"Một Đời Như Kẻ Tìm Đường 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Đời Như Kẻ Tìm Đường Ebooks Nhóm Zalo Một đời như kẻ tìm đường Tác giả: Phan Văn Trường Hai cuốn sách đầu tay - Một Đời Thương Thuyết cùng Một Đời Quản Trị - là sự chắt lọc từ những trải nghiệm trong suốt nhiều năm tháng nghề nghiệp của bản thân. Tuy nhiên, với cuốn sách này tôi lại muốn dành một khoảng không gian riêng để có thể phản ảnh những cảm nhận cá nhân về cuộc sống với góc nhìn từ những năm tháng tuổi trẻ cho đến độ tuổi xế chiều này. Nói đến cuộc sống, đương nhiên chúng ta không thể quên những khoảnh khắc của sự lựa chọn, của những ngã rẽ - lúc mà mỗi cá nhân phải mạnh mẽ lấy những quyết định quan trọng, ảnh hưởng đến việc tiến thân. Không một ai thoát khỏi những phân vân, những lần lựa, những ưu tư và đôi khi cả những nuối tiếc. Khoảnh khắc khó chịu nhất có lẽ là khi mình đã lỡ chọn một hướng đi, nhưng ngộ được rằng con đường này nhiều chông gai, lắm rào cản và lại còn không phù hợp. Trong lòng, lúc ấy chỉ muốn được quay trở lại để bắt đầu, để lựa chọn lại một hướng khôn ngoan hơn. Việc lựa chọn tất nhiên đòi hỏi nhiều sáng suốt, nhưng trên hết người lựa chọn phải hiểu rõ thế giới mà mình đang sống và biết rõ chính mình muốn gì, và một mặt khác phải sẵn sàng cáng đáng lấy trách nhiệm trong sự lựa chọn. Nói một cách hoa mỹ hơn, mình chỉ tìm ra hướng đi đúng đắn và phù hợp cho bản thân nếu thấu hiểu rõ bản năng, bản ngã và cả tiềm thức của chính mình, cùng một tinh thần luôn sẵn sàng đối mặt với những hệ quả tốt và xấu từ sự lựa chọn ấy. Trong một đời người, có đến hàng chục thời điểm phải lựa chọn cho đúng. Ví dụ như chọn môn học, chọn nghề, chọn cho mình người bạn trăm năm hay là chọn nơi để lập nghiệp, rồi để ổn định đời sống gia đình. Có một sự lựa chọn chúng ta cần phải đối diện mỗi ngày, mỗi giờ, thậm chí mỗi giây, đó chính là chọn sự thay đổi. Từ những thay đổi rất nhỏ như một thói quen, một mái tóc hay thay đổi nơi làm việc đang gây ra sự nhàm chán, hoặc mạnh dạn hơn thế nữa là đổi hẳn nghề nghiệp. Rồi đôi khi phải ngậm ngùi thay đổi người bạn đời đầu ấp tay gối, chọn cả ly hôn hay tái hôn. Không chỉ có vậy, từ những chuyện thường tình như lụa bạn mà chơi cũng là một sự lựa chọn phải biết đắn đo cân nhắc. Có đôi lúc trớ trêu hơn, cuộc đời đặt mình vào một tình huống éo le, mình muốn đổi hẳn đời nhưng phải đánh đổi quá nhiều thứ thân thuộc. Những lúc ấy, áp lực phải chọn lấy một quyết định khôn ngoan quả thật nhức nhối. Vào khoảnh khắc này, tâm hồn mình mới cảm nhận rõ sự mông lung và vô thường của cuộc sống. Số đông chúng ta thường đi tìm ánh sáng của Đấng Trên cao, của tâm linh, hay thấp hơn là ý kiến của cha mẹ, bạn bè thân thuộc. Mình bỗng cảm thấy cần tìm hiểu lại bản thân, rằng mình là ai, mình muốn gì, mình có còn là đúng con người mình những năm về trước không. Nếu làm xong được việc tự soi xét chăng nữa, thì ngay sau đó mình phải khẳng định lại cho bản thân biết rõ những thứ gì là chính nên được ưu tiên, còn những thứ gì chỉ là phụ. Ngày nay, không như xưa kia, quyết định nào cũng mang tính cá nhân, nhưng lại có ảnh hưởng rộng rãi trên toàn tập thể. Xưa kia, mỗi khi cần lựa chọn, nhiều gia đình họp nhau lại để cùng bàn luận và giúp cho thêm ý kiến, nhưng ngày nay không còn như thế nữa. Mình có bao nhiêu gia đình, bằng hữu chăng nữa, quyết định vẫn là của mình, một mình trơ trọi. Tại sao thế? Thứ nhất vì thế giới ngày hôm nay đa dạng hơn xưa nhiều, và những cảm nhận về cuộc sống giữa những người thân thậm chí cũng hoàn toàn khác nhau. Không ai có thể lý luận thay mình, và tất nhiên những ý kiến của mọi người chung quanh đưa ra chỉ phản ảnh những kinh nghiệm mà họ đã từng trải, khó có thể áp dụng lên bất kỳ ai. Thứ hai vì trách nhiệm trong sự quyết định là hoàn toàn cá nhân, ai chơi người ấy chịu. Iỳ dụ như có rủi ro xuất hiện, không ai khác ngoài bản thân đơn độc cần phải chấp nhận hậu quả với cuộc chơi mà mình điều khiển. Vào đúng lúc đó, không có một người bạn thật sự nào sẽ can thiệp hay chịu đòn cùng, vì họ biết rằng chẳng thể nào tự cho cái quyên tước đi những kinh nghiệm hay những bài học bạn cần phải có. Thành thử, xã hội ngày nay buộc mỗi cá nhân phải tự nhận lấy việc cáng đáng bản thân một mình. Tình huống này lại không phù hợp với văn hóa cố hữu của Việt Nam chúng ta, bất cứ cái gì là gia đình cũng can thiệp, cha mẹ mắng mỏ con cái, vợ chồng khiển trách nhau, anh chị em chỉ trích đan xen lẫn lộn. Trong khi bản chất của mỗi quyết định là hoàn toàn ở phạm vi cá nhân. * * * Từ nhiều năm qua, mỗi ngày tôi nhận được khá nhiều câu hỏi từ rất nhiều thành phần trẻ, qua tin nhắn hoặc điện thư xin ý kiến. Ngạc nhiên là tất cả hầu hết luôn tập trung vào một đề tài: hướng đi cho tương lai. Thú thật, tôi đi nhiều nước, gặp khá nhiều thanh niên trẻ, nhưng chỉ có ở Việt Nam tôi mới gặp sự chuyên nhất vào một đề tài như thế này. Những câu hỏi xuất phát một phần từ các em nhỏ 17, 18 tuổi, nhưng nội dung hỏi không hề vớ vẩn. Chúng phản ảnh khách quan những tình huống gay go, khúc mắc, đôi khi rất hồn nhiên và tất nhiên luôn trung thực. Nói chung, những mối quan tâm của các em thật sự không hề luẩn quẩn, phải chăng chỉ là do sự thiếu sáng suốt của con người, hay trớ trêu thay, nó luẩn quẩn vì người đặt câu hỏi đang sống trong bối cảnh quá bấp bênh và đầy biến đổi. Tất nhiên, khi không nắm rõ thế giới chung quanh thì không thể nào chọn lấy đúng cho mình một quyết định, một hướng đi, một phương án. Phần lớn những câu hỏi còn thể hiện rất rõ một thế hệ trẻ đầy ước mơ, hoài bão. Các em mang nhiều khát vọng nhưng vẫn đói dự án, mờ mịt hướng đi. Các em chứa nhiều năng lượng, nhưng vẫn thiếu cơ hội thi thố, thiếu sự dẫn dắt. Các em tràn đầy óc sáng tạo nhưng lại gặp bối cảnh quá khô cằn, thiếu nhà đầu tư. Và các em hỏi tôi bây giờ nên đi đâu, hướng nào trước? Tại sao các em hỏi tôi thì tôi cũng không biết. Có lẽ các em đã hỏi rất nhiều người, và có lẽ phương tiện Internet cho phép các em lan tỏa câu hỏi một cách rộng rãi và đôi khi tùy tiện. Nào tôi đâu có lời giải đáp cho tất cả những câu hỏi! Nhưng, tôi đã không để một thắc mắc nào tiếp tục đơn côi, tôi cố gắng đem lại cho mỗi em một cách nhìn khác cùng với chút ít tự tin. Sau nhiều năm làm việc này, tôi mới nảy ra ý nghĩ gom góp tất cả những thắc mắc của người hỏi vào một nơi để mọi người có thể cùng đọc, cùng bàn luận và chia sẻ. Vậy bạn đọc đã rõ sách này của tôi sẽ gom toàn những ý kiến cá nhân, những cảm nhận của riêng tôi về cuộc đời. Làm vậy tôi không tránh được chủ quan, thậm chí tôi chỉ có thể chủ quan mà thôi. Một tác giả nào khác trong một tình huống tương tự sẽ có những ý kiến khác trước một vấn đề chung. Tôi xin bạn đọc chấp nhận khuynh hướng riêng tư như vậy. Bạn hãy rút tia từ sách những gì bạn muốn rút tỉa, và hãy bỏ rơi những ý không thuộc về bản ngã của mình lại. Nhân tại đây, có một vướng mắc tôi không tài nào vượt qua được, mong độc giả lượng thứ! Đó là văn hóa các vùng miền địa phương của Việt Nam chúng ta khá đặc trưng. Từ đó, những ý kiến chủ quan của tôi đôi khi chỉ phù hợp cho miền Nam mà ít ăn khớp với sự chờ đợi của bạn đọc miền khác. Chỉ có một điều tôi chắc chắn, là những khuynh hướng tôi diễn tả trong sách phản ảnh xã hội tương lai của loài người nói chung và nước ta nói riêng. Tương lai phải là chìa khóa, dĩ vãng đã vào lịch sử và đương nhiên trở thành những bài học. Trong sách, tôi đã đưa ra chuyện của Từ Thúc như kẻ tìm đường, nhưng thực ra, kẻ tìm đường là chính tôi. Tôi không đi tìm thiên thai và cảnh lạ. Tôi chỉ cố gắng đi tìm những phương thức phù hợp nhất cho mình, cho mỗi cá nhân, mỗi dân tộc. Nhưng khi đi tìm, tôi không có tư duy của người độc đoán mà ngược lại chỉ muốn trao vài ý nghĩ cho những thế hệ sau. Việc đáng làm lắm vì các thế hệ Việt Nam tương lai đầy hứa hẹn. Tiềm lực mà các Thánh Nhân đã trao cho dân tộc thực sự lớn, sâu và rộng, không biết cộng đồng dân tộc có nhận thấy rõ chăng? Tiềm lực đó, một ngày nào đó chắc chắn sẽ phải phát triển với nét thuần túy của dân tộc. Kiến tạo một nếp sống kinh tế và xã hội cho tập thể Việt là một điều mà tất cả chúng ta nên làm, phải làm, và việc của tôi chỉ là một phần đóng góp nhỏ bé, tuy đậm tinh thần trách nhiệm tôi tự cho. Một Đời Thương Thuyết là sách của những kỹ năng. Ở đây là tạo sự thông cảm giữa người với người để đi tới những thỏa thuận có lợi cho đôi bên. Một Đời Quản Trị là sách của những nguyên lý. Ở đó là nơi để duyệt lại những yếu tố nào tạo nên một tập thể hùng mạnh với động lực, hiệu năng tối đa để đoàn kết và phát triển. Sách Một Đời như kẻ Tìm đường nghiêng hẳn về triết lý sống. Nhưng sách không do một triết gia viết, mà do một người yêu đời, yêu người, yêu hạnh phúc, yêu tình thương, yêu tiến bộ và nhất là yêu dân tộc một cách thật giản dị viết. Mang sự trải nghiệm sống thực để lan tỏa. * * * Lần ra quyển sách này, trái với hai lần trước, tôi đã có ý xin những cộng đồng trẻ giới thiệu sách của tôi. Sách Một Đời Thương Thuyết đã được anh Lê Viết Hải, Chủ tịch Tổng Giám Đốc Tập đoàn Xây dựng và Địa ốc Hòa Bình giới thiệu. Anh Hải là ân nhân của tôi. Anh và tôi đã cùng các anh em khác trong Tập đoàn Hòa Bình chia sẻ nhiều kỷ niệm làm việc và sống trong hơn một thập niên. Tập đoàn dưới sự lãnh đạo của anh Hải đã từ một doanh nghiệp xây dựng còn con trở thành một tập đoàn hùng mạnh đúng hàng đầu doanh trường. Sách Một Đời Quản Trị đã được anh Hoàng Nam Tiến, Chủ tịch Tổng Giám Đốc FPT Software giới thiệu. Anh Tiến là một trong những lãnh đạo doanh nghiệp sắc sảo nhất mà tôi từng gặp, không riêng gì trên đất Việt Nam mà cả trên nền kinh doanh hoàn vũ. Anh Tiến và tôi cũng cùng thuộc Giáo sư đoàn của Trường Kinh doanh FPT nổi tiếng (FPT School of Business) thuộc Đại học FPT. Tôi vô cùng ngưỡng mộ anh Tiến. Trong sách Một Đời như kẻ Tìm Đường, tôi muốn dành những trang giới thiệu cho ba tập thể vô cùng năng động. Họ là những người trẻ sắc sảo, sáng tạo, chuyên cần và can trường. Đó là: Câu lạc bộ Sách và Hành Động dưới sự lãnh đạo của anh Cao Đức Thái, và nay của anh Nguyễn Văn An. Anh Thái đã được Forbes liệt vào danh sách những người trẻ đóng một vai trò chủ chốt trong tương lai. Câu lạc bộ Sách và Hành Động nay đã có hơn 200 câu lạc bộ chi nhánh địa phương trên khắp nước. Câu lạc bộ Mầm Sống, một tập thể năng động và lành mạnh dưới sự hướng dẫn tuyệt vời của Cô Nguyễn Thị Thu Lài, đã từ hơn tám năm vừa qua tổ chức những cuộc thi hùng biện với trình độ văn hóa vô cùng cao. “Say to Succeed” (Nói để thành công) quy tụ hàng ngàn thí sinh trẻ từ các trường đại học toàn quốc trong một cuộc thi thật hấp dẫn được tổ chức hàng năm tại Đại Học Ngân Hàng, Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Câu lạc bộ Khởi Nghiệp Nông Nghiệp Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một Ban Chủ Nhiệm đông đảo và nhiệt tình, đã trở thành một hệ thống sinh thái trong đó các nông dân trẻ được chia sẻ những kinh nghiệm quý báu của các anh em nông dân kinh nghiệm để tìm đường khởi nghiệp. Khi tôi viết những dòng chữ này, Câu lạc bộ đã qui tụ được hơn 70 ngàn thành viên từ khi 22 người chúng tôi thành lập vào tháng 7 năm 2017. Cả ba câu lạc bộ nói trên đã tặng cho cá nhân tôi những buổi sinh hoạt thật ấn tượng. Cùng với một số câu lạc bộ khác trong nước mà tôi cũng quen biết và chia sẻ sinh hoạt, tất cả các em sẽ là rường cột của một thế hệ sắp tới vẻ vang và tôi tin chắc các em sẽ lan tỏa những giá trị tinh thần và đạo đức mà các em sẵn có và đang tu luyện. Tôi đã nhận được vinh dự đồng hành một số năm tháng với các em và tôi xin bày tỏ nơi đây lòng biết ơn sâu sắc. Cảm ơn các em đã giới thiệu sách của Thầy! Sau cùng, tôi cũng lại theo tinh thần của hai cuốn sách trước - Một Đời Thương Thuyết và Một Đời Quản Trị để tăng trọn tác quyền và bút nhuận cho Quỹ Lê Mộng Đào, một quỹ xã hội của Tập Đoàn Xây Dựng và Địa Ốc Hòa Bình giúp đỡ sinh viên nghèo vượt khó và xuất sắc. Sách cũng là cẩm nang tôi muốn trao lại cho các em ngày hôm nay còn trẻ, vào những năm 2050 sẽ ở độ tuổi quyền lực và chín mùi nhất, với hy vọng các em góp nhặt được những điều thực sự có ích. Tôi đã chọn cách viết với tinh thần độc lập cho mỗi chương của sách. Tuy các chương có mối liên hệ mật thiết với nhau, nhưng bạn đọc có thể đọc cuốn sách mà không theo thứ tự của các chương. Cũng vì lựa chọn đó mà đôi khi tôi bắt buộc phải lặp lại một vài ý niệm đã có trong một chương khác, để giúp cho bạn đọc hiểu dễ hơn. Sách này được viết bởi một người suốt đời khao khát, tìm tòi những đường hướng tốt để đi, mong muốn tặng lại những người trẻ đang khát khao cũng tìm kiếm hướng đi đúng đời mình. Không cầu kỳ, không giáo điều, sách chỉ chứa toàn chuyện đơn giản cho những con người giản đơn. Bạn đọc hãy hiểu ý tôi, làm được việc này tôi sẽ rất mãn nguyện. PHAN VĂN TRƯỜNG 02/01/2019 Vào đề Quo vadis? Ngài đi đâu? Năm 14 tuổi là năm đầu tiên tôi phải có một lần suy nghĩ để phải làm việc này. Thuở ấy, nhà trường (Trung học phổ thông Lê Quí Đôn - Sài Gòn) viết thư cho các phụ huynh với đôi lời nhắn nhủ về việc chọn hai ngoại ngữ, và nhất là chọn giữa hai học trình Cổ điển (classique) hay tân thời (moderne). Đó là giai đoạn những năm 50-60 của thế kỷ trước. Vào thời đó, ngay cả cha mẹ tôi cũng bối rối, bởi lẽ không ai trong gia đình tôi có ý niệm gì về ngôn ngữ thịnh hành trên thế giới, họa may tiếng Anh chăng? Còn về học trình cổ điển thì nghe khá lạ tai, vì chương trình sẽ đặt trọng tâm vào tiếng La Tinh, tiếng Hy Lạp cổ. Ông Hiệu trưởng thì hết lời để khuyến khích học sinh đi theo lộ trình cổ điển. Ông giải thích rằng các Kinh Thánh cần được hiểu tận gốc, các nền văn hóa Tây Âu cần được thấu triệt qua việc tham khảo và nghiên cứu các bài viết của những tác giả ngàn xưa, như Socrates hay Platon, mà họ bảo là tiền đồ của nền triết lý nhân loại. Cha mẹ tôi vừa nghe thấy “hiểu tận gốc nền triết lý của nhân loại” nên thích lắm. Nhưng may mà cả hai đều không có tư duy áp đặt. Tôi thì không hiểu sao cứ nghe chữ cổ thì lại thấy chối tai. Ngoài ra, có một yếu tố rất ấu trĩ giúp tôi lấy định hướng cho đời mình. Đó là tôi có ba người bạn thân học cùng lớp, anh Chí, anh Thi và anh Nguyên cứ rủ tôi nghe một loại nhạc Mỹ giật gân, mới phổ biến, mà hai ca sĩ chính sau này nổi tiếng hoàn vũ, đó là Elvis Presley và Paul Anka. Ba anh nghe loại nhạc này vừa nhi mắt thưởng thức và vừa đứng ngồi không yên. Chỉ có chút ngôn ngữ cơ thể thế thôi đã làm cho trái tim của tôi nghiêng hẳn sang cao trào tân thời. Nhiều khi chuyện đời nào cũng sẽ nghiêng sang một bên do bị ảnh hưởng của những yếu tố kỳ lạ, nhẹ nhõm và khó giải thích. Và đó là trường hợp của tôi, thời thiếu niên. Trong cuộc thương thuyết với cha mẹ, đề tài chọn nghề cũng xuất hiện đột ngột vào đúng lúc tôi chưa được cầm một xu tiền mặt nào vì khi ấy mẹ tôi cấm. Hơn nữa, tôi cũng chưa có ý niệm sau này phải đi làm để có tiền trang trải cuộc sống, nói chi đến chọn nghề, đó là tư duy của các thiếu niên vào những năm 50, thế kỷ trước. Cha tôi thì thích ngành kiến trúc. Mẹ tôi thì thích nghề bác sĩ. Và cuối cùng hai ngài đã hướng ý thích của tôi vào lộ trình công chức, một hướng đi quá an toàn cho tôi, và cả cho mẹ tôi bởi vì bà nghĩ như thế thì con trai bà sẽ không bao giờ rời khỏi vòng tay mình. Còn đối với cha tôi, chữ “công chức” có lẽ chứa hàm một chút ý tưởng về việc con trai ông sẽ tham gia vào các hoạt động Công tác xã hội nhiều hơn. Cuối cùng, bạn đọc cũng đã đoán ra, cha mẹ tôi cho phép tôi đi theo hướng “tân thời” và chọn tiếng Anh làm ngoại ngữ chính. Đây là lựa chọn đầu tiên của cuộc đời tôi. Nó khởi đầu cho một chuỗi dài những quyết định tuần tự sau này, đôi khi còn khó đưa ra hơn rất nhiều. Đây là cuốn sách của đời tôi. Có lẽ chẳng giống ai, mà dù như thế cũng chẳng sao. Nhưng điều quan trọng nhất chính là tôi muốn chia sẻ cho bạn đọc những cái duyên kỳ lạ và bất ngờ của cuộc đời, dẫu đó là cuộc đời của tôi hay của các bạn. Những mối duyên kỳ lạ này đôi khi dẫn dắt tôi đi đến những chân trời không thể nào đoán trước được. Bạn chở đánh giá cuốn sách, vì sách là chuyện của tôi, nhưng bạn có thể đánh giá chính tôi với tất cả những điểm mạnh và yếu, vì sách này là chuyện thật, là những ý tưởng thật mà tôi từng có nhiều năm về trước, ngày hôm qua và mới hôm nay. Dẫu vậy, sách này không phải là truyện về cả cuộc đời tôi, mà chỉ phản ảnh những chuyển biến theo dòng lựa chọn vô tình hay cố ý trong mỗi khoảnh khắc. Mà vô tình thì nhiều hơn trong trường hợp của tôi, vì ít khi nào tôi có dịp đặt hết lý trí vào một sự cân nhắc để đi tới được một lựa chọn hợp lý. Sách này cũng có thể được xem như một cuộc “so tài” giữa linh tính và lý trí, mà bên thắng cuộc không bắt nguồn từ bộ óc tính toán mà từ con tim hồn nhiên và vô tư. * * * Cuộc đời của mỗi chúng ta có thể ví như một con đường với hàng ngàn khúc quanh, đến khúc quanh nào chúng ta cũng bắt buộc phải có những lựa chọn. Chọn hướng đi, chọn phương án, chọn kẻ đồng hành, chọn những trang bị, chọn thời điểm hành động. Rất nhiều khi chúng ta cũng không có quyền lựa chọn, hoặc không muốn lựa chọn, hoặc không biết lựa chọn. Nhưng rồi cuối cùng chúng ta cũng bắt buộc phải bước tiếp. Tới đâu thì mỗi người một nơi, mỗi người một hoàn cảnh, tới những nơi ta muốn đến hay không thực sự muốn đến. Đôi khi không biết đi đâu nhưng cũng vẫn đi, giấc mơ tiến tới tương lai mạnh đến mức trở thành ám ảnh, cho dù tương lai là cái gì còn mù mờ. Phải chăng, trong nghiệp chướng của mỗi con người có một sự thúc đẩy để sớm khởi hành, không thể dừng lại được. Cuộc đời dù là tiến hay lui, vẫn phải tiếp tục bước đi. Cá nhân tôi trong suốt bấy nhiêu năm toàn gặp những tình huống lạ kỳ. Nhiều lần như thế, mỗi lần y như một: phải đưa ra một quyết định, phải lựa chọn, và sau đó mọi việc tiếp diễn như không cần tới mình. Mỗi lần mình tìm giải pháp, tìm hướng đi là một lần số mệnh đầy mình đi vào một lộ trình không muốn mà mình chẳng biết trước tốt hay xấu. Tổi sang Pháp năm 17 tuổi, chẳng chọn đi, mà cũng chẳng chọn Pháp. Tôi tốt nghiệp kỹ sư, mà nghĩ lại cho cùng thì mình chưa bao giờ mơ làm kỹ sư, họa may làm bác sĩ hay kiến trúc sư như bố mẹ tôi từng mong mỏi. Tôi sống hòa đồng vui vẻ với vợ tôi đã được một nửa thế kỷ, nhưng bạn có tin không, tôi chưa bao giờ thực sự cân nhắc việc sống chung với cô ấy. Không chọn nhưng rốt cuộc tôi đã có được một cuộc sống gia đình mà nhiều người có thể hằng mong. Về bạn bè nói chung cũng vậy, tôi chưa chọn bạn nào bao giờ trong cuộc đời. Họ tới với tôi một cách thật tự nhiên. Và trong số đó, tôi có nhiều bạn tốt. Tôi cũng chưa bao giờ mơ đến quyền lực, nhưng rồi cuộc đời nghề nghiệp đã đưa tôi vào những vị trí quyền lực kinh tế quốc tế cực mạnh trên cả năm châu. Đó không phải là sự lựa chọn nào, nó tới ngẫu nhiên. Một chuyện lạ khác, tuy tôi là kỹ sư cầu đường, nhưng chưa bao giờ tôi thiết kế cầu hay xây dựng một con đường nào cho ai đi. Nhưng ngược lại, đây là một mâu thuẫn nữa, tôi đã làm tư vấn về kinh tế và đã dạy kinh tế trong đại học nhưng chưa bao giờ học kinh tế; tôi đã làm chuyên gia quy hoạch vùng và chỉnh trang lãnh thổ, một môn hoàn toàn xa lạ, tôi đã làm nghề buôn bán