🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Móng Vuốt Quạ Đen - Giang Hồ Hiểm Ác - Tập 4
Ebooks
Nhóm Zalo
#1 NEW YORK TIMES BESTSELLER LEIGH BARDUGO
MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN IV
GIANG HỒ HIỂM ÁC Hoàng Anh dịch
WingsBooks | Nhà xuất bản Kim Đồng
ebook©vctvegroup
CREDIT SERIES MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN (1-4) Tặng sách: Đăng Khang
Chụp sách: Leader V/C
OCR & Đóng gói: Trúc Quỳnh
Soát lần 1: Lộc Blue
Soát lần 2: Thiện Nan9
Phần Một
KHÁCH KHÔNG MỜI
1
INEJ
K
hi đêm xuống, khu vực kho bãi của Ketterdam dường như lột xác và khoác lên mình một hình hài mới. Những dãy nhà lụp xụp ở rìa phía đông nhộn nhịp hẳn lên, trong khi những con phố của nó lại trở thành chốn không người, chỉ được lui tới bởi các vệ quân đang canh gác và những thị tuần đi làm nhiệm vụ.
Inej và Nina neo thuyền tại con kênh chính rộng lớn chạy ngang qua trung tâm của khu vực, trước khi đi xuôi theo bờ kè yên tĩnh, nép sát vào các dãy nhà kho và tránh xa những ngọn đèn đường nằm dọc bờ nước. Hai người đi ngang qua những con thuyền đầy ắp gỗ xẻ và các sà lan chở đống than đá cao ngất. Chốc chốc họ lại thấy những người đàn ông làm lụng dưới ánh đèn lồng, nhấc bổng những thùng rượu rum hoặc kiện bông vải. Người ta không thể bỏ mặc những thứ hàng hoá có giá trị như vậy suốt cả đêm. Khi đi đến gần Bãi Ngọt, họ thấy hai người đàn ông dỡ thứ gì đó từ một xe hàng lớn đậu bên cạnh con kênh, dưới ánh sáng xanh lét của một ngọn đèn độc nhất.
“Đèn tử thi đấy,” Inej thì thầm, và Nina rùng mình. Những ngọn đèn xương được làm từ xương nghiền của
những loài cá biển sâu cho ánh sáng xanh lục, còn đèn tử thi thì cháy bằng nhiên liệu khác, nó toả ra thứ ánh sáng xanh lam đáng sợ, cho phép người ta nhận ra những chiếc sà lan chở xác của các đạo tì.
“Đạo tì làm gì ở khu Nhà kho này?”
“Người ta không muốn thấy các thi thể trên đường phố hay dưới dòng kênh. Khu vực kho bãi gần như vắng bóng người vào ban đêm, do vậy đây là nơi bọn họ mang các thi hài đến. Sau khi mặt trời lặn, họ đi thu gom xác chết và đưa đến đây. Đạo tì làm việc theo ca và theo khu phố. Họ sẽ rời đi vào lúc trời sáng, cùng với chuyến hàng của mình.” Ra đảo Tử Thần để hoả thiêu.
“Sao họ không xây một nghĩa trang tử tế?” Nina hỏi. “Hết đất rồi. Em nghe nói từng có bàn luận về việc mở cửa lại Mạng Đen cách đây khá lâu, nhưng tất cả đều chấm dứt khi trận dịch Thị Nữ bùng lên. Mọi người quá sợ bị lây bệnh. Nếu gia đình có điều kiện, họ sẽ đưa chị đến một nghĩa trang hoặc nghĩa địa bên ngoài Ketterdam. Còn nếu không thì…”
“Không ai đổ lệ,” Nina nghiêm giọng.
Không đổ lệ, không quan tài. Một cách khác để chúc may mắn. Nhưng nó còn mang một ý khác. Một cái nháy mắt rầu rĩ với viễn cảnh sẽ không có đám ma tốn kém chờ đợi những người như họ, không một tấm bia đá để ghi nhớ tên tuổi, cũng chẳng có vòng hoa tang nào dành cho họ.
