🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Móng Vuốt Quạ Đen - Mưu Ma Chước Quỷ - Tập 3 Ebooks Nhóm Zalo #1 NEW YORK TIMES BESTSELLER LEIGH BARDUGO MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN III MƯU MA CHƯỚC QUỶ Hoàng Anh dịch WingsBooks | Nhà xuất bản Kim Đồng Phần Một TỪ BỎ 1 RETVENKO R etvenko tựa người vào quầy bar và thò mũi vào li rượu bẩn. Món whiskey không làm ông ấm nổi. Không gì có thể làm người ta ấm được ở cái thành phố bị thánh thần bỏ rơi này. Và ông cũng không thoát được cái mùi lợm giọng của hầm tàu, đám nghêu và những tảng đá ẩm ướt, thứ dường như đã ngấm vào các lỗ chân lông của ông như thể ông bị ngâm trong một món trà có mùi tệ hại nhất trên đời. Mùi hương thảm hoạ dễ nhận thấy nhất là ở Barrel, đặc biệt tại một cái ổ chuột bần cùng như nơi này: một tửu quán tồi tàn nép mình ở tầng dưới của một trong những toà nhà xập xệ nhất vùng. Trần của nó bị võng xuống do phong hoá và xây dựng kém, các thanh xà đen kịt bồ hóng từ một cái lò sưởi đã lâu không hoạt động với ống khói nghẹt cứng vì rác. Sàn nhà được rải đầy mạt cưa để thấm bia, chất nôn, cùng đủ loại chất thải của đám khách khứa. Retvenko tự hỏi đã bao lâu rồi người ta không lau sàn. Ông ấn mũi sâu hơn vào trong li rượu, hít hà thứ mùi ngòn ngọt của món rượu tồi. Nó làm mắt ông cay cay. “Ê, cái đó là để uống, không phải để ngửi nha,” tay phục vụ quầy lên tiếng và bật cười. Retvenko đặt cái li xuống, uể oải nheo mắt nhìn người đàn ông. Anh ta có cái cổ bè và khuôn ngực vạm vỡ của một võ sĩ thực thụ. Retvenko từng chứng kiến anh ta tống cổ vài vị khách phiền hà ra đường, nhưng thật khó mà tôn trọng một kẻ khoác trên người thứ thời trang được bọn thanh niên Barrel ưa thích: áo sơ mi hồng với phần ống tay bó sát bắp tay đồ sộ, kèm theo chiếc gilet sặc sỡ bằng len sọc hai màu đỏ cam. Nom anh ta giống như một con cua lột diêm dúa. “Nói tôi nghe,” Retvenko bảo anh chàng với một thứ tiếng Kerch không sõi, lại còn lè nhè sau vài li rượu. “Sao cái thành phố này hôi hám thế nhỉ? Cứ như một nồi súp hỏng hoặc một chậu bát đĩa bẩn ấy.” Tay phục vụ bật cười. “Ketterdam là thế. Ông sẽ quen thôi.” Retvenko lắc đầu. Ông không muốn quen với cái chốn này, cũng như mùi hôi của nó. Công việc của ông tại nhà Uỷ viên hội đồng Hoede chán phèo, nhưng ít nhất căn buồng ở đó cũng khô ráo và ấm áp. Là một Grisha giúp việc theo giao kèo đáng giá, Retvenko được ăn ngon mặc ấm. Hồi đó ông nguyền rủa lão Uỷ viên hội đồng Hoede suốt ngày vì chán ngán công việc dẫn dắt các chuyến tàu chở hàng đắt giá trên biển, lại thêm phẫn uất với các điều khoản trong giao kèo bán mình ngu ngốc mà ông đã kí để thoát khỏi Ravka sau cuộc nội chiến. Nhưng giờ thì sao? Giờ thì ông không thể không nhớ tới cái xưởng Grisha ở nhà Hoede, nhớ ngọn lửa vui vẻ cháy trong lò, ổ bánh mì nâu ăn kèm bơ và những lát thịt giăm bông. Sau khi Hoede chết, Hội đồng Thương buôn của Kerch đã cho Retvenko làm việc trên những con tàu chở khách để mua lại tự do. Tiền thù lao đúng thật mạt hạng, nhưng ông còn lựa chọn nào khác kia chứ? Ông là một Tiết Khí Sư sống giữa một nơi thù địch, chẳng có kĩ năng gì ngoài thứ năng lực trời cho. “Nữa nhé?” Người phục vụ hỏi, tay chỉ vào li rượu đã cạn của Retvenko. Retvenko ngần ngừ. Ông không nên phung phí tiền bạc. Nếu khéo thu vén, ông chỉ cần phải bán mình trên một chuyến hải trình nữa, hoặc hai, và ông sẽ có đủ tiền để mua lại tự do, tậu một tấm vé quay về Ravka trên khoang tàu hạng ba. Ông chỉ cần có thế. Chưa đầy một giờ nữa là ông phải có mặt trên bến cảng. Người ta dự đoán sẽ có bão, do vậy thuỷ thủ đoàn phải trông cậy vào khả năng kiểm soát các luồng gió của Retvenko để đưa con tàu cập bến bình yên bất cứ nơi nào nó cần đến. Ông chẳng biết nơi đấy là đâu, và cũng chẳng quan tâm. Thuyền trưởng sẽ ra hiệu lệnh để ông thổi căng buồm hoặc làm gió lặng. Sau đó ông nhận tiền thù lao của mình. Nhưng gió máy có vẻ chưa nổi lên. Biết đâu ông có thể ngủ khò trong suốt đoạn đầu của chuyến đi. Retvenko vỗ tay lên quầy và gật đầu. Một người đàn ông thì phải làm gì đây? Ông xứng đáng được hưởng chút sung sướng trong cái thế giới này. “Mình đâu phải thằng chạy việc,” ông lẩm bẩm. “Sao thế?” Người phục vụ hỏi trong lúc rót cho Retvenko một li rượu khác. Retvenko phẩy tay. Anh chàng cục mịch này làm sao mà hiểu được. Cậu ta thu mình trong bóng tối. Để mong chờ cái gì chứ? Thêm một đồng xu lẻ trong túi quần? Ánh mắt liếc nhìn của một cô gái? Cậu ta chẳng biết thế nào là vinh quang chiến trận, chẳng biết thế nào là danh vọng. “Ông là dân Ravka hả?” Đang trong trạng thái lờ đờ do rượu, Retvenko đột ngột trở nên cảnh giác. “Sao cậu lại hỏi vậy?’ “Đoán vậy thôi. Ông nói giọng Ravka.” Retvenko tự trấn an mình. Có rất nhiều người Ravka đến Ketterdam để tìm việc. Không có gì nơi ông tiết lộ bản chất Grisha cả. Sự hèn nhát khiến ông cảm thấy ghê tởm chính mình, tay phục vụ, lẫn cái thành phố này. Retvenko chỉ muốn ngồi thưởng thức li rượu. Không một người nào trong quán có thể áp đảo ông, và bất chấp khối cơ bắp của tay phục vụ quầy, Retvenko biết mình có thể xử lí anh ta một cách dễ dàng. Tuy vậy, đã là một Grisha thì kể cả có ngồi yên cũng đồng nghĩa với chuốc vạ vào thân. Dạo gần đây người ta đồn râm ran khắp Ketterdam rằng nhiều Grisha đã biến mất trên phố, hoặc thậm chí ngay trong nhà mình, có lẽ là bị bọn buôn nô lệ bắt cóc đem bán đấu giá. Retvenko sẽ không để chuyện đó xảy ra với mình, nhất là khi ông đã sắp tích góp đủ tiền để quay về Ravka. Ông nốc cạn chỗ rượu, dằn một đồng tiền xuống mặt quầy, rồi đứng lên khỏi chiếc ghế đẩu. Ông không để lại tiền boa cho tay phục vụ. Muốn kiếm tiền thì phải xứng đáng với nó. Retvenko cảm thấy hơi loạng choạng trong lúc bước ra ngoài, và bầu không khí ẩm thấp chỉ càng làm tình hình tồi tệ thêm. Ông cúi đầu, hướng về phía Cảng số Bốn, để cho chuyến đi làm đầu óc tỉnh táo. Thêm hai chuyến nữa thôi, ông tự nhủ, vài tuần lễ lênh đênh trên biển, vài tháng trong cái thành này nữa thôi. Ông sẽ tìm được cách để chịu đựng chuyện này. Ông tự hỏi liệu mấy người bạn cũ có chờ mình ở Ravka hay không. Nghe nói vị vua trẻ ban lệnh ân xá như rải kẹo, hăm hở muốn tái thiết Hạ Quân — đội quân Grisha đã tan tác sau chiến tranh. “Thêm hai chuyến nữa thôi,” ông nói thành tiếng và giậm mạnh đôi ủng trên mặt đường ẩm ướt. Sao năm nay đến giờ này mà mọi thứ vẫn lạnh lẽo và ướt sũng đến thế kia chứ? Sống ở đây chẳng khác nào bị kẹp trong cái nách băng giá của một gã người tuyết khổng lồ. Đi dọc theo kênh Graf, Retvenko thoáng rùng mình khi trông thấy đảo Mạng Đen nằm kẹp giữa hai doi đất. Đó là nơi đám nhà giàu người Kerch từng mai táng người chết trong những ngôi nhà mồ bằng đá nằm cao hơn mực nước biển. Khí hậu ẩm ướt làm cho hòn đảo quanh năm bị quấn trong một tấm vải liệm sương mù biến ảo. Nghe đồn nó bị ma ám. Retvenko rảo bước nhanh hơn. Ông không phải là một kẻ mê tín. Khi sở hữu một năng lực như của ông, người ta chẳng việc gì phải sợ những thứ lẩn khuất trong bóng tối. Nhưng ai mà thích đi dạo giữa một nghĩa địa kia chứ? Thu mình trong chiếc áo choàng, ông nhanh chóng đi xuôi con phố Havenstraat, đề phòng mọi động tĩnh từ các con hẻm ngoằn ngoèo. Chẳng bao lâu nữa ông sẽ trở lại Ravka, nơi ông có thể ung dung dạo bước trên đường. Với điều kiện ông được ân xá. Retvenko khó chịu vặn vẹo người trong chiếc áo choàng. Chiến tranh đã làm các Grisha đối đầu nhau, và phe của ông đặc biệt tàn bạo. Ông đã ám sát những người đồng đội cũ, các thường dân, kể cả trẻ con. Nhưng chuyện đã qua rồi. Vua Nikolai cần binh lính, và Retvenko là một chiến binh rất giỏi. Sau khi gật đầu chào người lính gác đang ngồi trong chốt trực phía trước Cảng số Bốn, ông ngoái đầu nhìn lại phía sau để chắc chắn mình không bị theo đuôi. Len lỏi qua những dãy container, Retvenko đi ra bến cảng, tìm nơi tàu neo đậu, rồi đứng vào hàng để đăng kí với viên thuyền phó. Ông ta vẫn y như trong các chuyến đi trước, luôn phiền hà và khó ưa với cái cổ cò hương ló ra khỏi cổ áo choàng. Ông ta đang cầm một xấp tài liệu dày, có dấu triện sáp màu tím của một thành viên Hội đồng Thương buôn. Những dấu triện còn quý hơn vàng ở Ketterdam này, vì chúng bảo đảm những vị trí neo tàu tốt nhất và lối tiếp cận bến cảng thuận lợi. Tại sao những tay Uỷ viên hội đồng lại được nể trọng và biệt đãi như thế? Chung quy cũng vì tiền cả. Bởi các thương vụ của họ mang lại lợi lộc cho Ketterdam. Năng lực có ý nghĩa lớn hơn tại Ravka, nơi các nguyên tố phục tùng sự sai khiến của Grisha, và đất nước được cai trị bởi một vị vua thực thụ, chứ không phải một đám lái buôn mới phất. Thật ra thì Retvenko từng cố gắng phế truất cha của nhà vua hiện tại, nhưng bản chất vấn đề vẫn là như thế. “Thuỷ thủ đoàn chưa sẵn sàng để lên đường,” viên thuyền phó nói với Retvenko khi ông xưng tên. “Ông có thể vào ngồi trong văn phòng cảng vụ cho ấm. Chúng tôi đang đợi tín hiệu của Hội đồng Thuỷ triều.” “Tốt thôi,” Retvenko thờ ơ đáp. Ông ngước mắt nhìn một trong những ngọn tháp đá đen vươn cao trên hải cảng. Nếu Hội đồng Thuỷ triều tình cờ trông thấy Retvenko từ trên đó, ông sẽ cho họ biết chính xác mình đang nghĩ gì qua một vài cử chỉ chọn lọc. Cũng là Grisha, nhưng họ có nhúc nhích dù chỉ một ngón tay để giúp đỡ các Grisha khác trong thành không? Những người thiếu may mắn đang cần một chút lòng tốt ấy? “Không, họ không hề giúp đỡ,” Retvenko nói thành tiếng. Viên thuyền phó nheo mắt. “Lạy Ghezen, ông say rượu à, Retvenko?” “Làm gì có.” “Ông nồng nặc mùi rượu.” Retvenko hít hà. “Có chút whiskey thôi mà.” “Làm gì cho giã rượu đi. Uống cà phê, hoặc dùng jurda liều mạnh vào. Lô bông vải này phải đến được Djerholm trong vòng hai tuần lễ, và chúng tôi không trả tiền để ông ngật ngưỡng dưới hầm tàu. Rõ chưa?” “Rõ, rõ rồi.” Retvenko phẩy tay đáp trong lúc đi về phía văn phòng cảng vụ. Nhưng ngay khi đi được vài bước, ông khẽ lắc cổ tay. Một luồng gió thổi thốc vào xấp giấy tờ trên tay thuyền phó, làm chúng bay lung tung trên bến cảng. “Chết tiệt!” Ông ta buột miệng trong lúc lập cập chạy qua cầu ván, cố gắng chộp lấy chỗ tài liệu trước khi chúng rơi xuống nước. Retvenko mỉm cười ranh mãnh, nhưng một nỗi buồn vô hạn bỗng dâng lên trong lòng ông. Là một người lực lưỡng, một Tiết Khí Sư thiện nghệ, một chiến binh xuất sắc, nhưng ở đây, ông chỉ là một kẻ làm công, một lão già Ravka nói tiếng Kerch bồi và say xỉn tối ngày. Nhà, ông tự nhủ. Không lâu nữa mình sẽ được về nhà. Ông sẽ được ân xá và lại chứng tỏ bản thân. Ông sẽ chiến đấu cho tổ quốc mình. Ông sẽ nằm ngủ dưới một mái nhà không bị dột và mặc kefta len xanh với diềm lông cáo xám bạc. Ông sẽ lại là Emil Retvenko, chứ không phải một cái bóng dật dờ như thế này. “Có cà phê đấy,” một nhân viên nói với Retvenko khi ông bước vào văn phòng cảng vụ và chỉ cho ông bình cà phê nằm trong góc phòng. “Có trà không?” “Chỉ có cà phê thôi.” Cái xứ gì đâu. Retvenko rót đầy một ca thứ chất lỏng sánh đặc màu nâu đen, chủ yếu để làm ấm đôi tay. Ông không thể chịu nổi mùi vị của nó, nhất là nếu không có một suất đường thật đậm, thứ mà tay trưởng cảng từ chối cung cấp. “Gió nổi lên rồi kìa,” người thư kí nói khi nghe thấy tiếng chuông gió kêu lanh canh bên ngoài. “Tôi có tai,” Retvenko làu bàu. “Ở đây thì chẳng đáng là bao, nhưng một khi ông đã ra khơi thì…” “Im mồm đi,” Retvenko nạt. Ông đứng dậy, nghe ngóng. “Cái gì thế?” Người thư kí hỏi. “Ngoài kia…” Retvenko giơ một ngón tay lên môi. “Có người la hét.” Âm thanh vọng đến từ bên tàu, nơi con thuyền neo đậu. “Bọn mòng biển đấy. Mặt trời sắp lên rồi, và…” Retvenko giơ một bàn tay lên, và một luồng gió thổi nhân viên cảng vụ bay vào tường. “Đã bảo im mồm.” Miệng gã nhân viên trễ xuống trong lúc anh ta bám vào một thanh gỗ, thân mình bay lơ lửng trong không khí. “Ông là Grisha của bọn họ à?” Lạy các thánh, không lẽ ông phải rút hết không khí trong phổi thằng nhãi này để làm nó im miệng sao? Qua các ô cửa sổ mờ đục, Retvenko có thể trông thấy bầu trời bắt đầu chuyển sang màu xanh, báo hiệu bình minh đã lên. Ông nghe thấy tiếng kêu ré của bầy mòng biển đang tìm mồi trên những con sóng. Rượu làm cho đầu óc ông rối tinh lên. Retvenko thả cho tay nhân viên rơi xuống sàn. Ông làm đổ một ít