những nhà máy điện khổng lồ tuy chưa bao giờ học về điện lực; tôi đã lãnh đạo doanh nghiệp xây đường sắt, metro và cao tốc trong khi trước đó chưa bao giờ tôi có chút ý niệm gì về kỹ nghệ giao thông; tôi đã chủ trì một tập đoàn làm nghề lọc nước và phân phối nước lọc cho các đô thị từ nước sông trong khi tôi chưa bao giờ bước chân vào môn hóa; và tôi đã làm lãnh đạo trong một công ty thuộc ngành dầu khí, vốn cũng là một chân trời quá xa lạ. Bạn ạ, thử hỏi chọn lựa ở đâu, chọn lựa hướng đi gì khi cả cuộc đời làm toàn những gì mình chưa bao giờ đi học, và ngược lại chuyện quái gở là chưa bao giờ tôi có dịp thi thố những gì nhà trường đã bỏ công đào tạo? Một câu hỏi thật to lớn cho những phụ huynh, cho những học sinh đang chọn nghề! Chưa hết, tôi sinh ra làm người Việt nhưng suốt cuộc đời nghề nghiệp lại tại vị ở nước ngoài. Nắm vững được tiếng Pháp thì cuộc đời lại đưa đẩy sang làm việc ở xứ nói tiếng Anh (Anh Quốc, Fiji, Singapore, Malaysia), thậm chí tiếng Bồ Đào Nha (Brazil). Đến tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ Việt của mình cũng chẳng mấy sử dụng, mà rốt cuộc vẫn phải làm việc bằng ngôn ngữ xứ người trong hơn bốn chục năm. Bạn ạ, đừng nói là tôi đã lựa chọn! Hay đúng hơn, lúc phải lựa chọn, tôi đã bị cuộc đời đưa đẩy để rồi chỉ còn một phương án duy nhất mở đường. Đi hay không đi, chứ không được chọn hướng, chọn nơi, chọn lúc, chọn bạn và đối tác, chẳng có gì mình được thực sự chọn cả. Ở một lĩnh vực khác, tôi chưa bao giờ chọn làm nghề giáo viên, nhưng rồi các trường đại học tại nhiều quốc gia đã dành cho tôi những giờ làm việc lý thú. Đến lúc về lưu, vốn dĩ lọi người có thể thả lỏng đi vào thời kỳ thư giu thì tôi lại được Dụng Trên Cao động viễn, tôi đã phải nghiên cứu những hồ sơ củy cầm cậu, tư vấn cho không biết bao nhiều doanh nghiệp, tập đoàn. Không những thế, hầu hết công việc tôi làm đều là miễn phí, giống như một ông phụ lục lộ phải đi kiếm kế sinh nhai: Đã có lột động lực vô hình nào thúc đẩy tôi làm như vậy, chứ thật lòng nào tôi có mơ và càng không có chọn lựa! Đến khi “thất thập cổ lai hi” tức ngoài 70 thì tôi mới bắt đầu viết sách. Ở tuổi đó, có khả nhiều nhà văn viết sách, nhưng chẳng ai lại viết sách đầu tay khi vào tuổi “chống gậy, răng long”. Nhưng bạn có ngạc nhiên không khi tôi chưa bao giờ giỏi về văn chương! Điều đó phản ánh qua điểm số văn chương của tôi khi còn ngồi ghế nhà trường. Còn bố tôi - một nhà văn thực thụ - thậm chí còn phê rằng: “Con chớ bao giờ dùng ngòi bút cùn của con để sinh sống”. Thế nhưng tuy đã xa quê nhà hơn 50 năm, tiếng Việt của tôi tuy đã lai hóa, tha hóa, biến hóa, tôi hóa đến trở thành khó hiểu, tôi đã học lại tiếng mẹ đẻ để rồi sách đầu tay Một Đời Thương Thuyết đã được vinh danh “Giải Sách Hay 2016”. Thật sự đây cũng là chuyện hi hữu, khó tưởng. Dù sao việc viết sách cũng không phải một lựa chọn đích danh. Ngay chính cuốn sách này, tôi đang viết và bạn đang cầm trên tay, tôi cũng không thực sự hiểu sao mình viết nó, nhưng tôi có thể khẳng định rằng đây cũng không phải là lựa chọn của riêng tôi. Bạn có thể quát lên: ông nói gì? Làm sao ông có thể ngụy biện đến độ ông dám khẳng định chẳng bao giờ ông muốn viết nó, trong khi mọi người đều biết ông có thể đã bỏ ra rất nhiều công sức để tạo nó ra? Nhưng tôi vẫn cứng đầu, ôn tồn thưa với bạn đọc: tôi không biết động cơ nào đã thúc đẩy mình làm việc này, không biết mình sẽ tìm nghị lực ở đâu để cuối cùng tạo ra nó, cũng như tôi đã từng đầu tư một khối nỗ lực to lớn để viết xong hai sách đầu tay, nhất là cuốn Một Đời Quản Trị. Động lực nào? Năng lực nào để tôi có thể cáng đáng thêm quyển sách thứ ba? Tôi có thể giải bày, nhưng chắc chắn với bạn rằng lần này cũng không phải là một quyết định duy lý. Nhất trí là không. Và hôm nay, tôi chỉ trông thấy trước mặt một quả núi cố gắng mà mình phải vượt. Ngại lắm, do dự lắm, nhưng dường như có ai đó cứ thôi thúc tôi phải làm việc mà chính bản thân tôi, dù muốn hay không, vẫn chẳng tài nào cưỡng lại được. Có phải là tình yêu tôi dành cho thế hệ sau đã dẫn dắt đôi bàn tay tôi và cả khối trí óc của tôi tiến bước? Tôi cũng không biết! * * * Một trong những yếu tố đã thúc đẩy tôi trong việc tiếp tục viết những quyển sách chính là những lá thư mà rất động sinh viên và học sinh trung học phổ thông gửi riêng cho tôi. Hầu hết các em khao khát tìm thấy ở tôi một lời khuyên. Có lẽ vì các em đang đứng trước những lựa chọn, trong một tình huống éo le mà tôi đoán được vì chính tôi đã sống những giây phút tương tự hồi tôi còn trẻ: tôi còn nhớ những buổi tối hàn huyên với bố mẹ về việc lựa chọn môn học và nghề nghiệp mai sau. Những buổi đó thường bắt đầu bằng một không khí ôn tồn, nhưng rồi nội dung gay go của vấn đề sẽ sớm khơi dậy những ước mong mâu thuẫn giữa cha, mẹ và tôi, những lý giải mà thực sự cả bộ ba đều không nắm vững. Với mẹ tôi, bà cho rằng cứ làm công chức là được - một giấc mơ vừa đơn giản vừa thực tiễn, cách mẹ thương con là cầu mong cho con một cuộc sống an nhàn. Cha tôi thì lại nghĩ rằng tương lai của đứa con phải hùng hồn hơn bởi ông tin vào cái lý của ông bà xưa rằng “con hơn cha là nhà có phúc”. Nhưng rồi cha tôi cũng thốt ra một câu não nuột: toán mày cũng kém, văn mày cũng còn, lý hóa mày chẳng chịu học, sử địa thì mày lười... Rồi cha đi dần tới trạng thái bức xúc khi nhắc về chuyện học hành, nghề nghiệp của tôi. Cuối cùng, bữa nào tôi không ăn tát là may. Tôi vẫn nhớ những cái tát của cha, và ngày hôm nay tôi vẫn chảy nước mắt, đo được tình thương của cha qua sức mạnh của cái tát năm nào. Dẫu vậy cũng có hôm câu chuyện trở nên tích cực hơn: mẹ bảo làm bác sĩ kiếm tiền bộn lắm, cha nói làm kiến trúc mới tận dụng được óc sáng tạo, và ông có vẻ hăng hái hơn với suy nghĩ này. Nhưng rồi mẹ lại bảo làm kiến trúc thì đói, thế là đến lượt hai ông bà choảng nhau: bà chẳng biết gì thì đừng nói; ông cứ độc đoán như thế này thì bàn với bạc vào làm gì mất công. Còn tôi thì mù tịt. Mười sáu tuổi mà đã biết gì, nói chi đến lấy những quyết định! Hôm nọ, trên Facebook, một trong những sinh viên mà tôi quý trọng đã công khai lên một vài suy nghĩ của em, mà tôi cho là tiêu biểu cho hàng ngàn lá thư tôi thường nhận được. Tôi xin đăng lại nguyên văn: “Viết cho những ngày chợt nhìn lại và suy nghĩ thật nhiều, về cuộc đời và những sự lựa chọn... Năm nhất Đại học, là một đứa hăng say tham gia rất nhiều hoạt động và may mắn được ghi nhận nhờ đó. Mình đã từng cảm thấy nuối tiếc và lãng phí thay cho những đứa bạn xung quanh vì cảm thấy tụi nó sống thật “đáng chán và vô vị”, mình không chấp nhận việc một sinh viên ĐH suốt ngày thu mình trong phòng, cuộc sống chỉ xoay quanh việc ăn, ngủ và bấm điện thoại. Mình khi ấy không muốn bản thân trở thành một người như vậy chút nào. Trong rất nhiều những lựa chọn cho quãng đời tuổi trẻ, tại sao “tụi nó” lại lựa chọn như thế? Giờ nghĩ lại mới thấy sao hồi đó mình vô duyên quá! Đi mãi mới hiểu được rằng mình chẳng thể thay đổi một ai trừ phi họ thật sự muốn điều đó. Rằng những lời khuyên khi ấy nói ra thật vô nghĩa. Nói vậy không có nghĩa là mình sẽ để mặc những người như vậy, việc mình có thể làm và nên làm nhất là phải nỗ lực thật nhiều và sống thật tốt. Trước là để yêu thương bản thân, sau là để đến khi họ giật mình và lựa chọn thay đổi, khi ấy mình sẽ có đủ khả năng để giúp đỡ họ. Mình của những khi đó đã quên rằng mỗi người đều có định nghĩa riêng cho mình về “hạnh phúc”, và việc gì xảy ra đều có thời điểm của nó. Ba năm trôi qua, dù có đủ sáng suốt hay không, dù tự do hay bị ép buộc thì mình cũng đã đưa ra những lựa chọn riêng cho mình lựa chọn những thứ tự ưu tiên, lựa chọn phải đánh đổi những gì để có được những gì, lựa chọn sẽ bắt đầu và nói lời kết thúc với những gì, sẽ mở lòng và đồng hành cùng ai,... Những khi vui vẻ lại thầm cảm thấy biết ơn vì “đang đi đúng con đường mình lựa chọn”, những khi buồn chợt nhìn lại mà cảm thấy nuối tiếc và nghi ngờ liệu mình đã lựa chọn đúng hay chưa. Rằng giá như có thể quay lại mà chọn lựa khác đi... Mà giả sử mình biết trước tất cả lựa chọn đưa ra đều đúng đắn, liệu mình có còn cảm thấy vui, liệu mình có cảm nhận được ý nghĩa nằm trong sự cố gắng”? Suy cho cùng thì không có sự lựa chọn nào là đúng đắn hay sai lầm cả, vì khi đã chọn, mình đâu còn cơ hội để thử những lựa chọn khác. Có thể tại thời điểm này đó là một lựa chọn sai lầm nhưng về lâu dài, biết đâu chính điều đó lại mở ra cho ta những khung trời mới mà khi đủ thời gian để nhìn lại, mình lại thầm cảm ơn bản thân rồi sao? Thế nên việc cần làm phải chăng là cứ nuối tiếc và đoái hoài những lựa chọn bị bỏ lỡ, mà quên mất rằng điều cần làm là vui sống với lựa chọn của chính mình và làm cho nó trở nên đúng đắn? Chi riêng việc được tự do lựa chọn đã là một điều đáng để biết ơn rồi... ... như lời một người Thầy mình vô cùng kính trọng đã nói rằng: "Your life. Your choice!" Mình tin rồi sẽ đến “một ngày đẹp trời mình sẽ nhận ra tất thảy những việc đã xảy ra, đều nên xảy ra”. ... và mình vẫn đang cố gắng đi đến cùng những lựa chọn của mình... Sài Gòn, ngày 18/12/2018 Ngày chưa giông bão, Hà Ngọc Bảo Hân Câu Lạc Bộ Mâm Sống/ Đại Học Ngân Hàng Thủ Đức (Tôi được phép của Bảo Hân qua điện thoại để đăng tải lại thư riêng) Tất cả bài triết lý của tuổi trẻ xoay quanh đề tài: lựa chọn! Và hiện rõ ra một sự hoài nghi về những phương án đúng đắn, chỉ có tương lai mới trả lời được, mong mỏi một ngày đẹp trời sẽ đến. Có lẽ sách này phần nào là câu trả lời cho câu hỏi đó. Một câu hỏi mà tôi đã nhận được mười nghìn lần trong suốt nhiều năm qua, tiêu biểu cho hàng triệu thắc mắc của các em trẻ khắp nước. Không thể chối cãi, việc lựa chọn ám ảnh các em và cha mẹ các em. Tôi cũng không thể nào quên lời khuyến khích của Anh Dương Thành Truyền, Chủ tịch Nhà Xuất Bản Trẻ mỗi lần tôi tới thăm Anh và em Đặng Vĩnh Thắng, người biên tập cho hai sách Thương Thuyết và Quản Trị. Anh cứ nhắc tôi là phải viết một cuốn sách thứ 3 cho đủ bộ. Anh dùng chữ Pháp “trilogie”, có nghĩa là một bộ ba. Anh bảo tôi, tựa đề của sách mới bắt buộc phải dùng lại chữ “Một Đời...”. Nói thế cho vui, vì nhiều bạn trẻ của tôi khẩn khoản xin tôi viết về tình yêu và hạnh phúc, nhưng đối với một người có 50 năm có lẽ chng có sóng đó máy đá điển ti Có bạn khác lại chuyện tôi nên viết về 3: Đời Sài Linz, chắc tin ban ấy nghi ngờ đời tôi là đế ngồi trái măng vào Each và cach vì tin: Việc này dưng là việc nghìn năm, minh quá nhỏ bé để xế lá Thi, xét cho cùng, tôi đầu viết sách đá viết sách Tôi đi đếm tiền bằng nghề bán sách đối với tôi, nội dung: phải đi TCC hình thức, hình thức chi là cái bao Loc ga chi tôi viết LMột Đời Quản Trị có người đã đề nghị với tôi viết lại thành ba ba cuốc du Nghệ thuật quân nhân sự, “Mười hai bí quyết để I :”. Nhìn tối đối với tôi, mình có thông điệp rất cần hết tại cho đến ng cho cộng đồn: hình. Và cuối cùng những bức thư của các em trẻ sinh viên lành - :-gi-ning in mới nghiệp cùng công chuối các Locsin III thì hàng rin, cha tôi có kết luận là không có =tốt hơ: việcertai nghiệm thực tế tài cấp những câu hỏi các et cette Có một lý do khác làm tôi muốn viết. Đó là để cấp ra tình thường đặc biệt của một bậc tiền bối dành cho cá nhân tôi - Bác Đoàn Thẻm (1955-2005). Sinh thời, Bác Đoàn Thêm là một nhà văn nổi tiếng khi xưa đã cộng tác nhiều năm cùng với Cha tôi và nhóm Tạp Chí Bách Khoa. Bác còn là một thi sĩ đã ra mắt công chúng rất nhiều tập thơ như “Huyền Sử Taj Mahal” (tên dài của tập thơ là “Taj Mahal, hay là Mối tình bất diệt của Hoàng Đế Ẩn Đi Shahjahan"), hoặc Từ Thức hay là Kẻ Tìm Đường Tôi sẽ viết dài hơn về Bác trong một đoạn sau. Tôi muốn trân trọng tri ân Bác, và tặng cuốn sách này cho Bác và Cha tôi, hai người bạn thân. Điều đáng chú ý là Bác đã cho ra một tập thơ với nội dung rất hiện đại về sự lựa chọn, tìm hướng đi của cả một thế hệ. Đó là tập thơ về Huyền Sử Từ Thức, mà tôi sẽ dành cả một chương để minh họa. Vào thời đó, giấc mơ tìm đường chỉ có thể là tìm lên còi tiền. Từ Thức đã lên được cõi tiên, rồi từ đó mới sớm có được nhận thức rằng cái nơi được ăn ngon, được chiều chuộng như ống hoàng, nhưng không có việc gì làm khác ngoài hưởng thụ, rút cục không phải là thiên đàng mà người ta tưởng. Đi lên đến tận trời rồi, chỉ một thời gian ngắn sau mới ngỡ ra chân lý. Truyền thuyết kể rằng, xưa kia có một anh chàng tên là Từ Thức, người Thanh Hóa, làm quan tri huyện Tiên Du (Bắc Ninh). Tuy ông được bổ nhiệm vào những chức vụ quan trọng trong triều đình, ông vẫn luôn luôn bị ám ảnh bởi giấc mơ đi du ngoạn nơi thiên thai. Một hôm Từ Thức đi chơi hội mới gặp một cô gái xinh đẹp. Cô gái tên là Giáng Hương, cô đang gặp một tình huống éo le giữa hội. Từ Thức đã vội cởi áo gấm giúp cô gái thoát nạn. Nào ngờ cuộc gặp gỡ này sẽ dẫn tới kỳ duyên sau này. Thời gian sau Từ Thức từ quan, tìm thú vui nhàn tản. Chàng lên đường đi ngao du tìm cảnh thiên thai. Rồi một lần Từ Thức đi qua một ngọn núi mới thấy một chiếc động, chàng vào động. Chàng gặp bà chủ động. Bà chủ mời chàng tạm dừng chân ít lâu. Nào ngờ bà chủ lại là mẹ của cô gái hôm nào nơi hội, cô Giáng Hương, chính là người chàng đã cứu thuở nào. Từ Thức nhận để bà chủ gà Giáng Hương cho mình. Nhưng hai người sẽ chi sống với nhau được một thời gian ngắn tuy cuộc sống thuận hòa êm ấm. Từ Thức nhớ nhà quá, xin được về thăm. Cảm thông nỗi niềm của chồng, Giáng Hương không thể đi theo, cô sắm xe và gài sẵn phong thư kín gói ghém lời ly biệt. Khi về đến quê, Từ Thức không còn nhận ra cảnh xưa, tất cả đều đã đổi thay. Từ Thức hỏi một cụ già râu tóc bạc phơ thì mới ngỡ ra rằng cụ chính là cháu nội của mình. Chàng mới bàng hoàng ý thức chàng đã đi quá lâu, hơn một kiếp người. Muộn màng với cảnh cũ Từ Thức mới muốn trở lại cõi tiên với Giáng Hương, nhưng than ôi dịp may cũng chẳng còn. Chàng lại lỡ bước. Trước cửa động Bích Đào, dây leo đã mọc chằng chịt, cỏ dại đã đan kết thành những chiếc lưới cản lối ra vào. Thời gian đã qua, cố nhân đã đi nơi nào, và tất cả những ước mong, tưởng rằng còn thực hiện được, đã bị thời gian xóa nhòa. Từ Thức tìm ra thiên thai nhưng thiên thai không mang giải đáp cho những ước mơ của Từ Thức. Tìm đường về chốn cũ, Từ Thức lại chi thêm vỡ mộng, chàng cảm nhận rằng đi ngược thời gian là vô vọng. Và cuối cùng chàng mới vỡ ra là hướng đi tìm hạnh phúc chẳng đâu xa, đó là xắn tay áo, cuốc đất trồng khoai để giúp cộng đồng an sinh vui ấm. (Một phân đoạn này được trích từ Google, mà không tìm ra tên của tác giả.) * * * Từ câu chuyện huyền thoại về Từ Thức lên thiên thai gặp tiên, thi sĩ Đoàn Thêm đã tặng cho nền văn hóa dân tộc một áng thi văn tuyệt tác Từ Thức hay Kẻ Tìm Đường được Nhà Xuất Bản Mai Lĩnh đưa ra công chúng năm 1959. Thi sĩ Đoàn Thêm (1915-2005) là một bạn chí thân của Cha tôi. Hai ông đều là công chức, đều cộng tác khá nhiều năm trong nhóm “Tạp Chí Bách Khoa” và không một bài viết nào của ông này lại không được ông kia bình luận, thậm chí chỉnh sửa, trước khi được ra mắt. Riêng cá nhân tôi đã bao lần được ân huệ đàm thoại trực tiếp với thi sĩ Đoàn Thêm. Ông là một nhà trí thức với nghĩa sâu đậm nhất. Ông yêu nước đến khắc khoải. Ông còn là một sử gia liêm khiết, một nhân chứng trung thực và sâu sắc trong thời đại của mình. Ông phân tích mọi việc đến chi tiết, ông khó tính, nghiệt ngã với ý muốn đi tìm sự thật, khám phá chân lý. Đôi khi sự nghiệt ngã còn có thể đi tới cay cú, vì ông không chấp nhận bất cứ một hình thức giả dối, trá hình, thậm chí trang điểm, nhưng buồn thay, những hình thức này lại nhan nhản ngoài xã hội. Và đến khi ông cần đúc kết hay tìm một vài nét tươi cho bài viết thì lập tức ông tìm đến Cha tôi, nhà văn Phan Văn Tạo (1920-1987). Cha tôi cùng chung tư duy, liêm khiết đến tuyệt đối, nhưng con người của Cha là yêu đời, yêu người, và cứ mỗi lần hai ông đàm thoại xong mỗi buổi tối như thường lệ (hai gia đình ở cách nhau vài phút bách bộ qua Cầu Công Lý, Sài Gòn) thì con người khác khoải bị quan lại tìm được nơi người lạc quan yêu đời lý do để tâm hồn êm ái trở lại trước canh đêm. Câu chuyện Từ Thức hay Kẻ Tìm Đường của Thi sĩ Đoàn Thêm không hẳn còn là truyện thần thoại của thời xưa nữa. Ngọn bút của thi sĩ đã khéo diễn tả tất cả những nỗi trằn trọc thắc mắc của các Từ Thức mới và cũ, phân vân đi tìm lẽ sống, để sống một cuộc đời hữu ích và trường tồn với núi sông. Ngày nay, đáng ngạc nhiên là ai cũng là kẻ tìm đường, mỗi lúc, mỗi nơi. Thế giới nhan nhân bản đồ thực và ảo, trên giấy hoặc điện tử, thậm chí còn tặng thêm dịch vụ dẫn đường. Thế nhưng không ai có thể dám chắc con đường mình đi là đúng, có lẽ vì mình nào có chọn lộ trình, mà có thể do một sự tối ưu hóa của một trí thông minh nhân tạo hay tốt hơn, một bàn tay vô hình, tọa ở nơi đâu? Đây chính là thông điệp của quyển sách này. Từ huyền thoại mà tất cả chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, chúng ta đều mơ và đều cần tìm đường như Từ Thức. Nhưng chúng ta tìm trong một bối cảnh khác hẳn với thời đó, vì xã hội mà chúng ta đang sống mang quá nhiều mã số và ảo tưởng. Tất cả chúng ta là những Từ Thức, Thiên thai của chúng ta không phải là đỉnh núi tĩnh mịch. Mà thiên thai có thực không? Đây là một câu hỏi chưa chắc ngây ngô vì ngay thế giới ngày nay của chúng ta đã có phần ảo. Ngay những kẻ tưởng rằng mình đã tới nơi, rút cục cũng khám phá Muộn màng và họ chỉ tìm thấy cái ho mà không thấy cái thực. Thế giới của loài người phi chăng đã tuột tay loài người? Đây không còn là một câu hỏi mà là hiện thực. Chính cái lo đó đã được Đại văn hào Lê Quý Đôn tác họa. Ngoài của động Bích Đào có một miếu nhỏ gọi là miếu Sơn Thần, chỉ co chân đầu người và không rộng lắm. Ngay trên cửa động, trên Vich đã được tạc bài thơ đề của Lê Quý Đôn khi ông viếng thăm động Bích Đào vào thế kỷ XVII, rằng: Văn đạo thần tiên sự diệu mang Bích đào động khẩu thái hoang lương Càn không nhất hạt cùng Từ Thức Van thủy song nga lão Giáng Hương Thạch động hữu thanh khao hiểu nguyệt Diêm điền vô vị nát thu sương Thẻ nhân khi tác Thiên Thai mộng Thùy thức Thiên Thai diệc hí trường Dịch Thơ: Thần tiên vẫn báo chuyên mơ màng, Động Bích Đào kia cỏ mọc hoang. Trời bể tìm tòi, mê huyện Thúc! Nước mây chờ đợi, mệt nàng Hương! Vang om thạch động trăng gần sáng, Nhạt nhẽo diêm điền muối đắm sương, Giấc mộng Thiên Thai mong mỏi mãi, Ai hay cũng chỉ hí du trường! (Nguồn từ Internet) Đối với thi sĩ, thì mộng thiên thai rút cục cũng vẫn chỉ là giấc mộng chơi vơi! Vào nuôi khác quan của cuộc đời mình, tôi đã tìm đườ), để rồi chàng thủy: Suốt cuộc đời tôi của tuần 11), tiốn; như kẻ khiếm thị lại phải đi toilcha sơn tù. Nhưng tôi lui về lúc C10 tuổi, tìmình mới hiểu được rằng chẳng bao giờ tình sẽ tới, vì cuộc đời, ttn bản chất, phải là một cuộc hành trình dài vỏ tận. Đi đường nào rồi cùng có thể thành công, chọn lối nào tôi cũng có khả năng đạt hạnh phúc, vì hạnh phúc hay thành công không tùy thuộc vào con đường ta đi, nhà vào tâm trạng tự tại của ta cũng như vào những giá trị mà chúng ta gieo ngay trên những nẻo đường đã đi qua. Tôi không phủ nhận vai trò cơ bản của giáo dục tri thức, không quên những đóng góp kinh khủng của khoa học hàn lâm, không gợi, dù chỉ một chút, khuynh hướng bỏ bê chữ nghĩa và kinh sách. Nhưng mong bạn hiểu ý của tôi, cuộc sống thành công còn do nhiều thứ khác nữa. Trong quyển sách bạn đang cầm trên tay, tôi có dùng lại một vài đoạn từng đưa ra công chúng vì nó tiêu biểu cho cuộc đời của tôi, trong đó có bài viết về năm 1963, năm tôi rời xa gia đình sang Pháp, năm khởi đầu hành trình của tôi. Ngay khi đó, tôi cũng chẳng được lựa chọn. Tôi cũng kể lại trong quyển sách này những cuộc gặp gở lý thú với một số nhân vật đã đi qua cuộc đời mình. Họ đã thành công rực rỡ, nổi tiếng thế giới. Tôi để cho bạn đọc khám phá thái độ của họ trước những cơ hội đã đến với bản thân. Một trong những bí ẩn của cuộc đời là chẳng bao giờ ta thực sự biết được mình đã chọn đúng hay sai, giả định là mình đã chủ động trong việc lựa chọn. Tôi đã viết hẳn một chương về đề tài này, trong đó dùng lại truyện “Tái Ông Thất Mã” để minh họa và truyền tải thông điệp. Trong một đoạn khác, tôi cũng muốn truyền tải cho các bạn thông điệp chính của tôi: Khi bị mất cái gì thì bạn cũng có những thứ lợi về tay, mà vì sơ ý chằng bạn chẳng ngờ. Khi đoạt được cái gì, bạn không nên quên những gì mình cũng để tuột tay đánh mất cùng một lúc. Bạn nên chú ý nhìn cả hai mặt của sự mất còn. Tôi cũng xin phép độc giả viết một chương khá dài và đầy đủ về áng thơ “Từ Thức hay là Kẻ Tìm Đường” của Đoàn Thêm. Thực ra, tôi không cần chép lại nhiều câu thơ đến như thế (áng thơ gồm tổng cộng hơn hai ngàn câu), nhưng đây là một dịp may hiếm có, tôi muốn bạn đọc có cơ hội khám phá và làm sống lại người tôi vô cùng ngưỡng mộ, tác giả của “Từ Thức hay là Kẻ Tìm Đường”. Tôi xin dâng hương kính tặng sách này cho hai tiền nhân thân thiết nhất, thi sĩ Đoàn Thêm và cha tôi, nhà văn Phan Văn Tạo. Cả hai người đã từng dẫn đường cho tôi đi, một con đường trước hết là liêm khiết với lương tri và tốt lành với xã hội. Và sách này tôi viết cho những người bạn trẻ, kém tôi một, hai, ba thế hệ, để đáp lại thiện tình của Đoàn Thêm và Phan Văn Tạo đối với thế hệ của tôi. Tôi đã về nước giống như Từ Thức đã trở về làng để tiếp tay với xã hội đồng hương. Đó cũng là một cách để tôn thờ những vị đã miệt mài xây dựng đất nước và âm thầm tụ tích tinh hoa cho các thế hệ đi sau. Khởi đầu hành trình hạnh phúc Where there is love there is life. Nơi nào có tình thương thật, nơi đó có sự sống thật. — MAHATMA GANDHI Cuộc đời của tôi chỉ thực sự bắt đầu vào năm 1963, khi tôi mười bảy tuổi. Cha mẹ tôi đã dành dụm nhất phép chia đủ phương tiện đi du học bên Pháp. Vào thời đó chính sách của chính phủ miền Nam là chỉ cho phép những sinh viên tuấn tú đi du học. Học thật giỏi thì được học bổng toàn phần. Học khá giỏi thì được một nửa học bổng. Học cũng phải khá thì đơn xin du học mới được xét, nhưng trong trường hợp đó thì sinh viên không được hưởng học bổng, mà phải tự túc. Tôi thuộc trường hợp này vì không phải là một học sinh xuất sắc, tuy nhiên cha mẹ tôi cho rằng đi du học cần thiết không những để thu thập kiến thức, mà còn cho phép đứa con được cọ mình với cuộc sống đầy đó. Và cha mẹ tôi không nghĩ sai. Rất động sinh viên Việt Nam sang Pháp thời đó sẽ có được một học trình tốt đẹp. Rất động sẽ thành công sau này, sau khi tốt nghiệp. Một số lớn còn ở lại nước đã đón tiếp mình, sau khi họ nhận được cơ hội tiến thân từ một quốc gia văn minh. Nói chung, đó là trường hợp của số đông chúng tôi cùng lứa tuổi, tôi không phải là một biệt lệ. Nhưng những trường hợp du học thất bại cũng không hiếm. Một số ít bạn học của tôi cũng gặp sự cố, hoặc không đáp ứng được với cuộc sống khó khăn ở nước sở tại. Một anh họ của tôi đã nhuốm bệnh tâm thần do áp lực cao của lớp học. Riêng cá nhân tôi đã gặp một cảnh ngộ hi hữu. Ở trong một tình huống tương tự, có lẽ một số người khác sẽ khó ngóc đầu lên. Nhưng vào thời đó, không hiểu sao, có lẽ vì tôi còn ở tuổi quá nhỏ chăng, tôi đã một mình vượt từng khó khăn mà không than vãn, không hoảng hốt. Tôi đã chẳng nhìn thấy gì trước mắt vào lúc đó, càng xa hơn ý tưởng xây dựng tương lai. Tôi đã bám lấy mấy cái phao để không chìm trong một đại dương biến động. Tôi đã chỉ biết sống với cái phao, nhưng rồi phao cũng dần dần đưa tôi vào bờ. Nhìn lại “kính chiếu hậu” mới thấy mình đã sống nhiều tháng kinh khủng quá, nhưng ngay tại lúc gặp nạn, tôi chỉ bám lấy hơi thở để sống, không nghĩ gì xa hơn. Có lẽ chính vì tôi ngây ngô vô thức ở tuổi mười bảy, không có họ hàng thân thuộc bên cạnh, không có đến một người bạn học để cùng chia sẻ, ở một mình trong tỉnh lẻ, mà tôi mới học được sự tự tin. Những ngày đó là những lúc tôi cảm nhận mãnh liệt là có Đấng Trên Cao soi xét, cân lượng và cứu giải. Và chính vì Đấng Trên Cao đã đoái ngó tới thân phận của tôi ngày đó, mà đến tận hôm nay, và mãi mãi, tôi đã nguyện trả lại cho loài người, cho đất nước, cho bằng hữu tất cả tình cảm và sự che chở mà tôi đã nhận được như là một đặc ân. Bài viết sau đây đã được đăng trên trang CafeBiz năm 2017 để “vô tình” dự cuộc thi “Hành Trình Hạnh Phúc” do Liên Đoàn Lãnh Đạo và Doanh Nhân Trẻ Hà Nội - JCI Hà Nội - cùng với Dự án Sách và Hành Động tổ chức. Và cũng vô tình, bài đã đoạt giải đặc biệt và đã được chia sẻ rất rộng rãi trên các mạng xã hội. Như thường lệ, tôi chi kể chuyện thực, nhất là lúc viết lại sự tình thì tôi không biết bài sẽ được đưa vào một cuộc thi. *** NĂM ẤY LÀ NĂM 1963, KHỞI ĐẦU HÀNH TRÌNH HẠNH PHÚC PHAN VĂN TRƯỜNG Năm ấy là năm 1963, tôi 17 tuổi. Thật tôi sẽ nhớ mãi cái năm Mão ấy, tôi vừa bước chân tới nước Pháp để du học, thì tôi đã bị một người Việt Nam tước mất gần hết tài sản ngay đêm đầu tiên. Nếu vào thời điểm ngày hôm nay thì thực tình mà nói số tiền tôi mất hồi đó cũng không quá to, 3 ngàn đô-la. Nhưng đó là tất cả số tiền tôi đem đi để làm vốn cho ít nhất hai năm học, đối với một sinh viên không có nhà của gia đình anh em bên cạnh thì nó to lắm. Mà nó cũng rất to đối với cha mẹ tôi, vì đó cũng là tất cả số tiền cha mẹ tôi dành dụm để chuẩn bị cho con đi học ở nước ngoài. Với đồng lương công chức của cha tôi thì đó là công dành dụm từ nhiều năm về trước. Thế nhưng ngay hôm đầu tiên tôi tới Pháp, mắt nhắm mắt mở, chân ướt chân ráo, giờ giấc ngược xuôi, thì tôi đã bị tước mất số tiền đó do một băng đảng du đãng ăn chơi, họ chuyên môn đón đầu những sinh viên còn ngây thơ vừa bước sang nước xa lạ. Tôi đã bị dọa bởi vũ khí, và tôi đã để tuột tất cả những gì có trong tay, cả số tiền khổng lồ được dành dụm bằng tình yêu của cha, được gói ghém từ bàn tay của mẹ. Và từ một thanh niên mới ra đời với nhiều ưu đãi, tôi đã biến trong khoảnh khắc thành một thằng bé vô gia cư, chưa có nghề nghiệp và nhất là không còn gì trong tay để phấn đấu, cũng như không có chỗ vịn thực sự, trên một đất nước mà mình chưa nói sỏi tiếng người, chưa hiểu thực văn hóa, chưa có bạn, chưa có cả một tấm để trải mình ban đêm. Ngày đó đâu có như bây giờ, không có điện thoại di động, chi có telegram để báo tin khi cần, nhưng linh tính đã khuyên tôi không thông báo cho gia đình ở nước nhà, vì chuyện đã rồi, việc báo tin chi làm cho cha mẹ lo thêm. Thế là tôi ôm một mình bí mật rằng tôi đã trắng tay. Vài chục năm sau, khi nghĩ lại sự cố đã xảy ra cho mình, thì tôi mới ngỡ ra là chính cái sự cố vô cùng bi đát ấy đã giúp cho tôi, một thằng bé 17 tuổi, sớm thành người. Khởi đầu hành trình hạnh phúc Trùng lúc ở bên Pháp tôi bị trắng tay hết tiền, thì cha tôi lại bị sự cố tại nước nhà. Phải một người bạn của Cha đi công cán sang Pháp mới cho tôi thông tin không mấy vui về Cha Mẹ tôi có gửi ông bạn đó một lá thư trong đó Mẹ dặn đi dặn lại là con có cầm cự với số tiền mang theo càng lâu càng tốt, rồi đến khi gia đình ổn định trở lại thì Mẹ sẽ gửi tiếp. Nào Mẹ có biết sự thật phũ phàng phía bên này... Và tôi cũng viết vội vài hàng gửi Mẹ qua tay của ông bạn rằng Mẹ đừng lo, số tiền Cha Mẹ cho con còn nguyên và nhờ đó con sẽ sống được thoải mái nhiều năm sắp tới. Đó là lần đầu tiên tôi đã nói dối Mẹ. Vào những năm 60, thì xã hội Pháp không như ngày nay, đó là một xã hội tuy không kỳ thị nhưng vẫn khép kín. Người Pháp thì đã đành, nhưng ngay cả người Việt sống bên Pháp cũng không cởi mở như ngày nay. Ngày đó, chưa có các tiệm fastfood hay hamburger như Mac Donald hay Kingburger, nơi mà một em trẻ như tôi có thể kiếm việc dễ dàng để tự nuôi sống. Thế nhưng, cũng vì tôi sang Pháp trễ so với khóa niên học, nên tôi chỉ được đăng ký vào nội trú một trường ở ngoại ô xa, trường Francisque Sarcey | Dourdan, cách Paris hơn 50 km. Cũng may cho tôi là tôi không được nhận vào các trường tại Paris, vì có lẽ tôi sẽ phải bỏ học dở do đời sống Paris quá đắt đỏ. Ngày ấy tại Dourdan, cái gì cũng rẻ, thêm vào đó, đây là một thị trấn rất nhỏ, gần như một cái làng lớn. Chính vì Dourdan nhỏ bé mà tôi đã tìm ra nơi nương tựa. * * * TÌc ci tội phi kể tới Cha Tºul, Cha là cổ clo của nhà thờ Du lieu, không có chất có lẽ tôi là không có ngày hôm Tay Lần đầu thì 12 Cha, là chính tôi là 111 ul lạnh đến gõ cửa nhà t), Tối hôi tố, big oi, tối đa 100 Inuôi tìm đến nơi Thánh. "Đi vào nhà thờ, long bát 11, Nhung cảnh của bên trong nhà thờ bất thình lình tha và Cha xuất hiện, Cha hiểu ngay tôi đang có vẫn lề Ch: 12ì tôi vào nơi Cha tiếp khách, Cha không hỏi han gì là lại chìa ngay với tôi một khúc bánh mì. Cha nói: Em vào Giày chia sẻ bìa con của tôi. Thì ngày hôm đó, tôi nhới thực sự có một người bạn đầu tiên trên đất Pháp, đó chính là Cha Paul. Cứ đến chủ nhật là tôi đến giúp việc trong nhà thờ Dourdan và được Cha cho một bữa cơm ản áp. Lần đầu ra đời gặp “nhân loại” tôi đã có ngay được cảm nhận là nhân loại không phải là một ý niệm gì trừu tượng, mà là những gương mặt cụ thể và tích cực. Gương mặt đầu tiên của nhân loại đối với tôi là Cha Paul. Cha đã có những nghĩa cử đơn giản nhưng chứa chan tình người. Cha Paul đã là người đầu tiên làm cho tôi thấu hiểu được rằng hạnh phúc là một thứ gì rất chân thật, trong sáng, ấm áp. Và chỉ cần mỗi tuần một buổi sáng chủ nhật giúp việc trong lễ nhà thờ cũng đã cho tôi cảm nhận phảng phất được niềm hạnh phúc đó suốt tuần. Và cũng không có gì sung sướng hơn là biết rằng Chúa ở trên cao đã đoái nhìn xuống ban cho tôi phúc lành, mà vẫn biết rằng phúc lành chi là một mẩu bánh mì mộc mạc. Trong đời sống nhà trường, tôi được nội trú, tôi còn nhận được sự yêu thương của vợ chồng gác dan. Nhìn từ ngoài, ông bà Jean trông rất dữ dằn. Có lẽ nghề gác cửa, cấm kẻ lạ xâm nhập vào khu vực nhà trường, cấm học sinh thoát ra ngoài đi bụi đời đã vẽ lên nét mặt của cặp vợ chồng tất cả cái nghiêm nghị của thế gian. Tuy nhiên, trái tim của họ bằng vàng. Ông bà Jean đã thấu hiểu cảnh ngộ của tôi ngay từ lúc tôi nhập học ngày đầu. Bà ấy thường hay rầy tôi, nhưng lúc nào bà cũng quan tâm. Một hôm bà bảo tôi: Máy giặt giũ làm sao? Trông mày dơ bẩn thế kia, mày cởi hết quần áo ra đưa tao giặt. Thế là tôi được bà giặt quần áo miễn phí, bà còn ngụy biện rằng đằng nào ông bà cũng có máy giặt, nhiều ít gì cũng thế. Tuy nhiên, bà còn ủi thẳng thắn cho từng chiếc sơ mi, chiếc quần. Đến khi tôi chụp ảnh gửi về cho Mẹ thì Mẹ tôi rất ngạc nhiên hồi âm ngay hỏi ai giặt và trông nom cho tôi mà áo quần ngay ngắn thế. Sau này khi Mẹ tôi sang Pháp, Mẹ đã tỏ ý muốn đến cám ơn tận nơi ông bà Jean. Tôi thì cứ bị bà Jean mắng hoài, nhưng tôi hiểu đó là lời mắng của sự quan tâm, lời mắng để cải thiện một thanh niên không được sống bên gia đình của mình. Những lời mắng này thật mát mẻ trong lòng tôi. Ông Jean thì lại thương tôi một cách cụ thể hơn. Cứ đến hai ngày cuối tuần, ông rủ tôi đi làm thêm. Ông chuyên sửa điện nước, đổ rác, sơn nhà, đổ nền, nạo ống khói... Thế là ông và tôi chia nhau việc. Ông nhận việc chuyên môn, còn tôi thì việc chân tay. Có lần, tôi nạo xong ống khói mặt mũi đen đủi quần áo lọ lem làm mọi người cười. Tôi cũng cười, cái cười của một đứa thanh niên thật hãnh diện vừa nhận được chút tiền để tự nuôi thân. Ông bà Jean dần dần coi tôi như một đứa cháu trong nhà. Tôi cảm nhận được hạnh phúc sâu đậm đó, rằng tôi đã được người bản xứ nhận lãnh. Chi được nhìn nhận như vậy thôi cũng đủ để làm cho tôi cảm thấy mình thật quá may mắn. Ở trong trường tôi còn được một người khác giúp đỡ tôi rất nhiều. Đó là Bà Monique, y tá săn sóc sức khỏe của học sinh nội trú. Gọi là Bà, nhưng bà chưa có chồng tuy đã quá 50. Người ác miệng nói là bà không có nhan sắc nghiêng thành do đó mới khó lấy chồng. Nhưng đối với tôi, thì bà là một con người nhân hậu mà tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi gặp bà lần đầu lúc tôi bị bịnh. Mùa đông năm 1963 kỷ lục lạnh, nhiệt độ xuống hơn 15 độ âm. Tôi thiếu quần áo ấm và sau một lớp thể dục ngoài trời tôi bị lạnh phổi và được đưa vào nằm phòng bệnh hại tuần. Bà Monique mới hỏi tôi gia đình ở đâu, vì trên nguyên tắc, học sinh nhuốm bệnh phải được trả về gia đình, chứ giường bệnh nội trú chỉ là tạm thời, quá lắm là hai, ba ngày. Sau khi tôi khai hết cảnh ngộ thì không những bà cho phép tôi ở lại mà bà còn chăm lo cho tôi thật tận tụy. Sau này, tôi thường hay lên thăm bà trong giờ chơi, tôi hay tặng bà một miếng bánh sô cô la hoặc là một bó hoa tôi hái trong rừng. Bà cũng thường viết thư trấn an Mẹ tôi. Đây không phải là trách nhiệm của bà, tôi cảm nhận đó là lòng thương. Từ lúc đó, tôi mới lại hiểu cụ thể hơn thế nào là hạnh phúc. Hạnh phúc rút cục là sự cảm nhận tình thương mà mọi người dành cho mình. Nhưng trên hạnh phúc đó, còn có cái duyên mà Đấng Trên Cao đã sắp sẵn cho mình. Tại sao mình lại được hưởng đặc ân đó thì mình thực sự không biết. Trường học của tôi có một tục lệ là cứ mỗi 15 ngày thì nhà trường tổng vệ sinh nên đuổi tất cả nội trú ra trong hai ngày cuối tuần. Tất cả học sinh đều đợi dịp đó để về với gia đình nên họ vui tíu tít. Ngược lại đối với tôi thì dịp đó lại gây cho tôi nhiều khó khăn vì tôi không có gia đình, không có nơi để về... Vào hai ngày cuối tuần đó người ta dọn giường của sinh viên nội trú, mở toang cửa sổ, khóa máy sưởi, rải thuốc Javel, phun vòi nước sát trùng để tổng tẩy uế. Bà Monique là người đầu tiên cứu tôi, bà đề nghị tôi ở lại trong trường, nhưng ở tạm trong căn phòng dành cho người bệnh. Bà coi đó là một trường hợp bất khả kháng, do đó tôi không thể coi đó là giải pháp thường trực. Tôi cũng có mấy người bạn Việt Nam ở trong nhà Lào Việt tại Cư Xá quốc tế cho phép tôi giải nệm ngủ lậu qua đêm. Ở đây ông gác dan biết chuyện nhưng ông ấy cũng tốt nên ông không cằn nhằn. Nhưng riêng tôi lại còn có thêm một phương án khác. Một hôm tôi gặp lại một bạn xưa tên là Lân, Lân mới rủ tôi tới nhà chị Trà. Chị Trà là một phụ nữ đã đúng tuổi có chân tu. Nhà của chị Trà là một căn hộ nhỏ bé, vỏn vẹn có một phòng, ở ngoại ô Levallois. Tuy căn nhỏ bé nhưng lúc nào cũng đông sinh viên tới xin ngủ qua đêm. Chị bảo nhà của chị là nhà của Chúa, các em cứ tới trú. Thế là đêm nào cũng có đứa giải nệm nằm la liệt dưới đất, có hôm năm đứa chúng tôi phải nằm sát gần nhau vì căn phòng nhỏ quá. Nhưng chúng tôi rất vui, vì không những được qua đêm miễn phí mà còn có sẵn một bếp nhỏ để nấu xào. Đông như thế làm cho chúng tôi như có gia đình bên cạnh. Hơn thế nữa, chính vì gặp gỡ nhau tại nhà chị Trà mà chúng tôi truyền cho nhau công việc làm để kiếm tiền thêm. Lân thì rủ tôi cùng đi hầu bàn, Hà thì chỉ cho những chỗ để mua trái cây rẻ, những hoa trái già héo sắp thối nhưng vẫn còn ăn được. Huy thì lại chỉ cho tôi một chỗ làm đêm được trả rất hậu hĩnh. Đó là những dịch vụ tại bệnh viện ít ai muốn làm và có chút rủi ro nếu không cẩn thận. Từ lúc thường gặp những người bạn mới này, tôi không thiếu việc. Hễ mình chấp nhận việc khó hoặc nặng nhọc thì kế sinh nhai đơn thuần không phải là một vấn đề. Nhận định này cho tôi có được tự tin. Tự tin rằng mình sẽ chẳng bao giờ sợ đói, chi một ý tưởng đó thôi đã làm cho tôi thấy cuộc đời đượm tươi màu hồng. Thật vui, thật hạnh phúc. Duy một cái là trong lớp học tôi không được xuất sắc cho lắm. Cuối niên học 63-64 rút cục tối thi đấu. Điểm suýt soát, nhưng vừa vặn để lên Đại Học. Vừa đúng lúc đó thì Cha tôi cũng hồi sức. Bao nhiêu mây đen phủ trên bầu trời của tôi như dần dần tản bay. * * * Phải mấy chục năm sau, tôi mới dám hồi tưởng lại cái thời kỳ kinh khủng đó. Vì khách quan mà nói, nó kinh khủng quá. Nhưng tại sao tôi không giữ lại một chút đắng cay là một điều tôi khó lý giải. Mẹ tôi, khi gặp lại tôi vài năm sau đó mới rõ sự thật, bà cứ khóc mãi, bà tự trách sao trót để đứa con yêu lâm vào cảnh ngộ quái dị như vậy. Nhưng trong lúc mẹ khóc thì tôi lại vui cười sung sướng ôm mẹ. Tôi còn nói với mẹ: “Mẹ ạ, suốt năm học ấy con không khổ chút nào mà rất sung sướng mẹ ạ, mẹ đừng khóc nữa... vì chẳng có gì để khóc.” ** Một hôm, vào năm 1994, tôi được cô thư ký đưa lên một đơn xin việc, lúc đó tôi đang làm Phó Tổng một tập đoàn đa quốc gia. Hồ sơ xin việc có cả hình của người nộp đơn. Tôi nhận ra ngay, đúng hắn, không thể sai, người đã cướp hết tài sản của tôi vào lúc tôi đang tập tễnh ra đời. Cô thư ký nể tôi, cứ mỗi khi có người Việt xin việc thì cô hay báo cáo trực tiếp cho tôi. Tôi đã hít một hơi thở thật mạnh. Và chỉ trong một chớp mắt, tôi đã chỉ đạo “để cho Ban nhân sự xử lý bình thường đơn xin việc”, tôi không để lộ cho ai chuyện riêng của tôi, Có lẽ hắn cũng đã quên tôi và cả sự việc rồi, hơn 30 năm đã qua. Trong lòng tôi không có chút hận thù mà ngược lại tôi lại có cảm giác nhẹ nhõm hơn, cứ như đã trút được cái gì còn vướng mắc. Nghi lại chuyện của tôi, tôi không khỏi bàng hoàng và cùng một lúc tôi có cảm giác hạnh phúc. Bàng hoàng vì có lẽ tôi sẽ không bao giờ sẵn sàng sống lại một thời kỳ như thế. Nhưng tại sao tôi lại có cảm giác hạnh phúc từ sự trải nghiệm đó thì thực tình tôi không rõ. Phải chăng tôi đã được hưởng trọn niềm hạnh phúc của một con người tự tạo nên. Từ bàn tay trắng tôi đã thành con người tôi ngày nay. Tôi đã lông bông nhưng chưa bao giờ bụi đời. Tôi mới khám phá ra rằng tôi đã được hưởng một cái ADN cứng cỏi, lấy tính hiền từ làm cách hành xử. Lấy nụ cười can trường để làm bia bảo vệ. Những thứ đó như có sẵn trong cơ thể. Rõ ràng tôi chỉ biết mìm cười mà không biết khóc. Phải chăng đó là do tính lạc quan. Tôi chưa bao giờ nhìn nỗi khó trước mặt như là một cực hình mà ngược lại tôi đã chỉ trông thấy những cơ hội được mở ra, thậm chí những thách thức rất đáng sống. Phải chăng là tôi đã hiểu rất sớm rằng hạnh phúc bắt nguồn từ tình yêu thương. Tôi đã được nhà trường Dourdan yêu thương, Cha Paul yêu thương, Ông Bà gác dan yêu thương, Bà y tá Monique yêu thương, Chị Trà thánh thượng yêu thương. Thế giới của tôi vào lúc đó chỉ có thế nhưng đó là thế giới của những người tình nghĩa. Tình nghĩa và đoàn kết, biết cảm nhận, biết xót xa, biết chia sẻ. Chia sẻ hột cơm, chia sẻ mồ hôi, chia sẻ ngọt bùi. Phải chăng là tôi luôn luôn có trong người tế bào hy vọng. Tương lai sẽ luôn luôn sáng nếu còn hy vọng. Thực ra, chính khi mình nằm tận đáy thì mình mới bám vào hy vọng để trông chờ. Từ đáy thì mình chỉ có thể vươn lên, tương lai chỉ có thể sáng hơn! Phải chăng là tôi có một niềm tin mãnh liệt nơi Đấng Trên Cao. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng, trong lời cầu nguyện tôi luôn luôn chỉ vì cố thêu sắc luull và 0 0 của Thượng Pet chu toi chua bao giờ xấu những thứ khác. Và tôi ngạc nhiên tôi chưa bao giờ bị đấng trên cao tới. Có lần tôi hỏi Cha tôi: “Cha ơi, thế nào là thành công? Thế nào là một cuộc đời sung mãn và hạnh phúc?”. Ông nhìn đứa con và chậm rãi trả lời: “Người thành công là người muốn khẩn khoản chia lại những gì Phúc Lành đã ban cho mình. Chia lại tài sản, chia lại kiến thức, chia lại kinh nghiệm sống”. Tôi lại hỏi Cha: “Còn thế nào là hạnh phúc?”. Cha mim cười và ôn tồn chia sẻ với tôi: “Con ạ, hạnh phúc là cái gì con cảm nhận được khi con đã chia sẻ thật nhiệt tình, với tất cả lòng trong sáng từ bi”. Và Cha còn nói thêm: “Con hãy đem cả thân thế của con để xây dụng tình người, con hãy dùng tài sản riêng tư như là những viên gạch để kết nối và đoàn kết người với người. Con đừng bao giờ nhìn lên hay nhìn xuống mà coi mỗi người như là một người bạn đồng hành, đón nhận học với những cá tính của họ. Con hãy quý trọng ý kiến của mỗi người, vì chỉ có sự đa dạng mới làm nên một xã hội hùng mạnh, một đất nước trù phú”. Những lời của Cha còn văng vẳng bên tai. Nghĩ lại tôi vẫn choáng váng, và tôi chỉ mong suốt cuộc đời xứng đáng với ước niệm của Cha. MÌNH HÃY TỰ TIN Love grows by giving. The love we give away is the only love we keep. Tình yêu lớn lên nhờ sự cho đi. Sự yêu thương mà chúng ta cho đi là sự yêu thương duy nhất mà chúng ta giữ được. ELBERT HUBBARD Believe in yourself! Have faith in your abilities! Without a humble but reasonable confidence in your own powers you cannot be successful or happy. Nếu bạn không tin tưởng, một cách vững vàng nhưng khiêm tốn, vào sức mạnh tiềm tàng trong con người của mình thì bạn khó lòng thành công và hạnh phúc. Vậy bạn hãy cứ tự tin! - NORMAN VINCENT PEALE Trước nhất tôi xin có lời cảm ơn chân thành các bạn đọc nào đã tự ý sửa chữa và biên tập lại bài viết của tôi trước khi đưa lại lên mạng để phổ biến. Bài gốc tôi gửi có đôi dòng dùng một hai từ khác, không đích xác bằng từ mà bạn đọc đề nghị. Tôi xin nói thêm là suốt đời mình, tôi nhận được luôn luôn cái may mắn đó, là được xã hội chiếu cố điều chỉnh và hoàn thiện để từ con người của tôi có khả năng xuất phát nhiều tinh túy hơn. Các bạn ạ, nào tôi có viết để được phổ biến rộng rãi như vậy, vì tôi tưởng là bài này cũng như nhiều bài khác của mình cũng chỉ để làm đầy vơi những trang giấy của các cơ quan thông tin và văn hóa. Đọc lại bài mình viết thì mới cảm nhận được thêm nhiều điều mà mình không thấy lúc đang sống thời kỳ mình tả. Thú thật, tôi sẽ không bao giờ trở thành con người của tôi ngày hôm nay nếu thánh nhân trên trời không tặng tôi cơ hội đo được sự mong manh của cuộc sống. Có cảm nhận thực được sự mong manh đó thì mới do được sự cường tráng có sẵn trong ADN của mỗi con người, chứ không riêng ai, nhưng sự cường tráng đó có lẽ chỉ xuất phát khi bản thân động viên tất cả sức lực của mình để vượt trở ngại và rủi ro. Nghĩ thế, tôi đâm thương những đứa trẻ cùng tuổi 16, 17 đã được cha mẹ che chở đến độ chúng không thể tưởng tượng được là cuộc đời có thể chứa những thách thức như tôi đã gặp. Và tất nhiên chúng cũng không có được cơ hội thi thố tài năng và đo được nét cường tráng của mình, từ đó khó lòng tạo được sự tự tin. Tôi đã rất tự tin khi sau này đi xin việc lần đầu tiên, lúc mới tốt nghiệp ra trường. Tôi đã tự tin khi ngỏ lời xin hỏi cưới người bạn đời. Tôi đã tự tin khi được nhận các trách nhiệm mới, tuần tự theo khả năng và hoài bão của mình. Tôi cũng tự tin khi xin về nước để đóng góp, bất chấp việc gì miễn là có ích và miễn phí. Tôi không ngờ sự tự tin vào chính mình, chi bản thân mình, có khả năng đem lại nhiều thành quả và nhất là nhiều hạnh phúc đến như vậy. Tôi cũng cầu nguyện nhiều, và vẫn tin như bàn thạch vào Đấng Trên Cao. Gia đình tôi vốn rất sùng đạo Phật. Nhưng có một điều rất kỳ diệu tôi muốn chia sẻ là tôi không phân biệt nhiều lắm đạo này với đạo nọ, vì tôi vững tin là Ánh Sáng Bên Trên không có hình thái, không mang tính phân biệt. Tôi vào nhà thờ Thiên Chúa Giáo một cách rất tự nhiên, tôi ngồi xuống cầu nguyện một cách rất vô tư và tôi biết Bên Trên là một Đấng Toàn Năng, Phúc Đức Vẹn Toàn. Lần nào cầu nguyện tôi cũng chỉ nhận được tín hiệu dịu hiền nhưng mãnh liệt là “con hãy nỗ lực bản thân để vượt thách thức, vì con có đủ khả năng”. Chỉ một ý nghĩ rằng Đấng Trên Cao tin tưởng vào bản thân tôi đã đủ giúp cho tôi có nghị lực và sáng suốt. Chỉ một lần vợ chồng tôi có một lời cầu nguyện cụ thể. Đó là cách đây 12 năm, vào năm Bính Tuất, chúng tôi đang đi du lịch bên Ý Đại Lợi (Italy), tại Bellagio, ở bờ hồ Como. Lúc đó là đúng 16 giờ 58, chúng tôi vội vào nhưng Cha nói là không vào được vì chi hai phút nữa nhà thờ Bellagio đóng cửa. Chúng tôi xin cầu nguyện chi hai phút thôi, Cha đành chấp thuận. Lúc ra khỏi nhà thờ, vợ chồng tôi hỏi nhau Anh cầu nguyện gì? Em nguyện cầu chi? Cả hai đều ngỡ ngàng khám phá là chúng tôi dù không nói gì với nhau mà đã cùng cầu nguyện cho hai con gái của chúng tôi được phù hộ về việc có con. Thật không ngờ rằng sự đáp ứng đã là một phép lạ... Đó là lần duy nhất trên đời tôi có lời cầu nguyện cụ thể. Còn suốt đời, tôi chỉ xin Đứng Trên Cao cho thêm sức mạnh và can đảm, để mang sức mạnh đó truyền tải lại cho các bạn nào cần. Bạn ạ, hãy tìm ngay trong bản thân sức mạnh kinh khủng mà mình sẵn có. Chắc chắn bạn có, hãy tin tôi đi. Nhưng bạn sẽ chỉ khám phá ra sức mạnh tiềm tàng đó khi bạn thực sự bỏ công ra đi tìm nó. Tìm sự hỗ trợ từ bên ngoài chỉ phù du và hời hợt, lại làm cho bạn mất cơ hội để tự hào một cách chính đáng. Hãy nghe tôi một lần, bạn nhé. Cuốn sách định mệnh Quyền và tự do chọn lựa: Giới hạn của sự chủ động The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong. Những kẻ yếu đuối không bao giờ biết tha thứ, dấu ấn ấy chỉ dành cho kẻ cường tráng. - MAHATMA GANDHI Mùa hè năm 1954, cha tôi được bổ nhiệm vào một công việc mới (trong Bộ Kiến thiết) tại Sài Gòn, cả gia đình theo cha vào Nam. Sau một thời gian tá túc tại nhà cô Hằng (em ruột của cha), gia đình tôi mướn được một căn nhà trên đường Võ Tánh, quận 1, ngày nay là đường Nguyễn Trãi. Căn nhà nằm trong con hẻm nhỏ, trống trải, đồ đạc hầu như không có gì, ngoài mấy thứ lặt vặt: một cái chổi cùn, đống nhật báo cũ, một chiếc chải cọ sờn mòn và lọ nước tẩy đã dùng hết quá nửa. Ngoài ra thì còn một cuốn sách cũ. Cuốn sách bị vất ngay trên thềm nhà, làm cho người mới tới có cảm tưởng cũng thuộc lô đồ đạc chủ cũ định mang đi nhưng chẳng may bị rơi ra trong cuộc di chuyển. Có lẽ cuốn sách không có mấy ý nghĩa với họ, nên chẳng có ai quá quyến luyến. Mà quả thực, nó cũ rích, đã mất bìa sau và vài trang cuối. Cuốn sách mang tựa đề Grands Coeurs, là phiên bản tiếng Pháp dịch từ tiếng Ý. Tác giả không phải một tên tuổi nổi tiếng, Edmondo de Amicis. Trên bìa sách có ghi năm xuất bản là 1948 cho phiên bản tiếng Pháp. Mãi về sau này, có dịp tìm hiểu về tác giả, tôi được biết ông là một nhà báo kiêm nhà văn chuyên viết truyện ngắn sống trong thế kỷ XIX. Cuốn sách gốc “Cuore” được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1886, hai chục năm trước khi tác giả qua đời (1908). Tôi luôn xem việc bắt được cuốn sách này là một phép lạ. Thời đó, sách in bằng tiếng Pháp khá hiếm ở Việt Nam, tôi vốn học trường Tây, nhặt được cuốn sách Tây cũng là một sự trùng hợp bất ngờ. Nhưng còn một chuyện lạ khác xung quanh cuốn sách, nhưng tôi sẽ để cho độc giả khám phá trong những trang sắp tới. Suốt mùa hè năm đó, cha mẹ tôi loay hoay với việc dọn dẹp và trang trí ngôi nhà mới, thì tôi nằm dài ra sàn gạch hoa mát rượi để đọc sách. Lúc đó, tôi lên 8, em trai lên 4 và em gái út mới được một tuổi. Cuốn sách toàn kể chuyện trẻ con bên Ý và hầu hết các câu chuyện trong đó xảy ra trên sân trường học. Sân trường đối với những đứa trẻ như tôi là nơi có những kỷ niệm huyền diệu nhất nên tôi mê cuốn sách lắm, đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần. Thật ra, nếu không đọc sách thì tôi cũng chẳng có việc gì khác để tiêu đi quãng thời gian giữa hai năm học. Còn cha mẹ tôi thì quá hân hoan khi thấy con trai có món ăn tri thức để lấp đầy thời gian rảnh rỗi. Tôi đọc sách và tôi khóc, nhiều xúc cảm trào lên trong tâm hồn tôi giữa những câu chuyện trẻ con. Càng đọc càng khóc, càng khóc càng đọc. Sau mùa hè, cuốn sách đã in sâu vào tâm khảm tôi những gì tuổi đó tôi có thể hiểu, đó là lòng tốt, tinh thần trách nhiệm của người học trò, sự phục thiện, nói dối là điều rất xấu, chia sẻ những gì mình có với người khác, nhất là làm sai thì phải biết nhận lỗi và xin lỗi... Sau này, khi chơi với bạn bè, cũng có đứa bảo tôi ngây thơ và gà tô, ý là có lỗi thì phải biết giấu nhẹm đi, chứ ai lại tự mình xin lỗi! Đến lúc đó, tôi mới hiểu cuốn sách đã ảnh hưởng tới tôi mạnh mẽ nhường nào, nó giống như một đường ngay thẳng vẽ lên một tờ giấy trắng. Hơn 60 năm sau, trong một cuộc giao lưu với nhóm sinh viên tại Thành phố Hồ Chí Minh, tôi nhận được câu hỏi: “Thưa thầy! Cuốn sách nào được thầy ưa thích nhất?”. Thú thực, tôi từng đọc rất nhiều sách của những nhà văn nổi tiếng trên thế giới, như Hemingway, Steinbeck, Proust, Camus... Hồi nhỏ, tôi từng rất thích tiểu thuyết kiếm hiệp của Alexandre Dumas và cũng có nhiều năm ghiền truyện chưởng Trung Hoa. Nhưng vào đúng lúc nhận được câu hỏi của các em, tôi đã buột ra một câu trả lời mà đến hôm nay vẫn làm cho tôi ngạc nhiên: “Cuốn Grands Coeurs các em ạ!”. Tôi còn nói thêm: “Cuốn sách này thầy đã đọc cách đây hơn 60 năm, nay thầy không biết có còn được để trên kệ nhà sách nào không để thấy có thể mua tặng các em”. Nhưng phép lạ đã xảy ra, bạn có tin không? Ngay sáng hôm sau, tới văn phòng làm việc, tôi nhận được cuốn sách những tưởng đã mất tích trong lịch sử văn học. Sách được dịch sang tiếng Việt với tựa đề “Tâm hồn cao thượng”, do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2016, đúng 130 năm sau khi tác giả Edmondo de Amicis ra mắt độc giả lần đầu tiên. Cảm ơn anh Lê Viết Hải, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Xây dựng và địa ốc Hòa Bình đã tặng tôi phiên bản đầu tiên bằng tiếng Việt khi sách được in lại! Anh Hải vừa là người bạn tôi trân quý, vừa là người lãnh đạo mà tôi ngưỡng mộ. Cảm ơn anh Nguyễn Văn Phước và các bạn ở Công ty First News - Trí Việt đã dành hết tâm huyết cho việc xây dựng tủ sách đồ sộ “Hạt giống tâm hồn”. Tôi nghẹn ngào không biết nói gì hơn. Phép lạ này, tôi cũng không có lời nào để lý giải về sự trùng hợp cả về ý tưởng lẫn thời gian. * * * Bạn ạ, cuốn sách Grands Coeurs là những mẩu chuyện hồn nhiên về những đứa trẻ khi ở trường hay ở nhà, những trò chơi chung, những mẫu đàm thoại giữa chúng... Trong những mẩu chuyện này, luôn có những sai lầm, phản ứng bồng bột của những đứa trẻ, nhưng rồi chuyện nào cũng kết thúc bằng một sự nhìn nhận thật phục thiện, một sự xin lỗi thật tử tế, một sự đền bù đầy tình cảm. Để rồi những sự đảo lộn do những đứa trẻ vô tình gây ra trong sân trường, trong khuôn viên gia đình đều tìm thấy sự thăng bằng trở lại, sự ôn hòa an nhiên. Xã hội xưa kia là thế, và chỉ có thế. Tính chất phác, sự thanh bạch hiện lên trên mỗi nét mặt những con người chưa tới tuổi trưởng thành và nếu có đứa nào trót yếu đuối, nói dối, mặt nó tự nhiên sẽ đỏ gay lên vì xấu hổ. Ngay sự xấu hổ vào thời đó cũng đã được coi như một hình phạt nặng nề rồi. Tôi cho rằng các bạn nên mua cuốn sách này cho những thành viên vị thành niên trong gia đình bạn, thậm chí cho cả những người lớn nữa. Không chỉ vì cuốn sách chứa đựng những bài học về luân lý, mà nó còn cho ta cảm giác mát dịu của tâm hồn giữa một thế giới trong lành, với những tình cảm giản đơn và mẫu mực. Cảm giác mát dịu đó, tôi xin thú thật, đã ám ảnh tôi suốt đời. Tôi đã khát khao tìm lại sự trong sáng giản đơn đó chung quanh tôi, một thứ ánh sáng nhẹ nhàng giúp cho con người tìm ra mọi giải pháp cho mọi tình huống. Đó là giải pháp của tình thương nhân loại được truyền giữa người với người, như một món ăn tinh thần cần thiết, như một thứ nước uống có thể gột rửa tâm hồn và làm nhẹ tâm can. Với ánh sáng đó, không tội lỗi nào mà không thể tha thứ, bỏ qua nếu người phạm phải biết hối hận, xin lỗi và cải thiện. Chẳng lẽ thế giới ấy không còn?! Nói ra rất có thể bạn không tin, nhưng đây là sự thật của đời tôi: Trong mọi lựa chọn, mọi quyết định, tôi đều cố gắng đi tìm ánh sáng đó để nhìn rõ hơn việc phải làm. Xin bạn đừng lầm lẫn điều đó với việc thắp hương xin xỏ, cầu khấn các đấng siêu nhiên với tinh thần mang tính vụ lợi và dị đoan. Thời phải chọn trường kỹ sư để học, nào tôi có chọn thật đâu. Tôi đã lùi lại nhìn thế giới và tự nhủ: Trên đời này, người nào có gắng rồi cũng có công việc tốt, còn làm việc gì thì cũng được. Thế là tâm hồn của tôi tìm được sự an nhiên và sau đó, việc lựa chọn mất phần gay go. Tôi đã chọn môn học hoàn toàn tách rời ý nghĩ sau này mình sẽ làm nghề gì, làm sao để kiếm nhiều tiền, mà chỉ chú trọng vào sự thoải mái của tâm hồn nếu như con đường đó mở ra cho tôi. Nhớ lại hồi đó, do điểm thi tốt, tôi có nhiều quyền lựa chọn đăng ký học vào các ngôi trường tốt. Thầy và chúng bạn nhiệt tình khuyên bảo, rằng tôi nên chọn trường này hay trường nọ, hầu hết đều dựa trên những lý luận chiếm đóng tương lai. Cha mẹ tôi thì không can thiệp. Chính vì vậy, tôi cũng ngạc nhiên thấy mình sao quá nhẹ nhàng trong việc lựa chọn. Tôi đã không nghiên cứu chương trình học, không tham khảo nghề nào sẽ đưa đến bến tương lai nào, chỉ một cảm nhận hạnh phúc, duy nhất, đã giúp tôi sớm có quyết định của mình. Tôi đã chọn Trường Cao đẳng Quốc gia Cầu đường của Pháp sau khi tôi được chiêm ngưỡng dung nhan của cụ Hoàng Xuân Hãn ở nhà trường. Cụ là một học giả uyên thâm, một tấm gương đạo đức và cũng là một sinh viên Trường Cầu đường của Pháp. Tôi quá ngưỡng mộ cụ và cố theo gót cụ, ít nhất là trong việc chọn trường. Tiêu chuẩn chọn lựa của tôi đấy, gần như là ấu trĩ! Đến lúc chọn chỗ làm cũng vậy. Khi tôi tốt nghiệp, thị trường công việc bên Pháp rất tốt nên mỗi người đều may mắn có nhiều lựa chọn. Tôi cũng lùi lại một bước để chiêm ngưỡng vấn đề và tìm tới nơi cho mình cảm giác thoải mái, hạnh phúc. Sau này, tôi cảm nhận chưa bao giờ mình quyết định sai và ngay cả khi nơi làm việc xảy ra chuyện bất ổn thì tôi vẫn có những phản ứng rất nhẹ nhàng và nhanh chóng: Mình sẽ không bao giờ sống chung lâu với những người dối trá, quỷ quyệt, mưu mô, tham lam. Chỉ ít lâu sau, tôi lại được trở về với cái thế giới mà tôi yêu, với những con người đạo đức mà tôi mến. Chẳng có lựa chọn chi mấy, mình chỉ cần tránh cái âm để cho cái dương toả sáng và đem lại sự an nhiên cho tâm hồn. Trong đời sống tình cảm, tôi cũng có những cuộc phiêu lưu như bất kỳ ai, nhưng rồi luôn có một bàn tay vô hình bên cạnh ngăn tôi lại khi có những tình huống éo le rình rập và ngược lại, khuyến khích tôi đến với những cuộc gặp gỡ chân thiện. Chuyện lấy vợ cũng thế, vô cùng nhanh chóng và đơn giản, vì đối với tôi, một cảm giác nhẹ nhàng đơn giản là tín hiệu cho sự tốt đẹp. Linh tính tinh vi đã đi vào cuộc chơi, giúp cho người phải lấy một quyết định có được sự tự tin. Lúc gặp người bạn trăm năm lần đầu, tôi chỉ tự nhủ: Thật ra, người nào trong sáng, hướng thiện là được, chứ biết chọn ai với tiêu chuẩn nào! Rồi có thêm một ông cụ trên tám mươi tuổi hé môi thổi vào tai tôi: “Cháu lấy ai cũng được, miễn là cháu phải tạo nên không khí đạo đức tốt lành trong gia đình của cháu”. Vậy là, chẳng cần những lời động viên cho tới những cân nhắc, lý luận cầu kỳ, chẳng có nhiều cuộc đi chơi để tìm hiểu về nhau trong nhiều tháng, hai chúng tôi lấy nhau. Sau này, khi phải quyết định chuyển sang sống và làm việc tại Brazil, rồi Quốc đảo Fiji, Singapore, sau đó là Mã Lai, tôi cũng chẳng lần lữa lâu dài. Cứ thấy vui vẻ và ấm áp, tốt lành thì đi, chi đơn giản có thế. Luôn luôn chọn ánh sáng của cái dương và tránh không khí ngột ngạt của cái âm. * * * Bạn có tin không, cuốn sách “Tâm hồn cao thượng” là gốc rễ của tất cả mọi sự trong đời tôi. Niềm tin vững như bàn thạch của tôi: sự chân thiện, phong cách đạo đức là nguồn gốc tạo ra sự may mắn và sự bền vững. Tất nhiên, tôi không chứng minh được điều này. Tôi chỉ có sự trải nghiệm cho phép mình phỏng đoán như vậy. Trong hơn 70 năm cuộc đời, chưa bao giờ tôi tính toán tới lui, làm thế tôi giống như những đứa trẻ hồn nhiên trong sách. Chưa bao giờ tôi cho đồng tiền vào cuộc chơi và chuyện kỳ diệu là trong đời tôi, chưa bao giờ sự lừa dối phớt qua trí óc. Trong cuốn sách “Tâm hồn cao thượng”, bạn sẽ không tài nào tìm thấy vai trò chi phối của đồng tiền và đôi khi chính những người nghèo lại là những nhân vật ấm áp và nhiệt huyết nhất trong cốt truyện. Thành thử, nếu bạn hỏi tôi phải quyết định ra sao trong những tình huống phức tạp thì câu trả lời của tôi là: Bạn hãy tạo môi trường tốt đẹp xung quanh mình, hãy có những người bạn tốt lành, hãy luôn luôn mang ý tưởng tích cực và phụng sự, lúc đó, bạn sẽ tìm ra một thế giới trong sáng mà ở đó, lộ trình bạn phải lựa chọn hiện ra một cách rõ ràng, dễ dàng đến trở thành dĩ nhiên. Chỉ đạo đức mới tạo ra sự trong sáng và chi với sự trong sáng, con đường của bạn mới hiện rõ. Sau đó thì chẳng cần phải quyết định gì, mọi chuyện sẽ diễn biễn một cách tự nhiên, tích cực hơn. Bạn chỉ cần nhớ một điều, người gian kẻ dối có thể kiếm được rất nhiều cơ hội trong cuộc đời của họ, nhưng người đạo đức thì không cần tìm kiếm, vì lẽ đời là xã hội thường muốn trao cho người tốt và thiện chí những trách nhiệm mà họ mong ước. Những đúc kết đó tôi từng đưa vào bài diễn văn chúc mừng tân khoa Đại học Hoa Sen năm 2017. Bài diễn văn có thể được xem như một cẩm nang tôi gửi gắm các bạn trẻ vừa tốt nghiệp, tôi xin chép lại để tặng bạn đọc. Các em tân khoa thân mến! Hôm nay, Thầy có ý nghĩ ngộ nghĩnh là gửi cho các em một lá thư, tuy Thầy đang đứng ngay trước mặt các em! Lá thư này, thầy dành riêng cho các em, vì hôm nay là ngày của các em. Thầy rất hân hạnh được tham dự lễ trao bằng tốt nghiệp của trường Đại học Hoa Sen và Thầy muốn tặng các em một cẩm nang, trước khi một số em vào đời và một số em sẽ còn học tập thêm, với mục đích sau này dốc hết tài năng của mình cho xã hội. Nhưng trước hết, Thầy muốn thay mặt các em long trọng tạ ơn tất cả các phụ huynh của các em có mặt ngày hôm nay. Thầy đã từng là học trò, rồi là sinh viên, rồi là phụ huynh, rồi cuối cùng là nhà giáo. Thấy hiểu sâu đậm tâm tình của từng vai trò và Thầy xin được phép chia sẻ sự hy sinh của cha mẹ, ông bà của các em. Có lẽ phải hơn một ngàn ngày chăm sóc và theo dõi, cũng như hàng trăm đêm lo âu phập phồng, để rồi được sống trong giờ hạnh phúc tuyệt vời, chính ngày hôm nay. Các em ơi, ngay tại đây, ngay lúc này, các em hãy đứng dậy ngay, thay cho lời cảm tạ sâu sắc. Cũng ngay tại đây, thầy xin thay mặt các phụ huynh và các em tân khoa tri ơn sâu sắc nhà trường, ngôi trường thân yêu mà ngày mai đây sẽ là ngôi trường xưa yêu dấu, trị ơn các thầy cô đã tận tụy hướng dẫn các em, để ngày hôm nay chúng ta cùng nở mặt nở mày, xin trị ơn Ban giám hiệu và nhất là bà Hiệu trưởng Bùi Trân Phương kính mến, trong nhiều năm đã vượt bao nhiêu trở ngại để xây dựng nhà trường như là một nơi đào tạo có chất lượng không chi những kỹ sư, cử nhân, thạc sĩ cho guồng máy kinh tế văn minh, mà còn đào tạo những con người với lương tri, nhân tâm và lòng vị tha để phục vụ cho toàn xã hội. Các phụ huynh ơi, các em tân khoa ơi, tôi lại xin mời tất cả chúng ta cùng đứng dậy để cùng nhau vỗ tay thật ròn rã như pháo nổ, để bày tỏ lòng tri ơn của chúng ta đối với những người mà xã hội đã giao cho sứ mệnh đào tạo những con người cho xã hội, những công dân cho đất nước. *** Đối với nhà trường, có lẽ nhiệm vụ đối với các em nay đã hoàn tất. Các em sắp tạm biệt. Đối với phụ huynh các em, một giai đoạn lớn đã kết thúc. Hôm nay, các phụ huynh còn có trách nhiệm với các em, nhưng ngay ngày mai, vận mệnh của các em, nay đã trưởng thành, hoàn toàn nằm trong sự định đoạt của chính các em. Những lựa chọn, những bước tiến sẽ đều do sự chủ động của chính các em. Nó sẽ như thế từ đây mãi mãi. Và nó sẽ phải như thế, mãi mãi, các em ạ. Trước khi các em vào đời lập nghiệp mưu sinh, Thầy có đôi lời muốn gởi đến các em, hy vọng sẽ là hành trang theo các em suốt đời. 1. Ngày hôm nay chị đánh dấu giai đoạn đầu của một cuộc phiêu lưu. Cuộc đời là cả một cuộc phiêu lưu thích thú, mà phần thưởng luôn luôn là một chai nửa đầy nửa vời. Hãy nhìn nửa vời để cảm nhận được hạnh phúc rằng mình có được một chai nửa đấy. Nhưng cũng hãy nhìn nửa chai đây để hiểu rõ rằng cái nửa vời kia là rủi ro, là công việc chưa hoàn tất, là lộ trình chưa đi tới, có khi là điều gì đó đang bị xã hội bỏ rơi trong khi mình đang tiến bước. Khi các em ở bên phía dương, các em hãy nhớ là xã hội loài người còn có phía âm. Vào đúng lúc đó các em phải tập cảm nhận mình đã may mắn như thế nào. Phải luôn ý thức: “Học tập là mãi mãi”. Càng có tuổi, các em sẽ càng thấy rõ không có lộ trình học tập nào tạo được hứng thú cho bằng khi bản thân đã nhuần nhuyễn những kiến thức và đối chiếu với nhiều trải nghiệm. 