🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Số Di Tích Tiêu Biểu Ở Việt Nam
Ebooks
Nhóm Zalo
MỘT SỐ DI TÍCH TIÊU BIỂU
Ở VIỆT NAM
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
PGS.TS. PHẠM VĂN LINH
Phó Chủ tịch Hội đồng
PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI
TS. NGUYỄN AN TIÊM
NGUYỄN VŨ THANH HẢO
Tập thể tác giả
MỘT SỐ DI TÍCH
TIÊU BIỂU
Ở VIỆT NAM
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT HÀ NỘI - 2016
NHÓM BIÊN SOẠN
HOÀNG MẠNH THẮNG NGUYỄN HẢI BÌNH CÙ THÚY LAN
NGUYỄN GIAO LINH NGUYỄN THỊ THÚY
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Di tích lịch sử văn hóa là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hóa lâu đời của dân tộc, là những chứng tích vật chất phản ánh sâu sắc nhất về đặc trưng văn hóa, cội nguồn và truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước hào hùng, vĩ đại của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng thời là một bộ phận cấu thành kho tàng di sản văn hóa nhân loại.
Với những giá trị như trên, các di tích lịch sử văn hóa là bộ phận đặc biệt trong cơ cấu “tài nguyên du lịch”. Các di tích đó, cả về mặt nội dung lẫn hình thức, đều có khả năng tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ.
Trải qua mấy ngàn năm, lịch sử đã để lại trên đất nước Việt Nam nhiều di tích nổi tiếng, để mỗi vùng đất nơi đây đều trở thành những địa điểm hấp dẫn du khách trong nước cũng như quốc tế. Với mong muốn giới thiệu cho bạn đọc một số di tích nổi tiếng, có giá trị, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách “Một số di tích tiêu biểu ở Việt Nam”.
Trên cơ sở nghiên cứu các nguồn tư liệu đã công bố trên website của Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Cổng thông tin điện tử của các tỉnh, thành phố; các sách nghiên cứu về di tích đã xuất bản; sách địa chí của các địa phương... Ban biên soạn đã tổng hợp giới thiệu một số di tích tiêu biểu của các tỉnh, thành phố trên cả nước. Cuốn sách kiến tạo cho độc giả
5
một cuộc hành trình tới một số địa phương trong cả nước, từ vùng đất là kinh đô như Thăng Long - Hà Nội tới thành phố năng động như Thành phố Hồ Chí Minh. Về mỗi di tích, các tác giả đều cố gắng trình bày ngắn gọn những điều chủ yếu nhất có liên quan đến vị trí địa lý, quá trình xây dựng, phát hiện tôn tạo, những đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật kiến trúc,...
Do hạn chế về mặt tư liệu nên trong quá trình biên soạn cuốn sách vẫn còn một số hạn chế, rất mong nhận được những đóng góp chân thành của bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 11 năm 2016
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6
MIỀN BẮC
BẮC GIANG
CHÙA VĨNH NGHIÊM
Chùa Vĩnh Nghiêm ở làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Chùa được xây dựng vào thời vua Lý Thái Tổ (1009-1028) với tên gọi là chùa Chúc Thánh. Đến thời vua Trần Nhân Tông (1278-1293), Chùa được mở mang, trùng tu lại và đổi tên thành chùa Vĩnh Nghiêm. Cuối thế kỷ XIX, chùa thuộc địa phận thôn Đức La nên nhân dân trong vùng còn gọi là chùa La hay chùa Đức La.
Chùa từng là nơi thuyết pháp của Trúc Lâm Tam Tổ (Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang) và là nơi đào tạo, định chức danh cho các tăng sĩ thời Trần. Nơi đây được coi là chốn tổ của thiền phái Trúc Lâm, có vị trí đặc biệt trong lịch sử Phật giáo thời Trần nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung.
Tọa lạc trên một quả đồi thấp, sau lưng là dãy núi Cô Tiên, mặt hướng ra nơi tụ hội của dòng sông Thương và sông Lục Nam, chùa Vĩnh Nghiêm có tổng diện tích khoảng 10.000m² với lối kiến trúc đăng đối, cân xứng, hài hòa, bao gồm năm tổ hợp chính là: Tam quan, Tam bảo, Nhà Tổ đệ Nhất, gác chuông và Nhà Tổ đệ Nhị.
7
- Tam quan Chùa được xây bằng gạch, khung cột gỗ, có kiến trúc một gian hai chái với mái chồng diêm hai tầng. Qua Tam quan, theo con đường lát gạch dài hơn 100m sẽ đến sân trước cửa tòa Tiền đường. Bên trái sân là một tấm bia đá xanh lục giác, đặt trên bệ sen, khắc chữ Hán ghi lại công đức tu sửa chùa vào năm Hoằng Định thứ 6 (1606). Bên phải sân là khu vườn tháp với tám ngọn bảo tháp cổ kính, đặt xá lị của các vị sư tổ trụ trì chùa.
- Tam bảo được thiết kế theo kiểu chữ Công, bao gồm: Bái đường (chùa Hộ), tòa Thiêu hương và Thượng điện. Bái đường được thiết kế theo lối tàu bẩy, đao lá, mái bốn đao, tám vì kèo kiểu chồng rường, thượng tam hạ tứ. Bên ngoài Bái đường đắp nổi hình cuốn thư được bao quanh bởi những đường viền hồi văn và hoa lá. Tòa Thiêu hương có kiến trúc theo kiểu ba vì kèo, trang trí lộng lẫy bởi ba lớp cửa võng cùng các bức hoành phi, câu đối thiếp vàng. Các tượng Phật trong tòa Thiêu hương được bài trí trang nghiêm, cao dần từ ngoài vào trong. Đi hết Thiêu hương là đến Thượng điện gồm ba gian hai dĩ, có bốn mái đao cong với bờ nóc, bờ chảy gắn gạch hoa chanh hộp rỗng.
- Gác chuông cao hai tầng mái, tầng dưới dùng làm nơi tiếp khách, tầng trên treo một quả chuông đồng lớn, đúc năm Minh Mạng thứ 11 (1830). Bộ khung tầng trên thiết kế theo kiểu vì giá chiêng với bốn mái đao cong. Hàng bẩy tiền và hậu được chạm khắc đơn giản, chủ yếu là hình lá cuộn. Gác chuông là chốn nghỉ ngơi thanh tịnh cho các tín đồ Phật tử cũng như du khách hành hương.
- Nhà Tổ đệ Nhất cũng được thiết kế theo kiến trúc kiểu chữ Công nhưng thấp và nhỏ hơn tòa Tam bảo, với ba nếp nhà: Đại bái, Ống muống và Hậu
8
cung. Bên trong Hậu cung đặt tượng thờ ba vị Tổ khai sáng ra thiền phái Trúc Lâm (ở giữa là Trần Nhân Tông, bên phải là thiền sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương (1284-1330) và bên trái là thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254-1334)). Tại đây còn có một tấm bia lớn nói về việc trùng tu, tôn tạo chùa Vĩnh Nghiêm do Hòa thượng Thích Thanh Hanh (1840-1936) soạn năm Bảo Đại thứ 7 (1932).
- Nhà Tổ đệ Nhị với kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm 14 gian với 72 cột gỗ các loại. Nhà Tổ dài 27,8m, rộng 14m, có kết cấu khung gỗ kiểu vì kèo tam giác, thờ các vị sư Tổ trụ trì chùa và những người đã có công gìn giữ, tu bổ chùa.
Đặc biệt, chùa Vĩnh Nghiêm là nơi lưu giữ kho Mộc bản với 3.050 bản ván khắc, trong đó hầu hết là kinh, sách, luật giới nhà Phật, trước tác của Tam thế tổ và một số vị cao tăng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử (thơ, phú, nhật ký...). Bộ mộc bản được khắc bằng chữ Hán và chữ Nôm không chỉ là tác phẩm thư pháp nghệ thuật tuyệt mỹ, mà còn hàm chứa những giá trị tư tưởng, giáo lý sâu sắc của Phật phái Trúc Lâm, đồng thời đánh dấu quá trình phát triển của hệ thống văn tự Nôm qua các thời đại. Ngày 16-5-2012, Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Không chỉ nổi bật với công trình kiến trúc đồ sộ, chùa Vĩnh Nghiêm còn được biết đến bởi các giá trị điêu khắc tinh tế, điêu luyện thể hiện qua hệ thống tượng Phật sắp xếp bài bản ở ba khối nhà chính: Tam bảo, Nhà Tổ đệ Nhất và Nhà Tổ đệ Nhị. Ngoài ra, Chùa còn có nhiều bức hoành phi - câu đối; hệ thống văn bia với tám tấm bia ghi lại toàn bộ tiến trình lịch sử và phát triển của trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm.
9
Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được tổ chức vào ngày 14 tháng Hai âm lịch hằng năm. Trong ngày hội, các tăng ni ở chùa thắp hương tụng kinh, niệm Phật ở Tam bảo, Nhà Tổ đệ Nhất và Nhà Tổ đệ Nhị. Đồng
thời cũng thỉnh chuông hoăng dương Phật pháp vào lúc sớm, tối trong ngày. Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 3084/QĐ-BVHTTDL.
Ngày 23-12-2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2367/QĐ-TTg, xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật chùa Vĩnh Nghiêm là Di tích quốc gia đặc biệt.
NHỮNG ĐỊA ĐIỂM KHỞI NGHĨA YÊN THẾ
Khởi nghĩa Yên Thế là cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất, dài nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đề Nắm là một trong những tướng lĩnh đầu tiên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) xuất hiện với vai trò là thủ lĩnh tiếp theo đã đưa cuộc khởi nghĩa lên tầm và quy mô lớn, người mà chính giới Pháp cũng phải thừa nhận rằng: “Mỗi thế kỷ chỉ xuất hiện một lần mà thôi”.
Di tích lịch sử Những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế liên quan đến cuộc khởi nghĩa được phân bố trên một địa bàn rộng lớn, thuộc bốn huyện liền kề nhau: Yên Thế, Tân Yên, Việt Yên, Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang; bao gồm những công trình kiến trúc cổ có
liên quan đến hoạt động của nghĩa quân (đình, chùa, đền, miếu có niên đại khởi dựng vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn, thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX) cùng các
10
địa điểm, đồn lũy liên hoàn của nghĩa quân, tiêu biểu là: 8 ngôi đình, 7 ngôi chùa, 6 ngôi đền, 3 đồn, 1 điếm, 1 nghè, 1 động và 5 địa điểm. Trong đó, có 23 điểm di tích đã được xếp hạng di tích quốc gia, phản ánh sinh động quá trình xây dựng lực lượng, tổ chức chiến đấu của nghĩa quân từ những ngày đầu tiên, tới những ngày cuối cùng, tiêu biểu như: đình Dĩnh
Thép, chùa Lèo, đền Thề, khu lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám,...
- Đình Dĩnh Thép: là nơi diễn ra hội nghị ghi dấu thời điểm củng cố lại tổ chức của nghĩa quân năm 1888, sau những thất bại ban đầu. Đây cũng là nơi Hoàng Hoa Thám qua lại những năm tháng cuối đời.
- Chùa Lèo: là địa điểm liên lạc và làm nơi đón khách của nghĩa quân. Thời kỳ hòa hoãn lần thứ hai (1897-1909), chùa Lèo giữ vai trò là vị trí tiền tiêu, quan sát các bước xâm nhập của thực dân Pháp vào đồn Phồn Xương; được Đề Thám tu bổ và trở thành trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của nghĩa quân cùng nhân dân địa phương.
- Đền Thề: là nơi tổ chức hội thề của nghĩa quân. Lễ Cầu may rằm tháng Giêng chính là dịp Đề Thám thăm viếng các thân nhân, tử sĩ của nghĩa quân.
- Đồn Hố Chuối: là căn cứ lớn, nơi phòng thủ kiên cố, tập trung nhiều nghĩa quân và có vai trò quan trọng nhất cuộc khởi nghĩa; là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt giữa nghĩa quân và quân Pháp.
- Chùa Thông: ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn với cuộc khởi nghĩa; là nơi ký Hiệp ước điều đình giữa nghĩa quân và thực dân Pháp. Lễ hội chùa được tổ chức hằng năm vào ngày 15, 16 tháng 3 dương lịch.
- Đồn Phồn Xương (đồi Gồ, đồi Cụ): xây dựng năm 1896. Phía sau đồn là doanh trại, chiến lũy của
11
nghĩa quân. Đề Thám đã cho xây dựng một bát quái trận với nhiều đồn lũy thông nhau; là nơi trấn giữ con đường độc đạo vào căn cứ; là đại bản doanh, nơi giao dịch của nghĩa quân với khách.
- Đồn Hom: xây dựng năm 1891; có bốn đồn được xây dựng trên bốn ngọn núi hiểm trở trong dãy núi Cai Kinh bao bọc khu Đồng Khách. Đồn Hom là căn cứ an toàn của cuộc khởi nghĩa. Tại đây đã diễn ra hai trận chiến đấu nổi tiếng vào tháng 3-1892 và tháng 2-1909, đặc biệt là chiến thắng của nghĩa quân vào ngày 25-3-1892.
- Động Thiên Thai: là một trong “Thất diệu đồn điền” do Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm (1875-1929) lập ra. Thất diệu đồn điền được bố trí tựa như bảy ngôi sao sáng của chòm sao Bắc Đẩu, gồm bảy khu (hay bảy trại): nhất, nhì, ba, tư, năm, sáu và khu động Thiên Thai.
- Đền Cầu Khoai (đền Cô): là căn cứ được xây dựng năm 1524; thờ hai người con gái của Đàm Thuận Huy (vị quan thanh liêm, chính trực thời Lê Thánh Tông, người có nhiều công lao với nhân dân trong vùng) là bà Đàm Thị Dung Hoa và bà Đàm Thị Quế Hoa. Lễ hội đền được tổ chức vào ngày 23 tháng Giêng âm lịch hằng năm.
- Đình Đông: là nơi Hoàng Hoa Thám cùng hơn 400 binh sĩ làm lễ tế cờ xuất trận; được xây dựng từ thời Hậu Lê; thờ Trương Hống, Trương Hát; còn giữ được nhiều tài liệu, hiện vật cổ, quý giá như: các bức hoành phi, đại tự, câu đối, hương án, bài vị, hòm đựng sắc và một số đồ thờ bằng gỗ khác.
- Chùa Kem (Sùng Nham tự): là nơi Đề Thám cùng nghĩa quân đã về đóng quân và đắp lũy, làm tường thành, làm nhà, luyện tập quân sự. Dấu tích còn lưu lại là: tường lũy, nền nhà quan, giếng quan,
12
trạm gác, cột cờ. Chùa còn là nơi để chiêu binh đánh Tây, cất dấu lương thực, vũ khí và hội họp. - Khu lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám (gồm có đình, đền, chùa, điếm, cố trạch và phần mộ người thân của Hoàng Hoa Thám): Đình làng Trũng thờ Thánh Cao Sơn và Quý Minh Đại vương. Sau khi Đề Thám mất, nhân dân địa phương đã thờ Ông ở trong đình cùng với Thành Hoàng làng. Đình nay chỉ còn lại nền móng; Chùa làng Trũng xưa được xây dựng ở phía sau đình. Sau khi Hoàng Hoa Thám mất, đình Trũng bị hư hỏng, nhân dân địa phương đã đưa Ông vào phối thờ trong chùa; Đền thờ Hoàng Hoa Thám là nơi thờ phụng, tưởng niệm Đề Thám; Điếm làng Trũng, là nơi nhân dân làng Trũng thờ hai ông sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế thất bại. Nhân dân địa phương đã đúc tượng chân dung hai vị để thờ; Nơi ở của danh nhân Hoàng Hoa Thám thời niên thiếu là nơi Đề Thám sống thuở nhỏ và lui về trong giai đoạn khởi nghĩa; Khu phần mộ thân tộc của Hoàng Hoa Thám được xây dựng phía trước chùa, cạnh đền.
- Cụm di tích Cầu Vồng (đình, chùa, đền, nghè Vồng): được xây dựng từ thời Hậu Lê, tu sửa nhiều lần vào thời Nguyễn và sau này. Nghĩa quân tế cờ tại đây trong mỗi lần xuất quân.
- Đình, chùa Hả: được xây dựng từ thời Hậu Lê. Đình Hả (đình Phúc Thọ) thờ Thành Hoàng làng Cao Sơn - Quý Minh và Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm). Ngày 16-3-1884, Đề Nắm đã làm lễ tế cờ, chính thức phát động cuộc khởi nghĩa; lễ hội tưởng nhớ Ông được tổ chức vào ngày 15, 16 tháng Giêng âm lịch hằng năm.
- Đình Dương Lâm: là một ngôi đình cổ, được xây dựng từ thời Hậu Lê; thờ Thánh Cao và ba vị
13
Quận công: Dương Đình Bột, Dương Đình Tuấn, Dương Đình Cúc; là nơi tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng của nghĩa quân.