Inej đi trước khi họ tới gần Bãi Ngọt. Những ngọn tháp
xi-lô đáng sợ to lớn như các vị thần canh gác, được trang trí bằng chiếc lá nguyệt quế đỏ của công ty Van Eck. Chẳng bao lâu nữa, mọi người sẽ biết biểu tượng đó mang nghĩa gì: sự hèn hạ và dối trá. Cụm tháp xi-lô của Van Eck được bao quanh bởi một hàng rào cao bằng sắt.
“Dây thép gai,” Nina lưu ý.
“Không thành vấn đề.” Nó được sáng chế để giữ cho gia súc ở yên trong chuồng. Nó sẽ không làm khó được Bóng Ma.
Hai người nấp quan sát bên một bức tường gạch đỏ vững chắc của một nhà kho, chờ đợi để xác nhận lịch trình của các vệ quân chưa thay đổi. Đúng như Kaz đã nói, đám lính gác mất gần mười hai phút để đi tuần trọn một vòng rào. Khi bọn họ ở phía đông của khu đất, Inej sẽ có khoảng sáu phút để vượt qua hàng rào. Khi đi sang phía tây, các vệ quân sẽ rất dễ dàng phát hiện Inej nếu cô đang đi trên sợi dây căng giữa các xi-lô, nhưng gần như không thể phát hiện được nếu cô ở trên mái. Trong sáu phút đó, Inej sẽ phải xoay sở để đưa mọt hạt vào trong xi-lô, rồi tháo sợi dây. Nếu có mất nhiều thời gian hơn sáu phút, cô sẽ phải đợi đám lính gác đi khuất. Cô sẽ không thể quan sát được bọn họ, nhưng Nina có một cái đèn xương trong tay. Chị sẽ ra hiệu bằng một tia sáng xanh khi cô có thể băng từ tháp này sang tháp kia một cách an toàn.
“Mười xi-lô,” Inej lên tiếng. “Chín lần đi dây.” “Nhìn gần mới thấy chúng cao hơn ta tưởng rất nhiều,”
Nina nói. “Em có sẵn sàng làm chuyện này không?” Sự đáng sợ của chúng đúng là không thể chối cãi. “Dù núi có cao đến mấy thì việc trèo lên cũng như nhau cả thôi.” “Về kĩ thuật mà nói thì không hẳn thế. Em cần dây thừng, móc…”
“Chị đừng có giống như anh Matthias.”
Nina hoảng hốt đưa tay bịt miệng. “Chị sẽ ăn gấp đôi bánh ngọt để quên chuyện này.”
Inej gật gù. “Nghe hay đấy.”
Tốp tuần tra lại lên đường sau khi đi qua chốt gác. “Inej,” Nina vội nói, “em nên biết điều này, năng lực của chị không còn như trước nữa, kể từ lúc dùng parem. Nếu chúng ta phải chiến đấu…”
“Đêm nay thì không. Chúng ta phải hành động như những bóng ma.” Inej siết vai Nina. “Và em không biết chiến binh nào quả cảm hơn chị, dù có hay không có năng lực Grisha.”
“Nhưng…”
“Nina, đám vệ quân.”
Tốp tuần tra đã khuất dạng. Nếu không hành động ngay bây giờ, hai người sẽ phải chờ đến vòng tuần tra kế tiếp và bị chậm so với kế hoạch.
“Làm thôi,” Nina nói và tiến về phía chốt gác.
Chỉ trong vài bước chân đưa chị vượt qua khoảng cách giữa nhà kho và mảng sáng bao trùm chốt gác, cung cách
của Nina đã thay đổi hẳn. Inej không biết phải giải thích như thế nào, nhưng những bước chân của chị trở nên dè dặt hơn, đôi vai chị hơi chùng xuống. Chị dường như co rút lại. Nina không còn là một Grisha được huấn luyện bài bản nữa, chị đã trở thành một cô gái tị nạn căng thẳng, mong chờ một chút lòng thương.
