🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Số Lễ Hội Truyền Thống Tiêu Biểu Của Việt Nam
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
PGS. TS. PHẠM VĂN LINH
Phó Chủ tịch Hội đồng
PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI
TS. NGUYỄN AN TIÊM
NGUYỄN VŨ THANH HẢO
NHÓM BIÊN SOẠN
TS. Hoàng Mạnh Thắng ThS. Cù Thị Thúy Lan ThS. Nguyễn Thị Hải Bình Nguyễn Giao Linh
ThS. Nguyễn Thị Thúy
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu “uống nước nhớ nguồn”, tôn vinh, tưởng nhớ những người có công lớn đối với cộng đồng, dân tộc. Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia, dân tộc; thể hiện mục tiêu chung là đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Với mục đích cung cấp cho bạn đọc thêm tài liệu tham khảo về các lễ hội truyền thống Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Một số lễ hội truyền thống tiêu biểu của Việt Nam. Trên cơ sở các nguồn tư liệu chính thống như: trang thông tin điện tử của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, của các tỉnh, thành phố; địa chí của các địa phương,… Nhóm biên soạn đã tổng hợp, sàng lọc tư liệu và tập trung giới thiệu hơn 100 lễ hội tiêu biểu, có tính điển hình, đặc trưng của các địa phương, vùng, miền trong cả nước. Các lễ hội trong cuốn sách được sắp xếp theo vùng miền, địa phương theo thứ tự bảng chữ cái, cung cấp một số thông tin cơ bản như: thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội; nhân vật thờ; đặc điểm di tích; đặc
5
trưng của lễ hội,… Với lối hành văn phổ thông, dễ hiểu, cuốn sách sẽ là cẩm nang tra cứu đắc dụng đối với những bạn đọc quan tâm đến vấn đề này.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết nhất định, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành từ bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện trong lần xuất bản sau.
Trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 10 năm 2016
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6
CÁC LỄ HỘI Ở MIỀN BẮC
1. Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang)
Chùa Vĩnh Nghiêm tọa lạc tại nơi hợp lưu của sông Lục Nam và sông Thương, được ví là một danh lam cổ tự đứng đầu trong thiên hạ. Tương truyền Chùa được xây dựng từ thời Lý và mở rộng vào khoảng thế kỷ XIII, thời nhà Trần. Lịch sử phát triển của Chùa gắn liền với sự hình thành và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập. Chùa thờ ba vị Trúc Lâm tam tổ từng trụ trì và mở trường thuyết pháp tại đây là: Giác Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông; Thiền sư
Pháp Loa; Thiền sư Huyền Quang. Vì thế Chùa được coi là chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm, trường đại học phật giáo đầu tiên ở Việt Nam và là trung tâm Phật giáo thời Trần.
Chùa hiện có bảy khối kiến trúc chính: Cổng tam quan; Tòa tiền đường; Thiêu hương, Thượng điện; Nhà tổ đệ nhất; Gác chuông; Nhà tổ đệ nhị; Hai dãy hành lang đông tây; Khu vườn tháp. Năm 1964 chùa được xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia. Hiện chùa còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như: Hệ thống tượng phật, các bia đá,
7
hoành phi, câu đối, đồ thờ… Đặc biệt kho Mộc bản với 3.050 bản ván khắc đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2012.
Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm, còn được gọi là Hội chùa La được tổ chức vào ngày 14 tháng Hai âm lịch hằng năm, tại thôn Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang nhằm tưởng nhớ các vị sư tổ, có ảnh hưởng to lớn của Phật giáo trong đời sống xã hội, thu hút đông đảo người dân địa phương và khách du lịch trong và ngoài nước tới dự. Vì đây là hội chùa nên yếu tố hội ít, tính chất lễ giỗ nhiều hơn.
Trong phần Lễ, phần long trọng nhất là đám rước của ba làng La Thượng, La Trung và La Hạ thuộc xã Trí Yên. Đi đầu mỗi đám rước là các loại cờ quạt, chấp kích, gươm trường, bát biểu, tiếp theo là kiệu, trên mỗi kiệu là các loại đồ thờ cúng như: hương hoa, bánh kẹo, lễ vật, hoa quả… Đối tượng tham gia rước kiệu là những thanh niên chưa có gia đình, có tư chất đạo đức tốt,… Đi sau đoàn rước kiệu là các cụ ông, cụ bà trong những bộ trang phục áo dài, khăn xếp và các đoàn thể, nhân dân… Ba đoàn rước của ba làng xuất phát từ làng mình tiến về khu vực Chùa, đến cửa Chùa thì đoàn rước của làng La Thượng, với tư cách là anh cả, sẽ rước kiệu vào khu vực tiền đường… Đồ trên kiệu cũng được hạ xuống và bày lên ban thờ ở Tam Bảo và làm lễ cúng Phật. Sau khi đoàn rước của làng La Thượng đã vào trong Tam Bảo và dâng hương xong, đoàn rước của làng La Trung mới được phép tiếp tục hành rước vào Nhà
8
tổ đệ Nhất. Sau khi lễ cúng Tổ của làng La Trung kết thúc mới đến lễ cúng Tổ của đoàn rước làng La Hạ. Đoàn rước của La Hạ được sẽ tiến lễ vào Nhà tổ đệ Nhị. Nghi lễ dâng hương và đồ thờ cúng hạ từ kiệu rước xuống của hai làng La Trung và La Hạ
được thực hiện tương tự như với làng La Thượng. Bên cạnh phần Lễ là phần Hội với nhiều trò chơi dân gian, các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể thao thu hút đông đảo du khách thập phương về dự lễ hội tham gia như: đánh đu, cướp cờ, đấu vật, múa dưỡng sinh, đấu vật cổ truyền,...
Văn hóa ẩm thực là một trong những nét văn hóa độc đáo không thể thiếu trong ngày Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm. Các món ăn được lựa chọn bày biện để cúng tổ bao gồm: giò lụa, chả hấp, chả chìa, thịt gà, chuối nấu ốc,… Tất cả đều được chế biến từ
những nguyên liệu như: đỗ tương, đỗ xanh, lạc, bột mì, bột nếp, bột canh, mì chính,… Từ những nguyên liệu, vật phẩm thông thường như vậy, nhưng dưới bàn tay khéo léo của những người phụ nữ đảm đang, các món ăn với tên gọi độc đáo, mang đậm hương vị
quê hương như: chả chìa, chả sợi, chả hấp, thịt gà, giò lụa,… được chế biến và bày biện rất bắt mắt. Trong những ngày hội, các vị sư trụ trì trong chùa còn lập đàn giảng quy để con hương, đệ tử và khách thập phương về dự hội hiểu thêm về đạo Phật. Với những giá trị lịch sử văn hoá to lớn, chùa Vĩnh Nghiêm luôn là chốn tổ để khách thập phương tìm về đây để gửi gắm tâm linh, cầu mong những điều may mắn, tốt đẹp.
9
Nhằm ghi nhận và tôn vinh giá trị tinh thần cao đẹp đó, Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 3084/QĐ-BVHTTDL ngày 9-9-2013.
2. Lễ hội cướp cầu vùng Yên Thế (Bắc Giang)
Hằng năm, cứ vào tháng Giêng âm lịch, các làng Ngọc Cục (Việt Ngọc), Kép Thượng (Lam Cốt), Phúc Lễ (Phúc Hòa), Làng Lý (Ngọc Lý),... thuộc miền hạ Yên Thế, nay là huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang lại mở hội cướp cầu mừng xuân.
Hình thức tổ chức tùy theo làng lớn, làng nhỏ mà cách làm khác nhau. Làng nhỏ chia làm hai giáp, làng vừa thì bốn giáp, theo lượng người mà phân chia. Những trai đinh dự thi thường là người cường tráng, nhanh nhẹn. Hình thức trang phục tùy thuộc sự quy định của từng làng. Có làng người dự thi cởi trần, đóng khố lụa đủ màu sắc xanh đỏ sặc sỡ, tay cầm một chiếc móc có cán dài. Có làng lại để cho trai đinh mặc quần áo, chít khăn màu trên đầu, ngang lưng thắt bao lụa các màu rực rỡ, tay không dùng để cướp cầu.
Ðịa điểm làm nơi cướp cầu có khi là sân đình là bãi rộng cửa đình, hay bãi rộng bên đình. Vào giờ lễ hội cướp cầu, trai đinh các giáp vạm vỡ trong trang phục nhiều màu sắc rực rỡ, khỏe khoắn, đứng tề chỉnh, trang nghiêm trước sân đình với khí thế hừng hực, quyết thắng.
Quả cầu được sơn son thiếp vàng, màu sắc rực rỡ, hấp dẫn. Khi hiệu lệnh bắt đầu, trai các giáp xô
10
nhau ngăn chặn, luồn lách để tranh cướp lấy được quả cầu đỏ, ôm vào lòng. Quá trình tranh giành, đua chen này khá quyết liệt, đòi hỏi không chỉ có lực, mà còn phải có trí, có mưu, dũng mãnh mới mong giành phần thắng. Trong khi đó, chiêng trống của làng giục giã liên hồi, rộn ràng, sôi nổi, dân làng của các giáp đứng quanh đông đảo vòng trong, vòng ngoài.
Cuối cùng, trai đinh giáp nào cướp được cầu đều ôm chặt lấy, chạy đặt được vào trong cung đình là thắng cuộc. Quả cầu được đặt đúng vị trí tôn nghiêm. Cả giáp, cả làng, cả hội đều vui sướng. Tiếng chiêng, trống rền vang dồn dập, liên hồi, mọi người đều reo hò, hân hoan, sung sướng. Giáp thắng cuộc được làng thưởng và mừng vì năm ấy cả làng, cả giáp gặp may, bình an, làm ăn phát đạt, giàu sang, thịnh vượng.
3. Lễ hội Lồng tồng Ba Bể (Bắc Kạn)
Lễ hội Lồng tồng (còn gọi là Lễ xuống đồng) là lễ hội quan trọng bậc nhất vào dịp đầu năm mới đối với người dân vùng Tây Bắc, gắn liền với nền nông nghiệp trồng trọt, mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, đời sống no ấm. Lễ hội Lồng tồng Ba Bể được tổ chức vào ngày 10 tháng Giêng âm lịch hằng năm tại ven hồ Ba Bể, phía dưới chân núi Bó Lù, thuộc xã Nam Mẫu huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Cạn.
Lễ hội Lồng tồng Ba Bể gồm hai phần: Lễ và Hội. Phần Lễ có nhiều nghi thức và thành phần sinh động. Buổi sáng ngày diễn ra lễ hội, mỗi gia đình
11
trong vùng đều chuẩn bị và đội mâm cúng ra thửa ruộng lớn nhất trên cánh đồng của bản để làm lễ. Các mâm cúng được xếp lần lượt theo hàng, mâm trên cùng là mâm cúng của thầy mo già được kính trọng nhất trong vùng và cũng là người chủ trì lễ
hội. Mâm cúng thường có gà trống luộc, thịt lợn nạc, cặp bánh chưng (mon hua) gói bằng lá dong; trứng gà luộc nhuộm phẩm với bốn màu đỏ - tím - vàng - xanh; xôi màu đỏ tượng trưng cho mặt trời, xôi màu vàng tượng trưng cho mặt trăng, trên mỗi đĩa xôi có đặt một con chim én - biểu tượng của mùa xuân làm bằng giấy đỏ, mang ý nghĩa gửi gắm mong ước về sự
no ấm, sinh sôi nảy nở, cuộc sống an lành. Khi tiến hành làm lễ, mọi người đứng vòng tròn quanh các mâm cúng. Thầy mo là người thực hiện các nghi thức cầu cúng, lễ tạ thiên địa, cầu thần Nông, thần Phục Hy, Sơn thần, Thủy thần và Thành hoàng độ
trì cho mưa thuận gió hòa, gia cầm sinh sôi, bản làng bình yên, no ấm. Những thiếu nữ đẹp nhất trong vùng sẽ được chọn lựa để dâng nước cúng đựng trong các vỏ quả bầu. Ðây được coi là nước thiêng, phải lấy từ đầu nguồn. Sau khi hành lễ
xong, thầy mo dùng nước thiêng đó tưới khắp bốn phương xung quanh, mọi người cùng nhau hứng nước để hưởng phúc...
Phần Hội được mở đầu bằng hội tung còn. Những quả còn được khâu bằng vải, bên trong là thóc, hạt bông được nén chặt, ngoài có tua ngũ sắc, được các nam thanh, nữ tú ném qua vòng tròn buộc trên ngọn cây nêu. Trò chơi dân gian này tượng
12
trưng cho sự giao hòa âm dương - ngọn nguồn của vũ trụ và vạn vật. Khi quả còn xuyên thủng hồng tâm của vòng tròn nghĩa là âm dương đã giao hòa, cuộc sống sẽ sinh sôi, mùa màng sẽ bội thu. Bởi vậy, ở bất cứ Lễ hội Lồng tồng nào, việc ném còn trúng hồng tâm cũng là một nghi thức bắt buộc, bởi đồng bào dân tộc vùng này quan niệm rằng, nếu âm dương không giao hòa, năm ấy làng bản sẽ
không may mắn, mùa màng sẽ thất bát. Trò chơi tung còn còn mang ý nghĩa se duyên đôi lứa cho những nam thanh, nữ tú tham gia khi họ bắt được quả còn của nhau.
Ngoài trò chơi tung còn, Lễ hội còn có nhiều trò chơi khác như: đánh yến, đánh quay, kéo co, bịt mắt bắt dê,... Ðêm ngày diễn ra Lễ hội Lồng tồng, trai gái các bản làng sẽ cùng nhau hát sli, hát lượn thâu đêm với lượn mời, lượn nghênh đón, lượn xe kết, lượn mừng và lượn tạm biệt,...
Nét độc đáo của Lễ hội Lồng tồng Ba Bể là bà con tham dự Lễ hội không chỉ để chơi, mà còn để mua bán, trao đổi nông sản do mình làm ra, khiến Lễ hội còn có màu sắc của hội chợ nông sản.
4. Hội Lim (Bắc Ninh)
Hội Lim là một lễ hội lớn đầu xuân của vùng Kinh Bắc, được tổ chức từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hằng năm, trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Có giả thuyết cho rằng, hội Lim có nguồn gốc từ hội chùa, hội hát, liên quan đến tiếng hát của chàng Trương Chi trong truyền thuyết
13
Trương Chi - Mỵ Nương mà dấu xưa để lại là hình vết dòng sông Tiêu Tương khá rõ ở các làng quê vùng Lim. Giả thuyết này căn cứ vào truyền thuyết Trương Chi - Mỵ Nương và tính chất, đặc điểm của hội Lim là lễ hội sinh hoạt văn hóa và ca hát Quan họ.
Hội Lim vốn có lịch sử rất lâu đời, và phát triển tới quy mô hội hàng tổng (tổng Nội Duệ). Hội Lim trở thành hội hàng tổng (hội vùng) từ thế kỷ XVIII. Hội Lim được duy trì trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, cứu nước, hội Lim không được mở trong nhiều thập kỷ cho đến tận những năm sau đổi mới. Ngày nay, hội được mở vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch hằng năm.
Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm, có chùa Lim - nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu - người sáng lập tục hát quan họ và diễn ra tại 3 địa phương bao quanh là: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim. Hội Lim thường được kéo dài trong khoảng từ
3 đến 4 ngày được (từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hằng năm), trong đó ngày 13 là chính hội với nhiều hoạt động gồm cả phần Lễ và phần Hội.
Phần Lễ: Hội Lim được mở đầu bằng lễ rước. Đoàn rước gồm nhiều lực lượng, thành phần trong những bộ lễ phục ngày xưa, sặc sỡ sắc màu cùng đông đảo người dân tham gia. Trong ngày lễ chính (ngày 13 tháng Giêng), các nghi thức rước, tế lễ
Thành Hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy, dâng hương cúng Phật,
14
cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân cũng được thực hiện trang nghiêm, long trọng. Toàn thể quan viên, hương lão của các làng xã thuộc tổng Nội Duệ tề tựu đầy đủ tại lăng Hồng Vân để tế lễ hậu thần. Tương truyền rằng: Trong khi tế có nghi thức hát quan họ
thờ thần. Để hát thờ, các bọn quan họ nam và nữ của tổng Nội Duệ đứng thành hàng trước cửa lăng hát vọng vào. Trong khi hát, họ chỉ được hát những
giọng lề lối để ca ngợi công lao của thần. Phần Hội thu hút đông đảo người xem tham gia với nhiều trò chơi dân gian như: đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm. Đặc sắc hơn cả là phần hát hội.
