"
Một, Hai, Ba Những Cái Chết Bí Ẩn PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một, Hai, Ba Những Cái Chết Bí Ẩn PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
1
MỘT, HAI, TÔI BUỘC DÂY GIÀY…
- I -
Khi ngồi vào bàn để ăn trưa, ông Morley không vui vẻ lắm. Ông phàn nàn về món thịt muối, ông hỏi tại sao cà phê lại giống nước bùn lỏng và nói rằng chưa bao giờ bánh bích quy lại dở như vậy.
Ông Morley có dáng người nhỏ nhắn với khuôn mặt cương nghị và cái cằm hiếu chiến. Chị ông, một bà quản gia có tầm vóc đẹp, chăm chú nhìn ông rồi hỏi ông một lần nữa xem có phải người ta đã chuẩn bị cho ông nước tắm quá lạnh không.
Ông gắt gỏng, trả lời không và liếc nhìn tờ báo hàng ngày. Một lát sau, ông tuyên bố rằng chính phủ, mà cho đến lúc đó ông chỉ lấy làm tiếc về sự thiếu khả năng, bây giờ rõ ràng đã trở nên tai hại.
Cô Morley bằng giọng rất trầm, bảo rằng đấy là điều đáng tiếc. Các ông bộ trưởng, dù họ là thế nào đi nữa, luôn luôn tỏ ra có một ích lợi nào đó, cô giục ông em giải thích tại sao chính phủ hiện tại lại bất lực, ngớ ngẩn và nguy hiểm.
Ông Morley đã làm cho cô vừa lòng, khi uống một tách cà phê thứ hai mà ông cảm thấy ghê tởm và cuối cùng ông thú nhận lý do thực sự làm ông bực mình.
- Các cô gái đều giống nhau cả thôi - ông nói - Họ chỉ nghĩ tới bản thân và không thể tin họ được!
- Có phải cậu nói về Gladys phải không?
- Vâng. Cô ấy vừa báo cho em biết là bà của cô ta bị một cơn kịch phát và cô ấy cần phải đi đến Somerset.
- Thực là chán, nhưng không phải lỗi tại cô ấy.
Ông Morley lắc đầu, rầu rĩ:
- Ai chứng minh cho em rằng bà cô ấy thực sự có một cơn kịch phát? Biết đâu đấy chẳng phải là một cú đánh lừa với sự tiếp tay của chàng trai đáng ngờ mà cô ta luôn luôn đi cùng? Họ đã quyết định kiếm lấy một ngày nghỉ, chỉ thế thôi!
- Chị khó tin điều đó với Gladys. Chị luôn luôn thấy cô ấy là người có lương tâm.
- Tất nhiên! Nhưng...
- Đấy là một cô gái thông minh và yêu lao động, chính cậu đã nói với chị điều đó.
- Vâng, Georgina, em đã nói điều đó! Nhưng đấy là trước khi cô ấy lui tới với con người ấy. Cô ấy đã thay đổi nhiều trong thời gian gần đây. Người ta không nhận ra cô ấy nữa. Cô ấy mơ mộng, luôn nghĩ đến việc khác, hay bồn chồn…
Người giám thủ cứng rắn thở dài:
- Cậu muốn gì, Harry? Tất cả mọi cô gái cuối cùng đều sẽ phải yêu. Người ta không thể làm gì được cả.
Ông Morley đáp lại cụt ngủn:
- Điều đó không được cản trở các việc mà họ phải làm. Em có một cô thư ký, cần cô ta. Nhất là hôm nay. Có những bệnh nhân rất quan trọng... và đấy là điều khó chịu!
- Ừ cậu nói đúng đấy. Ầ, thế cậu bé mà em thuê, hắn có quen việc không?
- Không! Thậm chí hắn không ghi nổi một cái tên và cử chỉ của hắn thật lố bịch. Nếu hắn không thay đổi, thì em buộc phải đuổi hắn và thuê một người khác. Các phương pháp giáo dục hiện nay, tỏ ra thiếu toàn diện. Hình như chúng chỉ đào tạo ra những chàng thanh niên ngờ nghệch, chậm hiểu và hay quên.
Ông xem đồng hồ và nói tiếp:
- Em đi đây. Sáng nay em bận lắm và em còn phải khám cho bà Sainsbury Seale nữa. Bà ấy đau. Em đã khuyên bà ấy gặp Reilly,
nhưng bà ta không chịu.
- Chị hiểu bà ấy.
- Reilly rất có khả năng. Ông ấy thạo nghề.
- Tay ông ấy run - cô Morley trả lời - Đối với chị, đấy là một người uống rượu.
Morley mỉm cười và rời bàn ăn, thái độ trở lại vui vẻ. - Như thường lệ - ông nói - em sẽ trở lên vào lúc một giờ rưỡi để nhấm nháp mẩu bánh xăng-uýt.
- II -
Ở Savoy, ông Amberiotis thám hiểm bộ răng của mình với một que tăm. Ông mỉm cười.
Các công việc giao dịch của ông đều êm thấm cả.
Như mọi khi, sự may mắn lại đến với ông. Ông đã không phí thì giờ khi nói với người đàn bà ngu đần này vài lời tử tế. Điều đó xảy ra thật xứng đáng với ông. Ông luôn luôn tỏ ra là người tử tế và độ lượng. Trọng tương lai, có thể ông sẽ còn hơn thế. Những hình ảnh hạnh phúc đi qua trước mắt ông.
Cậu bé Dimitri... Cái anh Constatopoulos tuyệt vời này vật lộn với quán ăn của anh ta... Đối với họ, một sự ngạc nhiên tuyệt vời biết mấy!
Que tăm chọc vào một chỗ làm ông Amberiotis nhăn mặt. Những lời tiên đoán dễ thương đã tan biến đi. Sự lo lắng xâm chiếm và thôi thúc ông Amberiotis.
Ông dùng lưỡi thận trọng thám hiểm một cái hốc răng rồi rút từ túi ra cuốn sổ tay và ghi vào: "58 phố Hoàng hậu Charlotte, chính trưa".
Ông thử tìm lại tính lạc quan hồi nãy của ông. Nhưng cố gắng vô ích. Trong lúc này, tương lai ở trong mấy từ: "58 phố Hoàng hậu
Charlotte, chính trưa". III
Ở khách sạn Glengowrie Court ở Nam Kensington, vừa xong bữa sáng, cô Sainsbury Seale và bà Bolitho đang ngồi trong phòng lớn tán gẫu. Do ngồi gần nhau trong phòng ăn, họ đã quen nhau tám ngày trước đây ngay sau khi cô Sainsbury Seale đến.
- Bạn thân mến, bạn biết rằng cái đó không làm tôi đau nữa. Không đau gì cả! Tôi muốn gọi điện thoại…
- Đừng gọi - Bà Bolitho la lên - Bạn hãy đến nha sĩ và nhổ đi là xong.
Bà Bolitho là một người đàn bà to lớn có giọng nói trầm trầm và hình như sinh ra để chỉ huy. Cô Sainsbury là một người đàn bà trạc bốn mươi tuổi, tóc hoa râm cuộn thành xoáy ốc, giữ gìn cẩu thả. Quần áo lôi thôi, trông cô có vẻ "nghệ sĩ”, kính cặp mũi luôn luôn rơi và cô nói nhiều.
- Nhưng - cô lại nói tiếp - vì tôi đã nói với bạn rằng tôi không đau nữa. Vâng, chỉ có điều là hầu như tôi không ngủ suốt đêm. - Đúng đấy! Nhưng tôi tin chắc rằng, bây giờ, dây thần kinh đã chết. Một lý do nữa để đi tới nha sĩ... Trong trường hợp ấy chính sự sợ hãi luôn luôn giữ chúng ta lại. Này! Cần phải tỏ ra quả quyết và chấm dứt cho xong đi!
Cô Sainsbury suýt trả lời: "Bạn hãy nói cho thoải mái. Người ta thấy rằng không phải vấn đề là mấy cái răng của bạn", nhưng cô đã bằng lòng nói:
- Bạn thân mến, tôi tin rằng bạn có lý. Morley rất hiền và ông ấy không bao giờ làm đau ai.
- IV -
Cuộc họp hội đồng giám đốc vừa kết thúc. Mọi việc đã diễn ra tốt đẹp. Bản báo cáo rất tuyệt vời. Tất cả mọi người đều phải hài
lòng. Thế nhưng, không bỏ sót một sắc thái nào, ông Samuel Rotherstein đã nhận thấy có cái gì đó trong thái độ cửa chủ tọa. Hai hoặc ba lần, Alistair Blunt đã phát biểu ý kiến bằng một giọng gãy gọn và gay gắt mà không có cái gì giải thích được. Một nỗi buồn phiền dấu kín? Nghĩ kỹ lại thì không phải. Tính của Alistair vốn đâu phải thế. Thế thì, cái gan?... Ông Rotherstein thỉnh thoảng bị đau gan. Nhưng chưa bao giờ Alistair phàn nàn về gan của mình. Ông ta có một sức khỏe tuyệt vời, thế nhưng có cái gì đó. Một hoặc hai lần, ông ấy đã đưa tay lên, vuốt cằm một cách khác với thói quen của ông. Và nhiều lần trong suốt cuộc họp, hình như ông ấy nghĩ tới việc gì khác.
Ra khỏi phòng họp hội đồng, họ cùng gặp nhau ở phía trên của cầu thang.
- Tôi có thể thả ông ở đâu đấy? - Rotherstein hỏi.
Blunt lắc đầu.
- Xe đang đợi tôi - ông giải thích.
Ông nhìn đồng hồ và nói thêm:
- Tôi đã có hẹn tới chỗ nha sĩ.
Điều bí ẩn đã sáng tỏ. V
Hercule Poirot xuống xe taxi, trả tiền và gõ cửa số 58, phố Hoàng hậu Charlotte. Một lát sau, một người phục vụ trẻ, tóc hung và mặt rỗ ra mở cửa.
- Ông Morley? - Hercule Poirot hỏi.
Trong thâm tâm ông thầm ước ông Morley đi vắng, bị ốm, hoặc không tiếp khách lúc này. Nhưng người phục vụ biến mất, Hercule Poirot đi vào và cửa đóng sập lại sau ông. Nặng nề như số mệnh. - Thưa ông, đề nghị ông cho biết tên?
Poirot nói tên và vào phòng đợi, một căn phòng bày biện đồ đạc rất lịch sự, nhưng đối với ông, có vẻ buồn vô hạn, với những bức màn bằng nhung xanh, đồ đạc theo kiểu cổ và ghế bành đặt trên tấm thảm đỏ, thêu những con chim đỏ đang bay giữa các bông
hoa.
Có một ông đã chờ ở đấy, tác phong quân sự, da mặt vàng, bộ ria mép ngạo nghễ. Ông ta nhìn Poirot như thể đó là một con côn trùng có hại, có thể nói không ngoa rằng ông ta đang tiếc là đã không mang theo, không phải một khẩu súng lục mà là một lọ thuốc trừ sâu. Poirot khinh bỉ nhìn ông ta và nghĩ rằng có những người khó chịu và lố lăng đến nỗi việc giết ngay họ khi họ sinh ra trên quả đất là một việc làm tốt.
Rồi ông ta cầm lấy tờ Times, quay ghế lại để khỏi thấy Poirot và bắt đầu đọc. Poirot dở tờ Punch. Thiện ý của ông là trọn vẹn, nhưng không có một sự đùa cợt nào làm ông cười cả.
Người phục vụ xuất hiện trên ngưỡng cửa và hỏi đại tá Arrowbumby. Ông này đứng dậy và biến mất.
Poirot thầm nghĩ: một cái tên thật thô lỗ. Khi đó, cửa chính lại mở ra và một người thanh niên khoảng ba mươi tuổi bước vào. Poirot liếc trộm người này trong khi hắn nhặt một tờ tạp chí ở trên bàn.
Ông thấy hắn thiếu thiện cảm, thậm chí có vẻ nguy hiểm. Và, Poirot nghĩ: "nếu đấy là một kẻ giết người thì mình cũng chẳng ngạc nhiên!". Thật sự, hắn ta giống một kẻ giết người hơn bất kỳ những kẻ giết người nào khác mà Poirot đã bắt giữ từ trước đến giờ.
Người phục vụ xuất hiện trở lại và hỏi:
- Ông Poirot?
Ông trả lời và đứng dậy theo người hướng dẫn trẻ đi tới thang máy nhỏ, xuống tầng hai. Qua hành lang, vào cửa chính, qua phòng trước, tới cửa thứ hai, đó là phòng của nha sĩ.
Ông nghe tiếng nước chảy và ngoảnh lại. Ông Morley, một nha sĩ đầy lương tâm, đang rửa tay trước khi khám cho ông. VI
Có những giờ phút nhục nhã trong đời sống của các bậc vĩ
nhân. Người ta nói rằng không một ai là anh hùng đối với người hầu phòng của mình. Có thể nói thêm rằng không một ai tự cảm thấy có linh hồn của một anh hùng, khi đứng trước một nha sĩ.
Hereule Poirot hoàn toàn có ý thức về điều đó. Nói chung, ông có ý niệm tốt về mình. Ông là Hercule Poirot và tự coi là đứng ở trên số đông những người cùng thời với ông. Nhưng, lúc này, ông cảm thấy nhỏ bé quá. Ông chỉ là một con người như những người khác, một con người đáng thương, bị khủng bố bởi ý nghĩ phải ngồi vào trong ghế bành của nha sĩ.
Sau khi rửa tay xong, ông Morley nói với ông bằng một giọng khích lệ:
- Khí hậu chưa nóng lắm đối với mùa...
Bằng những cử chỉ làm siêu lòng, ông đưa Poirot tới chỗ đã định: trước cái ghế bành. Bằng bàn tay thành thạo, ông đặt cái tựa đầu ở vị trí thích hợp. Hercule Poirot hít sâu một cái và ngồi vào ghế, để mặc cái đầu ông cho những ngón tay tinh tế của ông Morley đặt chỗ thích hợp.
- Ông cảm thấy thoải mái chưa? - Ông Morley hỏi với thái độ vui vẻ hết mức.
Poirot đồng ý bằng giọng ồ ồ.
Ông Morley xích một cái bàn nhỏ lại, một tay cầm một cái gương nhỏ và tay kia một cái dụng cụ nhọn, và chuẩn bị tiến hành. Hercule Poirot, hai tay giữ chặt lấy tay vịn của ghế, nhắm mắt lại và há miệng.
- Có một cái răng làm ông đau phải không? - Nha sĩ hỏi. Nói lúng búng, Hercule Poirot đã làm cho nha sĩ hiểu được là không có cái răng nào đau cả, nhưng ông muốn được kiểm tra lại răng hàm sáu tháng một lần, như là một thói quen của ông. Có thể ông không cần những sự chăm sóc đặc biệt, nhưng có lẽ cần xem cái răng hàm lớn thứ hai ở phía dưới bên trái... Ông Morley khám rất cẩn thận.
- Chỗ hàm răng này bị hỏng một chút, nhưng không có gì là nghiêm trọng... Tôi vui mừng nhận thấy rằng lợi của ông đều ở tình trạng hoàn hảo...
Một sự yên lặng tiếp theo: ông Morley xoi mói nhìn vào một chiếc răng. Báo động giả. Ông chuyển qua hàm dưới. Răng hàm thứ nhất tốt, răng thứ hai tốt. Cái thứ ba, trái lại...
"Ông ta tìm thấy cái gì đó, đồ súc sinh!" Poirot nghĩ. - Lúc này, cái răng này có đau không? Điều đó làm cho tôi ngạc nhiên...
Cuối cùng, sự khám răng kết thúc. Ông Morley đứng thẳng lại, vừa ý và nhận xét.
- Không có gì nghiêm trọng. Xem lại một hai chỗ hàn và hàn chiếc răng hàm ở phía trên. Chúng tôi sẽ làm ngay tức khắc. Ông sờ cái chuyển mạch điện và Poirot nghe một tiếng vo vo nhỏ. Nha sĩ với cái khoan răng đã được chuẩn bị bắt đầu công việc đáng ghê sợ của mình.
- Hãy báo cho tôi biết nếu tôi làm cho ông đau.
Poirot nhăn mặt, rên vài tiếng nhỏ, nhưng nói chung giữ được tư thế một cách đáng kính. Khi ông chực giơ tay để ngăn nhục hình, thì nó ngưng lại. Để lại bắt đầu sau đó một lúc, khi Poirot đã xúc miệng.
Trong lúc ông Morley chuẩn bị hợp chất mà ông sắp đổ đầy vào hốc nhỏ vừa đục, cuộc nói chuyện lại bắt đầu.
- Sáng nay - nha sĩ giải thích - một mình tôi phải làm tất cả. Cô Nerill đã được gọi xuống tỉnh. Ông có nhớ cô ấy không? Poirot nói dối là có.
- Cô ấy đi thăm một người bà con bị ốm - ông Morley tiếp tục câu chuyện - Những chuyện ấy thường xẩy ra luôn vào những ngày mà tôi lắm việc. Tôi đã bị muộn theo thời gian biểu của tôi. Người bệnh trước ông đã không đến đúng giờ và tất cả chương trình của tôi bị xê xích; điều tai hại hơn nữa là tôi phải chăm lo
đến một bà hình như đau kinh khủng. Trong mỗi buổi sáng, tôi luôn luôn dành ra mười lăm phút cho những trường hợp khẩn cấp ấy. Nhưng hôm nay, sẽ không dễ dàng cho tôi để tìm thấy thời gian ấy.
Ông Morley liếc nhìn cái mà ông giã ở trong một cái cối nhỏ và nói tiếp:
- Ông Poirot, một điều mà tôi nhận xét là những nhân vật quan trọng, những người giữ những vị trí lớn luôn luôn đúng giờ và không bao giờ bắt đợi cả. Các bậc vua chúa, chẳng hạn, chính là sự đúng giờ. Các nhà tài phiệt lớn cũng vậy. Sáng nay, tôi có hẹn với một nhà tài phiệt rất lớn. Alistair Blunt!
Ông đã đọc cái tên với giọng cường điệu.
Poirot có ở trong miệng những nùi bông và ở dưới lưỡi một cái ống thủy tinh nhỏ. Không thể nói được, ông trả lời bằng tiếng làu bàu khó hiểu.
Alistair Blunt! Đúng là những cái tên như cái tên đó bây giờ được coi trọng. Không còn vấn đề quận công, bá tước, thủ tướng nữa. Ông Alistair Blunt không đòi một chức tước nào cả. Đấy là một con người mà đại chúng không biết mặt, các báo chí ít nói đến, một người Anh mà những người tốt biết rất ít, nhưng là người đứng đầu nhà băng lớn nhất của vương quốc. Một người hết sức giàu. Có thể áp đặt luật pháp cho các chính phủ. Một người sống một cuộc sống kín đáo, không bao giờ phát biểu trước đám đông và có những quyền lực vô hạn.
Vừa hàn răng cho Poirot, ông Morley vừa nói về sự giàu sụ bệnh hoạn của ông kia bằng một giọng mang đầy vẻ kính trọng. - Ông ấy luôn luôn đến rất đúng giờ. Phần lớn, ông cho xe về trước và ông đi bộ về nhà. Một con người duyên dáng và rất giản dị. Ông thích trò đánh gôn và những mảnh vườn đẹp. Không bao giờ ông có thể tin rằng ông ấy có thể mua một nửa châu Âu nếu ông ấy muốn. Ông ta như thế đấy, một con người như ông và tôi.
Poirot ít ưa thích sự đồng hóa. Ông Morley là một nha sĩ xuất sắc, nhưng người ta tìm thấy ở London nhiều nha sĩ khác cũng xuất sắc như ông. Trong khi đó, ở trên quả đất này, chỉ có một Hercule Poirot duy nhất.
Poirot lại xúc miệng lần nữa. Ông Morley, vừa tấn công vào chiếc răng thứ hai, vừa nói tiếp:
- Ông thấy không, đấy là câu trả lời của chúng ta cho tất cả những nhà độc tài lục địa ấy: Hitler, Mussolini và đồng bọn! Ở nước chúng tôi, người ta thích sự đơn giản. Ông hãy xem nhà vua! Đấy là một người dân chủ xác thực. Dĩ nhiên, đối với một người Pháp như ông, quen với những thể chế cộng hòa...
Poirot phản ứng mạnh mẽ:
- Không phải Pháp!... Bỉ!
Ông Morley, vừa thổi hơi nóng ở trong hốc, vừa nhẹ nhàng bảo ông im và tiếp tục nói:
- Tôi không biết ông là người Bỉ. Vua Leopold là một người lỗi lạc, tôi luôn luôn nghe nói điều đó. Đối với tôi, tôi rất gắn bó với chế độ quân chủ. Nó có cái tốt của nó, ông biết đấy! Hãy chú ý xem các đức vua thường nhớ mặt và nhớ tên. Vả chăng, tôi nghĩ, đấy là một thiên tử. Đối với tôi, tôi quên tên, nhưng không bao giờ quên mặt. Vì vậy mà hôm nọ, tôi đã tìm lại được một trong những người bệnh của tôi, mà cái tên không có nghĩa gì đối với tôi nhưng tôi chắc chắn là đã gặp ông ta. Tôi tự hỏi xem tôi đã gặp ông ấy ở đâu và tôi chắc chắn là sẽ nhớ lại, trong ngày một ngày hai. Xin ông làm ơn xúc lại miệng cho, xin mời.