- Đình Cao Thượng: được xây dựng vào thế kỷ XVII, thờ Cao Sơn - Quý Minh. Đề Thám đã cho lập căn cứ trên núi Yên Ngựa (khu vực đình Cao Thượng) và thường tổ chức hội họp, lui tới đình. Hội Đình được mở từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hằng năm.
- Đình Nội (Tiên đình): là ngôi đình to, đẹp nổi tiếng, được xây dựng vào đời vua Lê Hiển Tông, thờ Cao Sơn - Quý Minh. Đề Thám xoay đình về hướng đông nam, xây thêm hai tả vu, hữu vu và nghi môn.
- Đình làng Chuông: được dựng thời Hậu Lê; còn lưu giữ được nhiều sắc phong và đồ thờ quý như: kiệu bát cống, chấp kích, bát bửu, tàn lọng,... Tại đây, Hoàng Hoa Thám đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng, tổ chức những trận đánh lớn.
- Chùa Phố (Nam Thiên tự): thực dân Pháp sử dụng khu đất này làm chợ, khu nhà kho của Sécnay (chủ bút báo Tương lai xứ Bắc Kỳ), khu nhà của đốctờ Zina và làm bãi tập. Chùa Phố là cơ sở cách mạng của Đảng ta trong thời kỳ 1943-1945.
- Đền Gốc Khế: là nơi thờ Mẫu và Đại vương Trần Quốc Tuấn; nơi hoạt động của nhiều tướng lĩnh của nghĩa quân như: Đề Công (Tạ Văn Công), Đề Nguyên (Tạ Văn Nguyên), Đề Cần (Tạ Văn Cần), Thống Ngò (Tạ Văn Khấu), Quản Khối (Giáp Văn Khối),...
- Đền thờ Cả Trọng (đền Gốc Dẻ): là ngôi đền đầu tiên thờ Cả Trọng - con trai cả của Đề Thám và cũng là một vị chỉ huy tài giỏi của nghĩa quân.
- Ao Chấn Ký: là nơi thực dân Pháp thả tro cốt đầu Hoàng Hoa Thám và hai thủ hạ thân tín của ông.
14
- Nghĩa địa Pháp, đồi Phủ: nơi chôn cất binh lính Pháp và binh lính Việt theo Pháp chết trận khi giao chiến với nghĩa quân Yên Thế. Đồi Phủ là địa điểm tập kết của quân Pháp cho các cuộc hành binh; là nơi hai lần chứng kiến nhiều sự kiện liên quan đến hai cuộc hòa hoãn giữa thực dân Pháp và Đề Thám.
Tại những khu di tích này, ngoài các hiện vật liên quan tới sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng vốn có của di tích, còn có nhiều hiện vật liên quan tới cuộc Khởi nghĩa (405 hiện vật liên quan trực tiếp tới cuộc Khởi nghĩa và hàng trăm hiện vật khác tại các di tích). Nhiều hiện vật trong số này hiện được bảo quản, trưng bày tại nhà truyền thống về cuộc Khởi nghĩa tại khu Phồn Xương, để góp phần vào công tác giáo dục truyền thống.
Với những giá trị đặc biệt của Di tích, ngày 10-5- 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 548/QĐ-TTg, xếp hạng Di tích lịch sử Những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế là Di tích quốc gia đặc biệt.
BẮC NINH
CHÙA BÚT THÁP
Chùa Bút Tháp còn có các tên gọi khác là chùa Ninh Phúc hay Ninh Phúc tự, Ninh Phúc thiền tự, chùa Thiếu Lâm; thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một trong những ngôi chùa có niên đại cổ nhất ở nước ta.
Chùa được xây dựng từ rất sớm, dưới thời Trần, Thiền sư Huyền Quang đã cho tu sửa chùa và trụ trì tại đây. Chùa từng là nơi trụ trì của Thiền sư
15
Chuyết Chuyết - tổ thứ 34 của Thiền phái Lâm Tế, một Thiền phái chịu ảnh hưởng nhiều của Phật phái Trúc Lâm thời Trần. Vào khoảng những năm 1642-1674, chùa được các quý tộc triều Lê cho dựng lại với quy mô rất lớn, theo kiểu “trăm gian” và có mặt bằng kiến trúc kiểu nội công ngoại quốc. Kiến trúc hiện nay chủ yếu vẫn là kiến trúc của thế kỷ thứ XVII.
Chùa tọa lạc trên khu đất cao, rộng, bằng phẳng, sát bờ nam sông Đuống. Theo truyền tích của địa phương, chùa nằm trên thế đất tốt, tựa hình một bông sen lớn và có ý nghĩa về phong thủy. Các đơn nguyên kiến trúc của chùa dàn trải trên mặt bằng, gồm: Tam quan, Gác chuông, Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện, Tích Thiện am, Nhà trung, Phủ thờ hậu đường nằm trên trục chính; hai dãy hành lang dài bao lấy các công trình kiến trúc chính, tạo thành một khuôn viên tương đối khép kín.
- Tam quan: gồm ba gian, dài 9m, rộng 5,25m với bốn bộ vì chồng rường, tỳ lực lên ba hàng chân cột, mái lợp ngói mũi. Các cấu kiện chủ yếu được làm bằng gỗ, bào trơn, đóng bén. Bốn góc của tam quan đều bổ trụ vuông, có đỉnh kết hình đèn lồng. Hai bên hồi xây bít bằng gạch, ở giữa trổ cửa sổ hình chữ Thọ và hình vòng tròn sắc không. Kiến trúc này đã được trùng tu vào thời Nguyễn.
- Gác chuông: có mặt bằng nền gần vuông, với kết cấu gỗ chồng diêm, gồm hai tầng, tám mái, lợp ngói. Tầng trên gác chuông kết cấu bộ vì theo kiểu “giá chiêng để thông khoảng giữa”. Trên tầng treo quả chuông lớn khắc dòng chữ “Ninh Phúc tự chung”, cao 152cm, đường kính miệng là 71cm. Quai chuông là hình hai con rồng đấu lưng vào nhau. Chuông có bốn núm đánh hình tròn nổi, phía dưới núm ghi tên bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông...
16
- Tiền đường: gồm năm gian, hai chái, dài 25m, rộng 10,6m, kết cấu gỗ, mái lợp ngói ta. Phía trước bao bằng hệ thống cửa bức bàn, hai bên là hệ thống ván bưng. Phía sau Tiền đường, ba gian giữa để trống, hai gian bên trang trí hệ thống ván trổ thủng, với hoa văn hình chữ Vạn. Hệ mái tỳ lực chủ yếu lên bốn hàng chân cột, các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu giá chiêng, liên kết bằng hệ thống xà. Hai đầu hồi làm bốn “cốn đốc” theo kiểu chồng rường (thay cho kẻ). Liên kết với những cốn đốc đó là bốn chiếc bẩy chạm rồng, hoa lá. Nghệ thuật chạm khắc tập trung tại các đầu bẩy hiên và những ván bưng, mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVII. Các đầu bẩy đều chạm nổi hình rồng và hoa lá cách điệu. Dọc ngưỡng cửa của năm gian được chạm nổi đề tài tứ quý như: sen dây, cúc dây,...
- Thiêu hương: nối liền Tiền đường với Thượng điện, có mặt nền cao hơn mặt nền của Tiền đường, bốn phía để trống. Bộ khung dựa trên bốn cột, các vì kèo kết cấu theo kiểu “chồng rường”, được liên kết với nhau bởi xà thượng và xà hạ. Khoảng cách giữa hai xà ở hai bên được nong ván, có chạm rồng, phượng, hoa. Phía trước tòa Thiêu hương có bức đại tự “Đại hùng bảo điện”do vua ban năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Dương Hòa 8 (1642).
- Thượng điện: có nền cao hơn Thiêu hương và Tiền đường một bậc, gồm năm gian với chiều dài 19m, rộng 10,6m, khung bằng gỗ lim với 24 cột lớn. Về cơ bản, kiến trúc tòa Thượng điện có kết cấu giống Tiền đường. Các vì kèo cũng có kết cấu kiểu giá chiêng và có cốn đốc chồng rường. Với việc xuất hiện cốn góc, trong cấu trúc của Thượng điện đã không cần đến kẻ góc, làm cho cấu trúc ngoài hiên có một dạng đặc biệt. Nền Thượng điện được bó bốn lớp
17
đá khối hình chữ nhật. Bao quanh Thượng điện cả bốn mặt đều là hành lang với một hàng lan can đá là các điển tích cổ được chạm khắc rất tinh xảo như: “Phượng vũ kỳ lân”, “Song ngư hý nguyệt”, “Cô lộ sơn lộc”, “Tam dương triều nguyệt”, “Tứ linh, tứ quý”, “Lý ngư hóa long”, “Tùng trúc đông thiên”,...
- Tích Thiện am: là kiến trúc đặc biệt nhất của chùa Bút Tháp. Tòa này được kết cấu theo kiểu chồng diêm, với hàng cột ở giữa cao, to, chạy suốt từ tầng 1 lên tầng 3, các vì kèo được làm theo kiểu chồng rường, những đầu đao của ba tầng mái cong vút. Tầng 1 gồm năm gian, kết cấu các vì kèo kiểu giá chiêng đơn giản. Tầng 2 thu lại còn ba gian, với bốn hàng chân cột. Tầng 3 thu lại còn một gian, kết cấu khung dựa chủ yếu trên bốn cột cái và bốn cột trốn nhỏ, bộ vì kiểu giá chiêng. Ở bốn góc mái của tầng 3 có bốn thanh ruỗi, chống bốn kẻ góc, ăn chân vào các cột cái. Tất cả các thanh ruỗi này đều chạm hình rồng, mây cuộn, người và thú. Dựa vào kết cấu kiến trúc và hoa văn trang trí, có thể thấy, tòa này được dựng vào thế kỷ XVIII và đã được tu sửa vào thế kỷ XIX. Trong Tích Thiện am ở gian giữa đặt Cối kinh - “Cửu phẩm liên hoa” hình bát giác, cao 7,8m, xếp chín tầng theo kiểu tòa sen, thể hiện chín kiếp tu của đức Thích Ca Mâu Ni. Chín tầng Cối kinh tạc hàng trăm tượng Phật, hoa lá, chim muông, tập trung chủ đề khuyến thiện trừ ác, giới thiệu hành trang các vị tổ Thiền tông, các đại sư, các cấp độ thăng hoa trên đường lên cõi Niết Bàn. Tòa Cửu phẩm liên hoa là tháp gỗ tám mặt, chín tầng, được đỡ bởi các hàng chấn song con tiện. Tám mặt của chín tầng có gắn phù điêu gắn với Phật giáo.
- Nhà trung: gồm năm gian, dài 16,3m, rộng 8,6m, kết cấu mái theo kiểu “tàu đao lá mái”, bốn
18
hàng chân cột, các bộ vì kết cấu theo kiểu giá chiêng. Hiện tại, xung quanh tòa này đã được xây tường bao. Ba gian chính mở cửa bức bàn, cửa sổ chấn song con tiện, một số bộ phận kiến trúc có chạm khắc, mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVII.
- Phủ thờ: gồm năm gian, dài 16,5m, rộng 9m, có kết cấu kiến trúc cơ bản giống Nhà trung, nhưng ở góc tòa nhà này, người ta làm kẻ suốt chạy từ đầu cột trốn đến đầu cột quân ra ngoài, hai kẻ góc trong tòa này mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII.
- Hậu đường: gồm 13 gian, kết cấu gỗ, mái lợp ngói mũi. Trong đó, bảy gian thờ Mẫu, ba gian bên phải và ba gian bên trái là tăng phòng, hiện vẫn còn một bộ vì được kết cấu theo kiểu giá chiêng, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII.
- Tòa Tổ đệ Nhất: gồm năm gian, là nơi thờ Thiền sư Chuyết Chuyết. Tòa này dường như biệt lập với các kiến trúc chính của chùa; phía sau có tháp Báo Nghiêm, phía trước là giếng đá.
Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có hệ thống tháp, gồm tháp Tôn Đức, tháp Tâm Hoa, tháp Ni Châu, tháp Mộ và một số công trình phụ trợ khác...
Ngoài giá trị về mặt kiến trúc, chùa hiện còn lưu giữ hàng trăm hiện vật, với nhiều loại chất liệu, có niên đại trải dài từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX, trong đó có gần 100 pho tượng. Những hiện vật mang niên đại thế kỷ XVII như: hệ thống sập thờ, nhang án, hoành phi, câu đối, tháp cửu phẩm, hệ thống tượng, đặc biệt là pho tượng “Phật bà nghìn tay nghìn mắt”. Pho tượng này là tác phẩm kiệt xuất của nghệ thuật điêu khắc thế kỷ này, còn bảo lưu được đến ngày nay, đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2011.
19
Chùa Bút Tháp là đỉnh cao của một công trình kiến trúc nghệ thuật, tiêu biểu cho phong cách mỹ thuật thời Lê Trung Hưng, thế kỷ XVII. Các cấu kiện kiến trúc được chạm khắc cùng hệ thống hiện vật phong phú, đa dạng... là những di sản văn hóa vô cùng quý giá của dân tộc ta.
Lễ hội chùa Bút Tháp được tổ chức vào ngày 23 và 24 tháng Ba âm lịch hằng năm với các hoạt động đậm nét văn hóa truyền thống, góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Với những giá trị văn hóa, lịch sử đặc biệt, ngày 9-12-2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2383/QĐ-TTg, xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Bút Tháp là Di tích quốc gia đặc biệt.
CHÙA DÂU
Chùa Dâu còn có tên gọi khác là Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Định tự, chùa Bà Dâu, thuộc thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Theo thư tịch cổ, Chùa được khởi dựng ở vùng Dâu (Luy Lâu) vào thế kỷ II đầu Công nguyên, thời kỳ Sĩ Nhiếp (nhà Hán) làm Thái thú quận Giao Châu. Đây được coi là trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta, là dấu tích quan trọng gắn với quá trình hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam.
Chùa tọa lạc trên một khu đất cao, rộng, bằng phẳng, cảnh quan đẹp, quay về hướng tây, có bình đồ kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc”, gồm các hạng mục: tam quan, tiền thất (bái vọng đường), tháp Hòa Phong, Tam bảo, hậu đường, hai dãy hành lang và các công trình phụ trợ, như: nhà Mẫu và Tổ, nhà khách, vườn tháp, ao chùa, hệ thống tường bao.
20
- Tam quan: gồm ba gian, bộ khung gỗ gác trên bốn hàng chân cột, kết cấu vì nóc kiểu “con chồng, giá chiêng, cốn, bẩy”. Các cấu kiện đều được bào trơn đóng bén, mái lợp ngói, tường hồi bít đốc, mở thông thoáng cả gian.
- Tiền thất (bái vọng đường): gồm bảy gian, hai chái, với mái lợp ngói, đầu đao cong, bộ khung gỗ, các vì nóc đều được kết cấu theo dạng “tiền kẻ, hậu kẻ, câu đầu, trụ nóc”, tỳ lực trên bốn đầu cột. Hầu hết cấu kiện ở tòa này đều được bào trơn đóng bén, chỉ có những đầu kẻ ở gian giữa được chạm hoa lá cách điệu. Nội thất bày một số bộ bàn ghế để khách thập phương sắp lễ, trước khi vào lễ Phật.
- Hai dãy hành lang song song với nhau, nối tiền thất và hậu đường. Mỗi dãy gồm 22 gian và được chia thành hai phần: hành lang phía trước 12 gian và hành lang phía sau 10 gian, được ngăn cách bởi một bộ cửa ván bưng. Hành lang phía sau là nơi thờ 18 vị La Hán.
- Tháp Hòa Phong: được xây dựng ở giữa sân chùa. Theo thư tịch cổ, vào thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao chín tầng, nhưng kiến trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch
nung già, với ba tầng, cao 15m. Tầng thứ nhất, mỗi cạnh rộng 6,75m, cao 4,5m, bốn mặt đều có cửa, xây cuốn vòm. Tầng thứ hai cao 4m, mỗi cạnh rộng 6,15m, có bốn cửa cuốn vòm. Trên cùng là vòm mái, được xây cuốn bằng gạch. Đỉnh tháp được tạo hình như một bình nước cam lộ. Trong lòng tháp, phía dưới có bệ thờ “Tứ trấn” (Tứ Thiên Vương), bằng gỗ phủ sơn, cao 1,6m. Phía trên treo khánh đồng, chuông đồng. Phía trước tam cấp, cửa phía tây có hai tượng sóc đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê
21
Trung Hưng. Bên trái có một tượng cừu đá (dấu ấn của văn hóa phương Bắc, phản ánh sự hiện diện của Thái thú Sĩ Nhiếp khi đóng trị sở ở thành Luy Lâu). Trên tháp Hòa Phong hiện còn một tấm biển bằng đá xanh gắn ở phía tây (tầng 2) có đề ba chữ “Hòa Phong tháp”.
