, chí không mòn”.
Việc khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước trong chiến dịch Điện Biên Phủ tạo thành “thế trận lòng dân” vững chắc trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới không chỉ là việc khơi dậy và phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của những người trực
64
tiếp chiến đấu và những người phục vụ chiến đấu ngay tại mặt trận, mà đó còn là việc khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước của toàn thể dân tộc Việt Nam hướng ra tiền tuyến với tinh thần: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Thực hiện lời động viên, kêu gọi của Trung ương Đảng, của Chính phủ, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hàng vạn con em của các dân tộc Việt Nam trên khắp các vùng, miền của đất nước đã hăng hái xung phong, nô nức lên đường tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Chúng ta đã khơi dậy và phát huy được cao độ tinh thần yêu nước, chủ
nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, quy tụ được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ, đóng góp của nhân dân cả về tinh thần và vật chất, cả về lực lượng và của cải cho chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Có được “thế trận lòng dân” trong chiến dịch Điện Biên Phủ - là biểu hiện sinh động, đặc sắc trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới - Thời đại Hồ Chí Minh, là vì Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan góp phần tạo dựng nên “thế trận lòng dân”, đó là:
Một là, việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ bắt nguồn từ việc Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
65
đã quan tâm nghiên cứu và vận dụng đúng đắn, sáng tạo nghệ thuật quân sự vô sản, nhất là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân trong chiến tranh chính nghĩa, cách mạng, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân vào điều kiện cụ
thể của đất nước, con người Việt Nam trong bối cảnh lịch sử mới, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Hai là, việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ bắt nguồn từ việc Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội ta đã biết kế thừa, nâng lên một tầm cao mới truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc ta trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đó là kế thừa và phát huy truyền thống “trăm họ là binh”, “cả nước một lòng”, “toàn dân đánh giặc”, “chúng chí thành thành”, “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận”, “hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy yếu chống mạnh”, “lấy ít địch nhiều”... vào điều kiện lịch sử mới để quy tụ, khơi dậy và phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của quân đội và nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Ba là, việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ bắt nguồn từ sự
66
lãnh đạo đúng đắn, tài tình, sáng tạo của Đảng ta với đường lối chính trị, quân sự, nhất là đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc, đường lối xây dựng lực lượng cách mạng, nhất là xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân đúng đắn, sáng tạo. Sự quản lý, điều hành của Nhà nước của dân, do dân, vì dân, nhất là sự nỗ lực, sáng tạo của chính quyền nhân dân các cấp từ trung ương đến cơ sở. Sự nỗ
lực của các tổ chức chính trị - xã hội, của toàn thể nhân dân trong việc tạo dựng và phát huy các phong trào cách mạng của quần chúng tạo nên cơ sở xã hội cho việc xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân” trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Sự nỗ lực vượt bậc của các lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là của Quân đội nhân dân Việt Nam, quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh.
Bốn là, việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ bắt nguồn từ việc Đảng, Nhà nước, nhân dân ta luôn quan tâm chăm lo xây dựng hậu phương chiến lược, xây dựng và củng cố sức mạnh tổng hợp của đất nước trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại làm cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân”, xây dựng và động viên sức mạnh chính trị - tinh thần của quân đội và nhân dân vào công cuộc kháng chiến và kiến quốc.
67
Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách để không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc.
Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tương lai vẫn phải tiếp tục giải quyết bài toán của lịch sử dân tộc ta trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là phải “lấy yếu chống mạnh”, “lấy ít địch nhiều”, “đem đại nghĩa thắng hung tàn”, “lấy chí nhân thay cường bạo”.
Theo đó, vấn đề xây dựng và phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của dân tộc, vấn đề gắn kết, quy tụ, khơi dậy và phát huy sức mạnh của “lòng dân” để tạo nên “thế trận lòng dân” vững chắc, bảo đảm cho dân tộc ta đủ sức chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược vẫn là phương sách quan trọng của chúng ta trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới.
Vì vậy, để “thế trận lòng dân” được xây dựng vững chắc và động viên, phát huy được “thế trận lòng dân” khi cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa xảy ra, ngay từ bây giờ, chúng ta phải quan tâm giải quyết tốt một số vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chăm lo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển
68
nhanh và bền vững, đi đôi với bảo đảm cho nền kinh tế phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật để không ngừng
nâng cao đời sống của các tầng lớp nhân dân. Thứ hai, Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành cần có những chủ trương, chính sách để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, nhất là ở những vùng khó khăn, thiếu thốn, vùng căn cứ cách mạng trước đây, vùng sâu, vùng xa, vùng cao, biên giới, hải đảo.
Thứ ba, quan tâm giải quyết tốt những vấn đề xã hội, nhất là những vấn đề bức xúc, nổi cộm, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam, tạo nên sự đồng thuận xã hội rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước.
Thứ tư, Đảng, Nhà nước phải có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp và “hợp lòng dân”, nhằm huy động sức mạnh của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, trong sẵn sàng động viên cho cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nếu xảy ra trong tương lai.
Thứ năm, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, yêu cầu lãnh đạo
69
cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nếu xảy ra trong tương lai, nhất là chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là “đầy tớ” trung thành của nhân dân.
Thứ sáu, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; tăng cường cải cách hành chính. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, nhất là phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp, tác phong công tác, xứng đáng là “công bộc” của dân.