cà phê, nhưng không buồn đi rót thêm. “Đã bảo ông rồi, chẳng có gì đâu.” Nhân viên cảng vụ nói trong lúc lồm cồm bò dậy. “Chẳng có gì mà phải làm quá lên như thế.” Anh ta phủi phủi áo quần rồi ngồi vào sau bàn giấy. “Đây là lần đầu tiên tôi gặp một người như ông. Một Grisha.” Retvenko hừ mũi. Chắc chắn anh ta đã từng gặp Grisha, chẳng qua không nhận ra mà thôi. “Ông được trả hậu hĩnh cho chuyến đi chứ?” Anh ta hỏi. “Không được hậu hĩnh cho lắm.” “Tôi…” Phần còn lại của câu nói bị át đi khi cánh cửa văn phòng vỡ tan tành. Retvenko đưa tay lên che mặt. Ông thụp xuống, lăn vào bên dưới bàn giấy của nhân viên cảng vụ để ẩn nấp. Một phụ nữ tiến vào văn phòng — tóc đen, mắt vàng. Người Shu. Gã nhân viên với tay tìm khẩu súng gắn bên dưới mặt bàn. “Bọn cướp!” Anh ta la lên. “Không ai được đụng tới quỹ lương.” Retvenko kinh ngạc nhìn anh ta bật dậy như một chiến binh quả cảm và khai hoả. Thánh thần ơi, đúng là không gì có thể thôi thúc người Kerch hơn tiền bạc. Retvenko ló đầu qua góc bàn để quan sát đúng lúc khẩu súng khạc đạn vào giữa ngực người phụ nữ. Mụ ta bay ngược ra sau, đập người vào khung cửa rồi rơi thịch xuống sần. Ông ngửi thấy mùi thuốc súng gay gắt và mùi máu tanh nồng. Bụng dạ ông quặn lên một cách đáng xấu hổ. Đã lâu ông không chứng kiến người ta bị bắn hạ ngay trước mắt mình — kể từ thời chiến tranh. “Không ai được đụng tới quỹ lương,” nhân viên cảng vụ lặp lại với giọng hài lòng. Nhưng trước khi Retvenko kịp lên tiếng, ả người Shu đã giơ bàn tay đẫm máu lên bấu vào khung cửa, gồng người đứng dậy. Retvenko chớp mắt mấy cái. Ông đã uống bao nhiêu whiskey nhỉ? Ả người Shu bước tới. Qua lớp áo rách toạc, Retvenko nhìn thấy mảng thịt đầy máu và lỗ chỗ vết đạn, cùng với thứ gì đó lấp lánh như kim loại. Gã nhân viên luống cuống nạp đạn, nhưng ả kia quá nhanh. Ả giật khẩu súng và hạ gục anh ta bằng một cú giáng mạnh khủng khiếp. Đoạn ả vứt súng qua một bên và hướng đôi mắt vàng về phía Retvenko. “Tiền đây, lấy hết đi!” Retvenko la lên và loạng choạng lùi lại. Ông thò tay vào túi quần rồi ném cho ả ta cái ví gần như rỗng không của mình. “Muốn lấy gì thì lấy đi.” Người phụ nữ nhếch mép cười trước cảnh đó. Một nụ cười thương hại? Hay là thích thú? Retvenko cũng chẳng biết. Nhưng ông hiểu ra ả không hề đến đây vì tiền. Ả đến vì ông. Và ả là một kẻ săn nô lệ, một lái buôn, hay gì gì đó cũng mặc. Ả sẽ phải đối đầu với một chiến binh, không phải một kẻ yếu đuối hèn nhát. Retvenko bật dậy. Các cơ bắp miễn cưỡng đáp ứng yêu cầu của ông và chuyển sang trạng thái tấn công. Hai cánh tay ông quạt tới trước. Một luồng gió mạnh thổi qua phòng, hất một chiếc ghế cùng bình cà phê bay về phía ả người Shu. Ả uể oải gạt phăng chúng đi như người ta phủi một cái mạng nhện. Retvenko tập trung năng lực rồi chưởng mạnh tới trước, cảm thấy tai mình ù đi vì áp suất tụt xuống khi gió lốc cuồn cuộn nổi lên. Những viên đạn có thể không chặn được địch thủ của ông, nhưng để xem ả ta xoay sở thế nào trước cuồng phong bão tố. Ả ngươi Shu gầm lên khi bị gió thốc vào người, cuốn ra ngoài cửa. Ả bấu lấy khung cửa, cố gắng cầm cự. Retvenko bật cười ha hả. Ông đã quên mất cảm giác sảng khoái khi được chiến đấu. Thế rồi, từ phía sau lưng ông, một tiếng rắc vang lên, những chiếc đinh kêu ken két khi bay ra khỏi lỗ, và những súc gỗ gãy lìa. Ngoái đầu ra sau, ông trông thấy bầu trời rạng đông và bến cảng, vách tường bằng gỗ đã biến mất. Những cánh tay khoẻ mạnh tóm lấy ông, bẻ quặt tay ông ra sau lưng, ngăn không cho ông sử dụng năng lực. Retvenko bị nhấc bổng lên trời, bến cảng nhanh chóng thu nhỏ lại bên dưới. Ông trông thấy phần mái của văn phòng cảng vụ, thi thể của viên thuyền phó trên bến cảng, và con tàu mà lẽ ra ông phải phụ trách — boong tàu đầy mảnh gỗ, những thân người nằm chất đống bên cạnh cột buồm gãy vụn. Địch thủ của ông đã ghé qua đó trước. Không khí lạnh thổi vào mặt Retvenko. Tai ông nghe thấy tiếng tim đập dồn dập. “Làm ơn,” ông van nài trong lúc họ bay lên cao hơn, không rõ mình phải cầu xin điều gì. Cố tránh không làm động tác quá đột ngột hoặc quá mức, ông ngoái đầu quan sát kẻ bắt giữ mình. Retvenko buột thốt lên một tiếng kêu thảng thốt, pha trộn giữa tiếng nấc nghẹn và rên rỉ của một con thú mắc bẫy. Kẻ đang bắt ông là một người Shu. Mái tóc đen của hắn búi chặt sau đầu, đôi mắt vàng rực nheo lại trong gió, và trên lưng hắn có một đôi cánh khổng lồ đang đập phành phạch giữa trời. Chúng đầy khớp nối, được tạo tác một cách khéo léo từ những thanh thép cong lấp lánh và lớp vải bạt căng phồng. Hắn là thiên thần hay ác quỷ? Hay là một cỗ máy kì dị sống động? Hay đơn giản là ông đã mất trí? Trong cánh tay kẻ bắt giữ, Emil Retvenko trông thấy bóng đổ của họ trên mặt biển loang loáng phía dưới: hai cái đầu, một đôi cánh, bốn cái chân. Ông đã trở thành một con quái vật hùng mạnh, thế nhưng con quái vật này sẽ nuốt chửng ông. Những lời cầu xin của ông chuyển thành tiếng la hét, nhưng không ai đoái hoài đến chúng. 2 WYLAN T ôi đang làm gì ở đây thế này? Câu hỏi đó đã vụt hiện lên trong đầu Wylan ít nhất sáu lần kể từ cái ngày cậu gặp Kaz Brekker. Nhưng vào một đêm như thế này, cái đêm mà họ làm việc, câu hỏi đó cứ chập chờn trong đầu cậu như một giọng nam cao đang luyện thanh: Tôiđanglàmgìởđâythếnày tôiđanglàmgìởđâythếnàytôiđanglàmgìởđâythếnày? Wylan kéo mạnh đường diềm của chiếc áo vest màu xanh da trời, đồng phục hầu bàn tại sòng bạc Cumulus, và cố tỏ ra thoải mái. Cứ coi như đây là một bữa tiệc tối, cậu tự nhủ. Cậu đã từng chịu đựng vô số bữa ăn không thoải mái ở nhà cha mình. Hôm nay cũng thế. Thật ra, nó còn dễ dàng hơn. Không có những mẩu đối thoại ngượng nghịu xoay quanh chuyện học hành hay kế hoạch vào đại học của cậu. Tất cả những gì cậu phải làm là giữ im lặng, làm theo chỉ dẫn của Kaz, và nghĩ xem mình nên thu xếp đôi tay như thế nào. Chắp lại trước bụng? Quá giống một ca sĩ biểu diễn. Chắp tay sau lưng? Quân đội quá. Cậu cố gắng buông xuôi chúng hai bên sườn, nhưng vẫn không cảm thấy ổn thoả. Sao trước đó cậu không chú ý đến cách đám bồi bàn đi đứng nhiều hơn? Mặc dù Kaz đã cam đoan phòng khách tầng hai hoàn toàn thuộc về họ đêm nay, Wylan vẫn dám chắc vào một thời điểm nào đó, một nhân viên thực thụ sẽ bước vào phòng, chỉ thẳng mặt cậu và hét lên: “Kẻ mạo danh!” Nhưng dù sao thì cậu cũng cảm thấy như thế trong phần lớn thời gian. Chưa đầy một tuần lễ trôi qua kể từ ngày họ đặt chân trở lại Ketterdam, và chưa đầy một tháng từ khi họ rời Djerholm. Wylan vẫn mang khuôn mặt của Kuwei, nhưng mỗi khi bắt gặp mình trong gương hoặc cửa kính, cậu phải mất một lúc để nhận ra mình không phải đang nhìn một người lạ. Khuôn mặt này giờ đây là của cậu: đôi mắt vàng, vầng trán rộng, mái tóc đen. Diện mạo cũ của cậu đã bị xoá sạch, và Wylan không chắc cậu hiểu được nhân vật còn lại trong mình — kẻ đang đứng giữa một phòng riêng tại một trong những sòng bạc cao cấp nhất khu Lid, mắc kẹt với một mưu đồ khác của Kaz Brekker. Một người chơi giơ cao li rượu để được rót đầy, và Wylan vội lao tới từ chỗ mình đang đứng cạnh vách tường. Bàn tay cậu run lẩy bẩy khi nhấc chai rượu ra khỏi xô đá, nhưng những năm tháng sống trong tầng lớp quý tộc của cha cậu cũng có ích. Ít nhất cậu biết làm thế nào để rót một li champagne mà không làm trào bọt ra. Wylan dường như có thể nghe thấy giọng nói chế nhạo của Jesper bên tai. Kĩ năng ăn tiền, thiếu gia à. Cậu đánh liều liếc nhìn Jesper. Anh chàng thiện xạ đang ngồi ở bàn, khom người trên những lá bài của mình. Anh mặc một chiếc áo gilet cũ mèm màu xanh hải quân có thêu những ngôi sao vàng nhỏ, cùng áo sơ mi trắng nhàu nhĩ nổi bật trên làn da nâu sậm. Jesper đưa bàn tay mệt mỏi xoa mặt. Họ đã chơi bài suốt hơn hai giờ đồng hồ. Wylan không rõ dấu hiệu mỏi mệt của anh là thật hay giả vờ. Cậu rót đầy một li rượu khác, tập trung vào những chỉ dẫn của Kaz. “Chỉ cần ghi nhận yêu cầu của người chơi và lắng nghe mẩu đối thoại của Smeet,” anh ta đã nói như thế. “Đây là một công việc, Wylan. Hãy hoàn thành nó.” Tại sao họ lại gọi đây là một công việc? Nó chẳng cho cảm giác giống như cậu đang làm việc chút nào. Nó giống như bước hụt và bất thần nhận ra mình đang rơi. Một cảm giác hoảng loạn. Wylan bèn tập trung vào các chi tiết của căn phòng, mẹo cậu thường dùng để tự trấn tĩnh mỗi khi đến một nơi mới, hoặc khi cha cậu ở trong tâm trạng tồi tệ. Cậu ghi nhớ hoạ tiết hình ngôi sao đan cài vào nhau trên mặt sàn gỗ bóng loáng, các mấu hình vỏ sò trên giá nến bằng thuỷ tinh thổi, và những đám mây bạc dày đặc trên lớp giấy dán tường màu xanh da trời. Căn phòng không có cửa sổ đón ánh sáng tự nhiên. Kaz bảo là không một sòng bạc nào có cửa sổ, vì họ muốn người chơi mất đi khái niệm về thời gian. Wylan quan sát Kaz chia bài cho Smeet, Jesper và những người chơi khác đang ngồi quanh chiếc bàn tròn. Kaz cũng mặc áo vest màu xanh da trời giống như Wylan, hai bàn tay để trần, cảm giác lạ lùng sai trái của cậu không chỉ đến từ việc Kaz không đeo găng, mà còn ở chỗ đôi tay anh ta dường như được điều khiển bởi một cơ cấu bí mật mà cậu không thể hiểu được. Khi bắt đầu học vẽ, Wylan đã nghiên cứu các hình minh hoạ giải phẫu học. Cậu nắm khá rõ hệ thống cơ bắp, cách các xương, khớp và gân gắn với nhau. Nhưng bàn tay của Kaz di chuyển như thể chúng được sinh ra chỉ để thao tác với những lá bài. Những ngón tay thon dài trắng trẻo co duỗi theo nhịp điệu, chuyển động chính xác và gọn ghẽ. Kaz từng tuyên bố anh ta có thể kiểm soát bất cứ cỗ bài nào. Vậy tại sao Jesper lại thua thê thảm như vậy? Lúc Kaz vạch kế hoạch đêm nay tại nơi ẩn nấp trên đảo Mạng Đen, Wylan đã khá hoài nghi, và không chỉ có cậu nêu thắc mắc. “Tôi diễn xuôi lại thế này anh nghe xem có đúng không nhé,” Nina đã nói như vậy. “Âm mưu lớn lao của anh là cho Jesper vay một khoản tiền và cài cậu ta vào chơi bài với Cornells Smeet, đúng không?” “Smeet thích những ván bài cào có tiền cược lớn và các cô nàng tóc vàng,” Kaz đáp. “Thế nên chúng ta sẽ cho ông ta cả hai. Tôi sẽ phụ trách nửa đầu của buổi tối, sau đó đến phiên Specht.” Wylan không biết nhiều về Specht. Là một cựu binh hải quân, thành viên băng Cặn Bã này đã lèo lái con thuyền đưa họ đến Lâu Đài Băng và quay về. Nếu nói thật lòng thì cậu thấy anh ta hơi đáng sợ, căn cứ theo bộ râu quai nón hoa râm và chỗ hình xăm che hết một nửa cái cổ. Nhưng ngay chính Specht cũng tỏ ra lo lắng khi nói: “Tôi có thể chia bài, Kaz à, nhưng tôi không thể kiểm soát người chơi.” “Anh không cần phải làm thế. Kể từ lúc anh ngồi vào vị trí, cuộc chơi sẽ mang tính trung thực. Điều quan trọng là giữ chân Smeet tại bàn cho tới nửa đêm. Thời điểm đổi ca là lúc chúng ta có nguy cơ đánh mất ông ta. Ngay khi tôi đứng dậy, ông ta sẽ bắt đầu nghĩ đến việc chuyển sang một bàn khác, hoặc ra về, do vậy tất cả những gì anh cần làm là giữ ông ta ngồi dính vào cái bàn đó.” “Tôi có thể xử lí chuyện đó,” Jesper nói. Nina nhíu mày. “Phải rồi. Về giai đoạn hai của kế hoạch này, tôi có thể đóng giả là một người buôn lậu jurda parem. Có gì mà phải sợ?” Wylan sẽ không nói như thế, nhưng cậu đồng ý với Nina. Rất đồng ý. Họ nên giữ cho Jesper tránh xa các sòng bạc, không thể khuyến khích máu đỏ đen của anh ấy như vậy được. Nhưng Kaz không hề suy suyển. “Hãy làm việc của mình và giữ chân Smeet đến nửa đêm,” Kaz nói. “Mọi người biết chúng ta đang đánh đổi điều gì đấy.” Tất cả bọn họ đều biết. Mạng sống của Inej. Wylan không còn gì để cãi. Cậu luôn cảm thấy áy náy mỗi khi nghĩ tới điều đó. Van Eck đã nói là sẽ cho họ bảy ngày để trao trả Kuwei Yul-Bo trước khi bắt đầu tra tấn Inej. Họ đã sắp hết thời gian. Wylan biết cậu không thể ngăn cha mình chơi khăm cả nhóm và bắt cóc Inej, nhưng cậu vẫn cảm thấy có trách nhiệm. “Tôi phải làm gì với Cornells Smeet sau nửa đêm đây?” Nina hỏi. “Cố gắng dụ ông ta qua đêm với cô.” “Cái gì?” Matthias thốt lên, mặt đỏ tía tai. “Ông ta sẽ từ chối.” Nina hừ mũi. “Từ chối cơ đấy.” “Nina…” Matthias gằn giọng. “Smeet không bao giờ chơi ăn gian khi đánh bài và cũng không bao giờ lừa dối vợ mình,” Kaz giải thích. “Ông ta giống như một nửa số con bạc trong khu Barrel. Trong phần lớn thời gian, ông ta là một người đáng kính, tỉ mỉ, cực kì tiết kiệm và chỉ uống nửa li rượu vang