- Tiền đường: được dựng trên nền thấp hơn thượng điện 0,6m, có chiều rộng 9,5m, chiều dài 21m, cao 0,37m, gồm bảy gian, hai chái, hai hồi xây bít theo kiểu cột trụ cánh phong. Tòa này có tám bộ vì kèo kiểu “câu đầu, trụ, nóc, cốn, tiền kẻ, hậu bẩy”, kết cấu khung đỡ mái tỳ lực trên 32 đầu cột. Trên các đầu kẻ, bẩy, cốn đều được chạm nổi hoa văn dạng mây lá, tứ linh, tứ quý, triện dây. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt năm gian giữa. Gian chính giữa có hai thành bậc đá chạm rồng, dài 2,15m, cao 0,65m, mang phong cách nghệ thuật thời Trần. Tại tiền đường có các ban thờ Hộ Pháp, Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Bát Bộ Kim Cương.
- Thiêu hương: còn được gọi là ống muống, nối liền Thượng điện và Tiền đường, có chiều dài 9,4m, rộng 5,55m, mặt nền thấp hơn Thượng điện, gồm ba gian. Hệ thống đỡ hoành mái gồm bốn bộ vì, mỗi vì đều được gác trên bốn đầu cột. Trong tòa này đặt các ban thờ Thập điện Diêm Vương, Mạc Đĩnh Chi và Thái tử Kỳ Đà.
- Thượng điện: được dựng trên nền cao 1,27m, có mặt bằng hình chữ nhật, dài 13,9m, rộng 10,65m, gồm một gian, hai chái, với bốn bộ vì, bốn mái đao cong. Đặc biệt, tại tòa này còn bảo lưu được hai bộ vì nóc kiểu “giá chiêng”, với khoảng giữa gắn hình lá đề chạm nổi đôi rồng chầu mặt trời và hai trụ trốn bên chạm nổi hình phỗng. Thượng điện có các ban thờ Đại Thánh Pháp Vân Phật (gọi tắt là Pháp Vân),
22
tượng Bà Trắng, Bà Đỏ, Thạch Quang Phật, Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn...
- Hậu đường: gồm chín gian, hai dĩ, bộ khung gỗ, vì nóc được kết cấu theo kiểu “trụ, quá giang, kẻ”. Đây là nơi thờ Đức Ông, Quan Âm, Thánh Hiền, Địa Tạng Vương, Hậu Phật. Trung tâm điện Phật có các tượng Tam Thế, Quan Âm chuẩn đề.
- Nhà Tổ: nằm sát bên trái hậu đường. Đây là tòa nhà năm gian, tường hồi bít đốc, bộ khung gỗ, vì kèo kiểu “con chồng, giá chiêng, kẻ truyền”. Tòa này thờ Tổ và thờ Mẫu.
Chùa Dâu in đậm dấu ấn kiến trúc, điêu khắc của nhiều thời kỳ lịch sử, với hệ thống tượng pháp mang nghệ thuật đặc sắc của thời Lê - Nguyễn, đặc biệt là hệ thống tượng Tứ Pháp. Đây là một minh chứng sống động của sự dung hội giữa Phật giáo Ấn Độ khi du nhập nước ta với tín ngưỡng bản địa của người Việt, đã tạo nên một trung tâm tín ngưỡng, tôn giáo mang bản sắc dân tộc.
Hội chùa Dâu mở vào ngày mồng 8 tháng Tư âm lịch hằng năm, nhằm ngày sinh của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Hội Dâu là hội của dân cư nông nghiệp, ý nghĩa quan trọng nhất của hội Dâu là cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống nhân dân no ấm, sung túc.
Với ý nghĩa lịch sử đặc biệt, ngày 9-12-2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2383/QĐ-TTg, xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Dâu là Di tích quốc gia đặc biệt.
CHÙA PHẬT TÍCH
Chùa Phật Tích còn có tên là chùa Vạn Phúc thuộc thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du,
23
tỉnh Bắc Ninh. Đây là địa điểm tâm linh nổi tiếng tại khu vực phía Bắc không chỉ bởi cảnh quan kiến trúc và lịch sử mà còn bởi những bảo vật vô giá được lưu giữ tại Chùa.
Chùa được khởi công xây dựng vào năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057).
Theo các nhà nghiên cứu, ngôi chùa được xây theo lối nội công, ngoại quốc và mang đậm phong cách kiến trúc thời Lý (1010-1225). Chùa tọa lạc trên núi Phật Tích (còn gọi là núi Lạn Kha, núi Tiên Du, núi Nguyệt Hằng), cửa mở ra hướng Tây, trước mặt là sông Đuống, có nhiều kết cấu bằng đá như: thềm đá, bậc thang đá, tường kè bao quanh bằng đá...
Dấu tích kiến trúc cổ xưa của chùa cho thấy: ở giữa là ngôi tiền đường gồm 11 gian, tòa thiêu hương gồm ba gian, tòa thượng điện năm gian, tòa hậu cung chín gian; hai bên là hai dãy hành lang, mỗi dãy bảy gian, phía trái có nhà phương trượng năm gian, phía trước kề liền đó là tòa Nhà Tổ với năm gian trước và ba gian điện phía sau. Trải qua thời gian và sự tàn phá của con người, nhiều công trình kiến trúc đẹp của chùa đã trở thành phế tích. Hiện nay, chùa còn lại bảy gian tiền đường dùng để tiếp khách, năm gian nhà thờ Phật, tám gian Nhà Tổ và bảy gian nhà thờ thánh Mẫu.
Sau chùa có khu vườn tháp với 32 ngọn tháp lớn nhỏ xây bằng gạch và đá. Phần lớn các ngọn tháp này được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII. Đây là nơi cất giữ xá lỵ của các vị sư trụ trì.
Điểm độc đáo của chùa Phật Tích không chỉ ở những công trình kiến trúc mà còn ở các tác phẩm điêu khắc đá cổ kính.
Tác phẩm điêu khắc đá đầu tiên phải kể đến là Pho tượng đá A Di Đà. Thân tượng được chế tác từ
24
đá xanh nguyên khối. Tượng được tạc trong tư thế ngồi kết già trên tòa sen được tạc bằng đá. Hai bàn tay để ngửa, chồng lên nhau, đặt trên đùi. Lớp áo ngoài buông xuống phủ kín đôi chân. Thân hình tượng thanh mảnh, ngồi với tư thế hơi dướn lên phía trước, khuôn mặt hiền từ, khẽ mỉm cười. Tòa sen được đặt trên bệ đá hình bát giác được chạm khắc rất tinh xảo. Bệ tòa sen tạo hình từ các đóa sen đang nở với hai tầng cánh. Tầng trên chạm đôi rồng, bệ bát giác, các họa tiết trang trí được chạm khắc cả bề mặt. Mặt bên của cả hai tầng đều chạm hình đôi rồng đang vờn nhau, ẩn hiện trong mây. Mặt trên của tầng diềm chạm những chùm hoa dây mềm mại. Cuống hoa có hình ảnh nhiều người leo trèo. Mặt dưới là hình sóng nước cách điệu. Tất cả đều rất tỉ mỉ, sống động.
Tác phẩm điêu khắc đá thứ hai mang giá trị nghệ thuật là tượng mình người đầu chim đang vỗ trống. Tượng được tạc bằng chất liệu đá xanh. Khuôn mặt tượng phúc hậu hiền từ, toát lên vẻ trí tuệ và thánh thiện. Pho tượng này có lẽ là hình ảnh của thần nhạc công.
Tác phẩm điêu khắc đá thứ ba là chân cột bằng đá chạm hình ảnh dàn nhạc đang hoạt động. Chân tảng đá được chạm nổi ở cả bốn mặt, tạo thành những mảng bố cục theo chiều ngang. Lấy điểm giữa là một bông sen, tác phẩm điêu khắc chia thành hai phần đối xứng qua bông sen ấy, mỗi bên có năm người, trong đó có bốn nhạc công và một người dâng lễ. Cả tám nhạc công đều trong tư thế đang vừa nhảy múa vừa sử dụng nhạc cụ trên tay. Những nhạc cụ mà các nhạc công sử dụng là trống cơm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn thập lục, tiêu, sáo, nhị, trống da.
25
Tác phẩm điêu khắc thứ tư là hàng linh thú trước sân chùa. Mười linh thú gồm năm đôi: tê giác, ngựa, trâu, voi, sư tử. Những con vật này đều gắn bó hoặc có liên quan đến cuộc đời và nghiệp truyền đạo của đức Phật Thích ca Mâu ni.
Tác phẩm điêu khắc thứ năm là ao rồng. Tại giữa cửa tầng nền thứ ba, cách mép nền 14,30m có một ao nhỏ, gọi là Long trì (ao rồng). Ao có chiều dài 7m, rộng 5m, sâu 2m. Xung quanh bờ đều được kè bằng đá tảng, vách đứng, vuông góc. Dưới đáy ao rồng có chi tiết chân rồng được tạc bằng đá với bắp chân to, mập và bộ móng chắc khỏe.
Lễ hội chùa Phật Tích được tổ chức ngày mồng 4 Tết Nguyên Đán hằng năm, thu hút được hàng nghìn người đến dâng hương, cầu phúc và vãn cảnh Chùa.
Ngày 28-4-1962, Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã ban hành Quyết định số 313/VH-VP công nhận chùa Phật Tích là Di tích lịch sử - văn hóa. Gần đây, ngày 31-12-2014, Chính phủ đã ra Quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật chùa Phật Tích là Di tích quốc gia đặc biệt.
KHU LĂNG MỘ
VÀ ĐỀN THỜ CÁC VỊ VUA TRIỀU LÝ
Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý là chứng tích lịch sử về làng Cổ Pháp xưa và làng Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay; là đất phát tích, tôn miếu thờ các vị vua triều Lý và là nơi an táng các vị tiên vương và hoàng tộc nhà Lý. Triều Lý (1009-1225), từ khi Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi, dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (1010), trải qua tám
26
đời vua, truyền ngôi được 216 năm, là giai đoạn nhà nước phong kiến độc lập tự chủ, vững mạnh, nhân dân được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị.
Khu di tích là công trình kiến trúc đặc sắc với nghệ thuật điêu khắc đá, điêu khắc gỗ, tạc tượng thờ, kỹ thuật xây dựng đều đạt đến mức tinh xảo. Di tích có nhiều tên gọi khác như: Đền Đô, Cổ Pháp Điện/Đền thờ Lý Bát Đế và Khu lăng mộ các vị vua triều Lý (Thọ lăng Thiên Đức hay Sơn lăng cấm địa); bao gồm hai khu vực chính là: Đền Đô và Khu lăng mộ các vị vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa).
- Đền Đô: có tổng diện tích là 31.250m2, được phân chia thành khu nội thành và ngoại thành. Khu ngoại thành có diện tích 26.910m2, gồm các hạng mục: hồ bán nguyệt, nhà thủy đình, nhà văn chỉ bên phải, nhà võ chỉ bên trái.
+ Nhà văn chỉ và võ chỉ: có kiến trúc hình chữ Công, với các công trình tiền đường, ống muống và hậu đường. Nhà văn chỉ và võ chỉ được xây dựng trong khuôn viên hình chữ nhật, đối xứng nhau qua trục chính của đền, giữa nội thành và ngoại thành.
+ Nhà thủy đình: ba gian hình vuông, xây nổi trên hồ bán nguyệt, kiến trúc chồng diêm hai tầng tám mái, tám đao cong và làm theo kiểu tầu đao mái góc. Móng nhà xây bằng đá cao 0,8m và có cột đỡ đao, kết cấu bốn hàng chân cột, toàn bộ nhà bằng gỗ lim vững chắc.
Khu nội thành có diện tích 4.340m2, được chia thành khu nội thất và ngoại thất. Nội thất gồm: hậu cung, nhà chuyển bồng, nhà tiền tế, nhà bia và nhà để tám kiệu thờ, nhà để tám ngựa thờ ở hai bên. Ngoại thất gồm: phương đình, đền Vua Bà, nhà chủ tế, nhà khách, nhà trưng bày, hội trường, ngũ long môn, sân đền, tượng voi, sấu đá,...
27
+ Ngũ long môn: còn gọi là năm cửa rồng, có diện tích 60m2, gồm ba gian có kết cấu đặc biệt, làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài. Cánh cổng gian chính giữa chạm rồng cuốn, phía trên xà nóc chạm rồng mây, giữa đắp nổi hình rồng. Hai bên cổng chính có đặt hai pho tượng đá (còn gọi là cấm vệ quân). Ở bậc tam cấp có hai đôi rồng và mây đá, đặt trên tảng đá xanh. Bên trên Ngũ long môn treo bức hoành phi “Lý Triều Bát Đế”. Qua Ngũ long môn là sân rồng, phía bên phải cổng có miếu thờ thổ thần và giếng ngọc.
+ Phương đình: làm bằng hệ thống gỗ lim vững chắc, kết cấu bốn hàng chân cột bằng đá xanh. Phương đình treo hai bức hoành phi đề “Bát Diệp Trùng Quang” và “Tham Tán Thiên Địa”, có hương án bày các đồ thờ tự, hai bên hương án là tượng hai tướng Đá Rãi (hai anh em sinh đôi Lý Hải và Lý Khoáng) có công cùng vua đi dẹp loạn.
+ Nhà tiền tế: khung nhà làm bằng gỗ lim, kết cấu bộ vì theo kiểu chồng rường con nhị, thượng tam hạ tứ, kẻ chuyền hai bên. Các bộ vì kèo được liên kết dọc với nhau bởi hệ thống xà thượng và xà hạ. Các cột được tạo tác theo kiểu thức “cột đòng đòng”, đứng trên các chân tảng bằng đá xanh. Gian giữa bày hương án, hai bên đặt tượng cấm vệ quân triều Lý (áo đen), gần cửa ra vào có ngựa hồng và ngựa bạch. Bên phải có bức hoành phi đề “Cổ Pháp Triệu Cơ” và bức cuốn thư “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ. Bên trái treo cuốn thư khắc bài thơ thần Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt.
+ Nhà chuyển bồng: có kiến trúc kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái. Bộ vì kết cấu lòng thuyền thượng tam hạ tứ, kẻ truyền hai bên. Mái lợp ngói mũi hài, các tàu mái ở bốn góc được uốn cong và chụm lại tạo thành hình đầu rồng.
28
+ Hậu cung: kiểu nhà bình đầu, hai bên phía trước có cột trụ lồng đèn cánh phong đắp văn triện, đỉnh đắp trái dành, đường nét mềm mại, uyển chuyển. Bộ khung bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc, bờ chảy lắp hộp rỗng hoa chanh, đỉnh nóc đắp nổi ba chữ Hán “Cổ Pháp điện”. Hậu cung là nơi đặt bài vị, tượng của tám vị tiên vương triều Lý.
+ Nhà bia (bên trái): kiến trúc hai tầng tám mái, cửa hình vòm, bên trong là tấm bia “Cổ Pháp điện tạo bi”. Bia có kích thước khá lớn: cao 1,9m, rộng 1,3m, dày 0,17m. Trán bia trang trí hình lưỡng long chầu nguyệt.
Nhà bia (bên phải) có kiến trúc tương tự, bên trong có “Bia trùng tu đền Đô” cao 2m, rộng 1m. - Khu lăng mộ các vị vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa)
Khu lăng mộ là nơi an nghỉ cuối cùng của các vua triều Lý, cách đền Đô khoảng 800m về phía đông bắc, nằm ở khu Ao Sen, thuộc cánh đồng phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn. Ngày nay, Khu lăng mộ các vị vua nhà Lý bao gồm những công trình sau: - Lăng vua Lý Thái Tổ (lăng Lòng Chảo); Lăng Cả (thờ vua Lý Thái Tông); Lăng Hai (còn gọi là lăng Con) thờ vua Lý Thánh Tông; Lăng Con Voi (thờ vua Lý Nhân Tông); Lăng Đường Gio (thờ vua Lý Thần Tông); Lăng Đường Thuấn (thờ vua Lý Anh Tông); Lăng vua Lý Cao Tông; Lăng vua Lý Huệ Tông; Lăng bà Nguyên Phi Ỷ Lan; Lăng Phát Tích (lăng Bà Phạm Thị).
Hiện vật ở di tích đền Đô và Khu lăng mộ các vị vua triều Lý còn lại không nhiều, có thể kể đến như tám bài vị các vua Lý được sơn son thiếp vàng, chạm khắc vào thời Lê; đỉnh đồng; hạc đồng và một số bát đĩa có niên đại thời Lê. Đặc biệt còn có một bia đá
29
cao 1,82m, rộng 1,03m, dày 0,175m, trên chạm khắc hình rồng chầu mặt nguyệt tinh xảo, ghi niên đại 1604 do Tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn, ghi công đức các vua Lý.