Cũng như nếp xưa để lại, cuốn hút và say mê hơn cả vẫn là các sinh hoạt văn hóa Quan họ - loại hình dân ca đã trở thành tài sản văn hóa chung của dân tộc. Hát Quan họ diễn ra từ ngày 12 tháng Giêng tại Lim (sân chùa Hồng Ân và các trại Quan họ), cửa đình, cửa chùa Lũng Giang, Lũng Sơn, Duệ Đông (thị
trấn Lim) Đình Cả, Lộ Bao, Duệ Khánh (Nội Duệ); Hoài Thượng, Hoài Trung, Hoài Thị (Liên Bão). Hội Quan họ diễn ra ở trong nhà, trên sân đình, trước cửa chùa hay bồng bềnh trên những thuyền thúng giữa ao, hồ - dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng hát Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Các liền anh khăn xếp áo the, liền chị áo mớ ba mớ bẩy, nón thúng quai thao đến hẹn lại lên, gặp gỡ, đón tiếp nhau thân tình, nồng hậu, tinh tế và lịch lãm theo lề lối của người Quan họ, bằng làn điệu dân ca đạt tới trình độ nghệ
15
thuật cao, là sự hội tụ tuyệt vời của thơ ca nhạc họa nhằm bày tỏ tình yêu trai gái miền Quan họ với đầy đủ trạng thái, cung bậc trong mối giao cảm giữa nam và nữ, giữa con người với vạn vật, thể hiện khát vọng vươn tới cuộc sống với sự thủy chung.
Hội Lim là lễ hội lớn của vùng Kinh Bắc, gần như hội đủ những hoạt động văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của các lễ hội trên vùng quê Bắc Ninh - mảnh đất được coi là vương quốc của lễ
hội dân gian Việt Nam.
5. Lễ hội chùa Bút Tháp (Bắc Ninh)
Lễ hội chùa Bút Tháp là một lễ hội truyền thống được tổ chức vào hai ngày 23, 24 tháng Ba âm lịch hằng năm tại chùa Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Với các hoạt động đậm nét văn hóa truyền thống, Lễ hội chùa Bút Tháp góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Lễ hội gồm hai phần: phần Lễ và phần Hội. Phần Lễ diễn ra chủ yếu trong khu nội tự với các nghi lễ truyền thống như: Lễ cúng Phật, Lễ dâng hương, Lễ cúng đàn trần tế cầu phúc, Lễ cúng Tổ,… với sự tham gia của đông đảo người dân và du khách thập phương.
Sau phần Lễ là đến phần Hội với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao như: cờ tướng, bóng bàn, thi thả chim bồ câu và biểu diễn nghệ thuật Chèo,… Các hoạt động này không chỉ thu hút nhân dân trong tỉnh, mà còn có sự tham gia, giao lưu của
16
nhiều đoàn văn nghệ, thể thao ở các tỉnh khác như: Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên,…
Chùa Bút Tháp tọa lạc ở phía tây của thôn Bút Tháp, thuộc xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa Bút Tháp có tên chữ là “Ninh Phúc Tự”, được xây dựng từ thế kỷ XVII, vào thời hậu Lê, dựa trên những nguyên tắc kiến trúc đặc trưng của Phật giáo. Trong chùa có nhiều công trình kiến trúc chạm khắc tinh xảo và hệ thống tượng Phật, cổ vật quý hiếm như: tháp Báo Nghiêm, tháp Báo Thiên, pho tượng Quán Thế Âm nghìn mắt nghìn tay, tòa Cửu phẩm Liên Hoa,…
Chùa Bút Tháp luôn là một điểm du lịch, một địa chỉ hành hương thu hút nhiều rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Việc tổ chức Lễ hội truyền thống chùa Bút Tháp vừa góp phần gìn giữ nét văn hóa tâm linh cổ truyền, vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân và du khách thập phương.
6. Lễ hội chùa Dâu (Bắc Ninh)
Chùa Dâu nằm trên địa bàn xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là ngôi chùa được đánh giá là xưa nhất Việt Nam. Đây là trung tâm Phật giáo cổ nhất Việt Nam, nơi giao lưu của hai luồng văn hóa Phật giáo, một từ Ấn Độ sang, một từ
phương Bắc xuống. Chùa được xây dựng từ thế kỷ II (khởi công năm 187 và hoàn thành năm 226) dưới thời Sĩ Nhiếp làm Thái Thú, thờ nữ thần Pháp Vân gắn liền với huyền tích Tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) của người Việt xưa. Lễ hội
17
Chùa mở vào mùng 8 tháng Tư âm lịch, đó là ngày sinh của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Đây là một lễ hội lớn, nổi tiếng đã đi vào câu ca dân gian:
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Tháng Tư ngày Tám thì về hội Dâu.
Hội chùa Dâu là lễ hội diễn ra với quy mô rộng lớn của ba xã thuộc vùng Dâu - Luy Lâu (huyện Thuận Thành) là Thanh Khương, Trí Quả, Hà Mãn với bốn ngôi chùa lớn thờ Tứ Pháp gồm: Pháp Vân (con cả - bà Dâu ở chùa Dâu, tại xã Thanh Khương), Pháp Vũ (con thứ hai - bà Đậu, ở chùa Đậu, làng Hành Đạo), Pháp Lôi (con thứ ba - bà Tương, ở chùa Phú Tương, xã Thanh Tương), Pháp Điện (con út - bà Dàn, ở chùa Phương Quan) và ngôi chùa Tổ (ở Mẫn Xã) thờ bà Man Nương (Phật Mẫu) - mẹ của Tứ Pháp.
Lễ hội chùa Dâu là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người dân vùng Dâu. Bởi nó không chỉ là nhu cầu tìm về Phật tổ và hòa mình trong hoạt động văn hóa cộng đồng dân gian sôi động và tiêu biểu mà còn với ý nghĩa quan trọng là cầu mong mọi điều tốt lành, cầu cho mưa thuận gió hòa - một ước vọng ngàn đời của cư dân nông nghiệp.
Do Sĩ Nhiếp là người có công truyền dạy chữ cho người dân trong vùng, nên hằng năm, đến mùng 8 tháng Tư, nhân dân địa phương tổ chức rước kiệu Sĩ Nhiếp và tượng công chúa Ngọc Tiên (con gái Sĩ Nhiếp) từ đền Lũng Khê về chùa Dâu để khai hội nhưng hai kiệu này không rước vào trong Chùa mà
18
chỉ đi một vòng trên sân bãi rồi lại rước trở về đền Lũng Khê.
Lễ rước trong hội chùa Dâu rất đặc biệt, mang nhiều nét đẹp văn hóa tiêu biểu, độc đáo. Sáng mùng 8 chính hội, nhân dân các làng tổ chức rước tượng Tứ Pháp từ các chùa làng về tụ hội tại chùa Dâu. Tục truyền, đám rước gồm ngựa thờ, cờ quạt, tàn lọng, kiệu bát cống,… từ các ngả kéo về. Khi tới chùa Dâu thì diễn trò “mẹ đuổi con”. Bốn kiệu Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, mỗi kiệu chạy ba vòng rồi trở về vị trí cũ. Còn kiệu bà Man Nương (kiệu mẹ) được rước vào trong chùa Dâu. Sau đó diễn ra trò “cướp nước”. Đó là cuộc thi chạy giữa bà Sấm (Pháp Lôi) với bà Mưa (Pháp Vũ). Khi có hiệu lệnh thì kiệu Pháp Lôi và Pháp Vũ đua nhau chạy ra Tam Quan. Kiệu rước nào đến trước thì sẽ lấy được nước. Người dân xem ai về đích trước để dự báo mùa màng. Nếu bà Mưa thắng thì năm ấy được mùa còn nếu bà Sấm thắng thì năm ấy ruộng đồng lắm sâu bọ, làm ăn trắc trở.
Ngoài trò cướp nước, dâng nước, đánh gậy trên bãi chùa Dâu, còn có múa sư tử, múa hóa trang rùa và hạc, múa trống, đấu vật, cờ người và đốt cây bông. Người hành hương và dự hội đêm ngày lui tới không lúc nào ngớt. Ý nghĩa của nghi lễ rước không chỉ là tình mẹ con, chị em - biểu hiện của đạo đức truyền thống, mà đám rước còn được hiểu là sự giao hòa của thời tiết.
Chùa Dâu là trung tâm Phật giáo cổ xưa, nhưng Lễ hội chùa Dâu lại mang đậm nét tín ngưỡng dân
19
gian với các nghi thức nông nghiệp, được cử hành vào ngày Lễ Phật Đản mùng 8 tháng Tư. Điều đó cho thấy, Lễ hội chùa Dâu có sự giao hòa giữa Phật giáo với tín ngưỡng nông nghiệp và tôn giáo bản địa, vừa giữ gìn được sự tôn nghiêm, thành kính với đức Phật, vừa bảo tồn và phát huy được nét đẹp của văn hóa dân gian truyền thống.
7. Lễ hội đền Đô (Bắc Ninh)
Lễ hội đền Đô được tổ chức trong các ngày 14, 15, 16 tháng Ba âm lịch hằng năm, tại làng Ðình Bảng, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đây là lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, âm vang tiếng gọi cội nguồn, nhằm kỷ niệm ngày Thái tổ Lý Công Uẩn đăng quang, khai mở cho một vương triều hưng thịnh, tạo dựng, phát triển quốc gia và nền văn hóa Đại Việt rực rỡ.
Lễ hội đền Đô kéo dài trong ba ngày nhưng chính hội là ngày 16 tháng Ba - ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi với phần Lễ uy nghiêm trong lễ trình thánh, rước kiệu long trọng. Ðám rước với hàng vạn người tham gia từ chùa Kim Ðài đến đền Ðô (khoảng 3km). Ði đầu đám rước gồm có một đoàn tướng võ, cởi trần, đóng khố, tay cầm trùy đồng và đoàn tùy tùng, quân sĩ lên tới hàng trăm người. Tiếp đến là 100 người khiêng kiệu mặc áo đỏ, mũ đen. Kiệu trên cùng là kiệu của Thánh Mẫu có 18 nữ tướng theo sau; tiếp đến là kiệu Bát Ðế, mỗi kiệu một con ngựa và 16 nam tướng mặc áo đỏ. Sau cùng đoàn rước là các vị mặc sắc phục lễ hội, hương lão và
20
dân làng dự hội, cờ lọng che rợp một vùng, tiếng trống âm vang khắp một góc trời.
Sau phần Lễ là đến phần Hội với các trò vui như: chọi gà, thả chim bồ câu, thi đấu vật, hát quan họ và nhiều trò vui khác.
Lễ hội đền Đô là lễ hội truyền thống có từ lâu đời và trở thành phong tục được nhân dân xã Đình Bảng tình nguyện lưu giữ, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Với những giá trị văn hoá lịch sử truyền thống, Lễ hội đền Đô như tiếng gọi cội nguồn nhắn nhủ các thế hệ mai sau hãy biết trân trọng và gìn giữ tinh hoa cha ông bao đời xây đắp.
8. Lễ hội chùa Sùng Phúc (Cao Bằng)
Theo sách Đại Nam nhất thống chí và Việt Nam dư địa chí, chùa Sùng Phúc thuộc tổng Lệnh Cấm, nay là xã Thanh Nhật, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng. Chùa được xây dựng từ thời vua Trần Nhân Tông thế kỷ XIII, ban đầu có tên là Sùng Khánh tự, thờ Phật và thờ các nhân vật có công trấn ải vùng biên giới. Năm Cảnh Hưng thứ 43, thời nhà Lê, chùa được trùng tu và đổi tên là chùa Sùng Phúc, thờ Đức Phật Quan Âm Bồ Tát, ở hậu cung có tượng Phật Bà. Gian bên trái thờ vị Thành Hoàng, người có công chiêu dân khẩn hoang lập bản làng - ông Nguyễn Thành Vương tức Nguyễn Đình Bá (1678) tri châu Tư Lang, quê ở thôn Bình Dân, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, sau làm Đốc đồng ở Cao Bằng.
21
Chùa còn thờ vi đồ là bà Nguyễn Thị Duệ, người làng Kiệt Đặc, nay thuộc xã Văn An, huyện Chí Linh, Hải Dương. Thời vua Mạc Kính Cung, bà theo cha rời quê lên Cao Bằng sinh sống. Năm 20 tuổi, bà cải trang làm nam giới, thi đỗ Tiến sĩ ở trường quốc học Bản Thảnh, Cao Bằng. Sau khi thi đỗ, bà được mời về ly cung Đống Lân để dạy học cho hoàng tử, công chúa. Bà được vua nhà Mạc lấy làm vợ và đặt tên là Tinh Phi (Sao sa). Thời kỳ Lê - Mạc phân tranh, Bà chạy về Hạ Lang, đi tu ở chùa Sùng Phúc. Vốn là người tài cao học rộng, nên bà mở lớp dạy học, giảng về giáo lý nhà Phật. Sau này, để tỏ lòng tưởng nhớ, nhân dân trong vùng đã đưa bài vị
của bà vào chùa để thờ.
Chùa được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 29-1-1993.
Lễ hội chùa Sùng Phúc bắt đầu từ lễ “Khai quang” cho rồng mở mắt, diễn ra vào mùng 8 tháng Giêng âm lịch. Nhưng, ngày chính hội là ngày Rằm tháng Giêng âm lịch hằng năm, được bắt đầu bằng Lễ rước kiệu Đức Phật Quan Âm Bồ Tát, Thành hoàng kèm theo các mâm lễ vật, lợn quay từ Miếu thổ công, qua các con phố chính dẫn đến chùa. Sau lễ
rước là màn tế. Chủ tế là cụ cao niên am hiểu phong tục tập quán, có uy tín ở địa phương. Bài văn tế, báo cáo với trời đất, tổ tiên và các vị thờ trong chùa về tình hình kinh tế - xã hội trong một năm vừa qua của địa phương, đồng thời cầu mong một năm mới mạnh khỏe, may mắn, mưa thuận gió hòa, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Khi nghi lễ tế, dâng hương kết
22
thúc cũng là lúc tiếng trống khai hội rộn rã vang lên. Đội múa rồng, đội kỳ lân trình diễn những màn múa uyển chuyển, đẹp mắt trong tiếng hò reo tán thưởng của hàng nghìn người đến vui hội.
Không khí Lễ hội càng thêm náo nhiệt nhờ các hoạt động văn hóa - văn nghệ, trò chơi dân gian bên lề như: hát Sli, hát Lượn, đối đáp giao duyên, cờ người, ném còn, nhảy bao,...
9. Lễ hội Lồng tồng (Cao Bằng)
Lễ hội Lồng tồng (còn gọi là “Lễ xuống đồng”) là lễ hội quan trọng bậc nhất vào dịp đầu năm mới, gắn liền với nền nông nghiệp trồng trọt, được tổ chức trong các bản làng để cầu cúng thần nông - vị thần cai quản ruộng đồng, vườn tược, gia súc, làng bản, bảo vệ cho cây cối xanh tươi, mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi, mọi người no ấm, bản làng yên lành. Lễ hội Lồng tồng đã có từ rất lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng người dân tộc Tày, Nùng ở các tỉnh miền núi phía bắc và một số tỉnh Tây Bắc. Lễ hội Lồng tồng của dân tộc Tày - Nùng ở tỉnh Cao Bằng diễn ra từ mùng 2 đến 30 tháng Giêng âm lịch (tùy theo từng địa phương) để mở mùa gieo trồng mới.
Hội tổ chức ngoài trời, trên một thửa ruộng lớn, gọi là ruộng xuống đồng. Hội chia thành hai phần: Phần Lễ: có nghi lễ tạ thiên địa, cầu thần Nông, thần Phục Hy độ trì cho mưa thuận gió hòa, gia cầm sinh sôi, bản làng bình yên no ấm,... Mâm lễ vật thường có: xôi nếp, thịt lợn, rượu trắng và các loại
23
bánh như: khẩu Sli, khẩu Slec, bánh khảo, bánh dày, chè lam,...
Trên thửa ruộng xuống đồng, đàn tế Thần Nông và các thần khác được dựng lên và trang hoàng đẹp đẽ. Vào lễ hội,chiêng trống nổi lên, các bô lão và tráng đinh rước Thần Nông và Thành Hoàng từ đình ra ruộng, các gia đình rước mâm lễ của mình đi sau, bày biện lên vị trí đã được bố trí sẵn. Sau khi người chủ trì phần tế lễ xướng xong bài mo cúng các chư thần sẽ
tuyên bố phá cỗ. Gia đình nào có mâm lễ thịnh soạn và mời được nhiều khách dự hội đến thưởng thức sẽ được coi là gặp nhiều may mắn trong năm mới đó.
Phần Hội: được bắt đầu sau màn phá cỗ và kéo dài đến đêm khuya. Nhiều trò chơi dân gian như: cướp còn, ném còn, kéo co, đánh quay, đánh yến, đánh đu, múa kỳ lân, múa sư tử, múa võ, múa giáo, bịt mắt bắt dê, hát giao duyên (hát lượn), thi sản vật địa phương, cờ tướng,… được tổ chức, thu hút sự
tham gia đông đảo, nhiệt tình của nhân dân và du khách thập phương.