Hai phút sau, Poirot xuống khỏi ghế. Ông tự thấy lại là một con người tự do.
- Ông Poirot, tôi hi vọng rằng ông đã không tìm thấy kẻ giết người ở trong nhà tôi - nha sĩ nói với ông lúc ông sắp từ biệt. - Trước khi đến đây - Poirot vừa trả lời vừa cười - tôi sẵn sàng coi tất cả mọi người là kẻ giết người. Nhưng bây giờ thì hơi khác.
- Dĩ nhiên, nhưng ông đồng ý là các nha sĩ không còn đáng gờm nữa như trước đây. Tôi có cần gọi thang máy cho ông không? - Không, xin cảm ơn. Tôi sẽ xuống bộ.
Poirot đi ra. Khi ông đi tới các bậc cuối cùng, ông thấy đại tá rời khỏi căn nhà. Trở nên độ lượng, Poirot tự nói rằng, suy nghĩ cho kỹ, thì đấy khó chắc chắn là không phải một con người xấu. Một khẩu súng đẹp, chắc là thế, đã phải giết chết hơn một con hổ. Một người lính. Một trong những người mở đường của Vương quốc.
Poirot đi vào phòng đợi , để lấy mũ và can mà ông để ở đây. Người thanh niên vẫn ở đấy, điều đó làm cho ông ngạc nhiên một chút. Cũng có một người bệnh khác đang đọc tờ Field.
Poirot lại nhìn kỹ người thanh niên. Ông lại thấy ở hắn cái vẻ tàn bạo mà ông đã nhận xét hồi nãy, cái vẻ của một kẻ sẵn sàng trở thành tên giết người, nhưng ông cũng tự bảo rằng đấy không phải là một kẻ giết người thực sự. Khi nha sĩ làm xong việc với anh ta, người thanh niên này sẽ bước nhẹ nhàng xuống thang, với nụ cười tốt lành của một con người nào đó không muốn hại ai.
Người phục vụ vào và gọi ông Blunt.
Người đọc tờ Field đặt tờ báo xuống bàn và đứng dậy. Đấy là một người đã đứng tuổi, không béo không gầy, ăn mặc rất lịch sự. Ông đi theo người phục vụ.
Ông Blunt giàu và có thế lực. Nhưng cũng như mọi người, ông cũng phải đến chỗ nha sĩ. Và sự thử thách cũng vất vả như đối với bất cứ ai.
Poirot cầm can cùng mũ và đi ra cửa chính. Khi ông khép cửa lại, đôi mắt ông một lần nữa lại cặp đôi mắt của người thanh niên. Ông tự bảo rằng chàng trai tội nghiệp này chắc chắn là chỉ đau răng xoàng thôi.
Tới phòng trước, Poirot dừng lại trước một cái gương để chải lại bộ ria mép đã hơi bị rối khi ở trong phòng của ông Morley. Ông vừa chải lại nó khi ra khỏi thang máy, người phục vụ xuất hiện ở
cuối phòng. Anh ta huýt sáo vang lên. Anh đừng hẳn lại khi thấy Poirot và vội vàng mở cửa cho ông.
Một chiếc taxi đậu ở trước ngôi nhà. Một bàn chân phụ nữ hiện ra ở cửa xe.
Poirot nhìn nó, vẻ thích thú.
Một cái mắt cá đẹp. Những chiếc tất xinh. Một bàn chân nhỏ, nhưng một chiếc giày hơi không vừa. Một chiếc giầy bằng da mới tinh, với một cái vòng to, lóng lánh. Poirot lắc đầu. Chiếc giầy này thiếu lịch sự và đóng rất quê.
Bà ta bước ra khỏi xe. Bị bất ngờ vướng chân vào cửa xe, một cái vòng của chiếc giày kia rơi xuống vỉa hè. Poirot vội vàng nhặt lấy và trả lại cho bà bằng một cái cúi gập người lịch sự.
Chao ôi! Bà ấy gần năm mươi tuổi hơn là bốn mươi, mang kính cặp mũi, có tóc nhuộm và mặc quần áo không vừa người. Bà ấy cảm ơn Poirot và đánh rơi xuống đất trước hết là kính cặp mũi rồi đến cái ví của bà.
Lịch sự, Poirot nhặt cái này rồi cái kia. Sau khi lấy lại đồ đạc, bà bước lên thềm nhà số 58 phố Hoàng hậu Charlotte. Poirot đi tới gần người lái xe đang ngắm nghía với vẻ chán ngán món tiền trà nước nghèo nàn mà bà thưởng cho ông.
- Ông có rảnh không?
- Vâng.
- Tôi cũng vậy - Poirot nói - Và được giải phóng nữa. Ông nhận xét thấy người lái xe nhìn chòng chọc vào mặt ông với con mắt lo lắng.
- Ông an tâm - ông nói thêm - tôi không say rượu đâu. Tôi vừa ừ nhà ông nha sĩ ra và tôi được giải phóng khỏi ông ấy trong sáu tháng. Đấy là một ý nghĩ rất an ủi.
2
BA, BỐN, TÔI ĐÓNG CỬA LẠI…
- I -
Ba giờ kém mười lăm, chuông điện thoại réo.
Hercule Poirot đánh một giấc ngủ sau bữa ăn trưa ngon lành, nằm im không động đậy. Ông chờ cho cậu George trung thành đến nghe máy.
- Thưa ông, chờ cho một lúc - George nói, vừa đặt ống nghe xa tai mình.
- Ai đấy? - Poirot hỏi.
- Thưa ông, thanh tra trưởng Japp.
- A!
Poirot cầm ống nghe.
- Thế nào, ông bạn thân Japp - ông nói - điều gì xảy ra vậy? - Ông là Poirot?
- Tất nhiên.
- Người ta bảo với tôi rằng sáng nay, ông đến chỗ nha sĩ, đúng không?
- Sở cảnh sát đã thực sự được thông báo.
- Chỗ ông Morley nào đấy ở số 58 phố Hoàng hậu Charlotte? - Vâng. Tại sao?
Giọng của Poirot đã thay đổi, ông không đùa nữa.
Japp lại nói tiếp:
- Đấy là cuộc thăm viếng thực của ông phải không? Ông không đến đấy vì nhiệm vụ nghề nghiệp chứ?
- Không đâu! Nếu cần phải nói hết với ông, ông biết cho rằng ông ấy đã hàn cho tôi ba cái răng.
- Ông ấy đã cho ông ấn tượng gì? Thái độ của ông ấy không tỏ ra kỳ cục hay sao?
- Không một chút nào! Tại sao?
Japp trả lời bằng giọng bình thản:
- Bởi vì, một lúc sau khi ông đi, ông ấy đã tự sát bằng một phát súng lục.
- Sao?
- Điều đó làm cho ông ngạc nhiên hay sao?
- Thực sự, vâng!
- Còn tôi, ở trong đó có những sự việc làm cho tôi chán... Tôi muốn nói chuyện với ông. Ông không thể đến đây hay sao? - Ông ở đâu?
- Phố Hoàng hậu Charlotte.
- Được! Tôi đến ngay.
- II -
Một nhân viên cảnh sát đã mở cửa nhà số 58 cho Poirot. - Ông Poirot? - Người ấy hỏi bằng giọng kính cẩn.
- Chính là tôi.
- Thanh tra trưởng đang ở phía trên. Ở gác hai, ông biết ở đâu không?
- Sáng nay tôi đã ở đấy.
Có ba người ở trong căn buồng. Japp ngẩng đầu lên khi Poirot vào.
- Sung sướng được gặp ông, Poirot! Chúng tôi sắp khiêng xác chết đi. Đề nghị ông nhìn trước khi khiêng được không? Một nhà nhiếp ảnh quỳ gần xác chết, đứng dậy. Poirot lại gần thi thể, nằm dài gần lò sưởi.
Ông Morley trong cái chết gần giống như lúc ông còn sống. Ông
ấy có một cái lỗ đen nhỏ, ở phía dưới thái dương phải một chút. Trên sàn nhà, gần bàn tay phải mở ra của ông, có một khẩu súng lục.
Poirot lắc đầu.
- Các ông có thể khiêng đi - Japp nói với các nhân viên. Japp và Poirot ở lại.
- Công việc bình thường đã xong - Japp nói - Các dấu tay, v.v... - Rồi sao nữa? - Poirot vừa nói vừa ngồi xuống.
- Thế thì - Japp nói tiếp - khả năng ông ấy tự sát cũng có thể đúng. Những dấu tay duy nhất mà người ta tìm thấy ở trên súng là của ông ấy. Nhưng giả thuyết chỉ làm cho tôi thỏa mãn một nửa thôi.
- Tại sao?
- Trước hết, vì hình như ông ấy không có một lý do gì để tự sát cả. Ông ấy khỏe mạnh, làm ra nhiều tiền và theo người ta nói, ông ấy không có những sự buồn phiền. Cũng không có mối tằng tịu vụng trộm nào trong chừng mực mà chúng tôi biết. Trong thời gian gần đây, ông vẫn như thế. Không bằng phẳng, không yếu sức, không buồn rầu. Vì thế, cho nên tôi đã mời ông tới. Ông đã gặp ông ấy sáng nay, ông không nhận thấy gì cả hay sao?
- Không có gì cả. Theo tôi, ông ấy cũng tỏ ra bình thường như mọi khi.
- Ông sẽ thừa nhận đấy là điều lạ thường. Vả chăng, một người có thể tự sát giữa ban ngày, trong khi đang làm việc được chăng? Tại sao ông ấy không đợi đến tối?
- Tấn thảm kịch đã xảy ra vào lúc mấy giờ?
- Tôi không biết chính xác. Hình như, không ai nghe thấy tiếng nổ cả. Vả chăng, điều đó không có gì là ngạc nhiên cả. Giữa hành lang và căn phòng này có hai cái cửa, cả hai đều có dải đệm ở khe cửa. Chắc chắn là ông ấy sợ người ta nghe những tiếng la của người bệnh.
- Có thể.
- Mặt khác, trên đường phố, việc buôn bán rất sầm uất đến nỗi khá tự nhiên là không ai nghe thấy gì hết.
- Ai đã tìm thấy xác chết ?
- Người phục vụ, Alfred Biggs, vào lúc một giờ rưỡi. Nhân tiện nói, anh này không thông minh lắm. Hình như, người đã hẹn gặp ông ấy vào lúc mười hai giờ rưỡi thấy rằng Morley đã bắt ông ta chờ quá lâu. Người ấy gọi người phục vụ, anh này tới gõ cửa phòng nha sĩ. Anh ta không được trả lời, và anh không dám vào. Morley đã vài lần nghiêm khắc cảnh cáo anh và anh ta sợ phạm khuyết điểm. Anh ấy đi xuống lại, nhưng người bệnh - đấy là một phụ nữ - đã bỏ đi vẻ giận dữ, vào lúc một giờ mười lăm. Tôi không cho bà ấy là sai. Bà đã chờ bốn mươi lăm phút và bắt đầu thấy đói.
- Ông có biết tên bà ấy không?
Japp nhăn mặt.
- Theo người phục vụ, người đàn bà ấy gọi là cô Shirty, nhưng theo sổ hẹn, tên bà là Kirby.
- Morley đã làm như thế nào để cho dẫn người bệnh tới phòng ông?
- Khi ông ấy đã sẵn sàng tiếp nhận một người, ông ấn vào cái nút này, báo cho người phục vụ, anh này đi tìm người mà ông chờ.
- Ông ấy đã dùng cái chuông này lần cuối cùng vào lúc nào? - Lúc mười hai giờ năm phút. Người phục vụ đã dẫn người bệnh ở trong phòng chờ đến cho ông. Theo sổ hẹn, một ông Amberiotis nào đó ở Savoy.
Một nụ cười thoáng qua trên môi Poirot:
- Tôi tự hỏi người phục vụ đã có thể lấy cái tên đó làm cái gì? - Một món chả băm tệ hại, chắc là thế! Chúng ta sẽ yêu cầu anh ấy đưa món đó, khi chúng ta muốn cười...
- Cái ông Amberiotis ấy lại ra đi vào lúc nào?
- Người phục vụ không đi theo ông ta và không biết gì cả. Có nhiều người bệnh không gọi thang máy để xuống và rút lui không cần phải đưa.
Poirot gật đầu tỏ ra biết rõ.
- Nhưng - Japp nói tiếp - tôi đã gọi điện thoại về Savoy và ông Amberiotis đã khẳng định: lúc ông đi ra là mười hai giờ hai mươi lăm.
- Ông ấy đã không cho biết điều gì quan trọng?
- Không. Ông ấy nói rằng Morley hoàn toàn bình tĩnh, hoàn toàn bình thường.
- Này, theo tôi - Poirot nói - thế là rõ. Giữa mười hai giờ hai mươi lăm và một giờ rưỡi, đã xảy ra cái gì đó. Hẳn là gần mười hai giờ hai mươi lăm hơn là một giờ rưỡi.
- Vâng. Bởi vì, nếu không...
- Nếu không, Morley đã phải cho người bệnh tiếp theo vào... - Những kết luận của bác sĩ pháp y, trong chừng mực mà chúng có thể tỏ ra thú vị đối với ông, phù hợp với điều mà ông vừa nói. Ông ấy đã xem xét xác chết vào lúc hai giờ hai mươi. Ông ta không muốn cam kết - đấy là cái mốt của các ông ấy bây giờ - nhưng ông tuyên bố rằng Morley không thể chết sau một giờ. Đối với ông ấy, cái chết đã xảy ra rõ ràng là sớm hơn. Nhưng ông ta không muốn khẳng định gì cả.
- Như vậy - Poirot nói một cách đắn đo - vào lúc mười hai giờ hai mươi lăm, nha sĩ của chúng ta là một người bình thường, thấy cuộc sống tươi đẹp và hành nghề với tài năng thường ngày cửa mình. Sau mười hai giờ hai mươi lăm, thất vọng chán nản, điều gì nữa thì tùy... và ông tự sát.
- Thật là lạ lùng! Phải thừa nhận là lạ lùng!
- Lạ lùng không phải là từ thích hợp - Poirot lưu ý.
- Tôi biết, nhưng tôi tự hiểu. Chúng ta nói, tùy ông, đấy là kỳ cục.
- Khẩu súng là của ông ta?
- Không. Ông ta không có súng và không bao giờ có cả. Chị ông bảo rằng ông ấy không có súng ở trong nhà. Tất nhiên là ông ấy đã mua một khẩu. Không khó tin chút nào, nếu ông ấy định kết liễu đời mình. Đây là điểm, tôi nghĩ, chúng ta nên hướng vào.
- Còn cái gì đó làm chúng ta băn khoăn nữa không? - Poirot hỏi.
Japp gãi mũi:
- Có - ông trả lời - Cái cách mà ông ấy nằm dài xuống đất. Tôi không nói rằng một người không thể ngã xuống như vậy, nhưng cái vị trí cửa xác chết cứ làm cho tôi nghĩ là không bình thường. Mặt khác, ở trên tấm thảm có vài cái vết làm cho ta giả thiết rằng người ta đã kéo cái gì đó…
- Rất lý thú.
- Vâng, nếu không phải cậu bé đáng ghét ấy. Tôi có ý niệm lờ mờ rằng cậu ấy đã thử xê dịch cái xác khi cậu tìm thấy. Cậu ấy thề rằng cậu đã không làm gì cả, nhưng tất nhiên, chắc chắn là vì cậu ta sợ. Theo tôi, cậu ta có vẻ một trong những anh chàng phải quở mắng luôn và cuối cùng phải nói dối một cách gần như tự động.
Poirot xem xét căn phòng. Sự chú ý của ông lần lượt hướng về cái chậu rửa mặt đặt gần cửa, cái tủ cao đựng giấy tờ dựa vào tường, cái ghế bành và các phụ tùng của nó đặt đứng trước cửa sổ, và chỗ trải tấm thảm mà hồi nãy cái xác nằm dài trên đấy.
Gần lò sưởi, có một cái cửa lớn. Trả lời cho câu hỏi ngầm của Poirot, Japp mở cửa và nói:
- Đấy là một văn phòng nhỏ.
Đấy là một căn phòng nhỏ xíu, không có cửa khác, bố trí đồ đạc đơn sơ: một cái bàn giấy, vài cái ghế, một cái bàn trên đó có một cái đèn cồn và một cái khay trà.
- Đây là nơi làm việc của cô thư ký cửa ông - Japp giải thích - cô Nevill. Hôm nay, cô này vắng mặt.
- Đấy, thực tế là điều mà ông ấy đã nói với tôi - Poirot nói thêm - Một điểm cần lưu ý để chống lại luận thuyết về tự tử. - Sự việc là cô ấy không ở đây? - Japp suy nghĩ một lúc - Nếu không phải là tự tử - ông nói tiếp - thì người ta đã giết ông ấy. Nhưng tại sao? Giả thuyết về một vụ giết người cũng tỏ ra ít đáng tin như cái kia. Hình như ông ấy hoàn toàn vô hại và tôi không thấy ai đã muốn giết ông ta.
- Chúng ta hãy nghĩ xem ai đã có thể làm việc đó?
Japp nói:
- Nhiều người. Chị ông có thể từ buồng trên xuống và đã giết ông. Một người ở cũng vậy. Reilly, người cộng tác của ông, có thể đã giết ông. Cậu Alfređ cũng vậy. Cũng còn có thể là một trong những người bệnh, và đặc biệt - vấn đề gì? - cái ông Amberiotis ấy.
- Đứng đấy - Poirot nói - Nhưng phải tìm xem tại sao? - Chúng ta trở lại vấn đề gốc của chứng ta: tại sao? Amberiotis ở Savoy. Vì lý do gì mà một người Hy Lạp giàu có có thể giết chết một nha sĩ người Anh tầm thường.
Poirot nhún vai:
- Có những lúc - ông nói - cái chết thiếu ý nghĩa nghệ thuật và hình như nhầm lẫn trong việc lựa chọn của nó. Một người Hy Lạp hí hiểm, một chủ nhà băng giàu có, một thám tử nổi tiếng. Ba nhân vật mà việc ám sát không làm ngạc nhiên ai cả. Những người ngoại quốc bí hiểm thường quan tâm đến việc hoạt động gián điệp, những chủ nhà băng giàu có thỉnh thoảng làm những thao tác chắc chắn dẫn họ đến cái chết, và những kẻ phạm tội rất tán thành việc thủ tiêu các thám tử nổi tiếng...
- Trong khi đó thì ông Morley tội nghiệp không là hiểm họa cho một ai cả - Japp nói thêm.
- Đấy là điều mà tôi tự hỏi - Poirot đột nhiên nói. Japp ngẩng đầu lên:
- Ông biết điều gì ư?
- Không. Đấy là một ký ức trở lại với tôi.
Ông lặp lại cho Japp vài lời của Morley, nói về trí nhớ của ông về diện mạo và về người bệnh ấy mà ông đã nhận ra. Japp tỏ vẻ hoài nghi:
- Tất nhiên là có thể - ông kết luận - Nhưng theo tôi điều đó tỏ ra gượng gạo. Những người bệnh mà ông thấy sáng nay, theo ông, hình như đáng nghi cả sao?
- Chỉ có một người - Poirot trả lời - Một người thanh niên, có hoàn toàn bộ mặt của kẻ giết người!
- Thế hả?
- Bạn thân mến, tôi nói rõ thêm rằng đấy là ấn tượng mà anh ấy đã gây cho tôi trước khi tôi vào trong phòng của ông Morley. Tôi bồn chồn, lo lắng và hết sức bực bội. Tất cả tỏ ra thê thảm: phòng chờ các người bệnh, cả cái thảm của cầu thang. Sự thật là người thanh niên ấy đau răng kinh khủng, chắc thế.
- Tôi biết đấy là cái gì - Japp nói - Dù sao, chúng ta sẽ nghe điều đó. Chúng ta sẽ nghe tất cả mọi người cho dù đấy là tự tử hay không. Tôi nghĩ rằng chứng ta sẽ có thể bắt dầu từ bà chị của ông Morley, với cô này tôi đã trao đổi một vài câu. Cô ấy đã bị choáng, nhưng cô là một trong số những người đàn bà biết phản ứng. Chúng ta đi gặp cô ấy đi.
- III -
Buồn rầu và đúng mức, Georgina Morley lắng nghe hai người nói với cô và trả lời những câu hỏi của họ:
- Không thể tin được, tuyệt đối tôi không tin rằng em tôi đã tự sát - cô tuyên bố dứt khoát.
- Thưa cô - Poirot nói - cô có nhận thấy rằng ngoài vấn đề tự tử ra, còn có thể có một giả thuyết khác không?