trong bữa tối. Nhưng mỗi tuần một lần, ông ta tận hưởng cảm giác của một kẻ phá luật và đấu trí cùng những con bạc lắm tiền ở Đông Stave, với một cô nàng tóc vàng trong tay.” Nina bĩu môi. “Nếu ông ta đức hạnh đến thế thì vì sao anh lại muốn tôi tìm cách…” “Bởi vì Smeet là một kẻ rủng rỉnh tiền bạc, và bất cứ cô nàng đứng đắn nào ở Tây Stave cũng sẽ thử.” “Tôi không thích chuyện này,” Matthias nói. Jesper trưng ra nụ cười bất cần đời đặc trưng của mình. “Nói thật nhé, Matthias, có nhiều thứ anh không thích lắm.” “Cầm chân Smeet tại sòng bạc Cumulus từ tám giờ tối cho đến nửa đêm,” Kaz nói. “Tức là bốn tiếng đấu trí, do đó hãy cư xử một cách khôn khéo.” Nina rõ ràng đang chơi hết mình. Wylan không rõ cậu nên lo lắng hay thán phục nữa. Chị mặc một cái váy màu tím oải hương cùng chiếc corset tôn cao bộ ngực khiêu khích, và mặc dù bị sụt cân do phải vật lộn cai nghiện parem, thân hình chị vẫn có kha khá thứ để Smeet đặt tay vào. Nina ngồi vững trong lòng Smeet, miệng thủ thỉ tình tứ, một tay quàng vai người đàn ông, tay kia vuốt ve ngực ông ta, thỉnh thoảng luồn hẳn vào trong lớp áo gilet như một chú cún nhỏ đòi được âu yếm. Chị chỉ ngừng lại mỗi khi cần gọi món hàu hoặc một chai champagne khác. Wylan biết Nina có thể xử lí mọi gã đàn ông trong mọi tình huống, nhưng cậu không nghĩ chị cần phải ăn mặc lả lơi ngồi ngả ngớn trong lòng một tay luật sư khinh khỉnh giữa sòng bài lạnh lẽo như thế này. Chị có thể bị cảm lạnh không chừng. Jesper lại khom người và thở hắt ra một cái rõ to. Anh đã thua suốt hai tiếng qua. Jesper rất thận trọng trong mỗi lần đặt cược, nhưng cả vận may lẫn Kaz đều không đứng về phía anh. Họ phải giữ chân Smeet thế nào đây một khi Jesper cháy túi? Những con bạc lắm tiền khác liệu có là miếng mồi đủ ngon? Trong phòng đang có vài người như thế. Họ nấn ná cạnh các bức tường, quan sát ván bài với hi vọng thế chỗ một người chơi cạn tiền nào đó. Không ai biết trò chơi thực sự mà Kaz đang thực hiện. Khi Wylan cúi xuống để rót đầy li rượu của Nina, cậu nghe thấy Smeet thì thầm. “Một ván bài cũng giống như một cuộc quyết đấu. Những cú đấm nhẹ nhàng sẽ dọn đường cho đòn đánh quyết định.” Ông ta liếc nhìn Jesper phía bên kia bàn. “Thằng nhãi kia đang khô máu rồi.” “Em không hiểu làm thế nào anh nhớ hết các quy luật trong đầu,” Nina nói với một nụ cười khúc khích. Smeet nhếch mép, hài lòng ra mặt. “Cái trò này chẳng là gì nếu so với công việc quản lí kinh doanh.” “Em cũng không hình dung nổi chuyện đó đây.” “Đôi lúc chính anh cũng không biết,” Smeet thở dài đáp. “Tuần vừa qua thật khó khăn. Một nhân viên của anh không quay lại sau kì nghỉ lễ, khiến anh bị quá tải.” Wylan suýt nữa đánh rơi cái chai đang cầm, làm đổ một ít rượu xuống sàn nhà. “Tao trả tiền là để uống nó, chứ không phải để tắm với nó nghe nhóc,” Smeet quát to. Ông ta phủi quần và lẩm bẩm. “Đi thuê bọn ngoại bang là thế này đấy.” Ý ông ta muốn nói mình, Wylan vội vàng lùi ra xa. Cậu vẫn chưa biết làm thế nào để chấp nhận thực tế rằng mình đang mang diện mạo của một người Shu. Cậu cũng không nói được ngôn ngữ của họ. Chuyện này bắt đầu khiến cậu lo lắng sau khi chạm trán hai du khách người Shu ở Đông Stave. Cậu phát hoảng lên, luống cuống hoa tay múa chân rồi bỏ chạy vào trong sòng bạc Cumulus qua lối cửa dành cho nhân viên. “Tội nghiệp anh,” Nina nói với Smeet và luồn tay vào trong mái tóc thưa của ông ta, đồng thời chỉnh lại một bông hoa cài trên bím tóc vàng óng của mình. Wylan không biết chị có nói với Smeet rằng mình đến từ Nhà Diên Vĩ Xanh hay không, nhưng hẳn ông ta cũng đoán như thế. Jesper ngả người ra sau trên ghế, gõ gõ ngón tay vào báng súng. Cử chỉ đó dường như khiến Smeet lưu ý. “Hai khẩu súng đó đẹp thật. Báng súng cẩn ngọc trai xịn, nếu anh không nhầm,” Smeet nói bằng giọng điệu của một người sành sỏi. “Anh cũng có một bộ sưu tập hoả khí tinh xảo, nhưng còn thiếu những khẩu súng lừng danh của Novyi Zem.” “Thế à, em rất muốn xem những khẩu súng của anh,” Nina thủ thỉ, và Wylan phải ngước lên nhìn trần nhà để khỏi đảo tròn mắt. “Chúng ta định ngồi đây cả đêm à?” Wylan cố giấu sự hoang mang của mình. Không phải mấu chốt của toàn bộ chuyện này là giữ chân ông ta ở đây hay sao? Nhưng có vẻ như Nina nắm rõ tình hình hơn cậu, vì khuôn mặt Smeet tỏ ra bướng bỉnh ngay. “Yên nào. Nếu anh trúng lớn, anh sẽ mua cho cưng cái gì đó đèm đẹp.” “Vậy để em gọi thêm hàu.” “Em còn chưa ăn xong chỗ này mà.” Wylan nhận thấy cánh mũi Nina rung rung. Chắc chị đang cố gắng hít thở. Nina không còn ăn uống ngon miệng kể từ khi phải vật lộn chống lại parem, và cậu thực sự không biết làm thế nào chị có thể nuốt trôi gần nửa tá hàu. Wylan thấy chị rùng mình nuốt chửng con hầu cuối cùng. “Ngon lắm,” Nina cố gắng thốt lên, rồi liếc mắt sang phía Wylan. “Thêm hàu đi.” Đó chính là ám hiệu. Wylan vội lao đến để dọn cái đĩa nặng trĩu vỏ hàu và nước đá. “Quý cô đây đang rất đói,” Smeet nói với cậu. “Thêm hàu ạ?” Wylan hỏi lại. Giọng cậu hơi chói tai. “Hay là tôm sốt bơ ạ?” Giờ thì cậu lại hạ giọng quá mức. “Cả hai,” Smeet đáp. “Và thêm một li champagne nữa.” “Tuyệt,” Nina lên tiếng, mặt hơi tái. Wylan lao qua cánh cửa lật để vào khu bếp. Chất đầy trong đó là chén đĩa, li tách, khăn ăn, và một thùng đầy ắp đá lạnh. Một thang vận chuyển đồ ăn choán gần hết vách tường cuối phòng, ngay bên cạnh nó có một ống nói với phần miệng loe rộng để đám phục vụ liên lạc với nhà bếp. Wylan đặt đĩa vỏ hàu lên bàn rồi gọi xuống nhà bếp để yêu cầu món hàu và tôm. “À, với lại thêm một chai champagne nữa.” “Loại nào?” “Ơ… cùng loại lúc nãy.’’ Wylan từng nghe đám bạn bè của cha cậu bàn luận về những mùa nho nên đầu tư, nhưng cậu không đủ tự tin để lựa chọn. Lúc Wylan quay lại phòng chơi bài với đồ ăn và thức uống, Kaz đứng lên khỏi bàn. Anh làm cử chỉ giống như phủi bụi trên tay - dấu hiệu cho biết một người chia bài đã kết thúc ca làm việc của mình. Specht ngồi vào chỗ. Chiếc cà vạt lụa mầu xanh giúp che đi hình xăm nơi cổ anh ta. Specht xắn tay áo và mời mọi người đặt tiền. Ánh mắt Kaz và Wylan thoáng giao nhau trước khi anh biến vào trong khu bếp. Thời điểm đã đến. Theo Kaz và Jesper, người chơi thường cho rằng vận may của mình gắn liền với người chia bài và ngừng chơi khi việc đổi ca diễn ra. Wylan lo lắng nhìn Smeet duỗi người và vỗ mông Nina. “Chúng ta cũng thắng được kha khá rồi,” ông ta lên tiếng trong khi liếc mắt sang phía Jesper, người đang rầu rĩ nhìn đống xèng ít ỏi trước mặt. “Đi kiếm một bàn màu mỡ hơn nào.” “Nhưng đồ ăn của em vừa lên,” Nina phụng phịu đáp. Wylan bước tới trước, không biết phải nói gì để cầm chân Smeet. “Quý ngài có muốn gọi gì không ạ? Tôi phục vụ gì thêm cho ngài và cô đây nhé?” Smeet phớt lờ cậu. Bàn tay ông ta vẫn đang đặt trên mông Nina. “Ở khu Lid này thì thiếu gì đồ ăn ngon và phục vụ tốt hơn, cưng à.” Một người đàn ông to lớn mặc bộ com-lê kẻ sọc tiến lại gần Smeet, lăm le định nhảy vào thế chỗ. “Ông định về à?” Smeet tặng cho Jesper một cái gật đầu thân thiện. “Có vẻ như cả hai ta đều đang định về, đúng không nhóc? Chúc may mắn lần sau.” Jesper không buồn mỉm cười đáp lại. “Tôi chưa chơi xong.” Smeet giơ tay chỉ đống xèng của Jesper. “Ồ, trông thế kia mà chưa bỏ cuộc à?” Jesper đứng lên, hai bàn tay di chuyển về phía hai khẩu súng. Wylan nắm chặt chai rượu trong lúc những người chơi khác dịch ra xa, sẵn sàng rút vũ khí hoặc thụp xuống sàn tránh đạn. Nhưng Jesper chỉ cởi dây đeo súng. Anh từ tốn đặt hai khẩu súng lục lên bàn, ngón tay vuốt nhẹ những đường hoa văn bóng bẩy trên đó. “Chỗ này giá bao nhiêu?” Jesper hỏi. Wylan cố gắng nhìn vào mắt anh chàng thiện xạ. Đây có phải là một phần của kế hoạch không vậy? Jesper đang nghĩ gì vậy? Anh rất yêu hai khẩu súng này. Anh thà tự cắt tay mình còn hơn. Specht hắng giọng và đáp. “Cumulus không phải tiệm cầm đồ. Chúng tôi chỉ chấp nhận tiền mặt hoặc tín chấp của ngân hàng Gemens thôi.” “Tôi sẽ cấp vốn cho cậu,” Smeet tuyên bố bằng giọng lơ đãng có chủ đích, “nếu cậu chơi tiếp. Một ngàn kruge cho hai khẩu súng được không?” “Chúng đáng giá gấp mười lần như thế.” “Năm ngàn kruge.” “Bảy.” “Sáu, chỉ vì tôi đang trong cơn hào phóng.” “Đừng!”Wylan buột miệng. Căn phòng im phắc. Giọng nói của Jesper lạnh băng. “Tôi đâu có hỏi ý kiến cậu?” “Hỗn láo thật!” Smeet nói. “Từ bao giờ đám hầu bàn được phép xen vào cuộc chơi vậy?” Nina trừng mắt với Wylan. Specht lên tiếng với giọng điệu chất chứa sự tức giận và ngỡ ngàng. “Các quý ngài, chúng ta chơi tiếp được chưa? Đặt cược nào!” Jesper đẩy hai khẩu súng của mình qua bàn về phía Smeet, và ông ta đẩy lại cho anh một chồng xèng lớn. “Được rồi,” Jesper tuyên bố, đôi mắt xám trở nên vô hồn. “Tôi chơi tiếp.” Wylan lùi lại và biến vào trong khu bếp nhanh chóng hết mức có thể. Đĩa vỏ hàu đã biến mất. Kaz đang đợi cậu. Anh đã đeo găng và khoác lên người một chiếc áo choàng dài màu cam. “Kaz,” Wylan tuyệt vọng thông báo. “Jesper vừa đem súng của anh ấy đổi lấy tiền.” “Được bao nhiêu?” “Chuyện đó thì quan trọng gì? Anh ấy…” “Năm ngàn kruge à?” “Sáu.” “Tốt. Ngay cả Jesper cũng không thể phung phí hết số tiền đó trong ít hơn hai giờ.” Kaz ném cho Wylan áo choàng và mặt nạ, hai món y phục của Quỷ xám, một nhân vật trong Hài kịch Thô lỗ. “Đi thôi.” “Tôi á?” “Không, thằng ngu phía sau cậu ấy.” Kaz trêu, đoạn tiến đến bên ống nói và thông báo. “Cử một hầu bàn khác lên đây. Thằng ở trên này vừa đánh đổ rượu lên giày của một ông khách sộp.” Ai đó dưới bếp bật cười và đáp: “Được.” Hai người đi xuống cầu thang và ra khỏi cửa dành cho nhân viên sau đó ít phút, trang phục hoá trang cho phép họ dễ dàng trà trộn trong đám đông. “Anh đã biết Jesper sẽ thua. Anh đã làm tất cả để chuyện đó xảy ra,” Wylan buộc tội. Kaz ít khi sử dụng gậy chống ở những khu vực mà anh có thể bị nhận diện. Nhưng bất chấp dáng đi khập khiễng của anh, Wylan vẫn phải guồng chân mới theo kịp. “Dĩ nhiên. Tôi kiểm soát trò chơi mà, Wylan. Tôi đã có thể làm cho Jesper thắng trong mọi ván bài.” “Vậy thì tại sao…” “Chúng ta không đến đó để thắng bài. Chúng ta cần Smeet ngồi chết dí bên bàn chơi bài. Ông ta chòng chọc tia mấy khẩu súng đó chẳng kém gì ngắm bộ ngực của Nina. Giờ thì ông ta đang tự tin rằng mình có một tối may mắn. Nếu có thua thì ông ta cũng vẫn chơi tiếp. Ai mà biết được? Có khi Jesper thắng lại mấy khẩu súng của cậu ta thì sao?” “Tôi cũng hi vọng là thế,”Wylan nói trong lúc họ nhảy xuống một con thuyền lúc nhúc du khách để xuôi về hướng nam. “Cậu cứ hi vọng đi.” “Anh nói vậy là sao?” “Một người như Jesper thắng được hai ván là bắt đầu tưởng bở. Cuối cùng thì thua tất, và điều đó chỉ càng làm cho cậu ta khao khát thử vận may lần nữa. Các sòng bài sống được là nhờ những kẻ như cậu ta.” Vậy thì tại sao lại đẩy anh ấy vào một sòng bài? Wylan không nói ra suy nghĩ đó. Và tại sao lại khiến Jesper phải từ bỏ thứ có ý nghĩa với mình đến thế? Có những cách khác để cầm chân Smeet kia mà? Nhưng câu hỏi thực sự ở đây là vì sao Jesper làm tất cả chuyện này mà không một chút ngần ngại. Phải chăng Jesper vẫn đang tìm cách lấy lòng Kaz trở lại sau khi sai lầm của anh làm cho mọi người rơi vào ổ phục kích trên bến cảng và Inej suýt mất mạng. Hay là anh ấy muốn thứ gì đó còn hơn cả sự tha thứ từ Kaz. Mình đang làm gì ở đây thế này? Wylan một lần nữa tự vấn. Cậu bắt gặp mình đang gặm ngón tay cái, và ép bản thân dừng lại. Cậu ở đây là vì Inej. Chị ấy đã cứu mạng cậu hơn một lần, và cậu sẽ không quên điều đó. Cậu ở đây vì đang rất cần tiền, và nếu còn một lí do khác, thì đó chính là một anh chàng cao lêu nghêu có máu đỏ đen, nhưng lúc này cậu không muốn nghĩ tới chuyện đấy. Ngay khi họ bắt đầu tiến vào khu Barrel, Wylan và Kaz cởi bỏ lại áo choàng cùng áo vest xanh da trời, rồi đi sang phía đông, vào quận Zelver. Matthias đang đợi họ dưới một vòm cửa ở kênh Handel. “Tình hình ổn chứ?” Kaz hỏi. “Mọi thứ đều ổn,” anh chàng người Fjerda cao to đáp. “Ánh đèn ở tầng trên cùng ngôi nhà của Smeet đã tắt từ một giờ trước, nhưng tôi không rõ đám gia nhân còn thức hay đã ngủ.” “Ông ta chỉ có một người hầu và một đầu bếp làm việc theo giờ vào ban ngày,” Kaz nói. “Ông ta quá keo kiệt để thuê gia nhân làm trọn thời gian.” “Thế…” “Nina ổn. Jesper cũng ổn. Mọi người đều ổn, ngoại trừ tôi, vì tôi đang bị dính với một đám vú em phiền nhiễu. Canh gác đi.” Wylan nhún vai với Matthias, người dường như đang cân nhắc việc đập đầu Kaz vào tường, trước khi cậu vội vã guồng chân trên lớp đá lát đường để đuổi theo Kaz. Ngôi nhà kiêm văn phòng của Smeet nằm trên một con phố âm u thưa thớt người qua lại. Những ngọn đèn đường dọc theo con kênh vẫn sáng và một số ô cửa sổ còn le lói ánh nến, nhưng sau mười giờ đêm thì hầu hết các công dân đáng kính tại khu này đều đã đi nghỉ. “Chúng ta chỉ việc đi vào qua cửa chính à?” “Sử dụng đôi mắt cậu thay vì cái miệng đi,” Kaz đáp. Bộ dụng cụ phá khoá lấp loáng trong đôi tay đeo găng của anh. Thì tôi đang nhìn đây, Wylan thầm nghĩ. Nhưng sự thật không hẳn là như thế. Cậu đã quan sát các tỉ lệ của ngôi nhà, độ cao của mái nhà, những bông hồng chớm nở trong các chậu hoa trên cửa sổ. Nhưng cậu không quan sát ngôi nhà như một câu đố. Với một chút thất vọng, cậu phải thừa nhận là câu đố này đã được giải xong. Dân cư quận Zelver cũng vào loại khá giả, nhưng không hẳn giàu có. Đây là một nơi dành cho những nghệ nhân thủ công, kế toán viên và luật sư thành đạt. Mặc dù được xây vững chãi, sạch sẽ và trông ra con kênh rộng, những ngôi nhà ở đây nằm san sát nhau, không có chỗ cho những mảnh vườn lớn hoặc bến thuyền riêng. Nếu tiếp cận qua lối cửa sổ tầng trên, cậu và Kaz sẽ phải đột nhập vào một ngôi nhà hàng xóm và gặp hai lần khoá thay vì một. Tốt hơn là mạo hiểm với cửa chính và giả vờ như họ hoàn toàn có phận sự ở đây - mặc dù Kaz mang theo bộ dụng cụ phá khoá thay vì chùm chìa khoá cửa. Sử dụng đôi mắt cậu. Nhưng Wylan không thích nhìn thế giới theo cách của Kaz. Và một khi đã có tiền trong tay, cậu sẽ không bao giờ phải làm điều đó nữa. Đúng một giây sau, Kaz đã vặn tay nắm và cánh cửa bật mở. Ngay lập tức Wylan nghe thấy tiếng chân chạy, tiếng móng vuốt cào trên mặt gỗ, nhiều tiếng gầm gừ, và đàn chó của Smeet lao tới, những chiếc răng trắng nhởn loé lên, những tràng sủa ồn ào bật ra từ lồng ngực chúng. Trước khi đàn chó nhận ra người bước vào nhà không phải chủ nhân của mình, Kaz đã đưa cái còi của Smeet lên miệng và thổi. Nina đã khéo léo tháo nó ra khỏi sợi dây chuyền mà ông luật sư luôn đeo trên cổ và nhét vào bên dưới một cái vỏ hàu, trước khi Wylan lẹ làng đem ra khỏi phòng chơi bài. Không có âm thanh nghe được nào vang lên. Tiêu rồi, Wylan nghĩ bụng và hình dung ra những hàm răng đồ sộ cắn xé cổ họng mình. Nhưng đàn chó đột ngột dừng lại, bối rối va vào nhau. Kaz lại thổi một hồi còi khác để ra mệnh lệnh mới. Những con chó im bặt và nằm mọp xuống sàn nhà trong những tiếng ư ử cáu bẳn. Một con thậm chí còn ngửa bụng lên trời. “Sao con người lại không dễ dạy như thế này nhỉ?” Kaz lẩm bẩm trong lúc cúi xuống để gãi bụng con chó. Những ngón tay đeo găng đen vuốt ve lớp lông ngắn. “Đóng cửa lại đi.” Wylan làm theo, cậu đứng ép lưng vào cánh cửa, lo lắng đưa mắt nhìn đàn chó săn miệng đầy nước dãi. Khắp ngôi nhà đều bốc mùi chó - lông ẩm, da nhờn, hơi thở ấm nóng thoảng mùi thịt tươi. “Không thích động vật à?” Kaz hỏi. “Tôi thích chó,”Wylan đáp. “Nhưng chỉ khi chúng không to như gấu.” Wylan biết bài toán mà ngôi nhà của Smeet đặt ra cho Kaz rất hóc búa. Anh có thể phá mọi ổ khoá và vô hiệu quá mọi hệ thống chuông báo động, nhưng không thể vượt qua những con chó săn khát máu của ông ta mà không bị bại lộ. Vào ban ngày, đàn chó được nhốt trong chuồng, nhưng đêm đến, chúng được tự do chạy nhảy dưới nhà, trong lúc gia đình Smeet say giấc nồng ở những căn phòng sang trọng trên tầng ba, với cầu thang được chặn lại bằng một cánh cửa sắt. Smeet luôn tự mình dẫn chó đi dạo dọc theo kênh Handel. Hay đúng hơn là ông ta bị chúng lôi đi tựa như một cỗ xe ục ịch đội chiếc mũ đắt tiền. Nina đã đề xuất việc đánh thuốc đàn chó. Smeet đến tiệm thịt mỗi sáng để chọn mua thịt cho chúng, việc đánh tráo các gói thịt sẽ không có gì khó khăn. Nhưng Smeet muốn đàn chó đói bụng ban đêm, nên ông ta sẽ cho chúng ăn vào buổi sáng. Smeet sẽ nhận ra ngay nếu chúng lờ đờ cả ngày và có nguy cơ ông ta sẽ ở nhà để chăm chó. Ông ta phải trải qua buổi tối tại Đông Stave, và quan trọng nhất là khi trở về nhà, ông ta không được phát hiện gì cả. Mạng sống của Inej phụ thuộc vào điều đó. Kaz đã thu xếp vụ phòng riêng tại sòng bạc Cumulus, Nina đã xoáy được cái còi bên trong áo sơ mi của Smeet, và từng bước một, kế hoạch đã diễn ra như dự tính. Wylan không muốn nghĩ tới những gì họ đã làm để lấy được cái còi. Cậu rùng mình khi nhớ lại câu mà Smeet đã nói: Một nhân viên của anh không quay lại sau kì nghỉ lễ. Anh ta sẽ không bao giờ quay lại. Wylan vẫn còn nghe được tiếng la hét của người nhân viên khi Kaz nắm cổ chân anh ta đung đưa lủng lẳng trên đỉnh ngọn hải đăng ở mũi Hanraat. Tôi là người tốt, anh ta đã hét như thế. Tôi là người tốt mà. Đó là lời nói sau cùng của anh ta. Nếu nói ít hơn, có lẽ anh ta đã sống. Wylan nhìn Kaz gãi gãi phía sau tai của con chó đang chảy dãi rồi đứng dậy. “Ta đi thôi. Đi đứng cho khéo vào.” Hai người len lỏi qua đàn chó trong hành lang và khẽ khàng leo lên cầu thang. Cách bố trí của ngôi nhà này khá quen thuộc với Wylan. Hầu hết các thương gia trong thành đều tuân theo một kiểu: nhà bếp và các phòng dành để tiếp khách hàng nằm ngay tại tầng dưới, văn phòng và kho ở tầng hai, phòng ngủ của gia đình trên tầng ba. Những gia đình khá giả còn có tầng bốn dành cho gia nhân. Hồi còn bé, Wylan thường lẩn trốn cha cậu suốt nhiều giờ ở các tầng nhà bên trên. “Không buồn khoá cửa,” Kaz thì thào trong lúc hai người tiến vào phòng làm việc của Smeet. “Mấy con chó đã làm cho ông ta chủ quan.” Kaz đóng cửa lại rồi thắp một ngọn đèn, vặn nhỏ lửa. Căn phòng có ba bàn giấy nhỏ kê cạnh các cửa sổ để lấy ánh sáng tự nhiên. Một cho Smeet, và hai cho nhân viên của ông ta. Tôi là người tốt mà. Wylan lắc đầu xua kí ức đó đi và tập trung vào các ngăn kệ bố trí từ sàn nhà lên đến tận trần, đầy ắp sổ sách và giấy tờ. Tất cả đều được cẩn thận ghi tên của các khách hàng và công ty, Wylan đoán vậy. “Nhiều bồ câu quá,” Kaz thì thào trong lúc đọc lướt các nhãn dán. “Naten Boreg, gã khốn Karl Dryden. Smeet đại diện cho một nửa thành viên của Hội đồng Thương buôn.” Kể cả cha của Wylan. Smeet đã làm luật sư kiêm người quản lí tài sản cho Jan Van Eck kể từ hồi cậu biết ghi nhớ. “Chúng ta bắt đầu từ đâu đây?” Cậu thì thào hỏi. Kaz lôi một cuốn sổ cái to sụ từ trên giá xuống. “Đầu tiên, chúng ta phải bảo đảm cha cậu không tậu thứ gì mới bằng tên của ông ta. Sau đó, chúng ta sẽ tìm kiếm với tên của mẹ kế cậu, và của cậu.” “Đừng có gọi dì ấy như thế. Về tuổi tác thì Alys chỉ lớn hơn tôi một chút thôi. Với lại cha tôi cũng không cho tôi đứng tên bất kì tài sản nào đâu.” “Cậu sẽ ngạc nhiên với những gì mà người ta sẵn sàng làm để trốn thuế đấy.” Hai người dành gần một tiếng đồng hồ để tìm kiếm trong đống hồ sơ giấy tờ của Smeet. Họ đã nắm được toàn bộ các tài sản công khai của Van Eck - các nhà máy, khách sạn, xưởng sản xuất, xưởng đóng tàu, nhà nghỉ mát và trang trại ở miền nam Kerch. Nhưng Kaz tin rằng cha của Wylan phải có tài sản riêng, những thứ không nằm trong sổ sách công khai, những nơi ông ta có thể che giấu thứ gì đó - hoặc ai đó - nếu không muốn người khác tìm ra. Kaz đọc thành tiếng những cái tên và mục ghi trong sổ sách, anh chất vấn Wylan, cố gắng tìm kiếm mọi liên hệ tới các tài sản hoặc công ty mà họ chưa phát hiện ra. Wylan biết cậu chẳng nợ cha điều gì, nhưng vẫn cảm thấy mình giống như một thằng phản trắc. “Geldspin?” Kaz hỏi. “Một nhà máy dệt. Hình như nó nằm ở Zierfoort.” “Quá xa. Ông ta không thể giấu cô ấy tại đó. Thế còn Firma Allerbest?” Wylan cố gắng lục lọi trong trí nhớ. “Tôi nghĩ nó là một nhà máy đồ hộp.” “Cả hai đều là những cỗ máy in tiền và được đứng tên bởi Alys. Nhưng Van Eck giữ những thứ sinh lợi nhiều nhất cho mình — xưởng đóng tàu và các xi-lô ở Bãi Ngọt.” “Tôi đã nói rồi mà,” Wylan mân mê một cây bút trên chồng giấy thấm. “Cha tôi tin chỉ tin chính mình, có tin Alys cũng vừa phải thôi. Và ông ta không cho tôi đứng tên bất kì thứ gì.” Kaz chỉ đáp: “Sổ kế tiếp. Hãy bắt đầu với các tài sản kinh doanh.” Wylan thôi nghịch cây bút. “Trong đó có gì mang tên tôi không?” Kaz ngả người ra sau. Trong ánh mắt anh hiện lên sự thách thức khi đáp: “Một xưởng in.” Vẫn cái trò đùa cũ rích. Nhưng sao nó vẫn làm cậu đau nhói? Wylan đặt cây bút xuống. “Biết ngay mà.” “Ông ta không phải là một người tinh tế cho lắm. Cậu còn được đứng tên sở hữu Eil Komedie nữa đấy.” “Phải rồi,” Wylan đáp, thầm mong giọng điệu của mình đỡ chua chát hơn. Lại một trò đùa của cha cậu - một hòn đảo bỏ hoang, không có gì trên đó ngoài một công viên giải trí đã xuống cấp, một thứ vô giá trị dành cho thằng con trai mù chữ vô tích sự của ông ta. Lẽ ra cậu không nên hỏi. Trong khi Kaz tiếp tục đọc thành tiếng những cái tên, Wylan càng lúc càng bực bội hơn. Nếu cậu biết đọc, họ sẽ kiểm tra chỗ tài liệu này nhanh gấp đôi. Thật ra, nếu thế thì Wylan đã biết thừa công việc kinh doanh của cha cậu rồi. “Tôi đang làm anh bị chậm lại,” cậu nói. Kaz mở một xấp tài liệu mới. “Tôi biết chính xác việc này cần bao nhiêu thời gian mà. Họ của mẹ cậu là gì?” “Mẹ tôi chẳng đứng tên cái gì đâu.” “Chiều tôi đi mà.” “Hendriks.” Kaz tiến đến kệ tài liệu và chọn lấy một cuốn sổ cái khác. “Mẹ cậu mất khi nào?” “Năm tôi lên tám.” Wylan lại nhặt cây bút lên. “Cha tôi càng trở nên tồi tệ hơn sau khi mẹ ra đi.” Ít nhất đó là những gì cậu còn nhớ. Những ngày tháng sau cái chết của mẹ cậu là một vệt buồn bã và thinh lặng. “Cha không cho tôi đi dự tang lễ của mẹ. Tôi thậm chí còn không biết nơi mẹ tôi được chôn cất. Các anh hay nói thế nào nhỉ? Không đổ lệ, không quan tài à? Tại sao không nói chúc may mắn hay bảo trọng nhé?” “Chúng tôi muốn giữ sự kì vọng ở mức thấp.” Ngón tay đi găng của Kaz lướt dọc theo một cột số và dừng lại. Đôi mắt anh lướt qua lại giữa hai quyển sổ, rồi anh đóng sầm cái bìa bọc da lại. “Ta đi thôi.” “Anh tìm được gì rồi à?” Kaz gật đầu. “Tôi đã biết cô ấy ở đâu.” Wylan tin mình không nghe nhầm sự căng thẳng trong giọng nói khàn khàn của Kaz. Anh không la hét như cha cậu, nhưng Wylan đã học được cách nhận ra cái âm trầm đó, thứ hợp âm đen tối vẫn len lỏi vào trong giọng điệu của Kaz mỗi khi mọi chuyện sắp trở nên nguy hiểm, cậu đã nghe thấy nó ngay sau trận chiến trên bến cảng, nơi Inej bị Oomen đâm trọng thương, khi Kaz biết được chính Pekka Rollins là kẻ đã phục kích họ, và một lần nữa sau khi họ bị cha cậu trở mặt. Cậu đã nghe thấy nó rất rõ trên ngọn hải đăng, khi người nhân viên kia kêu gào cầu xin tha mạng. Wylan quan sát Kaz sắp xếp lại căn phòng. Anh dịch một cái phong bì sang trái chút xíu, kéo một ngăn của chiếc tủ hồ sơ to nhất ra thêm chút ít, và đẩy cái ghế về chỗ cũ. Sau khi làm xong, anh đảo mắt nhìn quanh phòng, rồi giật phắt cây bút từ tay Wylan và cẩn thận trả nó về chỗ cũ trên bàn. “Một tên trộm lọc lõi cũng giống như một món thuốc độc siêu hạng, thiếu gia à. Không để lại dấu vết.” Kaz thổi tắt ngọn đèn. “Cha cậu có làm từ thiện nhiều không?” “Không. Ông ta chỉ cúng tiền cho Ghezen. Cha tôi nói từ thiện tước mất của người ta cơ hội lao động chân chính.” “Này nhé, trong tám năm qua ông ta vẫn đều đặn cúng tiền cho nhà thờ Thánh Hilde. Nếu cậu muốn thăm viếng mẹ thì có thể bắt đầu từ chỗ đó.” Wylan sững người nhìn Kaz trong căn phòng tối. Cậu chưa từng nghe nói tới nhà thờ Thánh Hilde. Và cậu cũng chưa bao giờ thấy Tay Nhám chia sẻ một thông tin không mang lại lợi lộc gì cho mình. “Cái gì…” “Nếu Nina và Jesper hoàn thành tốt nhiệm vụ thì chẳng bao lâu nữa Smeet sẽ về đến nhà. Nếu vẫn còn ở đây vào lúc đó, chúng ta sẽ làm kế hoạch hỏng bét. Đi thôi.” Wylan có cảm giác như vừa bị phang một cuốn sổ vào đầu rồi được bảo hãy quên chuyện đó đi. Kaz mở hé cửa. Hai người bỗng khựng lại. Qua vai Kaz, Wylan trông thấy một bé gái nhỏ đang đứng trên hành lang, tựa vào cổ một con chó lông xám to tướng. Cô bé chỉ chừng năm tuổi, những ngón chân hơi ló ra dưới diềm cái váy ngủ bằng vải flannel. “Ghezen ơi,” Wylan thì thào. Kaz bước ra ngoài hành lang, khép hờ cánh cửa phòng sau lưng. Wylan ngần ngừ trong bóng tối, không rõ mình nên làm gì. Cậu