Ném còn là trò chơi vui nhất, đông người tham gia nhất, người dân quan niệm rằng, trong hội phải có người tung được quả còn ngũ sắc xuyên thủng hồng tâm thì năm đó bản làng mới có thể làm ăn thuận lợi. Bên cạnh đó là các màn múa sư tử, múa kỳ lân trong tiếng trống thúc rộn ràng; đặc biệt các điệu hát Sli (của người Nùng), hát Lượn (của người Tày) quen thuộc thường ngày cũng được biểu diễn một cách hấp dẫn, đặc sắc trong dịp lễ hội. Đêm xuống, bên ánh lửa bập bùng, những làn điệu hát
24
cọi đối đáp mang đậm bản sắc dân tộc càng làm tăng thêm nét độc đáo, hấp dẫn của Lễ hội Lồng tồng.
10. Lễ hội đền Hoàng Công Chất (Điện Biên)
Lễ hội đền Hoàng Công Chất được tổ chức trong hai ngày 24, 25 tháng Hai âm lịch hằng năm, tại Thôn Noọng Nhai, xã Noọng Hẹt, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên để tưởng nhớ vị anh hùng áo vải Hoàng Công Chất.
Năm 1754, thủ lĩnh Hoàng Công Chất cùng hai vị tướng người dân tộc thiểu số là Lò Ngải và Lò Khanh phất cờ khởi nghĩa đánh tan giặc Phẻ và tàn quân Thái Bình thiên quốc do chậu Phạ Tin Tòng cầm đầu, giải phóng xứ Mường Thanh (Điện Biên), chấn ải biên cương Tổ quốc.
Lễ hội gồm hai phần: phần Lễ và phần Hội. Phần Lễ được bắt đầu bằng tiếng trống âm vang oai hùng, trang nghiêm nổi lên trong không khí tưng bừng của ngày hội. Sau nghi thức chào cờ là một phút mặc niệm, tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc. Chúc văn giỗ tướng quân gồm ba phần: nhạc đệm hùng tráng với dàn trống, cồng chiêng, nhạc cụ dân tộc, tạo hệ thống âm thanh hoành tráng, rộn ràng, trầm hùng và linh thiêng; tiếp đến là nghi lễ rước, dâng lễ vật và màn tái hiện lịch sử dưới hình thức sân khấu hóa.
Chỉ huy đoàn lễ rước là người đứng tuổi, trang phục uy nghiêm, bước đi oai phong, thể hiện tình cảm quý trọng, biết ơn sâu sắc của đồng bào các dân tộc đối với người nông dân áo vải Hoàng Công Chất
25
và hai vị tướng Ngải, Khanh đã có công đánh đuổi giặc ngoại xâm. Đoàn lễ rước gồm đội múa lân, múa rồng, đội rước kiệu. Đoàn tế lính nghĩa quân mặc trang phục lính trận, tay cầm giáo mác chĩa lên trời. Các lực lượng tham gia lễ rước cũng như quần chúng cổ vũ đều giữ thái độ trang nghiêm, thành kính.
Màn tái hiện lịch sử dưới hình thức sân khấu hóa gồm ba phần: bối cảnh lịch sử, tướng quân lãnh đạo nhân dân đánh giặc và Mường Thanh được giải phóng với sự tham gia của các dàn diễn viên chuyên nghiệp, làm nổi bật vai trò, tôn vinh người thủ lĩnh miền xuôi cứu dân miền ngược, tinh thần đoàn kết, quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm của đồng bào Tây Bắc.
Sau phần Lễ là phần Hội với các hoạt động văn hóa, văn nghệ phong phú, đa dạng; trưng bày triển lãm tranh, ảnh “các di vật của nghĩa quân Hoàng Công Chất”, các trò chơi dân gian như: đua ngựa giết Phẻ, kéo co, bắn nỏ, đẩy gậy, đi cà kheo, tung còn truyền thống, thi nấu ăn nuôi quân,… Những thiếu nữ dân tộc Thái duyên dáng, dịu dàng trong trang phục váy đen dài chấm gót, áo cóm với hàng cúc bướm lóng lánh ánh bạc, trên tay cầm chiếc quạt sặc sỡ, nhịp nhàng trong điệu múa uyển chuyển, đằm thắm, lôi cuốn người tham gia bằng màn múa vòng xoè đoàn kết - màn múa đặc trưng của dân tộc Thái trong các lễ hội truyền thống.
11. Chợ tình Khâu Vai (Hà Giang)
Chợ tình Khâu Vai còn gọi là “Chợ phong lưu”, được họp trên một quả đồi tại thôn Khâu Vai, xã
26
Khâu Vai, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang mỗi năm một lần vào ngày 27 tháng Ba âm lịch.
Đây là nơi để người ta tìm đến với nhau sau một hay nhiều năm xa cách, chủ yếu là những người có tình duyên trắc trở, yêu thương nhau nhưng không đến được với nhau. Họ hò hẹn tại đây để tâm sự, trò chuyện về cuộc sống riêng, ôn lại những tình cảm, nhớ
nhung, những buồn vui của gia đình và cuộc sống. Chợ bắt nguồn từ một câu chuyện tình lãng mạn mang đầy tính nhân văn của chàng trai người Nùng và cô gái người Giáy, họ yêu nhau nhưng vì ràng buộc của lễ giáo phong kiến và tập tục lạc hậu nên không lấy được nhau. Thương cha mẹ, họ hàng, không muốn xoáy sâu thêm thù hận giữa hai gia đình, dòng tộc... nên hai người đã gạt nước mắt, chia tay nhau. Họ hẹn nhau kiếp sau sẽ nên vợ nên chồng và hằng năm đúng ngày chia tay sẽ tìm về gặp lại nhau tại núi Khâu Vai... Họ chia tay nhằm ngày 27 tháng Ba (âm lịch).
Ngày nay, dù cuộc sống có nhiều đổi thay, nhưng Chợ tình Khâu Vai vẫn duy trì và tồn tại với đủ đầy sức hấp dẫn của nó, trở thành bản sắc văn hóa độc đáo của các dân tộc thiểu số vùng biên giới phía bắc Tổ quốc.
12. Lễ hội Gầu Tào của dân tộc Mông (Hà Giang)
Lễ hội Gầu Tào của đồng bào dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang được tổ chức vào mùa xuân hay những dịp nông nhàn, do một gia đình hay một làng chủ trì, thường được tổ chức trên một bãi đất rộng quanh làng, hay một nương ngô đã thu hoạch xong.
27
Lễ hội Gầu Tào gồm hai phần chính: phần Lễ và phần Hội.
Phần Lễ: được bắt đầu bằng nghi lễ “dựng cây nêu” với ý nghĩa thông báo mở hội, đồng thời thể hiện sức sống trường tồn của làng bản người Mông trên vùng đất cao nguyên đá này. Dựng cây nêu xong, bản làng thường có một mâm lễ vật gồm có: 1 thủ lợn, 1 đĩa xôi, 1 chai rượu, 4 chiếc bát con, 4 chiếc chén, 4 chiếc thìa, đặt bên dưới để cúng thần linh và tổ tiên, trời đất.
Phần Hội: Sau khi phần Lễ kết thúc, phần Hội bắt đầu với nhiều trò chơi dân gian như: đánh yến, đấu võ, bắn nỏ,... và cả những trò vui mang tính nghệ thuật như: múa khèn, thổi sáo, thi hát đối đáp,... Từ dụng ý ban đầu là lễ tạ ơn chúc tụng con đàn cháu đống, mang màu sắc tôn giáo, lễ hội Gầu Tào ngày nay đã trở thành sân chơi bổ ích để nam nữ thanh niên Mông trổ tài và giao duyên.
Lễ hội Gầu Tào là một trong những kênh văn hóa hữu hiệu góp phần gắn kết cộng đồng dân tộc thiểu số phía bắc, làm cho diện mạo của đời sống tinh thần, văn hóa Mông thêm sinh động, đa dạng.
13. Hội vật võ Liễu Đôi (Hà Nam)
Truyền thuyết làng Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam kể rằng: ở đây có một chàng trai họ Đoàn có sức mạnh phi thường lại giỏi võ, một mình địch nổi năm trai tráng trên sới vật. Một hôm, ở cánh đồng Nương Cửi, tự nhiên có một ánh sáng xanh chói lòa phát ra, dân làng vô
28
cùng hoảng sợ, chỉ có chàng trai họ Đoàn nọ dám đi tới và nhận thấy ánh sáng ấy phát ra từ một thanh gươm đặt trên một tấm khăn đào. Chàng trai bái tạ thần linh, tay cầm gươm, lưng thắt chiếc khăn đào, múa gươm cho dân làng xem.
Khi có giặc phương Bắc kéo tới, chàng trai mang gươm ra trận. Trong đoàn quân của chàng có nữ tướng họ Bùi rất dũng cảm, hai người thề ước với nhau. Nhưng không may, chàng trai bị tử trận, thi hài được mang về quê hương. Giặc tan, nữ
tướng họ Bùi đến viếng mộ chàng nhưng quá đau thương nên đã chết trên ngựa khi cách mộ chàng chừng vài trăm bước. Dân Liễu Đôi thương nhớ, lập đền Ông thờ chàng, gọi là Thánh Ông, lập đền Bà thờ nữ tướng, gọi là đền Tiên Bà. Hằng năm, từ mùng 5 đến 10 tháng Giêng âm lịch, làng mở hội vật để tưởng niệm, gọi là hội Thánh Tiên (gọi tắt hai chữ Thánh Ông - Tiên Bà), đó là hội vật võ Liễu Đôi.
Hội gồm phần Lễ và phần Hội.
Phần Lễ được tổ chức với nhiều nghi lễ trang nghiêm, độc đáo như: lễ rước Thánh vào đóng (đóng tức là nơi tổ chức vật; rước Thánh vào đóng tức là rước kiệu Thánh Ông từ đền vào đóng vật); lễ phát hỏa (đốt lên một ngọn lửa lớn để tưởng nhớ lại ngọn lửa xanh thần diệu bốc lên từ thanh gươm phát hỏa mà trời ban cho đất Liễu Đôi ở cánh đồng Nương Cửi); lễ trao gươm và thắt khăn đào (tưởng nhớ
việc chàng trai họ Đoàn nhận thanh gươm thần và tấm khăn đào); lễ múa cờ tụ nghĩa,...
29
Sau những nghi thức trên của phần Lễ là đến phần Hội với các cuộc vật võ. Mở đầu cuộc vật, làng gọi tên hai trai rốt (là hai cậu con trai của làng ra đời cuối cùng trong năm qua) ra vật năm keo trình làng, lễ Thánh. Tất nhiên trai rốt còn bé, chưa vật được nên bố phải ra vật thay. Lệ quy định, hai ông bố chỉ vật biểu diễn, không được vật thật để đối phương ngã, bởi vì hai ông bố ra vật chỉ với mục đích trình làng, trình Thánh chứng giám để hai đứa trẻ tương lai sẽ trở thành hai đồ vật võ mà thôi. Vậy nên nếu để bị ngã thì làng sẽ bắt phạt cả hai. Nếu bố đi vắng thì ông ra vật thay chứ không được bỏ cuộc. Với lệ này, người dân Liễu Đôi muốn nhắn nhủ con cháu rằng, sinh ra làm con trai thì trước hết phải là trai vật võ.
Tiếp theo là nghi thức đô xã làm nền, có nghĩa là đô Liễu Đôi vào đóng trước, giao đấu trước để gây không khí, khuyến khích tinh thần cho đô vật bốn phương. Khi đô vật bốn phương đã hăng say rồi thì đô vật Liễu Đôi rút ra, nhường đóng cho khách rồi đứng ngoài cổ vũ, động viên. Vào giải, ai thắng được năm keo liền thì được vào vòng giải. Ai thắng hết các đô ở vòng giải thì được giải cọc. Giải cọc là giải đặc biệt, tiếp đến là giải thứ: nhất, nhì, ba, cuối cùng là giải cuộc trao cho tất cả những người vào đóng vật. Như vậy, cả người thua cũng có giải. Phần thưởng trao giải là tiền hảo tâm của khách thập phương công đức, ngoài việc chi vào đèn nhang, còn lại bao nhiêu phải chi hết vào giải vật, nếu còn sẽ làm từ thiện cho người nghèo tại địa phương, tuyệt không được chi dùng vào việc khác.
30
Hội vật võ Liễu Đôi không chỉ thể hiện bề dày văn hóa truyền thống, tinh thần thượng võ sâu đậm mà còn thể hiện tính cố kết cộng đồng cao của người dân Liễu Đôi.
14. Lễ hội đền Trúc (Hà Nam)
Đền Trúc nằm ở thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Nơi đây thờ danh tướng Lý Thường Kiệt. Hằng năm, nhân dân Quyển Sơn tổ chức hội đền từ mùng 1 tháng Giêng đến 1 tháng Hai âm lịch. Lễ hội được mở vào những ngày nông nhàn nên thu hút được đông đảo dân quanh vùng và du khách thập phương tham dự. Không gian lễ hội từ xưa mở rộng khắp vùng, từ đình Trung đến đền Trúc, chùa Thi và ven núi Cấm.
Sáng mùng 1 tháng Hai âm lịch, làng chính thức mở hội rước tượng Phật cùng bài vị của Lý Thường Kiệt từ đền về đình làng. Sau phần Lễ là đến phần múa hát thờ. Hát dậm được biểu diễn liên tục trong sáu ngày. Đến sáng mùng 7 lại diễn ra nghi lễ rước tượng Phật cùng bài vị của Lý Thường Kiệt về đền, màn hát dậm vẫn tiếp tục trong ba ngày sau đó (gọi là hát yên vị) và đến mùng 10 tháng Hai thì đóng cửa đền, vãn hội.
Múa hát dậm là lối múa hát tương truyền là do Lý Thường Kiệt bày cho dân trong vùng khi ông thắng trận trở về, dừng chân nghỉ tại đất này. Từ đó, vào dịp hội đền, nhân dân tổ chức múa hát dậm để tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc này. Phường múa hát thường có từ 30 con dậm trở lên, là những cô gái
31
tuổi từ 13 đến 15, thanh tân, xinh đẹp, có tài múa hát. Ai có chồng hoặc có tang không được hát. Đứng đầu phường hát là cụ trùm, vừa cao tuổi, vừa có tài ca hát, đặc biệt là tài nhớ bài, chỉ đạo múa hát. Cụ
trùm thuộc lòng tất cả các làn điệu hát múa, trực tiếp điều khiển con dậm thực hiện các tiết mục. Khi diễn xướng, cụ trùm mặc áo thụng vàng, vấn khăn vàng, đi dép cong, các con dậm mặc áo mớ ba nhiễu đỏ trong cùng rồi the xanh, the đen bên ngoài, yếm đỏ, váy lĩnh, khăn đỏ, mũ tiên đính ngọc... Trong múa hát dậm, điệu múa có các động tác mô phỏng động tác chèo thuyền, lúc đứng hát cũng như khi quỳ lạy (gọi là chèo thuyền và chèo quỳ). Đây được coi là phần Lễ gắn bó mật thiết với phần Hội, là hội đua thuyền trên sông Đáy được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng Hai.
Ngược với hát dậm, chỉ có nam giới mới được tham gia hội đua thuyền. Điểm xuất phát là trước cửa đền Trúc, thuyền đua đến chân cầu Quế rồi vòng trở lại. Số lượng thuyền đua tùy theo từng năm, thông thường có ba thuyền dự thi. Mỗi thuyền đua gồm 18 người: 1 người lái thuyền, 16 tay chèo, 1 người gõ nhịp chỉ huy. Đoạn đường đua dài gần 3km trên sông Đáy. Mỗi nhịp gõ, mỗi câu hò là một nhịp chèo tạo nên sự nhịp nhàng rất cao. Khán giả đến xem cổ vũ rất đông, tiếng hò reo vang dội cả một vùng. Kết thúc cuộc thi, đội thắng cuộc sẽ nhận được phần thưởng.
Hội đua thuyền trên sông Đáy này mang nhiều tầng ý nghĩa. Ngoài ý nghĩa là một cuộc đua có tính
32
chất thể thao, nó còn là một nghi lễ nhằm tưởng nhớ cuộc hành quân của Lý Thường Kiệt trên sông trong lần tiễn phạt quân Chiêm Thành. Và cổ xưa hơn nữa, đây còn là một hoạt động tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, thể hiện khát vọng thoát khỏi thiên tai lũ lụt, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Hơn nữa, không khí sôi nổi và cuốn hút của lễ hội đền Trúc được tạo ra từ màn múa hát thờ do các cô gái thể hiện trong sân đền và cuộc đua thuyền do nam giới tiến hành trên đoạn sông Đáy trước cửa đền chính là sự tái diễn không khí khải hoàn thắng lợi của cuộc bình Chiêm nức lòng trong lịch sử dân tộc.
Lễ hội hát dậm và đua thuyền đền Trúc là một hoạt động đầy sức sống của dân gian, ca ngợi chiến công của Lý Thường Kiệt, có ý nghĩa lịch sử và giàu truyền thống văn hóa.