2. Các em hãy yêu thương xã hội và gắn bó với mọi thành phần. Có người kém hơn thì mới có người cao hơn. Chính vì thế mà các em phải thấm thía những may mắn của mình và các em nhớ nhé: Chớ bao giờ nhìn xuống để xem thường một ai, cũng như không phải lúc nào các em cũng ngước mắt lên cao để ao ước. Các em cứ yêu xã hội là xã hội sẽ yêu các em. Thành công sẽ tới, may mắn sẽ hỗ trợ các em chứ không hẳn do chi tài năng của các em! Và nếu, đối khi, các em thấy xã hội không đẹp, thì các em hãy làm cho xã hội đẹp hơn bằng những hành động và tác phong đẹp, vì chính các em là xã hội đấy. 3. Thành công bắt buộc sẽ tới với các em, vì xã hội ngày nay vô cùng tích cực, ai ai cũng cần sự thành công của người khác để chính mình thành công. Đó là ý nghĩa của “toàn cầu hóa” và của “làm việc nhóm”. Vậy, chính các em hãy ý thức phải hỗ trợ cho người khác thành công, để rồi chính mình thành công. Ngày nay không còn thành công nào là cá nhân nữa. Các em hãy làm ngay đi để đừng bao giờ phải hối tiếc. Thời gian không bao giờ trở lại, cơ hội sẽ lướt qua nếu mỗi chúng ta không cố gắng hết sức mỗi lúc. Và muốn có được tác phong đó chúng ta phải biết yêu nghề và biết đam mê. Yêu loài người, yêu chủng tộc, yêu người đi trước cũng như rộng lượng sẻ chia với người đi sau. 4. Các em hãy đón nhận thất bại như là một món quà quý báu. Nhiều người suốt đời không có được “ân huệ” đó, và chính đó là lý do mà họ không có thêm cơ hội để thành công. Các em hãy ra ngoài đồng, nhìn lên trời cao để cầu mong thánh nhân ban cho một ân huệ, đó là ân huệ được trải nghiệm và được nếm mùi thất bại. Mỗi lần thất bại ta sẽ cứng cáp hơn và ta sẽ có nhiều bài học để thành công sau này. 5. Cuối cùng, các em đừng bao giờ nghĩ đến đồng tiền. Xưa kia, khi còn trẻ Thầy thú nhận đã nhìn đồng tiền với lòng hăng say. Thầy đã may mắn gặp một Đức Hiền Từ dạy Thầy: “Quý vật tìm quý nhân”. Ngay lúc đó, Thầy không hiểu rõ ý nghĩa, nhưng càng sống Thầy càng nghiệm ra rằng, khi ta cho xã hội lòng nhiệt huyết, những kiến thức, những đồ án có tính cách xây dựng, thì loài người và xã hội sẽ quý chúng ta, và sẽ tặng lại cho chúng ta sự êm ấm, sự an sinh. À ra thế, Thây tự nhủ, đâu bao giờ mình dám nghĩ mình là quý nhân? Nhưng thực vậy. Các em cứ cư xử có tác phong, các em cứ giao thiệp có quy có phép, các em cứ biết chia đều và nếu không đạt kết quả như mong muốn thì hãy cứ nhận lấy phần thiệt thòi, thì các em sẽ ngạc nhiên khám phá ra xã hội sẽ tặng cho các em gấp trăm lần như thế. Chớ bao giờ làm nô lệ của đồng tiền nhé các em. Cũng chính vì lý do đó mà không những người, mà cả những tổ chức nữa cũng phải hướng về tinh thần vị tha. Vị tha là cho hết, với tấm lòng, với tất cả tình cảm lành mạnh, với tận đáy của hy sinh. Gương sáng của phụ huynh các em đấy. Gương sáng của Trường Đại Học Phi Lợi Nhuận đấy, gạt bỏ óc lời lỗ và đồng tiền ra khỏi tư duy tính toán vụ lợi để dành hết tình cảm và sự săn sóc cho việc đào tạo giáo dục con người. Với tinh thần đó, những con em, những sinh viên sẽ được vươn lên như những cây xanh màu mỡ, được lớn lên trong sự nuôi nấng ân cần, được tu tập trong sự tĩnh mịch của thế giới trong lành, chứ không phải trưởng thành từ những tổ chức mang tính hơn thiệt. Hôm nay, tôi rất hạnh phúc được hưởng sống những phút hưng phấn cùng với những tân khoa minh sáng trước mặt tôi, với Trường Đại học Hoa Sen đáng kính. Để kết thúc, tôi xin đọc 4 câu thơ của Thi sĩ Văn Liêm, là GS. TS. Đào Văn Lượng, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn, trong bài thơ “Khát vọng”: Cuộc đời người chỉ cháy một lần Đừng leo lét, lụi tàn khi đông đến, Ta muốn đốt tim ta thành ngọn nến Cháy đến kiệt cùng giọt sáp long lanh! Yêu Đại học, đam mê giáo dục, đối với tôi, là cháy như ngọn nến, đến kiệt cùng giọt sáp long lanh. Chúc mừng các tân khoa, chúc các em vững bước trên đường đời! GS. PHAN VĂN TRƯỜNG Cố vấn Chiến lược Trường Đại học Hoa Sen, Cố vấn Chính phủ Pháp - Thương mại Quốc tế, GS. Viện John Von Neumann, Đại học Quốc gia TPHCM Les voies du Seigneur sont impénétrables. Những lộ trình mà Chúa chọn rất khó thấu triệt cho người phàm. Sau cái năm 1963 đen tối mà tôi đã kể cho bạn đọc trong chương tôi. Tuy nhiên, vào tháng 4 năm đó, một vận may cực lớn đã tới với tôi, mà tôi không hề hay biết, cho dù tôi sống ngay giữa cơn may đó. Vào một ngày đẹp trời, tôi và Philippe Boulet đang ngồi học trong lớp Anh ngữ của Trường Francisque Sarcey tại Dourdan. Lớp Anh ngữ này giống mọi lớp Anh ngữ trong mọi ngôi trường, không học sinh nào nghe thấy cả. Đứa chơi cờ “ca-rô”, đứa thì nói chuyện, đứa lại đọc sách lén. Vào thời đó chưa có điện thoại di động, chứ nếu không có lẽ cả lớp sẽ chơi game, hay nhắn tin như một số sinh viên ngày nay. Duy có anh Boulet đang mở một số hộ sơ ra rồi thở vắn thở dài trước những trang giấy phải điền vào. Tôi hỏi anh: “Mày đang làm gì thế mà than với thờ?”. “Đang chọn trường cho sang năm” – Boulet trả lời – “Chẳng biết phải chọn trường nào. Mỗi hồ sơ đăng ký nhà trường thì quá dầy, điền vào các khung câu hỏi thật mệt mày ạ, tao có bốn hồ sơ như thế phải điền. Bố tao bảo nếu chi chọn một thì rủi ro lắm, nếu chẳng may họ không chọn mình thì mình trắng tay, không có trường để học cho sang năm!”. Anh Boulet nói thêm: “Tối nay là hạn chót để nộp hồ sơ, bố tao đang đợi ngoài của nhà trường, tạo điền xong là bố tao sẽ phải chạy xe lên Paris đi nộp. Còn mày, sang năm mày đã tính đăng ký trường nào chưa mà tao trông thấy mày tà tà quá, chẳng thấy mày mấy quan tâm!”. Tôi vừa nghe tim vừa đập thình thành. Đó là năm đầu tiên tôi Pháp, tôi thực sự không có chút ý thức rằng mỗi học sinh phải nhớ đăng ký chọn trường sau khi đậu tú tài, mà thủ tục xin thì phải khởi đầu ngay từ tháng 4 hàng năm, cho nên học mới bắt đầu vào tháng 9. Nghe Boulet nói xong, tôi vỡ mật. Tôi hỏi Boulet: “Hồ sơ thì xin ở đâu vậy?”. Boulet trố mắt ngạc nhiên: “Mày không biết hả?”. Boulet liền đưa cho tôi một bộ. Đó là hồ sơ chọn Trường “Lycée Janson de Sailly”. Và Boulet nói với tôi: “Bố tao có rút 4 hồ sơ, nhưng hồ sơ tao đưa cho mày dùng thì tao có hai phiên bản, nên tao có thể cho mày một. Mày điền nhanh đi, bố tao lên Paris nộp luôn thể!” Và cứ như thế, tôi vội điền vào bộ hồ sơ trinh trắng. Họ hỏi một trăm thứ tôi không nhớ. Họ xin hình ảnh, tôi không có. Họ đòi giấy nọ giấy kia, trong đó có giấy chứng nhận thường trú, tôi cũng không có luôn. Boulet cười toét miệng nói: “Tao chưa bao giờ thấy thằng nào ít quan tâm tới việc chọn trường và chọn môn học hơn mày. Với hồ sơ của mày thiếu đủ mọi giấy tờ thì bố tạo cũng chịu, nhà trường sẽ ném vào sọt rác”. Bạn ạ, lúc đó tôi đang 17 tuổi rưỡi, đang học tại ngôi trường cách Paris 50 km, không một xu dính túi. Tôi lại chưa bao giờ được ai giải thích hệ thống giáo dục của Pháp được tổ chức như thế nào, sinh viên được chọn những hướng đi nào trong cả rừng thủ tục. (Giá mà thời đó có Google để tham khảo, có điện thoại di động để nhắn tin, có email để xác nhận thông tin! Nhưng than ôi, năm đó là 1964, Bill Gates và Steve Jobs chưa quá tuổi thanh niên). Thêm vào đó, giống như mọi nơi ngày nay, việc xin vào đại học rất khó, đòi hỏi hồ sơ phải đầy đủ một cách tỉ mỉ. Thế rồi riêng cá nhân tôi lại còn cần thêm việc xin vào nội trú nữ vì tôi sẽ hoàn toàn không có mảy may phương tiện để sống ở ngoài phố trong suốt học trình đại học. Nhưng cuối cùng, với một hồ sơ thiếu đủ mọi thông tin và những chứng chỉ cần thiết, tôi vẫn được nhận. Nộp có một hồ sơ duy nhất, giống như kẻ đi săn gặp hổ, còn mỗi một viên đạn để tự cứu thân. Phép lạ đã nhiệm màu cứu tôi. Không những thế, tôi là sinh viên vào chót, và cũng được luôn vào nội trú với cái giường chót còn lại trong số những sinh viên đăng ký. Và tới khi nhập học thì tôi phải nộp hồ sơ bổ sung. Chuyện khôi hài nhất là anh Philipe Boulet lại bị trượt hết ba nơi kia, chỉ duy có nơi tôi được nhận mới nhận anh. Thế là hai anh em lại tiếp tục năm học ngồi cạnh nhau, trong khi hoàn cảnh của anh ấy đáng lẽ phải khác tôi nhiều! Nghĩ lại cũng thấy đáng kinh ngạc. Anh Boulet thì nộp 4 hồ sơ đầy đủ, tôi chỉ nộp một hồ sơ thiếu đủ mọi giấy tờ, chứng chỉ. Phép của Thánh. Quyết định của Chúa. Và được Phật phù hộ. Tin hay không thì tùy bạn, nhưng đó là chuyện thật, vô cùng hi hữu. Lạ kỳ nhất là đến khi năm học bắt đầu vào đầu tháng 9 năm 1964, tôi vẫn chưa có ý niệm rõ ràng là lộ trình mà tôi vừa chọn một cách hoàn toàn bất đắc dĩ và ngẫu nhiên sẽ đưa tôi đi đâu. Có lẽ ai ở ngoài mà nhìn vào cũng sẽ tưởng chính tôi đã chọn cho mình. Không đâu. Tôi chưa bao giờ lựa chọn. Tôi chưa bao giờ làm một hồ sơ nào khác để xin vào nhà trường nào khác. Cứ biết rằng mình đã cứu năm học của mình và mình có thêm ít nhất một năm nữa được nội trú. Lo giường ngủ đã, lo mái ấm đã, lo cơm nước đều đặn đã rồi mới lo sau này làm gì. Phân tôi, tôi chỉ đủ sức nghĩ xa đến thế! Cứu thân với cái phao duy nhất để nổi. Nào có ngờ, tôi đã bị đẩy vào lộ trình đại học khó khăn nhất nước Pháp, giữa bao nhiêu lộ trình khó. Vì sau 3 năm học, tôi sẽ phải thi tuyển trong một kỳ thi cao quý nhất nước Pháp, chi tuyển vài trăm sinh viên giỏi nhất giữa mấy chục ngàn thí sinh cao học về Toán. Và cuối cùng, 3 năm sau, vào năm 1967, tôi đã đăng khoa kỳ thi tuyển vào Trường Quốc gia Cầu đường tại Pháp, một nhà trường chỉ dành cho tinh hoa của đất nước Pháp, mà trong cuộc thi tuyển, tôi lại một lần nữa thuộc vào số sinh viên cuối cùng lọt vào danh sách vàng. Lắm lúc tôi mỉm cười, ngước mắt lên trời mà lẩm bẩm: “Thà vào chót trên danh sách vàng, còn hơn là vào nhất trên danh sách bạc”, rồi tôi chắp tay tôi khấn. Lựa chọn đầu tiên của cuộc đời mình, thì mình đã bị tốc độ của cuộc sống vượt khả năng suy đoán của mình xa. Nói một cách ngắn gọn thì tôi đã không chọn hay lựa. Thánh nhân đã quyết định hộ tôi, thay tôi, không những thế còn giúp tôi phản ứng kịp thời mà tôi không hề ý thức. Thật bất ngờ cho tôi, sau này quyết định đi theo lộ trình ngẫu nhiên này sẽ lộ sáng ra là quyết định tốt nhất có thể cho tôi vào lúc đó. Và không quá lời nếu nói là “Thánh nhân đã đãi kẻ khù khờ”. Tôi thật muốn kể cho bạn tại sao tôi lại chọn Trường Quốc gia Cầu đường năm 1967. Năm đó, trong các cuộc thi tuyển thì tôi đậu nhiều trường cao đẳng quốc gia, trong đó có ba bốn trường khá nổi tiếng như Telecom (Viễn thông), Centrale (Kỹ sư Bách khoa), SupAero (Kỹ sư phi cơ). Tuy nhiên, sau khi tôi hiếu kỳ tìm hiểu về những vị tiền bối người Việt Nam, thì được biết Trường Cầu đường Pháp đã tặng cho nước Việt Nam khá nhiều nhân vật nổi tiếng. Một trong những vị gây ấn tượng nhất cho tôi là cụ Hoàng Xuân Hãn (1908 - 1996). Theo Wikipedia, ông là một nhà sử học, ngôn ngữ học, toán học và cũng là một kỹ sư. Ông là người soạn thảo và ban hành chương trình trung học Việt Nam đầu tiên. Ông cũng từng tham gia nội các của cụ Trần Trọng Kim. Xin nói thật với bạn đọc là tôi đã chẳng đi xa thêm để lựa chọn. Sự ngưỡng mộ của tôi đối với cụ Hoàng Xuân Hãn đã đưa tôi tới việc lựa chọn Trường Quốc gia Cầu đường. Tôi không bàn với cha mẹ, chẳng tham khảo các thầy, các bạn. Tôi cũng chẳng quan tâm đến việc chọn nghề sau này. Và khi ngồi vào ghế nhà trường, 28 đường Saints-Pères, Paris 5, tôi như thỏa mãn được cảm nhận danh dự của mình khi nghĩ cụ cũng đã ngồi trong phòng Auditorium (hội trường) này 35 năm trước. Nhưng đối với bạn đọc trẻ thì tôi chỉ giống cụ Hãn đúng có thế. Con đường của tôi sau này khác hẳn cụ, cũng như hàng chục kỹ sư cầu đường người Việt khác, chẳng thể so sánh được với cụ, vì tất nhiên dễ gì có được những nét oai phong của cụ. Nhưng tôi viết thế để bạn nào đang phải chọn lựa con đường mình đi nắm bắt được ngay một điều cơ bản, rằng cả cụ Hãn lẫn cá nhân tôi, cho dù đều tốt nghiệp Trường Cầu đường cũng chưa bao giờ xây cầu và xây đường ở nơi nao, cho dù hai chúng tôi đã xây nhiều thứ khác cho xã hội loài người. Nguyên lý của việc chọn lựa nghề nghiệp hẳn chứa đầy bí ẩn. Cách đây vài tháng, vào năm 2018, tôi có dịp đi thăm nhiều trường trung học phổ thông tại miền Bắc, Thái Nguyên, Hưng Yên, Bắc Giang, Hà Nội. Tôi rất thích giao lưu với các học sinh tại những trường trung học phổ thông kiểu này, vì có lẽ các em cũng thích nghe những người đã trải nghiệm chia sẻ những khúc quanh của cuộc đời mình. Tại mỗi nơi, câu chuyện đều na ná nhau. Số đông học sinh vẫn còn chưa ý thức được tầm quan trọng của sự lựa chọn và nhất là rất đông phụ huynh cũng không thể mường tượng được thế giới ngày nay sẽ dành cho con em của họ những lựa chọn gì. Tôi trình bày cho các em nghe và nhất là cố gắng giải đáp những câu hỏi mà các em đặt ra. Điều mà tôi rút tia là rất ít em biết mình sẽ làm gì, hoặc ước mong làm gì. Hơn thế nữa, rất ít em hiểu được mình có trong tay nhiều chọn lựa. Đại khái tôi được nghe những câu tiêu biểu như sau: - Em muốn trở thành giáo viên, vì em ngưỡng mộ thầy của em Gia đình em ai cũng là nông dân. Em chẳng có lựa chọn nào khác Em không muốn ở lại làng quê, mà muốn lên tỉnh lập nghiệp Nhưng cũng có em táo bạo hơn, có những sáng kiến: - Chẳng biết khởi nghiệp có khó không, chứ sau này em thèm mở doanh nghiệp của mình - Em thích nhạc, sau này muốn sáng tác nhạc - Em muốn du lịch khắp nơi, nên em đang học ngoại ngữ để trở thành người hướng dẫn du khách Em muốn làm đầu bếp vì em nghĩ ẩm thực là quan trọng nhất đời Có một cô gái mặt đầy mụn, sắc đẹp ngoài mực chuẩn, còn đột phá hơn thế: - Em chỉ cao có 1 mét 45, em muốn trở thành người mẫu! Chắc công ty nào kiếm người mẫu lùn và béo như em thì rất khó. Nói chung, không em nào thực sự đã có một sự chuẩn bị để lựa chọn con đường của mình. Trường hợp duy nhất là một em trai với gương mặt trắng trẻo phát biểu như là một chân lý: “Em biết em sẽ chọn gì: Em sẽ làm bác sĩ!”. Tôi hỏi lý do, em nói: “Bố em là bác sĩ. Mẹ em là bác sĩ. Em chẳng có lý do gì không làm bác sĩ, nhất là chị em vừa được nhận vào y khoa!”. Sự khẳng định của em trai này dễ nể, tuy sự tự tin làm tôi quan nga cho em. Liệu mỗi chúng ta có thể chọn nghề chi để muốn giống người khác, cho dù người mẫu là cha hay mẹ chăng nữa? Năm 1986, tôi đã phải lấy một trong những quyết định khó nhất trong sự nghiệp của mình. Câu chuyện khá dài và thú vị. Vài tháng trước đó, tôi có dịp đi một vòng châu Á. Tôi gặp được một ông cụ tóc và râu bạc phơ, y như một ông tiên mà chúng ta thường thấy trong những cuốn truyện cổ tích. Cụ nói với tôi: “Vài tuần nữa anh sẽ gặp một người khá cao, lưng hơi gù, tóc bạc trắng tuy còn trẻ, đại khái trạc tuổi anh. Mặt ông ấy hồng hào giống như một đứa trẻ nhỏ. Người đó, anh nhớ cho tôi, là người có một món nợ tiền kiếp lớn đối với anh. Người đó sẽ thay đổi hẳn cuộc đời nghề nghiệp của anh. Họ đề nghị gì với anh chăng nữa, anh cũng không được từ chối vì anh phải để cho họ trả xong nợ tiền kiếp”. Chuyện buồn cười là vài tháng sau, vào đầu năm 1986, tôi gặp “người đó” thật. Đúng cái dáng gù gù, cao ráo, mặt giống em bé. Tôi chẳng mấy tin vào những chuyện dị đoan hoang đường, tuy nhiên người này được một ông tiên báo trước nhiều tháng. Cuộc gặp gỡ do một tư vấn săn đầu người (head hunter) giới thiệu tôi vào một vị trí mới trong một tập đoàn đa quốc gia. Lúc mới gặp, nào tôi có nhớ lời của ông tiên. Ông bạn mời tôi vào tập đoàn của ông với chức Phó giám đốc và lương thì chỉ bằng mức tôi đang có. Lúc đó, tôi rất gượng gạo và phản ứng khá mạnh: “Thưa ông, tôi đang tại chức là Giám đốc Quốc tế của một công ty xây dựng lớn. Nay ông mời tôi vào một vị trí vô danh với trách nhiệm không rõ ràng. Lương cũng không điều chỉnh. Tôi xin cảm ơn ông, nhưng mong ông thông cảm quan điểm của tôi”. Chuyện tạm ngưng tại đó. Vài tuần sau tôi mới nhớ lại lời tiên tri của ông tiên, cùng lúc công việc của tôi cũng gặp khó khăn. Đúng thời điểm đó, anh tư vấn săn đầu người đến và lặp lại đề nghị của anh bạn cao gù với một điều chỉnh, rằng nếu mọi chuyện tiến triển ổn thỏa thì sau sáu tháng, họ sẽ đặt tôi vào đúng vị trí với lương bổng xứng đáng. Và tôi đã nhận lời ngay, không còn ngập ngừng từ chối như lần trước. Họ giữ đúng lời hứa. Sau này, anh cao gù và tôi đã trở thành “anh em sinh đôi” trong nghề nghiệp. Chúng tôi đã làm việc cùng nhau từ ngày ấy tới ngày về hưu, và hai chúng tôi đã vẽ nên những trang sử hào hùng nhất cho nền công nghiệp của Pháp. Tôi kể lại chuyện này với mục đích duy nhất là để khẳng định ai ai trong cuộc đời cũng sẽ gặp những trường hợp kỳ diệu, thậm chí huyền thoại. Cái khó là biết được cơ hội nào là thật, cơ hội nào là ảo. Lúc xảy ra cho tôi, nào tôi có ngờ. Lúc nhận được tiên tri, nào tôi có tin. Chính vào những lúc tương tự mà linh tính của mình mới vào cuộc chơi và đưa đẩy mình đi. Khi đi thì cũng đi từng bước, lòng không thể tránh được tâm trạng ngờ vực. Vào đúng những lúc đó, chỉ có một yếu tố giúp cho mình: Đó là sự tự tin, lấy gốc từ phong cách đạo đức của mình, để tin hơn rằng không thể nào có chuyện xui xẻo có thể tới với bản thân. Tôi đã nghĩ và suy diễn đúng như thế. Mình đã luôn luôn tốt với mọi người, đã luôn luôn giữ tinh thần và hành động đạo đức. Nếu chuyện trở nên khó chăng nữa thì cái khó đó chỉ là một sự thử thách, chứ không thể là một sự trừng phạt từ đâu đó mang tới. Trong sự lựa chọn đầy rủi ro, nào tôi có được quyền lựa chọn thực sự? Nếu một ông tiên đã biết trước được sự việc thì chuyện phải đến sẽ đến, và chuyên phải làm sẽ được thực hiện. Tôi được ban phép lành, tôi chỉ còn nước nhận nó như một món quà dành cho riêng mình một cách thật bất ngờ. Nghĩ lại, món quà này quá lớn, vì nó đã thay đổi hẳn sự nghiệp của tôi từ năm tôi 40 tuổi đến năm tôi về hưu. Tôi đã kể trong một chương khác về “Cuốn sách định mệnh” của đời mình. Bây giờ tôi có thể thưa thêm với bạn là chính cuốn sách đó đã giúp tôi hiểu được rằng mình phải giữ nguyên thái độ tốt lành của người thật thà, thậm chí ngây ngô, để mở đường cho âm phúc mà Đấng Trên Cao muốn ban cho. Đạo đức nhất thiết sẽ đem tới sự may mắn, tôi vững tin như vậy, và tôi đã nhận được nhiều phép lành từ đó. Và may mắn đầu tiên của tôi là tôi hiểu được ý từ Đấng Trên Cao. Chính Đấng Trên Cao cũng đã đẩy tôi về nước, và đây có lẽ cũng lại là sự sắp đặt, chứ không phải một sự lựa chọn cá nhân. Vào năm 1997, tôi đã theo phái đoàn của Tổng thống Pháp Jacques Chirac tới Việt Nam để tham dự Hội nghị Thượng đỉnh các quốc gia nói tiếng Pháp. Trong những cuộc gặp gỡ bên lề hội nghị, tôi đã có dịp cảm nhận được tuổi trẻ Việt Nam rất cần giao lưu cùng những kỹ thuật gia giàu kinh nghiệm. Nào tôi có lựa chọn gì, chuyện cần thiết thì phải xông vào làm thôi. Năm 2005, Trường đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh đã bỏ công tìm kiếm giáo sư dạy quy hoạch vùng và kinh tế đô thị. Tôi từng làm đúng việc này trong những năm 1973 đến 1975 tại Đại học Paris 1 - Panthéon Sorbonne và tôi cũng chẳng có lựa chọn nào khác là tham gia. Tôi đã làm việc này không lấy lương hay chi phí nên không thể gọi đây là một cơ hội hay một chọn lựa cho cá nhân mình. Gần đây, tôi đã nhận tham gia làm Chủ nhiệm Chương trình Quản trị kinh doanh tại Viện John Von Neumann, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Viện đã bỏ công tìm kiếm giáo viên từ nhiều tháng. Tôi nhận làm việc này cũng với một tinh thần đóng góp. Rồi năm 2017, tôi cùng một số anh em nông dân thành lập Câu lạc bộ Khởi Nghiệp Nông Nghiệp Việt Nam, với ý tưởng đóng góp để giúp những nông dân trẻ tìm ra cơ hội để lập nghiệp. Việc này cũng không phải là một lựa chọn của cá nhân, mà là một đóng góp không thể chối từ. Tương lai sẽ còn đưa thêm đến tôi những đòi hỏi của xã hội. Làm sao ngoảnh mặt đi khi có những khó khăn mà bản thân mình có thể giúp cho thuyên giảm? Lại sẽ không còn lựa chọn nào khác là tham gia và đóng góp. Khi nhìn vào “kính chiếu hậu”, tôi nhận ra suốt đời mình như bị gài vào công việc, mà không được thực sự lựa chọn. Đã đành, bất cứ lúc nào tôi cũng có thể quyết định chấm dứt việc đang làm hoặc cắn răng ngoan cố theo đuổi những mục tiêu kỳ lạ, nhưng nhận xét như thế chỉ là một giả định về tự do ảo. Tôi sống trong xã hội, sống giữa đồng bào, phải đo được cái may mắn mình được hưởng khi xã hội giao cho mình công việc và trách nhiệm. Tôi đã không thực sự được chọn lựa, cũng giống như mọi người thôi. Lựa chọn chỉ là ảo, việc bị bắt buộc phải vào lộ trình mới là thực tế. Không biết trường hợp của cá nhân tôi có khác các bạn chăng? Truyền thuyết “Từ Thức hay Kẻ Tìm Đường” Dưới con mắt của thi sĩ Đoàn Thêm Anyone who has never made a mistake has never tried anything new. Họ chưa bao giờ lầm lỗi vì họ chưa bao giờ thử nghiệm cái gì mới. — ALBERT EINSTEIN Chuyen oli tektek kon het eind va va shoi dai no change cứ như vẫn thế. Con người sinh ra, vào thời đại nào chăng nữa, hình như lúc nào cũng tìm đường - con đường tiến thân, con đường đi tới hạnh phúc, con đường xây dựng tài sản, con đường ổn định đời sống gia đình, đôi khi cả con đường để củng cố quyền lực. Ai ai, đều như nhau, đều tìm đường, giống như sinh vật lúc nào cũng tìm kiếm miếng ăn! Nhưng con người còn hơn súc vật ở cả tư duy, vì rất nhiều khi sự tìm kiếm mang tính chất tinh thần và tâm lý. Chính vì vậy, sự tìm kiếm phức tạp hơn vì mục tiêu của sự tìm kiếm có thể vô hình chứ không nhất cứ là hữu hình. Sự thỏa mãn trong sự tìm kiếm đôi khi không mang sắc thái chất lượng hay số lượng mà có thể là tâm lý thuần túy. Từ Thức là một nhân vật có từ xưa, từ một truyền thuyết, nhưng dễ có thể tiêu biểu cho những con người vào thời hiện đại, vì nhu cầu “đi tìm” tồn tại trong mọi thời đại. Xưa kia, Từ Thức đi tìm cảnh tiên, có lẽ tượng trưng cho giấc mơ xa vời. Ngày nay, sự xa vời có thể là một hành tinh cách xa địa cầu của chúng ta hàng triệu cây số, nhưng nó cũng có thể là một thế giới ảo nào đó ngay bên cạnh chúng ta, hay ngay trong tâm trí của chúng ta. Nó có thể là một thế giới của trí tưởng tượng, hay cái thế giới của ma túy hữu hình. Nó cũng có thể là những thế giới ảo mà công nghệ thông tin đã tạo ra đầy rẫy giữa thế kỷ XX và XXI. Và có lẽ trong những thập niên, kỳ nguyên sắp tới, đố ai đoán được trước những thế giới mà loài người sẽ chế tạo ra, mọi loại biến thể mà trí tường tượng ngày nay chưa thể hình dung. Thế nhưng tôi tin rằng một Từ Thức, bất chấp vào kỷ nguyên nào, sẽ vẫn tồn tại, mải mê đi tìm. Vì đã là con người thì sẽ có sự đi tìm. Một cuộc hành trình đi đâu không biết, nhưng cứ đi đã. Trong tập thơ Từ Thức hay Kẻ Tìm Đường của thi sĩ Đoàn Thêm, người ta đọc từng câu thơ mà tưởng đây là chuyện của ngày hôm qua, của cả ngày hôm nay, hay nhất thiết của cả ngày mai nữa. Thi sĩ ra quyển tập thơ vào năm 1959, nhưng truyền thuyết thì đã có từ lâu, từ nhiều thế kỷ trước. Bài thơ của Lê Quí Đôn trước động Bích Đào là một bằng chứng hiển nhiên. Tôi đã xin phép chọn Từ Thức vào tựa cho sách của mình, để diễn tả nỗi khắc khoải mà con người Việt Nam hiện đại đang sống mỗi giây mỗi lúc. Và không có gì tuyệt vời hơn là được mượn hai ngàn câu thơ trong tập thơ của thi sĩ Đoàn Thêm, một người Bác yêu quý của tôi, để minh họa và diễn tả. Cuối cùng Từ Thức đã đi đến đâu, và có tới nơi không? Mà nếu tới nơi mình muốn thì có tìm ra cái mình hằng tìm kiếm chăng? Trong chương đặc biệt này, tôi xin phép trích rất nhiều đoạn của thi sĩ Đoàn Thêm với sự đồng ý của gia đình, qua Anh Đoàn Phụng Hiến là một người con của thi sĩ, cũng như bài Tựa của nhà trí thức V. V. Mẫu, mà tôi gần như phòng chép lại toàn bộ. Đọc Đoàn Thêm, cũng như đọc V, V. Mẫu, bạn đọc chắc chắn sẽ cảm nhận được nỗi đau khắc khoải của con người trước thiên nhiên vạn vật, sinh ra để làm gì, đi tìm cái gì, và vì sao? Thiết tưởng, tôi ghi nhớ lại Đoàn Thêm cũng như con người Từ Thức từ thuở xa xưa, cốt để bạn đọc thấy vấn đề hiện đại hơn bao giờ. Và chính vì vậy, có lẽ chúng ta không nên khắc khoải tìm kiếm thêm mà cứ nên chăng tiếp tục cuộc sống vô tư. Tìm kiếm thì vẫn tìm kiếm, nhưng thế giới mà chúng ta đang tìm kiếm thì ngày nay còn nở ra thành một ngàn thế giới khác, một trăm giấc mơ mới, với những kịch sĩ vô cùng mới, thậm chí những rô-bô và trí thông minh nhân tạo mới mẻ. Sau này, với những cuộc cách mạng vô cùng đột phá về sinh học, lẫn lộn với những cuộc cách mạng vô cùng ấn tượng về Internet và các công nghệ thông tin mới, người phàm có lẽ sẽ còn thêm một triệu lý do mới để cuối cùng... lạc lối. Vậy nhưng trong đoạn cuối của sách, tôi sẽ xin đưa ra những đề xuất để chúng ta thoải mái với chính thế giới mà chúng ta đang sống, song song với thế giới mà chúng ta đang tạo. Này nhé, chúng ta không nên hoảng sợ. Vì những thế giới đó, ảo hay thật sẽ không cuốn được chúng ta đi... Từ Thức sẽ trở về chốn cũ, người Việt tha hương sẽ trở về với đất nước, và đất nước sẽ trở về với truyền thống hiền hòa và an nhiên muôn thuở. Để bắt đầu, tôi xin ghi chép lại bài Tựa của V. V. Mẫu cho tập thơ của Đoàn Thêm, nhưng trong cuộc ghi chép tôi sẽ bổ sung thêm những câu thơ bất hủ của người thi sĩ mà tôi mến yêu, mà cha tôi, nhà văn Phan Văn Tạo, đã là người bạn đồng hành thân tình trên suốt nửa thế kỷ. Trên thế giới, có lẽ không dân tộc nào ưa chuộng thi-ca bằng dântộc Việt-Nam... Tập thơ Từ Thức hay Kẻ Tìm Đường của ông Đoàn Thêm, phải chăng đã đánh dấu một giai đoạn mới trong thi-văn Việt-Nam? Đoàn-quân vốn là một nhà nghiên cứu. Song với một tâm hồn thisĩ, một ngọn bút điêu-luyện, học giả họ Đoàn, theo gương tiền-bối, cũng thường mượn thi-văn để ghi lại cảm-hoài và tư tưởng... Các thi-sĩ thường hay đem tâm-sự của mình ký thác trong thơ phú, và mượn tình-cảnh người trong truyện để dãi tỏ tấc lòng riêng. Qua những vần thơ miêu-tả nỗi thắc-mắc tế-nhị của một khách tài-hoa, băn khoăn đi tìm chân-lý, thi-sĩ họ Đoàn đã phân tích tâm-trạng của không biết bao nhiêu người cùng chung cảnh huống với họ Từ: Hóa sinh trong cõi hồng-trần Muôn năm định-mệnh một lần mà thôi. Biết bao cho thuận lẽ trời... Tìm đường chưa chắc suốt đời đã xong. Giăng tròn rạng cảnh hư-không, Thông-minh càng thấy nỗi lòng hoài-nghi. Cao xa mờ mịt thấy gì? Nhìn ngay trước mắt, có khi rành rành... Hóa-công sinh bậc đại-thành, Biết tròn nghĩa cả, biết đành phần chung; Thủ thường mới đạt cùng, thông, Yên ngôi chánh-vị, thuận dòng nhân-sinh. Trang dã-sử, khúc tâm-tình, Nhìn đường trăm ngà, liệu mình về đâu? Tâm-trạng này, trong thời đại nào cũng gặp. Đem thông minh tàitrí để đạt kết-qua quá tầm-thường là sự vinh-thân phi-gia, hay tìm giai-pháp tiêu-cực cầu an tránh mọi trách-nhiệm, hai thái độ này đều có tánh-cách vị-kỳ, trái với luật tiến-hóa của nhân-loại. Bốn phương kiếm chốn tiêu sầu Hợp-quần mới biết sở-cầu đáng khinh. Đi tìm sinh-thú một mình, Ngàn trùng chỉ thấy lộ-trình vắng tanh. Treo ấn từ quan, ngao-du tìm chân-lý, rồi lên cõi tiên thành hôn với Giáng-Hương, sống một cuộc đời sung-mãn, bên cạnh giai-nhân, Từ Thức lại từ biệt xuống trần, về hương-thôn cũ, hòa mình vào đời sống của nhân-dân, gắng sức nâng cao mức sống tinh-thần và vậtchất của những người chung quanh mình. Không có ý thuật lại một truyện thần-thoại hay chỉ diễn tả một mối tình giữa tiên-nương và người phàm-tục, tác-giả trước hết dụng-ý mượn vai trò Từ Thức để đặt vấn-đề trách-nhiệm của các phần tử trí-thức đối với non sông đất nước. Khung cảnh thần tiên, cuộc đời cực-lạc nơi cảnh tiên chỉ là những yếu-tố làm nổi bật thêm giá-trị quyết-định của Từ-Thức trở về trần góp phần xây dựng cùng đồng-chủng. Lánh non tiên vui thú riêng mình, Nhớ đồng-loại, tự khinh và tự trách, Xa cố-lý, bang-khuâng hồn lũ-khách, Xót thương người đói rách lầm than... Cho nên tác-giả, theo lối của thi-sĩ Tây-phương, đã không ngần ngại thay đổi một vài chi tiết trong truyện cũ. Theo Truyền kỳ MạnLục của Cụ Nguyễn-Dữ, viết vào khoảng đầu thế kỷ 16, thì Từ-Thức sau khi về cố-hương lòng còn chưa dứt hẳn được mối tình đầu, một hôm lại đội nón ra đi, rồi mãi mãi không trở lại... Trái lại theo thi-sĩ họ Đoàn, Từ-Thức đã cố xa giai nhân, để trở lại làm tròn nhiệm-vụ đối với đất nước: Người no ấm, đất vun bồi, Gieo mầm đạo-đức, nảy chồi tinh-hoa. Trời nam dư gió mát, Bất tất hóng phương xa Muôn năm vui cảnh cũ, Trường-tại với sơn-hà. Tôi vẫn nhớ lời tác-giả khi đem cho tôi xem bản thảo tập Từ-Thức: “Đây có lẽ cũng chỉ là một bằng-chứng nhỏ để tỏ rằng chúng ta chưa quên cỗi gốc”. Trong truyện thơ Từ-Thức, trên hai ngàn câu, dưới ngọn bút linh hoạt của thi-sĩ, đã thấy kết-tinh những vẻ đẹp nhẹ nhàng tươi sáng của lối thơ lục bát hay song thất lục bát. Độc-giả có cảm-giác phảng phất như khi ngâm những vần thơ cổ trong Kiều hay Chinh Phụ. Tác giả còn khéo biết đem những sở-đắc trong văn-chương Âu Tây, dung hợp với cái tao nhã của văn hóa cổ-truyền, khiến tinh-thần ngàn xưa không những vẫn được duy-trì, lại còn tăng thêm vẻ mặn mà, mới lạ... Về phương diện tâm-lý, tác-giả không những đã tránh xây dựng một Từ-Thức siêu-phàm, hoàn toàn thoát tục, còn khéo tạo cho GiángHương, Hằng-Nga, Chức-Nữ, và hầu hết các nhân-vật trên tiên-giới, một tâm-hồn gần sát nhân-loại. Họ cũng biết thất tinh lung lạc và cũng buồn, cũng giận, cũng biết yêu ghét, ghen tuông... Lên tiến lại thấy tiền còn tục... Đáng giận hay anh chị đáng cười? Mượn sự thực làm bàn đạp cho hồn thơ bay bổng phiêu du trong cảnh-vực muôn hình sắc của tâm-tình và tưởng-tượng, câu chuyện “Kẻ tìm đường” của ông Đoàn-Thêm không hẳn còn là truyện thầnthoại của thời xưa nữa. Ngọn bút của thi-sĩ đã khéo diễn tả tất cả những nỗi đắn-đo thắcmắc của các Từ-Thức mới và cũ, phân-vẫn đi tìm lẽ sống, để sống một cuộc đời hữu-ích và “trường-tại với sơn-hà”. “Từ-Thức hay Kẻ Tìm Đường” đã dành cho Đoàn thi-sĩ một chỗ trên tạo-đàn Việt-Nam. Sàigòn, ngày 20 tháng 4 năm 1959. VỤ MẪU Nào chuyện của gia đình Từ Thức có khác chi những cảnh ngộ hiện đại, cha ông (của Từ Thức) lo lắng cho lộ trình của đứa con có tài, vì chính mình đã lận đận trong việc học của mình: Từ-Ông dòng dõi thanh-cần Khoa-trường lận đận mấy lần về không. Cày sâu cuốc bẫm đành lòng Dạy con trả nợ tang- bồng mai sau... Về phương diện tâm-lý, tác-giả không những đã tránh xây dựng một Từ-Thức siêu-phàm, hoàn toàn thoát tục, còn khéo tạo cho GiángHương, Hằng-Nga, Chức-Nữ, và hầu hết các nhân-vật trên tiên-giới, một tâm hồn gần sát nhân-loại. Họ cũng biết thất tinh lung lạc và cũng buồn, cũng giận, cũng biết yêu ghét, ghen tuông... Lên tiến lại thấy tiền còn tục... Đáng giận hay anh chị đáng cười? Mượn sự thực làm bàn đạp cho hồn thơ bay bổng phiêu du trong cảnh-vực muôn hình sắc của tâm-tình và tưởng-tượng, câu chuyện “Kẻ tìm đường” của ông Đoàn-Thêm không hẳn còn là truyện thầnthoại của thời xưa nữa. Ngọn bút của thi-sĩ đã khéo diễn tả tất cả những nỗi đắn-đo thắcmắc của các Từ-Thức mới và cũ, phân-vẫn đi tìm lẽ sống, để sống một cuộc đời hữu-ích và “trường-tại với sơn-hà”. “Từ-Thức hay Kẻ Tìm Đường” đã dành cho Đoàn thi-sĩ một chỗ trên tao-đàn Việt-Nam... Sàigòn, ngày 20 tháng 4 năm 1959. VV, MẪU Nào chuyện của gia đình Từ Thức có khác chi những cảnh ngộ hiện đại, cha ông (của Từ Thức) lo lắng cho lộ trình của đứa con có tài, vì chính mình đã lận đận trong việc học của mình: Từ-Ông dòng dõi thanh-cần Khoa-trường lận đận mấy lần về không. Cày sâu cuốc bẫm đành lòng Dạy con trả nợ tang- bồng mai sau... Một trai, Từ-Thức con đầu Vẻ người ngọc-vũ quỳnh-lâu thuở nào? Mi thanh, mục tú, đình cao, Tinh-anh khuê bích, thanh tao trúc tùng Tài hoa nức tiếng sơn-trung, Nước mây vui thú một vùng Hóa-Châu; Thuyền lan, thơ túi, rượu bàu, Cuộc cờ dưới nguyệt, trống châu đêm xuân... Và Từ-Ông đã mơ, giấc mơ cho đứa con tài hoa Từ-Thức! Biết bao nhiêu phụ huynh của Việt Nam hiện đại đang than thở như thế này về những đứa con tài hoa của mình trước tương lai bấp bệnh? Biết bao bậc cha mẹ lo sợ đứa con phung phí tuổi trẻ, bỏ học và cuối cùng không tạo được cơ hội để thi thố tài năng: Tiếc con lãng phí thiên-tài Từ-Ông lo lắng, hôm mai dỗ dành Rằng: - Cha học chẳng thành danh, Mong con Thượng-uyển ngắt cành kim-hoa. Quyền cao lục-bộ tam-tòa, Một con phú-quí, một nhà hiển- vinh, Bao năm của Khổng sân Trình, Không thành sự-nghiệp, thông-minh cũng hoài. Thế nhưng những ý nghĩ về quan lộc cũng chứa hàm đầy mâu thuẫn như nhận xét sau đây của Đoàn thi sĩ: Người chí lớn, tang bồng hồ thi Vướng lụy đời phú quý vinh quang, Lầu son gác tía huy hoàng, Trăm năm rồi cũng suối vàng buông trôi... Chốn sơn-dã theo đòi nghiệp cũ, Mượn nâu sồng ấp ủ thanh cao, Nước non ngày tháng tiêu dao, Hư-không rồi lại trở vào hư không... Trước những lời nhắn nhủ giống như những đòi hỏi, thậm chí những ức chế của gia đình, Từ-Thức cân nhắc đắn đo mãi mà không đặng lòng, Từ Thức tìm kiếm lời khuyên. Thực sự, đọc đến đây, tôi không khỏi bồi hồi nghĩ đến bao nhiêu sinh viên xin hỏi tôi ý kiến về tương lai của họ. Chọn học môn nào, làm nghề gì, lập gia đình thế nào, quyết định ra sao dưới sự ép bức của cha mẹ ông bà để lập thân sớm sửa: Từ-Sinh xa lánh rượu đờn, Mong cha mẹ dứt nguồn cơn lo phiền. Cuốc vườn, hái thuốc lâm-tuyền, Cửa sông quăng vó, lái thuyền dặm khơi Thung thăng định núi chân trời, Chống lều nói đến, chỉ cười không thưa, Thiệt hơn cao thấp cũng thừa, Muốn an phận dưới, không vừa lòng trên. Cửa thiền cất bước đòi phen, Tìm sư Pháp-Tĩnh hàn huyên mấy lời... Từ Thức rút cục đỗ tri huyện, làm quan, nhưng không vui với số kiếp trần thế, vẫn mơ tới nơi nao: Sao bằng thoát cõi nhân-gian, Trường-sinh hái thuốc, trường-an kiếm thày. Ích chi lần lữa chốn này, Trèo non vượt biển, có ngày gặp tiên... Mà quả thật, chuyện mong đợi sẽ tới, như là một duyên nghiệp được bày sẵn, Từ sinh như bị một sức mạnh tàng hình nào, vẫn cuốn đi. Lần lữa thêm nữa chẳng ích gì. Trải nghiệm của tôi là Đoàn thi sĩ diễn tả đúng sự việc thường xảy ra trong đời người. Thực tế vẫn tiếp diễn, nhưng lòng người vẫn mơ, và duyên nghiệp vẫn tạo! Từ Thúc vẫn quyết định lên đường. Đoạn thơ này vô cùng lãng mạn, huy hoàng, nhưng không đi vào mục tiêu sách của tôi, nên tôi đã vội đi sang những vần thơ sau đó. Hoài mơ đuổi bóng theo hình, Tìm người, tìm cảnh, biết mình nơi nao? Ngàn thông tiếng gió dạt dào Nghe như sóng réo, nước trào dặm khơi... Đi mãi rồi Từ Thức cũng tới động tiên: Bốn phương một ngựa một người, Chân mây hiu quạnh, chim trời về đâu? Dậm trường trông cậy vó câu, Đường trần lãng đãng, biết cầu nơi nao? Ngư-ông tìm thấy động Đào, Hỡi ai cho biết lối vào non tiên?... Tìm sư Pháp-Tĩnh phân trần, Sư rằng: - Có số chẳng cần tìm xa, Nhân-sâm ưa chốn hải hà, Đầu sông, góc đảo, khí hòa mới sinh; Ngàn thu nước luyện mộc-tinh, Tìm nơi sơn-thủy hữu-tình mới xong... Nghe lời, theo hướng bể đông, Bao nhiêu hang, động, ghềnh, sông cũng dò:... Từ Thức gặp bão tố, giông gió đánh thuyền, thuyền chìm, bị sóng đánh dạt vào bờ, khi mở mắt thì ôi, chuyện lạ xuất hiện: Giụi mắt nhìn ngơ ngác, Quanh mình núi, nước, mây: Am cung hay Thủy-phủ? Ai khéo vớt lên đây? Sóng vỗ, tại còn váng, Chân tay, cát bám đầy, Quần manh, hai ống rách, Bãi vắng, nắng thiêu cây... Chẳng biết mơ hay tinh, Nhìn đông lại ngắm tây, Miệng khô, thèm giọt mát, Tê gối, chịu ngồi ngây. Làng xóm đâu xa vắng? Chợt nghe dón gót giấy, Sau lưng... cười khúc khích, Gió thoảng phất hương gây. Từ Thức đã tới một nơi, nhưng vẫn còn ngờ ngợ không biết nơi đây là đâu. Nhìn thân thể bị thương sau cơn bão táp. Giật thót, toan vùng dạy: Bàn chân, vết máu giây, Sóng dồn, va đá nhọn, Đau quá, là như say. Hai tiểu-kiều da tuyết Tà xanh lướt dáng gầy; Lưng ong căng lụa đỏ, Mắt phượng, má hây hây... Áo đỏ cười như rũ: Tiện-nương đợi mãi thày! Áo xanh nghiêm nét mặt: Khách quí, chớ bài bây! Lào đào, đi chưa vững, Hai nàng vội đỡ tay, Mỗi bên nâng một cánh: Lỡ bước, tủi râu mày! Từ Thức bây giờ biết mình đã tới cõi tiên, không những thế lại được Động-chúa và các tiện nương tiếp đón nồng hậu: Duyên lành kiếp trước hẹn tiên-nương, Phẩm-cách siêu phàm nghĩ đáng thương: Không lẽ hang sâu chôn bụng cá? Phép màu xui khiến thoát tai-ương; Linh-đan điều dưỡng đợi bình-thường, Khá liệu bài tu van tho-chương. Tiên-cảnh muốn quên đời tục-lụy? Ngày dài sẽ tính chuyện âm-dương... Đường trần rẽ ngà, ngựa buông cương, Thỏa ước bình-sinh, mộng bốn phương, Vâng, dạ, theo chân nàng áo đỏ: Thềm hoa tư các bóng hơn gương... Các nàng tiên sẽ giải mã cho Từ Thức lý lẽ của tiền duyên, đã đong đưa Từ sinh đến chốn tiên. Và, giữa các nàng tiên, thì Giáng Hương đã có nợ nặng nên thành chuyện vợ chồng: Có tiền-duyên tất có vợ chồng, Cũng ràng buộc đèo bòng như hạ-giới. Mấy cô-nương giờ đây mong đợi Khách tình chung, trao gởi tấm thân ngà. Muôn năm trường, tiên-nữ thành gia, Xuân bất-tận, vui hoa, loan sánh phượng; Cảnh cực-lạc, đời