kinh hoàng nghĩ tới điều mà anh ta có thể làm. Cô bé ngước đôi mắt to lên nhìn Kaz, rồi rút ngón tay cái đang ngậm trong miệng ra. “Chú làm việc cho ba hả?” “Không.” Kí ức đó lại ùa về trong đầu Wylan. Tôi là người tốt mà. Họ đã đón lõng người nhân viên của Smeet khi anh ta rời khỏi Vườn Thú rồi lôi anh ta lên đỉnh ngọn hải đăng. Kaz nắm cổ chân anh ta dốc ngược lên, khiến anh ta vãi ra quần, van xin tha mạng trước khi rốt cuộc cũng phun ra chi tiết cái còi gọi chó của Smeet. Kaz định lôi tay nhân viên vào thì anh ta bắt đầu đề nghị đủ thứ: tiền, số tài khoản ngân hàng của các khách hàng của Smeet, và rồi… Tôi có thông tin về một trong các cô gái ở Vườn Thú, cô người Zemeni. Kaz khựng lại. Anh biết gì về cô ta? Wylan đã nghe thấy âm thanh trầm đục cảnh báo đó. Nhưng tay nhân viên kia không biết Kaz và không nhận ra sự thay đổi trong giọng nói khàn khàn của anh. Anh ta nghĩ mình đã tìm được thứ mà Kaz cần. Một trong các khách hàng đã tặng cho cô ta những món quà giá trị. Cô ta giấu giếm bớt tiền lại. Cậu có biết mụ Công đã làm gì với cô gái giấu tiền riêng bị mụ phát hiện gần đây nhất không? Biết chứ, Kaz đã đáp như thế với đôi mắt sáng loé như một lưỡi dao cạo. Dì Heleen đánh cô ta tới chết. Kaz… Wylan cố can ngăn, nhưng tay nhân viên đã tiếp tục nói. Ngay ở trong phòng khách. Còn cô nàng này biết mình sẽ tiêu nếu tôi tiết lộ. Cô ta đã đồng ý tiếp tôi miễn phí để tôi ngậm miệng. Lôi tôi vào trong đi. Cô ta cũng sẽ chiều chuộng các cậu y như tôi. Bất cứ điều gì các cậu thích. Dì Heleen mà phát hiện ra, mụ sẽ giết chết cô nàng Zenemi của anh, Kaz đáp. Mụ sẽ lấy cô ta làm gương cho những cô gái khác. Đúng rồi, tay nhân viên hăm hở nói tiếp. Cô ta sẽ làm mọi thứ các cậu thích. Mọi thứ. Thật chậm rãi, Kaz bắt đầu để cho cái chân của tay nhân viên tuột dần xuống. Thật kinh khủng, đúng không? Khi sinh mạng mình nằm trong tay người khác. Giọng nói của tay nhân viên cất cao lên một quãng tám khi anh ta nhận ra sai lầm của mình. Cô ta chỉ là một đứa làm công, anh ta hét lên. Cô ta biết cái giá phải trả! Tôi là người tốt. Tôi là người tốt mà! Ở Ketterdam này không có người tốt, Kaz nói. Khí hậu không phù hợp với họ. Và anh buông tay ra. Wylan rùng mình. Qua khe cửa, cậu thấy Kaz khuỵu gối để có thể nhìn thẳng vào mắt cô bé con. “Anh chàng này tên là gì thế?” Kaz hỏi, một tay đặt trên cái cổ nhăn nheo của con chó. “Nhạc trưởng Đốm ạ.” “Thật à?” “Bạn ấy rất ngoan. Ba để cho cháu đặt tên toàn bộ đàn chó.” “Thế Nhạc trưởng Đốm có phải là con chó mà cháu thích nhất không?” Cô bé ra chiều ngẫm nghĩ, rồi lắc đầu. “Cháu thích Công tước Addam Von Silverhaunch nhất, rồi tới Fuzzmuzzle, sau đó mới tới Nhạc trưởng Đốm.” “Rất vui khi được biết điều đó, Hanna.” Miệng cô bé mở ra thành hình chữ O tròn trĩnh. “Sao chú biết tên cháu?” “Chú biết hết tên của bọn trẻ con.” “Thật ạ?” “Phải. Albert ngay nhà bên cạnh và Gertrude ở phố Ammberstraat. Ta sống dưới gầm giường và trong tủ đồ của chúng.” “Cháu biết ngay mà,” cô bé thì thào, sự sợ hãi và đắc thắng hoà lẫn trong giọng nói. “Mẹ bảo không có gì ở đó, nhưng cháu biết là có.” Cô bé ngoẹo đầu. “Trông chú không giống một con quái vật.” “Để ta nói cháu nghe bí mật này, Hanna. Những con quái vật xấu xa thực sự không bao giờ có vẻ ngoài giống quái vật đâu.” Giờ thì môi cô bé run lên. “Có phải chú tới để ăn thịt cháu không? Ba nói những đứa trẻ không chịu vâng lời đi ngủ sẽ bị quái vật ăn thịt.” “Đúng vậy. Nhưng ta sẽ không làm thế. Không phải đêm nay. Nếu cháu làm cho ta hai chuyện.” Giọng nói của Kaz rất điềm tĩnh, tựa như đang thôi miên. “Trước hết, cháu phải lên giường đi ngủ. Và thứ đến, cháu không bao giờ được kể cho bất kì ai, nhất là ba cháu, rằng cháu đã trông thấy bọn ta.” Kaz cúi người tới trước và kéo nhẹ bím tóc của cô bé. “Bởi vì nếu cháu hé răng, ta sẽ cắt cổ mẹ cháu, rồi ba cháu, và rồi ta sẽ moi tim tất cả những con chó cưng đầy nhớt dãi này. Ta sẽ để công tước Silverhaunch lại sau cùng, để cháu biết được tất cả là do lỗi của cháu.” Khuôn mặt cô bé trắng bệch như sợi dây thắt nơ nơi cổ áo ngủ. Đôi mắt cô bé mở to và sáng rực như trăng non. “Cháu có hiểu chưa?” Cô bé gật đầu lia lịa, cằm rung lên. “Nào nào, đừng khóc. Quái vật nhìn thấy nước mắt sẽ chỉ càng khát máu hơn đấy. Cháu về giường đi, và đem theo cả Nhạc trưởng Đốm vô dụng nữa.” Cô bé đi giật lùi về chiếu nghỉ và bước lên cầu thang. Khi lên được nửa đoạn cầu thang, cô bé đánh liều liếc nhìn Kaz một cách sợ hãi. Anh giơ một ngón tay đi găng lên môi đáp lại. Khi cô bé đã khuất dạng, Wylan lách người qua khe cửa và theo chân Kaz bước xuống cầu thang. “Sao anh có thể nói những chuyện như thế với con bé? Nó chỉ là một đứa trẻ con.” “Tất cả chúng ta đều từng là trẻ con.” “Nhưng…” “Hoặc là thế, hoặc là bẻ cổ con bé và dàn cảnh thành giống như nó bị ngã xuống cầu thang, Wylan à. Tôi nghĩ mình đã nhân nhượng lắm rồi. Đi nào.” Họ len lỏi qua đàn chó vẫn đang nằm phủ phục dưới nhà. “Thật không thể tin nổi,” Kaz nói. “Bọn chúng có thể sẽ giữ nguyên tư thế đó cả đêm.” Anh thổi một hồi còi và đàn chó lập tức bật dậy, tai vểnh lên, sẵn sàng tuần tra quanh nhà. Khi Smeet về đến nơi, mọi thứ sẽ giống như thường lệ: những con chó đi lại dưới tầng trệt, văn phòng tầng hai vẫn nguyên vẹn, bà vợ ngủ ngáy ngon lành ở tầng ba, và cô con gái giả vờ làm điều tương tự. Kaz kiểm tra động tĩnh trên phố rồi ra hiệu cho Wylan bước ra. Anh chỉ dừng lại trong giây lát để khoá cửa. Họ nhanh chóng đi xuôi theo con phố trên lớp đá lát đường. Wylan ngoái đầu quan sát phía sau. Cậu không tin nổi họ đã thành công. “Đừng có nhìn quanh quất như thể cậu sợ bị ai đó bám theo,” Kaz nói. “Và đừng có chạy lúp xúp nữa. Cậu trông còn lấm lét hơn cả vai Tên trộm thứ ba trong vở hài kịch ba xu người ta diễn ở Đông Stave. Lần tới đi đứng bình thường nhé. Cố gắng tỏ ra đường hoàng.” “Sẽ không có lần tới đâu.” “Dĩ nhiên rồi. Dựng cổ áo lên đi.” Wylan không cãi nữa. Tới khi Inej được an toàn, tới khi họ nhận được số tiền đã được hứa, cậu không thể nói lời cuối cùng. Nhưng chuyện này phải có lúc kết thúc. Phải vậy chứ, đúng không? Matthias cất lên một tiếng hót lanh lảnh từ phía cuối đường. Kaz nhìn đồng hồ và luồn một tay vào mái tóc, vò mạnh nó. “Đúng boong.” Họ đi vòng qua góc đường và đâm sầm vào Cornells Smeet. 3 MATTHIAS M atthias nép mình trong bóng tối, chứng kiến màn kịch lạ lùng diễn ra. Cornells Smeet loạng choạng mất thăng bằng, chiếc mũ rơi ra khỏi cái đầu gần như hói trọc của ông ta. Kẻ đã đâm sầm vào ông ta bước tới để đỡ ông ta đứng thẳng lại. Kẻ đó là Kaz, nhưng lại không có điểm gì giống với Kaz cả. Mái tóc đen của cậu ta rối bù, điệu bộ thì lúng túng, cậu ta không để lộ đôi mắt và cúi gằm mặt như thể đang cực kì bối rối - một cậu trai trẻ biết kính trọng người lớn. Wylan lập cập đi phía sau Kaz và thu mình lại trong chiếc áo choàng đến độ Matthias cảm thấy cậu nhóc công tử sắp biến mất tiêu. “Nhìn xem mày đã làm gì này!” Smeet bực bội lên tiếng trong lúc đội lại chiếc mũ lên đầu. “Vô cùng xin lỗi ngài,” Kaz đáp, tay phủi nhẹ vai áo của Smeet. “Tôi vụng về quá!” Cậu ta cúi người sát đất. “À, ngài ơi, hình như ngài vừa đánh rơi ví.” “Đúng rồi!” Smeet ngạc nhiên thốt lên. “Cảm ơn cậu. Cảm ơn nhiều lắm.’’ Thế rồi, trước sự ngỡ ngàng của Matthias, Smeet mở ví và lấy ra một tờ giấy bạc năm kruge. “Cầm lấy đi. Vì sự trung thực của cậu.” Kaz tiếp tục cúi rạp người, nhưng làm thế nào đó vẫn lí nhí nói được lời cảm ơn Smeet. “Ngài tốt bụng quá. Giá mà Ghezen cũng hào phóng như ngài.” Tay luật sư bệ vệ đi tiếp, mũ vắt vẻo trên đầu, miệng huýt sáo một điệu nhạc ngắn, hoàn toàn không biết kẻ mà ông vừa mới va phải chính là người chia bài đã ngồi đối diện ông suốt hai tiếng đồng hồ tại sòng bạc Cumulus, về đến trước cửa nhà, Smeet lôi cái dây chuyền trong cổ áo sơ mi ra, rồi cuống cuồng vỗ tìm cái còi khắp nơi. “Cậu không gắn lại nó vào sợi dây chuyền sao?” Matthias thắc mắc ngay khi Kaz và Wylan nhập bọn với anh dưới vòm cửa tối. Anh biết trò đó hoàn toàn nằm trong khả năng của Kaz. “Không việc gì phải làm thế.” Smeet sờ lần một hồi trong áo, rồi lấy cái còi ra và mở cửa, miệng lại ngân nga hát. Matthias không thể nào tin nổi mắt mình. Anh đã quan sát rất kĩ đôi bàn tay đi găng của Kaz trong lúc cậu ta chạm vào người Smeet, và mặc dù biết cậu ta dự định trả lại cái còi, anh không thể phát hiện hành động đó. Anh những muốn kéo Smeet trở lại chỗ góc đường và yêu cầu Kaz trình diễn trò ảo thuật một lần nữa. Kaz dùng tay vuốt lại mái tóc và đưa tờ giấy bạc năm kruge cho Wylan. “Đừng có phung phí đấy. Ta đi thôi.” Matthias dẫn hai người tới một nhánh kênh hẹp, nơi anh neo thuyền. Anh quẳng cho Kaz cây gậy chống trước khi họ xuống thuyền. Kaz đã khôn ngoan không sử dụng gậy chống đêm nay. Nếu ai đó trông thấy một thằng nhóc cầm cây gậy đầu quạ lảng vảng quanh ngôi nhà của Cornells Smeet vào giờ khuya khoắt bất thường, nếu tin tức đó đến tai của Van Eck, toàn bộ công sức của họ sẽ thành công cốc. Để giành lại Inej, họ cần đến yếu tố bất ngờ, và Kaz không phải là loại người trông chờ vào may mắn. “Thế nào rồi?” Matthias hỏi trong lúc chiếc thuyền trôi đi trên dòng kênh đen thẫm. “Be bé cái mồm lại, Helvar. Tai vách mạch rừng đấy. Tỏ ra hữu ích và chèo thuyền đi.” Matthias phải cố lắm mới không bẻ mái chèo gãy đôi. Tại sao Kaz không thể ăn nói như một kẻ có văn hoá? Thằng nhóc cứ ra mệnh lệnh như thể tin rằng mọi người sẽ răm rắp nghe theo, và trở nên khó chịu gấp đôi kể từ khi Van Eck bắt Inej đi mất. Nhưng anh cũng muốn nhanh chóng quay về đảo Mạng Đen cùng Nina, nên anh chỉ im lặng và cảm nhận cơ vai gồng lên khi con thuyền đi ngược dòng nước. Matthias dùng đầu óc vào việc ghi nhận quang cảnh trong khi di chuyển, cố gắng nhớ tên đường phố và các cây cầu. Mặc dù đêm nào cũng nghiên cứu bản đồ Ketterdam, anh cảm thấy mình không thể gỡ rối mớ bòng bong các ngõ hẻm và kênh đào nơi đây. Anh vốn rất tự hào với năng khiếu định hướng của mình, nhưng cái thành này đã khuất phục năng khiếu đấy, và anh thường xuyên rủa thầm bàn tay điên rồ đã tự cho mình là khéo léo khi xây dựng nên một đô thị từ đầm lầy để rồi sắp đặt nó không theo một trật tự hay logic nào. Sau khi chui qua gầm cầu Haven, Matthias nhẹ cả người khi thấy cảnh vật xung quanh quen thuộc trở lại. Kaz nghiêng mái chèo, nhấn xuống lần nước tối tăm của eo Hành Khất, nơi con kênh mở rộng ra, và lái họ về phía các bãi bồi của đảo Mạng Đen. Họ giấu con thuyền phía sau những nhánh cây buông rủ của một cội liễu trắng trước khi len qua những ngôi mộ nằm rải rác trên sườn dốc đứng. Mạng Đen là một nơi đáng sợ, một đô thị thu nhỏ của những nhà mồ bằng cẩm thạch trắng, rất nhiều trong số đó được tạc thành hình dạng những con thuyền có đầu tượng bằng đá khóc than giữa mặt biển vô hình. Một số mang dấu Đồng xu May mắn của Ghezen, số khác chạm hình những con cá bay của Kerch, mà theo lời Nina thì chúng thuộc về những gia đình từng phục vụ trong chính phủ. Một số nhà mồ còn được canh chừng bởi những vị thánh Ravka trong tấm áo choàng thướt tha bằng cẩm thạch. Không có sự hiện diện của Djel hoặc cây tần bì của Ngài. Người Fjerda không muốn được yên nghỉ ở trên mặt đất, nơi họ không thể bắt rễ. Hầu hết các nhà mồ đều bị xuống cấp, nhiều cái trong đó chỉ còn là một đống đá đổ nát bị che phủ bởi dây leo và những cây hoa dại. Matthias đã rất kinh hoàng trước ý tưởng sử dụng một nghĩa địa làm nơi ẩn náu, bất luận nó bị bỏ hoang từ bao lâu chăng nữa. Nhưng dĩ nhiên với Kaz Brekker thì chẳng có gì là linh thiêng cả. “Sao họ không sử dụng nơi này nữa?” Matthias đã hỏi như thế khi cả nhóm chọn một nhà mồ rộng lớn ở trung tâm đảo làm chỗ trú ẩn. “Bệnh dịch,” Kaz đã đáp vậy. “Trận dịch tồi tệ đầu tiên xảy ra hơn một trăm năm trước, và Hội đồng Thương buôn đã cấm mai táng trong nội thành. Giờ đây các thi thể đều được hoả táng.” “Nếu anh có tiền thì không đâu,” Jesper nói thêm. “Khi đó họ sẽ đưa anh tới một nghĩa trang ở ngoại thành, nơi thân xác của anh có thể tận hưởng khí trời mát mẻ.” Matthias căm ghét hòn đảo, nhưng phải thừa nhận là nó rất hữu dụng với họ. Tin đồn hòn đảo bị ma ám khiến cho những kẻ lấn chiếm đất đai không dám bén mảng, và màn sương mù bao quanh hàng cây