15. Lễ hội Cổ Loa (Hà Nội)
Đền Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, nằm trong khu vực thành Cổ Loa - kinh đô của Thục Phán An Dương Vương, đầu thế kỷ III trước Công nguyên. Đền thờ An Dương Vương - người có công dựng nước Âu Lạc và xây thành Cổ
Loa. Lễ hội đền Cổ Loa được tổ chức từ mùng 6 đến 16 tháng Giêng âm lịch hằng năm, bắt đầu là ngày kỷ niệm Thục Phán nhập cung.
Sáng mùng 6, làng tổ chức rước văn tế từ nhà vị tiên chỉ ra đền, để tế thần. Đi đầu đám rước là phường bát âm, tiếp là quan viên trong làng, sau đó
33
là dân đinh mang lọng, rước giá văn tế và kiệu long đình. Khi đoàn rước rước văn tế đến giữa sân đền thì dừng lại, giá văn tế được đặt lên long đình, long đình được khiêng tới kê trước hương án đồ thờ. Khi màn tấu nhạc của phường bát âm kết thúc, chủ tế bắt đầu làm lễ tế thần, sau đó các quan viên và những người dự lễ lần lượt vào dâng lễ, cầu nguyện nhà vua phù hộ cho dân làng.
Lễ rước thần được tổ chức vào buổi chiều cùng ngày, thu hút đông đảo dân làng tham dự. Đi đầu đám rước là cờ quạt, long đình, các tư khí bộ bát bửu, phường bát âm, quan viên rước khí giới của vua (cung, kiếm, tên, nỏ). Đám rước kéo dài chừng vài giờ, từ sân đền Cổ Loa ra đến đầu làng thì giải tán, thôn nào về thôn ấy, chỉ có đám rước xóm Chùa - xóm sở tại của đền thì ở lại để khiêng long đình bài vị Vua về đền.
Bên cạnh phần Lễ trang nghiêm, hội đền Cổ Loa còn kéo dài trong nhiều ngày với nhiều trò vui như: đánh bài, đánh đáo, đánh đu, cờ người,… thu hút đông đảo người tham gia.
16. Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc (Hà Nội)
Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc gắn với truyền thuyết về một cậu bé được mẹ sinh ra một cách kỳ lạ ở làng Phù Đổng. Cậu bé khôi ngô, tuấn tú nhưng lên 3 tuổi mà vẫn chưa biết nói, biết cười, suốt ngày chỉ nằm trong thúng treo trên gióng tre, vì thế được đặt tên là Gióng. Vậy mà khi nghe thấy lời kêu gọi của nhà vua tìm người tài giỏi đánh giặc
34
ngoại xâm, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, rồi xung phong ra trận cứu nước, cứu dân. Sau khi dẹp tan quân giặc, ngài về núi Sóc rồi cưỡi ngựa bay lên trời.
Từ đó, ngài Gióng được thiêng hóa thành một vị Thánh bất tử bảo hộ mùa màng, hòa bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân. Để tưởng nhớ công ơn của ngài, người dân lập đền, thờ phụng và mở hội hằng năm với tên gọi là Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất vùng châu thổ Bắc Bộ, tổ chức theo nghi thức được quy định nghiêm ngặt, chuẩn bị công phu, với sự tham gia đông đảo của dân làng quanh khu vực hai đền.
Hội Gióng ở đền Sóc ở xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội - nơi Thánh hóa diễn ra từ mùng 6 đến 8 tháng Giêng âm lịch hằng năm; Hội Gióng ở đền Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội - nơi sinh Thánh Gióng diễn ra từ mùng 7 đến 9 tháng Tư âm lịch hằng năm.
Để tổ chức Hội Gióng ở đền Phù Đổng, những gia đình có vinh dự được chọn người đóng những vai quan trọng như: ông Hiệu (Hiệu Cờ, Hiệu Trống, Hiệu Chiêng, Hiệu Trung quân, Hiệu Tiểu cổ), cô Tướng hay các phường Áo Đen, Áo Đỏ,... tùy theo vai vế, khả năng kinh tế mà chuẩn bị những điều kiện vật chất và sinh hoạt kiêng cữ từ hàng tháng trước ngày Lễ hội.
Vào ngày Hội, dân làng tổ chức các nghi thức tế Thánh; lễ rước nước lau rửa tự khí từ giếng đền Mẫu (đền Hạ) với ý nguyện được mưa thuận, gió hòa; lễ
35
rước cờ “lệnh” từ đền Mẫu lên đền Thượng; lễ khám đường, lễ duyệt tướng…
Ngày chính hội mùng 9 tháng Tư, Hội Gióng diễn ra trang trọng, linh thiêng và náo nhiệt nhất là hai trận đánh. Trận thứ nhất là đánh cờ ở Đống Đàm (khu đất ven hồ sen đầu làng Đổng Viên, cách đền Thượng chừng 2km) và trận thứ hai là đánh cờ ở Soi Bia. Chiến trường là 3 chiếc chiếu, mỗi chiếu có 1 chiếc bát to tượng trưng cho núi đồi, úp trên một tờ giấy trắng tượng trưng cho mây trời. Vây quanh là đại quân của Gióng và phía bên kia là đại quân của 28 nữ
tướng giặc (biểu tượng cho yếu tố âm). Sau nghi lễ tế Thánh, ông Hiệu Cờ lần lượt tiến vào từng chiếu trận, nhảy qua các “quả đồi” và thực hiện các động tác “đánh cờ” trong tiếng hò reo, tiếng chiêng, tiếng trống. Điệu múa cờ của ông Hiệu phải thật chính xác, khéo léo, tránh để lá cờ bị cuốn vào cán, bởi theo niềm tin của cư dân nơi đây thì đó là điềm rủi. Kết thúc mỗi màn múa cờ là kết thúc một trận đánh, ông Hiệu Cờ
vừa bước ra khỏi chiếu là chiếc chiếu được tung lên, dân chúng ào vào cướp lấy những mảnh chiếu mà họ tin tưởng là sẽ đem đến cho gia đình họ điều may mắn trong suốt cả năm. Cuối cùng là lễ rước cờ báo tin thắng trận với trời đất và lễ khao quân trong rộn rã tiếng cười, lời ca, điệu múa của phường Ải Lao, chiếu chèo và các trò chơi dân gian. Tướng, quân bên giặc cũng được tha bổng và cho tham dự lễ mừng chiến thắng. Cách hành xử này thể hiện truyền thống hiếu nghĩa đối với tổ tiên, những vị anh hùng dân tộc và tinh thần khoan dung, nhân đạo của dân tộc Việt Nam.
36
Hội Gióng ở đền Sóc diễn ra cũng được chuẩn bị hết sức công phu, nhất là việc đan voi (theo truyền thuyết, trong đoàn quân tham gia đánh giặc cùng Thánh Gióng có cả voi chở lương thực) và làm giò hoa tre (tượng trưng cho gậy tre của Thánh Gióng dùng khi đánh giặc. Từ xa xưa, việc rước đã được phân công cụ thể cho từng thôn chuyên trách và đi theo theo thứ tự: Trước hết là thôn Vệ Linh rước giò hoa tre, tiếp theo là các thôn Dược Thượng rước voi, Đan Tảo rước trầu cau, Đức Hậu rước ngà voi, Yên Sào rước cỏ voi (thân cây chuối), Yên Tàng rước tướng và mấy năm gần đây còn có thêm thôn Xuân Dục rước “cầu Húc” (quả cầu tượng trưng cho mặt trời theo tín ngưỡng thờ thần mặt trời có từ xa xưa của cư dân nơi đây). Sau phần nghi thức tắm tượng Thánh Gióng và cung tiến lễ vật trang trọng, linh thiêng, là hai hoạt động náo động nhất của Lễ hội Gióng ở đền Sóc - tục “cướp hoa tre” cầu may và tục chém “tướng” (giặc) được diễn xướng tượng trưng bằng hiệu lệnh múa cờ.
Là một hội trận được trình diễn bằng những màn biểu diễn mang tính chất tượng trưng độc đáo, đậm bản sắc văn hóa Việt, được cộng đồng bảo tồn nguyên giá trị cho tới ngày nay, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào tháng 11-2010.
17. Hội đền Hạ Lôi (Hà Nội)
Đền Hạ Lôi, hay còn gọi là đền Hai Bà Trưng, thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội.
37
Đền thờ hai vị liệt nữ - anh hùng dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị - những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đánh đổ ách thống trị của nhà Đông Hán vào năm 40-43 (sau Công nguyên), giành lại nền độc lập, tự chủ cho dân tộc.
Hội đền Hạ Lôi được tổ chức vào mùng 6 tháng Giêng âm lịch hằng năm, tương truyền đây là ngày Hai Bà mở tiệc khao quân. Theo bia khắc năm 1899 thì đền được sửa lại vào năm ấy. Dân trong vùng đến dự hội rất đông. Hội có lệ cúng bánh dày và những trò vui cổ truyền như: đấu cờ, đấu vật, chơi đu,… rất sôi nổi.
Đền Hạ Lôi có ba cỗ kiệu: hai cỗ kiệu rước thánh vị Hai Bà sơn son thiếp vàng, kiệu thứ ba rước ông Thi Sách, được sơn đen tuyền.
Sáng mùng 6 tháng Giêng, sau khi tế ba tuần rượu, chiêng trống nổi 3 hồi 9 tiếng, sửa soạn cuộc “rước kiệu hội đồng”. Dẫn đầu đám rước là hàng cờ hội. Ba kiệu xuất phát từ sân đình, theo thứ tự: kiệu ông Thi Sách, kiệu bà Trưng Trắc, kiệu bà Trưng Nhị. Kiệu ông Thi Sách do 32 chàng trai khiêng, kèm theo với 32 người dự bị. Họ đều mặc đồng phục nghi lễ: áo dài đen, quần trắng, thắt lưng màu ra ngoài, buộc múi bên sườn trái, đầu chít khăn lượt. Kiệu Hai Bà do 32 cô gái khiêng, với đồng phục: áo dài tứ thân nâu, váy đen, hai vạt thắt lưng màu buộc ra sau, đầu chít khăn màu.
Đám rước đi chầm chậm trong tiếng trống, chiêng, âm nhạc rộn rã. Qua cửa tam quan, tới đường cái làng gọi là đường Trống Quân thì kiệu ông Thi Sách dừng lại để kiệu Hai Bà lên trước. Tục này
38
gọi là “giao kiệu”, một hành động lễ nghĩa theo phong tục “nội gia huynh đệ, ngoại quốc quân thần” (trong nhà là anh em, ra ngoài việc nước là vua tôi). Đám rước đi theo đường Trống Quân tới đường cái, rồi tiến thẳng về đình để “hội đồng” với bốn vị thành hoàng Đô, Hồ, Bạch, Hạc và thánh Cốt Tung. Trong khi rước, hai tốp thanh niên nam nữ vừa múa, vừa hát bài ca rất khổ, tương truyền có từ thời đó.
Trong thời gian lễ hội còn có các lễ tế dâng hương cầu phúc của các đoàn tế xã, phường ở thành phố Hà Nội và các tỉnh lân cận, diễn ra trong tất cả các ngày lễ hội.
Song song với phần Lễ diễn ra ở trong đền là phần Hội diễn ra bên ngoài khu vui chơi với nhiều trò chơi dân gian đặc sắc, hấp dẫn, đặc biệt là môn đấu vật, thể hiện tinh thần thượng võ.
18. Lễ hội gò Đống Đa (Hà Nội)
Hội gò Đống Đa được tổ chức vào mùng 5 tháng Giêng âm lịch hằng năm, tại gò Đống Đa, phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội, nhằm tưởng nhớ tới công tích lẫy lừng của vua Quang Trung - một trong những anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Đêm mùng 4, rạng sáng mùng 5 Tết Kỷ Dậu (tức ngày 29, 30-2-1789), đồn giặc ở Khương Thượng bị quân ta tiến đánh và phá hủy, tên Thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử tại đây. Kể
từ đó, gò Đống Đa đã trở thành một di tích lịch sử ghi dấu chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta, đồng
39
thời là chứng tích về sự thất bại của kẻ thù xâm lược phương Bắc.
Sáng sớm ngày diễn ra Lễ hội, đoàn rước thần mừng chiến thắng với cờ, tàn, tán, lọng, kiệu,... rực rỡ màu sắc cùng tiếng chiêng, trống, thanh la,... xuất phát từ đình Khương Thượng về gò Ðống Ða trong sự reo hò, cổ vũ của đông đảo du khách.
Tại Lễ hội, đặc biệt nhất là màn rước "Rồng lửa", được bện bằng nùi rơm, mo nang và giấy bồi trang trí. Ngoài ra còn có các màn biểu diễn côn, quyền như tái hiện lại cuộc chiến đấu đã qua. "Rồng lửa Thăng Long" trở thành biểu tượng chiến thắng của dân tộc Việt Nam.
Khi đám rước về đến gò Ðống Ða, có lễ dâng hương, lễ đọc văn kể lại sự tích chiến công năm Kỷ Dậu, ca ngợi thiên tài quân sự của anh hùng dân tộc Quang Trung.
19. Lễ hội Chùa Hương (Hà Nội)
Chùa Hương thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Có thể nói quần thể Hương Sơn là sự kết hợp tuyệt vời giữa kỳ công của tạo hóa với bàn tay khéo léo, tài hoa của con người. Từ chân núi đến đỉnh núi, chùa Ngoài, chùa Trong, chùa Giải Oan, chùa Thiên Trù với động Hinh Bồng, động Hương Tích,… được xây dựng rải rác trên triền núi đá vôi, thấp thoáng dưới rừng cây xanh thẳm. Chùa nào cũng cổ kính, uy nghi, không khí huyền bí, linh thiêng.
Chính hội chùa Hương nhằm ngày 15 tháng Hai âm lịch hằng năm, nhưng từ mùng 6 tháng Giêng đã làm lễ mở cửa rừng. Lễ hội thường kéo dài đến hạ
40
tuần tháng Ba âm lịch. Mùa cao điểm của của Lễ hội là từ rằm tháng Giêng đến 18 tháng Hai âm lịch. Ngày nay nghi lễ “mở cửa rừng” xưa kia mang ý nghĩa mới là lễ “mở cửa chùa”.
Phần Lễ của Lễ hội chùa Hương rất đơn giản. Trước khai hội một ngày, tất cả đền, chùa, đình, miếu ở xã Hương Sơn đều nghi ngút khói hương.
Vào ngày Lễ hội, ở chùa Trong có lễ dâng hương, lễ vật gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay, lễ nghi có vẻ nghiêng về “thiền”. Còn chùa Ngoài là nơi thờ các vị sơn thần thượng đẳng, mang đủ màu sắc của Đạo giáo. Đền Cửa Vòng là “chân long linh từ”, thờ bà Chúa Thượng Ngàn - người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả, đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.
Qua đó có thể thấy, toàn bộ hệ thống tín ngưỡng ở chùa Hương bao trùm gần như cả tổng thể tôn giáo ở Việt Nam: có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho.
Lễ hội chùa Hương còn có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn tế ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, chỉ dẫn các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.
Bên cạnh phần Lễ, Lễ hội chùa Hương còn có phần Hội sôi nổi với các hoạt động văn hóa mang đậm tính dân tộc độc đáo như: bơi thuyền, leo núi và hát chèo, hát văn,…
20. Lễ hội đền Bà Tấm (Hà Nội)
Đền Bà Tấm nay thuộc xã Dương Xá, huyện Gia
41
Lâm, Hà Nội. Đền còn có tên gọi theo địa danh là đền Dương Xá, hay đền Ỷ Lan, chùa có tên chữ Linh Nhân Tư Phúc tự.
Hoàng Thái hậu Ỷ Lan, tên thật là Lê Thị Yến, sinh ngày 7 tháng Ba năm Giáp Thân (1044), mất ngày 25 tháng Bảy năm Đinh Dậu (1117). Bà xuất thân trong một gia đình làm nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, nổi tiếng là người thông minh, xinh đẹp, nết na, dịu hiền. Năm 1063, qua một lần về viếng thăm chùa Dâu ở Thuận Thành, vua Lý Thánh Tông có cảm tình với Thị Yến và đón vào cung, phong là nguyên phi Ỷ Lan rồi thái hậu Linh Nhân.
Bà đã góp phần cai quản việc nước, thu phục nhân tâm, tạo điều kiện giúp vua đánh thắng giặc Chiêm Thành năm 1069. Đến năm 1072, Lý Thánh Tông qua đời, Càn Đức lên ngôi vua mới có 7 tuổi (vua Lý Nhân Tông), bà buông rèm điều khiển việc nước, cùng Lý Đạo Thành, Lý Thường Kiệt tổ chức đánh thắng giặc Tống xâm lược vào năm 1076. Bà còn chăm lo sản xuất nông nghiệp, mở mang học hành.
Lễ hội đền Bà Tấm trước đây được tổ chức ba ngày từ ngày 19 đến ngày 21 tháng Hai âm lịch, hội có quy mô lớn, không chỉ bó hẹp trong phạm vi thôn làng. Bên cạnh đó vào ngày 25 tháng Bảy, tương truyền là ngày giỗ của Bà và là ngày Bà làm lễ giải oan cho Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ bị chết oan, cũng được nhân dân Dương Xá tổ chức long trọng.