“Xin lỗi anh?” Nina nói với chất giọng đặc sệt âm sắc Ravka.
Người vệ quân giương súng trong tư thế sẵn sàng, nhưng có vẻ chẳng mấy bận tâm. “Cô không nên ở đây vào ban đêm.”
Nina khẽ nói gì đó và ngước đôi mắt to tròn màu lục lên nhìn anh ta. Inej không hiểu bằng cách nào chị có thể tỏ ra ngoan hiền đến thế.
“Chuyện gì?” Người vệ quân hỏi và tiến lại gần hơn. Inej ra tay. Cô châm đoạn ngòi dài của quả bom sáng cỡ nhỏ mà Wylan đã đưa cho họ, rồi chạy tới hàng rào, cẩn thận tránh xa vùng ánh sáng, và lặng lẽ trèo lên. Cô gần như ở ngay sau lưng, phía trên đầu người vệ quân và Nina, cô có thể nghe thấy tiếng nói của hai người trong lúc dễ dàng luồn lách qua những vòng dây thép gai.
“Tôi đến tìm việc,” Nina nói. “Sản xuất đường.” “Chúng tôi không làm đường ở đây mà chỉ trữ nó thôi. Cô sẽ phải đi tới một trong những xưởng luyện đường.” “Nhưng tôi cần việc làm.Tôi… tôi…”
“Ồ, coi kìa, đừng khóc. Nào, nào.”
Inej cố nén tiếng cười và khẽ khàng buông mình xuống mặt đất ở phía trong vòng rào. Cô có thể thấy những túi cát mà Kaz đã nhắc đến. Chúng được chất đống dựa vào bức tường phía sau của chốt gác. Cô cũng trông thấy một góc của tấm lưới mà anh định để cho cô sử dụng.
“Cả… ờm… bạn trai cô cũng đang tìm việc à?” Tay vệ quân hỏi.
“Tôi đâu có… Anh nói sao nhỉ? Bạn trai à?”
Cánh cổng bên cạnh chốt gác không khoá, nên Inej khẽ đẩy nó mở hờ cho Nina, trước khi nhanh chóng bước vào trong bóng tối dưới chân ngọn tháp gần nhất.
Inej nghe thấy tiếng Nina chào rồi bỏ đi về phía ngược lại. Cô chờ đợi. Vài phút trôi qua. Ngay khi cô tin rằng quả bom đã bị xịt, một tiếng bụp vang lên, và một luồng sáng mạnh toả ra từ căn nhà kho mà họ nấp quan sát lúc nãy. Người vệ quân lại xuất hiện, giương súng lên, và bước vài bước về phía nhà kho.
“Ai đó?” Anh ta hô to.
Nina lẻn ra từ trong bóng tối phía sau lưng anh ta, chỉ trong vài giây đã lách qua cổng rào. Chị đóng nó lại cẩn thận, rồi tiến về phía tháp xi-lô thứ hai, biến vào trong bóng tối. Tại đó, chị sẽ ra hiệu cho Inej biết khi tốp vệ quân đi tuần ngang qua.
Người vệ quân quay trở về vị trí, cẩn trọng đi giật lùi đề
phòng mối nguy hiểm đến từ dãy nhà kho. Cuối cùng, anh ta quay người lại, lay cánh cổng để bảo đảm nó được khoá, rồi bước vào trong chốt gác.