liễu rủ cũng như những cột buồm đá giúp che đi ánh sáng của ngọn đèn lồng thi thoảng được bật. Dĩ nhiên tất cả những cái đó sẽ không giúp gì được nếu như người ta nghe thấy tiếng cãi nhau ỏm tỏi của Nina và Jesper. Hai người đã quay về và bỏ lại chiếc thuyền gondel ở mạn bắc đảo. Giọng nói bực bội của Nina vang vọng trên những nấm mộ, khiến Matthias cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Anh rảo bước nhanh hơn, nóng lòng muốn trông thấy cô. “Tôi không nghĩ cô đang nhìn nhận công bằng đối với những gì tôi vừa trải qua,” Jesper vừa nói vừa giậm chân băng qua nghĩa địa. “Cậu dành cả đêm để đánh thua hết tiền của người khác trên bàn chơi bài,” Nina vặc lại. “Với cậu như thế có khác gì đi chơi?” Kaz đập cây gậy chống vào một tấm bia mộ và hai người kia lập tức im bặt, nhanh chóng thủ thế. Nina thả lỏng ngay khi trông thấy ba người bạn trong bóng đêm. “Ồ, ra là các anh.” “Phải, chúng tôi đây.” Kaz dùng gậy lùa họ về phía trung tâm đảo. “Và hai người đáng lẽ đã nghe thấy chúng tôi nếu không bận quát tháo nhau. Đừng có lóng nga lóng ngóng như thể chưa từng thấy một cô gái mặc váy, Matthias.” “Tôi có như thế đâu,” anh đáp trả với tất cả sự tự trọng huy động được. Nhưng Djel ơi, anh biết nhìn đi đâu khi mà Nina giắt những bông hoa diên vĩ ở… khắp nơi. “Im đi, Brekker,” Nina nói. “Tôi thích mỗi khi anh ấy luống cuống.” “Phi vụ thế nào rồi?” Matthias hỏi, cố gắng giữ ánh mắt mình trên khuôn mặt Nina. Anh dễ dàng nhận ra cô mỏi mệt đến thế nào sau lớp son phấn. Thậm chí Nina còn đón lấy cánh tay anh chìa ra và tựa nhẹ vào anh trong khi họ băng qua mặt đất mấp mô. Đêm đã khuya lắm rồi. Lẽ ra cô không nên lang thang giữa khu Barrel trong bộ váy lụa, cô nên nghỉ ngơi. Nhưng thời hạn Van Eck đưa ra đã gần kề, và Matthias biết Nina sẽ không cho phép mình nghỉ ngơi chừng nào Inej còn chưa được an toàn. “Đây không phải là phi vụ, mà là một nhiệm vụ,” Nina chỉnh lại. “Và nó đã được hoàn thành một cách xuất sắc.” “Phải rồi,” Jesper dài giọng. “Một cách xuất sắc. Chỉ có điều bộ súng của tôi giờ đây đang nằm gọn trong két sắt của sòng bạc Cumulus. Smeet không muốn mang chúng về nhà, cái lão béo ị đó. Nội việc hình dung các bé cưng của tôi trong đôi tay đẫm mồ hôi của lão…” “Ai bảo cậu đem đổi súng lấy tiền,” Kaz nói. “Anh đã buộc tôi làm điều đó. Làm thế quái nào tôi cầm chân Smeet ở bàn chơi bài được đây?” Kuwei ló đầu qua tấm bia mộ đồ sộ khi họ tiến đến gần. “Tôi đã dặn cậu thế nào hả?” Kaz gầm lên, chĩa thẳng cây gậy chống vào cậu nhóc. “Tiếng Kerch của tôi không được tốt,” Kuwei chống chế. “Đừng có giở trò với tôi, nhóc. Nó đủ tốt. Cậu phải ở trong nhà mồ.” Kuwei cúi gằm mặt, rầu rĩ lặp lại. “Ở trong nhà mồ.” Họ đi theo cậu nhóc người Shu vào bên trong. Matthias căm ghét nơi này. Tại sao lại xây nên những công trình như thế này dành cho người chết kia chứ? Nhà mồ mang hình dáng của một con tàu chở hàng, phần bên trong của nó là thân tàu rộng rãi bằng đá. Thậm chí nó còn có nhiều ô cửa sổ tròn lắp kính ghép hắt xuống sàn các dải màu cầu vồng trong những buổi chiều tà. Theo lời Nina, những cây cọ và con rắn chạm nổi trên tường cho biết gia chủ là nhà buôn gia vị. Nhưng hẳn là họ đã sa cơ lỡ vận, hoặc đơn giản là đã đưa kẻ quá cố đi nơi khác, bởi vì chỉ có một trong các hầm mộ có người an nghỉ, và lối đi hẹp hai bên thân tàu trống trải như nhau. Nina tháo những chiếc kẹp tóc, gỡ mái tóc vàng khỏi đầu và quẳng nó lên chiếc bàn mà họ đã kê ở giữa nhà mồ. Cô buông mình xuống ghế, dùng mấy ngón tay ấn day da đầu. “Dễ chịu hơn rồi,” cô thở dài khoan khoái. Nhưng Matthias không thể phớt lò vẻ xanh xao trên làn da của cô. Đêm nay trông Nina có vẻ tệ đi. Hoặc là cô gặp rắc rối với Smeet, hoặc cô đã bắt bản thân làm việc quá sức. Thế nhưng khi nhìn cô, Matthias vẫn cảm thấy có gì đó trong anh giãn ra. Ít nhất lúc này trông cô lại là Nina, với mái tóc nâu rối bù ướt đẫm và đôi mắt nhắm hờ. Có bình thường không khi mê đắm sự xộc xệch của một ai đó? “Đố mọi người biết chúng tôi chạm mặt ai trên đường rời khỏi Lid đấy,” Nina lên tiếng. Jesper đã bắt đầu lục đồ ăn. “Hai tàu chiến của người Shu neo đậu ở cảng.” Nina ném một cái kẹp tóc vào Jesper. “Tôi đang bắt họ đoán mà.” “Người Shu sao?” Kuwei hỏi lại. Cậu bé quay về chỗ mấy cuốn sổ đang mở rộng trên bàn. Nina gật đầu. “Đại bác giương cao, cờ đỏ phấp phới.” “Ban nãy tôi đã nói chuyện với Specht,” Kaz cho biết. “Các toà đại sứ đầy ắp quan chức ngoại giao và binh lính. Người Zemeni, Kaelish, Ravka.” “Anh có nghĩ họ đã hay tin về Kuwei không?” Jesper hỏi. “Tôi nghĩ họ đã hay tin về parem,” Kaz đáp. “Tin đồn, chí ít là thế. Và có nhiều đôi tai tò mò ở Lâu Đài Băng đã nghe được lời đồn đại về vụ giải thoát… Kuwei.” Kaz quay sang phía Matthias. “Người Fjerda cũng có mặt. Họ mang theo cả một đội drüskelle.” Kuwei thở dài não nuột. Jesper bèn ngồi xuống bên cạnh, huých nhẹ một cái vào vai cậu ta. “Bị săn lùng chẳng phải rất thú vị hay sao?” Matthias không nói gì. Anh không muốn nghĩ đến chuyện bạn bè và chỉ huy cũ của mình có thể đang ở cách nơi này chỉ vài dặm. Anh không ân hận sau những gì mình đã làm ở Lâu Đài Băng, nhưng điều đó không có nghĩa rằng anh đã hoà giải với họ. Wylan với tay lấy một trong những cái bánh quy mà Jesper để trên bàn. Sự hiện diện ở cùng một nơi của cậu thiếu gia và Kuwei vẫn còn làm người khác bối rối. Nina đã chỉnh sửa diện mạo của Wylan quá thành công, đến nỗi Matthias thường xuyên gặp khó khăn trong việc phân biệt hai người nếu họ không lên tiếng. Anh ước gì một trong hai người làm cho chuyện đó trở nên dễ dàng hơn bằng cách đội một cái mũ. “Như thế này càng tốt cho chúng ta,” Kaz đáp. “Người Shu và người Fjerda không biết phải bắt đầu tìm kiếm Kuwei ở đâu, và những rắc rối do các phái đoàn ngoại giao ở Toà thị chính sẽ làm Van Eck bị sao nhãng.” “Tình hình ở văn phòng Smeet thế nào?” Nina hỏi. “Hai người có phát hiện ra Van Eck đang giữ Inej ở đâu không?” “Tôi đã có một ý tưởng khá rõ ràng, chúng ta sẽ hành động ngay đêm mai.” “Chúng ta có đủ thời gian để chuẩn bị không vậy?” Wylan hỏi lại. “Ta chỉ có bấy nhiêu thời gian thôi. Không thể ngồi đợi người ta gửi thư mời được đâu. Vụ mọt hạt cậu làm đến đâu rồi?” Jesper nhướn mày. “Mọt hạt?” Wylan lôi từ trong áo ra một cái lọ nhỏ và đặt xuống bàn. Matthias cúi xuống quan sát cái lọ. Trông nó giống như một nhúm sỏi nhỏ. “Đây là mọt hạt sao?” Anh cứ tưởng đó là một loại côn trùng hay tấn công các kho ngũ cốc. “Không phải mọt thật đâu,” Wylan đáp. “Đây là mọt hoá chất. Nó còn chưa được đặt tên.” “Cậu phải đặt tên cho nó đi chứ,” Jesper nói. “Chứ không thì cậu sẽ gọi nó vào bàn bằng cách nào?” “Thôi quên chuyện đó đi,” Kaz nói. “Quan trọng là cái lọ này sẽ ăn sạch các tài khoản ngân hàng lẫn danh tiếng của Van Eck.” Wylan hắng giọng. “Cũng chưa chắc. Hoá học vốn phức tạp lắm. Tôi hi vọng Kuwei sẽ hỗ trợ tôi.” Nina nói gì đó với Kuwei bằng tiếng Shu. Cậu bé nhún vai và quay mặt đi, môi khẽ trề ra. Không rõ vì cái chết của cha hay vì bị kẹt trên một hòn đảo nghĩa địa với một băng trộm, Kuwei mấy hôm nay sưng sỉa thấy rõ. “Sao rồi?” Jesper trêu chọc. “Tôi có những mối quan tâm khác,” Kuwei đáp. Ánh mắt Kaz găm thẳng vào Kuwei như hai mũi phi tiêu. “Tôi yêu cầu cậu xem xét lại các mối quan tâm của mình.” Jesper huých nhẹ Kuwei cái nữa. “Đó là cách nói của Kaz để ám chỉ rằng ‘Cậu phải giúp Wylan nếu không tôi sẽ ấn cậu xuống một trong những lỗ huyệt ở đây để xem lúc đó cậu quan tâm chuyện gì nhất’ đấy.” Matthias không rõ cậu bé người Shu có nghe được hết hay không, nhưng rõ ràng Kuwei đã hiểu. Cậu ta nuốt khan và miễn cưỡng gật đầu. “Sức mạnh của thương thuyết,” Jesper thốt lên, rồi tọng một cái bánh quy vào miệng. “Wylan cùng với Kuwei sẽ lo vụ mọt hạt,” Kaz nói tiếp. “Một khi đã có Inej, chúng ta sẽ tấn công các xi-lô của Van Eck.” Nina đảo mắt. “Hoá ra tất cả chuyện này cũng chỉ vì lấy lại tiền chứ không phải vì Inej. Rõ ràng là thế.” “Nếu tiền làm cô khó chịu, Nina à, thì cô hãy gọi nó bằng cái tên khác.” “Kruge được không? Hay là vỏ hến? Hay là tấm chân tình của Kaz?” “Tự do, an toàn, sự thừa nhận.” “Những thứ đó không có giá.” “Không à? Tôi dám cá với Jesper thì chúng có một cái giá cụ thể đấy. Nông trại của bố cậu ta.” Jesper cụp mắt nhìn xuống chân. “Thế còn cậu, Wylan?” Kaz nói tiếp. “Cậu có cái giá nào cho cơ hội được rời khỏi Ketterdam và sống cuộc đời của mình hay không? Còn Nina, tôi nghĩ cô và anh chàng Fjerda của cô cần nhiều thứ để sinh tồn hơn là lòng yêu nước và những cái liếc mắt đưa tình. Inej có lẽ cũng đã có một con số trong đầu. Đó là cái giá của tương lai, và giờ đã đến lúc Van Eck phải trả.” Matthias không dễ bị loè. Kaz luôn nói chuyện lí lẽ, nhưng không đồng nghĩa cậu ta luôn nói thật. “Mạng sống của Bóng Ma có giá trị hơn thế,” Matthias nói. “Đối với tất cả chúng ta.” “Chúng ta sẽ giành lại Inej. Chúng ta sẽ lấy lại tiền. Đơn giản là thế.” “Đơn giản quá nhỉ,” Nina vặc lại. “Anh có biết tôi là người kế tiếp trong danh sách kế vị ngai vàng của Fjerda không? Họ gọi tôi là Công nương đảo Engelsberg đấy.” “Làm gì có công nương đảo Engelsberg,” Matthias phản bác. “Nó chỉ là một làng chài.” Nina nhún vai. “Nếu đã lừa dối nhau thì dối cho trót.” Kaz phớt lờ Nina và trải tấm bản đồ Ketterdam lên bàn. Matthias nghe thấy Wylan thì thào với Jesper: “Sao anh ta không nói thẳng là muốn có lại chị ấy cho nhanh nhỉ?” “Chúng ta có đang nói về cùng một Kaz không đấy?” “Nhưng Inej là một người trong nhóm chúng ta.” Jesper lại nhướng mày. “Một người trong chúng ta? Như vậy có đồng nghĩa cô ấy biết về cái bắt tay bí mật không? Có đồng nghĩa cậu sẵn sàng nhận một hình xăm không?” Jesper lướt nhẹ một ngón tay trên cẳng tay của Wylan, khiến cậu ta đỏ bừng mặt. Matthias bất giác thấy đồng cảm với cậu nhóc. Anh biết cảm giác ngỡ ngàng là như thế nào, và đôi khi anh tự hỏi liệu họ có thể bỏ hết kế hoạch của Kaz đi rồi để Jesper và Nina tán tỉnh toàn bộ thành Ketterdam quy phục dưới chân mình hay không. Wylan bất giác kéo ống tay áo xuống. “Inej là một phần của nhóm.” “Đừng có đụng tới chuyện đó.” “Tại sao?” “Bởi vì thuận tiện nhất với Kaz là rao bán Kuwei với giá cao nhất và quên phắt Inej đi.” “Anh ta sẽ không…” Wylan bỏ lửng câu nói, sự nghi ngờ bắt đầu dâng lên trong lòng. Không ai trong số họ thực sự biết Kaz sẽ làm gì hoặc không làm gì. Đôi khi Matthias tự hỏi ngay chính Kaz có chắc chắn về chuyện mình sắp làm hay không. “Thôi được rồi, Kaz,” Nina vừa nói vừa tháo giày và co duỗi các ngón chân, “vì đây là một kế hoạch tham vọng, sao anh không ngừng nghiền ngẫm cái bản đồ đó và cho mọi người biết mục tiêu đi.” “Tôi muốn mọi người tập trung vào những gì chúng ta phải làm vào đêm mai. Sau đó, mọi người sẽ có mọi thông tin mình muốn.” “Thật à?” Nina hỏi trong lúc chỉnh lại áo ngực. Phấn của một bông hoa diên vĩ rơi xuống bờ vai trần của cô. Matthias chỉ muốn dùng môi phủi sạch nó. Nó có thể có độc, anh nghiêm khắc tự nhắc mình. Có lẽ anh nên đi dạo một chút. “Van Eck đã hứa trả cho chúng ta ba mươi triệu kruge,” Kaz nói. “Đó chính xác là thứ chúng ta sẽ lấy. Cộng thêm một triệu cho phần lãi và chi phí. Bởi vì chúng ta có thể.” Wylan bẻ đôi một cái bánh quy. “Cha tôi không có sẵn ba mươi triệu kruge đâu. Cho dù có trộm hết toàn bộ của cải của ông ta, anh cũng không đạt tới con số đó được.” “Vậy thì cậu biến đi,” Jesper nói. “Chúng tôi chỉ hợp tác với những kẻ bị tước quyền thừa kế các di sản ngon lành nhất.” Kaz duỗi cái chân yếu, hơi cong bàn chân lại. “Nếu Van Eck có số tiền đó trong tay thì chúng ta đã cướp trực tiếp từ lão thay vì đột nhập Lâu Đài Băng. Van Eck chỉ có thể hứa khoản thưởng lớn như vậy nhờ tuyên bố rằng Hội đồng Thương buôn sẽ dùng tiền của chính phủ cho chuyện này.” “Thế còn cái rương đầy ắp tiền mà ông ta đã đem tới Vellgeluk?” Jesper hỏi. “Rác rưởi,” Kaz đáp với giọng ghê tởm. “Chắc là tiền giả chất lượng cao.” “Vậy chúng ta sẽ lấy tiền bằng cách nào? Cướp của chính phủ? Cướp của Hội đồng?” Jesper ngồi thẳng người lại, hào hứng nhịp nhịp tay trên bàn. “Hay là cướp mười hai kho bạc trong một đêm?” Wylan cựa quậy trên ghế, và Matthias có thể thấy sự bất an trong biểu hiện của cậu ta. Ít nhất trong băng nhóm đạo tặc này cũng