🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Số Vấn Đề Về Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng, Đấu Tranh Chống Các Quan Điểm Sai Trái, Thù Địch Ebooks Nhóm Zalo HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG Phó Chủ tịch Hội đồng Q. Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THjNH Thành viên PHẠM THỊ THINH NGUYỄN ĐỨC TjI TRẦN THANH LÂM NGUYỄN HOjI ANH TẬP THỂ TÁC GIẢ ThS. Hj THỊ BÍCH THỦY (Chủ biên) ThS. Hj VĂN LUYẾN (Đồng chủ biên) TS. LÊ THỊ Hj TS. LÊ THỊ CHIÊN ThS. TRẦN THỊ KIM DUNG ThS. ĐjO ANH TUẤN ThS. ĐOjN TRỌNG TIẾN ThS. NGUYỄN PHƯƠNG QUỲNH LỜI NHj XUẤT BẢN Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong gần 35 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại. Việt Nam đang đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước diễn biến khó lường cùng những khó khăn, phức tạp trong đời sống xã hội, nhất là sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập đã làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, hoang mang, dao động, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội... Trong khi đó, các thế lực thù địch không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá Đảng, 5 chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, đặt ra nhiệm vụ cấp thiết tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nhằm cung cấp cho bạn đọc những thông tin về vấn đề nêu trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Một số vấn đề về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Cuốn sách nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, lập luận, phân tích tính đúng đắn của các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới hiện nay. Trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 10 năm 2020 NHj XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 Phần thứ nhất NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH I- NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG 1. Khái niệm Nền tảng tư tưởng của Đảng là một bộ phận quan trọng cấu thành đời sống chính trị, tinh thần, nhân tố căn bản, cốt lõi tạo cơ sở, tiền đề quyết định mọi hoạt động xây dựng, sinh hoạt và lãnh đạo của Đảng. Một khi nền tảng tư tưởng của Đảng thay đổi, tất yếu dẫn tới sự thay đổi về mục tiêu, lý tưởng, nguyên tắc tổ chức, phương hướng hoạt động chính trị. Thực tiễn đã chứng tỏ, bất cứ một đảng chính trị nào cũng phải có hệ tư tưởng dẫn dắt, nếu không đảng đó chỉ là tổ chức ô hợp. Điều này đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải 7 theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”1. Do vậy, từ Đường cách mệnh do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và Luận cương chính trị được Hội nghị Trung ương tháng 10/1930 thông qua cho đến nay, Đảng ta đều khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của mình. Điều 4, Chương I Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”2. Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khóa XII xác định nền tảng tư tưởng của Đảng là: - Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - cấu phần quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng. ___________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.289. 2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.9. 8 - Đường lối, cương lĩnh của Đảng - sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam qua 90 năm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và phát triển. - Chính sách, pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Những giá trị truyền thống văn hóa, tinh thần tốt đẹp của dân tộc - nền tảng tinh thần tốt đẹp được hun đúc trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. 2. Vai trò của nền tảng tư tưởng của Đảng Nền tảng tư tưởng của Đảng có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay: - Những giá trị cốt lõi của nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - thế giới quan và phương pháp luận khoa học đúng đắn để nhận thức và giải quyết những vấn đề thực tiễn nên Đảng ta xác định đó là “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của cách mạng Việt Nam. - Đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là công cụ chính trị - pháp luật để lãnh đạo, quản lý mọi hoạt động của đời sống xã hội, giúp cho đất nước phát triển theo những định hướng đúng đắn, với những cơ chế, chính sách phù hợp. 9 - Những giá trị văn hóa - truyền thống tốt đẹp của dân tộc là nền tảng tinh thần quan trọng của xã hội, tạo nên bản sắc văn hóa, bồi đắp tình yêu, niềm tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm của nhân dân trước việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Mỗi khía cạnh của nền tảng tư tưởng của Đảng tuy có vai trò khác nhau nhưng cùng góp phần làm nên giá trị tư tưởng - văn hóa - tinh thần của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Do đó, nó chính là sức mạnh nội sinh của dân tộc, là cội nguồn của những thắng lợi mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được suốt 90 năm qua. II- CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH 1. Khái niệm * Quan điểm sai trái: là sự nhìn nhận thiên lệch, xa lạ với quan niệm thông thường, sự nhìn nhận của cộng đồng, thuần phong mỹ tục, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Xét trên phạm vi rộng, quan điểm sai trái, thù địch có thể hiểu là những nhận thức, suy nghĩ, thái độ trái ngược với lập trường, quan điểm, lợi ích của giai cấp thống trị và hệ thống chính trị cầm quyền. Xét trên phạm vi hẹp, ở Việt Nam quan điểm sai trái, thù địch có thể hiểu là những nhận thức, quan điểm trái ngược với lập trường, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đối lập nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam (cốt lõi là chủ nghĩa Mác - Lênin, 10 tư tưởng Hồ Chí Minh) và xuyên tạc các chính sách, pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa, được thể hiện qua các hành vi tuyên truyền xuyên tạc, đăng tải thông tin, bài viết có nội dung xấu, độc hại, bịa đặt, vu cáo, tung tin sai sự thật... nhằm gây rối loạn thông tin, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Quan điểm sai trái có thể xuất phát từ nhận thức còn yếu kém, hiểu không đúng; hoặc do lười tu dưỡng, không chịu khó học tập, rèn luyện nên hiểu sai lệch hoặc là quan điểm chứa đựng những thông tin phản ánh không đúng về thực tiễn chính trị, xã hội và thiếu cơ sở khoa học. Mặt khác, có thể do chủ thể bất đồng về lợi ích với một đối tượng hay một lớp đối tượng nào đó, họ chưa là những kẻ thù địch nhưng họ cố tình đưa ra các quan điểm sai trái để mang lại lợi ích cho cá nhân. * Quan điểm thù địch: Là cụm từ chung, chỉ các cá nhân, tổ chức có âm mưu, hành vi gây tổn hại đến chủ quyền, lãnh thổ và các lĩnh vực khác của Việt Nam, trái với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, hiểu thuật ngữ “thế lực thù địch” cần phụ thuộc vào hoàn cảnh, bối cảnh cụ thể; có thể hôm nay, tổ chức, cá nhân này là bạn với chúng ta nhưng ngày mai có thể trở thành kẻ thù và ngược lại. Hiểu theo nghĩa chung nhất, đó là tất cả những ai, cá nhân hay tổ chức, nhà nước hay phi chính phủ, 11 hợp pháp hay bất hợp pháp, ở trong nước hay ở ngoài nước, người Việt Nam hay người nước ngoài... với mục đích chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có chủ ý xuyên tạc, chống đối và làm suy yếu nền tảng tư tưởng, chống phá lại Đảng, Nhà nước. Như vậy, quan điểm sai trái nhấn mạnh tới phương diện phản khoa học, xuyên tạc thực tiễn; còn quan điểm thù địch ở cấp độ cao hơn quan điểm sai trái, bản thân nó đã chứa đựng những quan điểm sai trái, nhưng quan điểm này luôn đối lập về lợi ích và lập trường giai cấp với một chủ thể khác. Quan điểm thù địch là để nhấn mạnh tới sự đối lập với lợi ích, lập trường giai cấp công nhân, dân tộc Việt Nam. “Quan điểm sai trái, thù địch là những quan điểm nhằm đả kích vào Đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đả kích vào chế độ xã hội chủ nghĩa, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, nhằm lái đất nước đi vào con đường tư bản chủ nghĩa”1. Hiện nay, có một số loại quan điểm sai trái, thù địch chủ yếu như: tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta với biểu hiện rất đa dạng; chống phá sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc ___________ 1. Lê Hữu Nghĩa: “Phân biệt quan điểm sai trái, thù địch và những ý kiến khác với quan điểm đường lối của Đảng”, tạp chí Tuyên giáo, số 6/2013. 12 lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng; bôi nhọ cá nhân các lãnh tụ, lãnh đạo của Đảng; lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm của Đảng để xuyên tạc bản chất Đảng; ca ngợi chủ nghĩa tư bản với những giá trị khác nhau của nó1. Khi nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch, cũng cần phân biệt với những ý kiến khác với đường lối của Đảng. “Những cán bộ, đảng viên có ý kiến khác với đường lối của Đảng có thể do trình độ nhận thức hạn chế, do phương pháp tư duy giản đơn, không biện chứng, do ngộ nhận hoặc chịu ảnh hưởng nhất định của những quan điểm sai trái chứ không phải là thế lực thù địch”2. 2. Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch Thứ nhất, cố tình xuyên tạc, hạ thấp vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin, tuyên truyền rằng tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen cách ngày nay trên 150 năm, của V.I. Lênin cách ngày nay trên 100 năm, thời gian đã quá xa, những tư tưởng này không còn phù hợp để lý giải một xã hội phát triển ___________ 1. Xem Nguyễn Viết Thông: Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019. 