Lễ hội đền Bà Tấm ngày nay được tổ chức từ ngày 19 (tương truyền là ngày sinh của bà Tấm) đến 22 tháng Hai âm lịch hằng năm, gồm hai phần Lễ và Hội.
42
Phần Lễ được mở màn bằng đám rước nước long trọng vào ngày 19 tháng Hai. Đám rước khởi hành từ đền Bà Tấm lên tới giếng nước cạnh chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km. Đi đầu đám rước là cờ ngũ hành, tiếp đến là Tổng cờ, rồi chiêng, trống, bát bửu. Liền sau đó là long đình rước bà Ỷ
Lan (bài vị). Sau kiệu Bà là kiệu đựng chóe dùng để lấy nước. Ngoài ra là kiệu của các thôn thuộc Dương Xá và tất cả các làng cấy ruộng nhà đền.
Trong lúc diễn ra lễ rước nước, các thôn cũng tiến hành rước lễ vật ra đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào đền yên vị, cuộc tế lễ bắt đầu. Các bô lão năm thôn được cử vào ban tế tiến hành kiểm tra lễ vật rất nghiêm ngặt. Lễ vật để tế lễ trong ngày hội hoàn toàn là trầu, rượu. Sau màn tế lễ của các cụ bô lão là đến phần dâng hương của dân làng và khách thập phương. Ngày hội đầu tiên kéo dài cho đến khuya trong không khí nghiêm trang tại đền cùng các cuộc vui ngoài sân và khu vực xung quanh.
Ngày 20 tháng Hai, hội cũng bắt đầu bằng những cuộc rước. Song lần này là rước Thành hoàng và lễ vật của các thôn thuộc Dương Xá và những nơi ăn lộc ruộng của đền bái vọng dâng lễ. Trừ kiệu của bốn thôn thuộc Dương Xá và Thuận Quang được vào trong đền, còn tất cả các kiệu của những làng khác đều phải đứng bên ngoài cổng đền, bái vọng vào.
Phần Hội của Lễ hội được bắt đầu từ ngày 19 và kéo dài đến hết hội là ngày 22 tháng Hai. Mỗi năm hội đều có phường hát ở các nơi đến đăng cai hát giữ
43
cửa đền trong suốt mấy ngày diễn ra Lễ hội. Ngoài ra, còn có các trò chơi khác như: chơi cờ người, tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt pháo,... thu hút đông đảo nhân dân địa phương và du khách thập phương tham gia.
21. Lễ hội đền Chèm (Hà Nội)
Đền Chèm nay thuộc phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, thờ Đức Ông Lý Thân, tức Lý Ông Trọng cùng vợ là Đức Bà Bạch Tĩnh Cung - công chúa con vua Tần Thủy Hoàng.
Theo sử sách ghi chép lại, Lễ hội đền Chèm được tổ chức trong ba ngày, từ ngày 14 đến 16 tháng Năm âm lịch hằng năm, để kỷ niệm ngày thắng trận khải hoàn, mở hội mừng công và làm lễ cầu siêu cho các tướng sĩ của Đức Thánh Lý Ông Trọng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc. Nhưng sâu xa hơn là nghi lễ cầu mưa thuận gió hòa, cho mùa màng bội thu của cư dân nông nghiệp đồng bằng sông Hồng.
Lễ hội chia thành hai phần Lễ và Hội. Phần Lễ được diễn trình thông qua các cuộc rước rất trang nghiêm như: rước nước, rước mã, rước văn, lễ Mộc dục (tắm tượng thánh), lễ phát tấu (cúng Phật),…
Cuộc rước nước để làm lễ Mộc dục là cuộc rước lớn nhất và trang nghiêm nhất. Những người tham dự cuộc rước nước phải mặc trang phục lễ hội và rước theo đồ lễ, đi bộ ngược sông Hồng 3km, rồi xuống ba chiếc thuyền rồng, chèo xuôi về trước cổng đền. Tại đây diễn ra nghi thức lấy nước, ba con
44
thuyền vừa chèo vừa quay tròn ba vòng, nước được múc lên, đổ vào vật đựng và đánh phèn. Việc lấy nước hoàn tất đúng lúc ba con thuyền quay trọn hết ba vòng như quy định. Lấy nước xong, cả đoàn thuyền xuôi dòng về nhà Mã, cách cổng đền chừng 1km, rồi lên bến Ngự. Lúc này, cuộc rước bộ - rước nước, rước mã bắt đầu. Đi đầu cuộc rước là voi và ngựa mã, sau là kiệu mũ và áo; tiếp đến là chỉnh nước, dàn trống chiêng. Đám rước dừng lại ở giữa sân đền để làm lễ Mộc dục. Lễ rước văn (văn tế) được tiến hành sau, khoảng chiều tối. Lễ diễn xướng kể lại công đức của Lý Ông Trọng được tiến hành trong đêm rằm, với nghi thức trang nghiêm.
Phần Hội của Lễ hội gồm nhiều trò chơi dân gian, thu hút đông đảo người tham quan tham gia như: thi bơi trải, kéo co, thả diều, thả chim, trò thi bắt vịt. Trong đó, thi bơi trải là trò chơi vui nhất trong ngày hội.
Lễ hội đền Chèm là một lễ hội cổ truyền đặc sắc gắn liền với lịch sử của dân tộc, rất tiêu biểu cho sinh hoạt văn hóa phổ biến trong cư dân nông nghiệp lúa nước đồng bằng sông Hồng; đồng thời nhằm khơi dậy niềm tự hào dân tộc, yêu đất nước quê hương của người Việt Nam.
22. Lễ hội đền Hát Môn (Hà Nội)
Đền Hát Môn, còn gọi là đền Quốc tế, đền Hai Bà Trưng, thuộc địa bàn xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội. Vùng Hát Môn là nơi Hai Bà Trưng tổ chức hội quân sĩ sau khi hội tại thành Phong Châu.
45
Đây cũng là nơi tuẫn tiết của Hai Bà Trưng khi cuộc khởi nghĩa thất bại.
Tương truyền, đền Hát Môn được khởi dựng sau khi Hai Bà Trưng hóa sinh vào cõi bất diệt. Đền quay hướng tây nam, gồm các công trình kiến trúc chính như: quán Tiên, miếu Tạm ngự, Nghi môn, nhà Phương đình, đàn Thề, Tam quan, Tiền tế, Trung đường, Hậu cung, Tả Hữu mạc, gò Giấu ấn, Nhà Tưởng niệm bà Nguyễn Thị Định, Nhà khách, khu phụ,… Đền Hát Môn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị về văn hóa, lịch sử. Với những giá trị đặc biệt như vậy, ngày 9-12-2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2383/QĐ-TTg, công nhận di tích đền Hát Môn là Di tích quốc gia đặc biệt.
Hội đền Hát Môn được tổ chức vào mùng 6 tháng Ba âm lịch hằng năm, nhằm tưởng nhớ công lao của Hai Bà Trưng. Cũng từ tích Hai Bà ăn bánh trôi trước khi tuẫn tiết, nên đại lễ dâng bánh trôi là nghi lễ độc đáo riêng có của đền Hát Môn. Nghi thức rước, dâng cúng Hai Bà và tiệc bánh trôi trong Lễ
hội đều mang đậm yếu tố tâm linh, trở thành nét đặc sắc của Lễ hội này.
Theo phong tục, mỗi năm bô lão trong làng lại chọn nhà của gia đình hòa thuận, đủ đầy làm địa điểm làm bánh trôi để dâng lên Hai Bà. Gạo làm bánh phải là gạo nếp cái hoa vàng thượng hạng, thơm ngon, nước làm bánh được lấy từ giếng thiêng trong làng. Bánh được làm hết sức công phu, khi chín có màu trắng, trong, tròn, không nát, to bằng quả mận và phải là bánh chay.
46
Bánh trôi dâng cũng phải đủ 100 viên rất nhỏ. Sau khi tế lễ xong, làng đem 49 viên đặt vào một bông hoa sen thả xuống dòng sông để trôi về biển cả. Món bánh này, đối với người dân nơi đây là một thứ bánh Thánh. Thánh thụ hưởng rồi dân mới ăn. Nếu chưa hết ngày mùng 6 tháng Ba, người dân Hát Môn sẽ không ăn bánh trôi, nhằm thể hiện lòng thành kính đối với Hai Bà Trưng.
Đại lễ dâng hương tại đền Hai Bà Trưng có nhiều nét độc đáo khác lạ. Mọi thứ trong đền thờ đều đi đôi: hai hương án, hai long ngai, hai kiệu rước, hai lư hương và khi tiến hành đại lễ thì có hai chủ lễ, hai người đọc chúc văn…
Ngoài lễ hội vào mùng 6 tháng Ba, nhân dân Hát Môn còn tổ chức lễ hội vào mùng 4 tháng Chín và 24 tháng Chạp. Mùng 4 tháng Chín là ngày kỷ niệm Hai Bà tế cờ khao quân. Trong ngày này, dân làng kéo cờ
đại, giết trâu, giết bò, lợn, dê để tế lễ. Lễ Mộc dục - 24 tháng Chạp là ngày hội lớn, hàng trăm trai thanh, gái lịch trong làng được tuyển chọn phù giá, 8 thiếu nữ được chọn theo hầu kiệu Hai Bà. Trong ngày này, tượng Thánh được rước ra sông làm lễ Mộc dục, rồi rước về đền làm lễ dâng tế, chúc tụng.
Trong các ngày hội lễ ở đền Hát Môn, theo truyền thống, những người hành lễ tế, những người biểu diễn các trò vui và du khách không được mặc quần áo, đội khăn, mũ… màu đỏ, cũng như toàn bộ
đồ thờ có trong đền không sơn màu đỏ, mà sơn đen. Vì Hai Bà Trưng, theo truyền thuyết trong vùng, đã chết giữa trận mạc nên máu của Hai Bà đã nhuộm
47
đỏ mảnh đất nơi Hai Bà nằm xuống, chứ không phải Hai Bà đã tự tận trong chung cục, như truyền thuyết lưu truyền ở nhiều nơi khác.
23. Lễ hội chùa Côn Sơn (Hải Dương)
Lễ hội chùa Côn Sơn, còn gọi là Lễ hội Côn Sơn hay Lễ hội chùa Hun thường được tổ chức tại chùa Côn Sơn (Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự), nằm dưới chân núi Côn Sơn, tục gọi là chùa Hun, thuộc địa bàn phường Cộng Hòa, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương, từ ngày 15 đến 22 tháng Giêng âm lịch hằng năm.
Lễ hội bao gồm hai phần Lễ và Hội.
Phần Lễ bao gồm:
- Lễ dâng hương khai hội: diễn ra vào ngày 16 tháng Giêng, tưởng niệm ngày viên tịch của Đệ tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang tôn giả và tôn vinh công đức to lớn của Thiền phái Trúc Lâm.
- Lễ rước nước, Mộc dục: là một nghi lễ quan trọng trong Lễ hội Côn Sơn, diễn ra vào sáng 16 tháng Giêng, ngay sau khi kết thúc lễ dâng hương khai hội.
- Lễ Mông Sơn thí thực: diễn ra vào tối 17 tháng Giêng tại sân chùa Côn Sơn. Đàn Mông Sơn thí thực gồm có đàn chính và đàn tiến cúng Phật.
- Lễ tế trời đất trên núi Ngũ Nhạc: diễn ra vào sáng 17 tháng Giêng tại Trung Nhạc miếu, trên núi Ngũ Nhạc, do các pháp sư thực hiện. Vật phẩm gồm lễ chay (hoa quả, các loại bánh), lễ mặn (xôi, thịt), ngoài ra, còn có đồ mã và ngũ cốc... Lễ tế trời đất tại
48
Ngũ Nhạc để cầu phúc, tránh họa, mong cho mùa màng bội thu, quốc thái, dân an.
Ngoài các nghi lễ gắn với tôn giáo, tín ngưỡng, Lễ hội chùa Côn Sơn còn hấp dẫn và thu hút đông đảo người dân địa phương cũng như du khách thập phương bởi phần Hội với nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính đặc thù, tiêu biểu như: thi đu tiên, viết thư pháp, thi đấu vật, hát quan họ,... diễn ra suốt những ngày diễn ra Lễ hội.
Côn Sơn thuộc chốn Tổ của Thiền phái Trúc Lâm, một Thiền phái mang tư tưởng tự cường dân tộc. Lễ hội chùa Côn Sơn là dịp tôn vinh các bậc tiền nhân có công xây dựng Thiền phái Trúc Lâm, xây dựng đất nước, chống giặc ngoại xâm... Với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, Lễ hội như nhịp cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, giúp thế hệ trẻ bồi đắp thêm lòng tự hào về truyền thống quê hương, đất nước. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc của lễ hội, năm 2012, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định đưa Lễ hội chùa Côn Sơn vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Lễ hội truyền thống.
24. Lễ hội đền Quát (Hải Dương)
Đền Quát được xây dựng vào cuối thời Trần nhằm ghi nhớ công lao của đô soái Yết Kiêu - người đã cùng quân dân nhà Trần làm nên nhiều chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông, tiêu biểu như: chiến thắng Hàm Tử, Tây Kết, chiến thắng Bạch Đằng,… Nhờ có công
49
trạng xuất sắc nên sau khi ông mất, vua Trần đã ban sắc phong cho dân làng Hạ Bì lập đền thờ và suy tôn ông là Thành Hoàng làng. Yết Kiêu còn được lập miếu, đền thờ ở nhiều nơi, nhưng lớn nhất vẫn là đền Quát.
Lễ hội đền Quát tưởng nhớ Yết Kiêu xưa kia được tổ chức vào mùa xuân nhưng gần đây được chuyển sang mùa thu để cộng hưởng cùng Lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc (Chí Linh, Hải Dương) tưởng niệm Trần Hưng Đạo, chủ soái của Yết Kiêu.
Lễ hội đến Quát ngày nay bao gồm: Nghi thức quan trọng nhất của phần Lễ trong Lễ hội đền Quát là lễ rước thuỷ và rước bộ.
Trong phần thi bơi trải, người tham gia phải là những thanh niên khoẻ mạnh, được tuyển chọn rất kỹ càng từ các xóm chài. Các đội thuyền trước khi bước vào cuộc thi đều thực hiện nghi lễ dâng hương để xin mùa cá bội thu, nhân dân no ấm. Những người tham gia thi bơi đầu đều chít khăn, có thắt lưng, mặc áo cổ vuông và khác màu để phân biệt giữa các đội. Thuyền đua được thiết kế dạng thuyền rồng dài, hẹp và có độ lướt cao. Đường đua là đoạn sông thẳng nhất, được cắm cây nêu gắn cờ đuôi nheo để đánh dấu đích đến. Khi tiếng trống hiệu gõ một hồi, một tiếng xong, các đội thi bắt đầu thi đấu trong tiếng reo hò, cổ vũ đầy phấn khích của Lễ hội.
Lễ hội đền Quát thể hiện tinh thần thượng võ cao đẹp của dân tộc Việt Nam, phảng phất nét tương đồng với lễ cầu ngư của ngư dân duyên hải Trung Bộ.
50
25. Lễ hội đền Sượt (Hải Dương)
Đền Sượt còn có các tên gọi khác nhau như: Thanh Cương linh từ, Quang Liệt miếu, ở phường Thanh Bình, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Đền đã được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hoá văn hóa cấp quốc gia năm 1992. Địa danh này gắn liền với tên tuổi Đức Thánh Vũ Hữu (có tài liệu ghi là Vũ Hựu - BT) - người có công lớn trong việc phò vua Lê Chiêu Tông đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi năm xưa. Để tưởng nhớ công ơn của Ngài, người dân làng Sượt đã lập đền thờ và hằng năm tổ chức tế lễ long trọng.
Thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám 1945, cứ từ ngày 10 đến 20 tháng Ba âm lịch, người dân làng Sượt lại mở hội tế lễ để tưởng nhớ công ơn của Đức Thánh và theo chu kỳ 10 năm một lần làng lại tổ chức đánh bệt. Lễ hội gồm các nghi lễ như: lễ mộc dục, lễ dâng hương, lễ rước kiệu thánh, lễ tế ngoại tán, xin âm dương,... Ngoài ra, trong thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như: đấu vật, kéo co, bóng đá, bóng chuyền, đua thuyền, đập niêu, giã bánh dày...
Ngày nay, Lễ hội Đền Sượt được tổ chức vào hai ngày, mùng 9 và 10 tháng Ba âm lịch hằng năm với hai phần Lễ và Hội
Phần Lễ diễn ra liên tục trong hai ngày: Mùng 9 tháng Ba: Tổ chức Lễ Mộc dục, đón khách thập phương về dâng hương.
Tối mùng 9 tháng Ba: Ban khánh tiết sửa lễ gồm: xôi, gà, rượu trắng, trầu cau, vàng hương làm lễ cáo yết tại đền.
