🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Số Luận Cứ Phản Bác Các Quan Điểm Sai Trái, Thù Địch, Chống Phá Đại Hội XIII Của Đảng Tập 1 Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. NGUYỄN MINH HUỆ TRẦN THỊ THANH PHIỆT ThS. NGUYỄN TRƯỜNG TAM ThS. ĐÀO DUY NGHĨA ThS. HOÀNG NGỌC ĐIỆP ThS. TRỊNH THỊ NGỌC QUỲNH ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ NGUYỄN THỊ KIM THOA Trình bày bìa: ĐƯỜNG HỒNG MAI Chế bản vi tính: NGUYỄN THỊ HẰNG Đọc sách mẫu: BAN SÁCH KINH TẾ BÍCH LIỄU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1812-2021/CXBIPH/5-18/CTQG. Số quyết định xuất bản: 337-QĐ/NXBCTQG, ngày 25/5/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 5 năm 2021. Mã ISBN: 978-604-57-6837-2. BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN GS.TS. PHÙNG HỮU PHÚ Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương GS.TS. VŨ VĂN HIỀN Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương PGS.TS. NGUYỄN VIẾT THÔNG Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương BAN BIÊN SOẠN GS.TS. VŨ VĂN HIỀN PGS.TS. NGUYỄN VIẾT THÔNG PGS.TS. PHAN TRỌNG HÀO GS.TS. PHÙNG HỮU PHÚ GS.TS. TẠ NGỌC TẤN PGS.TS. NGUYỄN VĂN THẠO PGS.TS. PHẠM VĂN LINH PGS.TS. TRẦN HẬU TÂN TS. NGUYỄN VĂN HÙNG TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG TS. CAO ĐỨC THÁI TS. HỒ ANH TUẤN ThS. TRẦN THỊ NGA ThS. LÊ ANH ĐỨC ThS. PHẠM THỊ HUYỀN Trưởng ban Phó Trưởng ban Thư ký Ủy viên Ủy viên Ủy viên Ủy viên Ủy viên Ủy viên Ủy viên Ủy viên Ủy viên Ủy viên Ủy viên Ủy viên 4 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tế đất nước đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Từ khi thành lập (03/02/1930) cho tới nay, cùng với việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối chính trị, Đảng ta luôn kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, coi đó là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của cách mạng nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch đã góp phần quan trọng nâng cao cảnh giác cách mạng, bồi dưỡng nhận thức đúng đắn cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, khẳng định những nguyên tắc cơ bản của công cuộc đổi mới. Nhờ đó nền tảng tư tưởng của Đảng được giữ vững. Thực tế cho thấy, trước những bước ngoặt hoặc những lúc khó khăn của đất nước hay ở thời điểm có những sự kiện quan trọng, các thế lực thù địch thường đẩy mạnh chống phá về tư tưởng, còn trong nội bộ có thể xuất hiện những quan điểm lệch lạc. Hiện nay, chúng ta đang tích cực chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển 5 bùng nổ của mạng Internet, các mạng xã hội toàn cầu, những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường, tác động tiêu cực của tình hình thế giới... Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, phản động tăng cường những chiêu thức, thủ đoạn mới chống phá Đảng, Nhà nước ta. Đây cũng là thời điểm nảy sinh những nhận thức khác nhau, thậm chí sai trái. Vì thế, việc phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng và trực tiếp là Đại hội XIII của Đảng càng cần được chú trọng hơn. Để cuộc đấu tranh tư tưởng trong thời điểm này đạt kết quả tốt hơn, cần nhận rõ một thực tế là, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng còn những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đó là: những biểu hiện nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của cuộc đấu tranh; việc giữ vững nguyên tắc trong đấu tranh; việc xác định đối tượng đấu tranh, phương châm chỉ đạo, định hướng nội dung, phương pháp/phương thức đấu tranh, tính kịp thời, tính thuyết phục còn hạn chế; tổ chức lực lượng, những điều kiện bảo đảm cho đấu tranh còn bất cập; chưa gắn liền cuộc đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch với bảo vệ, phát triển lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng trong điều kiện mới, v.v.. Cuộc đấu tranh còn thiếu những luận cứ thuyết phục có tính chuyên môn cao, tính chuyên sâu và tính chuyên nghiệp của lực lượng nòng cốt, nhất là đấu tranh ở tầm quan điểm, lý luận, buộc đối phương phải “tâm phục, khẩu phục”. Nói cách khác, chúng ta quan tâm nhiều hơn đến đấu tranh trực tiếp, trực diện với từng hoặc các quan điểm sai trái, thù địch mà chưa quan tâm đúng mức đến trang bị phương pháp, cách thức đấu tranh, bằng cách trang bị các luận cứ phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong thời gian trước và sau Đại hội XIII của Đảng, cần phải chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo đúng tình hình, xác định 6 đúng mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, khả thi để tìm ra những luận cứ xác đáng phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng một cách hiệu quả, thiết thực. Xuất phát từ bối cảnh và yêu cầu mới đó, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương xuất bản cuốn sách Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng (Tập 1). Cuốn sách bao gồm 16 bài viết, tập trung phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trước thềm Đại hội XIII của Đảng. Đây là một tài liệu rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ hơn và có căn cứ lý luận, thực tiễn phản bác lại các âm mưu, thủ đoạn chống phá Đại hội XIII của Đảng. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 12 năm 2020 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 7 8 BỐI CẢNH QUỐC TẾ, TRONG NƯỚC VÀ CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH, CHỐNG PHÁ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG Trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ, có hai vấn đề nổi bật cần được nhận rõ trước tiên. Đó là cần nhận rõ tình hình mới và cần nhận diện đúng các quan điểm sai trái, thù địch. Chỉ có nhận rõ tình hình mới trên phạm vi quốc tế và trong nước mới tìm được những nguyên nhân và nguyên cớ của những quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời phải nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch mới có thể đưa ra những đối sách thích hợp đối với từng đối tượng cụ thể. 1. Tình hình mới 1.1. Tình hình thế giới Chúng ta đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đa cực hóa về trật tự chính trị, đa dạng hóa về phát triển văn hóa, tin học hóa trong đời sống xã hội, gia tăng hóa sự gắn kết, phụ thuộc vào nhau và chuyển hóa lẫn nhau. Bối cảnh đó ẩn chứa nhiều chuyển biến lớn lao, nhanh chóng, bất ổn, bất định, phức tạp khó lường, vừa mang đến cho con người những thời cơ, vận hội và tràn đầy 9 hy vọng, vừa đặt ra trước mắt nhiều nguy cơ, thách thức và những lo lắng bất an. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang phải đối mặt với sự chi phối, tác động của các nước lớn và chủ nghĩa dân tộc cực đoan vị kỷ. Luật pháp quốc tế và các cơ chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn. Tình hình mới trên thế giới có thể nhận rõ qua những chuyển biến nổi bật: Thứ nhất, sự chuyển dịch quyền lực theo hướng từ Tây sang Đông. Thế giới đã chứng kiến ba cuộc chuyển giao quyền lực lớn làm thay đổi cơ bản đời sống quốc tế trên mọi mặt, từ chính trị, quân sự đến kinh tế - văn hóa. Cuộc chuyển giao quyền lực thứ nhất là sự trỗi dậy của châu Âu từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, thương mại và đầu tư. Cuộc chuyển giao thứ hai là sự trỗi dậy của Mỹ bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, nhất là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (năm 1945), Mỹ trở thành siêu cường chi phối trật tự quốc tế đến cuối thế kỷ XX. Bước vào thế kỷ XXI, do sự suy yếu tương đối của Mỹ và sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số nước, nổi bật là Trung Quốc và Ấn Độ, dẫn tới cuộc chuyển dịch quyền lực thứ ba trên phạm vi toàn cầu. Đó là cuộc chuyển dịch trọng tâm quyền lực từ Tây sang Đông và dẫn tới sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sự chuyển dịch lần thứ ba này 10 đã và đang tác động đến quan hệ quốc tế, tập hợp lực lượng giữa các nước không chỉ trong phạm vi các khu vực mà biến động sâu sắc tới toàn cầu. Sự chuyển dịch đó làm cho cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Trong bối cảnh như vậy, sự cọ xát và cạnh tranh chiến lược, điều chỉnh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, quyết liệt, tác động sâu rộng đến an ninh, chính trị thế giới. Thứ hai, kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng do phát triển theo chu kỳ và đặc biệt là tác động của đại dịch Covid-19. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra rất mạnh mẽ tạo ra thời cơ mới và thách thức mới với tất cả các nước. Các quốc gia, nhất là các nước lớn điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi mạnh mẽ đến các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường ngày càng quyết liệt, tác động đến đời sống kinh tế ở tất cả các nước. Trong khi đó, các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống ngày càng nghiêm trọng. Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều chịu tác động của những vấn đề toàn cầu như khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, thảm họa thiên tai, thảm họa môi trường sinh thái, nghèo đói, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng. Trong những vấn đề gay cấn và là những thách thức to lớn đó, tình trạng biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, nhất là năng lượng và nguồn nước đang là vấn đề nổi trội, tác động tới an ninh và phát triển của nhiều nước, nhiều khu vực. Nhu cầu về tài nguyên của các nền kinh tế, 11 đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế của các nước đang phát triển sẽ tăng vọt dẫn tới việc cạnh tranh các nguồn tài nguyên vốn đã gay gắt sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Thế giới đang đối mặt với đại dịch Covid-19 với hơn 80 triệu ca nhiễm, hơn 1,7 triệu người tử vong, tác động đến hơn 210 quốc gia và vùng lãnh thổ, gây đảo lộn nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Cùng với những vấn đề đe dọa an ninh toàn cầu nêu trên, an ninh biển cũng đang nổi lên trong thời gian tới. An ninh biển không chỉ liên quan đến an toàn các tuyến đường hàng hải mà ngày càng mở rộng ra các khía cạnh khác như an ninh môi trường biển, các nguồn lợi hải sản. Do tác động của việc gia tăng các tranh chấp biển, đảo và các chuyển biến của an ninh phi truyền thống khác, an ninh biển sẽ trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng trong việc tranh giành lợi ích và chi phối quan hệ giữa các nước. Thứ ba, trào lưu dân túy, xu hướng bảo hộ có chiều hướng gia tăng. Về trào lưu dân túy Trào lưu dân túy trong thời gian gần đây đang ngày càng gia tăng, nổi lên mạnh mẽ ở các nước phát triển. Ở châu Âu, lần đầu tiên các đảng dân túy có mặt tại hầu hết các quốc hội, chiếm ít nhất 10% số phiếu ủng hộ tại 16 nghị viện châu Âu, là lực lượng lớn nhất trong quốc hội sáu nước (Hy Lạp, Hunggari, Italia, Ba Lan, Slovakia và Thụy Sĩ). Trào lưu dân túy ở châu Âu có đặc điểm là phản đối xu hướng liên kết hội nhập, phê phán các chính sách ủng hộ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chống nhập cư, phản đối việc đặt lợi ích của EU lên trên chủ quyền và lợi ích quốc gia. 12 Ở Mỹ, trào lưu dân túy cánh hữu nổi lên lôi kéo sự tham gia của nhiều thành viên Đảng Cộng hòa và đỉnh điểm là thắng lợi trong bầu cử Tổng thống của D. Trump, đánh dấu việc lần đầu tiên một ứng cử viên theo đường lối dân túy nắm quyền lãnh đạo nước Mỹ với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết”. Trào lưu dân túy hiện đang gây ra một số tác động khá tiêu cực. Trong nội bộ nước Mỹ, các trào lưu dân túy cổ vũ cho việc xây dựng một nhà nước mạnh và chuyên chế. Kết quả lại làm tăng thêm các mâu thuẫn nội bộ, đẩy tình trạng bất ổn lên cao, làm cho chính sách đối nội và đối ngoại bất định. Đối với bên ngoài, trào lưu này chống liên kết, hội nhập quốc tế và khu vực, gắn ưu tiên thậm chí ly khai khỏi các cơ chế đa phương như trường hợp Anh rút khỏi EU, Mỹ rút khỏi TPP và rút khỏi Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu. Điều đó làm giảm hợp tác, tăng cạnh tranh, xung đột và do đó đưa đến những căng thẳng mới trong quan hệ quốc tế. Về xu hướng bảo hộ Gần đây xu hướng bảo hộ, còn gọi là chủ nghĩa bảo hộ, phát triển mạnh tại Mỹ và một số nước Tây Âu. Tại các nước này, những lực lượng ủng hộ tự do hóa kinh tế đang suy yếu và co lại, trong khi trào lưu phản kháng tự do hóa, phản kháng toàn cầu hóa lại trỗi dậy, nhất là sau sự kiện Brexit và bầu cử Tổng thống Mỹ. Thực hiện theo xu hướng đó, số lượng biện pháp bảo hộ tăng mạnh, lĩnh vực bảo hộ mở rộng với nhiều biện pháp phức tạp, tinh vi hơn. Bảo hộ không còn chỉ giới hạn trong lĩnh vực trao đổi hàng hóa, dịch vụ, mà còn bao gồm cả tài chính, đầu tư, sở hữu trí tuệ, dịch vụ tự do lao động. 13 Việc quay trở lại chủ nghĩa bảo hộ, đóng cửa thị trường, hạn chế liên kết kinh tế, giảm sự ủng hộ đối với tự do thương mại đa phương, cản trở thương mại và đầu tư quốc tế đã và đang tạo ra hệ lụy tiêu cực đến tiến trình tăng trưởng kinh tế thế giới và làm chậm lại quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng trên thế giới. Xu hướng bảo hộ ở một số nền kinh tế lớn, đặc biệt là Mỹ sẽ làm tăng mâu thuẫn, bất đồng vốn có về một số vấn đề kinh tế, thương mại, do đó làm gia tăng va chạm lợi ích, không loại trừ có những hành động “trả đũa” dẫn tới chiến tranh thương mại, tỷ giá. Tình hình đó làm cho liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu đứng trước nhiều khó khăn, toàn cầu hóa có xu hướng bị chậm lại. 1.2. Tình hình trong nước Chưa bao giờ tầm vóc và sức mạnh của dân tộc, của đất nước lại rạng rỡ và mạnh mẽ như hôm nay. Điều đó làm cho công tác lý luận nói chung và cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng có một “cốt vật chất” vững chắc để thực hiện nhiệm vụ của mình. Nhưng mặt khác, những thách thức đối với cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch cũng không hề nhỏ mà lý do chính là những tồn tại, khiếm khuyết trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua, kinh tế vĩ mô của nước ta cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, nợ công tăng nhanh, nợ xấu giảm dần nhưng vẫn ở mức cao, sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. “Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc 14 nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới... Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút”1. Trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, chúng ta gặp không ít khó khăn, trong đó có những khó khăn do chính bản thân chúng ta không lường hết, khó khăn nội tại do chủ quan duy ý chí hoặc do bảo thủ trì trệ, từ đó dẫn tới sự lúng túng và thiếu lý lẽ, thậm chí bế tắc trong lập luận. Sự kiện ở Liên Xô trước đây và Đông Âu - những nơi mà chủ nghĩa xã hội hiện thực tưởng như rất vững chắc, nhưng đã bị tan rã một cách nhanh chóng, đã cho ta bài học sâu sắc cả về tính phức tạp của thế giới đương đại và những trắc trở, khó khăn của con đường đi tới tương lai của loài người. Vấn đề đặt ra là vận mệnh của chủ nghĩa xã hội sẽ phụ thuộc vào chính việc nhìn nhận rõ và khắc phục _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.67-68. 15 tốt những vướng mắc bên trong của xã hội xã hội chủ nghĩa, nhất là khi chủ nghĩa xã hội chưa được xây dựng một cách hoàn hảo. Đó là những vấn đề nảy sinh từ tính phức tạp của thực tiễn mà ta chưa lường hết và có trường hợp từ sai lầm về nhận thức dẫn tới sai lầm về hành động; từ sự thiếu hiểu biết mà làm sai, làm ẩu; sự thiếu nhạy cảm nên chậm chạp để mất thời cơ; sự vi phạm nguyên tắc dẫn tới sự chệch hướng. Thực tiễn quá trình cách mạng của chúng ta hiện nay cũng chứa đựng những vấn đề không đơn giản. Phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa, mở cửa hội nhập quốc tế là những nhiệm vụ tất yếu mà chúng ta đang tiến hành. Nhưng ai cũng biết, mặc dù chúng ta luôn giữ định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng phát triển kinh tế thị trường càng mạnh thì tính tự phát của khuynh hướng tư bản chủ nghĩa cũng sẽ tăng lên. Chúng ta lại đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó nền kinh tế và cả xã hội cũng có những vấn đề quá độ đan xen nhau rất khó rạch ròi. Quá trình mở cửa hội nhập, chủ động làm ăn với các nước tư bản chủ nghĩa lại sử dụng những giải pháp và cách thức phát triển của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra nhiều thách thức đối với công tác lý luận và có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Có một vấn đề rất đáng quan tâm nữa là tình hình thế giới và trong nước, cả mặt thuận và mặt trái đều có thể hấp thụ được hằng ngày, hằng giờ, hằng phút qua nhiều cách, nhiều chiều trên nhiều phương diện, nhất là trong điều kiện bùng nổ thông tin và Internet toàn cầu. Điều đó làm cho việc 16 nghe, nhìn, cũng như suy nghĩ của mỗi người hôm nay đã khác hôm qua trong điều kiện “thế giới phẳng” bị nhiễu loạn thông tin, lại thông thoáng bên trong, mở cửa, hội nhập với bên ngoài. Điều đó có tác động lớn đến tâm trạng xã hội và là thách thức mới đối với công tác đấu tranh tư tưởng. Thực tế cho thấy, trước những bước ngoặt của sự nghiệp cách mạng, những khó khăn của đất nước hoặc ở thời điểm quan trọng, nhạy cảm, các thế lực thù địch thường đẩy mạnh chống phá về tư tưởng, còn trong nội bộ có thể xuất hiện những quan điểm lệch lạc. Hiện nay, chúng ta đang tích cực chuẩn bị cho Đại hội XIII của Đảng. Đây chính là thời điểm các thế lực thù địch, phản động tăng cường những chiêu thức, thủ đoạn để chống phá Đại hội, chống phá Đảng, Nhà nước ta. Vì thế, việc nghiên cứu xác định rõ những luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng càng cần được chú trọng hơn; chống cả những quan điểm thù địch diễn ra thường xuyên và nhất là trong thời điểm trước và sau Đại hội XIII của Đảng. 2. Các dạng quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đại hội XIII của Đảng Sau nhiều thập kỷ thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực thù địch đang thay đổi phương thức hoạt động. Mục tiêu nhất quán không thay đổi của chúng là chống phá tận gốc về tư tưởng chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong thời điểm trước và sau Đại hội XIII của Đảng, sự chống phá càng quyết liệt hơn. Những luận điệu 17 chống phá của các thế lực thù địch tập trung vào các nhóm vấn đề sau: Thứ nhất, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Tập trung vào việc phê phán, đả kích tới tấp vào chủ nghĩa Mác - Lênin hòng làm lung lay nền tảng tư tưởng của chúng ta. Chúng cho rằng “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” chỉ là ý tưởng hão huyền, ngông cuồng và cho đến nay càng thấy lạc lõng vì chủ nghĩa tư bản không chỉ tồn tại mà còn bền vững hơn; rằng giai cấp công nhân và những ông chủ tư sản hiện nay đã hòa hợp, trở thành tiền đề cho nhau cùng phát triển; rằng Cách mạng Tháng Mười là dích dắc của lịch sử, là cuộc bạo động phản dân chủ, đã hết tác dụng. Vậy nên nói thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự ảo tưởng (!). Các thế lực thù địch tung ra đủ thứ lý luận nhằm bác bỏ chủ nghĩa cộng sản như: du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ đưa đến tai họa vì chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc. Chúng còn cho rằng lý luận Mác - Lênin chỉ giải quyết vấn đề đấu tranh giai cấp, không thể áp đặt mẫu học thuyết Mác - Lênin vào Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Từ Đại hội XIII trở đi cần xóa bỏ, không đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, cứ lý thuyết nào đúng thì theo; không nói đến chủ nghĩa xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa nữa mà theo trào lưu chung của thế giới là nước đang phát triển và phát triển (!). Chúng phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin với học thuyết đấu tranh giai cấp gây ra cảnh “nồi da nấu thịt” suốt mấy chục năm; 18 cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là người dân tộc chủ nghĩa, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử (!)... Chúng xuyên tạc, phủ định các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng hình thái kinh tế - xã hội chỉ là một lý thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng, không bao giờ thực hiện được, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, Liên Xô là một tất yếu đã được dự báo trước. Chúng cho rằng chủ nghĩa xã hội đặt xã hội lên trên cá nhân chỉ là đề cao một số người đang nắm quyền trong xã hội đó (!). Thứ hai, chống phá Đảng và đường lối, chủ trương của Đảng. Tấn công vào đường lối của Đảng, các thế lực thù địch cho rằng không thể làm trái quy luật bỏ qua chế độ tư bản được, mà là “phát triển chủ nghĩa tư bản dưới sự lãnh đạo của Đảng” (!); muốn giải quyết các vấn đề xã hội phải làm theo chủ nghĩa xã hội dân chủ (!). Chúng rêu rao rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường sai, không thể có chủ nghĩa xã hội. Không ít kẻ đã lớn tiếng rằng chủ nghĩa xã hội chính là bước quá độ từ nghèo nàn, lạc hậu tiến tới chủ nghĩa tư bản, những ước mơ của chủ nghĩa xã hội thì chính chủ nghĩa tư bản đã thực hiện rồi, rằng người ta có thể dễ dàng tìm thấy ở chủ nghĩa tư bản những lời giải đáp đầy đủ cho mọi vấn đề được đặt ra trong đời sống loài người (!). Các thế lực chống Cộng tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt là vào nguyên tắc tập trung dân chủ. Bằng việc vu cáo Đảng Cộng sản chiếm quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “độc đoán, đảng trị”, thực hiện sự chuyên chính của một đảng, sự thống trị quan liêu của “giới thượng lưu”, chúng đối lập Đảng với Nhà nước, 19 đối lập Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Dựa vào một số “cải cách” ở các nước tư bản và nhất là dựa vào các mô hình xã hội - dân chủ Thụy Điển, Phần Lan, chúng cho rằng từ chủ nghĩa tư bản tiến sang chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải thông qua cách mạng xã hội mà cứ để cho nó phát triển tự nhiên, thông qua việc mở rộng dân chủ, đấu tranh nghị trường để nhân dân tự lựa chọn chế độ chính trị mới. Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: chúng cho rằng, giai cấp công nhân chỉ là những người có học vấn thấp, những lãnh tụ của giai cấp công nhân cũng thường có trình độ văn hóa không cao, “lại được đào luyện trong một lôgíc chuyên chế bạo ngược”, cho nên giỏi lắm cũng chỉ có thể lật đổ chế độ cũ, chứ không thể lãnh đạo toàn dân xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, nhất là trong thời đại khoa học phát triển. Chúng lập luận: “... nếu như giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là “người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” xây dựng một xã hội mới thì tại sao ở những nước tư bản phát triển có lực lượng công nhân rất đông, chất lượng cao lại không thực hiện vai trò lịch sử của mình? Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi là Đảng của giai cấp công nhân được, vì nó có rất ít tính công nhân mà mang đậm tính nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa phong kiến. Với những điều kiện như trên, giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam không thể lãnh đạo, xây dựng được chủ nghĩa xã hội đích thực ở Việt Nam” (!), v.v. và v.v.. Chúng cho rằng toàn bộ nội dung dự thảo các văn kiện của Đại hội XIII chỉ là sự sao chép những điều cũ rích, không có gì mới, vẫn là sự bảo thủ, trì trệ với những quan điểm đã lỗi thời. Chúng phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên 20 chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phê phán triệt để, bôi đen chủ nghĩa xã hội hiện thực, công khai ca ngợi con đường tư bản chủ nghĩa. Chúng cho rằng “đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chắp vá, không tưởng. Việt Nam hiện nay đang đứng ở ngã ba đường, không biết đi theo con đường nào. Nếu không hòa nhập vào thời đại, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì sẽ bị trả giá, tự giác thì đến đích nhanh hơn, không tự giác thì tất yếu cũng phải đi theo con đường đó, nhưng đến đích đau đớn hơn, chậm chạp hơn”. Gần đây có luận điệu xảo quyệt, thâm độc hơn như “con đường mà Việt Nam muốn đi là thứ tư bản chủ nghĩa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng con đường này không thể thành công vì không thể nào giải quyết thỏa hiệp giữa hai chủ nghĩa đối lập với nhau”. Chúng đả kích những quan điểm, chủ trương của Đại hội XIII về phát triển kinh tế, xã hội, về văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, coi đó là những chính sách thiếu thực tế, không khả thi. Chúng tiếp tục đưa ra những luận điệu như “kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội không thể hòa nhập được”; “Kinh tế thị trường là kinh tế tư bản chủ nghĩa, do thời cuộc và do cuộc sống bắt buộc, chính quyền Việt Nam phải chọn sống chung với con hổ yêu tinh hiện đại này, thể nào sớm hay muộn cũng bị nó ăn thịt”; thực hiện đường lối mở cửa, phát triển kinh tế thị trường là chế độ cộng sản Việt Nam đã uống liều thuốc đắng; kinh tế nhà nước là ung nhọt, là sân sau của những “nhóm lợi ích” cấp cao, là những tổ mối đục khoét của cải đất nước (!). Nhằm phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và bôi nhọ lãnh đạo, chúng cho rằng “Đảng đã hoàn 21 thành nhiệm vụ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và hiện nay phải để lực lượng khác lãnh đạo đất nước thì đất nước mới phát triển được, cứ để Đảng lãnh đạo thì đất nước còn lạc hậu”. Thứ ba, mục tiêu của các thế lực thù địch là tập trung hướng vào nội bộ ta, tìm mọi hình thức, tinh vi hoặc trắng trợn, công khai hoặc bí mật, ráo riết làm cho nội bộ không ổn định, luôn luôn gieo rắc ngờ vực, nghi kỵ, giảm sút lòng tin hòng gây chia rẽ, lục đục nội bộ. Chiến dịch tung tin lần này tập trung vào công tác nhân sự của Đảng cả thời gian trước và sau Đại hội XIII và kỳ bầu cử Quốc hội nhằm mục đích kích động, chia rẽ nội bộ. Chúng cho rằng các nhân sự cấp cao của Đảng toàn do một nhóm người quyết định, không đại diện cho lợi ích của nhân dân nên không được nhân dân thừa nhận. Xuất hiện nhiều