2. Lê Hữu Nghĩa: “Phân biệt quan điểm sai trái, thù địch và những ý kiến khác với quan điểm đường lối của Đảng”, Tlđd. 13 như hiện nay. Hơn nữa, họ còn cho rằng cả C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đều xuất phát từ bối cảnh lịch sử của phương Tây, vì vậy, không thể hiểu và không thể giải quyết vấn đề của phương Đông, đặc biệt là của Việt Nam. Lập luận này sai về cả lôgíc lẫn lịch sử. Thực tiễn cho thấy, không phải cứ thời gian càng trôi xa thì học thuyết, tư tưởng càng mất đi giá trị. Có những học thuyết, tư tưởng càng qua thời gian thì càng khẳng định giá trị của mình. Tri thức khoa học xã hội và nhân văn mang đặc trưng tích luỹ chứ không mang đặc trưng thay thế như kỹ thuật, công nghệ, vì thế mà có những học thuyết tồn tại hàng nghìn năm vẫn còn giá trị. Thứ hai, tập trung tấn công tư tưởng Hồ Chí Minh và các lão thành cách mạng với hai thái cực khác nhau: Một là, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ nhắc lại tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và các nhà tư tưởng vĩ đại khác chứ không có tư tưởng của riêng mình hoặc tư tưởng không trở thành một hệ thống; Hai là, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản. Cả hai quan niệm này đều sai, vì tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử Việt Nam. Người đã 14 kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng truyền thống dân tộc và các giá trị tinh hoa của nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh không phải là những luận điểm sáo rỗng, giáo điều mà đã chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, thực tiễn, trực tiếp chỉ đạo thành công của cách mạng Việt Nam. Loại quan điểm này không chỉ tấn công tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn xuyên tạc, bôi nhọ lý lịch, đời tư của một số đồng chí lão thành cách mạng; đổi trắng thay đen, gây nghi ngờ trong dư luận về phẩm chất đạo đức, năng lực và lý lịch gia đình; gây chia rẽ nội bộ trong Đảng. Đặc biệt, loại quan điểm này hay tung hỏa mù làm cho thế hệ trẻ ít hiểu biết và đông đảo quần chúng nhân dân không có thông tin, cả tin và dễ bị lừa bởi thông tin mập mờ không rõ. Mục đích của loại quan điểm này là gây nghi ngờ trong nhân dân về uy tín của cá nhân các đồng chí lãnh đạo. Từ hạ thấp uy tín cá nhân một số đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước để hạ uy tín của Đảng. Loại quan điểm này thường lợi dụng công nghệ thông tin, các trang mạng xã hội tung tin giả, làm nhiễu thông tin. Do vậy, chúng ta phải rất thận trọng khi tham gia các trang mạng xã hội. Không vội hùa theo những thông tin trên mạng xã hội khi chưa được kiểm chứng, xác thực. 15 Thứ ba, phủ nhận tính hợp pháp và tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã hết vai trò lịch sử. Đảng cầm quyền là không chính đáng, vì không được bầu lên; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, sẽ thất bại giống như Liên Xô và một số nước Đông Âu,... Chúng cố tình quên rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành chính quyền từ tay ngoại xâm để xây dựng một nước Việt Nam mới độc lập, tự chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi qua các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc mà còn cả trong xây dựng đất nước. Thành tựu của sự nghiệp đổi mới, đời sống của người dân được cải thiện và nâng cao... là minh chứng sinh động nhất cho việc Đảng là đại diện cho ý nguyện và lợi ích của nhân dân. Nhân dân thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng, gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng ta. Thứ tư, xuyên tạc, phủ định các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phủ nhận mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, các thế lực thù địch vẫn dùng đủ mọi âm mưu, thủ đoạn để phủ định con đường cách mạng của dân tộc, đó là phủ nhận mục tiêu chủ nghĩa xã hội; phủ nhận công cuộc đổi mới, cho rằng áp dụng kinh tế thị trường 16 là đi theo chủ nghĩa tư bản; phủ nhận thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Về Đảng cầm quyền, đây là vấn đề mà các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt nhất. Thông tin xấu, độc tập trung vào bản chất của Đảng, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Về mặt pháp lý, các thông tin xấu, độc tập trung vào bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng được ghi trong Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các thông tin xấu, độc tập trung phản ánh mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; phủ nhận quan hệ giữa pháp lý và chính trị, chúng cho rằng định hướng xã hội chủ nghĩa đã ngăn cản thị trường, xâm phạm tới các quy luật của thị trường và chính trị can thiệp vào pháp lý sẽ cản trở thực thi công lý, vi phạm thực hiện quyền và lợi ích của nhân dân. Về quốc phòng, an ninh, sự tác động quyết liệt nhất của các thông tin xấu, độc tập trung vào mục tiêu phi chính trị hóa quân đội và công an, chúng cho rằng quân đội và công an chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước và an ninh, trật tự xã hội, không nên bị chi phối bởi chính trị, chia rẽ Đảng với quân đội và công an, giữa quân đội với công an. Về đối ngoại, thông tin xấu, độc đi 17 ngược lại quan điểm đối tác, mà cổ vũ cho việc ngả về bên này, bên kia, liên minh với bên này để chống bên kia. Ngoài ra, chúng tăng cường những thông tin xấu, độc nhằm chia rẽ mối quan hệ truyền thống giữa Việt Nam với các nước láng giềng và các nước có mối quan hệ, giúp đỡ ta trong hai cuộc kháng chiến trước đây. Thứ năm, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, cố tình đổi trắng thay đen, dựng chuyện Việt Nam đàn áp tôn giáo, kỳ thị, phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số. Các thế lực thù địch luôn đưa vấn đề này để chống Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế, trong các cuộc trao đổi đa phương, song phương, và gắn vấn đề dân chủ, nhân quyền với các cam kết về kinh tế và ngoại giao. Họ công khai tuyên bố: Vấn đề nhân quyền đang và sẽ là trọng tâm của sự bang giao giữa Mỹ và Việt Nam. Sự khác biệt về nhân quyền giữa Việt Nam và Mỹ đã cản trở mối giao hảo giữa hai nước và sự tiến bộ chậm chạp về nhân quyền đã làm tắc nghẽn sự phát triển của Việt Nam... Thứ sáu, chia rẽ khối đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân. Các thế lực thù địch luôn tấn công hòng phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, khối đồng thuận xã hội, gây nên sự ly tán, chia rẽ, suy giảm sức mạnh của Đảng, của nhân dân. Chúng chia rẽ nội bộ Đảng, giữa cơ quan 18 đảng, chính quyền các cấp, bịa đặt về sự hình thành “phe này”, “phái nọ” để gây hoang mang trong nhân dân. Chúng lợi dụng việc thực hiện công khai, minh bạch của Đảng trong đấu tranh chống tham nhũng và xử lý nghiêm minh một số cán bộ, đảng viên vi phạm để chia rẽ nội bộ. Chúng xuyên tạc rằng, “đây chỉ là sự thanh trừ phe này, phe nọ”, không thấy đây chính là quá trình làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, có tính quy luật trên con đường phát triển, là việc làm phù hợp với lòng dân, được toàn Đảng, toàn dân đồng tình ủng hộ. Chúng ra sức kích động chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa các dân tộc, các tôn giáo; giữa cán bộ và nhân dân; giữa đảng viên và quần chúng... Chúng thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên rồi đi đến khái quát một cách hàm hồ, nói xấu Đảng, gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Chúng ra sức lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để kích động gây bất ổn chính trị - xã hội; lợi dụng các bức xúc của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời để kích động tụ tập đông người gây mất trật tự, an ninh, xung đột xã hội, làm cho nhân dân không tin cán bộ, đảng viên, dẫn đến không tin Đảng, tìm “con đường khác”, “cách sống khác” do chúng vẽ ra. Đây là âm mưu, thủ đoạn phá hoại ta từ bên trong, 19 từ trong nội bộ, từ trong lòng dân, từ trong tư tưởng, tình cảm của con người trong xã hội. 3. Động cơ, mục đích chống phá của các thế lực thù địch Sau nhiều thập niên thực hiện âm mưu thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực thù địch đang thay đổi chiến lược và phương thức chống phá. Mục tiêu nhất quán không thay đổi của chúng là chống phá tận gốc về tư tưởng chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, “phi chính trị hóa”, vô hiệu hóa quân đội và lực lượng công an, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Toàn bộ hoạt động của các thế lực thù địch đều hướng vào mục tiêu làm cho đại đa số nhân dân Việt Nam nghi ngờ thành quả cách mạng trong quá khứ; nhìn vào thực tại xã hội chỉ thấy tiêu cực, bất ổn, bế tắc, nhìn về tương lai thì mù mịt; chúng làm cho đại đa số nhân dân tin rằng mọi khuyết điểm, yếu kém, tiêu cực đều do Đảng và việc lựa chọn định hướng xã hội chủ nghĩa là sai lầm; từ đó làm suy giảm, thậm chí mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; gieo rắc tâm lý hoài nghi, bất bình âm ỉ trong xã hội, nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 20 4. Cách thức và thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch * Cách thức: Một là, triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình và mạng internet từ nước ngoài để chuyển tải các quan điểm sai trái, thù địch nhằm tuyên truyền, xuyên tạc, kích động chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Hai là, lợi dụng danh nghĩa công khai hợp pháp của những người có thân phận ngoại giao, những người sang Việt Nam để thực hiện các dự án hợp tác, hỗ trợ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, y tế... hoặc vào Việt Nam dự hội nghị, hội thảo, du lịch, thăm thân, thông qua các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc để truyền bá, phổ biến các quan điểm sai trái, thù địch. Ba là, thông qua hoạt động của các tổ chức phi chính phủ (NGO) của nước ngoài ở Việt Nam để truyền bá, phổ biến quan điểm sai trái thù địch. Bốn là, tìm mọi cách tác động vào số cán bộ, công nhân, học sinh, sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ ra nước ngoài công tác, học tập, tham gia hội thảo, tham quan, du lịch để lôi kéo, gieo rắc tư tưởng hoài nghi con đường xã hội chủ nghĩa, hướng về phương Tây tư bản chủ nghĩa. 