đời tọa hưởng, Chi khác trần, không vướng truyền-sinh... Cô Giáng-Hương tiền kiếp nợ thày, Vương-Mẫu đã chọn ngày hoàn trái, Vườn Lãng-uyển vun trồng ân ái, Nhẹ tay phàm, khéo hái đào tiên, Ba sinh lại thắp hương nguyên, Muốn bền chỉ thắm, thì quên bụi hồng!... Tận hưởng cõi tiên, nhưng chỉ non nửa năm trên cõi tiên, Từ Thức vẫn nghĩ tới cõi trần, nhớ nhà, vả chăng cõi tiên cũng chẳng có mấy quyến rũ, ấn tượng, thậm chí còn có vẻ nhạt nhẽo với ý chí của Từ Thức: Thức rằng: ơn nặng nghĩa dày, Mới vui duyên mới chưa đầy nửa năm, Tu hành hôm sớm vẫn chăm, Lẽ nào yêu trộm nhớ thầm Hằng-Nga! Đêm khuya dạo cảnh, nhớ nhà, Đường may sao tránh người ra kẻ vào? Xét nàng cốt cách thanh tao, Ngẫm mình chưa đến nỗi nào ham mê. Miệng đời nặng tiếng khen chê, Khách thơ không thẹn đi, về cùng trăng. Hồn thơ như tuyết như băng, Phu thê giữ phận, hữu bằng chia vui... Giáng Hương dài ngắn sụt sùi, Trông mấy ngại ánh trăng xui mạch sâu... Chăn gối bao ngày, tưởng biết nhau, Lòng trần, em khó lượng nông sâu! Thiềm-cung thoáng bóng, anh ngây ngất, Lãng uyển, hoa xuân chóng nhạt màu? Nhưng rồi Từ Thức cũng chẳng mến cõi tiên hơn cõi trần, lần lữa tiếc nuối, cân nhắc. Đây là yếu tố tối trọng trong quyết định của Từ Thức. Có được quyền chọn lựa không mấy ai có được, lên đến tận cõi tiên chẳng phải ai cũng gặp phép lạ tương tự, nhưng rồi ước mơ xưa đã chỉ đưa tới ảo mộng. Chốn thiên đàng là ở đâu? Không ở cõi tiên thì còn ở đâu nữa? Hay là toàn chuyên do? Từ Thức choáng váng với hành trình đi tìm hạnh phúc! Xét cảnh Bồng-Lai khác cõi đời, Hoài-nghi, anh chán cả hai nơi, Lên tiến lại thấy tiền còn tục, Đáng giận hay anh chỉ đáng cười? Tìm mới, anh đi tới đích chưa? Sông bao nhiêu nước chảy cho vừa? Duyên Hương tình Nguyệt, anh nhiều mộng, Đằm thắm như em, có lẽ thừa! Cô Giáng Hương không hiểu nỗi suy tư của chồng Từ Thức: Anh trách em hay tủi, giận, hờn: Bút nào tả xiết nỗi cô-đơn! Cợt đùa, chỉ thấy anh trầm-mặc, Tĩnh-toa khi em múa chập chờn. Em muốn anh cười, nói, hát vui, Say sưa thỏa thích ngọt hay bùi, Chua cay, tiên-nữ không quen vị, Lạnh nhạt, lòng em dễ ngậm ngùi... Anh sống theo anh, chỉ vị anh, Dẫu tìm chân-lý, dẫu cao thanh, Tóc tơ, để mặc sầu vương mối, đi hỡi duyên tình, khéo mỏng manh! Từ Thức ở trong trạng thái trằn trọc, lưỡng lự và hoài nghi sau khi đã được sống trên cõi tiên, và nhất là đã đạt được hoài mộng! Nhận được đến cả quà tối thượng là trường thọ, vậy mà Từ Thức cảm nhận được mặt trái của nó! Trường thọ cũng có nghĩa là không thể thoát ly! Cuộc sống trên cõi tiên được cảm nhận một cách đắng cay như một bản nhạc chơi sai cung! Tìm phương bất-tử ích gì? Nhớ câu sinh ký tử qui lẽ thường, Hết đời, dứt mối bị thương, Muôn năm trường-thọ, tuyệt đường thoát-ly. Tu-hành, chưa diệt hoài-nghi, Đạo-đồ trông hướng vô-vị ngại ngần... Duyên tiên còn vướng lụy trần, Dối mình lừa bạn, tâm thần hoang mang... Gấm nhung ấp ủ đá vàng, So le dạ thiếp lòng chàng quạnh hiu; Gượng vui, cầm sắt dặt dìu, Dây tơ đòi đoạn, nhạc thiều sai cung... Đến khi Từ Thức về lại với cõi trần tục thì không thể không nhận định và tự nhủ: Anh là kẻ tâm-thần bất-định, Muốn cao-thanh an-tĩnh mới lên tiến Với cỏ cây vui thú thiên-nhiên, Lại sôi nổi cuồng điên muôn dục vọng! Hồn thoát tục, tuyệt vời mong bay bổng, Xác mê ly, máu nóng rực bầu xuân... Đích càng xa, khi tưởng sát gần, Mâu-thuẫn hóa phân vân buồn bực. Chỉ hoan-lạc, đời vô ý-thức, Luống ưu-tư: thất-đức lánh đường ngay? Dạ hoài-nghi nào biết dở hay? Anh suy nghĩ đêm ngày, yên lặng khổ! Nhưng cuối cùng, Từ Thức mới thấu hiểu được niềm vui về lại quê nhà ở hạ giới, sau bao nhiêu phiêu du truân truyền, lặng lẽ khổ đau. Và rồi cuối cùng, Đoàn thi sĩ tặng chúng ta chìa khóa, đó là tích cực tham gia vào cuộc sống nơi mình sinh trưởng để an vui với cảnh cũ, người cũ, và cũng để tạo một cái gì cho non sông! Muôn năm vui cảnh cũ, Trường tại với sơn hà. ** KÍNH CHIẾU HẬU Khi tôi chép lại khá nhiều câu thơ của tập “Từ Thức hay là Kẻ Tìm Đường” của thi sĩ Đoàn Thêm, tất nhiên bạn đọc đã cảm nhận được sự trân trọng và yêu mến thi sĩ của tôi. Tuy nhiên, mục tiêu của tôi không phải là in lại toàn bộ hơn 2000 câu thơ bất hủ và tuyệt vời, mà chỉ để lấy một truyện thật xưa để minh họa cho nỗi khó khăn không có chút thời gian tính của việc lựa chọn nghề nghiệp và hướng đi tương lai nói chung của mỗi cá nhân trong chúng ta. Từ truyện của Từ Thúc, chúng ta có thể rút tỉa nhiều bài học cho thời hiện đại. Muôn kiếp, loài người tham lam, có những giấc mơ nhàn rỗi, hưởng lạc, nếu không muốn nói trụy lạc tứ khoái. Muôn kiếp con người đứng núi nọ nhìn đôi kia, thấy thảm xanh phía bên kia quyến rũ, mà không nhìn thấy thực tại “ngay lúc này và ở ngay đây”. Tư duy tìm hạnh phúc ở nơi nao mà quên rằng mình đang được sống trọn vẹn hạnh phúc là một thái độ kinh điển, tuy kinh điển mà vẫn gây ngạc nhiên. Mắt nhìn cứ thèm hạnh phúc của người khác, ghen với “tiên cảnh” ở nơi trước mặt, mà không cảm nhận được rằng chính kiếp mình đang được tận hưởng đã khơi dậy nơi bao nhiêu người khác sự ghen tuông. Rõ ràng Từ Thức không biết đánh giá số phận của mình, và đây cũng chính là nguồn gốc của sự khổ đau. Từ Thức có được hai bậc cha mẹ đạo đức yêu thương, sẵn sàng hy sinh hết để tạo cơ hội cho đứa con sớm đạt được sự vinh danh ngoài xã hội. Từ Thức đã phũ phàng phủ nhận sự mong đợi đó. Thật tình huống này quá giống rất nhiều gia cảnh thời hiện đại. Xưa kia Từ Thức mở cánh tiên, ngày nay tuổi trẻ mơ cảnh ảo, thậm chí thế giới của Internet, hoặc tệ hơn là thảm cảnh của ma túy. Đến khi trở về lại trần gian sau một thời gian ở tiên cảnh, Từ Thức mới đo được rằng cuộc sống dưới trần mới phù hợp với con người, cho con người. Và ngay giấc mơ muôn thuở của vua chúa là sự trường thọ cũng chỉ được nhận thức như một sự giam cầm không có lối giải thoát! À ra thế, giải thoát mới là giải pháp. Từ Thức không nhìn thấy cảnh vật chung quanh mình dưới trần tục là một cảnh hạnh phúc giản đơn. Chẳng ai mất công chi đi tìm sự hão huyền mà ngược lại, tiếp tục sống một cuộc đời chất phác giản dị. Mà sống như vậy nào có ai khổ đâu. Trái lại, thi sĩ Đoàn Thêm đã diễn tả rất tinh vi và khéo léo cảnh tiên, quá dễ dãi mà vẫn tạo nhiều vấn hỏi triết lý khó giải quyết. Sống một nghìn năm trong nhung lụa, không có việc làm ngoài những thú thể xác và thú rượu chè có lẽ không phải là một phương án khả dĩ đem lại hạnh phúc thực sự. Phải chăng, cuộc sống trần tục với nhiều thăng trầm nhưng trong sự ấm áp tình người, hiểu được giá trị của sự cố gắng, nỗ lực, sự hy sinh nhường nhịn, mới chính là cuộc sống thực. Sống thực là phải đối mặt với thực tế, mà thực tế bao giờ cũng có mặt khó khăn, và chính mặt khó khăn đó mới đem lại niềm hạnh phúc cho người vượt được những khó khăn. Bài học quá rõ ràng, chẳng phải bày vẽ và bình luận gì thêm. Âm dương là thế: không có khổ thì không thể có sướng. Trên cõi tiến đời sống nhạt nhẽo, vì có ai được trải nghiệm sự khổ là gì đâu để có thể với được tới cảm nhận hạnh phúc là gì? Suốt cuốn sách này, tôi sẽ cố gắng chọn lọc những pha của cuộc đời đã bắt buộc tôi phải lựa chọn, hoặc tưởng rằng mình đã lựa chọn. Tôi sẽ phơi bày những khó khăn thực của tôi trước những tình huống thực mà tôi đã phải sống. Mỗi khi tôi phải chọn lựa, dòng suối của cuộc đời đã sớm lôi tôi đi mà không cho tôi phút lần lữa. Tôi chưa bao giờ lần lữa, vì chưa bao giờ tôi được thực sự chủ động trong những quyết định của bản thân. Nhưng khi nhìn lại, tôi cho rằng mình quá may mắn. Lần nào đứng trước ngã ba đường, lần nào tôi cũng rơi vào khó khăn, để rồi đến khi thoát cảnh khó, mình cảm nhận được một thứ hạnh phúc “thiên thai”. Thế ra, thiên thai là ở ngay cõi trần tục. Thậm chí nó ở ngay trong tâm trí của mình. Hạnh phúc chẳng đâu xa. Lúc nào hạnh phúc cũng tồn tại trong ta, trong tôi. Nhưng có được nhiều trải nghiệm đắng cay, khó khăn thì bản thân mới dễ tìm nó ra, ẩn sâu trong tiềm thức chứ không ở nơi đâu ngoài ta cả. Cảnh ngoài là hão huyền. Từ Thức đã bỏ nửa năm ở cõi tiên, nhưng cũng là mấy trăm năm so với cõi trần, để khám phá ra rằng cõi nào cũng thế, hạnh phúc không ở cảnh ngoài. Khả năng tạo và cảm nhận hạnh phúc ở trong ta, đó là bài học mà ta phải rút tia từ Truyền Thuyết. Tôi không có lời nào khác là, thay mặt cho cả dân tộc, tạ ơn thi sĩ, Bác Đoàn Thêm. Nkhác, đều mang tính riêng tư và sẽ nặng phần chủ quan thì 5 L'incertitude des idées rend le cæur irrésolu. Những ý tưởng mông lung làm cho tim gan thiếu quyết liệt. Success is the maximum utilization of the ability that you have. Thành công là việc sử dụng tối đa khả năng mà bạn có. Cếu đã nói là việc chọn nghề, hay chọn bất cứ phương án nào hẳn việc tôi viết lên những lựa chọn của cá nhân tôi không có ích cho bạn đọc. Tuy nhiên, vẫn có nhiều điều đáng nhận sự chú ý mà tôi thấy phải khuyên nhủ, nhất là cho các bạn trẻ đang hoang mang, cảm thấy mình đang bị môi trường bên ngoài chi phối mà vẫn chưa tìm ra hướng đúng đắn cho bản thân. Thực sự, không hoang mang sao được khi rất nhiều chuyên gia về xã hội học, về điện toán và những ngành nghề khác không ngớt cảnh báo chúng ta rằng 80% những nghề ngày hôm nay sẽ biến tích trong một tương lai rất gần, và sẽ bị thay thế bởi nhiều nghề mới mà số lớn khó đoán cho những ai không chuyên môn và theo dõi hàng ngày. Còn nếu bạn đọc vào tham khảo trong mạng Internet thì có lẽ sự trà trộn giữa các thông tin chính thống và thất thiệt sẽ còn làm cho luống cuống hơn nữa. Chúng ta bị chi phối hàng ngày bởi những thông tin được tung lên mạng một cách thật hấp dẫn, nhưng nội dung chúng ta không kiểm tra được. Và giữa sự hỗn độn, tất nhiên mỗi chúng ta vẫn cần tìm điểm tựa để đạt được một lý luận nào đó vững chãi cho những lựa chọn hàng ngày. MỘT HAY NHIỀU NGHỀ? Ngày nay, quy chế bách nghệ không dành riêng cho một thành phần ưu tú nào, mà ngược lại mỗi chúng ta đều phải hướng tới. Tôi có một ông bạn hàng xóm vô cùng linh động khi ông ấy đã khuyến khích cả ba đứa con của mình học thêm nhiều nghề khác nhau. Đứa con trai đầu, song song với việc tiếp tục học đại học ngành kinh tế, đang học thêm âm nhạc. Đây không phải là lối học âm nhạc mà tất cả những đứa con trong những gia đình phong lưu theo học, mà là âm nhạc để thực sự chơi trong ban nhạc, để sáng tác nhạc, để mang kiến thức nhạc đi dạy học. Cháu chơi nhiều loại nhạc cụ, tất nhiên có guitar, nhưng đây là nhiều loại guitar như bass, cổ điển. Cháu chơi dương cầm, thổi clarinette, và chơi cả trống jazz. Tóm lại, một mình cháu là cả ban nhạc. Cháu trai thứ hai mới 22 tuổi, đang theo đuổi môn quản trị kinh doanh tại một đại học có tiếng, nhưng còn là một đầu bếp có hạng. Cháu Những hướng đi khi thi về nghé nghiệp và cuộc phiêu lưu khám phá bản năng đã học xong khóa làm bánh pastries ngọt theo phong cách của Pháp, theo học các khóa nấu nướng cơm Việt, và gần đây đã đăng ký học bếp cơm Ý Đại Lợi. Tóm lại, một mình cháu là một quán ăn với các món Tây và Ý. Còn cô con gái út đang học thêm ngành thủ công nghệ chuyên về sửa chữa các đồ cổ đã bị hư hại qua thời gian. Cháu rất khéo tay và trong những giờ rảnh rỗi cháu còn biết làm đồ gốm để trang trí và để bán nếu cần. Tôi hỏi anh bạn hàng xóm chủ đích của anh là gì, và tôi khá thích thú khi nghe anh giải bày: “Các nghề này là các cháu tự chọn. Nhưng tôi cũng giúp các cháu hiểu được nguyên lý của sự lựa chọn. Thứ nhất giúp các con có thú tiêu khiển ích lợi. Thứ hai tạo cho các con cơ hội để tập sử dụng bàn tay của mình song song với các môn dùng trí óc. Thứ ba mớm các con vào những lĩnh vực mang chút tính nghệ thuật, như nghệ thuật làm bánh, âm nhạc và tạo ra đồ trang trí. Tôi nghĩ con người sinh ra không bao giờ được sao lãng nghệ thuật. Thứ tư, nếu chẳng may nghề chính mà các con đang theo học không còn giúp chúng nó kiếm tiền thì đã có sẵn nghề khác trong tay để xoay sở. Nghề tay trái và nghề tay phải. Những nghề không bao giờ chết đều liên quan ít nhiều đến ẩm thực, giải trí, có phải thế không?” Tôi thầm nghĩ hàng xóm của mình thật khôn ngoan và thực sự yêu con. Anh đã giúp các con nắm vững thêm những nghề vượt thời gian. Một nghìn năm nữa, có lẽ người đầu bếp vẫn có việc làm, nhất là những bạn cao tay nghề, âm nhạc thì lúc nào cũng phồn thịnh, và nghể khôi phục tác phẩm xưa thì thời gian càng trôi nhanh lại càng có nhiều tác phẩm để bảo quản. Robot có thể làm bếp thay người, nhưng có lẽ sẽ không bao giờ tạo được món đặc sắc. Robot sẽ biết chơi nhạc, sử dụng mọi nhạc cụ, thậm chí sáng tác nhạc, nhưng sẽ không thể tạo nên sự xúc động qua âm thanh như một người nhạc sĩ. Còn việc sửa chữa đồ cổ thì có lẽ chỉ có bàn tay tuyệt vời của con người mới thực hiện được, cho dù máy móc có thể tiếp tay hỗ trợ. Ngày nay, cho dù bạn có nghề tri thức nào chăng nữa, bạn cũng nên có thêm nghề chân tay, nhất là nghề nào mà robot không thể thay thế. Xưa kia, tôi có một ông trưởng phòng trong công ty tư vấn, anh Jacques Chambran. Jacques có một khối óc tuyệt vời và đôi bàn tay tuyệt vời không kém. Một buổi sáng mùa hè bên Pháp, anh ấy mời vợ chồng tôi tới chơi rồi chia một bữa barbecue (BBQ) với anh và cô vợ Yvette. Khi tới nơi, chúng tôi ngạc nhiên quá, anh chị ở một lâu đài quá đồ sộ, nhưng phòng khách thì lại không có trần, cũng không có mái luôn. Thế là chúng tôi đã có được một bữa BBQ ngoài trời, nhưng vẫn ở trong khuôn viên của cái phòng khách rộng mênh mông ấy. Yvette cũng chẳng đợi chúng tôi đặt câu hỏi: “Hai bạn đừng ngạc nhiên! Chúng tôi mua cái lâu đài đổ sộ này giá rẻ mạt vì toàn nhà bị hư hại hết rồi, chỉ còn bốn bức tường không mái. Anh Jacques xưa kia có theo học một khóa nâng cao về khôi phục nhà cửa, anh có thể tự tay làm lại toàn bộ hệ thống điện nước, một mình xây lại cái mái, chúng tôi ước lượng độ 10 năm nữa thì sẽ hoàn tất. Lúc đó nhà chúng tôi sẽ chẳng kém lâu đài vua chúa ngày xưa”. Ngay sau đó Jacques và Yvette đã đưa chúng tôi đi xem các phòng đã được hoàn tất phần thô. Chi có một phòng đã thực sự hoàn tất, thật lộng lẫy. Anh Jacques đã vẽ lại trần của phòng đúng theo mẫu hình ngày xưa mà anh tìm lại được. Không thể nào tưởng tượng việc làm công phu như thế nào, và đòi hỏi nhiều kỹ năng, kỹ thuật như thế nào. Anh đã mất 3 tháng để làm lại cái trần vẽ tay. Thú thật, tôi chưa bao giờ có thể tưởng tượng được một cá nhân nào có đủ nghị lực và khả năng kỹ thuật để xây lại một mình một lâu đài có từ thế kỷ thứ XVI như anh Jacques. Tất cả lương giám đốc của anh ấy đều đổ dốc vào công trình vĩ đại của đời anh. Anh kể: “Nhà cũ nát tôi mua chưa tới một triệu đôla, xây xong nhà sẽ xấp xỉ giá từ 20 đến 30 triệu. Nhưng trên hết tôi đã mua được một nơi để thể hiện cái hạnh phúc được sử dụng đôi bàn tay tuyệt vời làm việc song song với những kiến thức văn hóa về thế kỷ thứ XVI. Và cuối cùng, tôi sẽ tặng lại cho nước Pháp một lâu đài cực kỳ đẹp bị bỏ quên, cho dù tôi vẫn là người chủ hữu”! Không có lời nào nói hết được hạnh phúc của Jacques khi anh tự tạo cơ hội để dùng hai bàn tay tài ba xuất chúng vào một công trình ấn tượng. Chỉ có thế, nhưng không thể tưởng tượng nổi là như thế! Tôi có một người bạn khác cũng khá đặc biệt, vì anh có ba nghề. Nghề chính của anh Jean Jacques là làm chủ một công ty nhỏ về quảng cáo. Chỉ riêng công ty này thôi cũng đã cho gia đình anh đủ no ấm. Tuy nhiên, anh thú thật với tôi là hễ có thì giờ rảnh rồi thì anh về studio họa sĩ của mình: anh vẽ! Và tranh màu nước của anh tuyệt vời đến đối nhiều người xin mua với giá khá cao. Anh vẫn lưỡng lự không bán vì anh nói những bức tranh là một phần của tâm hồn anh nên khó lòng để nó rời tay. Nhưng anh Jean Jacques còn một nghề thứ ba trong tay. Anh biết thổi thủy tinh thành những lọ hoa và chậu đủ mọi kiểu, đủ mọi màu, đủ mọi kích thước. Cứ đến mùa hè, anh xuống tinh gần biên giới với Ý Đại Lợi, vì nơi đó anh chia với một anh bạn một cái lò đúc thủy tinh. Và suốt mùa hè anh tác họa mọi hình thù của thủy tinh. Anh dùng chất liệu từ những chai lọ cũ, rồi đúc thành một bánh dẻo nóng bỏng, sau đó anh bắt đầu pha màu và thổi để tạo kiểu. Không có kiểu nào giống kiểu nào, mỗi tác phẩm là duy nhất. Anh Jean Jacques đã tặng tôi một bức tranh của anh và một lọ thủy tinh nhỏ rất ấn tượng. Anh nói nếu muốn có đủ để sống thì mỗi năm anh chi cần bán hai bức tranh và một chục chậu hoa nghệ thuật. Hạnh phúc thay, anh Jean Jacques, nhưng trên sự hạnh phúc, anh đã đi tới tận cùng của khả năng làm việc chân tay cũng như sáng tạo. Anh đã tự giúp mình đo được giới hạn khả năng của bản thân, và chính vì đã đạt được mục tiêu là hiểu mình mà anh mới có được cảm nhận hạnh phúc như thế. Khi gặp anh, chớ bao giờ nên đã động gì tới bằng cấp, tuy anh có bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh, nhưng anh không coi minh bằng là một thứ gì quan trọng. Anh cho rằng khả năng làm cho trí tuệ hợp tác với chân tay mới là tuyệt vời. Và anh khẳng định rằng hạnh phúc của anh trước hết là biết rõ chính mình, từ tài hoa chân tay đến khả năng lý luận và sáng tạo. Nhưng hơn thế nữa, là ý chí, sự nhẫn nại, tinh thần đạt tuyệt hảo, và sự can đảm để cáng đáng mọi việc một mình đến nơi đến chốn. Anh vui vẻ kể cho tôi rằng bên trong con người là một thế giới huyền bí, một trong cái thú của anh là đi phiêu lưu trong ngay tâm khảm và trí óc của mình, giống như đi trong một rừng sinh thái chưa có ai đặt chân. Tự khám phá con người của mình là một cuộc hành trình đầy cảm giác, anh nói thế! Nghĩ lại cho cùng, thời thể thay đổi quá nhanh làm cho chúng ta không kịp thay đổi thói quen, và nhất là tư duy về cuộc sống, nên có rất ít người được giống như các bạn tôi vừa kể trên. Xưa kia, tuổi thọ trung bình là 65, ai nấy đều phải vội vàng vào nghề sớm. Biết bao nhiêu thế hệ ở những thế kỷ trước chi được sống vài năm, vài tháng sau khi về hưu. Thời gian quá thiếu để thực hiện những gì ngoài nhu cầu cơm áo. Ngày nay với tuổi thọ trung bình thêm gần 20 tuổi, mỗi chúng ta rộng đường chọn các mốc thời gian cho cuộc đời, mốc đầu tiên là tuổi nào bắt đầu đi làm, và chúng ta cũng rộng đường lựa chọn một cuộc sống đầy thư giãn. Nhưng chúng ta có biết đổi thói quen có từ hàng trăm năm, và tận dụng thời gian của chúng ta không? Tại nhiều quốc gia tân tiến hàng đầu, có rất nhiều bạn trẻ vẫn tiếp tục đời sinh viên đến gần 40 cái xuân xanh. Họ ngủ dài, đọc sách thoải mái, ngồi cà phê đến trưa, đi du lịch hàng tháng với một cái ba lô cũ. Và đến khi chán cái cuộc đời thư giãn từ sáng đến tối, họ mới bắt đầu đi làm. Kệ các phụ huynh nóng lòng sốt ruột. Khi thực sự đi làm thì họ đã tới tuổi chín chắn hơn. Ngày nay, các chủ doanh nghiệp rất ưa những ứng cử viên kiểu “mới đi làm mà đã có nhiều trải nghiệm”này. Thử hỏi, học làm bếp đến tuổi 30 đã sao chưa nếu bản thân không vịn vào ai để tự nuôi? Sáng làm kỹ sư, chiều làm đầu bếp hay chơi trong ban nhạc thì có phiền phức ai không? Một cuộc đời súc tích, vui vẻ và đầy cảm giác. Và nhất là làm như vậy tức đã đảo ngược lịch của cuộc sống một cách hợp lý: tận dụng tuổi trẻ để chơi cho thật đã, khám phá mọi khả năng bẩm sinh trước khi vào nghề, hiểu thấu đáo xã hội trước khi lội vào biển người đang bon chen, và nhất là chọn lựa môn học lúc mình đã hiểu chín chắn bản thân, khi mình đã hiểu