luận điệu hết sức thâm độc, nguy hiểm như “Phe thân Mỹ sẽ thắng và phe thân Trung Quốc sẽ thua”. Hiện nay, công tác chống tham nhũng đang được Đảng và Nhà nước ta thực hiện một cách kiên quyết, công khai, minh bạch, được nhân dân hết sức đồng tình và tin tưởng, nhưng các thế lực thù địch lại xuyên tạc, bóp méo, cho đó là cuộc đấu tranh thanh trừ nội bộ giữa các phe phái và các nhóm lợi ích. Chúng tung ra luận điệu, trong Đảng có phe cải cách và phe bảo thủ, có “nhóm lợi ích” từ lãnh đạo cấp cao và nhóm này chi phối toàn bộ các “nhóm lợi ích” ở cấp dưới. Chúng cũng bịa đặt rằng “điều này cho thấy phe bảo thủ đã thành công trong việc đặt nặng sự ổn định chính trị trong nước trước cải cách. Thành phần thủ cựu trong Đảng Cộng sản lo ngại họ sẽ mất đặc quyền đặc lợi”. Chúng tìm mọi cách bịa đặt, 22 nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước, xuất hiện nhiều cuốn nhật ký, hồi ký, tài liệu tung ra những chuyện giật gân trong sinh hoạt của các nhà lãnh đạo, đề cao người này, hạ thấp người kia, kích động, chia rẽ lãnh đạo cao cấp của Đảng, gây nghi ngờ hòng mong chia rẽ nhân dân với Đảng. Bôi nhọ lịch sử cũng là một thủ đoạn mới của các đối tượng phản động nhằm phá hoại về tư tưởng, làm mất lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ. Tất cả các mũi tấn công trên đều nhằm vào phát triển mầm mống các nhân tố chống chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy sự hình thành xã hội dân sự dưới tác động của hàng hóa, nguồn vốn phương Tây, hình thành tâm lý sùng bái đồng đôla Mỹ, lôi kéo thêm lực lượng cán bộ, đảng viên có quan điểm sai trái, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân để lấn át kinh tế nhà nước. Chúng còn nói chế độ một đảng là không dân chủ, đòi Đảng Cộng sản đang cầm quyền phải từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình. Một số phần tử cho rằng thích ứng với nền kinh tế đa sở hữu thì nền chính trị không thể nhất nguyên được, không thể duy trì sự lãnh đạo của một đảng duy nhất. Do vậy theo chúng, dân chủ phải đi liền với đa nguyên về chính trị. Không ít những lời gièm pha, chỉ trích rằng dân chủ của ta là nửa vời, chưa mở ra đã khép lại... Có người nói cách làm của chúng ta là non gan, yếu bóng vía, không dám mở bung dân chủ hết cỡ, không dám thực hiện dân chủ công khai, không giới hạn. “Cây muốn lặng, gió chẳng đừng”, Đảng ta, Nhân dân ta luôn mong muốn một không khí hòa bình để xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, nhưng các thế lực thù địch không để chúng ta yên. Chúng thường xuyên chống phá 23 chúng ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và xảo quyệt. Vì vậy, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là một nhiệm vụ tất yếu chúng ta phải làm. Để làm thật tốt mọi nhiệm vụ trước và sau Đại hội XIII của Đảng, một trong những công việc quan trọng là nghiên cứu đưa ra các luận cứ xác đáng để vạch trần những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Cùng với việc tăng cường tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chúng ta cần chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội; sớm phát hiện và xử lý kịp thời những vụ việc phức tạp, nổi cộm mới phát sinh, những vấn đề bức xúc trong xã hội, không để các thế lực thù địch lợi dụng. Chủ động theo dõi và nắm bắt kịp thời các dạng quan điểm sai trái và các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, từ đó xác định những giải pháp đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả. 24 LUẬN CỨ PHÊ PHÁN CÁC QUAN ĐIỂM PHỦ NHẬN THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG CỦA NƯỚC TA TRONG HƠN 90 NĂM QUA Phủ nhận những thành quả cách mạng là một thủ đoạn thường thấy của các thế lực thù địch của Đảng Cộng sản và của dân tộc Việt Nam. Hiện nay, trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, để hạ thấp, phủ nhận thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, các thế lực thù địch đã cố tình đổi trắng thay đen, phủ nhận thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của nhân dân ta, phủ nhận thành tựu to lớn của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, nhất là những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Do vậy, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch đó là hết sức cần thiết và cấp bách, nếu không sẽ ảnh hưởng tới uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng. 1. Âm mưu của các thế lực thù địch 1.1. Phủ nhận thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Chúng cho rằng “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sai lầm lịch sử”, “không có gì thay đổi chế độ xã hội ở Việt Nam, 25 chẳng qua chỉ là thay từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”. Chúng còn cho rằng, những thắng lợi mà Việt Nam giành được “đó là sự ăn may, vì Nhật thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chứ Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có tài cán gì”; rằng “do khoảng trống quyền lực, nên Việt Nam dễ giành được kết quả nhanh chóng”. Một số lại cho rằng, Cách mạng Tháng Tám “là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”; “nếu không có Cách mạng Tháng Tám, nước ta đã giàu mạnh từ lâu và không mất dân chủ như bây giờ” (!), v.v.. 1.2. Phủ nhận thành tựu của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ của nhân dân ta Cuộc chiến tranh Việt Nam (cách gọi của chúng về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta) là “cuộc chiến in đậm dấu ấn dân tộc”, “cuộc nội chiến giữa một bên là chính quyền Sài Gòn, được Mỹ và một số nước phương Tây hậu thuẫn và một bên là chính quyền Hà Nội, được Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ”, v.v.. Chúng cho rằng: “Trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, người Mỹ không hề muốn cai trị người Việt Nam, người Mỹ can thiệp vào Việt Nam là để giải phóng chứ không phải để cai trị; hay chiến tranh Việt Nam là cuộc nội chiến tương tàn giữa hai miền Nam - Bắc do sự khác biệt về lý tưởng cộng sản và không cộng sản”. Từ đó, chúng đi đến kết luận rằng: “Cuộc chiến tranh Việt Nam thực chất là không cần thiết và hoàn toàn có thể tránh khỏi”. 26 Chúng còn cho rằng: “Cuộc chiến tranh (Việt Nam) mang tính chất ủy nhiệm, cuộc chiến tranh mang tính ý thức hệ”; “Có nhất thiết phải qua chiến tranh mới giành được độc lập không? Giá chúng ta tìm một con đường khác ít xương máu hơn cho nền độc lập của nước nhà thì quý biết nhường nào?”; v.v.. 1.3. Phủ nhận thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới Các thế lực thù địch luôn có âm mưu, thủ đoạn phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới. Chúng tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc, trái với quan điểm, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Chúng kết hợp chống phá đường lối chính trị với chống phá trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Các thế lực thù địch tập trung công kích, xuyên tạc thành tựu của đổi mới là do Đảng, Nhà nước Việt Nam “tự vẽ lên”, “tự mình khen mình”, chứ thực chất, theo chúng, là “không có thật”. Chúng còn nói xằng rằng, những thành tựu đổi mới nếu có chỉ là “chui vào túi của bọn độc tài”, bọn tham nhũng, tham quan; còn đất nước vẫn trong cảnh nghèo nàn, tụt hậu, đời sống của nhân dân còn rất khó khăn, người dân nghèo thì không được thụ hưởng. Sau 45 năm thống nhất đất nước, 35 năm đổi mới, Việt Nam vẫn là “nước tụt hậu, nhân dân còn đói nghèo, tham nhũng tràn lan, đạo đức suy đồi, xã hội vô kỷ cương...” (!). Các thế lực thù địch cho rằng, Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không hề đổi mới chính trị, vẫn giữ nguyên bộ 27 máy lãnh đạo chuyên quyền của Đảng Cộng sản. Thực chất là chúng phủ nhận và đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch cho rằng, ở Việt Nam không có dân chủ, quyền con người bị vi phạm. Chúng luôn lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để đả kích sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Sự thật là, khi xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, cần phải nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền và quyền làm chủ của nhân dân, tức là quan hệ: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Đây là vấn đề lớn về lý luận, về thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị trong xã hội văn minh, hiện đại mà con người và nhân dân là trung tâm. 2. Luận cứ phê phán 2.1. Luận cứ không thể phủ nhận thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Một là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là sai lầm lịch sử, nó nổ ra và giành thắng lợi do Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lựa chọn con đường giải phóng dân tộc một cách đúng đắn. Ngay từ những năm còn bôn ba tìm đường cứu nước, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Các cao trào cách mạng 1930-1931, 28 1936-1939, 1939-1945 thực sự là những “cuộc tổng diễn tập”, là tiền đề cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Khi tình thế và thời cơ cách mạng chín muồi, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước đúng thời cơ, vào thời điểm thuận lợi nhất nên đã giành thắng lợi. Hai là, nếu không có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước ta không thể có cơ đồ, vị thế, uy tín và tiềm lực như hiện nay; nhân dân ta không có được địa vị người làm chủ như bây giờ. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, nghèo nàn và lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới; trình độ dân trí thấp, với 95% dân số không biết viết, không biết đọc. Nạn đói năm 1945 do phát xít Nhật gây ra đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người, bằng khoảng 10% dân số của cả nước vào thời điểm ấy. Ngay sau khi tuyên bố độc lập, ngày 03/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó cứu đói là nhiệm vụ hàng đầu và phong trào “diệt giặc đói” được triển khai ngay. Biện pháp cơ bản để giải quyết tận gốc nạn đói là tăng gia sản xuất. Khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!”, “Không để một tấc đất bỏ hoang”, “Tấc đất tấc vàng”... trở thành hành động thực tế của toàn Đảng, toàn dân. Kết quả là, đến đầu năm 1946, sản lượng hoa màu tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Giặc đói đã được đẩy lùi, tài chính bước đầu được gây dựng lại. Chiến thắng giặc đói là 29 một trong những thành tựu lớn đầu tiên của Nhà nước cách mạng. Nó thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, của chính quyền nhân dân, góp phần củng cố khối liên minh công nông. Uy tín của Đảng và Chính phủ ngày càng được nâng cao trong quần chúng. Nhân dân càng thêm tin tưởng, gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Đồng thời, Nhà nước còn vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, nếp sống mới, xóa bỏ văn hóa nô dịch của chế độ thực dân, phong kiến; phát triển phong trào bình dân học vụ, chỉ trong vòng một năm, từ ngày 08/9/1945 đến ngày 08/9/1946, trên toàn quốc đã tổ chức được 75.805 lớp học với hơn 97.664 giáo viên và đã xoá mù chữ cho 2.520.673 người. Tiếng Việt được chính thức dùng trong hệ thống trường học. Công tác y tế, vệ sinh phòng bệnh cũng được quan tâm, v.v.. Rõ ràng, nếu không có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “giặc đói”, “giặc dốt” không thể bị đẩy lùi chỉ trong thời gian rất ngắn như vậy. Ngày nay, nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, 30 là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu trên đã bác bỏ sự vu cáo, bịa đặt hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cố tình phủ nhận những thành quả cách mạng mà chúng ta đã đạt được. Ba là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã xóa bỏ sự thống trị của thực dân, phát xít và phong kiến, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Mục tiêu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là đánh đổ đế quốc Pháp, phát xít Nhật và bọn phong kiến, tay sai, giành độc lập dân tộc hoàn toàn, độc lập dân tộc thực sự để đi đến xây dựng một xã hội hoàn toàn ấm no, tự do, hạnh phúc. Đó không phải là sự chuyển giao từ chế độ “vua trị” sang “đảng trị” mà là sự thay đổi về bản chất, từ chế độ “quân chủ phong kiến” sang chế độ “dân chủ cộng hòa”, từ chế độ cai trị tàn bạo của thực dân, phong kiến sang chế độ nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước dân chủ nhân dân. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế 31 và xiềng xích thực dân”1. Đồng thời, đối với công cuộc xây dựng một chế độ xã hội mới, khác hẳn về chất so với chế độ cũ (phong kiến, thực dân và đế quốc): “Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hoà và thống nhất độc lập”2. Bốn là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam. Bởi lẽ, sau khi nhân dân ta giành được chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được bao lâu, thì ngày 23/9/1945, thực dân Pháp quay trở lại cướp nước ta một lần nữa. Trước tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều chính sách để gìn giữ hòa bình, tránh “cuộc chiến tranh đổ máu vô nghĩa”. Tuy “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”3. Với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”4, quân và dân ta đã trường kỳ kháng chiến và giành thắng lợi, làm nên mốc son Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước trên bán đảo Đông Dương. Song, với bản chất hiếu chiến, phản động, thực dân Pháp đã _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.218. 