21 Năm là, sử dụng các tổ chức phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài vừa lôi kéo tập hợp lực lượng, vừa tiến hành các hoạt động bạo loạn hòng gây tình hình mất ổn định ở Việt Nam. Sáu là, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc” và “tôn giáo” để gây sức ép về chính trị, kích động, hình thành xu hướng ly khai đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam. Bảy là, tăng cường móc nối với số đối tượng cơ hội chính trị, chống đối ở Việt Nam, tóm “ngọn cờ” để tập hợp lực lượng, hình thành phe phái tiến tới hình thành đảng đối lập ở Việt Nam. Tám là, làm cho xã hội Việt Nam “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm phai nhạt định hướng xã hội chủ nghĩa và chệch hướng sang chủ nghĩa tư bản. * Thủ đoạn: Thứ nhất, tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phê phán, đả kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc, bóp méo sự thật về đường lối lãnh đạo của Đảng ta; cổ xúy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang... Bản chất và mưu đồ của họ là từng bước làm cho các lực lượng vũ trang biến chất về chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn tới mất sức chiến đấu. 22 Thứ hai, lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội; khai thác thông tin từ những vụ việc tiêu cực xảy ra trong đời sống rồi xuyên tạc sự thật, thổi phồng thiếu sót, khuyết điểm; lấy hiện tượng quy kết thành bản chất; đăng tải thông tin thật giả lẫn lộn để đả kích, phủ nhận những giá trị truyền thống, những thành quả của cách mạng Việt Nam. Thủ đoạn của chúng thường là lợi dụng các sự kiện trọng đại của Đảng, Nhà nước, quân đội, công an để tuyên truyền, chống phá; sử dụng mạng xã hội để tuyên truyền tập hợp lực lượng, phản đối sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; lợi dụng một số vấn đề bất cập, hạn chế trong công tác của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể hay một số cá nhân để khoét sâu gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ; mượn danh nghĩa, mạo danh để bôi nhọ danh dự, uy tín của cán bộ cấp cao, nguyên là cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước... Chúng đã lập ra hàng trăm trang web, blog (một số blog điển hình như: Dân làm báo, Quan làm báo, Vua làm báo, Chân dung quyền lực, Mẹ nấm...), mạng xã hội để thu thập, bóp méo, bịa đặt; nhào nặn trộn lẫn các thông tin đúng - sai, thật - giả; đưa ra các thông tin sai lệch với dụng ý xấu, định hướng dư luận bằng các luận điệu sai trái; đưa thông tin giật gân, lấp lửng để gây hoài nghi, hoang mang dư luận. 23 Thứ ba, lợi dụng vấn đề chống tham nhũng, nhất là sau một số vụ án tham nhũng kinh tế, các đối tượng thù địch thông qua các trang mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật về cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam; đăng tải các thông tin sai trái, bôi nhọ uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta; gây phân tâm trong xã hội, làm giảm sút ý chí, lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ... Thứ tư, chúng triệt để lợi dụng các thông tin về mặt trái, mặt tiêu cực của ta về các vấn đề xã hội nhằm thổi phồng khuyết điểm trong lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, từ đó quy kết thành bản chất, truyền bá các quan điểm phản cách mạng. Chúng còn tạo dựng ra cái gọi là phe này, phái nọ hay những “cuộc đấu đá”, tranh giành quyền lực... để gây lòng nghi kỵ, ngờ vực, phá hoại lòng tin của cán bộ, đảng viên, quần chúng vào Đảng, Nhà nước, quân đội, công an... Qua đó, phát tán những tư tưởng chống phá chế độ, kích động lòng người, cổ vũ cho những tư tưởng, hành động cực đoan, chống phá quân đội, công an... Điểm đặc biệt trong các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội hiện nay là chúng tìm mọi cách tập hợp những người có trình độ cao nhưng thiếu bản lĩnh chính trị, 24 suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống để tấn công trực tiếp vào nền tảng tư tưởng của Đảng, tìm mọi cách để chứng minh chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là sai lầm; tung hô về “sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản” và “sự kết thúc của chủ nghĩa Mác”, ra sức tuyên truyền và cổ xúy cho hệ tư tưởng và nền dân chủ tư sản; xuyên tạc, bôi nhọ lãnh tụ và lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước; xuyên tạc quan hệ giữa nước ta với các nước khác trên thế giới; lợi dụng, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin để kích động. Khi Đảng ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, đưa những vụ án lớn ra xét xử thì họ lại xuyên tạc đó là cuộc đấu đá giữa các phe phái trong Đảng, Nhà nước... Với những sản phẩm truyền thông được đầu tư kỹ lưỡng và được lan truyền, không chỉ khiến những người dân trình độ thấp, ít thông tin bị mê hoặc mà ngay cả một bộ phận người dân có trình độ cao hơn cũng hoang mang, hoài nghi và tin theo, từ đó hình thành dư luận xã hội tiêu cực một cách sâu rộng. Thủ đoạn tinh vi, phức tạp này còn được kết hợp với thủ đoạn dựng lên và tung ra những tin đồn thất thiệt, những thông tin sai sự thật hoàn toàn hoặc một phần, được nhào nặn khéo léo để xuyên tạc và chia rẽ nội bộ ta. 25 III- BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH 1. Khái niệm Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không phải là giữ nguyên những giá trị của các yếu tố cấu thành mà là sự thống nhất biện chứng của hai quá trình: vừa tiếp tục khẳng định những giá trị phổ quát, đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, cương lĩnh của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; vừa không ngừng bổ sung, phát triển trong điều kiện thực tiễn Việt Nam ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. V.I. Lênin đã đưa ra quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn hiện nay: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”1. Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, ___________ 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.4, tr.232. 26 đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, của Bộ Chính trị khóa XII cũng khẳng định: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Như vậy, với Nghị quyết này, Đảng ta khẳng định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ đường lối, cương lĩnh của Đảng, chính sách của Nhà nước, những thành quả trong công cuộc đổi mới đất nước, lợi ích quốc gia, dân tộc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước... Như vậy, so với Văn kiện Đại hội XII, nội hàm khái niệm “nền tảng tư tưởng của Đảng” ở Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII có sự mở rộng hơn nhưng không đi ngược lại với quan điểm của Đảng trước đó. Ở Việt Nam, cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được xây dựng trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thành quả của công cuộc đổi mới đất nước trong gần 35 năm qua chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn của 27 cách mạng Việt Nam. Từ đó, có thể hiểu, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là: - Bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng. - Bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. - Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Hiện nay, trong hệ thống lý luận của Đảng và các công trình nghiên cứu khoa học chưa có một định nghĩa cụ thể, chính thống về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Từ những tiếp cận khác nhau và thực tế công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch của các lực lượng trong hệ thống chính trị hiện nay, có thể hiểu: Đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch là hoạt động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, vô hiệu hóa những thông tin, quan điểm xuyên tạc, không đúng sự thật, đi ngược lại với quyền lợi của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Vạch trần những âm mưu, hoạt động phá hoại nội bộ Đảng, Nhà nước, phá hoại đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch; 28 góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một bộ phận của công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, bộ, ngành, đoàn thể; giữa Trung ương và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp các lực lượng trên mọi mặt trận. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng chính là sự khẳng định lập trường của Đảng và Nhà nước ta trước những biến động phức tạp trên thế giới và trong nước, từ đó củng cố nhận thức chính trị, giữ vững thế trận lòng dân, đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là hai mặt của một nhiệm vụ; có mối quan hệ biện chứng với nhau. - Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là giữ gìn, củng cố, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, làm cho nền tảng tư tưởng của Đảng ngày càng vững chắc, cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. - Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là đấu tranh chống lại, bác bỏ, phủ nhận những quan điểm không đúng, đi ngược lại với 29 đường lối, cương lĩnh của Đảng nhằm xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta, thay thế bằng nền tảng lý luận khác. Muốn bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cần phải đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch; ngược lại, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch để luôn giữ vững, kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, bảo vệ và đấu tranh là quá trình cần phải được tiến hành song song, đồng thời. 2. Nhận diện các nhóm đối tượng đang ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng Quan điểm thù địch xuất phát từ sự khác nhau về lập trường giai cấp, sự khác nhau về ý thức hệ, sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan. Những người tung ra các quan điểm sai trái, thù địch chủ yếu là các thế lực phản động, chống cộng cực đoan, các tổ chức, cá nhân phản động người Việt Nam ở nước ngoài, các đối tượng cơ hội, bất mãn chính trị, có nhận thức lệch lạc hoặc vì tham danh, hám lợi ở trong nước. Trong số này, có cả một số người trước kia là cán bộ, đảng viên song do “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bất mãn chính trị nên đã trở thành đối tượng để các thế lực thù địch lôi kéo, mua chuộc thành “đồng minh”. Có thể kể ra một số tổ chức, cá nhân điển hình, 30 như: “Việt Tân”, nhóm “Quê mẹ”, “Diễn đàn”, “Thông luận”, “Hợp lưu” và một số là lực lượng ngụy quân, ngụy quyền lưu vong sau năm 1975, tập hợp trong hơn 500 tổ chức phản động người Việt ở nước ngoài1, luôn nuôi tư tưởng thù hận, muốn “phục quốc”, làm tay sai cho nước ngoài, hoặc vì lợi ích cá nhân mà chống phá cách mạng Việt Nam. Một số người vốn là cán bộ, đảng viên, văn nghệ sĩ, nhà báo, trí thức,... suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nhóm họp nhau trong những tổ chức phi pháp, đi ngược lại quyền lợi của Đảng, dân tộc, thậm chí tự mình biến thành những con rối “dân chủ” chống phá quyết liệt. Bên cạnh đó, một bộ phận nhỏ nhân dân do nhẹ dạ, cả tin nên bị các thế lực phản động, cơ hội, bất mãn chính trị lôi kéo, kích động, hùa theo những hoạt động chống phá. Các thế lực thù địch tìm mọi cách để tuyên truyền, phát tán những quan điểm sai trái trên các phương tiện thông tin đại chúng như cho xuất bản sách, báo ở nước ngoài, sản xuất băng đĩa ___________ 1. Xem Nguyễn Văn Ngọc (Chủ biên): Hoạt động của các thế lực thù địch sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng ở nước ngoài phá hoại tư tưởng chống Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh của cơ quan an ninh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 46. 31 hình, in truyền đơn, tìm cách chuyển về trong nước, sử dụng các đài truyền hình, phát thanh của nước ngoài (như RFI, BBC...) nhằm vào Việt Nam. Đặc biệt, hiện nay dựa vào thành tựu của công nghệ thông tin hiện đại, các thế lực thù địch sử dụng mạng internet, các mạng xã hội (facebook, twitter, zalo...) các blog để tán phát rất nhanh, hữu hiệu quan điểm của họ vào Việt Nam và trên khắp thế giới. Trong báo cáo gửi Bộ Ngoại giao Mỹ, Jon Aloisi (cựu Phó Đại sứ Mỹ tại Việt Nam) cho rằng: “Thành công lớn nhất là đã thực hiện việc đưa vào Việt Nam mạng lưới internet. Đó là phương tiện hữu hiệu cho chiến dịch truyền bá các tư tưởng phương Tây nằm trong chiến lược nhằm thay đổi chính thể ở quốc gia này”1. Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2019, Việt Nam có khoảng 78,3% dân số sử dụng internet với trung bình 7 tiếng truy cập/ngày/người. Đây là điều kiện thuận lợi để các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền những quan điểm thù địch, sai trái, thực hiện “diễn biến hoà bình” chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Các thế lực thù địch cũng đã triệt để lợi dụng các phương tiện truyền ___________ 1. “Báo cáo nhân quyền của Hoa Kỳ không phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam”, báo Nhân Dân, ngày 22/02/2020. 32 thông đại chúng để tuyên truyền kiểu “rỉ tai”, kích động, “sử dụng khoảng 50 đài phát thanh, truyền hình, gần 400 tờ báo, tạp chí tiếng Việt (trong đó có khoảng 10 tờ có nội dung rất phản động), 66 nhà xuất bản để tuyên truyền, chống phá cách mạng Việt Nam, đưa một số lượng lớn tài liệu, sách báo, truyền đơn, băng hình... có nội dung phản động, đồi trụy vào Việt Nam, chỉ đạo bọn “bồi bút”, cơ hội viết nhiều bài xuyên tạc, bôi nhọ tình hình Việt Nam”1. Các thế lực thù địch có thể chia thành các nhóm sau: Một là, nhóm đối lập về hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng của Đảng ta là hệ tư tưởng vô sản thì những người theo hệ tư tưởng tư sản, kể cả tàn dư phong kiến sẽ quyết liệt chống lại chúng ta. Hai là, các thế lực thù địch về chính trị luôn chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta, với mục đích làm cho con đường phát triển đất nước của Đảng chệch hướng, thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Ba là, những người vốn là đảng viên cộng sản nhưng không chịu rèn luyện, tu dưỡng, học tập, ___________ 1. Bùi Đình Bôn: “Nhận diện sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa”, tạp chí Quốc phòng toàn dân, số tháng 11/2019. 33 nâng cao tư tưởng, đạo đức cách mạng dẫn tới tha hóa về tư tưởng chính trị, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí là phai nhạt lý tưởng, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” trong nội bộ. Lực lượng này len lỏi, phức tạp, không khó để nhận ra nhưng lại rất khó để đấu tranh. Đây là những người phản bội lại quá khứ, phản bội lý tưởng và nguyên nhân của sự phản bội đó đôi khi lại bắt nguồn từ sự bất mãn, không đồng ý một số vấn đề cụ thể trong chính sách, ứng xử của một vài cơ quan, đơn vị. Để đạt được mục đích nói trên, các thế lực thù địch vừa tác động vào diện rộng - đại đa số nhân dân, vừa chú ý tác động vào một số đối tượng có ảnh hưởng lớn trong xã hội hiện nay và tương lai, bao gồm: Một là, tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ. Trong đời sống xã hội, tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ có vị trí, vai trò quan trọng; góp phần không nhỏ vào việc hình thành và định hướng dư luận xã hội, tạo nên nếp suy nghĩ, ý thức, thái độ của xã hội trước những hiện tượng của cuộc sống. Các bài viết, hoạt động xã hội, các tác phẩm văn học - nghệ thuật của họ có thể tác động và làm thay đổi nhận thức, tư tưởng của một bộ phận dân cư trong xã hội. Chính vì vậy, tầng lớp trí thức và văn nghệ sĩ luôn là mục tiêu 34 mà các thế lực thù địch lợi dụng kích động, lôi kéo vào các hoạt động chống Đảng, Nhà nước, xâm phạm an ninh quốc gia trên lĩnh vực văn học - nghệ thuật. Những kẻ cơ hội chính trị ra sức lôi kéo một bộ phận văn nghệ sĩ do chế độ cũ đào tạo; những văn nghệ sĩ đã từng có vi phạm pháp luật; nhóm văn nghệ sĩ chống Đảng; những văn nghệ sĩ từng tham gia kháng chiến cứu nước, nhưng hiện nay bất mãn, cực đoan, có sai phạm, lệch lạc trong sáng tác văn học nghệ thuật; những trí thức trẻ, văn nghệ sĩ không có sự vững vàng về bản lĩnh chính trị, ngả nghiêng theo các luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật về Đảng và Nhà nước ta. Hai là, thanh niên, học sinh, sinh viên. Thanh niên là một bộ phận quan trọng, là vốn quý và thế mạnh trong chiến lược phát triển đất nước. Tuy nhiên, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và một phần do hạn chế về nhận thức, thanh niên là đối tượng quan trọng để các thế lực thù địch, phản động mua chuộc, lôi kéo, kích động..., nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Các thế lực phản động, cơ hội, chống đối chính trị... luôn triệt để lợi dụng đặc điểm tâm lý nhạy cảm, ham tiếp cận cái mới, thích tự do, tự khẳng định mình... của thanh niên, trong khi vốn sống 35 và nhận thức chính trị - xã hội của họ còn hạn chế, để dụ dỗ, lôi kéo, tiêm nhiễm bằng cả vật chất và văn hóa, lối sống thực dụng, ngoại lai. Đồng thời, chúng cũng lợi dụng những sơ hở, buông lỏng trong công tác quản lý, hoặc lôi kéo một bộ phận thanh niên đua đòi theo trào lưu, lối sống thực dụng, đòi xét lại quá khứ..., để kích động, tập hợp thanh niên tham gia, hòng gây mất an ninh trật tự, chống đối chính quyền. “Hậu quả là đã có một bộ phận thanh niên, trong đó có không ít sinh viên, phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống thực dụng, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập, hút sách, thiếu trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp. Đây là những biểu hiện không thể coi thường”1. Ba là, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Nhà nước các cấp, nhất là ở Trung ương và cấp tỉnh, có quan điểm sai trái, nhận thức không đúng đắn về nền tảng tư tưởng của Đảng. Các thế lực thù địch hết sức quan ___________ 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.264. 36 tâm đến những cán bộ làm việc ở các cơ quan tham mưu cho Đảng và Nhà nước xây dựng và thực thi các chiến lược, quyết sách quốc gia. Về vấn đề này, Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận: “Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm...”1. Bốn là, một bộ phận cán bộ đã nghỉ hưu, những người bất mãn với Nhà nước, nhất là những người có quan điểm sai trái, đối lập với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là những người có hoạt động lôi kéo những người khác vào hoạt động chống đối Đảng, Nhà nước. Các thế lực thù địch luôn giữ “quan hệ hữu nghị, chặt chẽ” với những chức sắc các tôn giáo đi ngược lại lợi ích của dân tộc, ___________ 1. Đảng Cộng sản việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr.47. 37 với những phần tử trong ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động cũ không chịu cải tạo và những phần tử phản động trong các vùng dân tộc thiểu số. Năm là, một số người Việt Nam ra nước ngoài công tác, học tập, lao động, trao đổi văn hoá, hội nghị, hội thảo, du lịch... Khi các đối tượng này đã được “gây men”, nảy mầm tư tưởng hoài nghi, muốn thay đổi chính trị, thì có sự “lan tỏa” hết sức lớn trong xã hội hiện nay cũng như trong tương lai. 3. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch Trong 90 năm xây dựng và phát triển, bên cạnh việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta còn có những chỉ đạo quan trọng liên quan đến việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. - Từ những năm 50 - 60 thế kỷ XX, trên thế giới nổi lên chủ nghĩa cơ hội, xét lại chống lại chủ nghĩa Mác cũng như phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết và kiên trì đấu tranh để 38 bảo vệ chủ nghĩa Mác. Tháng 12/1963, Đảng Lao động Việt Nam ban hành Nghị quyết Trung ương 9 khóa III “về tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng” để đấu tranh chống lại nhận thức và hành động trái với quan điểm của Đảng. Có người rời bỏ Đảng, được cử đi học và tìm cách ở lại nước ngoài. Số đó tuy rất ít nhưng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng. Do đó, với lập trường kiên định và rõ ràng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên cường đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. - Những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 thế kỷ XX, các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã từng bước rơi vào khủng hoảng và sụp đổ. Tháng 8/1989, Hội nghị Trung ương 7 khóa VI của Đảng ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay”. Trung ương Đảng đã nhận định sáu điểm về những sai lầm trong cải tổ, cải cách về thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng, dân chủ hóa không giới hạn, hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phủ nhận thành tựu của lịch sử, của chủ nghĩa xã hội. Từ đó, Đảng ta nhấn mạnh cần giáo dục trong Đảng và trong nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở 39 quán triệt năm nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng. - Sau khi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được ban hành năm 1991, Đảng ta tiếp tục có những chỉ đạo quan trọng qua Nghị quyết số 01-NQ/TW “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay” (tháng 3/1992); Nghị quyết số 09-NQ/TW “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay” (tháng 02/1995); đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (năm 2012) và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (năm 2016) về xây dựng Đảng. - Ngày 22/10/2018, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Đây là nghị quyết chuyên đề quan trọng, cho thấy sự kiên trì, kiên định của Đảng ta trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. 4. Lực lượng tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch Theo tinh thần Nghị quyết số 35-NQ/TW, Ban Chấp hành Trung ương đã thành lập Ban Chỉ đạo 35 Trung ương. Đây là Ban Chỉ đạo cao nhất 40 để chỉ đạo chung công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng được giao là đầu mối trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Theo đó, mỗi bộ, ban, ngành từ trung ương đến địa phương cũng như các cơ quan, đơn vị đều thành lập Ban Chỉ đạo 35 để trực tiếp chỉ đạo việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở đơn vị mình. Ngoài ra, một số cơ quan trung ương như: Hội đồng Lý luận Trung ương, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đã thành lập các “đội tác chiến” phản ứng nhanh trong đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái, thù địch. Hội đồng Lý luận Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo 609, có nhóm phối hợp điều hành gồm đại diện một số cơ quan như: Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam... Ban Chỉ đạo 609 của Hội đồng Lý luận Trung ương thường xuyên có các báo cáo trình các cơ quan có thẩm 41 quyền tham mưu hoặc trực tiếp đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch; tổ chức đối thoại với những người có ý kiến khác với đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước theo Quy định số 199-QĐ/TW ngày 23/9/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về trao đổi, đối thoại lý luận chính trị. Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, Bộ Tư lệnh tác chiến không gian mạng (Bộ Tư lệnh 86) được thành lập theo Quyết định số 1198/QĐ-TTg ngày 15/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở nâng cấp từ Cục Công nghệ thông tin thuộc Bộ Tổng tham mưu thành đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng. Đây là đơn vị giúp Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và công nghệ thông tin. Ngoài các tổ chức chính thức do các cơ quan có thẩm quyền thành lập, việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch còn có sự tham gia của các tổ chức của nhân dân. Hiện nay, tại các trường đại học, cao đẳng, các học viện, phòng công tác chính trị sinh viên phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên, Hội Sinh viên... thành lập các đội, nhóm tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh 42 phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Một số cá nhân cũng tự giác thành lập các hội, nhóm, câu lạc bộ tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch như cựu chiến binh, cán bộ hưu trí, sinh viên, đảng viên trẻ... 5. Thực trạng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch * Kết quả: Qua 90 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất lớn trong việc lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Những thành tựu đó được thể hiện trên những khía cạnh cơ bản sau: Thứ nhất, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong việc xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ, phát triển và làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội Việt Nam; đồng thời vô hiệu hóa các luận điệu và hoạt động phá hoại tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bảo vệ thành công các quan điểm, tư tưởng đổi mới của Đảng. Ngoài ra, 43 sự lãnh đạo của Đảng cũng góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam; tổ chức lực lượng và các điều kiện bảo đảm cho công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch. Sự ra đời và hoạt động hiệu quả của Ban Chỉ đạo 94 Trung ương, Ban Chỉ đạo 609 của Hội đồng Lý luận Trung ương, Ban Chỉ đạo 213 Trung ương về đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật; Ban Chỉ đạo 94 Đảng ủy Công an Trung ương, Ban Chỉ đạo 94 Quân ủy Trung ương và các Ban Chỉ đạo 94 trực thuộc Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh 86, Lực lượng 47, cơ quan thường trực, lực lượng nòng cốt, lực lượng chuyên sâu, lực lượng tham gia đấu tranh ở từng cấp đã góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam. Thứ hai, chủ động phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế ở Việt Nam như ý đồ “tư nhân hóa” nền kinh tế, tiến công vào vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; giúp cho nền kinh tế Việt Nam giữ được độc lập, tự chủ, không bị lệ thuộc vào nước ngoài, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, nền kinh tế 44 Việt Nam vẫn giữ được sự ổn định với tốc độ tăng trưởng cao từ 6 - 7%/năm. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng ta tiếp tục lãnh đạo giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm công bằng xã hội. Thứ ba, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hòng thay đổi hệ giá trị văn hóa Việt Nam bằng hệ “giá trị văn hóa tư sản”; bảo vệ và phát triển nền văn hóa truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình đổi mới. Ngoài ra, sự lãnh đạo của Đảng đã làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng đổi mới để gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo; lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng Việt Nam; không ngừng củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội. Thứ tư, lực lượng vũ trang nhân dân luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao; đạt nhiều thành quả quan trọng trong xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số đơn vị, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm “phi chính trị hóa” 45 lực lượng vũ trang. Đồng thời, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch phá hoại vũ khí, trang bị, cơ sở vật chất - kỹ thuật. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Làm thất bại mưu đồ bao vây, cấm vận, cô lập, cản trở Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế. Nhờ đó, Việt Nam tạo được môi trường thuận lợi phục vụ cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao; tranh thủ được nhiều diễn đàn quốc tế để tập hợp đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị. Nguyên nhân của những thành tựu: Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam có chủ trương, đường lối, giải pháp đúng, phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam. Hai là, cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, có tinh thần cảnh giác, kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống kẻ thù. 46 Ba là, phát huy được sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng trong đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Bốn là, lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. * Một số hạn chế, khó khăn: Một là, một bộ phận cán bộ, đảng viên bị âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch làm cho thoái hóa, biến chất, ảnh hưởng tiêu cực đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí trong một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền còn nghiêm trọng. Đây là kẻ thù bên trong, giặc nội xâm cần phải đánh thắng trong quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trong xã hội vẫn còn những nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội, sự đồng thuận xã hội có lúc có nơi chưa được cao. Hai là, chưa giải quyết tốt, hài hòa trên một số mặt giữa yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế với việc giải quyết vấn đề an sinh xã hội, làm ảnh hưởng đến bản chất xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế Việt Nam còn có biểu hiện chệch hướng, 47 cục bộ trên một số mặt, một số lĩnh vực. Việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cấu trúc lại nền kinh tế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kiểm soát lạm phát có mặt vẫn còn khó khăn. Ba là, trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thông tin, tuyên truyền còn có những biểu hiện lỏng lẻo, sơ hở về trật tự, kỷ cương. Đấu tranh phê phán, phản bác các quan điểm tư tưởng sai trái, thù địch trong các hoạt động báo chí, xuất bản còn thiếu sắc bén; tính chiến đấu và tính thuyết phục chưa thật cao. Còn một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân bị tác động của âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” về văn hóa, lối sống của các thế lực thù địch ở các mức độ khác nhau. Tình trạng mất ổn định xã hội cục bộ vẫn còn xảy ra; sự đồng thuận xã hội chưa thật vững chắc. Bốn là, công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam ổn định và phát triển, nâng cao uy tín, vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế còn hạn chế. Việc kết hợp đưa thông tin ra nước ngoài và thông tin chính thống từ thế giới vào Việt Nam chưa chặt chẽ, hiệu quả; do đó chưa hạn chế hiệu quả nhất tác động tiêu cực của những thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực cơ hội, thù địch. Chưa phát triển nhanh, mạnh, vững chắc với cơ cấu, quy mô hợp lý các loại hình thông tin 48 theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, chất lượng, hiệu quả, phù hợp xu thế phát triển khoa học và công nghệ, thông tin, truyền thông thế giới, đáp ứng quyền tiếp cận thông tin của nhân dân, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngang tầm khu vực và thế giới... Vẫn còn tình trạng thông tin thiếu cân đối, chưa đảm bảo sự đồng đều về phân bố và khoảng cách hưởng thụ thông tin của nhân dân giữa các vùng, miền1. Năm là, còn có biểu hiện mất cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh; thiếu tích cực trong xây dựng các khu vực phòng thủ, xây dựng “thế trận lòng dân” để bảo vệ Tổ quốc. Còn xem nhẹ sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc và chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc các yêu cầu về xây dựng lực lượng vũ trang trong tình hình mới; còn để xảy ra các điểm nóng, vùng nóng. Nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn: Một là, tình hình thế giới, khu vực, Biển Đông và trong nước diễn biến phức tạp, tác động không ___________ 1. Xem Quyết định số 1497/QĐ-TTg, ngày 08/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thông tin quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. 49 nhỏ đến công tác lãnh đạo đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam, nhất là sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hai là, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của một số cấp ủy, người đứng đầu đơn vị vẫn còn hạn chế, bất cập và sơ hở. Ba là, một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân chưa nhận thức đúng, sâu sắc và còn mất cảnh giác về âm mưu, thủ đoạn và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, còn để “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; tệ nạn xã hội và chống tham nhũng, lãng phí còn nhiều khó khăn, phức tạp. 6. Một số kinh nghiệm trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch Một là, trong bất kỳ hoàn cảnh và tình huống nào cũng phải luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; coi đây là nền tảng tư tưởng vững chắc của Đảng. Do đó, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh ở mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng phải luôn kiên trì với nền tảng tư tưởng đã lựa chọn, bản lĩnh và vững vàng trước những sóng 50 gió để lãnh đạo, dẫn dắt đảng viên và nhân dân đi theo. Tuy nhiên, sự kiên trì, kiên định không đồng nghĩa với việc bảo thủ, rập khuôn. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là sự thống nhất biện chứng của hai quá trình: vừa tiếp tục khẳng định những giá trị phổ quát, đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa không ngừng bổ sung, phát triển và vận dụng linh hoạt những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thực tiễn Việt Nam ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Thực tiễn cho thấy, không thể làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nếu không quyết tâm khắc phục chủ nghĩa giáo điều, bệnh chủ quan duy ý chí, quan niệm giản đơn, hời hợt về những quy luật khách quan của lịch sử và quá trình cách mạng. Hai là, luôn luôn tỉnh táo phòng ngừa, chủ động và kiên quyết phê phán mọi nhận thức lệch lạc và đấu tranh với quan điểm sai trái và thù địch. Sự chủ động, tỉnh táo từ tầm nhìn, tầm tư duy chiến lược của cơ quan lãnh đạo, người lãnh đạo cao nhất và của các cơ quan tham mưu, chuyên môn trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận; vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng, lý luận nói chung và trong đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch nói riêng có ý nghĩa quyết định thành công. Trung ương, Bộ Chính trị luôn có định hướng đúng đắn về 51 công tác tư tưởng - định hướng chiến lược và phương hướng cụ thể của từng giai đoạn. Đó là cơ sở rất quan trọng để các cơ quan chuyên môn, cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận kịp thời đề xuất những bước đi, giải pháp để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Ba là, luôn tích cực tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, huy động sức mạnh tổng hợp của cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ là nhiệm vụ của đảng viên mà còn là trách nhiệm của cán bộ và nhân dân. Đảng đã phát huy vai trò, thế mạnh của các phương tiện truyền thông, các cơ quan thông tấn, báo chí trong việc tuyên truyền những đường lối, chủ trương của Đảng; có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy đảng, thường xuyên lồng ghép nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong các cuộc họp đảng bộ, chi bộ, các cơ quan, đơn vị... Ngoài ra, Đảng cũng luôn phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đây là một cách thức hữu hiệu để huy động sức mạnh tổng hợp tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. 52 7. Vấn đề đặt ra và giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay * Vấn đề đặt ra: Một là, phải không ngừng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về nền tảng tư tưởng của Đảng cũng như âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta, để nhận diện sao cho trúng, cho đúng đối tác, đối tượng, bạn, thù; lực lượng thù địch, cơ hội, xét lại trong tình hình mới và tính chất nguy hiểm, tác hại của nó đối với cách mạng Việt Nam; tỉnh táo, sáng suốt phân biệt rõ ràng “phải trái, trắng đen”; đâu là nhận thức lệch lạc, không đúng, không đầy đủ mà sinh ra quan điểm sai trái; đâu là sự cố tình chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch, bọn cơ hội, xét lại; đâu là những yếu kém, khuyết điểm và hạn chế của ta, của cán bộ, đảng viên; đâu là sự chống phá “giấu mặt”, “trá hình” và công khai của các thế lực thù địch... Trong tình hình mới, phải tìm ra phương cách tối ưu nhất để quản lý chặt bọn cầm đầu, chủ mưu; có kế hoạch chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của địch từ trong “trứng nước”; không để xảy ra hiện tượng “tả” khuynh và hữu khuynh; không để đất nước rơi vào bị động, bất ngờ. 53 Tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội; xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch. Hai là, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu dự báo, nắm chắc tình hình địch - ta; dự báo chính xác những nơi có thể xảy ra “điểm nóng”, “vùng nóng”; tìm được biện pháp tối ưu trong việc kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa với kiên định ý chí tiến công; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, làm sao cho thực lực của ta ngày càng mạnh lên; biết lấy xây vững mạnh là chính, là quyết định, còn đấu tranh chống là rất quan trọng. Đây là yêu cầu khách quan đang đặt ra cấp bách đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, 54 người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải làm gì, làm như thế nào để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo công tác đấu tranh, kết hợp giữa “xây” và “chống” gắn với khắc phục các nguy cơ khác đe dọa cách mạng Việt Nam sao cho hiệu quả. Ba là, phải tăng cường và đổi mới mạnh mẽ công tác lãnh đạo đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch gắn với lãnh đạo đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” lực lượng vũ trang. Yêu cầu này cần phải được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và quan hệ tác động qua lại giữa nó với “diễn biến hòa bình”; “diễn biến hòa bình” là nguyên nhân cơ bản, trực tiếp thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là “kết quả lôgíc”, hệ quả trực tiếp của “diễn biến hòa bình”. Đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chỉ đạt kết quả khi gắn liền với đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. * Giải pháp: Trước hết, thường xuyên bám sát định hướng chỉ đạo, hướng dẫn trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai 55 trái, thù địch. Gắn nhiệm vụ này với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng để xây dựng các chương trình, kế hoạch, giải pháp cụ thể, đồng bộ. Ngoài ra, việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cần phải được thực hiện đồng bộ từ trên xuống dưới, trong tất cả các cơ quan, ban, ngành và địa phương để tạo nên một thế trận toàn diện, đấu tranh trên mọi mặt trận. Hai là, chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá của các đối tượng để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Công tác nắm tình hình cần tập trung vào những vấn đề cụ thể như: phát hiện các trang web, blog, “diễn đàn” thường xuyên đăng tải những nội dung xấu, thù địch; phát hiện âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền chống phá của chúng trên không gian mạng, kịp thời nhận diện những phương thức, thủ đoạn mới; phát hiện cá nhân, tổ chức sở hữu, quản lý, điều hành các trang mạng xã hội thường xuyên đăng tải các bài viết, hình ảnh, video tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam; phát hiện những bất cập, hạn chế của các biện pháp, công tác nghiệp vụ đã và đang được triển khai... Chủ động phòng ngừa, đấu tranh từ sớm, từ xa, phát huy vai trò 56 của các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền thông trong việc định hướng dư luận cho nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Ba là, phát huy tối đa vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, đặc biệt là Ban Chỉ đạo 35 các cấp trong việc tuyên truyền, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Tập trung lãnh đạo kiện toàn, xây dựng phát triển lực lượng đấu tranh theo hướng chủ động tạo thế liên hoàn, vững chắc, có bộ phận nòng cốt, chuyên sâu, tập hợp lực lượng rộng rãi; quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ; nắm bắt, dự báo, xử lý kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh. Trong tổ chức thực hiện, cần duy trì tốt các chuyên trang, chuyên mục bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tích cực thông tin và tăng cường đối thoại với nhân dân. Thường xuyên duy trì, thực hiện có hiệu quả việc phối hợp với các cơ quan chức năng, Ban Chỉ đạo 35 các cấp trong việc lãnh đạo, điều hành thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Bốn là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện nhiệm vụ 57 kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động. Tăng cường hoạt động quản lý, kiểm soát đối với các trang mạng xã hội và chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng “độc hại” một cách có hiệu quả. Phát huy vai trò của các cơ quan quản lý và áp dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại để ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu, độc trên các trang mạng. Đặc biệt, phải chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để xâm nhập, chiếm quyền quản trị, điều hành các trang web, blog, diễn đàn mạng xã hội, sau đó xóa dữ liệu, vô hiệu hóa hoặc ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng có nội dung “độc hại” trong một thời gian nhất định. Năm là, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, lan tỏa Nghị quyết số 35-NQ/TW của Đảng về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đây không chỉ là nhiệm vụ 58 của cán bộ, đảng viên mà còn là nhiệm vụ của nhân dân. Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; hệ thống hoá, phổ biến các thành tựu lý luận trong thời gian qua; nâng cao chất lượng nghiên cứu, học tập nghị quyết để vận dụng vào thực tiễn; đổi mới nội dung, phương thức nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước1; phát huy vai trò của báo chí trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;... Bên cạnh “chống”, cần tăng cường biện pháp “xây”, thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng ở cơ sở; giải quyết có hiệu quả khiếu nại, tố cáo; tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng. Các địa phương sớm kiện toàn tổ chức tuyên giáo, xây dựng đội ngũ cán bộ sẵn sàng “phản ứng nhanh” với những thông tin sai trái, thù địch trên không gian mạng. Tích cực, chủ động cung cấp những thông tin chính thống để định hướng dư luận về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... ___________ 1. Xem Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới - Bài 1: Cuộc đấu tranh gian khó và lâu dài, https://moha.gov.vn/nghi-quyet-tw4/bao-ve-nen-tang tu-tuong-cua-dang, cập nhật ngày 24/9/2019. 59 Phần thứ hai BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN MỘT SỐ LĨNH VỰC I- BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN 1. Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng 1.1. Khái niệm * Công tác tư tưởng: Tư tưởng “là phản ánh của hiện thực trong ý thức của con người đối với thế giới xung quanh”1. Tư tưởng còn được hiểu là sự suy nghĩ, là quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với thế giới tự nhiên và xã hội. Tư tưởng tiến bộ, tư tưởng cách mạng có tác động tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển. Tư tưởng lạc hậu, phản động sẽ có tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội. ___________ 1. Từ điển Triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.877. 