còn một người nữa không muốn tiếp tục phạm tội. “Không,” Kaz đáp. “Chúng ta sẽ tiến hành như các thương nhân và để cho thị trường làm nốt công việc.” Nói đoạn Kaz ngả người ra sau, bàn tay đeo găng đặt trên cái đầu quạ của cây gậy chống. “Chúng ta sẽ cuỗm tiền của Van Eck, và cuỗm luôn danh tiếng của lão ta. Chúng ta sẽ khiến cho lão ta không bao giờ có thể làm ăn kinh doanh gì được tại Ketterdam hay Kerch nữa.” “Rồi chuyện gì sẽ xảy ra với Kuwei?” Nina hỏi. “Sau khi xong việc của chúng ta, Kuwei và bất kì người nào khác với cái đầu bị treo giải, từ phạm nhân vượt ngục, Grisha cho tới thiếu gia bị truất quyền thừa kế, tất cả đều có thể ẩn náu ở các Thuộc địa phương Nam.” Jesper nhíu mày. “Thế anh sẽ đi đâu?” “Không đi đâu cả. Tôi vẫn còn hàng đống công việc cần chú trọng tại đây.” Mặc dù Kaz nói dễ như không, Matthias vẫn nghe ra dự cảm đen tối trong đó. Anh thường tự hỏi làm thế nào người ta sống sót trong cái thành này, nhưng có lẽ Ketterdam mới là thứ không sống sót nổi nếu thiếu Kaz Brekker. “Khoan,” Nina nói. “Tôi tưởng Kuwei định đi Ravka.” “Sao cô lại nghĩ như vậy?” “Khi anh bán phần hùn trong Quạ Đen cho Pekka Rollins, anh đã nhờ ông ta gửi một thông điệp cho Ravka. Tất cả chúng tôi đều nghe thấy điều đó.” “Tôi tưởng đó là lời kêu gọi giúp đỡ,” Matthias nói, “không phải là một lời mời đấu giá.” Họ chưa bao giờ bàn bạc về việc giao Kuwei cho phía Ravka. Kaz nhìn cả nhóm với vẻ mặt thích thú. “Cả hai đều không. Hãy hi vọng rằng Rollins cũng khờ khạo như các cậu.” “Hoá ra là tung hoả mù,” Nina rên lên. “Anh chỉ muốn giữ cho Rollins bận rộn.” “Tôi không muốn để Pekka Rollins rảnh rang. Hi vọng lão sẽ cử người đi truy lùng các đầu mối liên lạc của chúng ta bên Ravka. Và chúng sẽ khó lòng tìm ra, vì bọn họ không hề tồn tại.” Kuwei hắng giọng. “Tôi thích đi Ravka hơn.” “Còn tôi thì thích một cái quần bơi có viền lông thú,” Jesper nói. “Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng có được thứ mình muốn.” Một cái nhíu mày xuất hiện trên khuôn mặt Kuwei. Giới hạn vốn liếng tiếng Kerch của cậu ta có lẽ đã bị vượt qua. “Tôi thích đi Ravka hơn,” Kuwei nhắc lại với giọng cương quyết hơn. Ánh mắt đen kịt của Kaz lại găm vào cậu ta và giữ ở đó. Kuwei lúng túng ra mặt. “Tại sao anh ta lại nhìn tôi như thế?” “Kaz đang tự hỏi liệu có nên giữ gìn mạng sống cho cậu hay không,” Jesper đáp. “Căng thẳng thần kinh lắm đấy. Tôi khuyên cậu hít thở sâu vào. Hay là uống chút gì đi.” “Jesper, thôi đi,” Wylan lên tiếng. “Cả hai cậu cần bình tĩnh lại.” Jesper vỗ nhẹ lên bàn tay của Kuwei. “Chúng tôi sẽ không để cho Kaz chôn sống cậu.” Kaz nhướng mày. “Đừng có hứa vội.” “Coi nào, Kaz. Chúng ta bỏ bao nhiêu công sức giải thoát Kuwei đâu phải để đem cậu ta làm mồi cho giun?” “Sao cậu lại muốn tới Ravka?” Nina hỏi Kuwei, cô không thể che giấu sự hào hứng trong giọng nói. “Chúng ta chưa hề nhất trí chuyện đó,” Matthias cắt ngang. Anh không muốn tranh cãi, nhất là với Nina. Họ nên để cho Kuwei sống một cuộc đời vô danh tiểu tốt ở Novyi Zem, thay vì dâng cậu ta cho kẻ thù lớn nhất của Fjerda. Nina nhún vai. “Có lẽ chúng ta nên cân nhắc lại các lựa chọn của mình.” Kuwei nói một cách chậm rãi, cẩn thận lựa chọn từ ngữ. “Ở đó an toàn hơn. Đối với các Grisha. Đối với tôi. Tôi không muốn lẩn trốn. Tôi muốn rèn luyện.” Cậu bé cầm mấy quyển sổ trước mặt. “Công trình của cha tôi có thể giúp tìm ra…” Kuwei ngần ngừ và nói vài từ với Nina. “Một loại thuốc giải cho parem.” Nina chắp hai tay lại với nhau, mặt sáng lên. Jesper ngửa người ra sau nhiều hơn trên chiếc ghế. “Tôi đoán Nina sắp sửa cất giọng hát không chừng.” Một loại thuốc giải. Có phải đó là những gì Kuwei đã ghi trong sổ không? Viễn cảnh tìm ra thứ gì đó có thể vô hiệu hoá sức mạnh của parem thật hấp dẫn, nhưng Matthias chợt cảm thấy run sợ. “Nếu phát hiện này rơi vào tay một quốc gia thì…’’Anh lên tiếng. Nhưng anh đã bị Kuwei cắt ngang. “Cha tôi đã sáng chế ra loại thuốc này. Cho dù có tôi hay không thì nó cũng sẽ được sản xuất trở lại.” “Ý cậu là ai đó sẽ giải được câu đố về parem?” Matthias hỏi lại. Thực sự không có hi vọng nào ngăn cản được thứ ma dược kinh khủng này hay sao? “Những phát minh khoa học đôi khi vẫn giống như thế,” Wylan nói. “Một khi người ta đã biết một hướng đi nào đó là có thể, các phát hiện mới sẽ xuất hiện thường xuyên hơn. Sau đó thì chẳng khác nào cố lùa một đàn ong vò vẽ vào trong tổ trở lại.” “Cậu có thực sự nghĩ một loại thuốc giải có thể được tạo ra hay không?” Nina hỏi. “Tôi không biết,” Kuwei đáp. “Cha tôi là một Sáng Chế Gia. Tôi chỉ là Tiết Hoả Sư.” “Cậu là nhà hoá học của chúng tôi, Wylan,” Nina nói với giọng khấp khởi hi vọng. “Cậu nghĩ sao?” “Có thể lắm.” Wylan nhún vai. “Nhưng không phải độc dược nào cũng có thuốc giải.” Jesper khịt mũi. “Đó là lí do chúng ta gọi cậu ta là Wylan Van Lạc Quan.” “Ở Ravka, có nhiều Sáng Chế Gia tài năng hơn,” Kuwei nói. “Họ có thể giúp tôi.” Nina gật gù hưởng ứng. “Đúng đấy. Genya Safin rành về độc dược hơn bất kì ai, và David Kostyk đã làm ra đủ loại vũ khí mới cho vua Nikolai.” Cô liếc nhìn Matthias. “Cùng với những thứ khác! Những thứ đẹp đẽ. Rất ôn hoà!” Matthias lắc đầu. “Chúng ta không nên hấp tấp trong chuyện này.” Kuwei dẩu môi. “Tôi thích đi Ravka hơn.” “Thấy chưa?” Nina nói. “Không, tôi chẳng thấy gì cả,” Matthias đáp. “Chúng ta không thể trao một chiến lợi phẩm như thế này cho phía Ravka được.” “Cậu ta là một con người, không phải chiến lợi phẩm, và cậu ta muốn đi.” “Hoá ra bây giờ mọi người chúng ta đều được làm những điều mình muốn à?” Jesper thốt lên. “Tại vì tôi đang có hẳn một danh sách đây.” Tiếp đó là một khoảng lặng kéo dài và căng thẳng. Kaz lướt ngón tay cái đeo găng trên nếp quần và lên tiếng: “Nina, cô dịch giúp tôi nhé? Tôi muốn bảo đảm Kuwei và tôi hiểu nhau.” “Kaz…” Nina nói với giọng cảnh cáo. Kaz nghiêng người tới trước và đặt hai bàn tay lên đầu gối Kuwei, giống như kiểu một người anh trai đưa ra lời khuyên chân thành cho cậu em. “Tôi nghĩ điều quan trọng là cậu hiểu được những thay đổi trong tình hình hiện tại. Van Eck thừa biết nơi đầu tiên mà cậu muốn ẩn náu là Ravka, do vậy mọi con thuyền đi tới đó sẽ đều bị lục soát từ trên xuống dưới. Thợ May đủ năng lực làm thay đổi diện mạo của cậu thì đều ở Ravka, trừ phi Nina muốn dùng một liều parem nữa.” Matthias lầm bầm phản dối. “Một khả năng rất khó xảy ra,” Kaz nhượng bộ. “Bây giờ thế này, hay là tôi trả cậu về Fierda hoặc Shu Han?” Nina vừa dịch xong thì Kuwei cũng ré lên: “Không!” “Vậy thì lựa chọn của cậu là Novyi Zem và các Thuộc địa phương Nam, nhưng sự hiện diện của người Kerch tại các Thuộc địa ít hơn nhiều. Cậu là một bức hoạ bị đánh cắp. Quá dễ nhận diện để có thể được bán công khai trên thị trường, nhưng quá giá trị để bị bỏ xó. Cậu chẳng có giá trị gì đối với tôi.” “Tôi sẽ không dịch câu đó,” Nina phản đối. “Vậy thì dịch câu này: Mối quan tâm duy nhất của tôi là giữ cho cậu ngoài tầm tay của Jan Van Eck, và nếu cậu muốn tôi tìm kiếm thêm những khả năng khác thì một viên đạn sẽ rẻ hơn rất nhiều so với việc đưa cậu lên một chuyến tàu đi tới các Thuộc địa phương Nam.” Nina dịch hết câu, dù miễn cưỡng. Kuwei đáp bằng tiếng Shu. Nina ngần ngừ trước khi dịch: “Cậu ấy nói anh thật tàn nhẫn.” “Tôi thực dụng. Nếu là người tàn nhẫn thì tôi đã cho cậu ta một bài điếu văn thay vì cuộc nói chuyện này. Thế nên, Kuwei ạ, cậu sẽ đi tới Thuộc địa phương Nam, và khi căng thẳng lắng xuống, cậu có tìm đường đến Ravka hay nhà bà nội của Matthias, tôi cũng mặc.” “Đừng có lôi bà tôi vào,” Matthias phản đối. Nina dịch lại câu nói của Kaz, và rốt cuộc Kuwei cũng gật đầu đồng ý. Mặc dù Matthias đã được toại nguyện, sự thất vọng trên khuôn mặt Nina vẫn để lại trong lòng anh một cảm giác hụt hẫng. Kaz xem đồng hồ. “Giờ thì chúng ta đã nhất trí, tất cả đều đã biết trách nhiệm của mình là gì. Nhiều thứ có thể bị làm hỏng trong khoảng thời gian từ nay đến đêm mai, do vậy hãy lật lại kế hoạch và bàn bạc một lần nữa. Chúng ta chỉ có một cơ hội để thực hiện nó.” “Van Eck sẽ thiết lập một vòng rào. Ông ta sẽ cử rất nhiều vệ quân để canh chừng cô ấy,” Matthias nói. “Đúng vậy. Van Eck có nhiều súng ống, vệ quân và nhiều nguồn lực hơn. Tất cả những gì ta có là sự bất ngờ, và chúng ta sẽ không phung phí nó.” Một tiếng loạt soạt bỗng vang lên từ phía bên ngoài. Mọi người lập tức bật dậy, kể cả Kuwei. Nhưng chỉ giây lát sau, Rotty và Specht đã tiến vào trong nhà mồ. Matthias thở phào và trả cây súng về chỗ cũ, trong tầm tay của anh. “Công việc thế nào?” Kaz hỏi. “Người Shu đã bày binh bố trận trong đại sứ quán của họ,” Specht đáp. “Tất cả mọi người ở Lid đều kháo nhau về chuyện đó.” “Số lượng ra sao?” “Bốn chục, khoảng đó,” Rotty vừa đáp vừa giũ bùn bám trên ủng. “Vũ trang tận răng, nhưng vẫn hành động dưới lá cờ ngoại giao. Không ai biết chính xác bọn họ muốn gì.” “Chúng ta biết,” Jesper đáp. “Tôi không tiếp cận quá gần Thanh Gỗ,” Rotty nói, “nhưng Per Haskell đang rất căng và bộc lộ hẳn chuyện đó ra ngoài. Không có cậu, công việc chồng chất lên vai ông ta. Hiện nay có tin đồn rằng cậu đã quay về và đang hục hặc với một thương gia. À, cách đây vài ngày đã xảy ra một vụ đột kích ở một bến cảng, vài thuỷ thủ bị giết chết, văn phòng cảng vụ đổ nát tan hoang, nhưng không ai nắm được chi tiết về cuộc tấn công.” Matthias thấy khuôn mặt Kaz sa sầm vì thiếu thông tin. Anh biết gã demjin này có những lí do khác để đi cứu Inej, nhưng sự thật là không có cô, khả năng dò la nghe ngóng của họ bị sứt mẻ đáng kể. “Được rồi,” Kaz lên tiếng. “Nhưng không ai liên hệ chúng ta với vụ nổi loạn ở Lâu Đài Băng hay với parem à?” “Theo tôi biết thì không,” Rotty đáp. “Không hề,” Specht đế thêm. Wylan tỏ ra ngạc nhiên. “Như vậy có nghĩa là Pekka Rollins đã giữ kín chuyện đó.” “Cứ chờ mà xem,” Kaz nói. “Lão ta biết chúng ta đang giấu Kuwei ở đâu đó. Lá thư gửi cho Ravka chỉ làm lão mất một chút thời gian bỏ mồi bắt bóng.” Jesper căng thẳng nhịp nhịp ngón tay trên đùi. “Có ai nhận ra nguyên cả cái thành này hoặc đang truy lùng, hoặc đang điên tiết với chúng ta, hoặc muốn giết chết chúng ta không?” “Thì đã sao?” Kaz hỏi lại. “Ờ, thường thì chỉ có khoảng nửa thành phố làm chuyện đó thôi.” Có lẽ Jesper chỉ nói đùa, nhưng Matthias tự hỏi liệu có ai trong số họ thực sự nắm được những thế lực đang chống lại họ hay không. Fjerda, Shu Han, Novyi Zem, Đảo Wandering, Kerch. Đó không phải là những băng đảng cạnh tranh hay những đối tác bất mãn. Đó là các quốc gia luôn sẵn sàng bảo vệ người của mình và cùng với đó là vận mệnh tương lai. “Còn nữa,” Specht nói. “Matthias, cậu đã chết.” “Gì cơ?” Anh hỏi lại. Tiếng Kerch của anh khá tốt, nhưng chắc có lỗ hổng nào đó ở đây. “Anh đã qua đời trong trạm xá của cổng Địa Ngục.” Không khí bỗng chùng lại. Jesper buông người ngồi xuống. “Muzzen qua đời rồi ư?” “Muzzen?” Matthias không nhớ mình đã từng nghe cái tên này ở đâu. “Anh ta đã thế chỗ anh ở cổng Địa Ngục,” Jesper đáp. “Để anh có thể tham gia phi vụ Lâu Đài Băng.” Matthias hồi tưởng lại trận đấu với bầy sói, hình ảnh Nina đứng trong phòng giam, và cuộc phá ngục. Nina đã tạo ra các vết thương giả trên cơ thể của một thành viên băng Cặn Bã rồi làm anh ta lên cơn sốt để bảo đảm anh ta bị cách li với các phạm nhân khác. Muzzen. Lẽ ra anh không nên quên một sự kiện như thế. “Tôi tưởng anh đã nói là anh có người trong trạm xá,” Nina thốt lên. “Để giữ cho Muzzen bị bệnh, chứ không phải để giữ an toàn,” khuôn mặt Kaz trở nên dữ tợn. “Đây là một đòn triệt hạ.” “Người Fjerda,” Nina nói. Matthias khoanh tay trước ngực. “Không thể nào.” “Tại sao không chứ?” Nina vặc lại. “Chúng ta biết các drüskelle đang ở đây. Nếu họ đi tìm anh và gây sự ở Toà thị chính, họ chắc đã được bảo rằng anh đang ở Cổng Địa Ngục.” “Không đâu,” Matthias đáp. “Họ không chơi bẩn như thế. Thuê sát thủ ư? Ám sát một người đang nằm trên giường bệnh ư?” Nhưng cho dù nói ra như vậy, Matthias cũng không mấy tin tưởng vào suy nghĩ của mình. Jarl Brum và các thuộc cấp của mình đã từng làm những chuyện tồi tệ hơn nhiều mà không mảy may cắn rứt. “Bự con, tóc vàng, và mù quáng,” Jesper thốt lên. “Đúng kiểu Fjerda.” Anh ấy đã chết thay vị trí của mình, Matthias thầm nghĩ. Trong khi mình