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.534. 32 cấu kết và “bật đèn xanh” cho đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược Việt Nam và Đông Dương, buộc nhân dân ta phải tiếp tục bước vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm sau đó. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ, hy sinh của nhân dân ta, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Như vậy, nguyên nhân vừa sâu xa, vừa trực tiếp dẫn đến hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta, chính là bản chất hiếu chiến xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai chứ không phải một lý do nào khác, càng không phải do Cách mạng Tháng Tám năm 1945. 2.2. Luận cứ không thể phủ nhận bản chất, tính chính nghĩa và thành quả của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ Một là, khẳng định cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ là chiến tranh chống xâm lược, giành độc lập và thống nhất đất nước, không phải là chiến tranh “ý thức hệ” hay “nội chiến”. Từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược Việt Nam, cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thực dân Pháp đã tiến hành chiến tranh xâm lược, thôn tính và đô hộ nước ta 87 năm. Ngày 2/9/1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên quảng trường 33 Ba Đình lịch sử, trịnh trọng tuyên bố với thế giới khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì cũng là lúc thực dân Pháp lăm le xâm lược nước ta một lần nữa. Chúng phát động các cuộc tấn công quân ta ở Hải Phòng, Lạng Sơn, Đà Nẵng, Hà Nội... Tướng Pháp Mooclie đã ra tối hậu thư, yêu cầu Việt Nam phải “giải giáp lực lượng tự vệ và trao quyền kiểm soát Hà Nội cho chúng trước sáng ngày 20/12/1946”. Đó thực chất là một lời tuyên chiến của thực dân Pháp không chỉ với chính quyền cách mạng non trẻ mà còn với toàn bộ dân tộc và nhân dân Việt Nam. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đó là lời hịch non sông đáp lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, và như thế, hiển nhiên đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa của toàn thể dân tộc và nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chống xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Cuộc chiến tranh can thiệp của Mỹ, thực chất là sự tiếp nối cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, do Mỹ và ngụy quyền thực hiện, hoàn toàn không phải là “nội chiến” hay chiến tranh “ý thức hệ”. Cho nên bản chất và tính chất của cuộc chiến tranh này vẫn là chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh giải phóng, chống xâm lược của dân tộc Việt Nam với mục đích giành độc lập và thống nhất đất nước. Và kết quả như chúng ta đã thấy, khi cuộc chiến kết thúc, Việt Nam đã là một nước độc lập và thống nhất. Cái gọi là chiến tranh “ý thức hệ” chỉ có thể xuất phát từ phía Mỹ khi họ thấy phải ngăn chặn “làn sóng đỏ” ở khu vực Đông Nam Á. Chiến tranh Việt Nam không phải là một cuộc “nội chiến”, tức là cuộc chiến giữa hai phe trong một quốc gia mà 34 không có sự can thiệp hay hiện diện của nước ngoài. Vì thực tế, đây là cuộc kháng chiến của dân tộc và nhân dân Việt Nam chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai. Mặc dù Mỹ muốn “nội chiến hóa” cuộc chiến này bằng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, thực chất là “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, nhưng bất thành. Cuộc chiến tranh Việt Nam cũng hoàn toàn không phải là “chiến tranh ủy nhiệm”, vì nó chỉ đúng có một phía: đế quốc Mỹ ủy nhiệm cho ngụy quyền tay sai làm “tiền đồn chống Cộng” cho Mỹ ở Đông Nam Á. Còn dân tộc Việt Nam kháng chiến chống đế quốc Mỹ là để giành độc lập và thống nhất đất nước trên tinh thần tự lực cánh sinh là chính, có tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, chứ hoàn toàn không có sự “ủy thác nhiệm vụ” từ bên ngoài, không thực hiện bất cứ một nhiệm vụ “đính kèm” nào ở đây. Luận điệu cho rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là cuộc “nội chiến, nồi da nấu thịt”, là cuộc chiến tranh “ý thức hệ” hay “chiến tranh ủy nhiệm” là xuyên tạc mục đích, làm sai lệch hoàn toàn bản chất và tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm lược; là xúc phạm danh dự của dân tộc, lương tri của thời đại và bào chữa tội ác cho đế quốc xâm lược. Hai là, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kế tục thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, là trận đánh quyết định nhất của cuộc chiến đấu 30 năm (1945-1975) gian khổ, ác liệt, giành lại và giữ vững nền độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Từ đây, cả dân tộc ta 35 tiến vào kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, công bằng, dân chủ, văn minh. 2.3. Luận cứ không thể phủ nhận thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới Một là, khẳng định tính tất yếu khách quan của đổi mới và không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới. Đổi mới ở Việt Nam do Đảng khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986). Đó là sự lựa chọn tất yếu nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, là một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước. Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới; văn hóa, xã hội và đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên, trở thành điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được đặc biệt quan tâm, tạo nhiều chuyển biến tích cực; công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ, đạt nhiều kết quả nổi bật, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn bó chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; sự thống nhất, phối hợp đồng bộ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường; 36 chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh không ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín của đất nước được nâng cao. Và gần đây nhất, công tác chỉ đạo và các biện pháp phòng, chống đại dịch Covid-19 của Việt Nam thời gian vừa qua được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, cũng như được cộng đồng quốc tế, Tổ chức Y tế thế giới và các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; lan tỏa hình ảnh đất nước Việt Nam nhân văn, bản lĩnh, khẳng định tính trách nhiệm của Việt Nam với nhân dân và cộng đồng quốc tế. Tất cả những điều đó cho thấy, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Điều này không phải chỉ có người trong cuộc nói ra mà đã được thế giới thừa nhận, đánh giá cao. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hai là, đổi mới ở Việt Nam là toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc, có lộ trình và bước đi thích hợp. Đổi mới ở Việt Nam là toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại... Đại hội VI của Đảng xác định phải đổi mới từ kinh tế đến chính trị và các lĩnh vực khác. Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị Trung ương 6 khóa VI đã chỉ rõ: “... chúng 37 ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới”1. Hội nghị đưa ra 6 nguyên tắc của đổi mới là: - Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. - Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. - Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản, làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động và có hiệu quả hơn. _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.49, tr.745. 38 - Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Phê phán những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời lắng nghe, tiếp nhận những ý kiến trung thực, phê bình những khuyết điểm trong sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng. - Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng; mặt khác phải lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở phát huy dân chủ. Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội. - Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và quốc tế xã hội chủ nghĩa; kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Đại hội VII tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Chủ trương này tiếp tục được các Đại hội Đảng thực hiện. Từ Đại hội VIII, Đảng ta chủ trương: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”1, với tinh thần phải “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 14. 39 làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”1. Đại hội XI nhấn mạnh: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”2. Tổng kết 30 năm đổi mới, nhất là tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”3, trong đó có thành tựu về giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Tuy nhiên, Đại hội XII cũng thẳng thắn chỉ ra hạn chế: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”4. Trên tinh thần đó, Đại hội XII đề ra mục tiêu chung: “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”5. Đại hội XII xác định trong điều kiện hiện _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.70. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.99-100. 3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.65, 68, 75. 40 nay cần tập trung đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị. Ba là, nước ta là nước dân chủ, tự do - dân chủ - nhân quyền của nhân dân luôn được tôn trọng và phát huy. Trên thế giới hiện có ba chế độ dân chủ: dân chủ tư sản, dân chủ nhân dân và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mỗi chế độ dân chủ nói trên đều có những thiết chế khác nhau, nhưng đều có những yếu tố chung: (1) Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của công dân (bao gồm tất cả các thành viên xã hội); (2) Bầu cử tự do và theo nhiệm kỳ bầu ra các cơ quan, người lãnh đạo nhà nước; (3) Quyền lực của nhà nước được chia ra làm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan trên có một chức năng riêng; (4) Hiến pháp và pháp luật được xem là tối thượng; (5) Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được tôn trọng và bảo đảm. Chế độ dân chủ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là chế độ dân chủ nhân dân hướng theo con đường xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Một trong những đặc trưng của chế độ dân chủ ở Việt Nam là do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cầm quyền. Tuy nhiên, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam phải tuân thủ nguyên tắc hiến định: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu 41 trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”1. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng hoàn thiện các quan điểm về dân chủ, nhân quyền, coi nỗ lực thể chế hóa, luật hóa quan điểm dân chủ, nhân quyền là yêu cầu bức thiết của phát triển. Năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, khẳng định: “phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng”; sau đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP (đến năm 2003 thay thế bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP) về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã quy định về nội dung, phương thức, trách nhiệm của chính quyền cấp xã trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân; năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn... Đây là các bước đi thống nhất, đồng bộ về chủ trương kết hợp hành động cụ thể tạo điều kiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Về nhân quyền, Chỉ thị số 12-CT/TW của Ban Bí thư ngày 12/7/1992 về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta khẳng định: Quyền con người là giá trị chung của nhân loại. Đó là thành quả đấu tranh lâu dài của _______________ 1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.9-10. 42 nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới chống lại mọi áp bức, bóc lột và giải phóng con người (trong đó có việc bảo đảm các quyền con người) gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội; chỉ có dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều kiện được bảo đảm rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng luôn nhấn mạnh phải quan tâm hơn nữa đến việc chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết. Hiến pháp năm 2013 đã dành Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” với 36 điều hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong đó, khoản 1, Điều 14 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Đó là cơ sở để đất nước đạt được các thành tựu cụ thể về dân chủ, nhân quyền mà dư luận thế giới đã ca ngợi và ghi nhận. Liên hợp quốc đã xác nhận: Việt Nam đứng thứ hai trong khối châu Á - Thái Bình Dương và thứ chín trên 135 nước về tỷ lệ phụ nữ làm việc trong Chính phủ. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Đến nay, Việt Nam đã ký kết, gia nhập hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người. 43 Mới đây, Việt Nam đã bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia theo Cơ chế Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc ngày 04/7/2019 tại Giơnevơ (Thụy Sĩ) đã khẳng định nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế về những thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người là những minh chứng sinh động để bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Không phủ nhận rằng trong quá trình quản lý xã hội, Việt Nam còn có những khiếm khuyết, trong đó có việc bảo đảm quyền dân chủ của người dân. Ở địa phương này, địa phương khác vẫn còn có hiện tượng lợi ích của người dân chưa được tôn trọng, bảo đảm, nhất là trong vấn đề đất đai. Đây là vấn đề lớn mà các cấp ủy và chính quyền cần đặc biệt quan tâm. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 90 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Những thành tựu đó là kết tinh trí tuệ, sức lực và bản lĩnh Việt Nam. Phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam đồng nghĩa 44 với phủ nhận một trong những trang sử hào hùng nhất của dân tộc; phủ nhận công lao, sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta; phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất nước của Đảng ta. Đó là một việc làm hoàn toàn trái với sự thật, với công lý và lẽ phải, là quan điểm hư vô lịch sử, xúc phạm quá khứ thiêng liêng của dân tộc, cần phải vạch trần, đấu tranh phê phán và bác bỏ. 45 LUẬN CỨ PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM CHO RẰNG CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN ĐÃ LỖI THỜI Trước thềm Đại hội XIII của Đảng, một số người, trong số đó có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng ngoại lai, đã lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, vậy nên Đại hội XIII cần xác định chỉ lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng tôi xin được trao đổi để làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở để khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời, và việc Đảng ta xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. 1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết, một hệ thống lý luận khoa học mở, được phát triển không ngừng và do đó nó không bị hạn định bởi biên giới quốc gia, dân tộc, không thể bị lỗi thời Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ giữa thế kỷ XIX ở trong lòng châu Âu, nơi mà chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh nhất, bộc lộ rõ bản chất giai cấp và những mâu thuẫn gay gắt trong lòng của nó, đồng thời cũng kéo theo tình trạng bóc lột người lao động làm thuê, đẩy họ vào tình cảnh khốn cùng. 46 Trong hoàn cảnh ấy, sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin không ngoài ảnh hưởng của một mục tiêu nhân văn cao cả là lý giải nguyên nhân dẫn đến tình trạng người bóc lột người để tìm ra con đường, giải pháp nhằm giải phóng con người mà trước hết là giải phóng những người vô sản làm thuê ra khỏi cuộc sống khốn khổ và thân phận thấp hèn trong xã hội đương thời. Cái mục tiêu nhân văn ấy là một mơ ước từ ngàn đời của nhân loại về giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức, bất công, mang lại cuộc sống tự do, công bằng, ấm no, hạnh phúc cho mỗi người và mọi người. Cũng cần phải nói rằng, C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng học thuyết của mình trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tiếp thu có phê phán toàn bộ những giá trị tinh hoa của quá trình phát triển tư tưởng của nhân loại, đặc biệt là kinh tế chính trị cổ điển Anh, triết học cổ điển Đức và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Những học thuyết về giá trị lao động của Ađam Xmít, Đavít Ricácđô, phương pháp biện chứng của G.Ph. Hêghen, chủ nghĩa duy vật nhân bản của L. Phoiơbắc, những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội không tưởng của Hăngriđơ Cơlôđơ Xanh Ximông, Rôbe Ôoen, Etienne Cabet, Sáclơ Phuriê đã đóng góp những cơ sở nhận thức quan trọng giúp cho C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng học thuyết khoa học của mình. Và như vậy, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, với thành tựu vĩ đại là lần đầu tiên phát hiện tính quy luật trong sự phát triển của lịch sử loài người, là cột mốc đánh dấu bước ngoặt căn bản từ tự phát sang tự giác của phong trào công nhân quốc tế. Nó trang bị nhận thức lý luận cho giai cấp vô sản về vai trò và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới 47 của mình; làm cho chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học; trang bị cho giai cấp công nhân cương lĩnh chính trị cho cuộc đấu tranh lật đổ sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin là người tiếp tục phát triển những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen. Ông có nhiều đóng góp vào việc phát triển các tư tưởng triết học, kinh tế chính trị của C. Mác và Ph. Ăngghen, phát triển tư tưởng về khả năng cách mạng vô sản thắng lợi ở một nước tư bản có trình độ phát triển chưa cao. Đặc biệt, V.I. Lênin đã phát triển tư tưởng và trực tiếp bắt tay vào xây dựng một chính đảng mácxít kiểu mới; tổ chức cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi ở nước Nga và vận dụng một cách sáng tạo học thuyết của C. Mác, Ph. Ăngghen để phân tích, đánh giá tình hình, đề ra các chính sách giải quyết hàng loạt vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga và Liên bang Xôviết. Sau V.I. Lênin còn có nhiều nhà cách mạng, học giả tiếp tục phát triển học thuyết khoa học của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin, vận dụng sáng tạo học thuyết đó vào điều kiện lịch sử cụ thể để lãnh đạo cách mạng, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà một đại biểu tiêu biểu trong số đó là Hồ Chí Minh. Nói đến chủ nghĩa Mác - Lênin là nói đến sự thống nhất của ba bộ phận cấu thành nên tòa kiến trúc vĩ đại của học thuyết khoa học do C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin xây dựng và phát triển. Đó là triết học duy vật biện chứng và 48 duy vật lịch sử, kinh tế chính trị mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học. Với tính chất là một học thuyết, một hệ thống lý luận khoa học, những người khai sinh ra chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ muốn và chưa có bất cứ một mệnh đề phán đoán nào để quy các luận điểm trong học thuyết của mình về cách mạng xã hội hay về xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai thành những tín điều siêu hình, cứng nhắc. Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph. Ăngghen đã trả lời hàng loạt vấn đề lý luận liên quan trực tiếp đến chủ nghĩa xã hội khoa học như: thế nào là giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản; quan hệ giữa giai cấp công nhân với Đảng Cộng sản; hiểu thế nào là xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; mối quan hệ ra sao giữa giai cấp công nhân, dân tộc và quốc tế; các giải pháp cần thiết để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa,... Chính Ph. Ăngghen là người rất khách quan, khoa học khi luận giải rất tường minh chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, đồng thời yêu cầu những người cộng sản rằng, “... chủ nghĩa xã hội đã trở thành một khoa học mà ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”. Trong rất nhiều tác phẩm, C. Mác và Ph. Ăngghen đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức, đánh giá, tổng kết thực tiễn để thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận, nhất là lý luận về con đường hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong Lời đề tựa cho lần xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào năm 1872, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết rằng: “Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ 49 rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II”1. Quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển cũng luôn luôn được V.I. Lênin quán triệt vận dụng trong nhận thức thực tiễn, giải quyết mối quan hệ gắn bó giữa lý luận với thực tiễn. Chính sách Kinh tế mới chính là một dẫn chứng thực tế sáng rõ về quan điểm đó. Chính V.I. Lênin đã có một định nghĩa đầy tính thực tiễn về chủ nghĩa xã hội mà lâu nay đôi khi những người hậu thế đã bỏ quên hoặc bảo thủ với những định kiến mà không nhìn nhận một cách đúng đắn và nghiêm túc. Người nói: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + = ∑ = chủ nghĩa xã hội”2. Nhận định của V.I. Lênin từ gần 100 năm trước vẫn còn nguyên giá trị phương pháp luận đối với chúng ta hiện nay, mà hơn thế nữa, là dự báo cho tính chất khoa học và bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin ngay cả trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 2. Chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời bởi những giá trị bền vững không thể phủ nhận của nó Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ giữa thế kỷ XIX và được tiếp tục phát triển, trở thành một học thuyết có ảnh hưởng _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.18, tr.128. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t.36, tr.684. 50 lớn nhất trong toàn bộ lịch sử khoa học của nhân loại. Sau gần 180 năm phát triển, dẫn dắt cả một hệ thống các quốc gia, dân tộc với hàng tỷ người dân hiện thực hóa mô hình xã hội mới, mang lại những thành tựu vĩ đại, đánh dấu một thời đại cách mạng chưa từng có trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định những giá trị bền vững không thể phủ nhận. Đó là: (1) Phương pháp biện chứng duy vật: Phương pháp biện chứng duy vật Mác - Lênin là sự kết tinh toàn bộ những thành tựu tinh hoa của lịch sử phát triển tư tưởng duy vật của nhân loại. Nó cũng được bổ sung, làm phong phú thêm và minh chứng bởi những thành tựu khoa học lớn của thời đại C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin sống, cũng như nhiều thành tựu khoa học của thời đại ngày nay. Phương pháp biện chứng Mác - Lênin xuất phát từ những nguyên lý, quy luật và những mối quan hệ cơ bản của tự nhiên và xã hội. Vì thế, một khi những quy luật đó còn phản ánh đúng bản chất của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người thì phương pháp biện chứng duy vật còn có giá trị, còn là công cụ nhận thức của con người và không thể lỗi thời. Ví dụ, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho rằng, toàn bộ thế giới thống nhất trong tính vật chất và cho dù các sự vật, hiện tượng có đa dạng, phong phú, phức tạp đến đâu thì chúng cũng chỉ là những dạng, bộ phận của thế giới vật chất duy nhất, có những mối liên hệ chặt chẽ lẫn nhau. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, người ta rút ra quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể trong nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. V.I. Lênin đã phát triển lý luận nhận thức và chỉ ra rằng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng 51 đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”. Đây chính là quy luật về tư duy của con người trong quá trình nhận thức thế giới. Nó chỉ ra rằng, chính thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình nhận thức của con người về thế giới xung quanh mình. Đến lượt nó, cũng chính thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, tiêu chuẩn đánh giá kết quả nhận thức. Cũng như phép hùng biện ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại, thuyết tiến hóa của Sáclơ Đácuyn từ giữa thế kỷ XIX, v.v. đến nay vẫn có giá trị, vẫn không lỗi thời, phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn có giá trị như những bậc đá không thể thay thế, giúp con người không phân biệt hệ tư tưởng, bước lên con đường đúng đắn trong nhận thức, mở mang hiểu biết và trong hoạt động thực tiễn hằng ngày. (2) Quan niệm duy vật về lịch sử: Lần đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại, C. Mác đã phát hiện ra tính quy luật của sự phát triển xã hội loài người, điều mà V.I. Lênin đã nhận xét rằng, là “thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Quan niệm duy vật về lịch sử cho thấy lịch sử xã hội loài người vận động trên cơ sở những động cơ vật chất, nhất là động cơ lợi ích kinh tế. Quan niệm duy vật về lịch sử cũng xuất phát từ trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất xã hội để lý giải về đời sống tinh thần, những tư tưởng, văn hóa, điều kiện xã hội của quần chúng nhân dân và vai trò của họ trong lịch sử. Hơn thế nữa, quan niệm duy vật về lịch sử xem xét xã hội một cách toàn diện, chỉnh thể, trên nền của sự phát sinh, phát triển và suy tàn của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong khi khẳng định vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, quan niệm duy 52 vật về lịch sử cũng nhấn mạnh vai trò tích cực, sự tác động trở lại của đời sống tinh thần đối với đời sống vật chất, của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Mặc dù con người không thể tùy tiện thay đổi hay xóa bỏ các quy luật của xã hội, nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người có thể tác động để các quy luật xã hội diễn ra nhanh hơn hay chậm đi. Nói chung, quan niệm duy vật về lịch sử là cơ sở phương pháp luận giúp con người nhận thức xã hội, thực tiễn một cách đúng đắn và còn nguyên giá trị, không thể lỗi thời cho dù trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra. (3) Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội: Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, sự phát triển của xã hội loài người rất phong phú, đa dạng, nhưng đó là sự phát triển có quy luật. Những yếu tố cốt lõi quy định tiến trình phát triển của xã hội chính là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng - những yếu tố căn bản tạo nên và quy định tính chất, trình độ của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Toàn bộ dòng chảy lịch sử của nhân loại là quá trình lịch sử - tự nhiên với sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp lên cao (cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản). Nguyên nhân khách quan, nội tại dẫn tới sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cho dù sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới đều rất phong phú với những biểu 53 hiện sinh động về đời sống vật chất, tinh thần, tuy nhiên tất cả vẫn phải trải qua những nấc thang, những giai đoạn tương đồng nhất định của hình thái kinh tế - xã hội. Đó có thể là sự tương đồng về tuần tự từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội. Cũng có thể là sự tương đồng về việc bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào đó nếu điều kiện cho phép. Chính điều này đã dẫn tới tình trạng phát triển không đồng đều của các dân tộc, quốc gia trên thế giới. Sự phát triển không đồng đều thể hiện ở chỗ, trong cùng một thời đại, các quốc gia, dân tộc không ở cùng một hình thái kinh tế - xã hội như nhau, hoặc cùng một hình thái kinh tế - xã hội như nhau nhưng ở mỗi quốc gia, dân tộc lại có những biểu hiện, đặc điểm khác nhau. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra rằng, con người không thể chủ quan, tùy tiện xóa bỏ quy luật khách quan của lịch sử, nhưng con người thông qua động cơ lợi ích, ước muốn, có thể tác động, thúc đẩy quy luật đó diễn ra nhanh hay chậm. Cùng với quan niệm duy vật về lịch sử, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội tạo thành cơ sở cho phương pháp luận khoa học trong nhận thức thực tiễn xã hội, giúp cho con người, các lực lượng chính trị - xã hội tiến bộ có thái độ, hành vi hợp lý trong việc thúc đẩy sự phát triển tích cực của xã hội. (4) Lý luận về giá trị thặng dư: Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư, trên cơ sở đó, ông đã vén lên bức màn bí mật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nguyên nhân và cơ chế vận hành của sự bóc lột đối với công nhân, người làm thuê. Cho đến nay, chưa có học giả nào có thể đưa ra một lý luận khả dĩ có thể bác bỏ được lý luận về giá trị 54 thặng dư của C. Mác. Cùng với lý luận về giá trị thặng dư, lý luận về sở hữu, về khả năng xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, lý luận về sự ra đời tất yếu của sở hữu xã hội là những giá trị bền vững của kinh tế chính trị Mác - Lênin. Ngày nay, chính sự phát triển vũ bão của khoa học - công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã không làm cho lý luận về giá trị thặng dư, về mối quan hệ sở hữu trở nên lỗi thời, mà ngược lại, đã và đang minh chứng cho tính đúng đắn của những lý luận đó. (5) Lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học: Khi C. Mác và Ph. Ăngghen nói về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì đó mới chỉ là dự báo trên những đường nét cơ bản, đặc trưng nhất. Theo các ông, chủ nghĩa xã hội tất yếu sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản dựa trên tính quy luật của sự phát triển thay thế các hình thái kinh tế - xã hội, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là do tất yếu kinh tế quy định và đều tất yếu như nhau. Về sau, V.I. Lênin là người trực tiếp vận dụng học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen để tiến hành cách mạng đánh đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga và Liên Xô. C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin là những thiên tài, nhưng họ cũng bị quy định bởi thời gian, không thể suy nghĩ và giải đáp mọi vấn đề đặt ra trong tương lai. Nói như cách hiểu của Ph. Ăngghen, việc dự báo càng sâu, càng chi tiết về tương lai cũng chính là càng rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Bởi thế, rất có thể một số nhận định, dự báo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin bị vượt qua hoặc không còn 55 phù hợp nữa sau hàng trăm năm vận động, phát triển của loài người, tuy nhiên trong sự vận động tổng thể theo quy luật của xã hội loài người, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn chưa thể bị thời gian vượt qua. Nói tóm lại, dù được hiểu theo nghĩa nào, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là học thuyết về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột, mưu cầu tự do, hạnh phúc; quy luật về cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng, phát triển để đi tới chủ nghĩa cộng sản. Với tính chất là một học thuyết khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định những giá trị bền vững hiển nhiên, không thể phủ nhận, mà còn tiếp tục là cơ sở phương pháp luận cho nhận thức tự nhiên, xã hội và tư duy của con người; cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh của con người để ngày càng thích ứng hài hòa với môi trường tự nhiên, cho cuộc đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, vì sự tiến bộ và hạnh phúc. 3. Chủ nghĩa xã hội không chỉ là sự vận động tất yếu theo quy luật, mà còn là mơ ước ngàn đời của nhân dân các dân tộc trên toàn thế giới về một xã hội phồn vinh, hạnh phúc, vì thế nó không bao giờ lỗi thời Dựa trên quy luật về lịch sử vận động, phát triển của xã hội loài người, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra và khẳng định tất yếu loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, qua một thời kỳ quá độ. Như vậy, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xã hội của chủ nghĩa 56 Mác - Lênin. Và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội cũng có nghĩa là sự kết thúc của chủ nghĩa tư bản. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến việc các học giả tư sản và các thế lực chính trị của chủ nghĩa tư bản căm thù và điên cuồng chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc, phê phán học thuyết về chủ nghĩa xã hội, chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới. Mục tiêu của sự chống phá, phê phán đó rất rõ ràng, đó là bảo vệ sự tồn tại của chế độ tư bản chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Tiếc thay, một số ít người trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản hoặc sinh sống ở những nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng hùa theo những luận điệu, tiếp tay cho những âm mưu đó, xuyên tạc, phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận và phê phán đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vậy đâu là cơ sở để khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội là mục tiêu đúng đắn, tốt đẹp và không thể lỗi thời? Trước hết, chủ nghĩa xã hội là tất yếu lịch sử, nghĩa là đó là con đường tất yếu theo quy luật mà con người sẽ đi tới. C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát triển chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học khi nhìn nhận nó từ quy luật vận động của lịch sử, như sự vận động tất yếu từ những cơ sở xã hội, những yếu tố kinh tế, vật chất vốn đã được hình thành ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Căn nguyên kinh tế - xã hội của sự vận động, phát triển tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội chính là sự phát triển và quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, làm thay đổi tình trạng của cơ sở hạ tầng xã hội tư bản chủ nghĩa. Sự thay đổi tình trạng của cơ sở hạ tầng xã hội tư bản chủ nghĩa đến mức độ cao tất yếu dẫn đến sự thay 57 đổi kiến trúc thượng tầng của xã hội tư bản chủ nghĩa, tức là thay đổi chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong sự thay đổi ấy, nhà nước với tính chất là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị sẽ bị diệt vong, thay vào đó là nhà nước quản trị, đại diện cho các công dân bình đẳng để quản trị, duy trì trật tự xã hội. Sự thay đổi ấy đồng nghĩa với sự giải phóng con người một cách toàn diện, thủ tiêu mọi sự thù địch giai cấp, nhất là thù địch giữa giai cấp vô sản và tư sản. Nói như Ph. Ăngghen, “Theo nguyên tắc của nó, thì chủ nghĩa cộng sản vượt lên trên sự thù địch giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản; nó chỉ thừa nhận ý nghĩa lịch sử của sự thù địch đối với hiện tại, nhưng lại phủ nhận tính tất yếu của sự thù địch trong tương lai; chủ nghĩa cộng sản chính là nhằm mục đích thủ tiêu sự thù địch ấy”1. Thứ hai, mục đích của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ người bóc lột người, xây dựng một xã hội công bằng, phồn vinh, hạnh phúc, mang lại sự phát triển tự do và cuộc sống hạnh phúc cho con người, hiện thực hóa mơ ước ngàn đời của người dân toàn thế giới. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và những người cộng sản chân chính đều khẳng định mục đích ấy, hành động, phấn đấu và đấu tranh vì mục đích ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cả đời mình, vượt qua bao tù đày, gian khổ, thử thách chỉ vì mục đích ấy, một mục đích cao cả, cứu nước, cứu dân. Và để đạt được mục đích độc lập cho dân tộc, phồn vinh cho đất nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, theo Người chỉ có xây dựng chủ _______________ 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, 1995, t.2, tr.697. 58 nghĩa xã hội. Bởi vì, “có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”1. Một số người cho rằng, mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa không cụ thể, quá xa vời. Tất nhiên, xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải là công việc ngày một ngày hai, mà là cả một sự nghiệp vĩ đại, đòi hỏi có thời gian, lao động, sáng tạo, đòi hỏi sức người, sức của to lớn. Tuy nhiên, không phải vì thế mà người ta không thể không biết được mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là gì. Từ năm 1946, khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vừa mới thành công, nền độc lập tự chủ của đất nước đang trong thế ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rất rõ ràng, cụ thể mục đích cách mạng là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”2. Sau này, Người giải thích: “Chế độ cộng sản là ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang. Trừ những bọn phản động quá sá, thì chắc ai cũng tán thành chế độ cộng sản”3. Bằng chính thực tiễn cách mạng hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã giành được độc lập, tự do, đánh đuổi những kẻ thù xâm lược lớn và hung hãn, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao vị thế dân tộc trên trường quốc tế. Cương lĩnh chính trị của Đảng trong thời kỳ mới chỉ rõ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.401. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.294. 59 xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” cùng các đặc trưng về văn hóa, con người, kinh tế, quan hệ dân tộc, nhà nước, quan hệ chính trị và quan hệ quốc tế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh, đó là chế độ “do nhân dân làm chủ”, nhằm làm cho “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Những điều đó rất rõ ràng, rất minh bạch, thiết nghĩ cán bộ, đảng viên và mọi người dân đều hiểu được, trừ những người cố tình không hiểu do bị “ô nhiễm” bởi sự tuyên truyền chống phá thù địch. Thứ ba, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình lao động sáng tạo không mệt mỏi, là cuộc đấu tranh gian nan, phức tạp để xây dựng, phát triển cơ sở vật chất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất. Cùng với quá trình xây dựng, phát triển cơ sở vật chất là quá trình xây dựng, phát triển con người một cách toàn diện, từ nhận thức, văn hóa, lối sống, ý thức cộng đồng đến sự hoàn thiện về đạo đức, nhân cách, sức khỏe. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa” và chỉ ra rằng, “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”1. Người phân tích, làm rõ hơn tính chất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với tính chất một cuộc cách mạng: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.216. 