51
Ngày 10 tháng Ba: Buổi sáng, Ban khánh tiết sắm lễ xôi gà, rượu trắng, trầu cau, hương hoa dâng Đức Thánh tại đền. Sau đó, dân làng tổ chức rước kiệu từ đền, qua khu lăng mộ Đức Thánh đến đình rồi về đền. Đi đầu là đội múa lân, rồi đến đội cờ hội, bát biểu, kiệu long đình do tám thanh niên chưa vợ
khiêng. Sau kiệu là những mâm lễ vật của dân làng. Sau khi đoàn rước về ổn định tại sân đền, kiệu được đưa vào hậu cung thì các màn tế lễ mới diễn ra.
Phần Hội: Hội đền Sượt ngày nay tuy không tổ chức các trò diễn như ngày xưa, song vẫn còn giữ được một số trò chơi mang đậm tính dân gian như: chọi gà, thi đấu cờ tướng, hát chèo,... Từ năm 1999, trò đánh bệt được tổ chức lại.
Lễ hội đền Sượt từ xưa đã được coi như là một lễ hội vùng có quy mô lớn, thu hút nhân dân từ các tỉnh lân cận như: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng về dự. Ngày nay, đền Sượt vẫn là một trung tâm tín ngưỡng trong đời sống tâm linh của mọi người dân.
Lễ hội đền Sượt không chỉ mang ý nghĩa giáo dục truyền thống oai hùng và đạo lý “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của dân tộc, mà còn là hoạt động để gắn kết cộng đồng, cùng đoàn kết, chung tay xây dựng xóm làng ngày một phát triển và giàu đẹp, như một sự tri ân đối với Đức Thánh nói riêng và các thế hệ ông cha ta nói chung đã xả thân vì hòa bình và độc lập của dân tộc, vì sự tiến bộ và phát triển chung của đất nước.
26. Hội chọi trâu Đồ Sơn (Hải Phòng)
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là lễ hội truyền thống của người dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng,
52
được tổ chức chính thức vào mùng 9 tháng Tám âm lịch hằng năm. Trước đó còn có hai cuộc đấu loại vào trung tuần tháng Năm và mùng 8 tháng Sáu âm lịch. Đây không chỉ là một ngày hội gắn với tục thờ cúng Thuỷ thần và tục hiến sinh mà còn thể hiện tinh thần thượng võ của người dân miền biển Hải Phòng.
Lễ hội chọi trâu cũng như nhiều lễ hội khác có hai phần, phần Lễ và phần Hội đan xen. Từ mùng 1 tháng Tám, các vị cao niên trong làng đã ra làm lễ tế thần Điểm Tước ở đình Tổng. Làng nào có trâu chọi đều phải ra làm lễ. Tiếp đó là lễ rước nước (gắn với tục tế Thuỷ thần). Lọ nước thần mỗi năm thay một lần được từng làng (phường) mang về đình riêng. Tại đình làng, các chủ trâu được cho trâu ra làm lễ Thành Hoàng. Sau khi làm lễ thần, trâu chọi đã chính thức được gọi là “Ông trâu”, là biểu tượng của tâm linh, là niềm tin và ước vọng của dân làng. Đến ngày chính hội, người dân địa phương háo hức kéo nhau ra đình. Các “Ông trâu” được rước từ đình ra sới đấu với kiệu bát cống, long đình bát biểu, cờ
thần bay phấp phới, rộn rã trong tiếng nhạc bát âm. Đúng 8 giờ sáng, tiếng trống, tiếng chiêng khai hội, dịch loa gọi các “Ông trâu” vào trận vang lên. Từ hai cổng bắc - nam của sới đấu, từng đôi trâu được dắt ra đứng dưới chân cột cờ Ngũ Phụng. Khi hiệu lệnh đầu tiên phát ra, hai trâu từ hai phía di chuyển lại gần nhau hơn, cách nhau chừng 20m. Khi có hiệu lệnh bắt đầu trận đấu, người dắt trâu đột nhiên rút dây xỏ mũi để hai “Ông trâu” lao vào nhau bắt đầu tỉ thí so tài.
53
Theo quan niệm cổ xưa, trâu làng nào thắng trận trong lễ hội thì làng ấy sẽ gặp nhiều may mắn, mưa thuận gió hòa quanh năm, mọi người bình yên trong suốt hành trình đi biển. Điểm đặc biệt của Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là, dù thắng hay thua, sau khi kết thúc Lễ hội, các “Ông trâu” đều được mổ thịt để tế lễ trời đất, cầu mùa màng tươi tốt. Người dân địa phương tin rằng, nếu được ăn thịt trâu chọi trong dịp Lễ hội, sẽ gặp nhiều điều may mắn.
Phần Hội diễn ra vào ngày chính hội với nhiều hoạt động mang đậm bản sắc dân tộc. Điệu múa khai hội được 24 thanh niên trai tráng chia thành hai hàng biểu diễn, vừa uyển chuyển, vừa mạnh mẽ, màu sắc biến hóa linh hoạt trong tiếng trống, thanh la rộn rã. Với màn múa cờ, những lá cờ được vung lên, quật xuống một cách mạnh mẽ, dứt khoát nhưng cũng rất nhịp nhàng, mềm mại, có lúc lại đan chéo vào nhau như hai đội quân đang giao chiến, thể hiện sự dũng cảm chống chọi với biển khơi của con người.
27. Lễ hội đền Bà Lê Chân (Hải Phòng)
Vào mùng 8 tháng Hai âm lịch hằng năm, người dân miền biển Hải Phòng và du khách thập phương lại náo nức về dự Lễ hội đền Bà Lê Chân (đền Nghè) - một trong những lễ hội lớn nhất trong năm của thành phố Cảng để tưởng nhớ và tôn vinh công lao to lớn của nữ tướng Lê Chân - vị nữ tướng tài giỏi, từng lập nhiều chiến công hiển hách trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, người đã có công khai sinh ra trấn Hải Tần phòng thủ, tiền thân của thành phố Hải Phòng ngày nay.
54
Lễ hội được chia thành hai phần Lễ và Hội. Điểm nhấn của phần Lễ là đám rước. Trong suốt quãng đường rước, cả đoàn rước luôn giữ thái độ nghiêm trang, thành kính, tỏ lòng biết ơn vị Thành Hoàng của đất Cảng. Đám rước xuất phát từ đền Nghè về tới đình An Biên thì dừng lại. Long ngai, mũ ấn và các đồ tế khí được đưa vào trong đình ngự ở đó suốt ba ngày. Sau đám rước là lễ tế gợi nhắc công ơn của nữ tướng Lê Chân đối với dân tộc và đối với thành phố Hải Phòng. Trong lễ tế này, các sắc phong của các triều đại dành cho Bà cũng được đọc lên trước sự
thành kính của dân làng.
Theo truyền thống, lễ vật dâng lên Thánh Mẫu Lê Chân ngoài hương hoa, xôi quả, còn có lợn đã thịt và làm sạch, bỏ lòng, gan để tế sống. Sau lễ tế, thịt này sẽ được chia đều cho dân làng. Ngoài ra, lễ vật không thể thiếu: bánh giày, gà, ngan, sò, ốc, cua bể
và bún bởi tương truyền đó là những món ăn mà sinh thời Bà Lê Chân ưa thích.
Phần Hội diễn ra hấp dẫn bao gồm nhiều sinh hoạt văn hóa mang đậm nét truyền thống như: biểu diễn pháo đất, võ dân tộc, mở phiên chợ quê, múa lân sư, trống hội hay các tiết mục văn nghệ: hoạt cảnh chèo, hợp ca, diễn xướng châu văn, hát dân ca, hát ca trù, chèo cổ, nhạc cụ dân tộc, kịch…
28. Lễ hội vật cầu Kim Sơn (Hải Phòng)
Tương truyền, vật cầu vốn là môn thể thao do tướng Phạm Ngũ Lão (đời Trần) nghĩ ra để rèn luyện quân sĩ. Về sau, nhân dân làng Kim Sơn, xã
55
Tân Trào, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng thường chơi trò chơi này vào dịp đầu năm để đón xuân mới, lâu dần trở thành Lễ hội vật cầu truyền thống của làng Kim Sơn, thường tổ chức vào mùng 6 tháng Giêng âm lịch hằng năm ngay tại sân đình.
Ngay từ sáng 30 Tết, 3 giáp và nhân dân trong làng đã nô nức chuẩn bị làm cổng chào. Theo tục lệ, tối 30 Tết cả làng lại ra đình làng để tế Thành Hoàng làng.
Trong làng có 24 dòng họ và được chia làm ba giáp. Mỗi giáp phải chọn 6 người trong đó có một người làm tổng cờ mặc võ phục đầu chít khăn, chân quấn xà cạp, tay cầm cờ đuôi nheo để chỉ huy giành giật cầu và 5 đô vật là những thanh niên cường tráng và chưa lập gia đình. Mỗi giáp phải dựng một cổng chào biểu tượng cho giáp của mình (giáp áo đỏ, giáp áo vàng, giáp áo xanh).
Quả cầu được làm bằng củ chuối hột già, nặng 20kg, đường kính 30-40cm, bên ngoài bọc giấy hồng, có gắn hình tứ linh: long, ly, quy, phụng. Sau khi trang trí xong thì được đặt lên mâm bồng trong kiệu để ở án thờ trong đình làng .
Sới vật cầu trên sân đình có hình con nhạn bằng cát đen. Lỗ cầu cái đào ở giữa sân, chính rốn con nhạn, có đường kính khoảng 1m, sâu chừng 0,7m, ba góc sân có 3 lỗ cầu quân nhỏ hơn.
Chiều mùng 5 Tết Nguyên đán, nhân dân và Ban tổ chức Lễ hội tiến hành tế Thành Hoàng và tế cầu. Sáng mùng 6 Tết, ngay từ 7 giờ, các già làng đã tổ chức làm lễ rước cầu từ bên trong đình ra
56
ngoài sân đình và ban lộc cho các giai vật cầu. Đúng giờ Thìn (10 giờ sáng) kiệu được rước ra đình. Đoàn rước cầu gồm: kiệu rước ảnh Bác Hồ, đoàn cờ hội, bát âm, bát biểu, quả cầu biểu tượng, quả cầu vật, đoàn tế nam, đoàn tế nữ, tổ múa cờ, múa rồng, tổ trọng tài, sau đó mới là đoàn giai vật cầu. Quả cầu được đặt vào lỗ cái. Sau tiếng trống hiệu, cuộc vật bắt đầu. Vào cuộc, giai cầu nhảy xuống lỗ cầu cái, tung cầu lên. Quả cầu tròn, nhẵn lại rắn, nặng được các giáp chơi ra sức tìm cách đưa về sân nhà. Tiếng trống thúc, tiếng người hò reo không ngớt khiến cuộc thi càng trở nên hấp dẫn. Mỗi trận vật cầu gồm 3 hiệp, mỗi hiệp 3 phút. Giáp đưa được quả cầu về sân mình nhiều số lần nhất là đội thắng cuộc. Kết thúc hội, quả cầu được ném xuống hồ bán nguyệt trước cửa đình. Người dự hội thường ào xuống tranh giành lấy một miếng để lấy “phước” của thần làng.
Lễ hội vật cầu Kim Sơn là một lễ hội đặc sắc, thu hút hàng nghìn du khách tham gia mỗi năm.
29. Lễ hội đu Mường Vôi (Hòa Bình)
Cứ hai năm một lần, vào dịp Lễ khai hạ mùng 7 tháng Giêng âm lịch tính theo lịch Mường là mùng 8 tháng Giêng âm lịch, Lễ hội đu Mường Vôi lại được tổ chức tại xã Liên Vũ, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Lễ hội gồm hai phần Lễ và Hội. Phần Lễ dâng hương Thành Hoàng trong phần Lễ của Lễ hội nhằm tạ ơn người đã có công khai khẩn đất hoang,
57
lập nên Mường, nên xóm và cầu mong một năm mới mưa thuận, gió hòa, mùa màng sinh sôi, làm ăn phát đạt, nhà nhà yên vui, bản mường no ấm. Ngay từ sáng sớm, các vị chức sắc, già làng đã sắm ba mâm cỗ chuẩn bị lễ dâng hương. Đoàn sắc bùa do chị em phụ nữ mặc áo dài thụng đi trước, vừa đi vừa đánh chiêng, theo sau là ba cô gái bưng lễ vật dâng cúng, gồm: xôi, gà, vàng hương cùng những người cao tuổi tiến lễ lên Thành Hoàng làng. Thay mặt cho dân làng, ông mo mặc áo thụng, đầu đội mũ tai én dâng hương trước, ông Trưởng làng phụ lễ công, hai cụ ông, cụ bà được cử đại diện dân làng Vôi cùng kính cẩn làm lễ dâng rượu lên Thành Hoàng.
Xuất phát từ quan điểm mong cầu có thêm sức khoẻ, cần cù, chịu khó để cây lúa thêm bông, hoa kết trái, bản Mường ấm no hạnh phúc, nên phần Hội của Lễ hội đu Mường Vôi được bắt đầu bằng màn chung đu của cặp đôi trai tài, gái sắc đã được dân bản lựa chọn trước ngày hội.
Sau khi cột đu được dựng lên, từng cặp trai gái bước vào cuộc chơi. Khởi đầu phải có người kéo chiếc đu để lấy đà, sau đó tự người chơi phải nhún theo nhịp để đẩy chiếc đu lên cao dần. Đôi thắng cuộc thường là các cặp đôi tâm đầu, ý hợp, có sức mạnh, có bản lĩnh, lòng tự tin và dũng cảm.
Ngoài chơi đu, trong phần Hội của Lễ hội còn diễn ra nhiều trò chơi dân gian độc đáo của người Mường như: thi đánh mảng, thi kéo co, ném còn,... Đặc biệt, trong lễ Lội đu Mường Vôi còn có màn hát đúm của các nghệ nhân cao niên.
58
Lễ hội đu Mường Vôi mang đậm bản sắc văn hóa của người Mường Vôi nói riêng và của bà con dân tộc Mường ở huyện Lạc Sơn nói chung. Lễ hội không những có ý nghĩa to lớn về giá trị văn hóa mà còn là dịp để bà con dân bản tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên, những người đã có công đi khai dân mở đất.
30. Lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung (Hưng Yên)
Lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung (hay còn gọi là Lễ hội Đa Hòa - Dạ Trạch) được tổ chức từ ngày 10 đến 12 tháng Hai âm lịch hằng năm, ở hai ngôi đền là đền Đa Hòa (xã Bình Minh) và đền Hóa (xã Dạ
Trạch) cùng ở huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Đây là một trong 16 lễ hội lớn nhất cả nước, gắn với truyền thuyết tình yêu bất tử và lãng mạn giữa chàng trai đánh cá nghèo ven sông Chử Đồng Tử - một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt (Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh) với Tiên Dung - con gái thứ hai của Hùng Vương thứ 18. Lễ hội mở màn với lễ rước kiệu Thánh từ đình làng về đền Đa Hòa của đội rước các làng thuộc tổng Mễ. Đi đầu đoàn rước là con rồng dài hơn 20m được 30 thanh niên trai tráng thay nhau múa theo điệu trống thúc liên hồi. Theo sau là hai hàng các bà, các chị, các cô trang phục đủ sắc màu rực rỡ tay cầm cờ hội, trống chiêng, cùng ngựa hồng, ngựa bạch, gươm trường bát bửu, phường đồng văn, đội múa sinh tiền, đội múa nón, đội nhạc lễ. Sau lễ rước là nghi thức rước nước từ sông Hồng về lễ Thánh. Đám rước uy nghi, do rồng vàng dẫn đầu, theo sau là hội rước cờ,
59
trống, phường bát âm, múa sinh tiền, kiệu long đình, kiệu choé nước, kiệu đặt nón gậy, kiệu “Bế ngư thần quan”, rồi tới ba kiệu rước Chử Đồng Tử, Tiên Dung công chúa, Tây Sa công chúa. Sau khi lấy được nước ở
sông Hồng, các kiệu quay trở về đền Hóa để làm lễ Thánh. Theo tục lệ, nước được dùng để cúng phải là nước lấy ở giữa sông Hồng. Người đại diện cho dân làng lấy nước là cụ già có đức độ trong làng. Nghi thức dâng nước vào đền do hai bô lão cùng hai nam, hai nữ đã được cân nhắc, tuyển chọn từ trước thực hiện. Dâng nước là hình thức tâm linh cầu nguyện một
năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu. Ngoài những nghi lễ trang trọng, thành kính, Lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung còn có nhiều trò chơi dân gian, các hoạt động văn hóa - văn nghệ đặc sắc mang đậm nét văn hóa của nền văn minh sông Hồng. Lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung mang giá trị văn hoá sâu sắc, là bức tranh về đời sống hết sức phong phú, sinh động của người Việt cổ vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ trong việc khai phá đầm lầy, phù sa ven sông Hồng từ hàng nghìn năm về trước. Đây không chỉ là huyền thoại về tình yêu mà còn là bài ca về lòng hiếu thảo, về đạo làm người, là minh chứng của nền văn minh lâu đời của dân tộc Việt Nam.