- Một vụ ám sát?
Cô suy nghĩ trước khi nói thêm:
- Vâng... Và cái giả thuyết ấy cũng hầu như khó tin như cái kia. - Cô nói "hầu như”?
- Vâng, đối với việc tự tử, ông xem, tôi biết. Tôi biết trạng thái tinh thần của em tôi sáng nay như thế nào. Tôi biết rằng không có gì làm cho nó băn khoăn cả. Nó không có một lý do nào hết, để dẫn đến tự tử.
- Cô đã thấy ông ấy sáng nay?
- Vào lúc ăn sáng.
- Ông ấy vẫn như thường ngày? Theo cô, ông ấy có tỏ ra lo lắng không?
- Nó có băn khoăn, nhưng không theo ý nghĩa mà ông hiểu. Chính xác hơn là nó bực bội.
- Tại sao?
- Nó có một buổi sáng hết sức bận rộn, mà cô thư ký kiêm trợ lý lại đi vắng.
- Cô Nevill, phải không?
- Đúng đấy.
- Chức trách của cô Nevill là gì?
- Cô ấy làm văn thư, dĩ nhiên, cô ấy giữ sổ hẹn khách và điền các phiếu của người bệnh. Mặt khác, cô ấy sát trùng các dụng cụ và chuẩn bị các ống nhổ.
- Cô ấy làm việc với ông Morley đã lâu chưa?
- Đã ba năm nay. Đấy là một cô gái trẻ rất có lương tâm và chúng tôi rất mến cô.
- Em cô đã nói với tôi, hẳn là thế - Poirot nói - cô ấy đã được gọi về tỉnh để thăm một người bà con bị ốm?
- Đúng thế. Cô ấy đã nhận được một bức điện tín báo rằng bà cô của cô vừa bị một cơn kịch phát. Cô ấy đã đi Somerset sáng nay, bằng chuyến tàu lửa đầu tiên.
- Và đấy là điều làm cho cậu em của cô bực bội lắm phải không?
- Vâng.
Có một chút ngập ngừng trong câu trả lời. Cô Morley vội vàng nói thêm:
- Ông chớ tin rằng em tôi thiếu tấm lòng. Không... đấy chỉ vì trong một lúc, nó đã tưởng tượng ra rằng...
- Sao?
- Trời ơi! Rằng cô ấy đã bịa cho nó một câu chuyện. Ông hãy hiểu rõ tôi. Tôi chắc rằng nó chẳng liên quan gì. Đấy là một việc mà Gladys sẽ không có khả năng và đấy là điều mà tôi nói với Henry. Cô ấy đã hứa hôn với một thanh niên. Henry cho việc ấy là bực mình. Nó tin chắc rằng người thanh niên đã thuyết phục Gladys kiếm một ngày đi nghỉ.
- Có thể thực thế không?
- Tôi tin là không! Gladys, tôi nhắc lại, là một cô gái có lương tâm.
- Nhưng đề nghị ấy rất có thể là do anh thanh niên đưa ra cho cô ấy phải không?
Cô Morley hít mạnh trước khi trả lời:
- Vâng, rất có thể.
- Và anh thanh niên ấy làm gì? ... Và anh ta tên là gì?.. - Carter, Frank Carter. Anh ta hiện là - đúng hơn là trước đây - là nhân viên của một công ty bảo hiểm. Anh ta bị mất việc đã vài tuần nay và hình như khó có thể tìm được một công việc khác. Henry bảo đấy là một tên vô lại và tôi tin điều đó với lý trí. Gladys đã giao cho anh ta một phần tiền tiết kiệm của cô ấy và em tôi rất phản đối chuyện đó.
- Em cô có thử thuyết phục cô Nevill phá bỏ lễ đính hôn không? - Japp hỏi.
- Thực tế là có.
- Thế thì, cái anh Frank Carter này rất có thể có một lý do nào đấy để giận ông Morley không?
Cô Morley sửa lại thế ngồi cái thân hình cao ngồng của cô: - Nếu ông muốn nói rằng vì thế mà cậu ta đã giết Henry - cô nói - thì điều đó không đứng vững đâu. Em trai tôi đã nhắc cô Gladys cảnh giác đề phòng cậu Carter, nhưng cô ấy đã không chú ý gì đến những lời cảnh cáo của nó. Cô ấy say mê cậu Frank. - Cô có thấy một ai khác có lời trách móc nào đó với cậu em của cô không?
Cô Morley lắc đầu.
- Em trai cô có hợp ý với ông Reilly không?
- Cũng như là người ta có thể hợp ý với một người Ailen - cô Morley trả lời.
- Nghĩa là…?
- Ông cũng biết rằng người Ailen có tính xấu và thích cãi nhau. Ông Reilly thích tranh luận chính trị.
- Chỉ có thế thôi?
- Chỉ có thế. Có nhiều điều cần nói về ông Reilly nhưng về mặt nghề nghiệp, không có gì để chê trách ông ấy cả. Đó chính là điều em tôi khẳng định.
- Có cái gì cần nói đối với cá nhân ông ấy? - Japp hỏi. Cô Morley ngập ngừng một lúc trước khi trả lời:
- Ông ấy uống rượu - cuối cùng cô nói - Nhưng điều này giữ kín trong chúng tôi thôi.
- Về vấn đề này, em cô có điều nhận xét nào đó không? - Vài lời bóng gió, không hơn. Ông hiểu đấy, bàn tay của một nha sĩ không được run và một hơi thở có mùi rượu không gợi lên được sự tin cậy.
Japp gật đầu.
- Chúng tôi có thể tìm hiểu về hoàn cảnh tài chính của em cô không? - Ông nói tiếp sau đó.
- Henry kiếm được nhiều tiền và có tiền để dành, mặt khác, bố chúng tôi để lại cho chúng tôi, hai chị em, một ít lợi tức. Japp húng hắng ho:
- Cô có biết em cô có làm di chúc không?
- Có. Tôi có thể nói với các ông nội dung của nó. Hắn để cho Gladys một trăm livers. Còn nữa là của tôi.
Japp sắp sửa đặt ra một câu hỏi khác, nhưng có người gõ cửa. Ngay sau đấy, cái đầu cửa cậu Alfred đã ló vào chỗ cửa hé mở. - Đấy là cô Nevill - cậu nói - Cô ấy đã trở về. Cô muốn hỏi xem cô có thể tới không…
Cô Morley, sau khi tham khảo Japp bằng mắt, trả lời: - Alfred! Nói với cô ấy rằng chúng tôi đang đợi cô ta. - Rõ! - Người phục vụ nói trước khi bước đi.
Cô Morley thở dài và la lên với sự tin chắc:
- Thằng bé này làm cho tôi điên lên!
- IV -
Cao lớn, tóc hoe, hình dáng khá mảnh khảnh, Gladys Nevill khoảng hai mươi tám tuổi. Người ta cảm thấy cô hay xúc động, nhưng có thể đoán thấy ở cô một cô gái thông minh, mà người sử dụng cô phải coi là của quý.
Lấy cớ để cùng cô xem xét các giấy tờ của Morley, Japp bảo cô xuống văn phòng nhỏ ở sát bên phòng của nha sĩ.
- Tôi không thể tin được điều đó - Cô lặp lại - Theo tôi, thật là khó tin rằng ông Morley đã tự sát.
Cô còn nói thêm rằng cô chắc chắn là ông ấy không có một sự phiền nhiễu đặc biệt nào, một sự lo lắng đáng kể nào trong những ngày trước đó.
- Cô Nevill - Japp nói - hôm nay cô được gọi xuống tỉnh phải
không?...
Cô ngắt lời ông:
- Vâng. Đấy là một chuyện ba láp và tôi thấy thật tệ hại là có những người thích kiểu đùa như vậy.
- Tôi không hiểu cô.
- Rất đơn giản. Cô tôi có đau ốm gì đâu và cô chưa bao giờ khỏe hơn thế. Cô ấy rất ngạc nhiên khi thấy tôi. Tất nhiên là vui lòng... Đối với tôi, tôi giận điên người lên. Bức điện tín ấy đã làm cho tôi lo lắng...
- Cô có thể cho tôi xem bức điện được không?
- Không, vì tôi đã vất nó đi khi từ ga trở về. Nội dung rất ngắn. “Đêm hôm qua, cô của cô có một cơn kịch phát. Tới càng sớm bao nhiêu càng hay”.
Japp hắng giọng và hỏi:
- Bức điện ấy, cô có chắc rằng đấy không phải là do người bạn của cô, ông Carter, gửi không?
- Frank? Tại sao anh ấy lại làm điềuu đó?... Ông nghĩ đấy là một vụ do chúng tôi bố trí ư... Không, thưa ông thanh tra, chúng tôi - cả anh ấy lẫn tôi - không bao giờ làm điều đó.
Sự phẫn nộ của Nevill, hình như thành thực, chống lại những lời nói làm dịu lòng của Japp; nhưng cô đã bình tĩnh trở lại, khi ông hỏi về những nguời bệnh mà Morley đã gặp vào sáng ấy.
- Tên của họ - cô nói - đều có tất cả ở trong sổ hẹn và chắc ông đã xem. Tôi biết họ hầu hết. Vào mười giờ bà Soames. Bà đến vì hàm răng giả của bà. Vào mười giờ rưỡi, Lady Giant. Đây là một bà đã có tuổi, ở Quảng trường Lowndes. Vào mười một giờ, ông Hercule Poirot, ông này đến thường xuyên, nhưng ông đang ở đây, ông Poirot. Tôi xin lỗi ông. Vụ này làm cho tôi ngao ngán quá. Vào mười một giờ rưỡi, ông Alistair Blunt, chủ nhà băng. Tất cả đã sẵn sàng và ông Morley không phải giữ ông này lại lâu... Tiếp sau đó, cô Sainsbury Seale, đã gọi điện thoại để lấy hẹn. Cô ấy đau, hình
như thế, và ông Morley đã sắp xếp để nhận cô vào cuối buổi sáng. Đấy là một người phụ nữ hay làm bộ làm tịch mà những câu chuyện ba hoa không bao giờ hết cả. Đúng giữa trưa ông Amberiotis. Đây là một người bệnh mới, gọi điện thoại từ Savoy. Ông Morley có nhiều khách hàng người nước ngoài, nhất là người Mỹ. Vào lúc mười hai giờ rưỡi, cô Kirby đặc biệt từ Worthing đến...
- Lúc tôi đến - Poirot nói - trong phòng đợi, có một ông có dáng vẻ một cựu quân nhân. Ông ấy có thể là ai?
- Chắc chắn đấy là một người bệnh của ông Reilly. Ông có muốn tôi đi tìm quyển sổ hẹn của ông ấy không?
- Có!
Sau vài phút, cô trở lại, tay cầm một cuốn sổ nhỏ giống sổ của ông Morley.
- Lúc mười giờ - cô vừa nói vừa tra sổ - là Betty Heath. Đấy là một cháu bé gái chín tuổi. Vào mười một giờ, đại tá Abercrombie. - Abercrombie! - Poirot rì rầm - Đúng đấy!
- Vào mười một giờ rưỡi, ông Howard Raikes. Và vào mười hai giờ, ông Barnes. Thế là hết... Tất nhiên, ông Reilly ít công việc hơn ông Morley nhiều.
- Những người bệnh ấy, cô có biết không?
- Đại tá Abercrombie đến từ lâu và tất cả các cháu, con bà Heath, đều do ông Reilly chữa. Tôi không biết gì về ông Raikes và ông Barnes, mặc dù hình như tôi đã nghe tên của họ. Thực thế, tôi liện hệ bằng điện thoại...
- Ông Reilly sẽ nói với chúng tôi về họ. Tôi muốn gặp ông ấy càng sớm càng tốt...
Cô Nevill đi rồi, Japp ngoảnh về phía Poirot.
- Chỉ trừ ông Amberiotis - ông nói - tất cả người bệnh sáng nay đều là bệnh nhân cũ. Tôi có ý nghĩ rằng tôi sẽ có một cuộc đàm thoại lý thú với ông Amberiotis này. Hình như ông ấy là người cuối cùng thấy Morley còn sống và chúng ta cần phải bảo đảm
rằng, lúc ông ấy rút lui rồi, Morley vẫn còn sống.
- Còn lại vấn đề - Poirot nhận xét - động cơ của vụ ám sát. - Tôi biết. Chính điểm đó, tôi tin chắc như vậy, sẽ gây cho chúng ta nhiều phiền nhiễu nhất. Nhưng không phải Sở cảnh sát không biết điều gì đó của ông Amberiotis... Ông đang nghĩ gì thế? - Tôi đang tự hỏi mình...
- Cái gì?
Một nụ cười thoáng hiện trên mặt Poirot.
- Tại sao lại là thanh tra trưởng Japp?
- Ông nói cái gì?
- Tôi nói: “Tại sao lại là thanh tra trưởng Japp?”... Có phải bây giờ người ta giao cho một sĩ quan thuộc cấp bậc và tư cách như ông đi điều tra một vụ tự tử?
- Thực tế - Japp giải thích - là vì tôi đang ở gần đây. Tôi đang điều tra về vụ buôn lậu phát hiện ở Laventham, phố Wingmore. Chính ở đấy, người ta đã cấp báo cho tôi bằng điện thoại. - Nhung tại sao lại là ông?
- Tất nhiên! Vì Alistair Blunt! Ngay khi biết được rằng Blunt đến nhà Morley trong buổi sáng, thanh tra vùng đã báo cho Sở cảnh sát. Ông Blunt thuộc số người mà cảnh sát dành cho một sự bảo vệ kín đáo…
- Bởi vì họ coi như những người khác sẽ không tức giận khi thấy thủ tiêu họ hay sao?
- Ðúng thế. Một số cực tả, để bắt đầu, và cả các bạn nhỏ sơ mi đen của chúng ta. Blunt và nhóm của ông đại điện cho ngành tài chính bảo thủ cũ, và là những người ủng hộ kiên quyết chính phủ hiện tại. Có thể là câu chuyện lôi thôi này che dấu một cái gì đó và vì thế người ta muốn có một cuộc điều tra nghiêm túc...
- Tôi hơi nghi ngờ điều đó - Poirot nói - Và ý kiến cá nhân của tôi là chúng ta đang đứng trước một vụ mà các sự việc không “chạy tốt”. Tôi khá tin rằng nạn nhân phải là ông Alistair Blunt.
Trừ phi là chúng ta đang ở phần đầu của một chiến dịch nào đó... Ông hít mạnh một cách ý vị và nói thêm:
- Ông không thấy điều đó có mùi tiền bạc?
- Ông không tiến lên một chút nào hay sao? - Japp trả lời. - Có lẽ! Nhưng tôi có cảm giác rằng cái ông Morley tội nghiệp này chỉ là một quân cờ trên bàn cờ. Có lẽ ông ta biết điều gì đó, có lẽ ông ta đã nói điều gì đó với Blunt, có lẽ người ta tin rằng ông ta đã có thể nói gì với ông ấy.
Thấy Gladys Nevill trở lại, Poirot ngừng nói.
- Ông Reilly - cô nói - lúc này đang bận nhổ răng. Ông sẽ đến đây trong mấy phút nữa.
- Được! - Japp nói - Trong thời gian đó, chúng ta sẽ gặp lại cậu Alfred.
V
Alfred bị chia xẻ giữa những tình cảm khác nhau. Vụ này, trong tổng thể, làm cho cậu vui thích, nhưng cậu bồn chồn lo lắng và sợ người ta khiển trách cậu về tất cả những điều đã xảy ra. Cậu mới đến làm việc cho ông Morley từ mười lăm ngày nay và trong hai tuần lễ ấy, cậu đã phạm nhiều điều dại dột và đã chuốc lấy nhiều lời quở trách chính đáng, làm cho sự tin cậy của ông chủ vào cậu đã hoàn toàn mất.
- Ông ấy càu cạu - cậu nói, trả lời cho một câu hỏi của Japp - nhưng tôi không bao giờ tin rằng ông ấy sắp tự tử cả. Poirot nói xen vào:
- Cần phải nói cho chúng tôi biết tất cả cái mà cậu có thể nhớ được về những điều đã xảy ra buổi sáng ấy. Cậu là một người làm chứng hết sức quan trọng và cậu có thể có ích cho chúng tôi.
Mặt của cậu thanh niên chuyển sang màu đỏ tía, trong khi ngực cậu ta phồng lên. Cậu ta đã kể lại nhanh chóng với Japp về những sự kiện xẩy ra trong buổi sáng. Bây giờ, cậu ta phát triển thêm. Cậu ý thức được sự quan trọng của mình và điều nhận xét
ấy đã làm vững lòng cậu.
- Tôi sẽ nói với các ông tất cả điều mà tôi biết - cậu trả lời - Các ông cứ đặt cho tôi những câu hỏi...
- Chúng ta hãy bắt đầu bằng sự bắt đầu - Poirot nói - Sáng nay, cậu có nhận thấy điều gì khác thường không?
- Không. Giống như tất cả các buổi sáng khác.
- Có người lạ vào nhà không?
- Không, thưa ông.
- Ngay cả những người bệnh?
- A! Tôi không nghĩ tới họ. Họ đều có hẹn cả, nếu ông biết điều đó. Họ đều có ghi tên.
- Không có ai có thể lén vào nhà hay sao?
- Chắc chắn là không. Cần phải có chìa khóa.
- Dù thế nào đi nữa, người ta có thể đi mà không ai để ý chứ. - Điều đó đúng. Chỉ cần xoay núm cửa ngoảnh ra đường là người ta đi mất. Như tôi đã nói, hầu hết tất cả người bệnh không phải dẫn trở ra. Thường thường, tôi thấy họ đi xuống cầu thang trong khi tôi dẫn một người khác ra thang máy...
- Được… Nói cho chúng tôi biết về những người bệnh sáng hôm ấy... Nếu cậu không nhớ tên của họ thì cứ tả hình dáng cũng được. Alfred suy nghĩ một phút trước khi bắt đầu.
- Trước hết - cậu nói - có một bà, với một cháu gái đến chỗ ông Reilly, và một bà Soap hoặc một cái tên như thế đến chỗ ông Morley.
- Rất tốt.
- Rồi có một bà già, hơi huênh hoang đến bằng xe Daimler. Khi bà này đi, thì có một ông to lớn giống một sĩ quan mặc thường phục và gần như ngay sau đó, là ông...
- Đúng - Poirot nói.
- Sau đó, có một người Mỹ...
- Người Mỹ? - Japp hỏi.
- Vâng, thưa ông. Một thanh niên. Đấy đúng là một người Mỹ, qua cách nghe giọng nói của ông ta. Ông ấy đến sớm. Ông được hẹn vào mười một giờ rưỡi. Và thật lạ là ông ta đã không chờ. - Tại sao thế?
- Đấy, như điều mà tôi đã nói với ông. Tôi đi gọi ông ta, khi ông Reilly báo chuông cho tôi vào mười một giờ rưỡi, đúng hơn là mười hai giờ kém hai mươi - thì ông ta không còn ở đấy nữa. Chắc chắn là ông ấy đã mất kiên nhẫn và bỏ đi...
- Thế thì - Poirot nói - ông ấy đã phải đi ra sát sau tôi? - Vâng, thưa ông. Khi ông đi ra, tôi vừa dẫn lên phía trên, một ông đến bằng xe Rolls. Và xin lỗi, đấy là xe của ông Blunt! Đã mười một giờ rưỡi. Khi trở xuống lại, tôi đã đưa ông ấy ra cửa và tôi đưa một bà vào. Cô Some Berry Seal, hoặc cái tên gì đó giống như thế. Lúc đó, tôi quành vào bếp để kiếm miếng gì ăn, khi tôi đến đấy được hai phút thì hiệu báo của ông Reilly réo lên. Tôi lại trèo lên và như tôi đã nói với ông, người Mỹ ấy đã đi rồi. Tôi nói điều đó với ông Reilly... và ông ấy đã chửi rủa hết lời như thường xảy ra. - Nối tiếp đi - Poirot bảo - Cái gì đã xảy ra sau đó?... Chúng ta hãy xem qua…
- A! Đúng rồi!... Ông Morley gọi... Lần này là cô Seal... Tôi đã tìm cô ấy. Ông Blunt xuống cầu thang vào lúc tôi đang ở trong thang máy với cô này; điều cực khó tả. Khi tôi xuống lại, thì có hai ông đến. Có một ông người bé nhỏ có giọng nói the thé, đến chỗ ông Reilly. Ông kia, tôi đã đưa ông ấy đến chỗ ông Reilly ngay sau khi ông đến.
- Và người ngoại quốc ấy, ông Amberiotis - Japp hỏi - cậu có thấy ông ấy đi ra không?
- Không, thưa ông. Ông ấy đi ra một mình, chắc chắn như vậy! Như ông kia, mà tôi cũng không thấy ra...
- Từ chính trưa trở đi, cậu ở đâu?