Theo tín hiệu của Nina, Inej thoăn thoắt leo lên những gióng thang được hàn chắc vào sườn ngọn tháp. Một tầng, hai tầng… mười tầng. Thường thì chú của Inej sẽ pha trò cho khán giả trong lúc có trèo lên. Màn biểu diễn sau đây chưa từng được ai làm thử, và nhất là bởi một người trẻ! Xin quý vị hãy chiêm ngưỡng sợi dây trên kia. Ngọn đèn rọi sẽ được bật lên, chiếu vào sợi dây để nó trông như một sợi chỉ mỏng manh căng ngang rạp xiếc. Thưa các quý ông, hãy nắm lấy tay người phụ nữ của mình. Hãy xem những ngón tay của họ mảnh khảnh đến thế nào. Giờ hãy hình dung bản thân bước đi trên một thứ cũng mỏng manh và yếu ớt như vậy! Ai dám làm một việc như thế? Ai dám thách thức tử thần nào?
Khi đó Inej đã đứng trên đỉnh trụ và, tay chống hông, cô hô to: “Tôi!”
Khoan đã, chuyện này không thể được, chú của cô sẽ nói như thế, một bé gái ư?
Đó luôn là lúc đám đông cuồng nhiệt hẳn lên. Phụ nữ ngất đi. Còn đàn ông thì có người thậm chí còn tìm cách ngăn màn biểu diễn lại.
Nhưng đêm nay không có đám đông nào cả, chỉ có gió, lớp kim loại lạnh lẽo nơi ngón tay của cô, và nửa sáng của mặt trăng.
Inej đã lên đến đỉnh tháp xi-lô và phóng mắt quan sát đô
thị bên dưới. Ketterdam chìm trong ánh sáng vàng, những ngọn đèn lồng chậm rãi di chuyển trên các dòng kênh, ánh nến thắp sáng những ô cửa sổ, các hiệu buôn và tửu quán sáng rực đèn đuốc để phục vụ công việc kinh doanh, cô có thể nhận ra ánh sáng lấp lánh của khu Lid, những dải đèn lồng sặc sỡ loè loẹt của Tây và Đông Stave. Chỉ trong vài ngày nữa, gia sản của Van Eck sẽ tiêu tan, và cô sẽ không còn bị ràng buộc bởi giao kèo với Per Haskell. Tự do. Để sống như cô mong ước. Để tìm kiếm sự tha thứ cho những tội lỗi của cô. Để theo đuổi ý nguyện của cô. Liệu cô có nhớ nơi này không? Cái đô thị hỗn tạp đông đúc mà cô đã hiểu quá rõ, và bằng cách nào đó đã trở thành nhà của cô ư? Chắc chắn cô sẽ nhớ. Thế nên đêm nay, cô sẽ trình diễn cho thành phố của mình, cho những công dân Rotterdam, ngay cả khi họ không hề vỗ tay.
Với một chút nỗ lực, Inej quay được tay quay của cửa lật và mở nó ra. Rồi cô thò tay vào trong túi và lấy ra cái lọ nhỏ đựng mọt hoá chất. Theo chỉ dẫn của Wylan, cô lắc nó thật kĩ trước khi trút hết vào trong xi-lô. Một tiếng xịt vang lên, và trước sự chứng kiến của Inej, lớp đường chuyển động như thể có sinh vật gì đó sống dậy bên dưới bề mặt của nó. Inej rùng mình. Cô từng nghe nói có những người công nhân rơi vào trong xi-lô và chết khi những hạt bắp hay hạt đường dạt ra dưới chân, nuốt chửng lấy họ và làm họ nghẹt thở. Cô đóng cửa lại và vặn chặt tay quay.