mình là ai và mình muốn gì! Chi có cái oái oăm là các trường đại học tại Việt Nam chưa quen thu nhận những sinh viên già. * * * NHỮNG KHUYNH HƯỚNG BẨM SINH KHÔNG BẢO ĐẢM SỰ THÀNH CÔNG Ở đây, tôi không đưa bạn đọc vào một bản đồ chọn nghề. Tôi sẽ không giúp bạn chọn môn, chọn trường, chọn thấy hay chọn đồng nghiệp. Nhưng ngược lại tôi xin chia sẻ với bạn đọc vài nhận xét về sự lựa chọn nghề nghiệp qua vài trường hợp cá nhân mà tôi từng gặp để chiêm nghiệm. Các bạn cùng tuổi với tôi, học cùng lớp hay cùng trường đều đã thành công trong một nghề tri thức. Số đông là bác sĩ, dược sĩ. Kỹ sự thì ít hơn, luật sư càng ít hơn nữa. Việc dạy học toàn là nghề thứ hai của những người đang làm nghề kỹ sư hay một nghề nào khác, chứ không có bạn nào làm giáo viên chuyên nghiệp. Nghề bụi đời thì cũng có một số, nhưng không phải số đông. Có một họa sĩ chuyên nghiệp, nhiều nhạc sĩ và nhiếp ảnh như nghề tay trái. Viết đến đây, tôi xin khẳng định là bạn nào nắm vững được một nghề tri thức chắc chắn đã có trong tay một dụng cụ đắt giá để thành công trong nghề nghiệp, mặc dù điều này không có nghĩa cứ có nghề tri thức thì sẽ thành công. Nhưng tôi lại có rất đông các bạn đổi nghề trong quá trình nghề nghiệp. Một anh bạn người Tunisie, Jean Pierre, sau khi đậu thủ khoa môn kỹ sư cầu đường như tôi, 20 năm sau tốt nghiệp đã biến thành một chủ nhà in chuyên về xuất bản sách nhạc. Một anh bạn khác tốt nghiệp một trường kỹ sư danh tiếng (Trường Cao đẳng Dầu Mỏ), anh Michel đã trở thành một nhiếp ảnh nghệ thuật nổi tiếng 30 năm sau. Một bạn khác cùng lớp đại học xưa kia, anh Jean, đã trở thành huấn luyện viên bóng đá trong một đội đã từng đoạt giải vô địch Pháp Quốc, hạng National. Tất cả những người bạn này đã thành công, nhưng hoàn toàn ngoài sự lựa chọn ban đầu là đi vào ngành kỹ sư, họ đã đậu cao rồi tốt nghiệp một cách ấn tượng, đã lấy được một bằng kỹ sư cao quý mà rất đông người thèm khát. Tuy thế, sự thành công của họ sau này lại ở trong những lĩnh vực hoàn toàn bất ngờ, thậm chí xa lạ. Trường hợp ấn tượng nhất là một anh bạn nhất lớp xưa kia, với một khối óc to khủng, anh Francis, đã trở thành một chủ doanh nghiệp giặt công nghiệp những áo tã đã sử dụng từ bệnh viện xuất ra hàng ngày. Anh Francis thú nhận chưa bao giờ anh có cơ hội áp dụng một thứ gì gom góp từ học đường. Tất cả những gì anh học được là từ sự lăn lộn bụi đời, tuy anh nhìn nhận là những năm học đại học đã tăng cường khả năng suy diễn, lý luận và dự báo của mình. Các bạn của tôi thành công trong nghề thuốc đều có một trí nhớ tốt. Y khoa cũng như được khoa đòi hỏi một trí nhớ lớn hơn bình quân. Thêm vào đó, họ có một linh tính khá đặc biệt, cho phép họ đoán bệnh khá chuẩn. Chỉ riêng một bệnh đau bụng đơn thuần thôi, một bác sĩ bình thường sẽ cho lý do là ẩm thực không lành, nhưng với một bác sĩ giỏi thì chỉ cần hỏi thêm hai câu là bác sĩ sẽ hướng dẫn bệnh nhân vào nhiều khoa chữa trị rất khác nhau, từ ruột yếu sang đến tận ung thư đại tràng. Đó là chưa kể trường hợp một sinh viên đau bụng vì quá nhiều stress do kỳ thi sắp tới. Vậy nếu bạn có một trí nhớ thật tốt, một linh tính khá tinh vi và bạn không sợ máu me vi-rút, nghề bác sĩ có thể là một chọn lựa tốt! Trong số các bạn học kỹ sư thì những cá tính chung là: ý kiến luôn luôn đích xác, lý luận khá cấu trúc và hơi khô khan, óc sáng tạo khá linh động. Nếu có được những cá tính này thì bạn nên theo đuổi nghề kỹ sư. Tại Pháp, người ta tổ chức một số kỳ thi cho thí sinh trước khi chọn nghề để đo mức phù hợp của khả năng bẩm sinh đối với những nghề tương lai. Đại khái người ta chia ra làm 200 loại nghề khác nhau. Có những nghề khá đặc trưng đòi hỏi một số ưu điểm bẩm sinh của thí sinh. Ví dụ các nghề về quân sự thường chọn những thí sinh cường tráng, nhanh nhẹn và quả cảm. Các nghề về du lịch, quán ăn và khách sạn sẽ thu hút thí sinh vui vẻ, lịch thiệp với tinh thần phục vụ cao. Các nghề trong ngành công nghiệp đòi hỏi từ thí sinh tính cần mẫn, chăm chỉ và trật tự. Cá nhân tôi nhìn nhận rằng cách phân loại nói trên rất có ích và sẽ giúp cho các gia đình muốn chọn nghề cho con cái mai sau không lầm lẫn hay lạc lối, nhưng chúng ta phải xem đó như một dụng cụ sơ sài chứ không thể nhìn cách phân loại tạm gọi là khoa học như một sự bảo đảm của thành công trong nghề. Tôi đã thấy quá nhiều trường hợp không thực sự phù hợp mà còn thành công, thậm chí rực rỡ. Một ngàn kiểu người, một ngàn nghề khác nhau. Nhưng may thay xã hội chúng ta đang sống có đủ không gian để tạo nên rất nhiều trường hợp đa dạng thành công. Tôi sẽ không tiếp tục trò chơi lắp ráp cá tính nọ với nghề kia vì một lý do vô cùng quan trọng mà tôi muốn bạn đọc hiểu: sự thành công trong cuộc đời không đơn thuần là chuyện chọn nghề, mà phần lớn xuất phát từ những cố gắng trong khi hành nghề. Nói một cách khác, làm nghề gì bạn cũng có thể thành công, thậm chí có thể nổi tiếng nếu nỗ lực hàng ngày để trau dồi tay nghề của mình. Một bác sĩ tôi là một bác sĩ đã thất bại. Một bác sĩ giỏi mới là một bác sĩ thành công. Sự thành công không ở kênh chọn nghề, ở đây ví dụ là nghề y khoa, mà từ những cố gắng hàng ngày trong nhiều năm để trau dồi, cải thiện và tiến bộ. VẬY, NHỮNG YẾU TỐ NÀO GIÚP CHO BẢN THÂN TIẾN BỘ? Theo rất nhiều chuyên gia kinh nghiệm thì kiến thức hàn lâm được học từ nhà trường chỉ đóng góp một phần nhỏ. Vốn kiến thức đó phải được bổ sung hàng ngày trong khi hành nghề. Trong nghề thuốc hay nghề kỹ thuật chẳng hạn, có rất nhiều sách hoặc bài báo cáo được chia sẻ trên các kênh truyền thông chuyên môn. Các bác sĩ nào vừa qua trải nghiệm chữa những bệnh lý hiếm hoi thường báo cáo những phương án họ đã chọn và những cách thức cụ thể trong việc áp dụng những phương án đó. Họ sẽ phân tích sau cuộc chữa trị những lý do tại sao thất bại hoặc thành công. Những kinh nghiệm lâm sàng của tất cả các bác sĩ chữa trị cùng một loại bệnh lý sẽ giúp cho loài người tiến dần tới những kết quả tối ưu trước những căn bệnh hiểm nghèo. Tôi còn nhớ chỉ cách đây hai chục năm, các bệnh như ung thư hay AIDS sẽ không cho người bệnh một tia sáng hy vọng nào. Ngày nay, ít nhất tại các nước hàng đầu về y khoa, kết quả về chữa trị rất khả quan. Và ngay khi tôi viết những dòng chữ này thì có thông tin khá nghiêm túc rằng bên Nhật đã có thuốc chữa ung thư mà chỉ cần uống một viên là xong, cũng như bên Do Thái, các đội bác sĩ nghiên cứu đã chính thức loan báo rằng trong vòng một năm sắp tới, bệnh ung thư sẽ có thuốc và phương cách chữa trị hữu hiệu, và thế giới sẽ có thể xem bệnh ung thư như một căn bệnh rất bình thường như tất cả các bệnh tầm thường khác. Một yếu tố khác đóng góp không nhỏ cho sự thành công sau này, không do sự lựa chọn môn mà cũng do sự quan tâm và học hỏi không ngừng suốt đời là văn hóa tổng hợp và chuyên môn. Văn hóa này có thể tiếp nhận từ việc đọc sách cũng như từ những buổi hội thảo chuyên đề mà mỗi cá nhân phải cố theo dõi và tiếp nhận. Nghề nào cũng sẽ có những thông tin đầy đủ về nghề đó. Người thành công là người có tư duy bám lấy những biến chuyển công nghệ và thị trường. Chẳng nói đâu xa, ngay đánh giầy là một nghề ngoài đường phố, thậm chí không thể gọi là nghề mà chỉ là một cách sống qua ngày thôi, cũng phải theo dõi và học hỏi. Ngày nay các thuốc bảo quản da giầy, đánh bóng có rất nhiều cho nhiều loại da. Thậm chí tại New York hay tại những nơi sang trọng, đã có nhiều công ty nhỏ chăm sóc giầy của khách hàng sang trọng. Một đôi giầy hiệu Beluti đáng giá hơn 2000 đôla không thể nào được bảo quản bằng thứ thuốc “tự pha” mà phải dùng những thứ thuốc thật phù hợp, để đôi giày sẽ đẹp hơn mỗi ngày cho cả một đời người sử dụng. Yếu tố thứ ba, nhưng quan trọng nhất, vẫn là thái độ vừa chuyên nghiệp vừa hòa nhã (nice and professional) trong lúc hành nghề. | Nói một cách đơn giản, đó là sự quan tâm đến khách hàng, nghệ | thuật biết sống với xã hội chung quanh. Yếu tố này dùng cho mọi nghề chuyên môn hay không chuyên môn. Xã hội bên ngoài mà quý mến mình thì không còn lý do gì mình không nhận được sự Tóm lại, bạn chọn môn học nào cũng được, bạn chọn nghề nào ủng hộ, thậm chí sự hỗ trợ khi cần. cũng đãng, bạn chọn đối tác nào cũng xong, thành công sẽ tới với bạn nếu bạn yêu nghề và yêu xã hội. Thành thử, để trở lại trường hợp những sinh viên già, cố tình vào đời muộn màng, họ không vào đời trắng tay mà thực ra họ đã bỏ công góp vào một vốn rất lớn: đó là họ đã chín chắn hơn trong các mối quan hệ xã hội, đã hiểu hơn khung cảnh và môi trường, đã học được khả năng nắm bắt ý kiến của người chung quanh, đúc kết những ý kiến này thành một cẩm nang. Họ trở thành người cầu thị hơn, phục thiện hơn, nhạy cảm hơn, bớt chủ quan hơn, và dưới một bề ngoài êm ái hơn họ sẽ chủ động hơn. Viết đến đây, tôi không khỏi nghĩ đến các bạn trẻ quá may mắn sinh trường trong những gia đình có nhiều phương tiện, có sẵn nền nếp giáo dục tự nhiên, nhưng lại có những phụ huynh không để cho con cái lăn lộn với cuộc đời, nắm những cơ hội để thu thập trải nghiệm. Thái độ bao bọc này làm hại nhiều cho con cái, thành thử những đứa con được nuông chiều sẽ khó đi tới thành công hơn nếu so với những trường hợp “bụi đời”. Ngay là những doanh nhân tạo luôn cho con những điều kiện để kế nghiệp cũng không thể nào thay thế được hoàn toàn những bài học mà trường đời dành cho mỗi chúng ta. Tư duy bao bọc quá lâu không phải là một quyết định mang tính “sinh thái”, trừ khi đứa con có một bản lĩnh phi thường. Nhưng những trường hợp của công ngh nghe “mệnh không muốn con, délaich thành, rồi ph khi về hưu, s mà làm thế đến ngày hô ổn định từ h không còn 4 nhà lãnh đạ luật, kỹ thu. phi thường thì quá hiếm, và chuyện bi kịch mà chính tôi đã được chứng kiến nhiều lần, là những đứa con bản lĩnh phi thường chi có một ước mong là thoát khỏi “nanh vuốt” yêu thương của cha mẹ để tự lập. Âu cũng là một mâu thuẫn đáng chú ý. HỌC GÌ ĐỂ CỦNG CỐ TAY NGHỀ (TRONG MỌI NGHỀ)? Có một điều tôi thấy cần thiết phải cảnh báo các ứng cử viên cho sự thành công, nhất là cho các phụ huynh của họ: Ngày nay không nghề nào trường tồn do sự biến chuyển quá nhanh chóng của công nghệ và tốc độ lan truyền của nhu cầu tiêu dùng. Các nghề “mệnh chung” rất nhanh và sẽ được nghề khác thay thế. Tôi không muốn châm biếm, nhưng cha mẹ nào tưởng rằng thương con, để lại cho con một công ty phồn thịnh với nhân viên trung thành, rồi phong chức chủ tịch hay tổng giám đốc cho con trước khi về hưu, sẽ làm một việc đáng quý nhưng lầm lẫn. Thế kỷ trước mà làm thế quá đúng. Các gia đình Rockefeller hay Rothschild đến ngày hôm nay đã thành công trong việc tạo luồng kế nghiệp ổn định từ hai thế kỷ. Ngày nay, vị trí chủ tịch hay tổng giám đốc không còn đơn thuần là một vị trí quyền thế mà còn đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải bồi dưỡng thêm mỗi ngày về tài chính, pháp luật, kỹ thuật... Học GÌ ĐỂ TỰ TRANG BỊ THẬT CHU ĐÁO? Vậy bạn ạ, phải làm gì, học gì, và chọn môn gì để thành công trong tương lai? Đây vừa là một chuyên đề quá phức tạp mà cùng một lúc quá đơn giản. Trước hết phải học viết, học lắng nghe và học phát biểu. Truyền Những hướng đi khả thi về nghề nghiệp và cuộc phiêu lưu khám phá bản năng thông đấy bạn ạ, nếu nói một cách ngắn gọn. Nhưng ngày nay học viết có nghĩa là biết sử dụng laptop hơn ai. Học lắng nghe còn khó hơn nhiều vì bạn phải có một số vốn văn hóa và kiến thức khổng lồ thì bạn mới hiểu rõ được đối tác nói gì và thực sự muốn nói gì, vì đối tác ngày nay đến từ mọi nơi trên thế giới, từ nhiều văn hóa khác biệt. Còn nếu bạn muốn phát biểu trong thời kỳ công nghiệp 4.0, thời kỳ của máy thông minh hơn trí óc con người và của đô thị thông minh, bạn phải nắm bắt được tâm lý người nghe, kỹ thuật sử dụng micro, cũng như kiểm soát chính mình – nụ cười, giọng nói, cử động tay chân, cách chải tóc, kiểu đeo cravate, vì xác suất bạn bị quay và thu livestream là không thể tránh được! Sau khi học xong những kỹ thuật truyền thông mênh mông ấy thì bạn hãy học tập suy luận, phân tích, đánh giá, so sánh, đúc kết... Cái nào cũng khó. Rồi ngay sau đó bạn sẽ học nghệ thuật dùng vốn để đầu tư! Bạn chỉ cần nhớ một điều cơ bản, rằng ngày nay người ta may mắn lắm cũng chỉ thành công một lần trên ba lần đầu tư. Đây là nguyên lý của mọi công ty khởi nghiệp. Ông Warren Buffet đã học bài học này, chẳng khác ông Bill Gates hay ông Steve Jobs. Sau cùng là học cách tự học. Càng ngày càng có lắm thứ để học, không trường nào dạy được hết, không thầy nào dạy cho xuể. Và học đến đâu thì điều mà bạn vừa học cũng đang thay đổi. Hơn lúc nào hết, tất cả những gì mới mẻ mình học ngày hôm nay thì chỉ trong vài tháng nữa, vài năm nữa sẽ lỗi thời. Như vậy, người nào không biết tự học sẽ không bao giờ có khả năng theo dõi được những điều tiến hóa. Thành thử bài toán thành công lại quá xa sự chọn lựa môn học, chọn lựa trường đại học, cho dù Stanford hay Harvard chăng nữa, mà tùy thuộc vào những thứ gì khác mà Stanford và Harvard không dạy, hoặc chỉ dạy chút ít! Đó là trường đời, đó là hành xử với xã hội. Đó là hiểu thấu đáo cự ly rất nhỏ rất hợp giữa thành công và thất bại. Và muốn học nó thì bạn chỉ còn đúng một phương án thôi: hãy tự ném mình ra ngoài đời, không một đồng xu trong túi, cho dù phải ngủ dưới cầu, ăn cơm nguội một thời gian. Đến khi bạn hốc hác nhưng tươi cười hiểu rằng bụi đời trong nhiều năm đã cho phép bạn thấu triệt một ít nghệ thuật sống, thì bạn cũng hiểu luôn rằng mình không thể thành công nếu xã hội chung quanh không muốn cho mình thành công. Bạn đã biết chia phần, chia cảm nhận, chia ngọt bùi. Bạn đã đánh giá được giá trị quá nhỏ của đồng tiền mà quá lớn của đồng vốn. Chính đó mới là lúc những hiểu biết hàn lâm mới đạt được đúng giá trị thật của nó. CUỐI CÙNG, CHỌN LỰA NÀO ĐỂ THÀNH CÔNG? “Nếu Thượng Đế muốn, thì tôi sẽ có được một vận mệnh tầm quốc gia.” Đây là lời phát biểu với báo chí của ứng cử viên Georges Pompidou vài tháng trước khi ngài được bầu làm Tổng Thống của Cộng Hòa Pháp. Ông Pompidou chỉ là giáo viên dạy Pháp văn của một trường tiểu học tại một tinh nhỏ lẻ ở miền Trung nước Pháp khi mới bước vào cuộc đời nghề nghiệp. Và nếu không có gì đột phá trong đời thì có lẽ ông vẫn là giáo viên dạy Pháp văn khi về hưu. Bước ngoặt của đời ông tới bất ngờ khi Tướng De Gaulle ngỏ ý tìm một nhà giáo biết viết tiếng Pháp thật chuẩn, và có người đã tiến cử ông Pompidou. Nhiều năm sau, Tướng De Gaulle đắc cử Tổng Thống Pháp đầu tiên của Đệ Ngũ Cộng Hòa Pháp đã chọn ông Pompidou làm Thủ Tướng. Cuộc đời của ông Lech Walesa còn ly kỳ hơn. Là một lao động thợ thuyền suốt đời, ông đã lên lãnh đạo Nghiệp đoàn Công nhân Solidarnosc tại Ba Lan. Sự xuất hiện của Thánh Karol Wojtyla, một đồng hương Ba Lan, được bầu làm Đức Giáo Hoàng John Paul II đã thay đổi hoàn toàn cục diện của đời ông Walesa. Ông rồi sẽ trở thành Tổng Thống nước Ba Lan (1990-1995) sau khi được vinh danh trong Giải Nobel năm 1983. Tôi đã cố tình chọn ví dụ về hai vị tôi vô cùng kính trọng để thưa với bạn đọc rằng đời người là một cuộc phiêu lưu không ngừng, và chẳng ai biết ngày mai mỗi cá nhân trên thế gian này sẽ đi về đâu, sẽ nhận được những cơ hội gì và có khả năng thành công không. Nhưng cả hai trường hợp của ông Pompidou và ông Walesa đều minh họa sự không liên quan giữa nghề nghiệp ban đầu khi mới vào đời và những vị trí mà họ đi tới sau nhiều năm sinh hoạt. Rút cục họ thành công, nếu chúng ta xem việc trở thành Tổng Thống là một thành công nghề nghiệp, do họ đã không ngừng và không mệt mỏi đóng góp trong nhiều năm cho đất nước của mình. Rút cục sự thành công là kết quả của một quá trình hoạt động, đóng góp và tiến bộ chứ không phải là một kịch bản được ai đó bày sẵn. Mỗi người chúng ta phải tự tạo ra con người mà chúng ta muốn trở thành. Quá trình tự tạo không bao giờ ngừng, và nhất là không bao giờ hoàn tất trong một ngày. Quá trình đó là sự rút tia những bài học từ những hành động, những trải nghiệm, những dịp tham khảo người chung quanh cũng như những sách mà tiền nhân để lại cho chúng ta. Quá trình tự tạo chỉ có thể xảy ra khi ta xông xáo, sẵn sàng nhận mọi trách nhiệm mà xã hội trao dần cho chúng ta trên con đường thử thách. Nó sẽ dày dặn hơn khi ta chiêm nghiệm lại những thất bại, ôn lại những lỗi lầm, tìm hiểu lại những giải pháp đúng đắn. Nó sẽ thấm thía hơn nếu ta mang hết tấm lòng, trái tim để phục vụ. Nó sẽ được cảm nhận thấu đáo hơn nếu mỗi bước ta đi là một bước mang tính nhân ái. Xã hội mà yêu ta thì ta không thể nào thất bại, vì xã hội sẽ tăng cơ hội, dẫn dắt và hỗ trợ, ủng hộ tinh thần, san bằng chướng ngại cho ta đi. Thành công sẽ tới khi xã hội chấp nhận con người của ta. Và nếu muốn xã hội yêu ta thì ta hãy yêu xã hội thật chân tình và nồng nàn, mỗi phút, mỗi giây. Chọn hướng đi, chọn môn học, chọn nghề nghiệp... thì cứ chọn. Nhưng chọn gì rồi cũng thành công, đi đâu rồi cũng tới đích nếu bạn gieo sự tốt lành trên con đường, tạo sự hòa thuận, mang bàn tay và trí não của mình để không ngừng xây dựng. Thế giới sẽ có đủ chỗ cho mỗi cá nhân thiện chí và nhân ái. Chỉ có điều, chớ bao giờ để cho cơ hội trôi đi, bạn nhé. Vì như thế nguy hiểm lắm, bởi nó sẽ biến cuộc đời của bạn thành một chuỗi luyến tiếc, không cho phép mình thể hiện được giá trị thật của bản thân. Chết đi mà vẫn chưa biết mình là ai thì thực sự quá thảm thương. Chương 6 Giữ thái độ đúng đắn, thay vì đơn thuần chọn hướng đi “A career path is rarely a path at all. A more interesting life is usually a more crooked, winding path of missteps, luck and vigorous work”. Một lộ trình nghề nghiệp rất ít khi là một con đường thoai thoải. Một cuộc đời lý thú hơn thường chia ra nhiều khúc gãy, rải rác đầy hụt hẫng, may rủi và rất nhiều nỗ lực. - TOM FRESTON Ít ai trên đời có được con đường sự nghiệp bằng phẳng, cứ thế mà thẳng tiến. Và tôi tự hỏi, cho dù được như thế liệu người ta có hạnh phúc hay không? Mơ thì cứ mơ, dù muốn dù không, cuộc đời của các bạn, giống như những năm tháng tôi đã sống và trải nghiệm, sẽ không phải là con đường dễ đi. Lâu lâu, có một bước ngoặt. Chốc chốc, lại xuất hiện một vấn đề. Lên voi xuống chó là cảnh tượng của đời tôi và chắc chắn cũng là cảnh ngộ của khối người. Đó là lẽ đời, chẳng bao giờ chỉ có một chiều thuận lợi. Thành thử, một cuộc đời thành công không phải là con đường thẳng, mà là phép cộng của nhiều khúc thành công rực rỡ với cả những khúc thất bại ê chề. Cái nọ nối đuôi cái kia và làm cho nhau thêm phần nổi bật. Không thành công nào khiến chúng ta nhớ lâu hơn nếu nó tới sau một chuỗi ngày dài thất bại. Và không một thất bại nào khiến chúng ta “ngấm” hơn sau những phút giây say sưa trong ảo tưởng về sự thành công. Âm và dương, dương và âm sẽ thay phiên nhau trỗi dậy và chìm xuống. Các triết gia sẽ thấy thế là lý thú, sẽ rút tia ra từ đó những quy luật của tạo hóa. Nhưng người phàm cần được hướng dẫn để quy các bài học nhỏ vào một tuyển tập lớn, quy những thành công nhỏ vào một thành công lớn, giống như những dòng suối nhỏ dồn vào một dòng sông lớn. Người biết nhận thức sẽ tiến nhanh hơn người vô tri và cứ sau mỗi khúc quanh nhỏ thì người biết nhận thức sẽ nhanh chóng tiến sang một khúc quanh mới. Trong chương sách này, tôi chỉ """