- Thưa ông, ngồi trong thang máy. Chính ở đây mà tôi chờ
người ta bấm chuông ở cửa vào hoặc người ta gọi tôi bằng các hiệu báo.
- Và tôi giả thiết rằng - Poirot nói - cậu đang đọc?
Alfred đỏ mặt.
- Không có hại gì cho điều đó cả - Cậu trả lời - Không giống như, nếu tôi làm việc khác.
- Tất nhiên - Poirot nói - Cậu đọc cái gì?
- Một cuốn tiểu thuyết trinh thám Mỹ, thưa ông. Cái chết xẩy ra lúc 11giờ 45. Một mánh khóe tuyệt vời. Đồng bọn Gangxtơ... Poirot mỉm cười và đặt ra một câu hỏi mới:
- Nếu người ta đã đóng cửa lại, thì cậu ở đâu, cậu có nghe thấy không?
- Nếu ai đó đi ra?... Điều đó, tôi không tin! Có lẽ tôi nghe thấy, nhưng không chú ý tới! Ông hiểu đấy, cái thang máy ở vào chỗ trong cùng của đại sảnh, chỗ rẽ của hành lang. Chính cái chuông báo vào và các hiệu báo là ở đây.
- Rồi sau đó? - Japp hỏi.
Alfred nhăn trán, cố gắng nhớ lại những ký ức của mình. - Chỉ còn lại - cậu nói - một bà cuối cùng là cô Shirty. Tôi theo dõi cái hiệu báo của ông Morley nó không bao giờ ở màu trắng cả và tôi thật lòng nói với ông rằng tới một giờ, cái bà phải chờ mãi bắt đầu khó chịu…
- Cậu có ý trở lên hỏi ông Morley xem ông có quên bà ấy không ?
Alfred gật đầu mạnh mẽ vì sáng kiến ấy đã chứa đựng những sự rủi ro.
- Ông nhớ rằng tôi đã hết sức tránh điều đó - Cậu kêu lên - Trước hết, ông kia phải luôn luôn ở trên kia. Và tiếp sau, tôi phải chờ ông chủ gọi tôi. Tất nhiên, nếu tôi biết ông ấy đã tự tử... Cậu lắc đầu buồn bã.
- Cái hiệu báo, reo lên trước hay sau khi các người bệnh đi rồi?
- Poirot hỏi.
- Cũng tùy! Trong phần nhiều trường hợp, khi chuông réo, người bệnh đang xuống cầu thang. Khi ông ta gọi thang máy, thường thường nó chuyển động trong khi đi xuống. Nhưng tất cả điều đó đã thay đổi. Ông Morley thường chờ hai đến ba phút trước khi gọi người bệnh tiếp theo, nhưng khi ông ấy vội, thì người kia chưa ra khỏi phòng, ông đã bấm chuông gọi tới...
Tất cả im lặng, rồi Poirot hỏi người phục vụ trẻ xem cái chết của ông chủ có làm cho cậu ngạc nhiên không.
- Ông có thể nói rằng tôi đã ở lại phía sau - Alfred trả lời - Theo tôi, hình như ông ấy không có một lý do nào để tự sát cả. Một ý nghĩ bỗng nhiên đập mạnh vào cậu ta. Tròn xoe mắt, cậu nói thêm:
- Hay là, người ta đã giết ông ấy?
Poirot trả lời, không để cho Japp có thời gian nói:
- Điều đó làm cậu sửng sốt hay sao?
- Nói thực, thưa ông, tôi không biết nhiều. Tôi không thấy ai có thể muốn giết ông Morley cả. Đấy là một người rất... rất tầm thường. Ông thực sự tin rằng người ta đã giết ông ấy hay sao?
- Chúng ta phải dự tính tất cả mọi khả năng - Poirot trịnh trọng nói - nên hồi nãy tôi đã báo cho cậu biết rằng cậu là một nhân chứng rất quan trọng và cậu phải cố gắng nhớ lại một cách rất chính xác tất cả những cái gì đã xảy ra sáng nay.
Khuôn mặt căng thẳng của cậu thanh niên đã cho thấy rõ thiện ý của cậu ta.
- Thực tế - cuối cùng cậu nói - tôi không thấy gì khác. Giọng nói đầy bi thảm.
- Cảm ơn cậu Alfred. Cậu chắc chắn rằng trừ những người bệnh ra, không ai vào trong nhà sáng nay?
- Không có một người lạ nào, thưa ông, tôi xin bảo đảm. Dĩ nhiên, tôi không nói tới người bạn trai của cô Nevill, đã đi qua và
đã làm khá ầm ỹ, khi anh ấy không thấy cô ta ở đấy. - Anh ấy đến vào lúc nào? - Japp hỏi.
- Sau chính trưa một chút. Khi tôi bảo cô Nevill vắng mặt cả ngày, anh ta có vẻ sững sờ và nói là anh ta sẽ chờ để gặp ông Morley. Tôi đã trả lời là ông chủ sẽ bận đến giờ ăn trưa, nhưng anh ta đã nói: "Không hề gì! Tôi sẽ chờ".
Rồi Alfred bỗng sững sờ:
- Chà! - Cậu kêu lên - Tôi không nghĩ đến điều đó. Anh ta vào trong phòng đợi, nhưng đã không còn ở đấy nữa, khi tôi trở lại. Chắc là anh ta đã bỏ đi vì đã chán việc chờ đợi, rồi tự nhủ rằng mình sẽ trở lại sau…
VI
- Ông tin rằng ông đã làm được việc nói lên khả năng về một vụ giết người trước chàng trai này chăng? - Japp hỏi Poirot, sau khi Alfred đi rồi.
- Tôi tin là như vậy - Poirot trả lời - Ý nghĩ đó sẽ tác động đến trí nhớ của cậu ta như một chất kích thích và những sự việc mà cậu ta có thể đã thấy hoặc đã nghe có lẽ sẽ trở lại trong trí óc cậu. Mặt khác cậu ta sẽ chú ý nhìn những điều có thể đã xảy ra ở trong nhà...
- Tôi muốn điều đó - Japp thừa nhận - Vả chăng, không mong muốn người ta nói đến vụ ám sát quá sớm...
- Ông bạn thân mến ơi, ý kiến của Alfred không ích lợi cho ai cả. Cậu ta đọc tiểu thuyết trinh thám, cậu chỉ nghĩ đến các tội ác và những kẻ phạm tội và tất cả những điều mà cậu ta có thể nói sẽ bị đổ lỗi cho trí tưởng tượng quá mức của cậu…
- Có lẽ ông có lý - Japp nói - Chúng ta đi gặp Reilly đi, có thể ông ấy có điều gì đó để nói với chứng ta.
* * *
Nằm ở tầng hai, phòng của ông Reilly cũng rộng như phòng của ông Morley, nhưng kém sáng hơn và trang bị đồ đạc ít xa xỉ
hơn.
Người cộng tác của ông Morley là một thanh niên to lớn tóc nâu, một mớ tóc rủ xuống trán. Reilly có con mắt sắc sảo và giọng nói dễ chịu.
- Ông Reilly, chúng tôi hi vọng rằng ông có thể phát ra một ánh sáng nào đó vào vụ này - Japp tuyên bố, sau khi đã giới thiệu xong.
- Tôi rất sợ làm thất vọng các ông - Reilly trả lời - Cái điều duy nhất mà tôi có thể nói là vụ tự tử của Henry Morley là một điều không thể tưởng tượng được! Nếu tôi thì có lý hơn. - Ông có những lý do để tự sát ư? - Poirot hỏi.
- Vâng, vì tôi không thiếu những điều bực bội. Bắt đầu bằng những chuyện buồn phiền về tiền bạc. Tôi không bao giờ cân đối được giữa chi và thu. Morley là một người biết sắp xếp. Mặt tài chính của ông thì tuyệt vời. Các ông sẽ không tìm thấy các món nợ ở ông ấy đâu.
- Có nỗi buồn và tình yêu thì sao? - Japp gợi ý.
- Không bao giờ. Ông ấy không biết lợi dụng cuộc sống. Ông ấy thường lệ thuộc hoàn toàn vào bà chị.
Japp yêu cầu Reilly nói về những người bệnh mà ông đã gặp trong buổi sáng.
- Tất cả đều là những người rất tốt - Reilly trả lời - Cháu bé gái Betty Heath là một cháu bé dễ thương mà tôi đã chữa cho cả gia đình. Đại tá Abercrombie, ông ấy cũng vậy, là một trong những người quen biết cũ của tôi.
- Và ông Howard Raikes?
Reilly nhăn mặt.
- Có phải cái ông đã bỏ đi trước đây không? Tôi chưa bao giờ nghe nói tới nên không biết gì về ông ta cả. Ông ấy hẹn với tôi qua điện thoại, nằn nì tôi nhận vào sáng nay.
- Ông ấy đã gọi ông từ đâu?
- Từ khách sạn Holborn Palace. Tôi tin rằng đấy là một người Mỹ.
- Đấy là ý kiến của Alfred.
- Cậu ấy phải biết ông ta! Cậu ấy suốt ngày chui vào chiếu bóng. - Người bệnh khác là ông Barnes, phải không?
- Vâng. Đây là một con người nhỏ bé, tỉ mỉ, làm cho tôi vui lắm. Một quan chức về hưu, sống ở phía Ealing.
Japp hỏi cảm tưởng của Reilly về cô Nevill. Nha sĩ cười: - Cô thư ký tóc hoe và đẹp? - Ông nói - Ông sẽ phí thì giờ nếu ông tìm về phía đó. Quan hệ của cô ấy với Morley là đứng đắn, không chê trách vào đâu được, tôi tin chắc vào điều đó. - Nhưng - Japp đáp lại, má hơi hồng đỏ - tôi không bao giờ khẳng định điều ngược lại.
Reilly xin lỗi.
- Tôi nghĩ rằng - ông ta giải thích - ông nghĩ tới câu ngạn ngữ cũ của Pháp: "Hãy tìm người đàn bà".
Ông ta đọc những từ này bằng tiếng Pháp.
- Ông Poirot, xin ông tha lỗi cho tôi là đã diễn đạt bằng ngôn ngữ của ông - ông nói thêm - Tôi có một cái giọng tốt, phải không? Tôi biết tiếng Pháp là nhờ các nhà tôn giáo, những người đã nuôi tôi…
Japp, mà sự bông lơn đã bắt đầu làm mếch lòng, cuối cùng phải đặt ra một câu hỏi với giọng cụt ngủn:
- Ông có biết người chồng chưa cưới của cô Nevill không? Một anh chàng Frank Carter nào đó, nếu tôi không nhầm... - Morley không nghĩ tốt lắm về anh chàng ấy - Reilly trả lời - Ông ta đã khuyên cô Nevill đừng gặp anh ta nữa.
- Có tin rằng anh Carter đã khá khó chịu về sự can thiệp đó không?
- Rất có thể.
Luôn luôn mỉm cười, Reilly nói thêm, sau một lúc im lặng:
- Tôi xin lỗi ông, nhưng ông điều tra về một vụ tự tử hay một vụ giết nguời?
Japp trả lời tức khắc:
- Nếu đấy là một vụ ám sát, ông có tìm được một sự giải thích không?
- Chắc chắn là không - Reilly nói to lên với thái độ vui vẻ - Theo tôi, sẽ không làm cho tôi ngạc nhiên nếu kẻ giết người là Georgina, một người đàn bà u sầu, ám ảnh bởi ý nghĩ rằng mọi người uống quá nhiều rượu, nhưng ở cô này có quá nhiều tình cảm tốt đẹp để có thể giữ lại giả thuyết ấy. Tất nhiên tôi có thể trèo lên phòng của Morley và giết ông ta, nhưng tôi đã không làm điều đó... và tôi không tưởng tượng được rằng ai đó muốn giết ông ấy. Thực tế là tôi càng không thể có ý nghĩ là ông ấy tự sát.
Bằng một giọng rất khác, ông nói thêm:
- Thực tế cái chết của ông ấy đã gây cho tôi nhiều sự khó khăn. Xin ông chớ đánh giá tôi ở bề ngoài. Tôi hơi căng thẳng thần kinh... thực ra, tôi yêu ông Morley, và tôi sẽ thiếu ông ta. VI
Japp treo ống nghe lên và ngoảnh cái mặt ngao ngán về phía Poirot.
- Ông Amberiotis, không biết gì lắm - ông nói - ông ấy không muốn tiếp ai chiều nay cả.
Rồi ông nói thêm:
- Này! Ông ấy sẽ vẫn phải gặp tôi... ông ấy có sai lầm là tưởng rằng ông ấy có thể phớt lờ tôi. Tôi có một người ở Savoy, sẽ theo dõi ông ấy, nếu ông ấy muốn dở trò với chúng ta.
- Ông tin rằng ông ấy đã giết Morley?
- Tôi chưa tin gì cả. Nhưng ông ấy là người cuối cùng đã thấy ông kia còn sống và ông ấy trước đây chưa bao giờ tới nhà ông kia cả. Theo lời ông ấy, ông ấy đã từ giã Morley vào lúc mười hai giờ hai mười lăm. Morley còn sống, ông nói, và hẳn là khỏe mạnh. Có
thể đấy là có thực và điều ngược lại cũng có thể có. Nếu, vào lúc đó, Morley khỏe mạnh, thì chúng ta cần phải chứng minh điều đã xảy ra sau đó. Còn có năm phút để chạy đua trước cuộc hẹn tiếp theo. Trong năm phút ấy, người nào đó đã đến thăm ông ấy? Carter hoặc Reilly, chẳng hạn? Cần phải xem xét thật sát. Vì câu trả lời sẽ cho hoặc không cho phép chúng ta khẳng định rằng vào mười hai giờ rưỡi hoặc chậm nhất là vào một giờ kém hai mươi lăm, Morley đã chết. Điều mà tôi tin. Nếu không, ông ấy sẽ báo cho Alfred bằng cái điện báo, hoặc để cho cô Kirby lên hoặc sẽ báo cho cô biết rằng ông không thể tiếp nhận cô. Không, hoặc là người ta đã giết ông ấy, hoặc ai đó dã nói cái gì đó, bắt ông phải quyết định tự sát …
Ông liếc nhìn đồng hồ và nói tiếp:
- Tôi sẽ đi gặp tất cả những người mà Morley đã hẹn sáng nay. Có thể ông ấy đã nói với một trong những người đó một câu, câu đó sẽ cho chúng ta phương hướng tốt. Alistair Blunt đã cho tôi biết rằng ông ta có thể dành cho tôi vài phút vào bốn giờ mười lăm. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng ông này. Tiếp theo, chúng ta sẽ có thể gặp cái cô Sainsbury Seale ấy, rồi đến Amberiotis, mà tôi chỉ muốn thuyết phục, khi tôi đã tập hợp được vài điều chỉ dẫn. Chúng ta sẽ kết thúc bằng ông người Mỹ ấy, người mà theo ông nói, có bộ mặt của một kẻ giết người.
Poirot mỉm cười và sửa lại.
- Sau khi suy nghĩ kỹ, ông ấy có chủ yếu là cái bộ mặt của một người đau răng.
- Kẻ giết người hoặc người tử vì đạo - Japp đáp lại - Ông Raikes gây hứng thú cho tôi. Cách ăn ở của ông ấy là kỳ cục, ít ra cũng có thể nói như thế... Vả chăng, tôi cũng muốn tìm hiểu tình hình qua bức điện mà cô Nevill nhận được; qua người chồng chưa cưới của cô… Nói tóm lại qua tất cả mọi người.
VIII
Alistair Blunt là người mà đại chúng ít biết đến. Ít là vì ông sống một cuộc sống yên lặng và ẩn dật, nhưng nhất là vì, trong nhiều năm, ông ấy đã là một ông quận công hơn là một ông vua.
Rebecca Sanserato thuộc giống họ Arnholt, lúc bé đến London, là một người đàn bà đã bốn mươi lăm tuổi, mà cuộc sống đã làm cho bà thất vọng hết sức. Bà thuộc dòng quý tộc Tiền bạc. Mẹ bà là một người thuộc dòng họ Rotherstein, cha bà điều khiển ngân hàng mang tên ông, là một ngân hàng lớn nhất ở Hoa Kỳ. Hai anh bà và một người anh họ đã chết trong một tai nạn máy bay. Rebecca đã thừa kế một gia sản rất lớn. Ít lâu sau ở châu Âu, Hoàng tử Felipe di Sanseverato, một tên đểu cáng có chức tước, mà phẩm hạnh xấu là người đã làm cho bà rất khổ sở. Việc ly hôn đã xảy ra từ năm thứ ba sau khi cưới.
Rebecca tự phải trông coi người con gái nhỏ sinh ra từ cuộc hôn nhân của họ. Đứa bé chết. Lúc đó người thiếu phụ quyết định chuyên tâm vào công việc làm ăn. Bà có nghề làm tài chính ở trong máu. Bà liên kết với bố mình và khi ông chết, thực tế bà thừa kế, đứng đầu mạng lưới các "cổ phần" mà ông trị vì khi còn sống. Bà đến ở London, và tại Claridge nơi bà ở, bà đã nhận một trong những người cộng tác trẻ của ngân hàng London, người phải đưa cho bà nhiều tài liệu khác nhau. Sáu tháng sau, mọi người được biết một cách sửng sốt rằng Rebecca Sanseverato lấy Alistair Blunt, một người kém bà những hai mươi tuổi.
Người ta đoán là có những lời diễu cợt. Các bạn gái của bà đã tuyên bố rằng Rebecca đã lú lẫn khi bà yêu. Bà đã chứng tỏ điều đó lần đầu tiên với Sanswerato, sau đó bà lại bắt đầu với anh chàng Blunt trẻ tuổi. Tất nhiên, anh này chỉ vì tiền của bà thôi, và bà sẽ đi tới một thảm họa mới.
Không có gì xảy ra cả. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, bà Rebecca sống hạnh phúc với người chồng thứ hai. Người nào nói rằng Blunt đã phung phí của cải của vợ ông thì họ đã nhầm. Ông
yêu Rebecca và trung thành với bà. Mười năm sau khi vợ chết, ông vẫn không lấy vợ khác. Tài làm ăn của ông ta không kém tài làm ăn của bà vợ đã mất. Ông đã không bao giờ nhầm lẫn trong những sự phán đoán cũng như những dự kiến. Sự liêm khiết của ông ta là điển hình và với một sự khéo léo khác thường ông đã quản lý được những khoản lợi tức kếch sù mà các tập đoàn Arnholt và Rothnstein đại diện.
Blunt ít đi ra ngoài và sống giản dị, hầu như chỉ rời khỏi ngôi nhà ở London, một ngôi nhà tuyệt đẹp ở khu vực Chelsea Emhankmout, để đi chơi vài ngày với vài người bạn trong một ngôi nhà ở nông thôn, lúc thì ở Kent, lúc thì ở Norfolk. Ông thích chơi đánh gôn, nhưng chơi kém, và quan tâm đến nghệ thuật làm vườn.
Thanh tra trưởng Japp và Hercule Poirot được đưa vào trong một phòng khách lộng lẫy và tiện nghi, nơi mà Alistair Blunt đến gặp họ ngay sau đó.
Japp giới thiệu bạn mình.
- Tôi biết thanh danh ông, ông Poirot - Blunt nói - nhưng hình như tôi đã gặp ông ở đâu đó, cách đây không lâu lắm. - Đừng tìm kiếm - Poirot trả lời - Chính là sáng nay ở trong phòng chờ của ông Morley đáng thương.
- Quả thế! - Blunt kêu lên - Tôi biết rằng tôi đã gặp ông. Ông ấy ngoảnh về phía Japp.
- Tôi có thể giúp ích gì cho ông? - Ông ta hỏi - Tôi lấy làm ngao ngán khi nghe tin Morley chết.
- Và ngạc nhiên?
- Rất ngạc nhiên! Hẳn là, tôi ít biết ông ấy, nhưng theo tôi, ông ấy tỏ ra không phải là con người để tự sát.
- Sáng nay, ông vẫn thấy ông ấy khỏe mạnh và vui vẻ phải không?
- Trời ơi, đúng thế.
Nở một nụ cười, Alistair Blunt nói thêm:
- Nếu cần nói với ông tất cả sự thật, thì tôi thú nhận với ông rằng tôi sợ kinh khủng nha sĩ và cái khoan răng ghê tởm mà ông ấy đưa đi đưa lại ở chỗ trong cùng của răng. Cho nên, khi tôi vào trong phòng của ông ấy, tôi không chú ý gì mấy. Nhưng khi xong rồi, khi tôi sắp rút lui được, thì lại khác. Không, tôi nhắc lại với ông, sáng nay, Morley luôn luôn giống như trước đây. Dễ chịu và khẩn trương...
- Trước đây, ông có thường gặp ông ấy không?
- Đây là lần thứ ba hoặc thứ tư. Cho đến năm ngoái, tôi chưa có những điều phiền toái với những cái răng của tôi.
- Ai đã giới thiệu ông Morley với ông? - Poirot hỏi.
Blunt chau mày, cố gắng nhớ lại.