60 thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột, áp bức. Muốn thế chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp”1. Một số người nhìn vào sự hơn hẳn về điều kiện vật chất, trình độ phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ và một số lĩnh vực khác của các nước tư bản phát triển đã vội cho rằng, chủ nghĩa tư bản là ưu việt và chê bai chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Xin nhớ rằng, chủ nghĩa xã hội là một mục tiêu tốt đẹp nhưng không phải tự nhiên trên trời rơi xuống hay do một học thuyết nào mang đến, mà do chính chúng ta phải lao động, sáng tạo để xây dựng nên. Đảng Cộng sản là người định hướng đường lối, định hướng chính sách, lãnh đạo Nhà nước tổ chức lực lượng, những lực lượng thực hiện không là ai khác ngoài nhân dân lao động mọi tầng lớp. Cái thuộc về bản chất ưu việt của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là hạn chế đến mức thấp nhất, tiến tới không có người bóc lột người, tạo điều kiện tốt nhất để người dân được thụ hưởng thành tựu của quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Chúng ta đã phải trải qua hơn 30 năm chiến tranh tàn phá, trải qua thời kỳ bao vây cấm vận nghiệt ngã cùng sự chống phá của các thế lực thù địch. Trên thực tế, chỉ từ năm 1990, sau khi rút quân khỏi Campuchia, kết thúc thời kỳ giúp đỡ nước bạn thoát khỏi nạn diệt chủng, chúng ta mới có điều kiện hòa bình, ổn định thực sự để xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, cải thiện cuộc sống của nhân dân. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.91-92. 61 Trong 30 năm, chúng ta đã nâng GDP bình quân đầu người từ 182 USD lên gần 3.500 USD (theo Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới của IMF công bố tháng 10/2020), tức là tăng hơn 19 lần; tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 3%; tỷ lệ bảo hiểm y tế toàn dân đã đạt gần 90%. Đời sống người dân ngày càng được cải thiện toàn diện, bảo đảm ổn định trong cả những điều kiện thiên tai, dịch bệnh. Thực trạng và những thành tựu to lớn của đất nước trong 35 năm đổi mới, xây dựng, phát triển và cải thiện đời sống nhân dân là bằng chứng hùng hồn, không ai có thể phủ nhận về tính chất ưu việt của chế độ chính trị, về sự đúng đắn của mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Đúng là không ai có thể phủ nhận một thực tế là các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã có được những thành tựu kinh tế, khoa học - công nghệ kéo theo những cải thiện nhất định về điều kiện sống của người dân. Nhưng đó mới chỉ là cách nhìn thực tại, phiến diện, lệch lạc, không đúng bản chất vấn đề. Trước hết, đó là những nước ít nhất cũng có 60 năm, nhiều hơn là vài trăm năm hòa bình xây dựng, không bị tàn phá bởi chiến tranh. Trong quá trình đó, giai cấp tư sản ở các nước phương Tây đã vơ vét của cải, bóc lột sức của, sức người của nhiều nước thuộc địa và những người lao động chính quốc để làm giàu. Khoảng cách giàu nghèo ở các nước đó ngày càng rộng ra, lớn hơn lên và không bao giờ có thể khỏa lấp. Hơn nữa, trong khi thực hiện một số chính sách tiến bộ ở trong nước, họ vẫn sẵn sàng gây chiến tranh, áp đặt quyền lực, khai thác vơ vét tài nguyên của các nước nghèo, bị lệ thuộc để làm giàu cho mình. Những cuộc xung đột vũ trang gần đây ở Irắc, Libia, Xyri... có trách nhiệm lớn của các nước phương Tây. Chính một học giả người Anh Terry Eagleton đã 62 nhận xét: “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm”1. Từ đó để thấy, câu trả lời thích hợp cho những người còn ảo tưởng về chủ nghĩa tư bản chính là câu châm ngôn của người phương Tây: “miếng phomát cho không chỉ có trong bẫy chuột”. 4. Phải chăng chỉ cần duy nhất tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta? Có thể nói rằng, cả về lý luận và cơ sở thực tiễn đều chỉ ra rằng, đó là tư tưởng sai lầm từ phương pháp tiếp cận vấn đề đến cái nhìn sai lệch, thiếu toàn diện đối với lịch sử và thực tiễn. Thứ nhất, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”2. Vai trò, giá trị và ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam trước đây, cũng như đối với công cuộc _______________ 1. Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng?, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2012, tr.40. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.88. 63 xây dựng, phát triển đất nước trong thời gian tới là vô cùng to lớn. Vai trò, giá trị và ý nghĩa ấy bắt nguồn từ chỗ, Hồ Chí Minh đã “vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta”, đồng thời “kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”. Sau nhiều năm bôn ba nhiều nơi trên khắp thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Đó là con đường cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để đưa cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi, Người đã truyền bá những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, vận dụng lý luận về xây dựng đảng kiểu mới của V.I. Lênin để sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - lực lượng lãnh đạo cách mạng. Người đã vận dụng lý luận về cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tế Việt Nam, một nước thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu, để tập hợp lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc thành sức mạnh vô địch đánh đổ thực dân xâm lược, phong kiến áp bức, đánh đuổi những đế quốc to, những kẻ xâm phạm bờ cõi non sông, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ hòa bình cho công cuộc xây dựng đất nước và cuộc sống an toàn, hạnh phúc cho nhân dân. Người yêu cầu phải xây dựng chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho đất nước ngày càng giàu mạnh, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp sáng tạo giữa nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn sinh động, lịch sử cụ thể của Việt Nam, là một bộ phận phát triển mới trong một giai đoạn mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, không thể tách rời những cơ sở lý luận 64 của chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì thế, không thể chỉ lấy tư tưởng Hồ Chí Minh mà gạt bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Thứ hai, một số người cho rằng, những biểu hiện bảo thủ, trì trệ trong nhận thức, những sai lầm, hạn chế, khó khăn và ách tắc trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin, và do đó không nên coi chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Có thể nói ngay rằng, đó là sự tư biện hết sức vô lý và mâu thuẫn. Trước hết, xây dựng chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nói cách khác, toàn bộ nền tảng khoa học và cơ sở thực tiễn, cũng như lôgic của học thuyết Mác - Lênin đều hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, giải phóng con người không phân biệt giai cấp, “kể cả các nhà tư bản, khỏi khuôn khổ chật hẹp của những quan hệ hiện có” - cách nói của Ph. Ăngghen, mang lại tự do, hạnh phúc và một xã hội tốt đẹp cho nhân loại. Điều đó được nhận thức như sự vận động của xã hội theo quy luật tất yếu mà con người chỉ có thể tác động, thúc đẩy cho nhanh lên hay chậm đi, mà không thể thay đổi được xu hướng vận động. Vậy mà thừa nhận con đường xã hội chủ nghĩa của cách mạng nước ta nhưng không thừa nhận vai trò nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin khác nào ở trên tầng cao của tòa nhà mà không thừa nhận nền móng của tòa nhà, mong muốn thu hoạch trái cây mà không quan tâm đến gốc rễ của cây. Mặt khác, nếu có những biểu hiện bảo thủ, trì trệ trong nhận thức, những sai lầm, hạn chế, khó khăn và ách tắc 65 trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa thì đó đâu phải là lỗi của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà chính là lỗi của chúng ta không nhận thức đầy đủ những vấn đề lý luận, bảo thủ với những tín điều và kinh nghiệm cũ, thiếu sáng tạo trong giải pháp, chính sách giải quyết các nhiệm vụ của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Tại Đại hội XII, Đảng đã nghiêm khắc thừa nhận những hạn chế trong đánh giá, dự báo tình hình, trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, trong công tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy, chính quyền, v.v.. Đó chính là nguyên nhân chủ quan “trực tiếp và quyết định” đối với những khuyết điểm, hạn chế trên thực tế như: năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm... Song cũng cần phải nói rằng, việc có những sai lầm, khuyết điểm, khó khăn, hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước âu cũng là khó tránh khỏi. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi thời gian, nguồn lực to lớn và nhiều điều kiện khác. Chúng ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài suốt 30 năm. Cái khó khăn lớn nhất của chúng ta có lẽ trước hết không phải từ sự thiếu thốn về của cải, vật chất mà đa phần chính ở lối nghĩ, tác phong mang nặng tính chất của nền văn hóa nông nghiệp. Chúng ta không có kinh nghiệm tiền lệ, không có sự hỗ trợ của các 66 nước xã hội chủ nghĩa như trước đây; bị nhiều thế lực đang nhòm ngó, chống phá. Để có được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những bước đi dũng cảm về nhận thức, sự đổi mới mạnh mẽ về chính sách kinh tế - xã hội. Đó là bước chuyển quyết liệt từ một nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ một nhà nước theo mô hình chuyên chính vô sản sang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; từ một đất nước gần như khép kín sang một đất nước mở cửa hội nhập quốc tế toàn diện, ngày càng sâu sắc về kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, v.v.. Từ thực tế ấy cho thấy, Đảng ta đã kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, thức thời và đổi mới mạnh mẽ để đưa đất nước không ngừng tiến lên theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, không thể đổ lỗi cho học thuyết Mác - Lênin về những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Tóm lại, sự sai lầm của những người cho rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời” xuất phát từ sự hiểu sai về tính chất của học thuyết - chủ nghĩa Mác - Lênin; sự nhìn nhận, đánh giá thiên lệch, không đúng về thực tiễn công cuộc xây dựng, phát triển của đất nước ta; sự thiếu tỉnh táo và hời hợt trong xem xét, đánh giá về bản chất của chủ nghĩa tư bản; hoặc là bị ảnh hưởng của những luận điệu tuyên truyền chống phá thù địch thâm độc. Điều ấy nhắc nhở chúng ta rằng, những người cộng sản cần phải cảnh giác với nhận thức của mình về chủ nghĩa Mác - Lênin, để tìm hiểu rõ hơn, quán triệt sâu sắc, thường xuyên hơn những nguyên lý khoa học, quan điểm 67 thực tiễn, quan điểm lịch sử - cụ thể, tránh bệnh chủ quan, giáo điều khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng, phát triển đất nước; đồng thời phải luôn cảnh giác với những quan điểm sai lầm, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, xa rời lý tưởng cách mạng cao cả mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn, xa rời những thành tựu cách mạng to lớn mà bao đảng viên, cán bộ và đồng bào ta đã ngã xuống, đã cống hiến sức lực và trí tuệ để giành được, vun đắp và giữ gìn cho đất nước, cho dân tộc. 68 PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM CHO RẰNG KHÔNG CÓ THỜI ĐẠI QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI; VÌ VẬY TỪ ĐẠI HỘI XIII TRỞ ĐI KHÔNG NÊN NÓI ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NỮA Nhận thức rõ đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại cũng như cục diện và tình hình thế giới là một công việc rất cần thiết. Mỗi quốc gia, dân tộc cần biết mình đang sống trong thời đại gì và bối cảnh thế giới nào, với những tính chất, đặc điểm, nội dung và xu thế phát triển ra sao. Hiểu biết sâu sắc về thời đại giúp ta tìm thấy xu hướng tất yếu trong vô vàn những hiện tượng phức tạp, mang tính ngẫu nhiên của đời sống xã hội, giúp ta nhìn xa trông rộng, nắm bắt khuynh hướng và quy luật phát triển của nhân loại để vừa có thể lựa chọn được hướng đi phù hợp với sự phát triển của lịch sử; lường trước được những thách đố phức tạp, tránh được những vấp váp sai lệch trên đường đi; từ đó sẽ không bị chao đảo hoặc bị cuốn trôi trước phong ba bão táp của đời sống chính trị quốc tế. V.I. Lênin đã từng chỉ rõ: Khi phân tích bất cứ vấn đề xã hội nào phải đặt trong bối cảnh lịch sử nhất định, vì chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, người ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước khác. Nói cách khác, vấn đề thời đại là căn cứ khách quan và tiền đề cần thiết để các chính đảng đi theo chủ nghĩa Mác phân tích tình hình, 69 xác định nhiệm vụ, phân chia trận tuyến, xây dựng chiến lược, hoạch định chính sách, triển khai thực hiện một cách khoa học. Chính vì lẽ đó, khi bàn về những vấn đề lớn của cách mạng, trước đây cũng như bây giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta bao giờ cũng bắt đầu bằng việc phân tích đặc điểm, nội dung, xu thế phát triển của thời đại và nhận định các mặt của tình hình thế giới để xác định đúng con đường đi của cách mạng Việt Nam và đề ra đường lối đối nội, đối ngoại đúng đắn, sáng tạo. Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn là như vậy, nhưng hiện nay, trước Đại hội XIII của Đảng, một số quan điểm sai trái cho rằng: Thật không tưởng khi nói thời đại ngày nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy từ Đại hội XIII trở đi, không nên nói đến chủ nghĩa xã hội nữa. Cụ thể hơn, họ cho rằng làm gì có thời đại quá độ; nội hàm, đặc điểm, xu thế của thời đại là sự mơ hồ; hai nội dung cốt yếu của thời đại đã bị lịch sử phủ định. Bởi thế, khi không còn Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa nữa thì nước ta làm sao có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được. Để có những cơ sở vững chắc cho việc nhận thức về thời đại ngày nay và phản bác những quan điểm sai trái đó, có thể dựa trên những luận cứ xác thực sau: 1. Luận cứ về nhận thức thời đại 1.1. Khái niệm về thời đại Trong sách báo, trên các phương tiện thông tin đại chúng, hai chữ “thời đại” được dùng khá phổ biến. Với ý nghĩa thông thường, nó thường được đồng nhất với các khái niệm “giai đoạn”, 70 “thời kỳ”... Trong các lĩnh vực khoa học khác nhau, “thời đại” cũng được dùng để chỉ các giai đoạn, thời kỳ khác nhau trong lĩnh vực đó. Trong các tác phẩm về lịch sử và kinh tế, thường thấy các khái niệm như “thời đại đồ đá”, “thời đại đồ đồng”, “thời đại đồ sắt”, “thời đại hơi nước”, “thời đại kinh tế hái lượm và săn bắt”, “thời đại kinh tế nông nghiệp”, “thời đại kinh tế công nghiệp”, “thời đại kinh tế tri thức”... Khái niệm thời đại còn được sử dụng trong các cụm từ như: thời đại phong kiến, thời đại giai cấp tư sản, thời đại chủ nghĩa đế quốc, thời đại cách mạng vô sản... Trong quân sự, thời đại lại được sử dụng để mô tả các thời kỳ quân sự khác nhau, như: thời đại binh khí lạnh, thời đại binh khí nóng, thời đại hạt nhân, v.v.. Thực ra, “thời đại” là một khái niệm rất linh hoạt. Cách diễn đạt tương ứng trong tiếng Anh là “Epoch”, vừa chỉ một khoảng thời gian có đặc trưng nhất định, vừa chỉ thời điểm có một vài đặc điểm nổi bật. Từ điển tiếng Anh đương đại (Longman xuất bản năm 1987), xác định: “Thời đại là một thời kỳ lâu dài của trái đất hay lịch sử xã hội loài người”. Trong tiếng Hán, định nghĩa “thời đại” lại nghiêng về nhấn mạnh tính tiếp tục của thời gian. Ví dụ: Từ điển Hán ngữ hiện đại (bản bổ sung năm 2002) quy nạp hàm ý của thời đại thành hai loại: (1) chỉ một thời kỳ trong lịch sử được phân chia dựa theo tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa...; (2) chỉ một thời kỳ trong cuộc đời một con người. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thời đại là “thời kỳ lịch sử tương đối dài với xu thế và nội dung phát triển riêng biệt xét về mặt kinh tế - xã hội hoặc về mặt văn hóa, coi như là một chặng đường không lặp lại trên quá trình tiến bộ xã hội”. Thời đại lịch sử có thể là toàn bộ thời kỳ phát triển 71 của một hình thái kinh tế - xã hội hoặc những giai đoạn chủ yếu trong hình thái ấy. Từ điển tiếng Việt xác định: thời đại là “khoảng thời gian lịch sử dài được phân chia ra theo những sự kiện có đặc trưng giống nhau”. Theo định nghĩa này, khái niệm thời đại có tiêu chí “thời gian lịch sử dài” và “những sự kiện có đặc trưng giống nhau”. Nhưng định nghĩa đó cũng chưa thật rõ ràng vì bao nhiêu thời gian thì được coi là dài và sự kiện có đặc trưng giống nhau có phải là những công cụ đặc trưng về phát triển lực lượng sản xuất ứng với mỗi thời đại không? Ngoài ra, thuật ngữ “thời đại” còn dùng để nói lên một đặc trưng nổi bật của sự phát triển trong một thời gian nhất định của lịch sử, tất nhiên là không ngắn hạn: thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại cách mạng vô sản, thời đại khoa học kỹ thuật, thời đại toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế,... Từ những cách thể hiện như trên, có thể hiểu thời đại theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, thời đại là khái niệm về thời gian để chỉ sự phân kỳ lịch sử xã hội và để phân biệt những nấc thang phát triển xã hội mà theo đó nấc thang cao hơn, tiến bộ hơn phủ định nấc thang cũ, lạc hậu để mở đường cho sự phát triển một thời đại mới. Còn thời đại theo nghĩa hẹp là khái niệm về thời gian để chỉ xu thế và nội dung phát triển riêng biệt xét trên phương diện kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, công nghệ... 1.2. Quan điểm của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế về thời đại Tuyên bố tại các Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa tại Mátxcơva năm 1957 72 và năm 1960 đã đưa ra quan niệm về thời đại ngày nay, thể hiện bước phát triển mới trong quá trình nhận thức về nội dung, tính chất của thời đại. Nội dung cơ bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga (Tuyên bố tại Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa, tháng 11/1957). Thời đại chúng ta mà nội dung chủ yếu là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, là thời đại đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội đối lập, là thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc, là thời đại chủ nghĩa đế quốc bị sụp đổ và hệ thống thuộc địa bị thủ tiêu, là thời đại ngày càng có thêm nhiều dân tộc tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa, là thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới,... Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới trở thành nhân tố quyết định sự phát triển xã hội loài người (Nhận định tại Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân thế giới, tháng 01/1960). Thực tế cho thấy, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi và Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời năm 1917 đã đánh dấu chấm hết thời đại độc tôn của chủ nghĩa tư bản, mở ra thời đại mới, thời đại của sự quá độ lớn lao nhất trong lịch sử loài người, tiến tới một xã hội hiện thực không còn người bóc lột người, không còn nô dịch giữa người và người. Chế độ xã hội chủ nghĩa non trẻ đã vượt qua hàng loạt thử thách khắc nghiệt nhất của lịch sử, hiện diện cả ở châu Âu, 73 châu Á, châu Mỹ, phát triển mạnh mẽ với nhiều ưu việt kinh tế - xã hội. 1.3. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời đại Đảng ta luôn xác định nhận thức rõ bản chất, nội dung của thời đại cũng như cục diện và tình hình thế giới là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trong khi khẳng định thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận rõ tình hình phức tạp, quanh co và rất lâu dài của quá trình chuyển biến xã hội nên đã hướng vào đánh giá trực tiếp những động thái, đặc trưng, xu hướng và tính chất trong giai đoạn hiện nay của thời đại. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng năm 1991 đã nêu rõ: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”1. Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) lại nêu rõ: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2007, t.51, tr.133. 74 cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”1. 2. Luận cứ về đặc điểm giai đoạn hiện nay của thời đại Xem xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn lịch sử xã hội loài người đều cho thấy, mỗi bước chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội này đến hình thái cao hơn đều diễn biến trong thời gian rất dài, có khi vài trăm năm hoặc vài nghìn năm. Vậy nên việc Đảng ta phân định giai đoạn hiện nay của thời đại “quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới” là tư duy sáng tạo, có tính khoa học xác thực và cần thiết. Vậy nên việc nghiên cứu đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại cũng được thực hiện trong khung khổ giai đoạn hiện nay của thời đại. 2.1. Các mâu thuẫn cơ bản trong giai đoạn hiện nay của thời đại Sự vận động không ngừng của thế giới đương đại và giai đoạn hiện nay của thời đại với những diễn biến phức tạp và hàm chứa nhiều mâu thuẫn. Những mâu thuẫn cơ bản nổi bật hiện nay là: _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.69. 75 Thứ nhất, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản diễn ra gay gắt. Đây là cách diễn đạt mới vì trước đây thường nói mâu thuẫn giữa “phe xã hội chủ nghĩa và phe đế quốc chủ nghĩa”. Sở dĩ có cách diễn đạt mới này không chỉ vì không còn hai phe như trước, mà còn vì cách đề cập trước đây chỉ bó hẹp trong phạm vi mâu thuẫn giữa hai phe, chưa bao quát được cuộc chiến tranh giữa hai chiều hướng phát triển ngay trong lòng mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, bởi sự vận động của mâu thuẫn này sẽ tác động nhiều mặt đến các mâu thuẫn khác. Thứ hai, mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng xã hội với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Chính từ mâu thuẫn này đã dẫn tới mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, và giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản tiếp tục phát triển. Hai mâu thuẫn này phản ánh chân thực, mô tả khách quan bức tranh toàn cảnh ở các nước tư bản phát triển khi nhiều tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh vì dân sinh, dân chủ; các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn luôn giành giật nhau gay gắt, nhiều khi gây ra các xung đột, chiến tranh kinh tế, thương mại khốc liệt. Thứ ba, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển. Các nước tư bản phát triển thống nhất với nhau về bản chất chế độ và lợi ích giai cấp nhưng giữa các nước đó cũng có những mâu thuẫn khó khoan nhượng về lợi ích quốc gia, lợi ích của mỗi tập đoàn tư bản. Các nước tư bản phát triển đang bị cuốn vào cuộc cạnh tranh sống còn nhằm chiếm đoạt tài nguyên, 76 năng lượng, nhân lực chất lượng cao và chiếm lĩnh các thị trường béo bở trên khắp các châu lục, khai thác mọi tiềm năng của các nước khác để tích lũy và xuất khẩu tư bản, gia tăng lợi nhuận tối đa trên quy mô toàn cầu. Thứ tư, mâu thuẫn giữa các thế lực cường quyền, hiếu chiến muốn thống trị thế giới với nhân dân thế giới đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, công bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thế giới đang diễn ra quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, xâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau vô cùng phức tạp để thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh đó, các thế lực hiếu chiến, cường quyền luôn thực hiện các chính sách áp đặt, gây ra các xung đột cục bộ, xung đột khu vực, xung đột biên giới, biển, đảo. Mâu thuẫn giữa các nước lớn cũng thường được giải quyết thông qua các cuộc chiến tranh “mượn tay người” ở các điểm nóng; các cuộc chiến giành giật tài nguyên, chiến tranh thương mại. Tình hình đó làm cho nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới hết sức lo lắng và đề cao cảnh giác. Thứ năm, mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của loài người ngày càng tăng với tình trạng tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt. Sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế - xã hội luôn có mối quan hệ khăng khít với môi trường và điều kiện thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường là cơ sở và nhân tố quan trọng cho sự phát triển. Nếu biết sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và các yếu tố địa lợi, kinh tế - xã hội sẽ tăng trưởng mạnh mẽ và phát triển bền vững. Vậy nhưng hiện nay, vấn đề sử dụng quá mức và thiếu trách nhiệm đã gây ra vấn nạn cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. 77 2.2. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh Thế giới hiện nay là thế giới toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; là cả một không gian mở, đan xen lợi ích, tùy thuộc lẫn nhau. Một khi khủng hoảng kinh tế ở một khu vực hoặc một nước lớn sẽ kéo theo khủng hoảng toàn cầu; một khi giá dầu mỏ lên xuống thất thường và đột biến đủ làm cho kinh tế thế giới bị ảnh hưởng. Các vấn đề toàn cầu, nhất là một số vấn đề an ninh phi truyền thống buộc cả cộng đồng quốc tế phải chung tay giải quyết. Sự biến đổi khí hậu khác thường, thiên tai nghiệt ngã đang diễn ra rất đáng lo ngại. Sự phát triển không thể ngăn cản của các loại vũ khí giết người khủng khiếp cũng là yếu tố làm cho bất kỳ giới cầm quyền nào, cho dù là nước xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, cũng phải tính toán kỹ vấn đề chiến tranh hay hòa bình. Như vậy, cùng với việc đổi mới nhận thức của toàn nhân loại, đặc biệt là của giới lãnh đạo các nước về trách nhiệm chung đối với sự phát triển thế giới, những nhân tố khách quan nêu trên vừa thúc đẩy, đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho việc cùng tồn tại và hợp tác cùng phát triển đối với tất cả các nước. Trong khi nhận rõ sự hợp tác giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản hiện nay là khá toàn diện, thì không thể quên rằng giữa hai chiều hướng phát triển này vẫn chứa đựng những mâu thuẫn vốn có. Các thế lực hiếu chiến và thù địch chưa bao giờ từ bỏ dã tâm muốn xóa sổ chủ nghĩa xã hội. “Diễn biến hòa bình” là một trong những chiến lược tổng thể của chủ nghĩa đế quốc nhằm thực hiện mục tiêu đó. Đây là cuộc chiến tranh không khói súng nhưng thực sự là kế sách nham hiểm phá vỡ thành lũy của chủ nghĩa xã hội 78