Ngoài ra, Khu di tích còn bảo tồn và duy trì được nhiều sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian truyền thống và tập tục thờ các vị vua triều Lý. Hằng năm, ở Đình Bảng diễn ra ba lễ hội chính:
- Hội chùa vào ngày mồng 7 tháng Giêng âm lịch hằng năm, nhằm ngày giỗ bà Phạm Thị, mẫu thân của vua Lý Công Uẩn, tổ chức tại chùa Dận (Ứng Tâm tự).
- Hội đình vào ngày 15 tháng Hai âm lịch hằng năm, mở hội tế Thánh và đón chạ (chạ Đình Bảng - Cẩm Giang). Lễ hội truyền thống này được duy trì từ sau chiến thắng giặc Minh (thế kỷ XV) đến nay.
- Hội đền vào ngày 15 tháng Ba âm lịch hằng năm, tổ chức tại đền Đô. Nhân dân địa phương vẫn cho rằng đây là ngày hội đăng quang khi vua Lý lên ngôi. Hội được tổ chức có quy mô lớn, thu hút đông đảo khách thập phương trong và ngoài nước.
Với giá trị đặc biệt, ngày 31-12-2014, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 2408/QĐ-TTg, xếp hạng Di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý là Di tích quốc gia đặc biệt.
ĐIỆN BIÊN
ĐIỆN BIÊN PHỦ
Khu di tích Chiến trường Ðiện Biên Phủ thuộc tỉnh Điện Biên, là một quần thể các di tích lịch sử
30
ghi lại chiến công của quân và dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược. Các di tích nổi bật của Khu di tích là đồi A1, đồi C1, đồi C2, đồi D1, phân khu Hồng Cúm, Him Lam, hầm chỉ huy của tướng Ðờ Catri,... thuộc Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và Sở chỉ huy chiến dịch Mường Phăng.
- Đồi A1: Đồi A1 nằm ở phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, là cứ điểm quan trọng bậc nhất trong tập đoàn cứ điểm của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ. A1 là ký hiệu mà quân đội Việt Nam đặt cho quả đồi. Đây là điểm cao cuối cùng trong hệ thống phòng ngự dãy đồi phía đông, cao gần 32m so với mặt đường, diện tích gần 82.000m2, cách Sở Chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 500m về phía đông. Tại đây, quân Pháp đã cho xây dựng ba tuyến phòng thủ vô cùng kiên cố, phía ngoài cùng lại có năm lớp rào dây thép gai, dày hơn 100m, gài nhiều mìn. Pháo binh ở Mường Thanh, Hồng Cúm, hỏa lực bắn thẳng ở cứ điểm A3, C2, không quân, xe tăng sẵn sàng chi viện cho cứ điểm A1.
Về phía ta, cứ điểm A1 là một trong các mục tiêu chủ yếu của đợt tấn công thứ hai của chiến dịch. Sáng 7-5-1954, quân đội Việt Nam đã chiếm được đồi A1.
- Đồi C1: nằm trong dãy đồi liên hoàn phía đông. C1 cùng với các đồi A1, C2, E1, D tạo thành tấm lá chắn che chở cho phân khu trung tâm. Xét về địa thế, đồi C1 tuy không có độ cao như đồi E và đồi D, nhưng lại có vai trò quan trọng hơn rất nhiều bởi sự bố phòng liên hoàn cùng với đồi A1. Nếu quân ta chiếm được hai quả đồi này, sẽ có thể kiểm soát toàn bộ các vị trí tả ngạn sông Nậm Rốm. Ngược lại, nếu
31
để mất những cứ điểm này, lực lượng quân Pháp ở hữu ngạn và tả ngạn sông Nậm Rốm sẽ bị chia cắt. Lực lượng của ta tham gia đánh đồi C1 gồm: Tiểu đoàn 215 thuộc Trung đoàn 98, Đại đoàn 316 do Trung đoàn trưởng Vũ Lăng trực tiếp chỉ huy, ngoài ra, còn có một số đơn vị kết hợp của Đại đoàn 312. - Đồi C2: nối với đồi C1 bằng một “yên ngựa”. Sườn đồi phía trong thoai thoải, đổ xuống đường 41 (nay là đường 279), rất tiện cho quân Pháp cơ động lên phản kích. Trên đồi có hệ thống chiến hào liên hoàn với nhiều lô cốt, ụ súng khá kiên cố. Phía ngoài, quân Pháp bố trí nhiều lớp rào dây thép gai và bãi mìn dày đặc. Đồi C2 do Tiểu đoàn Dù thuộc địa và Trung đoàn Ma Rốc số 4 chiếm giữ. Về phía ta, chịu trách nhiệm đánh cứ điểm này là Trung đoàn Ba Đồn (98), thuộc Đại đoàn Biên Hòa (316). Trung đoàn trưởng chỉ huy trận đánh trong thời gian ấy là đồng chí Vũ Lăng.
- Đồi D: nằm trong cụm Đôminích (Dominique), bao gồm ba ngọn đồi D1, D2, D3. Thực dân Pháp đã xây dựng và biến cứ điểm này thành vị trí tiền tiêu của dãy đồi phía đông. Nhiệm vụ của đồi D là trực tiếp khống chế khu trung tâm và sân bay Mường Thanh. Thực dân Pháp lợi dụng địa thế tự nhiên của ba mỏm đồi có lợi cho chúng về mặt quân sự để xây dựng thành vị trí phòng thủ vững chắc.
Về phía ta, đơn vị đảm nhiệm tiêu diệt đồi D là các tiểu đoàn: 130, 166, 134 thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312.
- Phân khu Hồng Cúm - Phân khu Nam: còn gọi là phân khu Hồng Cúm hay Idaben (Isabelle), được xây dựng về phía nam của Điện Biên, cách trung tâm thành phố 6km. Về mặt chiến thuật, Hồng Cúm giữ vai trò khá quan trọng, nó vừa bảo vệ
32
phía nam của Tập đoàn cứ điểm, vừa chi viện cho phân khu trung tâm khi bị tấn công bằng pháo binh, bộ binh, lực lượng cơ giới và còn có nhiệm vụ ngăn chặn quân ta tiến công từ phía nam lên, đồng thời giữ đường liên lạc với Thượng Lào. Khi Tập đoàn cứ điểm có nguy cơ bị tiêu diệt thì nó trở thành “cửa sau” mở đường rút chạy sang Thượng Lào cũng như đón quân từ Lào sang ứng cứu và chi viện.
- Đồi Him Lam: Trung tâm đề kháng Him Lam là một trung tâm phòng ngự kiên cố nhất của địch. Him Lam thuộc phân khu trung tâm, cách trung tâm Mường Thanh 2,5km, có nhiệm vụ che chở cho phân khu trung tâm và làm nhiệm vụ án ngữ con đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, ngăn chặn hướng tấn công chính của bộ đội ta vào khu trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
- Đồi Độc Lập: Đồi này được người Pháp gọi là Gabrielle, thuộc xã Thanh Nưa, thành phố Điện Biên, có chiều dài 700m, rộng 200m, nằm đơn độc ngang đường 12 (Điện Biên - Lai Châu), phía bắc Mường Thanh; là trung tâm đề kháng, có nhiệm vụ ngăn chặn đối phương. Tại đây đã diễn ra trận chiến đấu quyết liệt để mở “cánh cửa thép” nhằm mở đường cho quân ta thọc sâu vào trung tâm chỉ huy sở vào hồi 17 giờ ngày 17-3-1954.
- Hầm chỉ huy của tướng Đờ Catri (Christian de Castries): thuộc xã Thanh Luông, thành phố Điện Biên, cách đồi A1 khoảng 700m về phía đông. Đây là trung tâm của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nên được bảo vệ chắc chắn, gồm nhiều đơn vị như: hầm chỉ huy, trận địa pháo, khu quân y, khu hậu cần và một số kho tàng quân trang, quân dụng, hệ thống thông tin liên lạc tới các trung tâm đề kháng. Từ chỉ huy sở có đường giao thông hào tới các đơn vị, xung quanh được bảo vệ bằng hàng rào dây thép gai.
33
- Sở Chỉ huy chiến dịch tại Mường Phăng: được thành lập ngày 1-1-1954, ở phía đông cánh đồng Mường Thanh. Sở Chỉ huy đóng tại đây cho đến lúc kết thúc chiến dịch. Tại đây đã diễn ra những cuộc họp mang tính chất quyết định trong quá trình tấn công Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Để đảm bảo bí mật, Sở Chỉ huy quyết định đào một đường hầm xuyên núi, từ lán làm việc của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thông với lán làm việc của Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, dài 97m, cao 1,70m, rộng 1,20m. Ngoài lán làm việc còn có rất nhiều các lán nhỏ, là nơi làm việc của các ban: Tác chiến, Chính trị, Hậu cần, Thông tin, khu hầm và lán làm việc của đồng chí Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm, hầm và lán làm việc của cố vấn Trung Quốc.
Khu di tích Chiến trường Điện Biên Phủ là bằng chứng lịch sử về chiến thắng lẫy lừng của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, thể hiện ý chí quyết tâm của cả dân tộc trước một lực lượng quân sự có đủ cả phương tiện chiến tranh hiện đại; cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt với nghệ thuật quân sự tài tình của Đảng ta và Hồ Chủ tịch.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Di tích, ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 1272/QĐ-TTg, xếp hạng Di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ là Di tích quốc gia đặc biệt.
HÀ NAM
CHÙA LONG ĐỌI SƠN
Chùa Long Đọi Sơn (tên chữ là Sùng Thiện Diên Linh) tọa lạc trên đỉnh núi Đọi, thuộc địa phận xã
34
Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Đây là ngôi chùa cổ, được xây dựng từ thời Lý. Theo sử sách ghi lại, năm 1118, vua Lý Nhân Tông cho xây dựng bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh cao 13 tầng và mở mang chùa to đẹp hơn.
Qua thời gian, ngôi chùa bị phá hủy và xây dựng lại nhiều lần nên không còn giữ được quy mô và kiến trúc như ban đầu. Hiện nay, chùa gồm bảy gian bái đường và ba gian thượng điện, chính điện chùa vẫn quay về hướng nam. Ngoài cùng là tòa Tam quan (5 gian), được xây dựng năm 2004, với kiểu kiến trúc chồng diêm, tám mái. Tiếp theo là bàn cờ người, với diện tích khoảng 50m2, được dùng làm nơi đấu cờ khi mở hội. Phía trên là cổng tam quan, với hai bên là lối lên sân chùa, ở giữa là nhà bia - nơi lưu giữ tấm bia tháp Sùng Thiện Diên Linh. Leo qua 24 bậc đá là sân chùa, nơi đặt tượng Quan Âm. Dọc theo hành lang ở hai bên sân chùa là hai dãy nhà đồng tội, đắp
cảnh Thập điện Diêm Vương, với thế giới của 10 cửa ngục như lời nhắc nhở người trần. Lên tiếp mấy bậc đá nữa là đến chùa chính. Đầu tiên là tòa Tam Bảo, với bảy gian bái đường và ba gian Thượng điện, thờ Đức Phật Di Lặc ở chính giữa, chư vị Phật, đức Hộ pháp. Phía sau tòa Tam bảo là hai dãy hành lang song song thờ tượng Thập bát La Hán. Sau chùa, trước cửa hậu điện trước đây là vườn hoa, nay là hố khai quật khảo cổ sâu chừng 2m, nơi tìm thấy vết tích móng tháp Sùng Thiện Diên Linh. Hậu điện nối thông với hành lang thờ các vị La Hán, là nơi thờ Quan Âm Nam Hải, Quan Âm Tống Tử, Đức Át Nan, Đức Địa Tạng, bia hậu và những nhân vật triều Lý có công với đất nước và trực tiếp với ngôi chùa, như: Thái úy Lý Thường Kiệt, vua Lý Nhân Tông, vương phi Ỷ Lan... Bên trái chùa là năm gian nhà tổ, nơi
35
thờ 10 đời sư tổ, đồng thời cũng là khu giảng đường. Nhà tổ, nhà khách, nhà bếp, tăng phòng... hợp thành khu kiến trúc có bình đồ hình chữ U. Phía tây là khu vườn tháp, hiện còn giữ được một số kiến trúc tháp thời Nguyễn. Bên phải chùa là điện Mẫu.
Một số di vật tiêu biểu trong chùa:
- Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh dựng năm Tân Sửu, thời Lý (1121). Mặt trước bia khắc bài văn bia do Thượng thư Nguyễn Công Bật soạn nhân kỷ niệm khánh thành bảo tháp, mặt sau là những bút tích hậu thế khắc thêm vào. Đây là tấm bia được điêu khắc rất đẹp. Trán, diềm và cạnh bia đều trang trí hình rồng. Bệ bia là một khối đá lớn, mặt bệ bia chạm hai đôi rồng nước quấn lấy nhau. Rồng đội bia thay cho rùa đội bia là hình tượng rất độc đáo mà chỉ ở đây mới có. Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh được công nhận là Bảo vật quốc gia;
- Sáu pho tượng Kim Cương niên đại thời Lý, được tạc bằng đá. Tượng được tạc nổi theo kiểu phù điêu. Dáng đứng thẳng, hai chân dạng ra theo thế vững chãi của một võ tướng, hai tay cầm gươm chống trước bụng. Kích thước cao bằng người thật, đầu đội mũ trụ, bộ mặt được điêu khắc như người thường, mặc trang phục theo lối võ quan, có lá chắn che trước ngực, áo giáp được trang trí tỉ mỉ bằng những dải hoa, hình xoắn;
- Bốn pho tượng đầu người mình chim cao 40cm, rộng 30cm. Trên đầu tượng, tóc được tết gọn gàng thành hình cầu, quanh trán quấn một chiếc khăn rủ xuống ngang vai. Trên hai cánh chim là những đường cong khắc chìm vòng quanh vành ngoài, bên trong có những đường xoáy ốc được cách điệu thành
hình hoa lá chạm nổi. Vẻ đẹp của tượng vừa trầm tư vừa dịu dàng, rạng rỡ với đôi lông mày dài, cặp mắt
36
hơi xếch, môi thoáng nụ cười. Toàn bộ tượng được thể hiện rất công phu, độc đáo, kỳ dị nhưng thoải mái; - Tượng Di Lặc bằng đồng đúc năm 1864, nặng 1.000kg, với tư thế thoải mái, chân phải chống lên, chân trái xếp vào lòng, mặc áo chỉ vừa hai ống để hở bụng và ngực, thể hiện sự no đủ và tươi vui. Hằng năm, lễ hội chùa mở từ ngày 19 đến 21 tháng Ba âm lịch (chính hội là ngày 21), nhằm tưởng niệm vua Lý Nhân Tông và nguyên phi Ỷ Lan. Chùa Long Đọi Sơn được xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
ĐỀN TRẦN THƯƠNG
Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; là nơi thờ vị anh hùng dân tộc Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng gia quyến và các Bộ tướng có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thế kỷ XIII. Đền là di tích tiêu biểu của tỉnh Hà Nam và cả nước, hội tụ nhiều giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật, tâm linh.
Khu vực đền Trần Thương nói riêng và xã Nhân Đạo trước kia đã được Trần Hưng Đạo chọn để cất giữ lương thảo, khí giới phục vụ quân đội trong cuộc chiến chống giặc Nguyên - Mông lần thứ hai (1285), bởi nơi đây là miền đất trù phú với địa thế hiểm yếu, thế đất linh thiêng, rất thuận lợi về giao thông đường thủy. Sau chiến thắng, Trần Hưng Đạo đã trở về khu vực kho lương chính (Trần Thương) để cắm sinh phần, miễn tô thuế cho dân. Khi ông mất, người dân địa phương đã dựng đền thờ trên vị trí kho lương chính và tôn ông làm Đức Thánh Trần.
37
Trong số các di tích thờ Hưng Đạo Đại Vương trên đất Hà Nam và cả nước, đền Trần Thương là di tích tiêu biểu, thâm nghiêm, cổ kính, có quy mô kiến trúc lớn. Tổng thể kiến trúc cảnh quan ngôi đền gồm: nghi môn ngoại, nghi môn nội, 5 tòa, 15 gian, chia thành ba cung: Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam và 2 giải vũ, 5 giếng... Giá trị của đền Trần Thương còn được thể hiện ở phần trang trí kiến trúc với các đề tài, họa tiết được chạm khắc công phu.
Theo các cụ già ở thôn Trần Thương, hằng năm, cứ vào tiết “Tháng Tám giỗ Cha”, các cụ đều có lệ rước nước và nhập lương từ sông Hồng nhằm tái hiện dữ kiện lịch sử về việc phát lương khao quân của quân đội nhà Trần khi đánh thắng giặc Nguyên - Mông trở về.
Ngày nay, đền Trần Thương mở hội từ ngày 18 đến 20 tháng Tám âm lịch hằng năm, thu hút đông đảo nhân dân và khách thập phương. Đặc biệt, ngoài lễ hội truyền thống, từ năm 2010, tại đền Trần Thương còn tổ chức Lễ phát lương để ban lộc đầu xuân của Đức Thánh Trần cho nhân dân và khách thập phương vào giờ Tý ngày 15 tháng Giêng âm lịch hằng năm.