- À, khi tôi có một chiếc răng làm tôi lo lắng, thì một người nào đó đã nói với tôi rằng, ông Morley ở đường Hoàng hậu Charlotte là một nha sĩ lỗi lạc. Nhưng có điều là tôi không thể nói rằng ai... Tôi lấy làm tiếc.
- Nếu ông nhớ ra tên của người đó - Poirot nói - thì mong ông vui lòng cho tôi biết được không?
Alistair Blunt nhìn Poirot với vẻ ngạc nhiên.
- Tôi sẽ không quên - ông trả lời - chi tiết này có lợi ích gì? - Có thể - Poirot nói - Tôi nghĩ rằng nó có thể rất quan trọng. Japp và Poirot rời khỏi nhà của nhà tài chính, đi xuống thềm,
đứng lúc một xe ôtô dừng lại bên vỉa hè. Đấy là một chiếc xe thể thao do một người thiếu phụ lái, cô này đã phải làm một cuộc thể dục cần cù và đáng khen để ra khỏi xe một cách khó khăn. Hai người đã đi xa. Khi cuối cùng cô buộc phải lên tiếng nhờ vả. Cô gọi họ bằng một tiếng "Này" inh ỏi.
Họ cứ tiếp tục di, không tưởng tượng được rằng đấy là tiếng cô gọi họ. Cô lại gọi.
Lần này, họ dừng lại và quay lại nhìn. Cô gái đi tới trước họ.
Cao lớn, mảnh khảnh, tóc màu nâu, da rám nắng, cô có một khuôn mặt không đẹp, nhưng thông minh và có nghị lực. - Tôi biết ông - cô nói với Poirot - Ông là Hercule Poirot, nhà thám tử.
Giọng nói của cô nghiêm trang và ấm, với chút ít giọng Mỹ. Poirot nghiêng mình một cách lịch sự và trả lời câu hỏi của cô gái, ông giới thiệu thanh tra.
Cô mở to mắt, mà ở đấy Poirot tin là nhận thấy được sự sợ sệt và cô hỏi bằng một giọng tức thở:
- Các ông đến làm gì ở đây?... Tôi hi vọng... rằng không có gì xẩy đến cho chú Alistair?
- Tại sao cô lại nghĩ rằng có thể xẩy đến cho ông ấy việc gì đó? - Poirot nói mạnh mẽ.
- Không có gì đã xảy ra cho chú ấy? Tất cả đều tốt? Japp đặt lại câu hỏi của Poirot theo ý ông:
- Tại sao, cô?...
Cô nói, gần như một cái máy:
- Olivera, Jane Olivera.
- Tại sao, cô Olivera, cô nghĩ rằng có thể đã xảy ra điều gì đó cho ông Blunt ?
Cô cười một nụ cười có vẻ giả dối và trả lời:
- Khi người ta gặp những người cảnh sát trên ngưỡng cửa cửa một ngôi nhà, mặc dù không muốn, người ta tự nói rằng có những quả bom ở trong kho thóc... Chính chú tôi đã bảo gọi các ông?
Câu hỏi là để hỏi Poirot, nhưng Japp đã trả lời.
- Không phải. Chính chúng tôi đã muốn gặp ông ấy. Về vấn đê một vụ tự tử đã xảy ra sáng nay.
- Một vụ tự tử?
- Vâng. Vụ tự tử của ông Morley, nha sĩ, ở 58 đường Hoàng hậu Charlotte.
Mặt cô đã tái xanh. Cô đứng im một vài giây, nhìn thẳng trước mặt cô, lo lắng, rồi cô nói, một cách bất ngờ.
- Nhưng thật là ngớ ngẩn!
Rồi, quay gót đột ngột, cô bỏ đi không câu nệ, leo lên thềm, vừa leo vừa chạy và vào trong nhà mà cô có chìa khóa. Japp rất ngạc nhiên, nhìn sự rút lui ấy giống như một sự chạy trốn.
- Một phản ứng lạ lùng - cuối cùng ông nói.
- Lạ lùng - Poirot nói - nhưng cũng lý thú.
Japp thở phì phì, nhìn đồng hồ và gọi một chiếc taxi đi qua. IX
Cô Sainsbury Seale ngồi uống chè trong phòng lớn được thắp sáng dịu của khách sạn Glengowrie Court.
Sự xuất hiện một sĩ quan cảnh sát mặc đồng phục khuấy động cô chút ít, nhưng không làm cô bực mình. Poirot nhận thấy một cách buồn phiền rằng cái vòng ở một chiếc giầy của cô ta luôn luôn thiếu.
- Thực ra, thưa ông sĩ quan - cô nói với giọng êm dịu vừa đưa mắt nhìn quanh cô - tôi không biết chúng ta sẽ ngồi ở đâu cho yên lặng. Đấy là giờ uống chè rồi, phải không? Sự thực, tôi muốn mời ông và... bạn ông một chén chè được không?
- Không, xin cảm ơn cô - Japp nói - Tôi xin giới thiệu với cô ông Hercule Poirot.
- Thực là ông không muốn vui lòng nhận một chén chè? Thế thì, chúng ta sẽ có thể đến phòng khách, mặc dù vào giờ này, ở đấy thường lắm khách... Này, trong góc nhỏ ở phía kia. Người ta đang đi ra…
Nơi ấy, một ô nhỏ hình bốn cạnh lùi vào hình như tương đối yên tĩnh. Đi qua trước mặt họ, cô chỉ đường cho hai người. Trên đường đi, Poirot nhặt lấy một cái đai và một cái khăn mùi xoa mà cô đánh rơi và ông đưa lại cho cô khi cô ngồi xuống.
- Xin cảm ơn, và mong ông thứ lỗi cho - cô nói - Tôi mất trật tự lắm. Và bây giờ, ông thanh tra - hoặc đúng hơn, ông thanh tra trưởng, phải thế không? Tôi đề nghị ông đặt cho tôi những câu hỏi mà ông muốn. Cái vụ này thảm hại lắm. Cái ông Morley đáng thương ấy. Tôi giả thiết rằng có cái gì đó đã làm cho ông ta bứt rứt. Chúng ta đang sống trong những giờ phút khó khăn quá.
- Cô Sainsbury Seale, sáng nay, cô thấy ông ấy có vẻ lo lắng phải không?
Cô nghĩ một lúc.
- Trời ơi - cuối cùng cô nói - tôi không khẳng định như thế nào về điều đó. Tôi không thể nhận xét bất kỳ một cái gì cả. Tôi chưa bao giờ nổi bật khi vào trong phòng của một nha sĩ.
Cô cười rúc rích, và làm duyên, cô lấy bàn tay vỗ vỗ vào những món tóc xoăn của mình mà Poirot vừa nhận thấy rằng chúng giống như những tổ quạ.
- Cô có thể nói cho biết - Japp yêu cầu - những người nào đã có mặt cùng cô ở trong phòng đợi?
- Này... Khi tôi đến, đã có một người thanh niên ở đấy. Anh ấy phải đau kinh khủng, vì tôi không biết anh ấy nói rì rầm gì ở trong miệng. Anh ấy có vẻ dằn lòng một cách vất vả và bằng một ngón tay bồn chồn anh lật các trang của một cuốn tạp chí mà hình như anh ta không có thể đọc. Đột nhiên, anh ta đứng phắt dậy và đi ra.. Vâng, anh ta phải đau thực sự.
- Cô có biết anh ta đi đâu không? Anh ta có rời ngôi nhà không? - Tôi không có một ý niệm nào cả. Tôi nghĩ rằng anh ta tự bảo rằng anh ta không thể chờ lâu hơn nữa và anh ta phải gặp nha sĩ ngay tức khắc. Nhưng không phải anh ta đi tìm ông Morley vì chỉ vài phút sau khi anh ta đã đi ra, người phục vụ tới tìm tôi để đưa tôi vào buồng của ông Morley.
- Cô có trở lại phòng đợi trước khi về không?
- Không. Tôi đã sửa lại tóc và đội lại mũ ngay ở trong phòng
của ông Morley. Tôi biết rằng có những bà bỏ mũ lại trong phòng đợi, nhưng tôi chưa bao giờ làm điều đó. Một trong những bà bạn của tôi, có thói quen đáng tiếc ấy, nên có hôm, đã tìm thấy lại mũ của mình trong một tình trạng thảm hại. Ai đó, chắc chắn là một đứa bé, đã ngồi lên trên đó. Và đấy là một chiếc mũ mới.
- Một thảm họa thực sự - Poirot nói lịch sự.
- Chính bà mẹ mới là đáng trách - cô Sainsbury nói tiếp - Cần phải giám sát con. Chúng không có ý xấu. Chỉ có điều là người ta không chú ý đến điều mà chúng làm...
Japp đưa câu chuyện đến chủ đề mà mình quan tâm. - Người thanh niên đau ấy - ông hỏi - là người bệnh duy nhất mà cô đã chú ý trong quá trình đi khám bệnh?
- Vâng. Trừ cái ông đi xuống các bậc thềm đúng vào lúc tôi đến. Ông ta bỏ đi. Đấy là một ông có dáng đi kỳ cục, có vẻ là một người nước ngoài.
Japp húng hắng ho.
- Đấy là tôi - Poirot nói với giọng rất đường hoàng.
- Trời ơi! - Cô Sainsbury Seale kêu lên, vừa nhìn chòng chọc vào con người nhỏ bé - Xin ông thứ lỗi cho tôi. Tôi bị cận thị nhiều và trong tầng trệt này rất tối. Tôi có một trí nhớ về diện mạo rất tốt, nhưng phải thú nhận rằng ở đây tôi không thấy gì hết. Xin ông đừng có giận tôi.
Sau khi Poirot trấn an cô Sainsbury Seale, Japp hỏi một câu hỏi mới.
- Thưa cô, cô có chắc rằng trước mặt cô, ông Morley đã không nói bóng gió đến một cuộc nói chuyện chán ngắt mà ông phải có trong buổi sáng ấy.
- Tuyệt đối chắc.
- Ông ấy đã không nói với cô về một người bệnh tên là Amberiotis?
- Không. Ông ấy chỉ nói những từ mà các nha sĩ bắt buộc phải
nói khi họ săn sóc người bệnh.
Những câu nói ngắn ấy, Poirot đã nghe: "Đề nghị ông vào súc miệng. Há miệng rộng thêm một chút. Tôi không làm ông đau". Nhưng Japp đã thông báo cho cô Sainsbury Seale biết chắc chắn là cô phải làm bản khai cho một cuộc điều tra. Cô đã tỏ ra quen với ý nghĩ này, ý nghĩ trước hết đã làm cho cô lo sợ. Một câu hỏi của Japp sau đó đã đưa cô đến chỗ kể ra lịch sử của đời mình. Từ Ấn Độ trở về sớm hơn sáu tháng, sau khi đã ở trong nhiều khách sạn khác nhau và thử nhiều quán trọ, cô đã ở hẳn tại khách sạn Glengowrie Court mà không khí gia đình ở đây làm cho cô thích. Ở Ấn Độ, chủ yếu cô đã sống ở Cancutta, làm việc cho nhiều công cuộc truyền giảng và cũng cho những bài đọc. - Nói tiếng Anh rất thuần, không pha trộn và phát âm một cách không chê vào đâu được, đấy, theo tôi, là một việc chính - cô giải thích, vẻ vênh váo - Tôi phải nói rằng, khi còn trẻ, tôi làm ở rạp hát. Tôi chỉ đóng những vai nhỏ trên sân khấu tỉnh lẻ, nhưng tôi có những tham vọng lớn. Tôi thích diễn những vở cổ điển. Cuối cùng tôi thực hiện một chuyến vòng quanh thế giới: Shakespeare, Bernard Show...
Sau một tiếng thở dài cố ý, cô tiếp tục:
- Với chúng tôi, những người phụ nữ đáng thương, cái tai họa chính là quá tin. Chúng tôi phó mặc cho nó. Tôi đã lấy chồng, không suy nghĩ, chúng tôi ly hôn hầu như ngay sau đó. Tôi đã thất vọng hết sức. Tôi dã lấy lại tên hồi con gái cửa mình, và chính khi đó, nhờ vào số vốn mà một người bạn đã giúp cho, tôi đã mở một lớp dạy cách đọc. Tôi đã góp phần mạnh mẽ vào việc tạo ra một đoàn tuyệt vời gồm những diễn viên hài kịch tài tử. Tôi cần phải đưa cho ông xem những bản chỉ dẫn...
Japp biết có nguy hiểm. Ông tuyên bố từ giã.
Khi ông từ biệt, cô Sainsbury Seale lưu ý ông về một điểm cuối cùng:
- Nếu chẳng may, tên tôi phải xuất hiện trên các báo hàng ngày, như là một ngừời làm chứng, chẳng hạn, yêu cầu ông bảo đảm viết thật đúng chính tả. Mebelle Sainsbury Seale, Mabelle, hai L, E và Seale, S,E, A, L, E. Tất nhiên, nếu điều đó đụng tới việc phải nhắc lại là tôi đã xuất hiện trong vở "Cứ việc làm", trên sân khấu cửa rạp hát Oxford Repertory...
Japp phải tìm một chỗ ẩn nấp trong cuộc chạy trốn. Trong xe taxi, ông thở dài nhẹ nhõm và chấm mồ hôi trán. - Nếu cần thiết - ông nói - chúng ta sẽ không có khó khăn gì
trong việc kiểm tra lại lời nói của cô ấy. Nếu cô không kể cho chúng ta những câu chuyện từ đầu đến cuối, điều mà tôi không tin...
- Những người nói dối - Poirot nói thêm - không cho nhiều chi tiết như thế, và những câu chuyện của họ đứng vững hơn. - Tôi e rằng cô ấy từ chối cuộc điều tra - Japp nói tiếp - Nói chung, những bà cô rất sợ những chuyện thuộc loại này. Nhưng sự kiện mà cô đã đóng hài kịch trước đây đã thuyết phục cô chấp nhận hầu như không chút do dự. Là một ngôi sao ở đâu đó, đấy là một sự cám dỗ mà cô sẽ không cưỡng lại.
- Thực sự ông cho là cần cô ấy ở cuộc điều tra?
- Tôi chưa biết. Điều đó sẽ tùy. Dù thế nào đi nữa, hơn bao giờ hết, tôi tin chắc vào điều đó. Poirot, không phải là một vụ tự tử. - Và động cơ?
- Chưa có một ý niệm gì trong lúc này. Ai biết được rằng trước đây Morley đã không bị con gái của Amberiotis quyến rũ? Poirot thử hình dung Morley đóng vai những công tử phong lưu bên cạnh một cô gái Hy Lạp xinh đẹp có đôi mắt to mở rộng... Bức tranh thiếu cái có thể thực và Poirot nhắc lại với Japp rằng Reilly đã nói với họ rằng người cộng tác với ông không biết lợi dụng những niềm vui của cuộc sống.
- Tôi biết - Japp nói - Nhưng, trong khi đi tuần tra, tất cả đều có
thể xảy ra. Vả chăng, chúng ta sẽ biết rõ hơn khi chúng ta ba hoa với công dân Amberiotis.
* * *
Ở Savoy, anh nhân viên làm việc tiếp nhận đã nhìn chòng chọc vào Japp một cách khá đặc biệt khi người cảnh sát yêu cầu anh báo tin cho ông Amberiotis.
- Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ông - anh ta nói - nhưng tôi e rằng ông không thể gặp ông Amberiotis.
- Anh đã lầm to! - Japp đáp lại bằng giọng cụt ngủn. Đồng thời, hé mở cái ví của mình, ông đã để người nhân viên thoáng thấy giấy chứng nhận tư cách của ông.
- Thưa ông, ông đã không hiểu tôi - anh nhân viên nói tiếp - Ông Amberiotis đã chết cách đây nửa giờ.
Đối với Hercule Poirot đấy như là một cái của đã đóng lại. Nhẹ nhàng, nhưng quyết định.
3
NĂM, SÁU, TÔI NHẶT NHỮNG KHÚC CỦI
- I -
Hai mươi bốn giờ sau, Japp gọi Poirot qua điện thoại. Giọng ông cay đắng.
- Thất bại liên tục - ông nói.
- Sao vậy?
- Thực sự Morley đã tự tử. Chúng tôi biết nguyên nhân rồi. - Tại sao?
- Người ta vừa chuyển cho tôi biên bản khám nghiệm xác Amberiotis. Tôi không rành về các biệt ngữ y học. Nói nôm na, ông ấy đã chết vì tiêm ađrênalin và procain quá liều. Quả tim của ông ta không chịu đựng nổi, và chiều hôm qua, khi cái lão tội nghiệp ấy nói rằng ông ấy cảm thấy không dễ chịu, ông ta không nói dối đâu. Thế là tất cả mọi việc đều được giải thích. Thuốc gây tê mà các nha sĩ dùng để gây tê cục bộ có chất nền là ađrênalin và procain. Morley đã nhầm liều lượng thuốc. Sau khi Amberiotis đi rồi, ông ta mới nhận ra và vì sợ tai tiếng, ông ta đã tự sát!
- Với một khẩu súng lục mà người ta không biết?
- Khẩu súng đó có thể ông ta đã có từ lâu nhưng không ai biết. Ai cũng có bí mật. Nếu tôi nói với ông điều mà đôi khi người ta giấu nhau, ông sẽ sửng sốt.
- Đúng thế - Poirot thừa nhận.
- Dù thế nào đi nữa - Japp nói tiếp - việc này đã được gác lại. Tất cả đều được giải thích một cách lôgic.
- Ông bạn thân mến - Poirot đáp lại - tôi sẽ không giấu ông rằng sự giải thích này còn xa mới làm cho tôi thỏa mãn hoàn
toàn. Đành rằng đã có những người bệnh phản ứng một cách bất ngờ đối với việc gây tê cục bộ ấy, và một số trường hợp, ađrênalin trộn với procain có thể sinh ra những tác dụng độc hại. Vấn đề khí chất. Nhưng nha sĩ và bác sĩ nói chung không cắn rứt lương tâm nghề nghiệp đến mức tự sát khi xảy ra một tai nạn nào đó cho người bệnh của họ.
- Đồng ý - Japp nói - Song, chúng ta hãy phân biệt. Khi chất gây tê được dừng với liều lượng bình thường, người ta không thể chê trách gì người thầy thuốc cả. Thầy thuốc không thể dự kiến phản ứng đặc biệt của người bệnh của mình. Nhưng, trong trường hợp mà chúng ta quan tâm, trách nhiệm nghề nghiệp là rõ ràng. Tôi chưa có những con số, bởi vì những sự phân tích định lượng ấy kéo dài thời gian vô tận, nhưng tôi có thể khẳng định với ông rằng, liều lượng là rất cao so với bình thường. Morley đã phạm một lỗi lớn!
- Nhưng - Poirot phản đối - đấy chỉ là một sự lầm lẫn, chứ không phải là một tội ác.
- Đúng! Nhưng có những sự lầm lẫn làm anh sạt nghiệp. Về mặt nghề nghiệp, Morley đã bị mất danh giá. Không ai lại tin vào một nha sĩ có thể tiêm cho mình một liều thuốc độc chết người, tuy rằng cho phép mọi người có một lúc đãng trí.
- Tôi thừa nhận rằng một sự lầm lẫn kiểu ấy là tai hại kinh khủng.
- Hãy nhớ rằng những sự việc ấy thường xảy ra. Những bác sĩ, những dược sĩ trong nhiều năm đã không bao giờ lầm lẫn, rồi một hôm, trong một giây vô ý và thế là thảm hoạ. Và họ phải chịu lấy những hậu quả. Morley là một người nhạy cảm. Khi xảy ra một vụ như vậy, một bác sĩ thường có một dược sĩ hoặc một y tá cùng chịu trách nhiệm. Nhưng Morley, lại chỉ có một mình.
Poirot vẫn chưa chịu.
- Ông không tin rằng - ông nói - ông ấy đã để lại một lá thư
nào đó? Đấy chỉ để giải thích sự nhầm lẫn của ông và tuyên bố rằng ông ta không muốn sống sau khi đã giết người một cách không chủ ý? Theo tôi, hình như ông ấy có thể viết vội cho chị ông một lá thư...
- Nếu mọi sự việc đã xảy ra như tôi tưởng tượng - Japp trả lời - thông thường thì ông ta không làm gì cả. Bỗng chốc, ông ta ý thức được điều đã xảy ra. Ông ta mất bình tĩnh và không nghĩ ngợi gì nữa, ông ta đã tự sát.
Poirot nín lặng, Japp tiếp tục.
- Tôi biết ông lắm, ông bạn thân mến ơi! Khi ông đã khăng khăng ở trong đầu rằng ông đang đứng trước một vụ giết ngừời, thì ông không chịu bỏ ý kiến đó đâu. Và đây phải là một vụ giết người. Tôi thừa nhận rằng lần này, chính tôi đã ném ông lên con đường chiến tranh. Tôi đã nhầm, tôi xin nhận lỗi một cách kính cẩn.