31. Lễ hội đền thờ Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (Hưng Yên)
Lê Hữu Trác (1720-1791), quê gốc ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh
60
Hưng Yên). Ông sinh ra trong một danh gia vọng tộc, lớn lên thi đậu tam trường nhưng khi cha mất ông bỏ đường cử nghiệp chuyển sang học võ, nghiên cứu binh thư và đã giành được nhiều thắng lợi khi tham gia trận mạc. Về sau, chán cảnh máu chảy đầu rơi nơi chiến trận, ông xin về sống ở quê mẹ là xóm Bàu Thượng, xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh và chuyên tâm nghiên cứu nghề thuốc. Ông tự đặt cho mình hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, trở thành một thầy thuốc, một danh sư nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Sau khi ông mất được nhân dân và giới y
học cả nước suy tôn là bậc “Y thánh của Việt Nam”. Lễ hội truyền thống đền thờ Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác được tổ chức vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch hằng năm tại thôn Liêu Xã, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, để tưởng nhớ đến công lao to lớn của vị đại danh y Lê Hữu Trác, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “tôn sư trọng đạo” của nhân dân ta.
Phần Lễ của Lễ hội bao gồm hoạt động tế lễ của 4 đội tế đến từ các thôn trong xã và hoạt động dâng hương của nhân dân địa phương cùng du khách thập phương. Phần Hội diễn ra sôi nổi với các trò chơi dân gian truyền thống như: múa kỳ lân, chọi gà, thi đấu cờ tướng,... thu hút sự tham gia, cổ động của đông đảo người dự lễ hội.
32. Lễ hội đền thờ Tống Trân (Hưng Yên)
Đền thờ Tống Trân có tên tự là “Tiên căn ninh tự” - nhân dân thường quen gọi là “đền Quan Trạng” -
61
nằm trên một khu đất cao thoáng mát ở thôn An Cầu, thờ “Lưỡng quốc Trạng nguyên” Tống Trân - người con tài danh của đất Hưng Yên nghìn năm văn hiến.
Lễ hội đền Tống Trân được tổ chức từ mùng 9 đến rằm tháng Tư âm lịch hằng năm. Thành thông lệ, sau khi mở cửa đền, tế lễ khai hội, mùng 10, dân làng An Cầu làm lễ rước nước và nghiên bút từ ngã ba sông Luộc, khu vực bến đò Nông thuộc thôn An Cầu về đền. Trong hai ngày 11, 12, khách thập phương và nhân dân trong làng tiếp tục dâng hương. Sang ngày 13 thì làm lễ rước thần từ các đình, đền trong làng về đền để cùng dự hội. Ngày 14 xã tổ chức khai hội, đến ngày 15 thì tế lễ Thánh và tổ chức phần Hội.
Trong những ngày diễn ra lễ hội, phần đặc sắc nhất, tạo sự khác biệt của lễ hội đền Tống Trân với các lễ hội khác là lễ rước nước và rước nghiên bút. Đây không đơn thuần là một nghi lễ được lưu truyền, gìn giữ từ xa xưa mà còn là một nét đẹp văn hóa tôn vinh việc học hành.
Cùng với phần Lễ với những nghi thức đặc sắc, phần Hội của Lễ hội đền Tống Trân cũng diễn ra sôi nổi cả ngày lẫn đêm với các trò chơi đa dạng như: hát chèo, hát quan họ, đánh cờ người, chọi gà, bóng đá, bóng chuyền,…
Lễ hội đền Tống Trân là một lễ hội đặc biệt. Đặc biệt từ chính người được tôn thờ tại đền không chỉ là bậc hiền tài mà đã trọn vẹn cả chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Nghĩa.
62
33. Lễ hội đền Ủng (Hưng Yên)
Đền Ủng thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão, một danh tướng thời Trần, người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược ở thế kỷ XIII. Ông là vị tướng văn võ song toàn, được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hết sức tin cậy, bồi dưỡng, tiến cử với triều đình và trở thành vị tướng phò tá ba đời vua nhà Trần. Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng (nay là xã Phù Ủng, huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên). Để tưởng nhớ đến một vị tướng tài danh là người con của quê hương, dân làng Phù Ủng đã lập đền thờ Phạm Ngũ Lão ngay trên nền đất cũ của nhà ông.
Lễ hội đền Ủng được tổ chức vào ngày 11 tháng Giêng âm lịch hằng năm, để tưởng nhớ tướng quân Phạm Ngũ Lão.
Lễ hội gồm phần Lễ và phần Hội. Chính hội bắt đầu vào ngày 11 tháng Giêng - ngày Tướng quân Phạm Ngũ Lão ra quân đánh giặc với các nghi lễ: đại lễ, tế nội tán, ngoại tán. Lễ hội được mở đầu với nghi thức rước công chúa Tĩnh Huệ (con gái Phạm Ngũ Lão) từ phủ Chúa về lăng Phạm Tiên Công để
trình ông và rước về đền Phạm Ngũ Lão để trình cha. Tham gia đoàn rước có các đội cờ lễ, múa lân, rồng, bài vị, đội khiêng kiệu hoa, khiêng kiệu công chúa. Sau nghi lễ rước truyền thống từ phủ Chúa về
Đền, dân làng và du khách tổ chức lễ dâng hương, ôn lại thân thế, sự nghiệp và công lao của tướng quân Phạm Ngũ Lão với đất nước.
63
Phần Hội diễn ra sôi nổi, vui vẻ nhằm mong cầu một năm vạn sự thuận lợi, may mắn với các trò chơi dân gian như: cờ tướng, chọi gà, múa rối, kéo co, hát quan họ, xin chữ đầu xuân, thi vật cù, nhảy mô đống,… thu hút đông đảo du khách cổ vũ và tham gia.
Lễ hội truyền thống đền Phù Ủng mang giá trị văn hóa sâu sắc, không chỉ nhằm tưởng nhớ công lao của danh tướng họ Phạm mà còn giáo dục cho các thế hệ đi sau ý chí vươn lên, yêu quê hương, đất nước cũng như minh chứng về nền văn hiến lâu đời của dân tộc.
34. Lễ hội Gầu Tào (Lai Châu)
Lễ hội Gầu Tào ở tỉnh Lai Châu thường được tổ chức từ mùng 4 đến 6 tháng Giêng âm lịch hằng năm, xưa kia được coi là một hình thức tâm linh của người Mông, nay đã trở thành trung tâm của mọi lễ hội trong mùa xuân đối với người Mông, Hà Nhì, Dao, Lô Lô,... sinh sống tại tám xã biên giới khu vực Dào San, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Những cụ già người Mông kể lại, trước đây, lễ Gầu Tào do những gia đình giàu có, không có con hay sinh con một bề trong năm làm ăn không phát đạt, gặp nhiều rủi ro đứng ra tổ chức để cầu Thần Đất sang năm mới ban cho sức khỏe, đông con nhiều cháu, mùa màng bội thu, bản làng hòa thuận, êm ấm. Ngày nay, lễ hội Gầu Tào chủ yếu mang ý nghĩa vui xuân, cầu cho mưa thuận gió hòa, người người mạnh khỏe, nhà nhà hạnh phúc,... Lễ hội cũng không còn do riêng một gia đình tổ chức mà đã trở
thành ngày hội chung cả vùng cao nguyên Dào San. 64
Ngày mở hội Gầu Tào, người ta chọn một cây tre to, cao, chắc chắn để làm cây nêu, trồng ở giữa một bãi đất bằng phẳng, rộng rãi. Trên cây nêu mang một bầu rượu, túm thóc nương, bắp ngô và những dải băng nhiều mầu sắc để kính thần linh trên trời, dưới đất. Các chàng trai khỏe mạnh cùng nhau mổ trâu để làm cỗ cúng Thần Đất, mong năm mới con người sinh sôi, mưa thuận gió hòa. Chủ lễ, thường là già làng, trưởng bản có uy tín, sẽ thay mặt bà con thực hiện nghi lễ huyền bí, linh thiêng.
Sau phần Lễ là phần Hội vui vẻ và náo nhiệt, kéo dài trong ba ngày với nhiều trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc như: thi bắn nỏ, thi đẩy gậy, thi leo cây, thi kéo co, hát giao duyên, làm xiếc,... Các thiếu nữ Mông xúng xính váy áo tham gia trò chơi kéo co; thiếu nữ Hà Nhì duyên dáng trong những điệu múa dâng các vị thần, cầu mong che chở cho con người. Các chàng trai cường tráng ưỡn ngực lên dây thi bắn nỏ; những bàn tay gân guốc, rắn chắc thoăn thoắt như sóc, chinh phục đỉnh cao trong trò chơi thi leo cây mang ý nghĩa cầu mong năm mới lên rừng bắn được nhiều thú, khai khẩn được đám nương tốt.
Lễ hội Gầu Tào cũng được coi là tín hiệu báo mùa xuân đã về trên cao nguyên Dào San.
35. Lễ hội Hoa Ban (Lai Châu)
Lễ hội Hoa Ban là một trong những lễ hội quan trọng của đồng bào dân tộc Thái ở tỉnh Lai Châu, được tổ chức vào ngày 13 tháng Hai âm lịch hằng
65
năm, khi tiết xuân bắt đầu ấm lên. Lễ hội không chỉ mang ý nghĩa là ngày hội của tình yêu và hạnh phúc, tưởng nhớ đến sự tích tình yêu của đôi trai gái dân tộc Thái, mà còn là dịp để bày tỏ đạo hiếu đối với ông bà, cha mẹ, thỉnh cầu Thần Rừng, Thần Hang ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Sau mùa mưa, khi Hoa Ban bắt đầu nở trắng
núi rừng, người Thái ở Tây Bắc bắt đầu đi trẩy hội. Lễ hội Hoa Ban bắt nguồn từ một sự tích của dân tộc Thái. Truyện kể rằng, nàng Ban là một cô gái xinh đẹp nhưng bị bệnh đậu mùa, nên nàng không lấy chồng mà lên hang Thẳm Lé (nay thuộc xã Sơn Thịnh, huyện Văn Chấn) sinh sống. Cuối cùng, nàng kiệt sức ở đó. Nơi nàng nằm xuống sau đó mọc lên một cây hoa có búp trắng như búp tay người con gái và chẳng bao lâu, loài hoa ấy mọc lan ra khắp vùng Tây Bắc. Người ta đặt tên loài hoa đó là hoa Ban. Hằng năm, cứ mỗi độ xuân về, hoa Ban lại nở trắng núi rừng Tây Bắc và người Thái khắp vùng Tây Bắc nói chung, Lai Châu nói riêng đều háo hứng đi trẩy hội.
Ngày hội Hoa Ban sôi nổi với những trò diễn độc đáo. Tiếng pí, tiếng khèn, tiếng trống chiêng hòa lên rộn rã, âm vang. Con trai thổi khèn, con gái dập dìu múa điệu múa hái hoa. Ngày Hội Hoa Ban còn là dịp để đôi lứa gặp nhau, hò hẹn, tâm tình. Các chàng trai ngắt những bông hoa Ban đầu xuân đẹp nhất cài lên mái tóc của người mình yêu; các cô gái e ấp, thẹn thùng nép mình dưới những tán cây Ban xanh non để cùng nhau du xuân, trẩy hội và giao ước.
66
36. Lễ hội đầ̀u pháo Kỳ Lừa (Lạng Sơn)
Lễ hội đầu pháo Kỳ Lừa được tổ chức từ ngày 22 đến ngày 27 tháng Giêng âm lịch tại đền Tả Phủ, chợ Kỳ Lừa, xã Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Nhưng thực ra, không khí ngày hội đã có thể nhận thấy ngay từ sau rằm tháng Giêng. Từ ngày 16 trở đi, trong đền Tả Phủ, đèn nến được thắp sáng trưng, khói hương nghi ngút suốt ngày đêm. Trong những ngày này, người dân nơi đây tổ chức đón rước thổ công, thần thánh ở các đền miếu lân cận về dự hội. Từ ngày 16 đến ngày 21, các gia đình có “đầu pháo” lấy được từ năm trước sẽ đem trả lại đền, kèm theo món lễ tạ và những tràng pháo để thông báo cho hàng phố biết. Sáng 22, sau khi khai mạc lễ hội, sẽ có một đoàn thanh niên trai tráng, trang phục chỉnh tề, gọi là “đồng nam”, rước cỗ kiệu đã được trang hoàng lộng lẫy; một đoàn thiếu niên, gọi là “đồng tử”, khiêng đình hoàng trầm cùng với đội sư tử Kỳ Lừa múa một vòng quanh sân đền rồi hướng thẳng xuống đền Kỳ Cùng để rước thần sông Kỳ Cùng về dự hội. Sau khi hoàn thành xong lễ đón rước, đúng giờ Ngọ, đoàn kiệu rước thần sông Kỳ Cùng quay về đền Tả Phủ. Trên quãng đường đoàn kiệu rước qua, các gia đình bày biện mâm lễ, cúng xôi, gà, hoa quả để cầu may, cầu tài lộc và đốt pháo chào mừng. Hai ngày 23, 24 là thời gian tổ chức lễ̃ tế và chuẩn bị đầu pháo. Trong lễ hội này, một dây pháo dài khoảng 8 tấc, to 1,5cm, đầu pháo có vòng đồng đính, sẽ được làm để dùng trong
67
lễ đốt. Ngày 25, 26 sẽ tổ chức đốt đầu pháo, đây là đỉnh điểm của lễ hội, thu hút được đông đảo người tham gia. Quyền châm lửa đốt pháo thuộc về người năm trước đoạt giải, giây phút quyết định sẽ đến khi quả pháo đại nổ hất tung vòng thép đỏ (đầu pháo) lên không trung, rơi xuống và mọi người sẽ vào nhặt lấy. Người nào cướp được vòng đồng ở đầu pháo sẽ
được thưởng một con gà, một cân xôi, một cân rượu và quan trọng hơn cả là năm ấy, họ sẽ được mạnh khỏe, phát tài.
Ngày 27, đúng giờ Ngọ đoàn kiệu lại rước quay trở lại, trả thần sông về đền Kỳ Cùng và đưa thổ công, thần thánh về các miếu lân cận để kết thúc lễ hội.
36. Lễ hội đền Bắc Lệ (Lạng Sơn)
Đền Bắc Lệ nằm trong địa phận xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, thờ bà Chúa Thượng Ngàn - một trong ba vị Mẫu trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam. Lễ hội đền Bắc Lệ
được tổ chức trong vòng ba ngày, từ ngày 18 đến 20 tháng Chín âm lịch hằng năm.
Lễ hội gồm có các phần lễ chính như lễ tắm ngai, lễ chính tiệc, lễ rước. Lễ tắm ngai diễn ra trước lễ rước. Người dân lấy nước suối ở đền Bắc Lệ để lau rửa cho tượng Mẫu đệ nhất Thượng Ngàn và ngai đức vua cha Ngọc Hoàng. Lễ̃ chính tiệc bao giờ cũng có cỗ tam sinh (lợn, gà, cá) làm vật hiến tế, ngoài ra còn có nhiều đồ mã lễ khác như voi, ngựa, thuyền, mũ, hình nhân,... Cỗ tam sinh được dâng cho ban Công đồng, ban Ngũ vị Tôn Ông, cỗ chay (có khi cả mặn) cho ban
68
Mẫu. Sau lễ hiến cỗ tam sinh, Thánh Mẫu được rước đi xem hội trong tiếng chiêng, trống rộn ràng. Đoàn rước sẽ đến đền Đèo Kẻng (một di tích liên quan đến đền Bắc Lệ) làm lễ tế. Tế xong lại quay về đền Bắc Lệ
làm lễ đại tế.
Trong ý thức của người dân địa phương, Lễ hội đền Bắc Lệ là cái tết lớn trong năm. Qua hàng trăm năm, đền Bắc Lệ trở thành điểm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân địa phương, điểm đến của người dân Việt Nam trên mọi miền Tổ quốc với niềm tin chân thành, trong sáng vào Tiên Thánh, vào Mẫu - người Mẹ linh thiêng của dân tộc.
37. Lễ cấp sắc của người Dao đỏ (Lào Cai)
Người Dao đỏ ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai sinh sống tập trung chủ yếu ở các xã Nậm Khánh, Nậm Đét, Bản Liền, Cốc Lầu với nhiều phong tục truyền thống tốt đẹp. Song có lẽ Lễ cấp sắc vẫn là một trong những nghi lễ chính có giá trị nhân văn và mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống riêng của người Dao đỏ ở Hà Giang.
Theo truyền thống, người đàn ông dân tộc Dao phải sau thụ lễ cấp sắc mới được coi là người trưởng thành hoàn toàn về thể chất cũng như tâm linh. Người đã qua lễ cấp sắc thì dù là trẻ con vẫn được coi là người lớn, được ngồi với già làng, được tham gia cúng bái hoặc giúp việc cho những thầy cúng trong các cuộc cúng lễ của gia đình cũng như cộng đồng.