Việc tổ chức Lễ hội phát lương Đức Thánh Trần nhằm đáp ứng nhu cầu về văn hóa tâm linh của nhân dân và khách thập phương nhân dịp đầu xuân năm mới, đồng thời cũng là dịp để giáo dục truyền thống và khơi dậy đạo lý uống nước nhớ nguồn, tri ân các bậc tiền nhân đã có công với dân, với nước. Qua đó, tôn vinh giá trị văn hóa lúa nước, giá trị lương thực trong đời sống con người, góp phần to lớn vào cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và dựng nước.
Đền Trần Thương được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt.
38
HÀ NỘI
CỔ LOA
Thành Cổ Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên và của nhà nước phong kiến dưới thời Ngô Quyền thế kỷ X sau Công nguyên. Hiện nay, di tích Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”. Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm
39
được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm chín vòng xoáy trôn ốc, nhưng hiện còn ba vòng thành, trong đó vòng thành Nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu vi vòng ngoài 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1,6km, diện tích trung tâm lên tới 2km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong thoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 - 5m, có chỗ cao đến 8 - 12m. Chân lũy rộng 20 - 30m, mặt lũy rộng 6 -12m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu m3.
- Thành Nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6 -12m, chân rộng từ 20 - 30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
- Thành Trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, chu vi 6.500m, nơi cao nhất là 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng.
- Thành Ngoại cũng không có hình dáng rõ ràng, chu vi hơn 8.000m, cao trung bình 3 - 4m (có chỗ tới hơn 8m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ
40
còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.
Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch có hình dáng như bàn tay xòe, và với một nhánh của con lạch này, nước chảy thông vào vòng hào của thành Nội. Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi.
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.
Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xã hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua Hùng.
Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật
41
cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương.
Hằng năm dân Cổ Loa vào hội vào ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch, kỷ niệm ngày Thục Phán nhập cung. Hội đền Cổ Loa kéo dài nhiều ngày với nhiều trò vui như đánh bài, đánh đáo, chơi đu, cờ người,... buổi tối có hát chèo thờ thần.
Năm 1962, thành Cổ Loa được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 1419/QĐ-TTg, ngày 27-9-2012 của Thủ tướng Chính phủ.
CHÙA TÂY PHƯƠNG
Chùa tọa lạc trên đỉnh đồi Tây Phương, hình cong như lưỡi câu (xưa gọi là núi Câu Lậu) cao chừng 50m, thuộc núi Ngưu Lĩnh (núi Con Trâu), xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc thành phố Hà Nội.
Chùa được xây dựng từ lâu đời và đã được trùng tu nhiều lần vào các thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Năm 1554, chùa được xây lại trên nền cũ. Năm 1632, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Năm 1660, Tây Đô Vương Trịnh Tạc cho xây lại chùa mới. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là “Tây Phương Cổ Tự” và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay. Chùa Tây Phương còn có tên gốc là Sùng Phúc Tự và Hoàng Sơn Thiếu lâm tự.
42
Chùa được đặt trên đỉnh núi cao hơn 100m với hơn 230 bậc cấp lát đá ong. Dựa vào thế núi từ thấp lên cao, kiến trúc chùa Tây Phương được xây dựng theo kiểu chữ Tam, gồm ba ngôi chùa song song với nhau dọc theo sườn núi, mỗi chùa cách nhau 1,6m: chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Mặc dù mỗi ngôi chùa mang một kiến trúc riêng biệt nhưng lại nằm trong một chỉnh thể hài hòa, thống nhất giữa không gian núi rừng trầm tịch và thoáng đãng.
Mỗi tòa nhà có hai tầng mái kiểu chồng diêm: mái trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn. Mái chùa có những góc đao cong vút được kết hợp bởi hai loại vật liệu chính là gỗ và đất nung, với những đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng rất sống động, vươn cao tới 2,2m. Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều được chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn rất công phu. Tường chùa xây toàn bằng gạch Bát Tràng, các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh, khắc hình cánh sen.
Không chỉ nổi bật với kiến trúc độc đáo, chùa Tây Phương còn là nơi tập trung những tác phẩm đặc sắc của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù điêu và tạc tượng. Hầu hết các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... làm bằng gỗ trong chùa đều được bàn tay của các nghệ nhân chạm trổ những hình ảnh quen thuộc của dân tộc Việt Nam như: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù...
Điểm nổi bật nhất ở chùa Tây Phương là các bộ tượng. Trong chùa có hơn 70 pho tượng cùng với các bức phù điêu, chủ yếu được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng, như các bộ tượng Tam Thế Phật, bộ tượng Di Đà Tam Tôn, tượng Tuyết Sơn, tượng Bồ
43
tát Di Lặc, tượng Bồ tát Văn Thù, tượng Bồ tát Phổ Hiền,... Nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp, cao chừng 3m, trang nghiêm phúc hậu. Phần lớn các tượng này đều được coi là có niên đại cuối thế kỷ XVIII. Một số tượng khác được tạc vào giữa thế kỷ XIX.
Đặc biệt là tượng 18 vị La Hán được thờ ở chùa Thượng. Đó là 18 vị Sư tổ của Phật giáo. 18 bức tượng là 18 cá thể, mỗi người một dạng vẻ, một tư thế, ai nấy đều có nét riêng biệt, chân thực.
Chùa Tây Phương với bộ tượng La Hán điển hình nhất của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thế kỷ XVIII là một công trình tôn giáo đặc sắc tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê.
Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia năm 1962.
CHÙA THẦY
VÀ KHU VỰC NÚI ĐÁ SÀI SƠN
Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách là quần thể di tích nằm trên địa phận ba xã, thị trấn gồm: xã Sài Sơn, xã Phượng Cách và thị trấn Quốc Oai, Hà Nội.
Khu di tích chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách được chia thành ba cụm điểm:
- Cụm điểm thứ nhất: gồm chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn bao gồm các di tích: chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc tự; chùa Cao, tên chữ là Đỉnh Sơn tự; chùa Long Đẩu, tên chữ là Long Đẩu tự; chùa Sài Khê, tên chữ là Hoa Phát tự; đình Thụy Khê, quán Tam Xá, miếu Vũ và Quán Thánh.
44
- Cụm điểm thứ hai: gồm núi Phượng Hoàng, xã Phượng Cách, cách khu vực núi đá Sài Sơn chừng 1km và một số ngọn núi nhỏ thuộc xã Yên Sơn.
- Cụm điểm thứ ba: núi động Hoàng Xá, bao gồm các di tích: Thủy Đình động Hoàng Xá; chùa Hoa Vân tên chữ là Hoa Vân tự; đền Văn Xương; chùa Hoàng Kim tên chữ là Hoàng Kim tự, quán Hoàng Xá.
Chùa Thầy là một ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Đinh. Đây từng là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật Tích.
Phần chính của chùa Thầy gồm ba tòa song song với nhau gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Giữa chùa Hạ và chùa Trung có ống muống nối với nhau, tạo thành thế hạ công thượng nhất.
Chùa Hạ là nhà tiền tế, bày các tượng Đức Ông, Thánh hiền. Ống muống để tượng Bát bộ Kim Cương. Chùa Trung bày bàn thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp, tượng Thiên vương. Chùa Thượng hay chùa trên tách biệt hẳn, ở vị trí cao nhất, biển đề Đại hùng Bảo điện, đồng thời là nhà thánh, để tượng Di Đà tam tôn, Thích Ca, tượng ba kiếp của thiền sư Từ Đạo Hạnh, ban thờ Lý thần Tông còn có 1 đôi Phượng Hoàng gỗ, 2 tượng Phỗng thế kỷ XVIII đời vua Lê Ý Tông.
Xung quanh chùa có hai dãy hành lang phía sau có lầu chuông, lầu trống. Phía trước chùa là một sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành hàm của rồng trước trồng hai cây gạo, nhưng hiện tại hai cây gạo đã chết, được thay bởi cây đa. Từ sân này có hai
45
cầu là Nhật Tiên kiều và Nguyệt Tiên kiều nối sang hai bên, tạo thành hai râu rồng. Hai cầu này do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên nối sang một hòn đảo nhỏ, trên đảo có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên nối vào đường lên núi.
Giữa ao Long Chiểu có thủy đình là viên ngọc giữa miệng rồng.
Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mồng 5 đến 7 tháng 3 âm lịch hằng năm, là sự hòa hợp giữa tín ngưỡng dân gian, Phật giáo và Đạo giáo.
Khu di tích chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách đã được Nhà nước công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 2408/QĐ-TTg, ngày 31-12-2014 của Thủ tướng Chính phủ.
ĐỀN HAI BÀ TRƯNG
Đền Hai Bà Trưng còn gọi là đền Hạ Lôi, thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Đền thờ hai vị liệt nữ - anh hùng dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị - những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đánh đổ ách thống trị của nhà Đông Hán vào năm 40 - 43 (sau Công nguyên), giành lại nền độc lập, tự chủ dân tộc.
Nằm trên một khu đất cao, rộng, nhìn ra đê sông Hồng, với diện tích 129.824m2, đền gồm các hạng mục: cổng đền, nhà khách, nghi môn ngoại, nghi môn nội, gác trống, gác chuông, nhà tả - hữu mạc, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ thân phụ - thân mẫu Hai Bà, đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách, đền thờ các nữ tướng triều Hai Bà Trưng, đền thờ các nam tướng triều Hai Bà Trưng, nhà bia lưu niệm
46
Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh, hồ bán nguyệt, hồ mắt voi, suối vòi voi, hồ tắm voi, thành cổ Mê Linh...
- Cổng đền: được xây hai tầng, tầng dưới tạo ba cửa vòm cuốn, tầng trên xây kiểu chồng diêm, với hai tầng tám mái. Bờ nóc đắp hình đôi rồng chầu mặt trời, phần cổ diêm trang trí hình hoa bốn cánh, các góc đao đắp hình lá hỏa, góc cột đắp hình hoa cúc dây, thân cột hình hoa lá.
- Nhà khách: gồm bảy gian, xây kiểu tường hồi bít đốc.
- Nghi môn ngoại: xây kiểu cột đồng trụ hay còn gọi là tứ trụ. Đỉnh trụ trang trí tứ phượng theo kiểu lá lật, các ô lồng đèn phía dưới trang trí tứ linh. Hệ thống tứ trụ phân cách thành một cổng chính và hai cổng phụ.
- Nghi môn nội: gồm một gian, hai dĩ, với bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hai bên đầu hồi đắp hai đầu rồng, phần khúc nguỷnh đắp hai con nghê gắn sứ trong tư thế chầu vào nhau, bốn góc đao uốn cong, bộ vì đỡ mái làm kiểu thượng chồng rường, hạ
kẻ chuyền.
- Gác chuông, gác trống: gác trống - gác chiêng đều được làm theo kiểu bốn mái uốn cong, bờ dải đắp hình hoa chanh, hai bên đầu hồi đắp hình hổ phù, tầng trên mở bốn cánh cửa quay về bốn hướng...
- Đền thờ Hai Bà Trưng:
+ Tòa tiền tế gồm bảy gian, hai dĩ, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, hai đầu đắp hình con đấu, đầu hai bờ dải đắp hình phượng vũ. Phía trước tiền tế có đôi voi đá trong tư thế quỳ chầu vào nhau. Hai cổng nhỏ với mái làm theo kiểu chồng
diêm, mái uốn cong. Nối hai cổng nhỏ là hai bức “cánh phong”, phía trước có cột trụ biểu, đỉnh trụ hình trái giành, các ô lồng đèn đắp nổi tứ linh.
47
+ Nhà trung tế gồm năm gian, hai dĩ, xây kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp hình hoa chanh, chính giữa đắp hổ phù, hai mái kiểu chồng diêm... Phía trước trung tế có lư hương đá...
+ Nối với gian giữa trung tế là hậu cung - một nếp nhà ba gian, một dĩ, được xây dọc, hợp với trung tế tạo thành một kiến trúc tổng thể dạng chữ Đinh. Bộ khung đỡ mái hậu cung gồm bốn bộ vì mang kết cấu thượng giá chiêng hạ chồng rường, và thượng giá
chiêng hạ cốn. Các hàng cột có đường kính 35cm, trên cốn nách chạm hình chữ Thọ, hoa lá. - Đền thờ thân phụ, thân mẫu Hai Bà Trưng: có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm nhà năm gian, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt, bờ dải kiểu bờ đinh. Hậu cung gồm một gian, hai dĩ. - Đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách: tọa lạc về phía bên trái đền thờ Hai Bà Trưng. Đền quay hướng Tây Nam, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. - Đền thờ các Nữ tướng thời Hai Bà Trưng: có mặt bằng dạng chữ Nhất, gồm năm gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Hai gian bên trổ cửa hình chữ Thọ để lấy ánh sáng cho di tích. Hệ khung đỡ mái gồm sáu bộ vì được kết cấu theo dạng thượng giá chiêng, trung kẻ truyền, hạ bẩy hiên, hậu gối tường. Chính giữa ban thờ xây bệ cao bài trí ngai và bài vị, phía trước bài trí hương án.
- Đền thờ các tướng Nam thời Hai Bà Trưng: quay hướng Đông Bắc, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Nhất, gồm năm gian, tường hồi bít đốc, với sáu bộ vì được kết cấu theo dạng thượng giá chiêng, trung kẻ truyền, hạ bẩy hiên, hậu gối tường. Chính giữa ban thờ xây bệ cao bài trí khám thờ và bài vị.
48
- Nhà tả/ hữu mạc: là nếp nhà bảy gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hệ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng thượng giá chiêng chồng rường, trung kẻ, hạ bẩy. Phía trước hiên dãy nhà bên phải đền bài trí tám con voi, ngựa, sư tử, bên trong trưng bày một số di vật khai quật tại thành cổ Mê Linh.
- Thành cổ Mê Linh: hiện vẫn còn dấu vết thành cổ đắp đất, hình “con rắn uốn mình”, dài 1.750m, với chỗ rộng nhất là 500m, chỗ hẹp nhất là 200m, đắp bằng đất luyện, dày khoảng 1 ngũ (khoảng 2m), cao 1 trượng (khoảng 4m). Bao ngoài bờ thành là quách dày 2 ngũ (khoảng 4m), cao 1 trượng (khoảng 4m). Khoảng cách giữa thành và quách là đường “thông cù” rộng 2 ngũ (khoảng 4m). Do có con đường “thông cù” này mà thành có tên là “thành Ống”. Vòng ngoài cùng là hào cắm chông tre. Tương truyền, xưa kia trong thành có cung điện của Trưng Vương, ngoài thành có các trại quân bộ, quân thủy. Hiện nay còn di tích các đồn quân của nữ tướng Lự Nương và nam tướng Bạch Trạch ở phía trước đền Hạ Lôi, thuộc xã Tráng Việt. Đây chính là đất Phấn Lộ, huyện Chu Diên, nơi Hai Bà Trưng cho đắp đô thành. Thành cổ đã được khai quật khảo cổ và thu được nhiều hiện vật có giá trị.
- Nhà bia lưu niệm Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh: được xây kiểu bốn mái, các góc mái uốn cong, chính giữa gắn tấm bia lưu niệm có nội dung: ‘‘Nơi đây có cây lụa già thân rỗng là hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam những năm 1943 - 1945, đồng chí Trường Chinh đã lấy đền thờ Hai Bà Trưng là một trong những nơi hội họp bí mật để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền Thủ đô Hà Nội ngày 19-8-1945’’.
49
- Mắt voi, vòi voi, hồ tắm voi, hồ bán nguyệt: Tương truyền khu đền này được xây trên mảnh đất có thế (hình) đầu con voi nên có các tên gọi trên. Khu vực này hiện nay được kè đá, gạch, xung quanh trang trí hoa sen bằng đá xanh tạo cảnh quan cho khu di tích.
Đền Hai Bà Trưng còn là nơi lưu giữ nhiều di vật quý, đa dạng, phong phú về cả chủng loại và chất liệu như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy,... trong đó di vật gỗ chiếm đa số. Các di vật có niên đại tập trung vào triều Nguyễn như hoành phi, hương án, đại tự, câu đối, khám, kiệu, tượng thờ... được chạm khắc công phu, tinh xảo, với các đề tài trang trí: rồng mây, hoa lá, văn triện, hổ phù... Đây là những tác phẩm nghệ thuật thể hiện bàn tay tài hoa, khéo léo và tinh tế của ông cha ta trong nghệ thuật tạo tác, phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội và những ước vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn.
Di tích Hai Bà Trưng chứa đựng những giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật, kiến trúc,.... Đây là nơi gắn bó mật thiết với đời sống cộng đồng trong sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào dân tộc, sự cố kết cộng đồng... của cư dân Hạ Lôi.