- Tôi vẫn cứ tin rằng còn có một cách giải thích khác - Poirot nói.
- Còn có nhiều cách nữa, tôi không nghi ngờ gì về điều đó - Japp đáp lại - và tôi đã nghĩ đến nhiều cách. Nhưng theo tôi, tất cả đều tỏ ra là quái dị. Người ta có thể giải thích rằng Amberiotis đã giết Morley, khi trở về nhà, hối hận ông đã tự tử. Nếu ông tin điều đó, là có thể, còn tôi tôi hết sức không đồng ý với ý kiến ấy. Sở cảnh sát đã cho tôi một số thông tin về Amberiotis. Rất lý thú. Đấy là một ông chủ khách sạn nhỏ, người Hy Lạp. Sau khi đã làm một ít chính trị ở trong nước, ông ta bắt đầu làm tình báo cho Đức và Pháp. Nghề này đã không làm cho ông ta phất lên nhanh chóng như ý muốn và người ta giả định rằng ông ta đã thử làm nghề tống tiền. Nhìn chung, đó là một người khá xấu tính. Năm ngoái, ở Ấn Độ người ta đồn rằng ông ta đã moi được một số tiền lớn cửa một ông hoàng bản xứ. Nhưng chẳng ai chứng minh được vì lão này rất láu cá. Nếu ông muốn một giả thuyết khác thì tôi còn một
cái dự trữ đây. Bằng cách này hoặc cách khác Amberiotis nắm được bí mật của Morley và doạ phát giác ông ấy. Vì vậy, khi gặp thời cơ Morley đã phụt vào hàm răng một liều lượng lớn ađrênalin và procain. Ông ta chắc rằng cái chết của kẻ thù sẽ được coi là một biến cố bất hạnh. Amberiotis đi rồi, ông hối hận và tự tử. Đấy cũng là một giả thuyết có thể, tuy rằng, đối với tôi, rất khó khăn để thấy Morley trong vai một kẻ giết người. Đối với tôi, tôi xin nhắc lại, sự giải thích duy nhất chấp nhận được là sự giải thích mà tôi đã nói với ông. Morley bị công việc dồn dập đã phạm một sai lầm. Chính trong ý nghĩa đó, mà chúng ta kết luận. Tôi đã nói vụ này với ông cảnh sát trưởng và dứt khoát...
- Rất tốt - Poirot nói với một tiếng thở dài - Rất tốt... - Tôi hiểu tình cảm của ông - Japp kết luận nhã nhặn - Nhưng ông không có thể có một vụ ám sát hay trong tất cả mọi lần. Tôi xin nói với ông: "Mong sẽ lại gặp nhau”. Và tôi xin lỗi thêm khi nhắc lại một câu cổ điển: "Thứ lỗi cho tôi đã quấy rầy ông". Kính chào, ông Poirot thân mến.
Rồi ông ta dập máy.
- II -
Hercule Poirot đang ngồi trước bàn giấy, một bàn giấy hiện đại. Về mặt trang bị, Poirot thích hiện đại, vì ông thích những đường nét thanh nhã và gọn gàng của chúng hơn là những đường cong cổ xưa, dù chúng duyên dáng đến mấy. Trước mặt ông có một tờ giấy hình vuông, trên đó, dưới những đề mục cách biệt rõ ràng, ông đã có một số lời ghi.
Trước hết là lời ghi:
Amberiotis. Tình báo. Tại sao ông ta ở Anh năm ngoái. Ở Ấn Độ trong thời gian biến loạn và sôi sục. Có lẽ là một người cách
mạng.
Có một khoảng trống, rồi đến một lời ghi khác.
Frank Carter? Morley không nhớ rõ ông ta lắm. Vừa bỏ việc. Vì sao?
Rồi tới một cái tên, kèm theo một dấu hỏi:
Hower Raikes ?
Cuối cùng, một câu giữa ngoặc kép:
"Nhưng thật ngớ ngẩn!"
Poirot suy nghĩ. Bên ngoài, trên cửa sổ, một con chim đang đậu, mỏ ngậm một cành cây dừng để làm tổ. Poirot cũng vậy, ông giống như một con chim, với cái đầu to hình quả trứng.
Ông để một khoảng trắng trên trang giấy và viết dưới hàng cuối cùng:
Ông Barnes?
Rồi, dưới nữa:
Bàn giấy của ông Morley? Những dấu vết trên thảm. Những khả năng.
Ông nhìn kỹ hàng cuối cùng này một lúc rồi đứng dậy, bảo người đưa can và mũ cho ông và ra đi. III
Bốn mươi lăm phút sau, Hercule Poirot ra khỏi ga tàu điện ngầm ở Ealing Broadway và đi bộ tới số 88 đường Castle Gardens. Đấy là một ngôi nhà nhỏ, ở cách biệt với các ngôi nhà khác, phân cách với đường phố bằng một đám vườn giữ gìn rất đẹp mà Poirot ngắm nghía với một sự vừa ý hết mức.
- Đấy ít nhất là có một sự cân xứng hoàn hảo - ông rì rầm một mình.
Ông Barnes đang ở nhà. Ông gặp ngay Poirot trong một phòng ăn nhỏ, nơi mà người thám tử được đưa vào.
Đấy là một người có tầm vóc dưới trung bình, gần như hói hoàn toàn, và hai con mắt hấp háy sau bộ kính mắt to. Ông cầm ở tay tấm danh thiếp của Poirot mà chị hầu buồng đã đưa cho ông.
- Ông Poirot - ông nói với giọng lanh lảnh - tôi rất hân hạnh được ông tới thăm.
Nhà thám tử xin lỗi.
- Tôi xin lỗi vì đã đến đây một cách sỗ sàng...
- Ông không có lỗi - ông Barnes trả lời - ông đã làm đúng và chọn đúng giờ. Bảy giờ kém mười lăm, vào lúc này trong ngày, đấy là lúc hầu như chắc chắn gặp mọi người ở nhà.
Ông chỉ vào ghế và mời:
- Mời ông ngồi, ông Poirot. Chúng ta có nhiều việc cần phải nói với nhau. Tôi tưởng tượng đấy là vấn đề ở số nhà 58 đường Hoàng hậu Charlotte?
- Ông nói đúng - Poirot nói - Nhưng tôi có thể hỏi ông là cái gì đã làm cho ông giả thiết đấy là vụ ấy?
- Ông Poirot thân mến, tôi từ giã Bộ nội vụ đã khá lâu rồi nhưng tôi chưa hoàn toàn bị han gỉ. Có những vụ không cần phải công khai và tốt hơn là không nên gọi cảnh sát. Thu hút sự chú ý vào chúng là vô ích.
- Ông cho phép tôi đặt một câu hỏi khác được không? Tại sao ông cho rằng vụ ấy không cần công khai?
- Tôi nhầm ư? À, thật đáng tiếc quá!
Cúi xuống phía trước, và lắc nhẹ cái kính mà ông vừa bỏ xuống, ông Barnes nói thêm:
- Khi là vấn đề tình báo, ông Poirot, thì không phải con cá nhỏ là thú vị. Cần phải mắc câu, đấy là những con cá lớn. Nhưng, muốn đi tới đó, cần phải hết sức chú ý là đừng làm khiếp sợ con cá bé?.
- Theo tôi, ông Barnes - Poirot nói một cách thành thực - hình như ông biết nhiều việc mà tôi không biết.
- Tôi không biết gì hết - ông Barnes đáp lại - Tôi coi trọng một số sự kiện nhỏ, chỉ có thế.
- Như những sự kiện gì?
- Chẳng hạn, như sự hiện diện của ông Amberiotis ở nhà ông Morley. Ông quên rằng tôi ngồi trước mặt ông ta, trong phòng đợi, trong một hoặc hai phút. Ông ta không biết tôi. Tôi luôn luôn thuộc vào số người không được chú ý. Đôi khi là có ích. Nhưng, tôi, tôi biết ông ta... và tôi hoàn toàn đoán được điều mà ông ta tới làm.
- Như là?
Hai mắt của ông Barnes hấp háy theo một nhịp điệu nhanh hơn.
- Ông xem, ông Poirot - ông nói - những người Anh chúng tôi, chúng tôi là những người cực kỳ chán ngán. Chúng tôi là nhưng người bảo thủ đến tận xương tủy. Chúng tôi càu nhàu phản kháng, nhưng thực ra chúng tôi không có một ý muốn nào cả để thay đổi những thể chế này bằng những thể chế khác mới hơn. Chúng tôi rất gắn bó với hệ thống dân chủ của chúng tôi và đấy là điều làm cho những người quấy rối ở nước ngoài bực mình, mà nước chúng tôi quan tâm. Điều làm cho họ ngao ngán, là chúng tôi có - và hầu như là đặc biệt ở châu Âu vào lúc này - nền tài chính vững vàng! Nếu chúng tồn tại càng lâu, thì đối với họ sẽ không có gì để làm ở nước Anh cả… và vì vậy sẽ rất lý thú đối với họ là trừ khử đi những con người như Alistair Blunt!
Ông Barnes lấy lại hơi và tiếp tục:
- Blunt thuộc vào những con người trả được nợ của họ, và sống không xâm phạm vào vốn của họ và như thế, họ có thực nhiều tiền hoặc họ kiếm được rất ít tiền. Và ông ta cho rằng ngân sách của một quốc gia cũng như ngân sách của một tư nhân. Ông chống lại những cuộc phiêu lưu có hậu quả tai hại, những cuộc thí nghiệm không tưởng... và vì thế có người đã quyết định ông ta phải biến mất.
- A! - Poirot nói.
Ông Barnes tiếp tục:
- Tôi biết vấn đề. Trong số đó có những người rất tốt, mơ ước có một xã hội tốt hơn, và có những người khác xấu hơn nhiều, những người này thực tế là những kẻ vô lại thường thường là từ xa đến. Cả hai loại đều gặp nhau trên nhiều điểm và đặc biệt trên điểm này: "Blunt phải biến mất". Đấy bởi vì ông ta là một trong những cột trụ vững chắc cho trật tự cũ này mà cần phải quét sạch. Đâu là sự thật? Tôi không biết. Trước khi phá hoại, không cần bảo đảm rằng người ta có thể xây dựng lại và làm tốt hơn sao? Sự việc đáng được tranh luận, nhưng trong lúc này, không phải chúng ta quan tâm đến cuộc bàn cãi. Chúng ta không bận tâm đến những lý thuyết trừu tượng, mà những sự kiện... Nếu người ta phá hủy nền móng, thì cái nhà sẽ đổ sụp...
Ông cúi xuống phía Poirot và nói thêm, giọng hạ xuống: - Vì vậy, họ muốn có Blunt. Điều đó, tôi biết và tôi tin chắc rằng sáng hôm qua, họ đã gần thực hiện được. Tôi có thể nhầm, nhưng tôi sẽ rất ngạc nhiên về điều đó. Đã có những tiền lệ. Về vấn đề này, ông đã kể ba tên: tên một bộ trưởng Bộ Tài chính, mà chính sách là đặc biệt thích hợp; tên một nhà công nghiệp lớn mà người ta khâm phục nhãn quan rộng rãi của ông; cuối cùng tên một người đầu cơ chính trị kẻ được quần chúng nghe theo. Người thứ nhất đã chết trên bàn mổ, người thứ hai đã chết vì bệnh do chạy chữa quá muộn, người thứ ba đã bị ôtô dằn chết.
- Trong cả ba trường hợp, người ta đã tiến hành một cách dễ dàng - ông Barnes tiếp tục - Đối với ông bộ trưởng Tài chính, bác sĩ gây tê đã phạm một lỗi lầm nhỏ. Những việc ấy thường xẩy ra. Trong trường hợp thứ hai, bác sĩ điều trị, không phải là chuyên gia, đã nhầm trong khi chẩn đoán. Và trong trường hợp thứ ba, là vấn đề một bà mẹ hốt hoảng chạy như bay đến đầu giường người con bị ốm. Luật sư đã làm cho những vị hội thẩm phải khóc, những vị này đã phải xử cho bà ấy trắng án, không tranh luận.
Sau một lúc im lặng, ông nói tiếp:
- Tất cả điều đó đã tỏ ra không nghi cho ai cả và tất cả điều đó đến nay đã bị lãng quên, nhưng điều sẽ làm cho ông thích thú là biết được các vị anh hùng trong ba cuộc phiêu lưu đó đã trở nên cái gì. Người thứ nhất, bác sĩ gây tê, hiện nay có một phòng thí nghiệm nghiên cứu rất tráng lệ mà muốn thiết lập, ông ta đã phải tốn nhiều tiền. Người thứ hai đã nghỉ hưu, ông ta sống trên bờ biển, trong một ngôi nhà đẹp thuộc về ông, và có một chiếc thuyền du lịch. Còn bà kia, các con cái của bà được học hành tốt và trong kỳ nghỉ, chúng về nông thôn sống trong một cơ ngơi đẹp đẽ do bà mẹ mua tậu...
Lắc đầu, ông nói thêm:
- Trong tất cả các nghề nghiệp, luôn luôn người ta tìm thấy một con người dễ gần với sự cám dỗ. Hoàn cảnh đã không muốn ông Morley là con người đó.
- Theo ông, đấy là sự giải thích về cái chết của ông ấy? - Tôi tin là như thế - ông Barnes trả lời - Một người như Blunt không dễ tiếp xúc và đụng tới. Ông ta được canh giữ, bảo vệ. Tai nạn ôtô thì rất bấp bênh và luôn luôn không thành công. Nhưng một con người thực tế không được bảo vệ là khi ông ta ngồi vào chiếc ghế bành của một nha sĩ. Theo tôi, Morley đã không muốn thuận theo. Và vì ông ấy biết quá nhiều về việc đó, họ đã thủ tiêu ông.
- "Họ" là ai?
- Những người đứng đầu tổ chức đứng sau các sự kiện mà tôi vừa báo cáo với ông. Tất nhiên, chỉ có một người thi hành. Tôi có thể liều đưa ra một giả thiết và đấy sẽ chỉ là một giả thiết và tôi có thể nhầm.
- Reilly? - Poirot lặng lẽ nói.
- Quả thế, chính là ông ấy mà tất nhiên ta phải nghĩ tới - ông Barnes nói.
- Tôi không tin rằng người ta đã yêu cầu chính bản thân ông Morley làm điều đó. Tôi cho là, đến phút cuối cùng, với một cái cớ nào đó, nêu ra một sự khó ở nào đó, chẳng hạn, ông ta phải yêu cầu ông Blunt để cho người cộng tác của ông chữa cho. Reilly tham dự vào và người ta sẽ nói đến một sự bất trắc tai hại. Nhà nha sĩ trẻ tuổi bị truy tố đúng theo lẽ, sẽ tỏ ra khổ sở lắm và hối hận nhiều đến mức chỉ bị kết tội nhẹ và người ta sẽ thấy ông ta một thời gian sau đó từ bỏ khoa răng, và sống ở đâu đó bằng những món lợi tức dễ chịu. Ông chớ tưởng rằng tôi đang viết tiểu thuyết đăng từng kỳ, những việc ấy sẽ xảy ra.
- Tôi biết điều đó - Poirot nói.
Ông bạn Barnes đặt bàn tay lên trên một cuốn sách bìa màu sẫm, để ở trên bàn.
- Tôi đã đọc nhiều tiểu thuyết trinh thám - ông lại nói - Đó là những chuyện mạo hiểm quái dị, nhưng có điều lý thú để nhận xét là chúng không khác thường hơn những câu chuyện trinh thám xác thực. Ở đời có những người phụ nữ nguy hiểm có bộ mặt đáng yêu, có những người đàn ông đáng sợ nói với giọng đậm đặc ngoại quốc, có những băng quốc tế và những ông sếp mà người ta không nghi ngờ uy lực. Nếu một số những câu chuyện thực mà tôi biết được in ấn thì tôi tin chắc rằng không ai muốn tin cả.
- Trong lý thuyết của ông - Poirot hỏi - vai trò của Amberiotis là gì ?
- Tôi không biết - ông Bames thú nhận - Có lẽ ông ta được dùng để làm bung xung. Ông ta thường chơi trò hai mặt và có thể là người ta muốn kết liễu ông ta vào dịp này. Đây là ý kiến của tôi.
- Cứ cho là ông đúng - Poirot nói - thì bây giờ cái gì sắp xảy ra? Ông Barnes gãi đầu, nhưng trả lời không chút ngập ngừng: - Họ sẽ trở lại. Blunt tất nhiên là được bảo vệ, những người bảo vệ của ông sẽ tăng cường cảnh giác. Ông ta không phải sợ một
người có vũ khí xuất hiện từ một lùm cây hoặc một sự tấn công nào đó ở một góc phố. Kẻ thù của ông thuộc một lực lượng khác. Ông ta phải coi chừng những người không gợi cho ông một chút ngờ vực, những người bạn, những người ở cũ, dược sĩ đang chuẩn bị cho ông một thứ xi-rô, người bán rượu vang porto cho ông… Ông không thể biết được điều mà mọi người đều có thể làm để bảo đảm một lợi tức nhỏ hàng năm là hơn nghìn livre.
- Có bấy nhiêu thôi?
- Có lẽ hơn.
Im lặng.
- Tôi đã nghĩ đến Reilly từ lúc đầu - Poirot nói.
- Bởi vì ông ta là người Ailen và ở Ailen có nhiều tổ chức cách mạng?
- Không phải vì như thế, nhưng vì ở trên chiếc thảm ở phòng của Morley có những dấu vết hình như kéo của một xác chết. Nếu Morley đã bị một người bệnh của ông ấy giết chết, thì sự việc đã xảy ra ngay tại phòng ông ấy và người ta không phải di chuyển xác chết. Vì vậy mà tôi nghĩ ngay rằng ông ta không bị giết ở trong phòng đó, mà ở phòng bên cạnh. Điều đó khiến ta tin rằng ông ta đã bị giết bởi một người quen.
- Lập luận đúng - ông Barnes nhận xét.
Poirot đứng dậy.
- Tôi xin thành thực cảm ơn ông - ông nói để từ biệt - Tôi có cảm tưởng rằng điều mà ông đã nói với tôi sẽ rất bổ ích. IV
Trước khi về nhà, Poirot dừng lại ở khách sạn Glengowrie Court.
Sáng hôm sau, ông gọi điện thoại cho Japp.
- Chào ông hạn thân mến - ông nói - Cuộc điều tra tiến hành vào hôm nay?
- Vâng, ông có tham dự không?
- Không chắc.
- Tôi hình dung là nó chả có ích lợi gì cả.
- Ông có định đưa cô Sainsbury Seale ra làm chứng không? - Có phải cô Mabelle đáng yêu, hai L, E, có thể gọi là Mabel, B, E, L như mọi người không? Các bà, các cô là hay lòe tôi lắm. Không, tôi không gọi cô ấy ra tòa đâu, không cần!
- Cô ấy có liên hệ với ông không?
- Không? Tại sao?
- Tôi băn khoăn chỉ có thế thôi. Bởi vì cô Sainsbury Seale đã rời khách sạn Glengowrie Court từ chiều hôm kia, vào trước giờ ăn cơm tối, và từ đó không thấy cô ta trở lại.
- Ông nói cái gì? Cô ấy đã chuồn rồi à?
- Đấy là một lời giải thích có thể thực đấy.
- Nhưng tại sao? Đấy là một người đàn bà rất tốt mà người ta không có gì để chê trách cả. Tôi đã hỏi những tin tức về vấn đề của cô ta bằng điện tín - trước khi biết nguyên nhân cái chết của Amberiotis vì nếu không, tôi không bao giờ phải vất vả như thế, và Calcutta đã trả lời cho tôi chiều hôm qua. Không có gì để nói lại cả. Tất cả những điều mà cô ta đã kể cho ông là thực. Có lẽ cô ta đã lướt qua hơi nhanh về lịch sử cuộc hôn nhân của cô, nhưng không nghiêm trọng. Cô ta đã lấy một sinh viên theo đạo Hindu, và cô thấy được rằng anh ấy đã có không ít mối liên hệ khác. Lúc đó, cô ta lấy lại tên con gái của mình và chú tâm vào những việc từ thiện. Rất được các giáo sĩ coi trọng, cô ta bắt đầu dạy những bài đọc và đúng là cô ta đã tham gia vào việc thành lập một nhà hát của những diễn viên không chuyên. Tóm lại đó là một người đàn bà đáng sợ nhưng người ta không thể giải thích rằng cô ấy đã đóng một vai trò nào đó trong vụ giết người. Bây giờ ông lại nói rằng cô ấy đã đi rồi. Thế thì, tôi không hiểu ông nữa.
Japp im lặng vài giây, rồi nói tiếp:
- Có lẽ cô ta đã chán ngấy cái khách sạn ấy? Nếu ở vị trí cô ấy,
tôi đã không phải chờ lâu đến thế để chuyển chỗ ở. - Hành lý của cô ta vẫn ở đấy - Poirot trả lời - Cô ta không mang theo gì cả.
Japp tuôn ra một lời rủa.