60 Công tác tư tưởng của Đảng là nội dung và phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng trong việc định hướng giá trị, xác lập niềm tin, phát huy tính tích cực chính trị - xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm từng bước hiện thực hóa lý tưởng và mục tiêu của Đảng. Công tác tư tưởng của Đảng là hoạt động đặc biệt quan trọng của Đảng trong việc xác lập, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nhằm tạo sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận xã hội; cổ vũ, động viên tinh thần sáng tạo cách mạng của nhân dân; đấu tranh chống các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, góp phần xây dựng nền văn hóa và con người mới xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh tươi đẹp của đất nước, con người Việt Nam ra cộng đồng quốc tế. Khái niệm trên chỉ rõ tính chất, chủ thể, đối tượng, mục tiêu công tác tư tưởng của Đảng. Về tính chất của công tác tư tưởng: Công tác tư tưởng thuộc về hoạt động lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng đối với nội bộ Đảng, Nhà nước và xã hội. Đây là hoạt động lãnh đạo, không phải chỉ là hoạt động nghiệp vụ đơn thuần. Nhưng, Đảng không chỉ lãnh đạo nói chung đối với hoạt động tư tưởng, mà Đảng còn chỉ đạo và tổ chức 61 các hoạt động tư tưởng, bao gồm: công tác nghiên cứu, phát triển lý luận; truyền bá, giáo dục tư tưởng; hiện thực hóa lý luận thành đường lối, chính sách... để chỉ đạo thực hiện trong thực tiễn. Chủ thể công tác tư tưởng của Đảng là Đại hội đảng các cấp, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; cấp ủy đảng các cấp; đảng đoàn, ban cán sự và các chi bộ đảng. Dưới sự lãnh đạo của các chủ thể trên, toàn bộ hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên, quần chúng tích cực..., trong đó các cơ quan tham mưu của Đảng về công tác tư tưởng là lực lượng nòng cốt, có trách nhiệm tham gia làm công tác tư tưởng. Đối tượng của công tác tư tưởng là cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đối với các cơ quan lãnh đạo của Đảng, trong mối quan hệ này là chủ thể, trong mối quan hệ khác lại là đối tượng của công tác tư tưởng. * Công tác lý luận: Lý luận là một hệ thống các quan điểm phản ánh thực tiễn, được thể hiện dưới dạng hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra những quan niệm tương đối hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ bản và các quy luật của hiện thực khách quan. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, mọi lý luận chân chính đều bắt nguồn từ 62 thực tiễn, phản ánh đúng thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn. Vì lẽ đó, lý luận là một nội dung, một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của một chính đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền mà không có lý luận dẫn đường thì “cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”1, cách mạng sẽ không có “phong trào vận động” và Đảng sẽ không thể làm nổi “trách nhiệm cách mạng tiền phong”. Công tác lý luận là toàn bộ các hoạt động có định hướng, có tổ chức, có kế hoạch của Đảng để tiến hành các công việc nghiên cứu và giáo dục, truyền bá các nội dung lý luận cần thiết trong từng thời kỳ cách mạng. Công tác lý luận là bộ phận cấu thành giữ vai trò hàng đầu trong toàn bộ công tác tư tưởng. Công tác lý luận cùng với công tác tuyên truyền, công tác cổ động, với hoạt động nắm bắt, phân tích và quản lý các quá trình tư tưởng, với đấu tranh tư tưởng hợp thành tổng thể công tác tư tưởng của Đảng. Hoạt động nghiên cứu lý luận cung cấp nội dung cho công tác giáo dục, truyền bá lý luận, công tác tuyên truyền, cổ động chính trị và cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận. ___________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289. 63 Công tác lý luận là hoạt động bao gồm nhiều loại công việc, nhiều khâu gắn bó mật thiết với nhau như: - Công tác nghiên cứu lý luận: Đây là hoạt động quan trọng đầu tiên và cơ bản nhất, là quá trình “sản xuất” tri thức lý luận phản ánh trình độ nhận thức bản chất các hiện tượng, quá trình chính trị - xã hội và tư tưởng. - Công tác giáo dục, truyền bá lý luận: Hoạt động này nhằm trang bị lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, củng cố lập trường tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, để chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, là nhân tố chủ đạo trong đời sống tinh thần của toàn xã hội. 1.2. Vai trò của công tác tư tưởng, lý luận Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định công tác tư tưởng, lý luận là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của Đảng, là một trong những nội dung quan trọng của công tác lãnh đạo và là phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng. Nghị quyết Trung ương 5 khóa X của Đảng khẳng định: “Công tác tư tưởng, lý luận là một bộ 64 phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý tưởng, trí tuệ, văn hóa và đạo đức; thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1. Thực tiễn cách mạng của Đảng ta chỉ rõ, ở bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, công tác tư tưởng, lý luận luôn đứng ở vị trí hàng đầu trong các mặt công tác của Đảng, có những vai trò quan trọng như sau: - Làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng, lý luận và đẩy mạnh giáo dục tư tưởng, lý luận là cơ sở, điều kiện để thống nhất nhận thức, ý chí và hành động trong Đảng, trong xã hội. Đảng Cộng sản là một đảng chiến đấu, một đảng hành động, Đảng không chỉ đề ra đường lối, kêu gọi mọi người thực hiện, mà Đảng phải tổ chức, chỉ đạo các tổ chức, các lực lượng thực hiện tốt các chủ trương mà Đảng đã đề ra, việc làm đi đôi với lời nói. Đảng lãnh đạo đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.66, tr.418. 65 công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay là công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp. Thực tiễn nảy sinh nhiều vấn đề mới và xuất hiện nhiều khuynh hướng khác nhau, nhận thức trong Đảng và trong xã hội về các hiện tượng mới cũng rất đa dạng. Do vậy, Đảng phải có sự nhất trí cao, thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì như một người”1. Sự thiếu nhất trí không chỉ làm yếu đi sức mạnh của Đảng, mà còn là cơ hội để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng khoét sâu để chia rẽ Đảng. Do đó, công tác tư tưởng, lý luận phải làm rõ, chỉ ra các căn cứ lý luận và thực tiễn của các nghị quyết, các nhận thức sai lệch có thể có; không chỉ phổ biến giáo dục cho cán bộ, đảng viên các nghị quyết của Đảng, mà còn phải luận giải cơ sở khoa học của các luận điểm trong nghị quyết, định hướng đúng đắn cho việc quán triệt và tổ chức triển khai nghị quyết. - Công tác tư tưởng, lý luận là một nội dung trọng yếu, nhân tố quan trọng hàng đầu tạo nên sự thống nhất, đoàn kết trong Đảng. Công tác tư tưởng, lý luận góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bồi đắp nền tảng ___________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.17. 66 chính trị của chế độ; tuyên truyền, giáo dục, động viên lực lượng và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng; nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý luận, tư tưởng, trí tuệ, văn hoá và đạo đức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. - Công tác tư tưởng, lý luận cung cấp những luận cứ khoa học xác đáng và trực tiếp tiến hành cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, nhất là chống lại các luận điệu xuyên tạc, thù địch của kẻ thù. Trong quá trình nhận thức và vận dụng lý luận, đưa đường lối của Đảng vào hoạt động thực tiễn, bên cạnh các nhận thức đúng có thể có những nhận thức, cách hiểu lệch lạc cần được uốn nắn. Hơn nữa, thực tiễn luôn vận động và phát triển, phát sinh nhiều vấn đề mới và nhận thức của con người không hoàn toàn giống nhau. Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên tiến công vào hệ tư tưởng, lý luận và đường lối của Đảng bằng những âm mưu, thủ đoạn rất thâm độc, xảo quyệt. Do vậy, ngoài việc phát triển, sáng tạo lý luận Mác - Lênin, cần phải bóc trần tính chất phản khoa học, phản cách mạng 67 và ý đồ xấu xa trong các luận điểm, lý thuyết mà kẻ thù đưa ra. Tuy nhiên, đấu tranh tư tưởng, lý luận là công việc phức tạp và tinh tế. Sức mạnh để chiến thắng chính là chân lý khoa học, là sức thuyết phục của sự phân tích, lý giải và bác bỏ tính phi lý, xảo trá... trong các luận thuyết, quan điểm của kẻ thù; chỉ ra được những hạn chế do thiếu thông tin hay do phương pháp nhận thức đúng đắn của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Điều này chỉ có được nhờ đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận trên cả hai phương diện phát triển lý luận và đấu tranh lý luận, kết hợp tốt giữa giáo dục lý luận với đấu tranh tư tưởng. Đến lượt mình, việc tiến hành tốt hoạt động đấu tranh tư tưởng, lý luận cũng là động lực thúc đẩy lý luận phát triển nhanh chóng hơn, đầy đủ hơn và sắc sảo hơn. 1.3. Nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm và hình thức của công tác tư tưởng, lý luận * Nhiệm vụ của công tác tư tưởng, lý luận: Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng có hai lĩnh vực: trong nội bộ đảng và toàn xã hội. Trong từng lĩnh vực, công tác tư tưởng, lý luận có những nét đặc thù riêng. Tuy nhiên, nhìn chung, công tác tư tưởng, lý luận của Đảng có các nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên sau đây: 68 - Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để phát triển lý luận. Hai mặt này gắn liền với nhau và là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác tư tưởng, lý luận. Sự chậm trễ hoặc phạm sai lầm trong công tác tư tưởng, lý luận là nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng dao động, không thống nhất, dẫn Đảng tới nguy cơ sai lầm về đường lối, chủ trương, dẫn đến mất vai trò lãnh đạo. - Truyền bá tư tưởng, lý luận, nâng cao kiến thức chính trị, xây dựng phương pháp tư duy khoa học là cơ sở bảo đảm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được thấm nhuần trong toàn Đảng; đường lối, chủ trương của Đảng được quán triệt, góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên có phẩm chất chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, có thái độ tích cực đối với công cuộc đổi mới, đồng thời phải có trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo để thực hiện nhiệm vụ đổi mới. - Tuyên truyền và cổ động thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Đây là hoạt động tư tưởng thường xuyên của các tổ chức cơ sở đảng và các cơ quan chức năng làm công tác tư tưởng, lý luận, bảo đảm cho các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước được phổ biến rộng rãi, làm cho mọi người hiểu đúng, tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành, thực hiện có hiệu quả. 69 - Giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng. Nhiệm vụ này có vị trí hết sức quan trọng, bảo đảm tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, đặc biệt là trong điều kiện Đảng cầm quyền, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với cơ chế thị trường, dưới sự lãnh đạo của Đảng. - Chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch. - Dự báo xu hướng phát triển của tình hình, diễn biến tư tưởng và các vấn đề lý luận, chính trị có thể nảy sinh để chủ động giải quyết. Đây là nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược của cấp Trung ương và tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; là công việc hằng ngày của cấp quận, huyện và cơ sở nhằm giúp Đảng tránh được tình trạng bị động, lúng túng trước những biến động phức tạp về mọi mặt của đời sống xã hội ở trong nước cũng như trên phạm vi thế giới. * Nguyên tắc của công tác tư tưởng, lý luận: - Nguyên tắc tính đảng: Đây là nguyên tắc cơ bản, giữ vai trò nền tảng của công tác tư tưởng, lý luận. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Mọi hệ tư tưởng đều mang tính giai cấp, không có hệ tư tưởng chung cho mọi giai cấp. Hệ tư tưởng, lý luận của giai cấp công nhân được chính đảng của 70 giai cấp công nhân xây dựng và truyền bá là hệ tư tưởng phản ánh sâu sắc quy luật phát triển chung của loài người, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Nguyên tắc này đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng làm cơ sở khoa học và căn cứ lý luận để xác định nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành công tác tư tưởng, lý luận. Phải đứng trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân để phân tích, xem xét, đánh giá mọi sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế. Quán triệt nguyên tắc tính đảng trong công tác tư tưởng, lý luận đòi hỏi các cấp ủy đảng, các lực lượng chuyên trách công tác tư tưởng, lý luận của Đảng và mỗi đảng viên phải kiên định lập trường giai cấp công nhân, nêu cao tính chiến đấu, đổi mới mạnh mẽ tư duy và cách thức làm công tác tư tưởng, lý luận, mở rộng dân chủ, đồng thời kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ thù và những nhận thức, quan điểm, hành động sai trái, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng, lý luận của Đảng, bảo vệ an ninh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. - Nguyên tắc tính khoa học: Nguyên tắc này được quy định bởi tính phức tạp, đa dạng của đối 71 tượng công tác tư tưởng, lý luận, quy luật vận động của nhận thức, tư tưởng và sự phát triển không ngừng của nhiệm vụ cách mạng và tình hình xã hội nói chung. Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể tiến hành công tác tư tưởng, lý luận phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lý luận trong việc xác định nội dung, phương thức tiến hành; phải xuất phát từ thực tế khách quan để phân tích, đánh giá mọi hiện tượng tinh thần, tư tưởng trong xã hội, tuyệt đối không chủ quan, duy ý chí. Bản thân đời sống tinh thần của xã hội luôn vận động theo các quy luật khách quan, bởi vậy các chủ thể công tác tư tưởng phải nghiên cứu, nắm vững những quy luật này mới có thể có biện pháp tác động tư tưởng hiệu quả. Tiến hành công tác tư tưởng, lý luận một cách khoa học là phải biết phát huy năng lực tư duy sáng tạo, tính độc lập suy nghĩ của đối tượng; phát huy tự do tư tưởng, thảo luận dân chủ, biết lắng nghe ý kiến khác nhau, lấy thuyết phục là chính, không áp đặt khiên cưỡng, cũng không quy kết, quy chụp trong quá trình tiếp thu chân lý và điều chỉnh nhận thức, hành vi theo định hướng của Đảng. - Nguyên tắc tính thống nhất giữa lý luận với thực tiễn: Nguyên tắc này đòi hỏi phải tích cực 72 nghiên cứu thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận và trên cơ sở lý luận được rút ra từ thực tiễn để trở lại chỉ đạo thực tiễn, có như vậy mới làm cho công tác lý luận phát triển. Người làm công tác tư tưởng cũng không được xa rời thực tiễn, và càng không được xem thường lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”1. Nguyên tắc này đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận phải bám sát cuộc sống. Trong chỉ đạo, điều hành công tác tư tưởng, lý luận, các đảng bộ phải chú trọng các đơn vị cơ sở, sát cơ sở và gắn với các đơn vị cơ sở để nắm vững tình hình tư tưởng và kịp thời tháo gỡ những vướng mắc về tư tưởng của quần chúng ở cơ sở. Nội dung và cách thức tiến hành công tác tư tưởng, lý luận phải sát hợp với từng đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh thực tế, tránh lối động viên tư tưởng chung chung, hình thức, nói mà không làm hoặc nói hay làm dở; đồng thời phải biết kết hợp chặt chẽ với biện pháp tổ chức, kinh tế để cải tạo điều kiện, hoàn cảnh, môi trường vì nhu cầu, lợi ích chính đáng của con người. ___________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.95. 73 * Phương châm thực hiện công tác tư tưởng, lý luận: - Công tác tư tưởng, lý luận phải gắn chặt với đường lối, nhiệm vụ chính trị: Công tác tư tưởng, lý luận phải xuất phát và gắn với đường lối, nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ cách mạng. Đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn là nhân tố đầu tiên quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Công tác tư tưởng, lý luận gắn với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng phải được thể hiện ở cả ba công đoạn: 1) Ngay ở bước chuẩn bị đường lối, nghị quyết của Đảng, công tác tư tưởng, lý luận phải tham gia một cách tích cực và chủ động. Công tác tư tưởng, lý luận phải cung cấp cơ sở khoa học, cung cấp thông tin và bản thân đội ngũ làm công tác tư tưởng, lý luận phải tham gia vào quá trình chuẩn bị đường lối, nghị quyết của Đảng. 2) Khi đường lối, nghị quyết được ban hành, công tác tư tưởng, lý luận phải làm cho mọi người quán triệt và nhận thức đúng đường lối, nghị quyết. Vấn đề quan trọng là làm rõ cơ sở khoa học của đường lối, nghị quyết để mọi người tin tưởng một cách tự giác, chỉ ra những nội dung, biện pháp thực hiện. 3) Khi đường lối, nghị quyết đi vào cuộc sống, công tác tư tưởng, lý luận phải tiến hành tổng kết thực tiễn, để bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, nghị quyết và đề xuất những 74 giải pháp mới nhằm thực hiện thắng lợi đường lối, nghị quyết. - Công tác tư tưởng, lý luận phải thống nhất với hoạt động của các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là với công tác tổ chức, với hoạt động kinh tế - xã hội và với pháp luật. Công tác tư tưởng, lý luận có quan hệ biện chứng với các lĩnh vực hoạt động khác của đời sống xã hội, đặc biệt là với công tác tổ chức và hoạt động kinh tế - xã hội. Rất nhiều vấn đề tư tưởng, lý luận nảy sinh từ công tác tổ chức, từ hoạt động kinh tế - xã hội, việc giải quyết những vấn đề về tư tưởng phải từ hoạt động của công tác tổ chức, kinh tế - xã hội chứ không chỉ bằng công tác tư tưởng, lý luận. Sự thống nhất ấy phải thể hiện ở từng lĩnh vực, từng cán bộ hoạt động trong mỗi lĩnh vực. Bản thân cán bộ hoạt động trong lĩnh vực kinh tế muốn hoạt động hiệu quả cũng phải làm công tác tư tưởng, lý luận và tổ chức. Để tránh trùng lặp, chồng chéo trong công tác tư tưởng, lý luận cần có sự phối hợp và phân công cụ thể giữa các lĩnh vực. Trên thực tế những tư tưởng nảy sinh trong quá trình sản xuất, trong công tác quản lý kinh tế, thì trách nhiệm giải quyết chủ yếu và giải quyết đem lại hiệu quả tốt thuộc về những cán bộ quản lý kinh tế. Trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay, tiến hành công tác tư tưởng, lý luận còn phải gắn 75 với luật pháp. Luật pháp là căn cứ để tiến hành công tác tư tưởng, lý luận. Trên thực tế, nhiều vấn đề tư tưởng, lý luận nảy sinh trong từng cá nhân và tập thể, nếu không dựa trên cơ sở luật pháp thì công tác tư tưởng, lý luận đem lại hiệu quả thấp, thậm chí không đem lại hiệu quả. - Công tác tư tưởng, lý luận phải gắn chặt với phong trào cách mạng của quần chúng và phù hợp với từng đối tượng quần chúng. Đây là một đòi hỏi khách quan, một mặt, phong trào cách mạng của quần chúng đòi hỏi có tư tưởng đúng, lý luận đúng soi đường, hướng dẫn; mặt khác, tư tưởng cách mạng muốn trở thành sức mạnh vật chất, cải tạo xã hội, phải thâm nhập vào quần chúng, tức là nó phải ăn sâu, bám rễ vào quần chúng, phải thông qua phong trào cách mạng của quần chúng. Để gắn với phong trào cách mạng của quần chúng, công tác tư tưởng, lý luận phải kịp thời phát hiện, cổ vũ, biểu dương, phổ biến những kinh nghiệm hay, những điển hình tiên tiến và những bài học kinh nghiệm quý nhằm xây dựng, duy trì và phát triển phong trào cách mạng của quần chúng. Công tác tư tưởng, lý luận phải gắn với từng đối tượng mới đạt chất lượng, hiệu quả cao, bởi vì mỗi tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo và thế hệ khác nhau có nhu cầu, tâm lý khác nhau. Do đó, cần nghiên cứu kỹ tâm tư, nguyện vọng, trình độ 76 của đối tượng để xác định hình thức, phương pháp công tác tư tưởng phù hợp. Phải chú trọng phản ánh nhu cầu, lợi ích, tình cảm... của từng đối tượng và đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đối tượng. Đồng thời, mỗi hình thức, phương pháp công tác tư tưởng được tiến hành phải xuất phát từ cách thức, con đường phù hợp với từng đối tượng và khả năng tiếp nhận của chính đối tượng. Có như vậy, công tác tư tưởng, lý luận mới làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chiếm lĩnh trái tim, khối óc của quần chúng và trở thành hiện thực sinh động trên đất nước ta. - Kết hợp chặt chẽ việc giáo dục tư tưởng chính trị ở nhà trường với việc rèn luyện trong thực tiễn cách mạng. Việc giáo dục tư tưởng chính trị ở nhà trường cần kết hợp chặt chẽ việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, pháp luật, kiến thức khoa học với giáo dục phẩm chất, đạo đức cách mạng; kết hợp giáo dục lý luận, quan điểm cơ bản của Đảng với giáo dục nhiệm vụ trước mắt. Bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng đã thể hiện sâu sắc tính cách mạng và tính khoa học. Tuy nhiên, để nhận thức sâu sắc, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi phải kết hợp 77 việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với trang bị kiến thức khoa học tự nhiên và xã hội và nâng cao trình độ dân trí cho mọi người. Việc kết hợp những nội dung giáo dục nêu trên là do: Chủ nghĩa Mác - Lênin và tri thức khoa học là cơ sở để hình thành đạo đức cách mạng, là nội dung của giáo dục đạo đức cách mạng, nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin là một trong những tiêu chuẩn của đạo đức cách mạng; phẩm chất cách mạng, nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học là tiền đề, điều kiện để tiếp thu, để hiện thực hóa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục đích giáo dục tư tưởng chính trị là góp phần xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phát triển toàn diện. Công tác tư tưởng, lý luận vừa có mục đích lâu dài, vừa có mục tiêu trước mắt. Do đó, trong giáo dục tư tưởng chính trị phải biết kết hợp giữa giáo dục cơ bản, lâu dài, có hệ thống, với giáo dục tình hình và nhiệm vụ trước mắt. Nếu chỉ thiên về giáo dục tình hình, nhiệm vụ trước mắt sẽ dễ xa rời mục đích lâu dài. Song, nếu chỉ thiên về giáo dục cơ bản, lâu dài có thể sẽ xa rời thực tế, không phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị cấp bách đặt ra. Phương châm này cần được quán triệt và thực hiện khi tiến hành công tác tư tưởng, lý luận trên phạm vi toàn xã hội cũng như đối với từng đối tượng cụ thể. 78