Cấp sắc là một trong những nghi lễ quan trọng của đồng bào dân tộc Dao, có giá trị nhân văn, được
69
thể hiện ở các điều giáo huấn, tuyệt đối kỵ làm việc ác, điều xấu,… ghi trong sắc cấp cho người thụ lễ. Lễ cấp sắc thường được tổ chức vào tháng Mười một, Mười hai âm lịch hoặc tháng Giêng năm sau. Đó là khoảng thời gian nông nhàn. Ngày lễ cấp sắc thường được lựa chọn rất kỹ lưỡng. Lễ cấp sắc ở mỗi bậc cấp đều có những khác biệt nhất định trong trình tự hành lễ. Tuy nhiên, có hai phần lễ chính là lễ quá tăng (qua đèn), gồm các phần: trình diện, cấp đèn, hạ đèn, đặt pháp danh, qua cầu; lễ tẩu Slai (lễ thăng cấp), gồm: lễ lên đèn, ban mũ, lễ trình diện Ngọc Hoàng, lễ tơ hồng, lễ thăm thiên đình. Sau khi các nghi lễ kết thúc, thầy làm lễ sẽ tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho buổi lễ suôn sẻ, đồng thời hạ những vật phẩm làm lễ để mọi người cùng thụ lộc. Bên cạnh phần lễ nghi tôn nghiêm, trang trọng, nhân dịp này, người dân trong bản cũng quây quần, cùng múa các điệu múa cổ truyền dân gian độc đáo của người Dao với nhiều loại nhạc cụ như: thanh la, não bạt, trống, chuông lắc,... Các điệu múa có thể kéo dài hàng giờ, không khí đông vui như ngày hội.
39. Lễ hội đền Bảo Hà (Lào Cai)
Đền Bảo Hà nằm dưới chân đồi Cấm, bên cạnh dòng sông Hồng chảy vào miền đất Việt, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Nhìn từ xa, đền Bảo Hà rất uy nghi, tĩnh mặc; lưng tựa vào núi, mặt hướng ra sông Hồng và được xây dựng theo lối kiến trúc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Phong cảnh thiên nhiên nơi đây cũng thật hữu tình: trên bến, dưới
70
thuyền, xung quanh là núi rừng bao la, rộng lớn xanh mướt một màu.
Đền được xây dựng gồm: cổng tam quan, sân đền, nhà khách, phủ chúa Sơn Trang, Toà đại bái, Cung cấm, Cung nhị, Cung cộng đồng với diện tích, bài trí các pho tượng khác nhau, kiến trúc đơn giản không cầu kỳ. Trong các cung thờ chính của đền có các pho tượng: Đức Thánh Trần, Đức Vua Cha, Quan Tuần Trang, ông Hoàng Bảy, ông Hoàng Đông quan Bơ phủ, Mẫu Nhị, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thuỷ Tiên, Thiên Phúc Thiên Nhãn.
Đền thờ thần vệ quốc Hoàng Bảy, một vị anh hùng miền sơn cước có công đánh giặc phương Bắc, bảo vệ bản làng. Theo truyền thuyết kể lại, vào cuối đời Lê, niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786) khắp vùng Quy Hóa, gồm châu Thủy Vĩ và châu Văn Bàn (thuộc Lào Cai bây giờ) luôn bị giặc vùng phương Bắc tràn sang cướp phá, giết hại dân lành. Trước cảnh đau thương tang tóc ấy, tướng Nguyễn Hoàng Bảy được triều đình giao trọng trách khởi binh dẹp loạn vùng biên ải. Đội quân của ông tiến dọc sông Hồng đánh đuổi quân giặc, giải phóng châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Trong một trận chiến không cân sức với quân giặc, ông đã anh dũng hy sinh, thi thể ông trôi theo sông Hồng tới Bảo Hà thì dạt vào bờ. Nhân dân trong vùng đã vớt, an táng thi thể ông và lập đền thờ tại đây để ghi nhớ công đức to lớn của ông.
Đền Bảo Hà có nhiều ngày lễ hội, trong đó những ngày lễ lớn là: Lễ thượng nguyên (rằm tháng Giêng),
71
lễ tiệc quan tuần tranh (25 tháng Năm âm lịch), lễ hội ngày giỗ tướng Hoàng Bảy (17 tháng Bảy âm lịch), lễ tết muộn (Tết Tất niên).
Hội chính đền Bảo Hà được tổ chức vào ngày 17 tháng Bảy âm lịch hằng năm (ngày giỗ tướng Hoàng Bảy), thu hút đông đảo du khách trong và ngoài vùng đến dự. Trong lễ hội có tổ chức rước kiệu, tế thần, dâng hương tưởng niệm, cùng các hoạt động văn hoá - thể thao khác. Ngoài những ngày lễ hội, những ngày thường (đặc biệt là vào mùa xuân) khách thập phương trong cả nước vẫn thường xuyên tụ họp tại đây để thắp hương tưởng niệm, cầu an, cầu lộc.
40. Lễ hội Phủ Dầy (Nam Định)
Hội Phủ Dầy được tổ chức từ mùng 1 đến 10 tháng Ba âm lịch hằng năm gắn liền với Quần thể Di tích lịch sử - văn hóa Phủ Dầy ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, nhằm tôn vinh Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một biểu tượng trong “Tứ bất tử”, thuộc tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Đây cũng là một trong hai lễ hội lớn mang tầm quốc gia ở Nam Định gắn với câu ca “tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”.
Theo truyền thuyết, Mẫu Liễu Hạnh là con của Ngọc Hoàng, xuống trần gian làm nhiều điều phúc đức, giúp đỡ dân chúng. Để nhớ ơn, dân chúng nhiều vùng đã lập đền và phủ thờ, suy tôn bà là “Mẫu nghi thiên hạ”. Một thuyết khác cho rằng Liễu Hạnh là hóa thân hội tụ của các Thánh Mẫu trong đạo thờ
72
Tứ phủ cổ truyền: Mẫu Thượng Thiên đệ nhất sáng tạo ra trời, Mẫu Thượng Ngàn đệ nhị sáng tạo ra rừng núi, Mẫu Thủy sáng tạo ra nước, Mẫu Địa đệ tử sáng tạo ra đất đai phì nhiêu.
Mở đầu Lễ hội, mùng 1 tháng Ba dân làng đã tiến hành tế lễ kỵ Thánh Mẫu, sau đó, các cuộc tế được tiến hành theo nghi thức truyền thống. Nghi lễ đặc sắc trong hội Phủ Dầy là lễ rước kiệu Thánh Mẫu từ phủ chính Thiên Hương đến chùa trên núi Gôi và ngược lại, diễn ra vào mùng 6 tháng Ba. Nghi lễ rước kiệu Thánh Mẫu diễn ra hết sức long trọng, các cô gái đồng trinh được chọn để khiêng long đình, rước võng, v.v.. Sau lễ rước Mẫu là hội kéo chữ (xếp chữ) được tổ chức vào mùng 7 tháng Ba. Đây là trò chơi đồng diễn thể dục xếp chữ Hán, việc xếp chữ gì do ban tổ chức hội quy định.
Ngoài ra, ở Lễ hội Phủ Dầy còn tổ chức nhiều sinh hoạt văn hóa khác như: hát văn, tuồng, chèo, trống quân, ca trù, đấu vật, kéo co, chọi gà, đánh cờ, v.v.. Vào dịp Lễ hội Phủ Dầy còn có hội chợ bày bán các đặc sản địa phương.
Với những giá trị văn hoá tiêu biểu, ngày 9-9- 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có Quyết định công nhận “Lễ hội Phủ Dầy” là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
41. Lễ Khai ấn đền Trần (Nam Định)
Lễ Khai ấn đền Trần diễn ra từ giữa đêm 14 đến rạng sáng ngày 15 tháng Giêng âm lịch hằng năm, tại Khu di tích đền Trần nằm trên địa bàn phường
73
Lộc Vương, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Đây là sự hồi ảnh của tập tục cổ, sau những ngày nghỉ Tết bắt đầu từ rằm tháng Giêng, triều đình trở lại làm việc bình thường.
Lễ Khai ấn là tập tục bắt đầu từ thế kỷ XIII, chính xác là năm 1239, của triều đại nhà Trần khi thực hiện nghi lễ tế tiên tổ. Tại phủ Thiên Trường, vua Trần mở tiệc chiêu đãi và phong chức cho quan quân có công với triều đình. Trong những năm kháng chiến chống Nguyên - Mông, Lễ khai ấn bị
gián đoạn tới năm 1262 được Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho mở lại.
Trải qua bao thế kỷ, ấn cũ không còn. Năm 1822, vua Minh Mạng qua Ninh Bình có ghé lại đây và cho khắc lại. Ấn cũ khắc là “Trần triều chi bảo”, ấn mới khắc là “Trần triều điển cố” để nhắc lại tích cũ. Dưới đó có thêm câu “Tích phúc vô cương”. Và từ đó, Lễ Khai ấn vào giờ Tý ngày rằm tháng Giêng (từ 11 giờ đêm 14 đến 1 giờ sáng ngày 15 tháng Giêng âm lịch) là một tập tục văn hóa mang tính nhân văn để nhà vua tế lễ trời, đất, tiên tổ, thể hiện lòng thành kính biết ơn non sông, cha ông. Đồng thời là “tín hiệu nhắc nhở” chấm dứt ngày Tết, thực sự bắt tay vào công việc.
Trước khi Lễ Khai ấn được tổ chức, vào mùng 2 tháng Giêng, Ban Quản lý Khu Di tích đền Trần đã thực hiện nghi lễ xin mở ấn để in các lá ấn phục vụ cho Lễ Khai ấn. Nội dung in trên lá ấn bao gồm các chữ: “Trần miếu tự điển tích phúc vô cương” (có nghĩa là “Đền Trần ban phúc lộc đầu năm”). Đến 22
74
giờ ngày 14 tháng Giêng, Lễ Khai ấn được bắt đầu với nghi thức rước hòm ấn từ nội cung đền Cố Trạch sang đền Thiên Trường. Sau khi Lễ Khai ấn kết thúc, khách thập phương vào đền Thiên Trường để
tế lễ, xin lá ấn với mong muốn một năm mới thành đạt và phát tài.
Bên cạnh những nghi lễ, phần Hội của Lễ Khai ấn đền Trần với nhiều hoạt động văn hóa phong phú, độc đáo như: chọi gà, diễn võ ba thế hệ, đấu vật, múa lân, chơi cờ thẻ, đi cầu kiều, hát văn, múa Bài Bông,… cũng là những hoạt động thu hút người tham gia.
Trong những ngày diễn ra lễ hội, trước sân đền Thiên Trường luôn phấp phới lá cờ truyền thống với năm màu sắc biểu trưng cho ngũ hành cùng hình vuông biểu tượng cho đất (âm) và rìa tua hình lưỡi liềm biểu tượng cho trời (dương). Chính giữa lá cờ thêu chữ “Trần” được ghép lại bởi hai chữ “Đông” và “A”.
Lễ Khai ấn đền Trần là một hoạt động văn hóa mang tính nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục thế hệ sau truyền thống yêu nước và đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, đồng thời cũng là niềm tự hào của người dân Nam Định từ bao đời nay. Tất cả các nghi lễ tại Khu Di tích đền Trần lưu giữ được các phong tục cổ truyền của dân tộc đã phần nào tái hiện được một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc, nội dung lịch sử được thể hiện sống động và sâu sắc, góp phần nuôi dưỡng bồi đắp tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm, tâm thức tri ân nguồn cội của mỗi người dân Việt Nam.
75
42. Lễ hội cố đô Hoa Lư (Ninh Bình)
Lễ hội truyền thống cố đô Hoa Lư (xưa thường gọi là hội Trường Yên, hay hội Cờ Lau) diễn ra vào các ngày 6, 7, 8 tháng Ba âm lịch hằng năm. Lễ hội được tổ chức tại Khu Di tích lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư, thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình nhằm suy tôn công lao các anh hùng dân tộc đã xây dựng kinh đô Hoa Lư, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt thế kỷ X mà tiêu biểu là hai vị vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành.
Giống như các lễ hội truyền thống khác, Lễ hội cố đô Hoa Lư gồm hai phần: Lễ và Hội.
Phần Lễ gồm có lễ rước nước và tế lễ:
Lễ rước nước: Đoàn người khởi hành từ đền vua Đinh đến kiệu Long Đình trên có đặt một cái chóe để đựng nước Thánh, rồi đến bên sông Hoàng Long thì dừng lại lấy nước vào chóe đem về đền. Đoàn rước đi theo thứ tự: dẫn đầu là những người mang cờ
ngũ sắc các loại, đi hàng đôi; kế tiếp là phường nhạc bát âm, phường trống; tiếp đến là một kiệu bát cống lớn có hương án, do tám nam thanh niên khoẻ mạnh trong trang phục lính tráng nhà Đinh xưa khiêng; các vị quan khách, đại biểu trung ương, địa phương; rồi tiếp đến là những kiệu bát cống có tán do các trinh nữ khiêng, trên bày lễ vật. Đoàn người đi sau là các bô lão, những đội tế nữ quan của nhiều địa phương xa gần, nhân dân và du khách.
Lễ tế: Lễ tế được tiến hành sau màn trống hội Hoa Lư và các màn diễn tái hiện lịch sử kinh đô Hoa Lư, kéo dài cả ngày lẫn đêm ở cả đền vua Đinh và vua Lê
76
với nội dung ca ngợi công đức của hai vị vua. Tham gia lễ tế có nhiều đoàn trong vùng.
Phần Hội với các trò chơi dân gian gắn với các tích của hai vị vua như: cờ lau tập trận, múa rồng, cắm trại, thi vừa hành quân vừa nấu cơm, thi múa kiếm, võ tay không, thi nấu cơm, thi hát hội, kéo co và đặc sắc nhất là màn xếp chữ “Thái Bình” - niên hiệu của vua Đinh Tiên Hoàng khi ông lên ngôi trị
vì thiên hạ, cũng là tên gọi đầu tiên của đồng tiền Việt Nam. Màn xếp chữ lôi cuốn du khách không chỉ ở thông điệp “Thái Bình” của vị vua thời phong kiến xưa, mà còn ấn tượng bởi 120 thiếu nữ mặc áo tứ thân màu xanh tay cầm cờ đỏ, nâng lên hạ xuống
theo nhịp trống để kết thành chữ “Linh thiêng”. Lễ hội cố đô Hoa Lư là một trong những lễ hội đặc sắc nhất của mảnh đất Ninh Bình giàu truyền thống văn hóa.
43. Lễ hội chùa Bái Đính (Ninh Bình)
Lễ hội chùa Bái Đính diễn ra từ mùng 6 tháng Giêng đến hết tháng Ba âm lịch hằng năm, tại xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, khởi đầu cho những lễ hội hành hương về vùng đất cố đô Hoa Lư.
Lễ hội chùa Bái Đính - một trong những lễ hội lớn ở miền Bắc - là một lễ hội truyền thống điển hình của người Việt Nam. Chùa Bái Đính là một trong những di sản văn hóa quốc gia có giá trị về
mặt lịch sử, tâm linh và danh thắng. Nơi đây không chỉ thờ các vị Sơn thần, Phật tổ, Bà chúa Thượng Ngàn mà còn gắn với nhiều sự kiện lịch sử trọng đại
77
của dân tộc với các danh nhân đức Lý Quốc Sư, Quang Trung, Đinh Bộ Lĩnh. Vì vậy, phần Lễ có các nghi thức: thắp hương thờ Phật, tưởng nhớ công đức Thánh Nguyễn Minh Không; lễ tế thần Cao Sơn và chầu Thánh mẫu Thượng Ngàn. Lễ hội chùa Bái Đính được bắt đầu bằng nghi thức rước kiệu mang bài vị thờ thần Cao Sơn, đức Thánh Nguyễn và Bà chúa Thượng Ngàn từ khu chùa cổ ra khu chùa mới để tiến hành phần Hội với nhiều hoạt động nhộn nhịp, đông vui như: đấu vật, ném còn, đánh bài, kéo co, thi hát.
Với ưu thế của một quần thể chùa rộng nên Lễ hội chùa Bái Đính thu hút đông đảo du khách tham gia. Do có những điển tích gắn với các vị vua Đinh Tiên Hoàng, Quang Trung, Lê Thánh Tông và tín ngưỡng thờ Thánh Nguyễn, thần Cao Sơn, Bà chúa Thượng Ngàn nên lễ hội chùa Bái Đính vừa mang ý nghĩa sùng bái tự nhiên, vừa thể hiện tín ngưỡng đạo Phật, đạo Mẫu và Nho giáo.
44. Lễ hội Trường Yên (Ninh Bình)
Lễ hội Trường Yên diễn ra từ mùng 9 đến 11 tháng Ba âm lịch hằng năm, tại xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, nhằm suy tôn công đức của vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành.
Tương truyền, mùng 10 tháng Ba là ngày vua Đinh lên ngôi Hoàng đế, nên hội chính của Lễ hội Trường Yên là mùng 10 tháng Ba, gồm hai nghi lễ trang nghiêm là lễ rước nước và lễ tế. Đoàn rước nước khởi hành từ đền vua Đinh Tiên Hoàng, đi đầu
78