Hằng năm, Khu di tích đền thờ Hai Bà Trưng Mê Linh mở lễ hội chính từ ngày 4 đến ngày 10 tháng Giêng âm lịch, ngày 6 là chính hội (ngày Hai Bà tế cờ khởi nghĩa). Lễ hội được tổ chức theo nghi thức nhà nước và truyền thống địa phương: Lễ dâng hương, mít tinh kỷ niệm ngày Hai Bà tế cờ khởi nghĩa và tế lễ theo nghi thức cổ truyền.
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Khu di tích đền thờ Hai Bà Trưng là Di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2383/QĐ-TTg, ngày 9-12-2013.
50
ĐỀN SÓC
Khu di tích lịch sử đền Sóc là nơi gắn với truyền thuyết anh hùng Thánh Gióng bay về trời sau khi đánh thắng giặc Ân. Khu di tích này được Vua Lê Đại Hành cho xây dựng tại khu vực núi Sóc, xã Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội và được xếp hạng Di tích quốc gia năm 1962.
Khởi nguồn từ ngôi miếu thờ nhỏ mang tên Đổng Thiên Vương và chùa Non Nước đã được xây dựng từ thời Đinh Tiên Hoàng để làm nơi tu hành của Quốc sư Khuông Việt, một lần Lê Hoàn (Lê Đại Hành) cùng các tướng sĩ trên đường hành quân chống giặc Tống xâm lược, vua tôi nhà Tiền Lê vào làm lễ cầu Thánh Gióng phù hộ. Trong trận chiến, quân Tống thua to, khi quay về vua Lê Đại Hành vào lễ tạ rồi sai người tìm gốc trầm hương làm tượng thần và xây dựng thành khu đền uy nghi. Đồng thời phong thêm hai chữ “Phù” và “Thiên”, tên của ngài được thờ tại đền Sóc là “Phù Đổng Thiên Vương”.
Quần thể di tích gồm đền Trình, đền Mẫu (nơi thờ mẹ Thánh Gióng), chùa Đại Bi, đền Thượng, hòn đá Trồng tương truyền là áo giáp của Thánh Gióng để lại trước khi bay về trời và lăng bia đá ghi lại lịch sử và hội đền Sóc, tạo thành một tổng thể hài hòa, sống động. Tất cả những công trình này được xây dựng và trùng tu từ giai đoạn tiền Lê, nhiều lần tôn tạo, tu bổ qua các triều đại phong kiến khác góp phần làm cho Khu di tích ngày càng to đẹp. Nằm trong quần thể di tích này còn có chùa Non (Sóc Thiên Vương Thiền Tự), nơi thờ Phật tổ mà vị sư trụ trì đầu tiên là Ngô Chấn Lưu được vua Đinh Tiên Hoàng phong là Khuông Việt Quốc Sư vào năm 971. Chùa Non Nước mới được xây dựng lại sau khi bị chiến tranh tàn phá,
51
trong chùa còn có một kiệt tác là pho tượng Phật tổ bằng đồng nặng tới trên 30 tấn.
Hội Gióng ở đền Sóc diễn ra trong ba ngày từ ngày 6 đến 8 tháng Giêng âm lịch hằng năm để tưởng nhớ người anh hùng Thánh Gióng.
Khu di tích lịch sử đền Sóc vẫn giữ được nhiều giá trị lịch sử văn hóa vô giá, góp phần vào công cuộc bảo tồn và phát huy nền văn hóa Việt Nam, được Nhà nước công nhận là Di sản văn hóa quốc gia.
ĐÌNH TÂY ĐẰNG
Đình Tây Đằng thuộc thôn Đông, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Đây là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, độc đáo vào loại bậc nhất ở xứ Đoài. Đình thờ ba vị Thành hoàng: Tản Viên, Cao Sơn và Quí Minh, những vị anh hùng văn hóa, biểu trưng cho sức mạnh của dân tộc trong việc chế ngự thiên tai, lũ lụt và chống giặc ngoại xâm...
Căn cứ vào dấu vết kiến trúc và nghệ thuật trang trí hiện còn, có thể khẳng định, đình Tây Đằng có niên đại khởi dựng vào thời Mạc, thế kỷ XVI. Đến nay, đình đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, và lần gần đây nhất là vào năm 2002 - 2004.
Không chỉ là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam, đình Tây Đằng còn là một công trình hiếm hoi làm từ gỗ còn gần như nguyên vẹn cho tới ngày nay. Đình có 48 cột lớn nhỏ, trước kia làm hoàn toàn bằng gỗ mít - loại gỗ hàng trăm năm không bị tiêu tâm (rỗng lõi). Trong đó, cột cái lớn nhất có đường kính lên tới 80cm.
52
Kiến trúc của đình gồm: cổng đình, hồ bán nguyệt, nghi môn, tả - hữu mạc, đại đình, giếng đình và một số hạng mục phụ trợ khác.
- Cổng đình: được xây khá đơn giản, với hai trụ liền tường bao. Trụ có tiết diện hình vuông, với đầu cột bổ trụ ô lồng đèn, không có hoa văn trang trí. Hạng mục này không mang nhiều giá trị nghệ thuật, chủ yếu gắn với chức năng cửa ra, vào và bảo vệ khuôn viên, kiến trúc của đình.
- Hồ bán nguyệt: ở vị trí phía trước sân đình, trong hồ thả sen. Ven hồ có hai đường dẫn vào nghi môn và sân đình.
- Nghi môn: được xây theo dạng tứ trụ. Hai trụ lớn nằm ở hai bên của trục thần đạo. Đỉnh trụ đắp tứ phượng, đầu quay về bốn hướng, đuôi chụm lại tạo thành hình trái giành. Phía dưới phượng là phần mui luyện, với bốn mặt đắp trang trí hình hổ phù uy nghi. Tiếp đến là các ô lồng đèn, có trang trí đề tài tứ linh. Thân trụ soi gờ kẻ chỉ, bên trong đắp nổi các câu đối chữ Hán. Đế trụ thắt dạng cổ bồng. Hai trụ nhỏ ở hai bên, có kết cấu tương tự trụ biểu lớn, với đỉnh trụ đắp hình nghê chầu, tiếp theo là ô lồng đèn được xây vuông trổ thủng, thân trụ đắp nổi các câu đối chữ Hán.
Phía sau nghi môn là khoảng sân rộng. Phần trên trục thần đạo được tôn cao hơn xung quanh một cấp nền, tạo thành kiểu sân rồng để phục vụ việc tế lễ trong hội. Sân được lát gạch Bát Tràng, có kích thước (30 x 30)cm.
- Tả - hữu mạc: nằm ở hai bên phía trước đại đình, được khởi dựng vào năm Canh Thân (1860). Mỗi tòa đều có ba gian, hai chái, kết cầu chồng diêm, mái lợp ngói mũi hài, góc mái dạng đao cong, có trang trí hình rồng.
53
- Đại đình: có bố cục mặt bằng dạng chữ Nhất, quay hướng Nam (hơi ngả sang Tây, gồm ba gian, hai chái lớn. Nền đình được bó vỉa bằng đá tảng, lát gạch Bát Tràng, cao hơn sân 60cm - khoảng tương ứng với bậc tam cấp. Đình có bộ mái thấp, lớn, lợp ngói mũi hài nhiều lớp, với bốn mái xòe rộng, trùm ra ngoài vỉa nền và hai chái. Phần mái có tỷ lệ bằng 2/3 chiều cao của ngôi đình. Các đường bờ nóc, bờ dải được trang trí hoa chanh. Hai đầu bờ nóc là hai con lân cõng trên lưng một vân xoắn lớn.
Hệ khung đỡ mái của đình tì lực lên sáu hàng cột gỗ, với tổng số 48 cột lớn, nhỏ. Chu vi cột cái 750cm, cột quân 500cm, cột hiên 280cm. Các cột đều được làm kiểu thượng thu hạ thách, đứng trên chân tảng bằng đá xanh theo kiểu thức âm - dương, trên tròn dưới vuông. Kết cấu khung chịu lực bằng gỗ, được hình thành qua liên kết các bộ vì. Tương ứng với các gian là bốn bộ vì chính đỡ mái, được thiết kế thống nhất theo kiểu “giá chiêng”. Hầu hết các cấu kiện đều được làm bằng gỗ mít. Trên các cấu kiện gỗ của tòa đại đình đều có các đề tài trang trí rồng, lân, nghê, hoa lá, vân xoắn...
Điểm đặc biệt trong kiến trúc đình Tây Đằng và các ngôi đình cùng niên đại thời Mạc (thế kỷ XVI), như Đình Thanh Lũng (Ba Vì), là còn có thêm bộ phận cánh gà đỡ dưới dạ các xà dọc (tai cột). Cấu kiện này bao gồm hai thân gỗ, có đặc điểm dài ở trên, ngắn ở dưới. Một số cánh gà còn có hai đấu vuông thót đáy kê ở giữa, với thân ván dày, bên dưới còn được chạm khắc tỉ mỉ các đề tài rồng, cá chép hóa rồng. Đình Tây Đằng hiện còn bảo tồn được tương đối nguyên vẹn hệ thống cánh gà có niên đại sớm nhất và hiếm thấy trong di tích cổ truyền ở nước ta.
54
Trước đây, bộ khung gỗ của đại đình còn có liên kết ở phía dưới, đó chính là hệ thống dầm sàn. Dầm dọc nối các cột trong cùng một bộ vì, dầm ngang nối các cột (cùng hàng) của các bộ vì với nhau. Ván sàn được lát trên các dầm này. Ngoài gian giữa, tất các các gian đều có sàn. Tuy nhiên, hiện nay sàn của đình Tây Đằng không còn nữa. Tại gian giữa tòa đại đình, phía trước bài trí sập thờ, hương án, án gian và các đồ thờ tự. Gian chái bên phải đình đặt ban thờ quan Bộ Hộ, các gian bên được để trống.
- Hậu cung: là nơi thờ Thành hoàng, lưu giữ các vật thiêng và đồ thờ cúng. Cung này được làm tại vị trí trung tâm ngay nửa sau, khoảng giữa hai cột cái và cột quân của gian giữa đại đình, với hệ thống ván sàn bằng gỗ, cao 1,9m so với mặt nền. Cửa hậu cung được làm theo kiểu bức bàn, với sáu cánh, có trang trí tứ linh. Phía trước cửa hậu cung là khám gian bưng kín, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII. Phía trên khám này được trang trí hai lớp, với bên trong chạm nổi đề tài rồng chầu hoa cúc, bên ngoài chạm hình rồng phun lửa, mắt lồi, trong tư thế nhìn xuống, có đao mác lớn, mũi to, thân tạo vẩy dầy, phía bên trái phần đuôi rồng còn có hình người ngồi, như thể hiện khát vọng cầu nguồn nước. Toàn bộ phần phía trước hậu cung được sơn son thếp vàng. Hai mặt bên hậu cung được bưng kín bằng các đố lụa, có trang trí đề tài phượng chầu chữ thọ. Bên trong cửa hậu cung là nơi trang trọng, thâm nghiêm được đặt ba ngai thờ Thành hoàng.
Các mảng chạm khắc trang trí trên kết cấu gỗ của đình Tây Đằng, như tại đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, đấu, ván nong, ván lá đề, con rường, vì nóc... được tạo tác qua kỹ thuật chạm lộng, chạm bong kênh, chạm nổi, chạm thủng đã đạt đến đỉnh cao,
55
tạo nên những tuyệt tác điêu khắc. Đề tài trang trí cũng rất phong phú, đa dạng về loại hình, gồm linh vật, hình tượng thiên thần, hình tượng con người, biểu tượng tự nhiên, cỏ cây, hoa lá, rồng, lân, hươu, phượng,voi, ngựa, lân hí cầu, voi đi cày, voi phi (voi lồng), hình tượng hươu trong thế chạy phun lửa, thế nằm nghỉ trên một vân xoắn...
Nét đặc sắc nhất trong tổng thể kiến trúc đình Tây Đằng chính là những hoa văn chạm trổ trang trí bên trong đình. Các đầu đao, xà, đấu, kèo, cốn của đình đều uốn cong có gắn long, ly, quy, phượng bằng đất nung màu gan trâu. Trong đó, nổi bật nhất là các hình chạm khắc rồng theo phong cách rồng thời Trần và các họa tiết chim phượng theo lối múa xòe cả hai cánh. Ngoài ra, trên các cột xà xung quanh mái đình còn chạm khắc những “bức tranh” mô tả sống động một quy trình khép kín của cuộc sống người Việt cổ, với đề tài là các hoạt động của con người từ thời khai thiên lập quốc cho đến thế kỷ XVI, như săn bắn, hái lượm, chiến đấu, bơi thuyền, gánh con, đốn củi, múa hát... Bên cạnh sự đa dạng, phong phú của các chi tiết trang trí, một điều khiến các nhà chuyên môn đặc biệt đánh giá cao ở đình Tây Đằng đó là các hình chạm khắc nơi đây tuyệt nhiên không bị lai tạp hay chịu ảnh hưởng của lối chạm khắc hoa văn nước ngoài, mà thể hiện trọn vẹn tư duy, trí tuệ của người Việt cổ. Và tài tình hơn, toàn bộ hơn 1.300 chi tiết chạm khắc gỗ trong đình không hề trùng nhau một chi tiết nào.
Đình Tây Đằng không chỉ là trung tâm sinh hoạt văn hóa của nhân dân địa phương, nơi hội tụ cộng đồng làng xã, mà còn là một “bảo tàng văn hóa, nghệ thuật dân gian” sống động, là nguồn tư liệu sáng giá để chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử, văn hóa
56
của cộng đồng và dân tộc. Với những giá trị về văn hóa, Đình Tây Đằng đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 9-12-2013.
HỒ HOÀN KIẾM, ĐỀN NGỌC SƠN
Hồ Hoàn Kiếm, đền Ngọc Sơn là những di tích, thắng cảnh nổi tiếng, là niềm tự hào của người Hà Nội và nhân dân cả nước khi hướng về Thủ đô nghìn năm văn hiến.
- Hồ Hoàn Kiếm (còn gọi là hồ Gươm) là một hồ nước ngọt nằm giữa Thủ đô Hà Nội. Hồ có diện tích khoảng 12ha. Hồ nổi tiếng bởi màu nước xanh lục, màu lục thủy do một loài tảo đặc trưng sống trong hồ mang lại. Hồ Hoàn Kiếm gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng: Do nước hồ quanh năm có màu xanh biếc nên trước đây hồ được gọi là hồ Lục Thủy. Khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ về đóng đô ở Thăng Long. Trong một lần nhà vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thủy, bỗng một cụ rùa lớn xuất hiện. Lê Thái Tổ giơ gươm ra thì gươm bay về phía cụ rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ, và từ đó hồ Lục Thủy có tên gọi mới là hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) hay hồ Gươm. Trên hồ có hai hòn đảo: đảo Ngọc và đảo Rùa. Năm 1865, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu đã đứng ra sửa sang lại đền Ngọc Sơn trên đảo Ngọc. Trên gò Ngọc Bội, ông cho xây một ngọn tháp hình bút. Đó là tháp Bút ngày nay và bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc (tên cầu có nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời). Tháp Bút được xây dựng trên núi Ngọc Bội (núi Độc Tôn cũ). Đỉnh tháp hình ngọn bút
57
lông dựng ngược, thân tháp có khắc ba chữ “Tả Thanh Thiên” (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút. Đài Nghiên là phần không thể thiếu của Tháp Bút. Ba chân kê nghiên là hình tượng ba con cóc. Trên thân nghiên khắc một bài Minh, gồm 64 chữ Hán nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành.
- Đền Ngọc Sơn được xây dựng từ thế kỷ XIX. Lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn, sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Đức Đại vương Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc có công lãnh đạo quân dân đánh thắng quân Nguyên thế kỷ XIII. Lịch sử ghi lại rằng khởi nguyên, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng. Đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông. Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thụy Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời Lê, cung Thụy Khánh bị Lê Chiêu Thống phá hủy. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn trên nền cung Thụy Khánh cũ. Năm Thiệu Trị thứ ba (1843), một hội từ thiện đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đưa tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn (Văn Xương là nhân vật đời Kiến Vũ,
58
Trung Quốc, sau khi chết được phong là thần chủ về văn chương khoa cử).
Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất ở phía Bắc thờ Đức Đại vương Trần Hưng Đạo và Đức Văn Xương Đế quân. Phía Nam có đình Trấn Ba, đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có tám cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Kiến trúc của đền rất đẹp, tuy không phải là một công trình kiến trúc có lịch sử dài song đền Ngọc Sơn là một điển hình về sự kết hợp giữa cảnh quan tự nhiên và kiến trúc do con người xây dựng. Sự kết hợp giữa đền và hồ đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, gợi nên cảm giác chan hòa giữa con người và thiên nhiên.
Khu Hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào ngày 10-7-1980.