thậm chí không nhận ra tên của anh ấy. “Muzzen có gia đình không?” Cuối cùng Matthias hỏi. “Chỉ có người trong băng Cặn Bã,” Kaz đáp. “Không đổ lệ” Nina thì thầm. “Không quan tài,” Matthias khẽ lặp lại. “Chết cho cảm giác như thế nào nhỉ?” Jesper thắc mắc. Sự vui vẻ đã tắt ngấm trong đôi mắt anh chàng thiện xạ. Matthias không có câu trả lời. Nhát dao đoạt mạng Muzzen đáng lẽ dành cho anh, và người Fjerda có thể là thủ phạm. Drüskelle. Những người anh em của anh. Họ muốn anh chết không nhắm mắt, bị sát hại trên giường bệnh. Đó là cái chết dành cho kẻ phản bội. Cái chết mà anh tự chuốc lấy. Giờ đây anh nợ Muzzen ơn cứu mạng, nhưng làm sao anh trả được cái ơn này? “Họ sẽ làm gì với thi thể của anh ấy?” Anh hỏi. “Rất có thể nó đã ra tro trên đảo Tử Thần,” Kaz đáp. “Còn chuyện này nữa,” Rotty cho biết. “Có một người đã gây chú ý khi đi tìm Jesper.” “Các chủ nợ của cậu ta phải chờ thôi,” Kaz nói, và Jesper nháy mắt. “Không đâu,” Rotty lắc đầu. “Một người đàn ông đã tìm đến trường đại học. Jesper à, ông ấy tự nhận là bố cậu.” 4 INEJ I nej trườn sấp, hai cánh tay duỗi dài trước mặt, uốn éo như một con sâu trong bóng tối. Mặc dù đã nhịn đói, ống thông gió vẫn rất chật hẹp với Inej. Cô không thể quan sát được gì, chỉ biết tiếp tục tiến tới trước nhờ lực kéo của các đầu ngón tay. Inej hồi tỉnh ít lâu sau trận đối đầu tại Vellgeluk, hoàn toàn không biết cô đã ngất đi được bao nhiêu thời gian, và cũng không rõ mình đang ở đâu. Cô nhớ mình đã rơi xuống từ trên cao khi một trong các Tiết Khí Sư của Van Eck buông tay, trước khi bị chụp lấy bởi một Tiết Khí Sư khác, với đôi tay như hai dải thép thít chặt quanh cô. Gió quất vào mặt cô, bầu trời xám xịt đảo lộn, và cơn đau bùng nổ trong hộp sọ cô. Điều tiếp theo mà Inej nhớ được là cô tỉnh lại trong bóng tối, đầu nhức như búa bổ. Cô bị trói chặt tay chân và có thể cảm thấy một cái băng bịt mắt thít chặt trên mặt. Trong một thoáng, cô lại là đứa con gái mười bốn tuổi bị quẳng lên con tàu chở nô lệ, hoảng hốt và đơn độc. Cô cố buộc mình hít thở. Bất luận đang ở chỗ nào, cô cũng không cảm thấy sự tròng trành của con thuyền, không nghe thấy tiếng kẽo kẹt của các cánh buồm. Mặt đất vững chãi bên dưới cô. Van Eck đã đưa cô đi đâu? Có lẽ cô đang ở trong một nhà kho, hoặc nhà của một ai đó. Có lẽ cô đã không còn ở Kerch nữa. Không sao. Cô là Inej Ghafa, và cô sẽ không run sợ như một con thỏ mắc bẫy. Dù đang ở nơi nào thì mình cũng sẽ thoát thân. Inej tụt được dải băng bịt mắt nhờ cạ mặt vào tường. Căn phòng tối đen như mực, và tất cả những gì cô nghe được trong thinh lặng chỉ là hơi thở dồn dập của chính mình khi nỗi kinh hoàng trùm lên cô một lần nữa. Cô trấn áp nó bằng cách kiểm soát hơi thở. Hít vào bằng mũi, thở ra qua miệng, và để cho tâm trí cầu nguyện trong khi các vị thánh tập hợp quanh cô. Inej hình dung các vị thánh kiểm tra sợi dây trói cổ tay và thổi sức sống vào đôi bàn tay của cô. Inej không dặn mình đừng sợ hãi. Lâu lắm rồi, sau một cú ngã nặng, bố của Inej đã giải thích với cô rằng chỉ có những kẻ ngu ngốc mới không sợ hãi. Chúng ta đối diện với nỗi sợ, ông đã nói như thế. Chúng ta đón vị khách không mời đó và lắng nghe những gì nó nói với mình. Khi nỗi sợ xuất hiện, một điều gì đó sẽ xảy ra. Inej chủ ý muốn điều gì đó xảy ra. Cô mặc kệ cơn đau trong đầu và buộc cơ thể nhích từng chút quanh phòng, ước tính kích thước của nó. Rồi cô tựa vào tường để đứng dậy và mò mẫm dọc theo tường, hết lê chân lại nhảy lên, tìm kiếm bất kì cánh cửa hay cửa sổ nào. Khi nghe thấy tiếng chân người tiến lại, cô nằm lăn ra đất, nhưng không kịp đeo lại dải băng bịt mắt. Kể từ đó, đám vệ quân buộc nó chặt hơn. Nhưng chẳng sao, vì cô đã phát hiện ra lỗ thông gió. Tất cả những gì cô cần là một cách thoát khỏi sợi dây trói. Kaz có thể làm được điều đó trong bóng tối, thậm chí ở dưới nước. Cô chỉ quan sát được toàn cảnh căn phòng trong các bữa ăn, khi họ đưa một ngọn đèn lồng vào. Khi đó cô sẽ nghe thấy tiếng những chiếc chìa xoay trong một loạt ổ khoá, cánh cửa bật mở, và một cái khay được đặt lên bàn. Giây lát sau, băng bịt mắt sẽ được nhẹ nhàng gỡ ra — Bajan không bao giờ làm thô bạo hoặc đột ngột. Bản chất anh không thô lậu như thế. Thật ra, Inej còn nghĩ điều đó nằm ngoài khả năng của đôi bàn tay nhạc công được chăm chút tỉ mỉ mà anh sở hữu. Trên khay không có dao dĩa, tất nhiên rồi. Van Eck đủ khôn ngoan để chỉ cung cấp cho cô một chiếc muỗng, nhưng Inej cũng tranh thủ mọi khoảnh khắc được tháo băng bịt mắt để nghiên cứu từng centimet của căn phòng trống trải, tìm những manh mối giúp cô đánh giá tình hình và lên kế hoạch trốn thoát. Cũng không có gì nhiều - trên mặt sàn bê tông chẳng có gì ngoài đống chăn mền họ cung cấp để cô rúc vào mỗi đêm, dọc theo các vách tường là những hàng kệ trống trơn, cái bàn và chiếc ghế nơi cô ngồi ăn. Trong phòng không có cửa sổ, manh mối duy nhất giúp cô biết mình vẫn đang ở gần Ketterdam là hơi muối trong không khí. Bajan luôn tháo sợi dây thừng ở cổ tay Inej rồi đưa hai cánh tay cô ra phía trước và trói lại để cô có thể ăn - mặc dù sau khi khám phá ra lỗ thông gió, cô chỉ ăn rất ít, đủ để duy trì sức lực. Tuy vậy, khi Bajan cùng các vệ quân mang khay thức ăn vào cho cô tối nay, dạ dày cô sôi réo òng ọc trước mùi xúc xích mềm và cháo yến mạch. Hoa mắt vì đói, trong lúc cố gắng ngồi vào bàn, Inej đã làm cái khay trượt khỏi vị trí, khiến chiếc bát sứ trắng và cái ca vỡ tan. Bữa tối của cô đổ ụp xuống sàn nhà, tạo thành một đống hỗn độn giữa món cháo nóng và những mảnh sứ. Cô ngã thịch xuống ngay bên cạnh, kịp tránh để mặt không bị dính cháo. Bajan lắc lắc mái tóc đen bóng. “Cô yếu sức vì không chịu ăn đấy. Ngài Van Eck đã bảo tôi phải ép cô ăn nếu cần thiết.” “Cứ thử mà xem,” Inej ngước mắt lên nhìn anh chàng từ dưới sàn nhà, răng nhe ra. “Anh sẽ không còn ngón tay nào để chơi dương cầm đầu.” Nhưng Bajan chỉ bật cười, khoe hàm răng trắng lấp lánh. Anh cùng một vệ quân giúp Inej ngồi lên ghế, trước khi gọi một khay thức ăn khác. Van Eck không thể chọn một quản ngục tốt hơn thế. Bajan là một thanh niên người Suli chỉ nhỉnh hơn Inej vài tuổi, với mái tóc đen loăn xoăn dài chấm cổ và đôi mắt lấp lánh được viền bởi hàng mi đủ dài để xua ruồi nhặng. Theo lời kể của Bajan thì anh là một gia sư dạy nhạc theo giao kèo cho nhà Van Eck. Inej tự hỏi vì sao Van Eck lại đưa một thanh niên như thế vào làm thuê trong nhà khi mà cô vợ lẽ chỉ chưa đầy một nửa số tuổi của ông ta. Van Eck hoặc là rất tự tin, hoặc vô cùng xuẩn ngốc. Ông ta đã qua mặt Kaz, cô tự nhắc mình. Khả năng cao là ông ta xuẩn ngốc. Sau khi đống hổ lốn được dọn dẹp - bởi một vệ quân, vì Bajan không hạ mình làm những công việc như thế - và một bữa ăn mới được đưa tới, anh dựa người vào tường quan sát cô ăn. Inej nhón lấy một cục cháo đặc, cô chỉ cho phép mình nhai trệu trạo vài miếng. “Cô phải ăn nhiều hơn,” Bajan quở trách. “Nếu cô tỏ ra ngoan ngoãn hơn và trả lời các câu hỏi của ông ta, cô sẽ thấy Van Eck là một người biết điều.” “Một kẻ biết dối trá, lọc lừa và bắt cóc thì có,” cô đáp, đoạn tự rủa mình vì đã đáp lại. Bajan không che giấu sự khoái trá của mình. Bữa ăn nào cũng thế, đã thành thông lệ, cô chỉ ăn rất ít trong lúc anh trò chuyện, thỉnh thoảng đưa vào vài câu hỏi về Kaz và băng Cặn Bã. Mỗi lần cô lên tiếng, anh coi đó là một thắng lợi. Xui thay, càng ăn ít cô càng yếu sức và khó giữ được sự cứng cỏi của mình. “Căn cứ theo những người mà cô giao du, tôi nghĩ dối trá sẽ mang lại lợi thế cho ngài Van Eck.” “Shevrati,” Inej đáp một cách rành rọt. Đồ không biết gì. Cô đã từng hơn một lần dùng chữ đó để nói về Kaz. Cô nghĩ tới Jesper đang chơi đùa với khẩu súng, nghĩ tới Nina đang kết liễu một người đàn ông chỉ bằng cú phẩy tay, tới Kaz đang phá khoá bằng đôi tay đeo găng của mình. Du đãng. Trộm cướp. Sát nhân. Nhưng tất cả bọn họ đều đáng giá hơn Jan Van Eck hàng ngàn lần. Vậy họ đang ở đâu? Câu hỏi đó khơi lại vài vết thương đã được vá víu vội vàng trong lòng cô. Kaz đâu rồi? Cô không muốn xem xét kĩ lưỡng câu hỏi đó. Trên hết thảy, Kaz là một người thực dụng. Việc gì anh phải tìm cô khi mà anh có thể bỏ đi cùng với con tin đắt giá nhất thế giới kia chứ? Bajan nhăn mũi. “Chúng ta đừng nói chuyện bằng tiếng Suli. Nó làm tôi mủi lòng.” Anh mặc một chiếc quần dài ống côn bằng lụa, cùng áo choàng có phom dáng thanh lịch. Cài trên ve áo là cây đàn lia bằng vàng trang trí với những chiếc lá nguyệt quế và một viên hồng ngọc nhỏ, tiết lộ cả về công việc lẫn gia chủ của anh. Inej biết cô không nên tiếp tục nói chuyện với Bajan, nhưng cô vẫn là một người chuyên thu thập các bí mật. “Anh dạy nhạc cụ gì?” Cô hỏi. “Đàn hạc à? Hay dương cầm?” “Cả sáo flute và dạy hát cho các quý cô nữa.” “Thế Alys Van Eck hát có hay không?” Bajan nở một nụ cười uể oải. “Hay nhất khi được tôi dạy. Tôi có thể dạy cô phát ra đủ loại âm thanh êm ái.” Inej đảo mắt. Anh ta cũng giống như những thằng con trai lớn lên cùng cô, với cái đầu đầy những thứ vô nghĩa và miệng đầy những lời đường mật. “Tôi đang bị trói và đối mặt với khả năng bị tra tấn hoặc tệ hơn thế. Anh đang tán tỉnh tôi thật sao?” Bajan chậc lưỡi. “Ngài Van Eck và cậu Brekker của cô sẽ đạt được một thoả thuận với nhau. Ngài Van Eck là một doanh nhân. Theo những gì tôi hiểu, ông ta chỉ đơn giản là bảo vệ những lợi ích của mình. Tôi không thể hình dung ông ta dùng đến nhục hình.” “Nếu là người bị trói chặt và bịt mắt hằng đêm, trí tưởng tượng của anh sẽ không quay lưng với anh một cách tuyệt đối như thế.” Và nếu Bajan biết chút gì về Kaz, anh ta sẽ không chắc chắn đến vậy về một cuộc đổi chác. Trong suốt những giờ phút đằng đẵng bị bỏ lại một mình, Inej cố gắng nghỉ ngơi và tập trung vào việc trốn thoát, nhưng những suy nghĩ của cô vẫn cứ quay về với Kaz cùng những người khác. Van Eck muốn đổi cô lấy Kuwei Yul-Bo, cậu bé người Shu mà họ đã giải thoát khỏi pháo đài đáng sợ nhất thế giới. Cậu ta là người duy nhất có hi vọng phục dựng công trình của cha mình xoay quanh một loại ma dược được biết đến với cái tên jurda parem, và mức tiền chuộc cậu ta có thể mang lại cho Kaz mọi thứ mà anh muốn — tất cả tiền tài và danh vọng mà anh cần để chiếm lấy một vị trí xứng đáng giữa các ông trùm của Barrel, cùng với nó là cơ hội trả thù Pekka Rollins cho cái chết của anh trai mình. Những dữ kiện lần lượt xếp thành hàng, cả một đạo quân những ngờ vực tập hợp chống lại mối hi họng mà cô đã cố duy trì trong lòng. Lộ trình của Kaz quá hiển nhiên rồi: đổi Kuwei lấy tiền chuộc, tìm cho mình một người nhện mới để leo lên những bức tường khu Barrel và đánh cắp các bí mật cho anh. Cô có nói với anh rằng cô định rời khỏi Ketterdam ngay khi nhận được tiền chưa nhỉ? Ở lại với anh đi. Liệu anh có nói thế không? Sinh mạng của cô có giá trị như thế nào so với món tiền mà Kuwei có thể mang lại? Nina sẽ không bao giờ để cho Kaz từ bỏ cô. Chị sẽ chiến đấu với tất cả những gì mình có để giải thoát cho cô, dù bản thân vẫn chưa thoát khỏi sự khống chế của parem. Matthias có thể ủng hộ Nina với trái tim trọng danh dự của anh. Và Jesper… hừm, Jesper không bao giờ làm cô đau, nhưng anh quá cần tiền, nếu không muốn cha mình mất kế sinh nhai. Anh sẽ cố gắng hết sức, nhưng điều đó không đồng nghĩa với một kết cục tốt nhất dành cho cô. Ngoài ra, không có Kaz, liệu ai trong số họ có thể là đối thủ xứng tầm với sự tàn nhẫn và nguồn lực của Van Eck? Mình, Inej tự nhủ. Có thể mình không có cái đầu tinh quái như Kaz, nhưng mình là một cô gái nguy hiểm. Van Eck cử Bajan đến chỗ Inej hằng ngày, và anh ta luôn tỏ ra hữu hảo dễ chịu ngay cả trong những lúc thúc ép cô khai ra những nơi an toàn mà Kaz có thể ẩn náu. Inej đoán Van Eck không đích thân đến đây vì biết Kaz sẽ theo dõi mọi động tĩnh của ông ta. Hoặc cũng có thể ông ta nghĩ cô sẽ dễ xiêu lòng trước một chàng trai Suli hơn là một lão thương gia cáo già. Nhưng đêm nay có điều gì đó đã thay đổi. Bajan thường bỏ đi sau khi Inej đã nhất quyết tỏ ra không muốn ăn thêm nữa - một nụ cười từ giã, một cái cúi người, và anh đi, hết phận sự cho tới sáng hôm sau. Nhưng đêm nay anh cứ nấn ná lại. Thay vì rút lui khi cô dùng cả hai tay đẩy đĩa thức ăn ra xa, anh chỉ nói, “Lần cuối cô gặp gia đình là khi nào?”