- Cô ta đi vào lúc mấy giờ? - Ông ta hỏi sau đó.
- Vào bảy giờ kém mười lăm.
- Những người của khách sạn nghĩ gì về việc đó?
- Việc đó làm cho họ họ phiền. Bà giám đốc tỏ ra khó chịu. - Tại sao họ không báo cho cảnh sát?
- Nhưng, ông bạn ơi, bởi vì có thể xảy ra trường hợp một bà đi ngủ đêm ở một chỗ khác kể cả khi điều đó tỏ ra khó tin, và khi trở về bà ta sẽ tức giận nếu được biết rằng người ta đã báo cảnh sát và chuyện này. Bà Harrison - giám đốc khách sạn Glengowrie Court đã gọi điện thoại tới bệnh viện, sợ có xảy ra tai nạn. Bà ta chuẩn bị gọi cảnh sát khi tôi đến và bà ấy đã tiếp đón tôi như tiếp đón chúa Giê-su. Tôi đã nói với bà ấy rằng tôi sẽ chịu trách nhiệm tất cả và chuyện này chỉ có tôi và một sĩ quan cảnh sát nữa biết.
- Ông nghĩ tới tôi chăng?
- Đúng thế.
Japp lẩm bẩm những lời cảm ơn mỉa mai.
- Đồng ý - cuối cùng ông nói - Sau cuộc điều tra tôi sẽ gặp ông ở Glengowrie Court.
V
- Cuối cùng - Japp nói với giọng bực bội cáu gắt, trong khi họ chờ đợi bà giám đốc - quỷ quái làm sao mà bà ấy lại cũng biến mất?
- Ông cho đấy là điều lạ lùng chăng? - Poirot nói.
Họ không có thì giờ để trao đổi thêm. Bà Harrison, giám đốc và chủ khách sạn Glengowrie Court tới gặp họ.
Bà Harrison gần như khóc và câu hỏi đầu tiên của Japp đã mở ra một trận mưa thác đổ bằng lời nói thực sự. Người đàn bà tử tế
rất lo lắng. Điều gì đã xảy ra cho cô Sainsbury Seale? Bà ta đã dự tính đến tất cả giả thuyết mất trí, sự se mình bất thình lình, sự xuất huyết, tai nạn ôtô, bị trấn lột bởi bàn tay có vũ khí v.v... Bà Harrison ngừng lại để thở và kết luận:
- Một người đàn bà dễ thương lắm!... và hình như sống hạnh phúc lắm với chúng tôi.
Theo yêu cầu của Japp, bà dẫn hai người vào trong buồng mà người biến mất đã ở. Ở đấy, tất cả điều sạch sẽ và ngăn nắp, từ những bộ quần áo treo trong tủ, cho đến chiếc áo lót ban đêm, xếp ở dưới gối. Ở trong một cái góc, có hai cái hòm rất bình thường và xếp thẳng hàng dưới một cái bàn trang điểm, rất nhiều giày dép; những đôi giầy đi rất vững, hai đôi bốt tin cao gót, đánh vécni, những đôi giày dạ hội bằng xatanh đen, có thế nói là chưa xỏ chân vào, và một đôi hài. Poirot nhận thấy rằng những đôi giày dạ hội có cỡ bé hơn nhiều, từ đấy người ta có thể suy diễn hoặc là cô Sainsbury Seale có chai ở ngón chân, hoặc là cô chú ý đến vẻ lịch sự của bàn chân nhỏ. Về vấn đề này, ông tự hỏi xem cô cóo thì giờ để khâu lại cái vòng vào chiếc giày trước khi đi ra? Ông hi vọng rằng có, vì sự cẩu thả về quần áo luôn luôn là khó chịu đối với cô.
Japp xem xét các lá thư tìm thấy trong tủ bàn giấy. Poirot mở một cái ngăn kéo của tủ com-mốt; nhận thấy nó đầy quần áo lót và kín đáo đóng nó lại, vừa tự nhận xét rằng cô Sainsbury Seale hình như có sở thích về hàng len. Ông mở một cái ngăn kéo khác, nó đựng bít tất.
- Ông có tìm thấy cái gì không, Poirot? - Japp hỏi.
Poirot, vẻ sầu não ngắm kỹ một đôi tất:
- Không - ông nói - Đây là loại hai, bằng tơ nhân tạo, giá có thể là: hai siling mười một!
- Ông tự coi là một người bán đấu giá chăng?
Mỉm cười, Japp nói thêm:
- Ở đây, cũng chả có gì hơn! Hai lá thư từ Ấn độ tới, hai hoặc ba
chiếc biên lai của các tổ chức từ thiện, không có bóng một chiếc hóa đơn. Cô Sainsbury Seale rõ ràng là một người rất... - Nhưng - Poirot nhận xét - là một người ăn mặc rất tồi. - Tất nhiên - Japp tuyên bố - vì cô ấy không coi điều đó là quan trọng gì cả.
Ông ghi một cái địa chỉ, lấy ở một lá thư cũ gởi cách đây hai tháng.
- Có lẽ những người này sẽ có thể nói với chúng ta về cô ấy - ông nói - Họ ở Hampstead và hình như biết khá rõ cô ta. Hai người còn biết thêm, tất nhiên là từ miệng bà Harrison, rằng không có gì tỏ ra khác thường trong thái độ của cô Sainsbury Seale, tối hôm cô biến mất và hình như cô ta có ý định trở về, vì khi qua phòng lớn, cô đã nói với bà bạn, bà Bolitho rằng sau bữa ăn tối, cô ta sẽ chỉ cho bà sự thành công mà cô đã nói với bà. Hơn nữa, theo quy định ở khách sạn Glengowrie Court, nếu không ăn cơm thì phải báo trước nhưng cô Sainsbury Seale không nói gì cả, điều đó có nghĩa là cô ta định trở về ăn cơm bữa tối, phục vụ vào khoảng giữa bảy giờ rưỡi và tám giờ rưỡi. Nhưng người ta đã không thấy cô. Cô đã đi theo đường Cromwell và đã biến mất. Rời khách sạn Glengowrie Court, Japp và Poirot đi tới Hampstead, theo địa chỉ mà thanh tra ghi lại.
Gia đình Adams sống với đàn con đông ở trong một biệt thự nhỏ, xinh xắn, và đấy là những con người đáng yêu. Họ biết rõ cô Sainsbury Seale ở Ấn Độ, họ không ngớt lời khen ngợi cô, nhưng họ đã không gặp cô một tháng nay, đúng là từ dịp nghỉ lễ Phục sinh. Vào lúc đó, cô ta ở trong một khách sạn tại quảng trường Russell.
Poirot ghi lại địa chỉ cùng với địa chỉ của một gia đình bạn hữu của Sainsbury Seale ở Streatham.
Ờ khách sạn tại quảng trường Russell họ không được biết gì cả, ở đây người ta chỉ nhớ rằng cô Sainsbury Seale là một bà không
làm ồn và đã sống lâu dài ở Ấn Độ, và họ cũng không biết gì hơn ở Streatham, nơi đây những người bạn của cô ta đã không thấy cô Sainsbury Seale từ tháng hai.
Sau khi đến hỏi các bệnh viện, họ tin chắc rằng phải gạt bỏ giả thuyết về tai nạn, Japp và Poirot phải đồng ý rằng chắc chắn cô Sainsbury Seale đã biến mất. Hình như cô ta đã tan biến trong không khí.
VI
Sáng hôm sau, Hercule Poirot xuất hiện ở khách sạn Holborn Palace và yêu cầu gặp ông Howard Raikes.
Để khỏi ngạc nhiên, ông giả dụ rằng ông Howard Raikes cũng đã biến mất, nhưng không phải thế. Ông Howard Raikes vẫn đang lưu trú ở đây, còn bây giờ, ông ta đang ăn sáng.
Sự xuất hiện của Poirot hình như chỉ tạo cho ông Raikes một sự thích thú rất vừa phải. Trong cái nhìn của ông ta có một sự thù địch được thú nhận. Trong khi nhìn chòng chọc vào ông khách không mời mà tới, ông ta hỏi Poirot bằng một giọng kiêu kỳ “điều mà ông này muốn ở ông" .
Nhưng mà Poirot lấy một cái ghế và ngồi xuống.
- Ông cho phép?
Ông Raikes, với một sự mỉa mai vô duyên, đã mời nhà thám tử “làm như ở nhà mình" . Mỉm cười, Poirot dựa vào sự cho phép và ngồi thoải mái trước mặt ông Raikes.
- Cuối cùng - Raikes nói - ông muốn gì ở tôi?
- Ông còn nhớ tôi không, ông Raikes?
- Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ gặp ông cả.
- Nhầm rồi - Poirot đáp lại - Cách đây hơn ba hôm, chúng ta đã ngồi cách nhau vài bước, trong cùng một căn phòng, ít nhất trong năm phút.
- Tôi không nhớ nữa.
- Trong phòng đợi của một nha sĩ.
Những từ cuối cùng tỏ ra có một ấn tượng nào đó đối với người đàn ông. Ông ta bình tĩnh lại ngay, nhưng thái độ có thay đổi. Ông ta từ bỏ những lời hỗn láo để tỏ ra thận trọng và khôn ngoan. - Thế thì bây giờ phải làm gì nào? - Ông ta nói.
Poirot nhìn ông ta. Có lẽ ông đã đi quá xa khi tuyên bố rằng người thanh niên này có vẻ mặt của một kẻ giết người, nhưng ông chắc chắn rằng Raikes có vẻ nguy hiểm.
Trong khuôn mặt hốc hác, ông chú ý nhất là cái hàm to, bạnh, và đôi con mắt là mắt của một kẻ cuồng tín hoặc một kẻ cuồng tưởng. Con người đó ăn mặc xấu xí và ăn ngấu nghiến.
"Mặc kệ ý nghĩ của hắn, ông nghĩ, nhưng đấy là một con chó sói đói".
Bằng giọng chói tai, Raikes lại hỏi:
- Cuối cùng, tôi có thể biết ý nghĩa của cuộc viếng thăm này không?
- Nó là khó chịu đối với ông?
- Tôi cũng không biết ông là ai!
- Ông thứ lỗi cho tôi.
Poirot rút ví từ túi mình ra và đưa qua bàn tấm danh thiếp của mình cho Raikes. Ông này nhìn qua và trả lại cho nhà thám tử. Trong cái nhìn của ông, có nhiều sự giận dữ và thù địch hơn là sự sợ hãi.
- Như vậy ông là Hercule Poirot - ông ta nói - Tôi đã nghe nói về ông...
- Tôi khá được nhiều người biết đến - Poirot nhận xét với sự khiêm tốn thường ngày.
- Ông là một cảnh sát - Raikes tiếp tục - theo mẫu tốn kém, một trong số những người được gọi đến khi người ta không cần biết đến sự tốn kém, miễn là cứu được tính mạng mình.
- Nếu ông không uống cà phê đi, thì nó sẽ nguội mất - Poirot nói.
Ông nói nhẹ nhàng nhưng bằng giọng tự tin.
Raikes nhìn kỹ ông với một sự sững sờ nào đó.
- Cà phê ở xứ này rất tồi - Poirot nói thêm - vậy nếu không uống nóng, thì không thể uống được.
Raikes đồng ý và nói tiếp:
- Cuối cùng, ông muốn đi tới đâu? Ông đến làm gì ở đây? Poirot nhún vai:
- Tôi muốn thăm ông.
- Thực không?
Ông Raikes đặt cùi tay lên bàn.
- Nếu ông đến đây để kiếm tiền bạc, ông Poirot, thì ông đã nhầm địa chỉ. Những người mà tôi làm việc cùng không thể bán. Điều mà ông muốn, ông hãy đi tìm lại người trả tiền cho ông. Poirot thốt ra một tiếng thở dài...
- Cho đến bây giờ, không ai trả tiền cho tôi cả.
- Ông đừng kể chuyện láo cho tôi nữa.
- Có thể ông không tin tôi, nhưng đó là sự thật. Thời giờ của tôi là quý giá, nhưng trong lúc này, tôi tiêu phí nó không có ý kiến trái lại. Chúng ta hãy nói rằng đấy là để thỏa mãn tính hiếu kỳ tự nhiên của tôi...
- Và chắc chắn cũng là để "thỏa mãn tính hiếu kỳ tự nhiên của ông" mà hôm kia ông đã có mặt tại nhà ông nha sĩ đáng ghét ấy phải không?
Poirot lắc đâu.
- Hình như ông quên rằng khi mà người ta ở trong phòng đợi của một nha sĩ, đấy có thể là người ta cần chữa răng. Đấy là trường hợp của tôi.
- Thực thế à? Ông đến để khám?
- Tôi thừa nhận điều đó.
- Này! Ông Poirot, ông tha lỗi cho tôi, nhưng tôi không tin ông! - Tùy ông - Poirot trả lời - Nhưng thế thì, tôi có thể hỏi ông điều
mà chính ông làm ở trong cái phòng chờ ấy không? Ông Raikes cười khẩy.
- Tôi đến chữa răng như ông.
- Ông đau sao?
- Ông đã nói điều đó.
- Thế nhưng, ông đã đi về không gặp nha sĩ.
- Rồi sao nữa? Điều đó có quan hệ đến tôi?
Có một sự im lặng mà Raikes phá vỡ để nói bằng một giọng đã mất hết mọi sự mỉa mai:
- Ông không tin rằng chúng ta đã nói để không nói gì hết? Ông ở đấy để bảo đảm sự bảo vệ ông khách lớn của ông. Đã không xảy ra điều gì cho ông ấy. Thế thì ông phàn nàn gì nữa? Ông Alistair Blunt thân mến của ông đang khỏe mạnh. Ông không có gì chống tôi. Thế thì…?
- Ông dã đi đâu, khi ông đột ngột đi ra khỏi phòng đợi? - Tôi đã rời ngôi nhà.
- A!
Poirot nhìn lên trần nhà.
- Nhưng - ông nói - không ai thấy ông đi ra cả.
- Có quan trọng gì?
- Có thể có đấy. Ông chớ quên rằng có ai đó đã chết trong cái nhà ấy, một lát sau.
- Ông muốn nói về nha sĩ?
- Đúng vậy.
Raikes nhìn vào mắt Poirot.
- Ông muốn kết tội tôi đã giết ông ấy? - Ông ta nói - Đây là ý định của ông? Này! Tốt nhất là từ bỏ đi! Tôi vừa đọc báo tường thuật cuộc điều tra tiến hành hôm qua. Cái lão đáng thương ấy tự tử, vì ông ta đã phạm một lỗi lầm nghề nghiệp kéo theo cái chết của một trong những người bệnh của ông ta.
Poirot tỏ ra không nghe thấy.
- Ông có thể chứng minh rằng ông đã đi ra khỏi ngôi nhà vào giờ mà ông định không? - Ông hỏi - Có ai có thể nói rằng ông đã ở đâu vào khoảng giữa mười hai giờ trưa và một giờ chiều không? Raikes nhìn chằm chằm vào mắt của Poirot.
- Ông nhất thiết muốn rằng đấy là tôi? Blunt ở đấy, hẳn là thế! Poirot thốt ra một tiếng thở dài bực mình.
- Ông thứ lỗi cho tôi - ông nói - nhưng điều đó tỏ ra là một sự ám ảnh ông. Tại sao ông luôn luôn nhắc đến Alistair Blunt? Tôi không làm việc cho ông ta, và tôi không bao giờ làm việc cho ông ta. Điều mà tôi quan tâm, không phải là ông Blunt và sự an toàn của ông ta, mà là cái chết của một con người trung thực, làm tốt công việc trong nghề nghiệp mà ông ta đã chọn.
Raikes lắc đầu.
- Tôi lấy làm tiếc - ông ta trả lời - nhưng tôi không tin ông. Ông có đồng ý hay không thì tùy nhưng ông là một cảnh sát làm việc cho Blunt, và thế là đủ rồi.
Nét mặt ông ta đanh lại và cúi xuống bàn, ông ta nói thêm: - Dù thế nào đi nữa, ông nên nhớ rằng ông sẽ không cứu được ông ta đâu. Ông ta sẽ phải biến mất. Ông ta và tất cả cái mà ông ta đại diện. Chúng ta đi tới một trật tự mới, gạt bỏ tất cả những nhà tài chính biến chất ấy, tất cả những chủ ngân hàng ấy, những ngườ hình như đã dệt một mạng lưới nhện không rõ trên quả đất. Họ phải được quét dọn đi. Cá nhân tôi không có gì chống Blunt cả, trừ phi ông ta là hiện thân của mẫu những con người mà tôi ghét. Đấy là một con người tầm thường, nhưng người ta chỉ có thể thắng được với đinamit. Ông ta thuộc vào số người hay nói: "Anh không có quyền đựng vào trật tự đã được thiết lập” Thực không?... Này, chúng ta sẽ thấy điều đó. Trong cái xã hội mà chúng ta muốn, không còn chỗ nữa cho những người như Blunt, cho những cá nhân sống trong sự tôn thờ một quá khứ mà chứng ta ghét. Họ còn hàng lô ở nước Anh, họ là những kẻ cổ hủ ù lì, biểu
tượng lụ khụ của một thời đại đã qua đi. Chúng ta sẽ thủ tiêu họ và chúng ta sẽ tạo lập một thế giới mới. Ông hiểu chứ, một thế giới mới!
Poirot đứng dậy.
- Ông Raikes - ông nói - tôi thấy rằng ông là một người lý tưởng chủ nghĩa.
- Rồi sao nữa?
- Và bằng tư cách có thể ông ít bận tâm đến cái chết của một nha sĩ đáng thương.
- Thực tế nó có tầm quan trọng như thế nào nhỉ? - Ông Raikes thốt ra với giọng đầy khinh miệt.
- Nó không quan trọng đối với ông, nhưng nó quan trọng đối với tôi - Poirot trả lời nhẹ nhàng - Đấy đúng là sự khác nhau giữa ông và tôi.
VII
Khi Poirot trở về nhà, George báo cho ông biết là có một bà đang chờ ông.
- Hình như bà ấy hơi sốt ruột - George nói thêm - Bà ấy không cho biết tên.
Poirot thử đoán xem bà là ai, nhưng ông đã nhầm trong sự dự đoán của mình. Quả thế, ông không tưởng tượng được là có cô Gladys Nevill, cựu thư ký - trợ lý của ông Morley quá cố ở trong phòng khách.
Cô này đứng dậy khi ông vào:
- Ông Poirot thân mến - cô nói, rất sôi sục - tôi lấy làm tiếc là đã đến làm phiền ông và tôi đã do dự lâu trước khi đến đây. Tôi biết rằng thì giờ của ông rất quý báu và ông có nhiều việc phải làm, nhưng tôi khổ lắm...
Poirot đã có kinh nghiệm đối với người Anh. Ông mời một chén trà. Cô Nevill đã phản ứng như ông chờ đợi:
- Ông rất lịch sự, ông Poirot. Mới bước vào buổi chiều, nhưng
người ta luôn luôn có thể uống một chén trà được rồi phải không? Poirot, người cho rằng người ta luôn luôn có thể nhịn uống trà, đã dứt khoát nói dối, và vài phút sau đó, nhờ tài khéo léo của George trung thành, ông đã phục vụ người nữ khách một chén trà đầu tiên. Ngay lập tức và cũng như Poirot đã tính đến, cô Nevill - với hiệu quả tốt của chén trà ngon - đã lấy lại một chút bình tĩnh và thăng bằng.
- Ông Poirot - cô nói - tôi xin lỗi là đã quấy rầy ông. Vì vấn đề cuộc điều tra mà tôi đến tìm ông - nó đã làm cho tôi thất vọng kinh khủng!
Poirot nói nhẹ nhàng rằng trái lại đã làm cho ông ngạc nhiên. - Tôi không phải đến đó để khai - cô Nevill nói tiếp - nhưng bởi vì, theo tôi, hình như người nào đó phải đi theo cô Morley. Có ông Reilly đấy, nhưng cô Morley không thích ông này lắm. Như vậy, tôi cho rằng, nhiệm vụ của tôi là đi với cô ấy.
- Cô đã hành động rất đúng!
- Điều đó là hoàn toàn tự nhiên. Tôi đã làm việc nhiều năm với cô Morley và cái chết buồn thảm của ông ấy là một sự thử thách đau đớn đối với tôi. Tôi nói thêm rằng cuộc điều tra đã không dàn xếp được gì cả.
- Điều đó không làm cho tôi ngạc nhiên một chút nào. Cô Nevill nghiêng về phía Poirot.
- Ông Poirot, ông biết rằng cảnh sát nhầm hoàn toàn không? - Thế nào?
- Các sự việc không thể đã xảy ra như ông mong ước. Không thể tin rằng ông Morley đã nhầm trong liều lượng thuốc gây tê để bơm vào hàm răng của một người bệnh.
- Cô tin thế à?