KHU LƯU NIỆM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TẠI PHỦ CHỦ TỊCH
Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch thuộc địa phận phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người (từ ngày 19-12-1954 đến ngày 2-9-1969), đồng thời là trụ sở làm việc của Trung ương Đảng và Nhà nước Việt Nam sau khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945).
Tổng diện tích Khu lưu niệm rộng hơn 10ha, gồm hệ thống nhà cửa, sân, vườn, thảm cỏ, ao cá, đường đi, trong đó nổi bật là ba điểm di tích thành phần: Nhà 54, Nhà sàn của Bác và Nhà 67.
59
- Nhà 54
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ở và làm việc tại ngôi nhà này trong khoảng thời gian gần 4 năm (từ tháng 12-1954 đến giữa tháng 5-1958). Sau đó, Người chuyển sang ở ngôi nhà sàn, được xây dựng trong khu vườn Phủ Chủ tịch, nhưng Người vẫn trở về nơi đây để dùng cơm hàng ngày và khám sức khỏe định kỳ. Bởi vậy, Nhà 54 vẫn là nơi gắn bó với cuộc sống thường nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt 15 năm cuối cùng của cuộc đời.
Nhà 54 có ba phòng, phía giáp ao cá là phòng làm việc và cũng là nơi Người tiếp khách, ở giữa là phòng ăn, kế tiếp là phòng ngủ.
Tại phòng ăn của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện đang trưng bày một bộ đồ ăn Người thường sử dụng hàng ngày. Trong phòng ngủ, đồ dùng sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thật đơn giản, như mọi người dân bình thường: một bộ bàn ghế để Người đọc sách ban đêm, một chiếc giường nhỏ đơn giản không kiểu cách, cầu kỳ, một chiếc tủ đựng quần áo - trong tủ chỉ có vài ba bộ quần áo Người mặc hàng ngày và bộ quần áo kaki Người dùng khi tiếp khách hoặc đi công tác...
Tổng số tài liệu hiện vật ở trong Nhà 54 gần 400 đơn vị, riêng hiện vật thuộc chất liệu giấy đã có hơn 300 đơn vị. Có thể coi đây là những bằng chứng xác thực nhất, gây ấn tượng mạnh mẽ, xúc động nhất về một cuộc sống thường nhật hết sức thanh bạch, giản dị, nhưng ngăn nắp, khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Nhà sàn của Bác
Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc về mùa hè, cũng là nơi Người họp, trao đổi công việc với các đồng chí trong Bộ Chính trị, cán bộ phụ trách các Bộ, ngành hoặc các địa phương, đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra miền Bắc chữa bệnh và công tác.
60
Tầng trên của Nhà sàn có một phòng làm việc và một phòng ngủ của Người. Phòng làm việc có đặt một bàn, một ghế, một giá sách. Ngăn dưới cùng của giá sách là chiếc máy chữ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng hàng ngày như một cây bút.
Tại phòng ngủ, tiện nghi sinh hoạt của Người thật đơn giản, gồm: chiếc giường gỗ trải chiếu cói, mùa đông có thêm tấm đệm, chăn bông và một lò sưởi điện nhỏ.
Trên bàn làm việc ở phòng ngủ của Người vẫn còn một số sách, tạp chí, chiếc mũ cát và chiếc đài bán dẫn của bà con Việt kiều Thái Lan kính biếu Người. Trên chiếc tủ nhỏ đặt ở đầu giường vẫn còn chiếc đồng hồ và cuốn sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII mà Người đang đọc dở.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ở và làm việc tại ngôi nhà này trong khoảng 11 năm cuối đời (1958 - 1969). Hiện nay, gần 250 tài liệu của Bác và toàn bộ kiến trúc, khuôn viên của Nhà sàn vẫn được bảo quản, giữ gìn như những ngày cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc ở đây.
- Nhà 67
Ngôi nhà này nằm phía sau Nhà sàn (cách khoảng 30m), được khởi công xây dựng ngày 1-5-1967, khánh thành ngày 20-7-1967. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh thường họp với Bộ Chính trị, cũng là nơi Người làm việc trong thời gian đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc (1967-1969), nơi Người chữa bệnh và qua đời, nên thường được gọi là Nhà 67 hoặc DK2.
Vào năm 1967, cuộc phiêu lưu mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ ngày càng trở nên ác liệt; Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác cùng nhiều
61
khu công nghiệp bị bắn phá ngày đêm. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã quyết định xây dựng ở phía sau Nhà sàn một ngôi nhà kiên cố, phía bên phải có hầm phòng không, để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Người khi máy bay Mỹ bắn phá bất ngờ. Các đồng chí cán bộ, chiến sĩ ở Cục Công trình, thuộc Bộ Tư lệnh Công binh được giao nhiệm vụ thiết kế và xây dựng công trình này. Tường nhà dầy hơn 60cm, trần nhà dày hơn 1m, đều được làm bằng bê tông, cốt thép...
Chủ tịch Hồ Chí Minh không nhận ngôi nhà này cho riêng mình. Người đề nghị sử dụng làm nơi họp Bộ Chính trị, làm việc với các đồng chí Trung ương để bàn những vấn đề quan trọng của đất nước. Từ ngày 25-8-1969 trở đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh lâm bệnh nặng, diễn biến bệnh tình mỗi ngày một xấu và phức tạp. Theo quyết định của Bộ Chính trị, Nhà 67 trở thành nơi điều trị bệnh cho Người. Các đồng chí trong Bộ Chính trị, các giáo sư, bác sĩ đầu ngành đều tập trung về đây để chăm lo sức khỏe cho Bác. Vì tuổi cao, sức yếu, Chủ tịch Hồ Chí Minh không vượt qua được cơn bệnh hiểm nghèo. Chiếc đồng hồ trên tủ nhỏ ở cạnh giường và cuốn lịch treo tường dừng lại thời khắc Người đi xa: 9 giờ 47 phút, ngày 2-9-1969.
Bốn mươi năm qua, trong ngôi nhà này, gần 100 tài liệu, hiện vật vẫn được gìn giữ, xếp đặt vẹn nguyên như xưa, luôn gợi lại những hoạt động và những vấn đề của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang quan tâm trong những ngày cuối đời của Người.
Có thể khẳng định rằng, Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch là một trong những di tích có giá trị đặc biệt trên nhiều phương diện.
Trong 15 năm sống tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chính phủ đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn cho cách
62
mạng Việt Nam và lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách cam go ác liệt để thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, vì hòa bình và tiến bộ xã hội của thế giới.
Khu di tích cũng là nơi sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức các cuộc đón tiếp các đoàn khách quốc tế, gặp gỡ đại biểu nhân dân Việt Nam. Khu di tích, với việc lưu giữ vẹn nguyên nơi ở, sinh hoạt và làm việc của Bác lúc sinh thời, chính là nơi lưu giữ hết sức cụ thể mà xúc động, thiêng liêng, hình ảnh một vị lãnh tụ suốt đời quên mình vì đất nước, nhưng cũng là một vị lãnh tụ có cuộc sống thường nhật hết sức giản dị, gần gũi, thanh cao. Chính vì vậy, sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, nơi Người ở và làm việc cùng với các di tích, kỷ vật ở đây đã trở thành những vật chứng quý giá, biểu tượng thiêng liêng về cuộc sống, hoạt động của Người trong 15 năm cuối đời, phản ánh những giá trị cao đẹp nhất của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu lưu niệm, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch là Di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12-8-2009.
KHU TRUNG TÂM HOÀNG THÀNH THĂNG LONG
Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội, với diện tích vùng lõi của di sản là 18,395ha
63
(bao gồm Khu di tích thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) và diện tích vùng đệm là 108ha. Hai khu vực thuộc vùng lõi di sản là một hệ thống nhất nằm trong Cấm thành Thăng Long và cũng chính là trung tâm của Hoàng thành Thăng Long. Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là bộ phận quan trọng nhất của Kinh thành Thăng Long - Kinh đô của quốc gia Đại Việt từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII.
Thăng Long - Hà Nội là nơi giao thoa các giá trị văn hóa của Đông Á với Đông Nam Á trong một quá trình lịch sử rất lâu dài. Sự giao thoa đó được thể hiện qua rất nhiều hiện vật lịch sử, công trình kiến trúc, cảnh quan đô thị mang bề dày 1000 năm. Tổng quan mô hình đô thị, kiểu dáng kiến trúc và nghệ thuật của Thăng Long - Hà Nội mang giá trị độc đáo và tiêu biểu cho sự phát triển liên tục của một trung tâm quyền lực chính trị kiểu châu Á. Rất nhiều sự kiện mang tầm vóc quốc tế, bao gồm sự phát triển của các nhà nước độc lập, các hình mẫu nhà nước kiểu châu Á, ảnh hưởng của văn hóa phương Đông, phương Tây, của chủ nghĩa thực dân và các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm và còn có thể nhìn thấy được trong không gian chung của khu di sản. Nhiều nét văn hóa và mỹ thuật độc đáo được hình thành tại Thăng Long và chính những giá trị đó đã làm cho Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long nổi lên như một trong những di sản văn hóa lớn nhất của dân tộc Việt Nam và mang tầm vóc quốc tế. Nhiều dấu tích nền móng cung điện, lầu gác và nhiều loại hình di vật độc đáo của Hoàng cung qua các thời kỳ lịch sử được các nhà khảo cổ học tìm thấy dưới lòng đất thuộc khu vực trung tâm Hoàng
64
thành Thăng Long đã phản ánh sinh động về lịch sử phát triển lâu dài của Kinh đô Thăng Long. Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng, nhưng đến nay vẫn còn thấy được cả di tích trên mặt đất, dưới lòng đất, di tích lịch sử cách mạng, di tích khảo cổ, di tích kiến trúc nghệ thuật,... tạo thành hệ thống các di tích được đánh giá là quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích đô thị cổ, trung, cận, hiện đại của nước ta.
- Khu di tích thành cổ Hà Nội: có diện tích rộng 13,865ha, hiện tại, trong khu vực trung tâm còn lại năm điểm di tích nổi trên mặt đất phân bố theo trục Bắc - Nam, còn gọi là “Trục chính tâm”, “Trục ngự đạo”, gồm có: Kỳ Đài (Cột cờ Hà Nội), Đoan Môn, nền điện Kính Thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn. Ngoài ra còn có hệ thống tường bao và kiến trúc cổng hành cung thời Nguyễn, di tích nhà và hầm D67, các công trình kiến trúc Pháp... được xây trên nền cũ của Tam Môn, cổng phía ngoài của Cấm thành thời Lê. Kỳ Đài là một trong những kiến trúc còn sót lại nguyên vẹn từ thời Nguyễn.
+ Nền điện Kính Thiên: xây dựng thời Lê sơ (1428) trên nền điện Càn Nguyên (sau đổi tên là điện Thiên An) thời Lý, Trần. Địa điểm này vốn là vị trí của núi Nùng (Long Đỗ - Rốn Rồng), được coi là tâm điểm của Cấm thành và Hoàng thành, nơi chung đúc khí thiêng của non sông đất nước theo quan niệm phong thủy cổ truyền, mà di tích hiện còn là nền điện với bậc thềm và lan can đá chạm rồng thế kỷ XV.
+ Cột cờ Hà Nội: Cột cờ Hà Nội là di tích được xây dựng năm 1812 dưới triều Gia Long cùng lúc xây thành Hà Nội theo kiểu Vauban. Cột cờ cao
65
60m, gồm có chân đế, thân cột và vọng canh. Chân đế hình vuông chiếm một diện tích là 2.007m² và gồm ba cấp thóp dần lên. Mỗi cấp đều có tường hoa với hoa văn bao quanh. Từ mặt đất lên tới chân cấp thứ hai phải leo 18 bậc tại mặt phía Đông và mặt phía Tây. Muốn từ cấp hai lên cấp ba cũng phải leo 18 bậc ở hai cửa hướng Đông và Tây. Còn cấp thứ ba có bốn cửa Đông, Tây, Nam, Bắc (với các tên “Nghênh húc” (Đón ánh nắng ban mai), “Hồi quang” (ánh nắng phản chiếu), “Hướng Minh” (hướng về ánh sáng)...) và từ cạnh dưới lên tới cạnh trên phải qua tới 14 bậc cầu thang.
+ Đoan Môn: cổng phía Nam, là lối đi chính để vào bên trong Cấm thành, nơi có điện Kính Thiên và các cung điện khác của vua. Từ thời Lý đã xây cổng ở đây, nhưng cổng Đoan Môn hiện còn là do nhà Lê sơ xây dựng (thế kỷ XV) và được sửa sang, tu bổ dưới thời Nguyễn (thế kỷ XIX).
Giữa Đoan Môn và điện Kính Thiên là khu Long Trì - một không gian mang ý nghĩa chính trị, văn hóa tâm linh rất quan trọng của Cấm thành, là nơi cử hành các nghi lễ chính trị và tôn giáo thiêng liêng, như sự kiện mở hội Nhân Vương, mở hội đèn Quảng Chiếu (năm 1136), duyệt Cấm quân (năm 1351), quốc nhân hội thề (năm 1128)...
+ Điện Kính Thiên: là di tích trung tâm, là hạt nhân chính trong tổng thể các địa danh lịch sử của thành cổ Hà Nội. Điện Kính Thiên chiếm vị trí trung tâm của khu di tích. Trước điện Kính Thiên là Đoan Môn rồi tới Cột Cờ Hà Nội, phía sau có Hậu Lâu, Cửa Bắc, hai phía đông và tây có tường bao và mở cửa nhỏ. Dấu tích điện Kính Thiên hiện nay chỉ còn là khu nền cũ. Phía nam nền điện còn có hàng lan can cao hơn một mét. Mặt trước, hướng chính nam của
66
điện Kính Thiên xây hệ thống bậc lên bằng những phiến đá hộp lớn. Thềm điện gồm 10 bậc, bốn rồng đá chia thành ba lối lên đều nhau tạo thành thềm rồng. Bốn con rồng đá được tạo tác vào thế kỷ XV thời nhà Lê. Điêu khắc rồng đá điện Kính Thiên là một di sản kiến trúc nghệ thuật tuyệt tác, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê sơ. Được chạm trổ bằng đá xanh, rồng đá có đầu nhô cao, đầu to, mắt tròn lồi, sừng dài có nhánh, bờm lượn ra sau, miệng hé mở, ngậm hạt ngọc. Thân rồng uốn lượn mềm mại thành nhiều vòng cung, nhỏ dần về phía nền điện ở trên. Trên lưng rồng có đường vây dài nhấp nhô như vân mây, tia lửa. Hai thành bậc ở hai bên thềm điện là hai khối đá chạy dài, chính là hai con rồng được cách điệu hóa. Nền điện Kính Thiên và đôi rồng chầu đã phần nào phản ánh được quy mô hoành tráng của điện Kính Thiên xưa.
+ Nhà D67: Từ Tổng hành dinh - Nhà D67 Khu A Bộ quốc phòng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã đưa ra những quyết định lịch sử đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam. Đó là: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, cuộc Tổng tiến công năm 1972, đánh thắng hai cuộc chiến của Mỹ mà đỉnh cao là 12 ngày đêm cuối năm 1972, Tổng tiến công năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh.
Khu hầm lớn nhất nằm dưới khoảng sân nối giữa điện Kính Thiên và nhà D67 dành cho Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương gọi là hầm D67. Hai đường dẫn xuống hầm bắt nguồn từ hai phòng làm việc của tướng Giáp và tướng Dũng trong nhà D67, đường hầm rộng 1,2m, có 45 bậc thang bêtông, trát đá granite. Đi sâu xuống 10m là hệ thống văn phòng của Tổng hành dinh ngầm gồm bốn phòng rộng 50m2, chung một hành lang bên phải. Phòng họp
67
hình chữ nhật toàn khối, nền lát gạch, có một cửa ra vào. Các phòng bên dành cho ban thư ký và phòng để máy móc, điện đài. Cuối cùng là phòng chứa hệ thống thông hơi, lọc khí đồ sộ chạy điện được chế tạo tại Liên Xô. Các lối lên xuống của hai đường hầm và cửa ra vào có tới sáu cửa thép sơn xanh dày 12cm, có nhiều tay nắm và hệ thống gioăng cao su có thể ngăn nước và khí độc.
Toàn bộ hệ thống hầm ngầm đều liên hoàn đường điện máy phát. Hệ thống thông tin, liên lạc, hậu cần, lương thực... đều đầy đủ. Đầu ra của hai cửa hầm này dẫn lên phòng làm việc của hai đại tướng tại nhà con rồng. Ngoài hệ thống hầm ngầm này, khu A thành cổ còn nhiều hệ thống hầm ngầm khác. Riêng những bộ phận đã được bàn giao cho ban quản lý thành cổ là bốn khu hầm. Ngoài hầm của Bộ Chính trị vừa nói còn có hầm trước cửa nhà “con rồng” (dưới nền điện Kính Thiên), hầm gần khu làm việc của Cục Tác chiến và hầm của Ban cơ yếu có quy mô nhỏ hẹp, đơn giản hơn nhưng cũng chống được bom và tên lửa hạng nặng.