Thứ bảy, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, nhất là trong bộ máy Đảng và Nhà nước, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; làm trong sạch bộ máy, trong sạch đội ngũ
cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc, dứt điểm các vụ việc tham nhũng nghiêm trọng gây hậu quả lớn nhằm củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
70
CHỦ NGHĨA ANH HÙNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975 LỊCH SỬ
Với thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh đã làm nên một Đại thắng mùa Xuân lịch sử, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, khó khăn, gian khổ, hy sinh để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước.
Hơn 40 năm đã trôi qua, rất nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã từ
các góc độ tiếp cận khác nhau để cắt nghĩa về nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 lịch sử. Từ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn
71
lịch sử chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta, có thể khẳng định rằng, một trong những nguyên nhân dẫn tới thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam đã được phát huy đến mức cao độ, được biểu hiện rực rỡ trong toàn bộ cuộc chiến tranh, đặc biệt là trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là biểu hiện cao nhất, tập trung nhất của sức mạnh tinh thần Việt Nam, của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được thể hiện cụ thể, sinh động ở tư tưởng, tình cảm, niềm tin, ý chí quyết tâm và hành động để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng, tình cảm, niềm tin, ý chí quyết tâm và hành động đó được biểu hiện ở tất cả các chủ thể trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 lịch sử, từ Bộ Tư lệnh tối cao lãnh đạo, tổ chức, điều hành cuộc chiến tranh đến những người trực tiếp cầm súng chiến đấu trên chiến trường và hàng chục triệu người Việt Nam gián tiếp phục vụ chiến đấu với tinh thần của cả nước ra quân, toàn
72
dân đánh giặc, “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Tư tưởng, tình cảm, niềm tin, ý chí quyết tâm và hành động đó được biểu hiện trên cả hai miền Nam Bắc, với tinh thần yêu nước nồng nàn, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, đồng bào và chiến sĩ
miền Bắc đã dồn hết tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải, chi viện đắc lực cho đồng bào và chiến sĩ miền Nam chiến đấu và chiến thắng. Với ý chí, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, để Nam Bắc được sum họp một nhà, gia đình, anh em đoàn tụ, đồng bào và chiến sĩ miền Nam đã không quản ngại gian khổ, hy sinh, nhất tề đứng lên cầm súng chiến đấu “Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” để “Bắc Nam xum họp, Xuân nào vui hơn”.
Tư tưởng, tình cảm, niềm tin, ý chí quyết tâm và hành động đó được biểu hiện cụ thể, sinh động trong tất cả các phong trào thi đua yêu nước, trên tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Những phong trào thi đua yêu nước, quyết tâm giải phóng miền Nam, xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa như “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay cày - tay súng”, “Tay búa - tay súng”... đã được thể hiện hết sức phong phú, sinh động trong mỗi hành động, mỗi việc làm cụ thể, thiết thực vì sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
73
Tư tưởng, tình cảm, niềm tin, ý chí quyết tâm và hành động để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước - biểu hiện rực rỡ nhất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam - được thể hiện sinh động trong mỗi tổ chức, mỗi con người, mỗi việc làm cụ thể không phải ngẫu nhiên mà có, mà nó đã trải qua một quá trình xây dựng, hình thành và phát triển. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 lịch sử được hình thành và phát triển từ những nguồn gốc chủ yếu như:
Một là, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử bắt nguồn từ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được hình thành và phát triển trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc ta.
Lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trải qua công cuộc chinh phục thiên nhiên và đấu tranh chống ngoại xâm, từ đặc điểm một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, một nước nhỏ, đất không rộng lắm, người không đông lắm lại phải thường xuyên đấu tranh chống lại những thế lực xâm lược có sức mạnh to lớn về kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự, để tồn tại và phát triển, dân tộc ta đã phải thường xuyên bồi dưỡng, khơi dậy sức mạnh tiềm
74
tàng trong mỗi con người Việt Nam, trong nền văn hóa Việt Nam mà đặc trưng nổi bật là tinh thần yêu nước, chủ nghĩa yêu nước. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ
nước, tinh thần yêu nước, chủ nghĩa yêu nước đó ngày càng được bồi đắp, phát triển, từ Đống Đa, Bạch Đằng, Chi Lăng, Điện Biên Phủ đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 lịch sử. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử là biểu hiện cao nhất, rực rỡ nhất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, mà cội nguồn sâu xa của nó là kết quả của một quá trình vận động, phát triển, đi suốt thời gian, xuyên suốt không gian của công cuộc dựng nước và giữ nước oanh liệt của dân tộc Việt Nam.
Hai là, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử bắt nguồn từ quá trình chăm lo giáo dục bồi dưỡng, rèn luyện của Đảng ta, của Nhà nước ta, của các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử là đỉnh cao, là sự kết tinh, hội tụ của tinh thần yêu nước, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sự chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội, của nhân dân ta, quân đội
75
ta đã nâng chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam lên một tầm cao mới và được biểu hiện rực rỡ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Trong đó, vai trò quyết định đến việc hình thành và phát triển chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 được biểu hiện ở Bộ Tư lệnh tối cao - Đảng Cộng sản Việt Nam - người lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 lịch sử. Ở đây, tinh thần cách mạng tiến công, tầm cao của trí tuệ trong phân tích, đánh giá so sánh lực lượng, lựa chọn thời cơ, hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của Đảng ta đã đưa đến cho toàn quân, toàn dân ta niềm tin, ý chí, quyết tâm mãnh liệt, thôi thúc họ xông lên, không sợ gian khổ, ác liệt, hy sinh, quyết chiến và quyết thắng.
Ba là, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử bắt nguồn từ quá trình tự giáo dục, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện của những người trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên cả hai miền Nam - Bắc.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử được
76