- Tôi tin chắc điều đó. Có lúc những người bệnh chịu đựng kém thuốc tê, nhưng đó là do khí chất của họ, phần nhiều là vì họ đau tim. Nhưng một sự nhầm lẫn trong liều lượng, ngay cả thuốc gây
tê, là một việc hầu như không thể có. Người thầy thuốc hành nghề quen đến mức không cần chú ý đến điều mà mình làm. Như một cái máy, gần như không nhận thức được điều đó, ông ta sẽ lấy vào chiếc ống tiêm một khối lượng chính xác thuốc tê mà ông cần.
Poirot gật đầu.
- Tôi đã nghĩ tới điều đó, ông nói.
Cô Nevill tiếp tục:
- Đối với nha sĩ, liều lượng không thay đổi bao giờ. Dược sĩ có thể phạm sai lầm, vì những chế phẩm của ông luôn luôn khác nhau, bác sĩ có thể nhầm khi kê đơn thuốc. Đối với nha sĩ, đấy là việc khác hẳn.
- Cô đã không yêu cầu làm những lời khai ấy trước tòa? - Poirot nói.
Gladys Nevill ngập ngừng một chút trưdrc khi trả lời. - Không - cuối cùng cô nói - Vì người ta có thể giải thích sai lời khai của tôi. Tôi biết rằng ông Morley không có thể giết một trong những người bệnh của ông. Nếu tôi nói điều đó ra, có phải là người ta đã không kết luận rằng ông ta đã cố ý phạm sai lầm không?
- Rất đúng - Poirot nói.
- Vì vậy mà tôi đến tìm ông, ông Poirot, cảnh sát chính thức có nguy cơ không hiểu, và cần ai đó biết rằng các sự việc không xảy ra như người ta nói.
- Cô có lý - Poirot nói - Điều bất hạnh là việc đó không gây hứng thú cho ai cả.
Cô nhìn ông, ngơ ngác.
- Tôi muốn rằng - ông nói tiếp - cô nói về bức điện tín mà cô đã nhận được, bức điện đã gọi cô ra khỏi London hôm ấy. - Poirot - cô nói - Đấy là một câu chuyện hết sức lạ thường. Không những người đã gửi bức điện cho tôi biết rõ tôi, mà còn biết cô tôi, và biết cô tôi ở đâu nữa.
- Vậy thì có phải do một trong những người bạn của cô gửi không?
- Tôi không thấy một người nào mà tôi có thể buộc tội một cách có lý.
- Thế thì sao?
Câu hỏi làm cô gái ngượng nghịu rõ ràng.
- Lúc đầu, khi tôi hiểu rằng ông Morley đã tự tử, tôi tự hỏi, có phải là chính ông ấy đã gửi cho tôi bức điện ấy? - Cuối cùng cô nói.
- Không phải vì cô là cô, nhưng chỉ vì ông ấy muốn ở một mình chăng?
- Vâng. Chỉ nghĩ kỹ lại, thì tôi thấy rằng giả thiết là điên rồ, ngay cả khi ông ấy có ý định tự tử thực sự, tôi chỉ biết nghĩ, Frank, anh ta - như ông biết, đấy là một người bạn của tôi - trước hết đã đặt vào trong đầu một ý nghĩ hoàn toàn phi lý. Đối với anh ta, chính tôi đã cho gửi bức điện ấy cho tôi để đi chơi với một người nào khác. Đúng là như thế.
- Có một “người nào khác” à?
Cô Nevill đỏ mặt.
- Chắc chắn là không! Có điều là Frank đã thay đổi nhiều trong thời gian gần đây. Anh ấy trở nên hay cằn nhằn và hay ghen tuông. Chắc chắn là vi anh ấy đã mất việc làm và chưa thể tìm được một công việc khác!... Đối với một người đàn ông, không có gì khó chịu bằng là thất nghiệp, và tôi đã lo lắng nhiều cho Frank trong thời gian vừa qua.
- Anh ta bị phật ý, tôi tin là như vậy, khi thấy cô vắng mặt ngày hôm đó.
- Vâng... và điều đó dễ hiểu. Anh ấy đến thông báo cho tôi biết là anh ấy đã tìm được một chỗ làm... một chỗ làm tuyệt vời mà mỗi tuần kiếm được mười livre. Anh ấy không thể chờ đợi được, anh ấy muốn cho tôi biết ngay cái tin vui đó và tôi cũng tin rằng
anh ấy không tức giận khi cho ông Morley biết tin ấy. Anh ấy rất phật ý rằng ông Morley không nghĩ tốt về mình và hơn nữa anh ấy còn tin rằng ông chủ của tôi muốn tách tôi ra khỏi anh ấy. - Anh ta hiểu nhầm?
- Vâng... Hay đúng hơn là có và không. Dĩ nhiên, Frank đã làm ở nhiều chỗ nhưng không giữ được chỗ nào cả vì người ta cho là anh hơi thiếu nghiêm túc. Nhưng anh ấy đã biết sửa chữa. Tôi tin nhiều vào ảnh hưởng mà người ta có thể tác động đến người khác. Khi một người đàn ông có cảm tưởng rằng một người đàn bà tin vào anh ta, thì anh ta thử tỏ ra xứng đáng với người đàn bà đó. Ông không tin sao?
Poirot nén một nụ cười, nhưng tránh không tranh luận. Những câu chuyện đó, ông đã nghe ở miệng hàng trăm người đàn bà, như Gladys. Tất cả đều tin, với một sự lạc quan không chữa được, vào quyền lực cứu thế của tình yêu. Ông cho rằng họ không nhầm lẫn trong tỉ lệ một phần nghìn lần.
- Tôi muốn gặp người bạn trai của cô - ông nói.
- Tôi sẽ rất hân hạnh được giới thiệu anh ấy với ông - cô nói mạnh mẽ - nhưng hiện tại anh ấy chỉ được rảnh vào ngày chủ nhật. Trong cả tuần, anh ấy làm việc ở ngoài London.
- Công việc mới của anh ấy là gì?... Chính xác là anh ấy làm gì?
- Chính xác thì tôi không biết. Anh ấy làm thư ký, tôi tin là như vậy. Anh ấy thuộc vào một bộ. Tôi viết thư theo địa chỉ của anh ấy ở London và người ta sẽ gửi tiếp cho anh ấy.
- Cô không thấy điều đó là lạ sao?
- Trước đây, điều đó đã làm cho tôi ngạc nhiên, nhưng Frank đã bảo đảm với tôi rằng đấy là hoàn toàn bình thường... Poirot suy nghĩ một lúc rồi ông nói:
- Ngày mai là ngày chủ nhật? Cả hai người các bạn có vui lòng đến ăn trưa với tôi ở Logan không? Tôi muốn nói câu chuyện buồn
thảm ấy với cả hai người.
- Rất vui lòng, ông Poirot. Điều đó sẽ làm cho hai chúng tôi hết sức vui lòng.
VIII
Frank Carter là một thanh niên có tầm vóc trung bình, mặc quần áo rẻ tiền nhưng lịch sự. Anh ta diễn đạt khá dễ dàng. Anh ta có hai con mắt rất gần nhau và hay vặn mình một cách lạ lùng ở trên ghế ngồi khi một câu hỏi làm anh ta lúng túng.
Anh ta dè chừng Poirot, tỏ ra rất ác cảm với ông.
- Ông Poirot, tôi không biết - anh ta tuyên bố - từ đầu rằng chúng tôi được mời ăn trưa với ông. Gladys không nói gì với tôi cả.
Poirot mỉm cười.
- Cô ấy không có lỗi. Chúng tôi đã dàn xếp việc ấy hôm qua. Cái chết của ông Morley làm cô ấy bận tâm nhiều và tôi đã nói với cô ấy rằng có lẽ chúng ta sẽ nói với nhau về vấn đề đó...
Frank Carter, không quan tâm một chút nào về tập tục cả, đã cắt ngang lời nhà thám tử.
- Cho đến nay, tôi đã chán ngấy về cái chết của Morley. Gladys, em không thể nghĩ đến chuyện khác sao? Theo anh biết, ông ta không lỗi lạc lắm đâu.
- Frank này - cô la lên - Sao anh lại nói vậy? Đấy là một con người rất tử tế! Không phải ông ấy đã để lại cho em một trăm livre sao? Em đã nhận được thư chiều ngày hôm qua.
- Có thể thế - anh thanh niên đáp lại với thái độ khó chịu - Ông ta chỉ làm bổn phận của mình. Ông ta đã bắt em làm việc quá nặng. Và ai bỏ túi tất cả lợi nhuận? Ông Morley, tất nhiên! - Ông ấy trả cho em rất nhiều tiền.
- Đấy không phải ý kiến của anh. Cô Gladys bé bỏng ơi, em khiêm tốn quá đấy và vì lẽ đó mà người ta bóc lột em. Anh đã đánh giá ông Morley từ ngày đầu tiên và vì lẽ đó mà ông ta đã làm
tất cả mọi cái có thể làm được để em đuổi cổ anh đi. - Ông ta không biết...
- Ông ta biết rất rõ!... Và nếu ông ta không chết, thì anh sẽ mắng cho ông ta một mẻ.
Poirot cho rằng đã đến lúc phải can thiệp.
- Đấy chắc chắn là những lời mà anh có ý định nói với ông ta khi anh đi đến đấy, hôm mà ông ấy chết phải không? - Ông hỏi. Frank Carter nhìn chòng chọc vào nhà thám tử vẻ điên tiết. - Ai bảo ông rằng tôi đã tới nhà ông ấy?
- Không đúng hay sao?
- Đấy là quyền của tôi. Tôi muốn gặp cô Nevill.
- Và người ta đã trả lời cho anh là cô ấy vắng mặt.
- Đúng, và điều đó, theo tôi, tỏ ra là khá mờ ám. Vì lẽ đó mà tôi đã nói với cái tay có tóc hung ở cửa vào, là tôi chờ để gặp ông Morley. Đã từ lâu ông ta đã làm mọi điều để khích Gladys chống lại tôi. Tôi dự định nói với ông ta rằng tôi không còn là một gã thất nghiệp đáng thương nữa, rằng tôi đã có việc làm thú vị và đối với Gladys, đã bắt đầu đến lúc chào từ biệt ông ta và chăm lo sắm quần áo về nhà chồng.
- Nhưng, rốt cuộc, anh đã không nói với ông ấy tất cả những điều đó hay sao?
- Không! Tôi đã chán ngấy việc chờ đợi ở trong cái hầm mộ của ông ta và tôi đã đi ra.
- Vào lúc mấy giờ?
- Tôi không nhớ nữa.
- Anh đã đến vào lúc mấy giờ?
- Tôi không biết. Hẳn là quá trưa một chút.
- Và anh ở lại đấy bao lâu? Nửa giờ?... Nhiều... hay ít hơn? - Tôi không biết gì cả, tôi đã nói rồi. Tôi không phải là những chàng trai luôn ngó vào đồng hồ.
- Có người nào đó ở trong phòng đợi khi anh ở đấy không?
- Khi tôi vào, có một lão người to có da láng như bôi đầu. Sau khi ông ta đi rồi, tôi còn lại một mình.
- Thế thì, anh đã phải đi khỏi nhà trước lúc mười hai giờ rưỡi trưa, vì vào giờ đó, có một bà tới.
- Có thể là như thế. Cái loại hầm ấy cuối cùng đã làm cho tôi phát cáu lên.
Poirot nhìn Frank Carter và suy nghĩ. Theo ông hình như những câu chuyện của anh thanh niên là thiếu thành thực. Song bằng giọng hữu nghị hơn, ông tiếp tục câu chuyện.
- Cô Nevill đã nói với tôi rằng anh có may mắn là đã tìm được một việc làm tốt?
- Nó được trả giá không tồi.
- Mười livre một tuần, tôi đoán?
- Đúng thế! Tạm được, phải không? Và điều đó chứng minh rằng tôi có thể bảo vệ tôi, khi tôi muốn.
Anh ta tỏ vẻ vênh váo.
- Công việc có vất vả quá không? - Poirot hỏi.
- Không đến nỗi.
- Thú vị không?
- Rất thú vị. Nhưng, người ta nói "nghề nghiệp", tôi rất tò mò muốn biết những nhà thám tử tư xoay xở như thế nào. Tôi hình dung rằng họ ít khi đóng vai Sherlock Holmes và họ quan tâm nhất là những vụ ly hôn?
- Đấy là những vụ mà tôi luôn luôn từ chối - Poirot nói. - Thực à? Thế thì ông sống như thế nào?
- Tôi tự sắp xếp anh bạn thân mến ơi, tôi tự sắp xếp. - Ông Poirot - Gladys nhã nhặn nói - ông đứng trên đỉnh cao của cái thang. Ông, ông là hạng thám tử mà những vị tai to mặt lớn trên quả đất phải nhờ đến: Vua, bộ trưởng bộ Nội vụ, các bà quận chúa...
Poirot ngoảnh về phía cô gái trẻ.
- Cô tâng bốc tôi - ông rì rầm.
Ông mỉm cười và giọng ông không tin chắc lắm.
IX
pan class="calibre3">Poirot đi bộ về nhà. Ông tư lự. Về đến nhà, ông gọi điện thoại cho Japp.
- Thứ lỗi cho tôi đã quấy rầy ông, ông bạn thân mến - ông nói - và tôi muốn biết ông đã tìm thấy bất kỳ điều gì chưa về bức điện mà Gladys Nevill nhận được.
- Cái vụ đó vẫn tiếp tục làm cho ông quan tâm? Này, bởi vì điều đó làm cho ông lo lắng, ông nên biết rằng có một bức điện! Việc hai người đã được sắp xếp. Bà cô sống ở Richbourne trong vùng Somerset. Bức điện đã được đánh đi từ Richbarne, là một vùng ngoại ô của London như ông biết.
- Rất rõ, điều đó rất rõ - Poirot nói - Nếu cô Nevill xem bức điện để biết nó được đánh đi từ đâu, thì chữ “Richbarne” khá giống “Richbourne" để thuyết phục cô là từ Somerset đến... Sau một lúc im lặng, ông nói thêm.
- Japp, ông có biết điều mà tôi đang nghĩ không?
- Không.
- Này, tôi đang tự nói với mình rằng cái vụ đó do một kẻ rất thông minh điều khiển.
- Hercule Poirot muốn đấy là một vụ giết người, vậy thì đấy là một vụ giết người.
- Ông giải thích bức điện ấy như thế nào ?
- Một sự trùng hợp. Người nào đó đã muốn sai khiến cô gái trẻ...
- Tại sao?
- Ông Poirot thân mến, những việc đó không giải thích được, một kẻ lừa phỉnh làm để chơi đùa. Nếu ông muốn chúng ta hãy nói rằng hắn bị thiệt hại về sự lệch lạc của óc hài hước... - Dù thế nào đi nữa, rất lạ là người đó đã chọn đúng, để làm
một chuyện lạ cho cô Nevill vào hôm mà Morley sắp phạm một sai lầm mà ông đã biết.
- Tôi không nói - Japp xác định - rằng có một mối quan hệ giữa nhân đến quả. Đấy bởi vì cô Nevill đi vắng, Morley thì bị công việc thúc bách, và chính vì bị thúc bách mà ông ta phạm sai lầm! - Tôi không tin điều đó - Poirot nói.
- Tôi nghi ngờ điều đó. Nhưng ông hãy xem lập luận của ông đưa ông đi đến đâu? Nếu với một ý đồ xác định mà người ta muốn tống cô Nevill đi xa, đấy hẳn là Morley đã gửi bức điện. Do đấy mà ông ta đã cố ý giết Amberiotis và không phải vì tai nạn.
Poirot im lặng, Japp nằn nì.
- Thế thì, Poirot, ông nghĩ gì về việc đó?
- Tôi nói rằng - ông trả lời - có thể là Amberiotis không phải do Morley giết.
- Không thể được. Không ai đến thăm ông ấy ở Savoy cả. Ông ta ăn trưa ở trong phòng mình và các bác sĩ đã khẳng định: Không có một vết thuốc độc nào ở trong dạ dày. Nó không phải bị nuốt qua miệng, mà được tiêm vào. Thế thì? Không, Poirot, cái vụ này là rõ ràng...
- Đấy là điều mà người ta muốn làm cho chúng ta tin. - Ông cảnh sát trưởng bằng lòng như vậy.
- Và ông ấy không yêu cầu có những sự giải thích nữa về sự biến mất của cô Sainsbury Seale sao?
- Điều đó là một việc khác. Cuộc điều tra đang tiếp tục. Người đàn bà ấy phải ở đâu đó. Người ta không thể biến mất như thế được...
- Người ta bảo rằng có đấy.
- Chết hay là sống, cô ta ở đâu đó. Và theo tôi, cô ấy không chết.
- Tại sao không?
- Bởi vì chúng tôi đã không tìm thấy thi thể cô.
- Tất cả mọi xác thịt được thu về nhanh đến thế à? - Chắc ông muốn ám chỉ rằng cô ấy đã bị ám sát và một ngày nào đó, chúng tôi sẽ phát hiện ra cô, ở sâu trong một công trường đá, bị băm nhỏ như thịt làm patê?
- Ông bạn thân mến, tôi không nói bóng gió gì cả. Chỉ có điều là theo tôi, hình như trong thực tế có những người biến mất mà người ta không tìm thấy dấu vết.
- Đấy là rất hiếm. Có nhiều người đàn bà biến mất, đồng ý, nhưng cuối cùng hầu như luôn luôn, chúng tôi tóm lại được họ. Chín mươi phần trăm là vấn đề tình cũ. Họ ở đâu đó với một người đàn ông. Tôi không tin rằng đấy là trường hợp của cô Mabelle, hai L, E của chúng ta.
- Người ta biết đâu được - Poirot thận trọng nói - Song tôi đồng ý với ông rằng diều đó ít có khả năng xảy ra. Dù thế nào đi nữa, ông có chắc rằng một ngày nào đó, ông sẽ tìm ra cô ta không?
- Tuyệt đối chắc. Dấu hiệu nhận dạng của cô ta được công bố trên báo chí và phổ biến trên đài phát thanh.
- Tất nhiên, điều đó có thể cho một cái gì...
- Chớ có lo lắng, ông bạn ơi - Japp kết luận - Chúng tôi sẽ lại tìm thấy cô ta cho ông, người đẹp của ông, với những bộ quần áo lót đẹp bằng len và tất cả, và tất cả…
Poirot đặt ống nghe.
* * *
George, rón rén đi vào theo thói quen, đặt lên trên chiếc bàn nhỏ một chai sô-cô-la tỏa hơi và một đĩa gatô ngọt. - George - ông nói - anh thấy tôi rất bối rối.
- Thực à, thưa ông? Tôi ngao ngán về điều đó.
Poirot tự rót một tách sô-cô-la. Ông khuấy cái thìa rất lâu trong món ăn lỏng như kem này mà không nói một lời nào. George, ân cần và kính cẩn, không nhúc nhích. Có nhiều lúc, Hercule Poirot đã tranh luận những cuộc điều tra của ông với người hầu phòng
mà ý kiến có lúc rất quý đối với ông. Một số dấu hiệu có thể tuột khỏi một người đầy tớ kém thông minh, và George đã nhận thấy rằng một trong những thời cơ ấy đã tới gần.
- George - Poirot nói - tôi nghĩ rằng anh đã biết tin về cái chết của ông nha sĩ của tôi?
- Ông Morley phải không, thưa ông? Vâng, thưa ông. Rất đáng buồn, thưa ông, ông ta tự bắn một viên đạn súng lục vào mình phải không?
- Đó là dư luận chung. Ông ta không tự tử, ông ta đã bị giết! - Vâng, thưa ông.
- Và nếu người ta đã giết ông ấy, vấn đề là, phải biết ai đã giết. - Rất đúng, thưa ông.
- George, tôi nói thêm rằng số người có thể giết ông ấy là hạn chế. Chỉ có thể phạm tội là những người đã ở trong ngôi nhà vào lúc ông ta chết hoặc những người đã có thể có mặt ở đấy. - Nhất định, thưa ông.
- Những người đó là: một bà nấu bếp và một bà hầu phòng, hai người đầy tớ tận tụy mà tôi sẽ gạt ra không chút do dự; một bà chị yêu ông ta mà tôi tưởng tượng là giết em, vì thừa kế em, lý do tài chính mà chúng ta không thể tự cho phép bỏ qua; một người cộng tác thông minh, năng nổ, đã hành động vì một lý do mà chúng ta không biết; một người phục vụ khá đần độn, trong óc nhét đầy chuyện tiểu thuyết trinh thám; và cuối cùng, một người Hy lạp có tiền sử khá nghi ngờ.
George húng hắng ho.
- Với những người nước ngoài này, thưa ông...
- Tôi hoàn toàn đồng ý với anh, George. Anh chàng Hy lạp là một tội phạm đã được chỉ rõ. Có điều là người ấy cũng đã chết, chắc là bị Morley giết, mà chúng ta không thể nói rằng ông này đã cố ý giết anh kia hoặc đấy là kết quả của một sự nhầm lẫn tai hại.
- Thưa ông, có thể là hai người đã giết lẫn nhau. Người ta có
"""