+ Bắc môn: là cổng thành phía Bắc, một trong năm cổng thành duy nhất còn lại của Thành Hà Nội thời Nguyễn, xây dựng năm 1805. Bắc Môn được xây bằng gạch với cổng vòm bằng đá. Năm 1999, các nhà khảo cổ đã phát hiện các phần còn lại của một bức tường xây bằng đá và gạch vồ, nền móng dày 1,2m và dấu tích của một kiến trúc khác thời Lê tại độ sâu từ 1,66m đến 2,2m.
+ Hậu lâu: còn gọi là Tĩnh Bắc Lâu, Lầu Công chúa, Pagode des Dames, hay tòa Hậu Điện. Công trình này được xây dựng vào thời Nguyễn (1821), là nơi nghỉ ngơi của các cung tần mỹ nữ trong đoàn tùy tùng của nhà vua khi tuần du từ Huế ra Bắc thành.
68
Công trình này đã bị phá hủy vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Phần kiến trúc hiện còn là công trình do người Pháp xây dựng lại.
- Khu di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu: nằm ở phía Tây điện Kính Thiên và là một phần cấu thành của Cấm Thành từ thời Lý cho đến cuối thời Lê Trung Hưng. Cấm thành là trung tâm đầu não của các vương triều, nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng bậc nhất của đất nước, trung tâm làm việc và nơi ở của Vua và Hoàng gia qua các triều đại Lý - Trần - Lê.
Khu di tích này rộng 4.530ha, được khai quật từ tháng 12-2002, phân định làm bốn khu, đặt tên là A, B, C, D. Tại đây đã phát hiện rất nhiều dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc gỗ có quy mô bề thế và nhiều loại hình di vật có giá trị, bao gồm vật liệu trang trí kiến trúc, đồ gốm sứ, đồ kim loại, đồ gỗ, di cốt động vật... có niên đại từ thế kỷ VII - IX đến thế kỷ XIX, với hàng trăm kiểu mẫu khác nhau.
Tại di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu đã tìm thấy những dấu tích cung điện quan trọng. Trải qua 10 thế kỷ với nhiều cuộc chiến tranh, nhiều biến thiên lịch sử và trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nhưng các dấu tích kiến trúc, các loại hình di vật của cung điện xưa vẫn còn được bảo tồn tương đối tốt trong lòng đất. Trong khu di tích còn tìm thấy nhiều đồ dùng, vật dụng của nước ngoài, như các loại đồ sứ của Tây Á, Trung Quốc, Nhật Bản,... phản ánh quan hệ giao lưu văn hóa giữa Thăng Long với thế giới.
Với các tiêu chí (ii): minh chứng cho sự giao lưu giữa các ảnh hưởng đến chủ yếu từ Trung Quốc ở phía Bắc và Vương quốc Chămpa ở phía Nam, tiêu chí (iii): minh chứng cho truyền thống văn hóa lâu dài của
69
người dân Việt được thành lập ở đồng bằng sông Hồng, đó là một trung tâm quyền lực liên tục từ thế kỷ VII cho đến tận ngày nay, và tiêu chí (vi): liên quan trực tiếp tới nhiều sự kiện văn hóa - lịch sử quan trọng, tại kỳ họp lần thứ 34, ngày 31-7-2010, Ủy ban Di sản Thế giới đã công nhận Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là Di sản văn hóa thế giới.
VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM
Văn Miếu - Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Nơi đây là một khu di tích lịch sử - văn hóa mang ý nghĩa biểu trưng cho tiến trình phát triển văn hóa - giáo dục của Việt Nam, đồng thời cũng là nơi gìn giữ và tôn vinh đạo học, lưu giữ và thể hiện đặc sắc nhất những giá trị nổi bật của văn hiến Việt Nam. Trải qua gần 1000 năm lịch sử, nơi đây vẫn giữ được vẻ cổ kính với đặc điểm kiến trúc của nhiều triều đại Việt Nam xứng đáng được bảo tồn mãi mãi.
Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070 tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông1. Văn Miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của một trường học Hoàng gia mà học trò đầu tiên là Thái tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến năm 1072 tức là năm 8 tuổi lên ngôi trở thành vua Lý Nhân Tông.
_______________
1. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, t.1, tr.234.
70
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu. Đây có thể coi là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi. Năm 1785, Quốc Tử Giám được đổi thành nhà Thái Học. Nhân dân quen gọi là Trường Giám và Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã thành tên chung của di chỉ văn hóa - giáo dục lớn nhất nước ta thời phong kiến này.
Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm trên diện tích rộng 54.331m² bao gồm: Hồ Văn, vườn Giám và Nội tự. Khu nội tự Văn Miếu - Quốc Tử Giám tôn nghiêm, được ngăn cách với vườn Giám và bên ngoài bằng tường gạch vồ, được chia làm 5 khu khác nhau, mỗi khu được giới hạn bởi các tường gạch, có các cửa thông nhau: một cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên với các kiến trúc chủ thể là: cổng Văn Miếu môn, cổng Đại Trung môn, Khuê Văn Các, cổng Đại Thành môn, khu điện thờ, cổng Thái Học và kết thúc là khu Thái Học.
- Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.
- Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805). Khuê Văn Các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông, bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn
71
hình mặt trời tỏa tia sáng. Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả những tinh tú của bầu trời tỏa xuống trái đất và trái đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên Quang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm nơi thưởng thức các sáng tác văn thơ từ cổ xưa tới nay. Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ.
- Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là khu Nhà bia Tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện còn 82 tấm bia về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779. Nằm đối xứng hai bên Thiên Quang Tỉnh là cửa Đại Thành mở sang khu thứ tư. Kim Thanh môn và Ngọc Chấn môn là hai cửa nhỏ nằm hai bên của Đại Thành.
- Khu thứ tư (Đại Thành Điện): hai bên sân Đại Bái có hai dãy nhà Tả vu và Hữu vu, là nơi thờ bài vị 72 người học trò xuất sắc của Khổng Tử và Chu Văn An - danh nhân văn hóa thế giới và nhà
giáo dục Việt Nam nổi tiếng thời Trần. Ở chính giữa là Bái đường - nơi hành lễ trong các kì tế tự. Nơi đây có nhiều bức hoành phi, câu đối ca ngợi Nho học, ca ngợi Khổng Tử và Tứ phối (Nhan Hồi, Tử Tư, Tăng Sâm và Mạnh Tử) cùng bài vị của 10 vị hiền triết. Các công trình kiến trúc của Văn Miếu được dựng bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hài theo phong cách dân tộc của các triều đại Lê, Nguyễn; nơi đây còn lưu giữ cây đa, cây đại cổ thụ hàng trăm năm.
- Khu thứ năm: khu Thái Học vốn là trường Quốc Tử Giám xưa - trường đại học quốc gia đầu
72
tiên của Việt Nam. Đầu thế kỷ XIX, khi nhà Nguyễn dời Quốc Tử Giám vào Huế, nơi đây dựng điện Khải Thánh thờ song thân phụ mẫu của Khổng Tử. Đây là khu mới được xây dựng lại.
Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tứ phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa. Đây là hình tượng rất đặc trưng tại các đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo ở Việt Nam. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu..., hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm - dương.
Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội và là điểm đến tham quan du lịch của nhiều du khách.
Với bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa, Văn Miếu - Quốc Tử Giám được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa ngày 28-4-1962 và được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt vào tháng 5-2012.
HẢI DƯƠNG
KHU DI TÍCH CÔN SƠN - KIẾP BẠC
Quần thể di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc thuộc địa bàn thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nơi đây gồm quần thể các di tích lịch sử liên quan đến những chiến công lẫy lừng trong ba lần quân dân thời Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa
73
quân Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỷ XV. Đây là nơi gắn liền với thân thế, sự nghiệp của các vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo cùng với nhiều danh nhân văn hóa của dân tộc: Trần Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang... Điểm nhấn của khu di tích này là chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc. Ngoài ra còn có đền thờ Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Trần Nguyên Đán.
- Chùa Côn Sơn
Chùa có tên chữ là “Thiên Tư Phúc Tự”, nghĩa là chùa được trời ban cho phước lành. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ Công, gồm Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện là nơi thờ Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3m. Tiếp đến nhà Tổ là nơi thờ các vị tổ có công tu nghiệp đối với chùa: Điều ngư Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thiền sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang. Đường vào Tam quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn những tán vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có hai tầng tám mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê. Sân chùa có bốn nhà bia.
Chùa nằm dưới chân núi Côn Sơn. Tương truyền nơi đây là nơi hun gỗ làm than và đã từng diễn ra trận hỏa công hun giặc, dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh ở thế kỷ X. Nên ngoài tên gọi Côn Sơn, núi còn có tên là Kỳ Lân hay núi Hun. Chùa “Thiên Tư Phúc Tự” trong dân gian quen gọi theo tên núi là chùa Côn Sơn hay còn gọi là Chùa Hun.
Thiền sư Huyền Quang vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm - một thiền phái mang màu sắc dân tộc Việt Nam đã về tu ở chùa Côn Sơn. Tại Côn Sơn Huyền Quang cho lập đài Cửu phẩm liên hoa, biên
74
tập kinh sách, làm giảng chủ thuyết pháp phát triển đạo phái không ngừng. Ngày 22 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334) Thiền sư Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông đã cấp cho ruộng để thờ và cho xây tháp tổ sau chùa, đặc phong Tự Tháp “Huyền Quang tôn giả”.
Chùa Côn Sơn có từ thời Trần (truyền thuyết cho rằng Chùa có từ thời Đinh), năm Khai Hựu nguyên niên (1329), được Pháp Loa tôn tạo với quy mô lớn. Dấu vết của lần trùng tu này còn hiện diện đến nay. Nguyễn Trãi từng làm Đề cử chùa Côn Sơn. Chùa Côn Sơn xưa nay là danh lam cổ tích của đất nước, hiện còn nhiều dấu tích và cổ vật có giá trị.
- Đền Kiếp Bạc
Kiếp Bạc là tên ghép của hai làng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Nơi đây là thung lũng trù phú, xung quanh có dãy núi Rồng bao bọc. Vào thế kỷ XIII, đây là nơi đóng quân và là phủ đệ của Trần Hưng Ðạo, người anh hùng dân tộc, người chỉ
huy quân sự tối cao trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông.
Ðền thờ Trần Hưng Đạo được dựng vào đầu thế kỷ XIV, trên một khu đất ở trung tâm thung lũng Kiếp Bạc. Trong đền hiện còn bảy pho tượng bằng đồng: tượng Trần Hưng Ðạo, phu nhân, hai con gái, Phạm Ngũ Lão, Nam Tào, Bắc Ðẩu và bốn bài vị thờ bốn con trai. Hằng năm, hội đền được tổ chức vào ngày mất của Trần Hưng Ðạo (ngày 20 tháng 8 âm lịch).
- Đền thờ Nguyễn Trãi
Đền thờ Nguyễn Trãi khởi công xây dựng ngày 14-12-2000, trên khuôn viên đất rộng gần 10.000 mét vuông, tại chân núi Ngũ Nhạc, nằm trong khu vực Thanh Hư Động và gần nơi ngày xưa từng có đền thờ bà Trần Thị Thái, thân mẫu của Nguyễn Trãi. Phía
75
bên phải là dòng suối Côn Sơn chảy từ Bắc xuống Nam, uốn lượn từ phải qua trái, ôm lấy khu Đền. Đền thờ chính, hai nhà Tả vu, Hữu vu, Nghi môn nội, Nghi môn ngoại, Nhà Bia, Am hóa vàng, cầu vào cổng chính, cầu qua suối Côn Sơn theo kiểu thượng gia hạ kiều để lên Thạch Bàn, nhà từ đền, hệ thống sân vườn, đường cấp thoát nước...
Ngôi đền chính tựa lưng vào Tổ Sơn, hai bên tì vào hai dãy núi Ngũ Nhạc và Kỳ Lân là tả Thanh long và hữu Bạch hổ. Phía trước có hồ nước rộng, tiếp theo là núi Trúc Thôn đối diện với núi Phượng Hoàng. Xa xa là dãy núi An Lạc.
- Đền thờ Trần Nguyên Hãn
Đền thờ Trần Nguyên Hãn nằm trên đền thờ Nguyễn Trãi, cũng ở ven suối. Trần Nguyên Hãn là đại công thần nhà Lê và là em con cậu ruột của Nguyễn Trãi.
- Đền thờ Trần Nguyên Đán
Nằm ở phía trên cả đền thờ Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn, gần thượng nguồn suối Côn Sơn. Trần Nguyên Đán là ông ngoại của Nguyễn Trãi.
Năm 2012, Khu Di tích lịch sử - văn hóa Côn Sơn - Kiếp Bạc đã được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt.
HẢI PHÒNG
KHU DI TÍCH VÀ ĐỀN THỜ
TRÌNH QUỐC CÔNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Đây là quần thể các công trình lịch sử - văn hóa gắn với cuộc đời và sự nghiệp danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm, một trong những nhân vật có ảnh
76
hưởng nhất của lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI, trên quê nội (thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng) và quê ngoại (thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng) của ông.
Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái nguyên niên (1585), Nguyễn Bỉnh Khiêm tạ thế tại quê nhà ở tuổi 95, tuổi thọ hiếm có đương thời. Bấy giờ vua Mạc cử Phụ chính đại thần Ứng vương Mạc Đôn Nhượng cùng văn võ bá quan về lễ tang để tỏ sự trọng thị. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang đã nói lên sự trân trọng rất lớn của triều Mạc với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triều đình lại sai cấp ruộng tư điền trăm mẫu, đồng thời cấp ba nghìn quan tiền để lập đền thờ ông tại quê nhà. Đích thân vua Mạc đề chữ lên biển gắn trước đền thờ: “Mạc Triều Trạng nguyên Tể Tướng Từ”.
Sau đó do biến động của lịch sử, ngôi đền đó không còn, sau này mới được dựng lại. Năm Mậu Thìn 1929 (niên hiệu Bảo Đại thứ ba), dân làng quyên góp tiền bạc, công sức tu tạo lại ngôi đền. Tháng 9-1985, ngôi đền được Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng chỉ đạo tu sửa, mở mang khuôn viên, sửa lại đường sá.
- Cụm di tích trên quê nội (Lý Học, Vĩnh Bảo) Cuối năm 2000, nhân kỷ niệm 415 năm ngày mất của Trạng Trình, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng cho khởi công xây dựng dự án nâng cấp tạo dựng cả một vùng rộng lớn thành quần thể “Khu di tích danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm” tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo với nhiều hạng mục công trình: Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm với ba gian tiền đường, hai gian hậu cung, được lập trên nền nhà cũ của Trạng Trình, nơi đặt tượng và bài vị của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tượng
77
Nguyễn Bỉnh Khiêm được làm bằng gỗ, trong thế ngồi trên ngai, mình mặc áo rồng vua ban, đầu đội mũ cánh chuồn, tay phải cầm cuốn tập giơ lên như đang giảng đạo thơ cho các học trò. Phía trước đền có hai hồ nước tượng trưng cho trời và đất, bức hoành phi trong đền ghi 4 chữ “An Nam Lý Học”; Khu vực hồ Thái Nhâm phía trước đền thờ, trên khoảng đất nhỏ giữa hồ có cầu bắc qua còn lưu giữ tấm bia đá làm năm Vĩnh Hựu thời Lê Trung Hưng (1736) ghi lại việc làm đền thờ Trạng và tên những người đã đóng góp xây dựng đền; Ngôi nhà ba gian lợp cói dựng phía sau đền, mô phỏng am Bạch Vân, nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi từ quan về dạy học; Quần thể vườn tượng, với kích thước tương đương người thật, diễn tả lại cuộc đời, cảnh dạy học khi xưa của Trạng Trình, tạo nên một khung cảnh gần gũi và sống động với du khách; Phần mộ cụ Nguyễn Văn Định, thân phụ của Trạng Trình (riêng phần mộ của Trạng Trình đến nay vẫn chưa có thông tin chính thức về địa điểm cụ thể); Nhà trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Quán Trung Tân, nơi lưu giữ quan niệm mới về chữ “Trung” hướng lòng theo “Chí Trung Chí Thiện”; Khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng đá granit cao 5,7m, nặng 8,5 tấn cùng hai bức phù điêu diễn tả lại cuộc đời, sự nghiệp của Trạng Trình và lịch sử của địa phương, phía trước tượng đài là hồ bán nguyệt rộng 1.000m²; Chùa Song Mai, Nhà thờ tổ là nơi thờ bà Minh Nguyệt, người vợ thứ ba của Trạng Trình đã từng tu hành tại đây; Tháp Bút Kình Thiên với ngụ ý ca ngợi công đức Trạng Trình như cột trụ chống trời. Khu di tích được xây dựng khang trang đã trở thành điểm du lịch văn hóa lớn của thành phố Hải Phòng.
78