Tiếp đó, Inej bước xuống gióng thang đầu tiên và gắn
vào đó cái móc nam châm mà Wylan đã đưa. Có vẻ nó bám rất chắc. Chỉ bằng một cái bấm nút, hai sợi dây dẫn đường nhiễm từ lập tức bung ra, gắn vào thành tháp với một tiếng keng nhẹ. Cô lấy chiếc nỏ cùng với cuộn dây lớn từ trong túi ra, rồi buộc một đầu dây vào cái móc nam châm, thắt nút thật chặt, và buộc hai dây dẫn đường. Đầu kia của sợi dây, cô buộc vào một cái móc nam châm đã gắn sẵn trên nỏ. Cô bắn nỏ. Phát đầu tiên đi chệch mục tiêu, và cô phải thu sợi dây về. Phát thứ hai lạc sang một gióng thang khác. Nhưng phát thứ ba thì trúng vào nơi cô nhắm tới trên tháp xi-lô kế tiếp. Inej vặn cái móc cho đến khi sợi dây đạt được độ căng phù hợp. Họ đã từng sử dụng thiết bị tương tự trước đây, nhưng chưa bao giờ làm trên một khoảng cách lớn và độ cao như thế này. Không sao. Khoảng cách và sự nguy hiểm sẽ được thay đổi trên dây. Cô cũng vậy. Khi đi trên dây, cô không có ai để bám víu, cô chỉ là một sinh vật không có quá khứ cũng chẳng có hiện tại, lơ lửng giữa trời và đất.
Đến lúc rồi. Người ta có thể học đánh đu, nhưng với việc đi thăng bằng trên dây thì phải có thiên khiếu. Mẹ của Inej đã bảo cô rằng những người đi trên dây có năng khiếu bẩm sinh là hậu duệ của Người Trời, họ từng có cánh, và dưới nguồn sáng thích hợp, những đôi cánh đó vẫn có thể được nhìn thấy trên những người được gia ân. Sau đó Inej thường đứng trước gương, xoay tới xoay lui, lén nhìn cái bóng của mình trong sự cười cợt của các anh chị em họ, để xem liệu cô có đôi cánh nào hay không.
Khi bố của Inej trở nên mệt mỏi vì cứ bị con gái nài nỉ mỗi ngày, ông đã cho phép cô học đi trên những sợi dây thấp, với đôi chân trần, để cô có thể cảm nhận việc bước tới bước lui và giữ cơ thể thăng bằng. Inej chán muốn chết, nhưng vẫn cần mẫn thực hiện các bài tập hằng ngày, kiểm tra sức lực, thử độ bám của các đôi giày da trên những sợi dây căng hơn và kém thân thiện hơn. Những khi bố không để ý, cô còn trồng cây chuối và vượt qua đoạn dây còn lại với tư thế đó. Rất mau chóng, bố đồng ý nâng sợi dây lên cao thêm vài centimet, rồi để cô thử sức với một sợi dây thép thực thụ, và ở các cấp độ, Inej đều hoàn thiện hết kĩ thuật này đến kĩ thuật khác: lộn chống tay, lộn trước, đội bình nước trên đầu. Cô làm quen với các cây cột trụ mỏng mảnh và dẻo dai, cho phép cô giữ thăng bằng ở những độ cao lớn hơn.
Vào một buổi chiều nọ, chú của Inej và các em họ cô dàn dựng một tiết mục mới. Hanzi sẽ đẩy Asha ngồi xe cút kít trên dây. Trời nóng nên họ quyết định nghỉ ăn trưa rồi ra sông tắm. Còn một mình trong trại, Inej trèo lên giàn đỡ đã được dựng, bảo đảm lưng mình quay về phía mặt trời, để có thể quan sát sợi dây một cách rõ ràng.
Ở trên cao, thế giới trở thành hình ảnh phản chiếu của chính nó, các hình thù bé lại, những cái bóng kéo dài ra, hình dạng vẫn quen thuộc nhưng không còn đáng tin cậy, và khi Inej đặt bàn chân đi giày lên sợi dây, cô bỗng cảm thấy nghi ngại. Mặc dù sợi dây vẫn có cùng một độ rộng với sợi dây
mà cô dùng để luyện tập hàng tuần lễ không chút sợ sệt, lúc này nó dường như mỏng hơn, như thể trong cái thế giới phản chiếu ấy, nó tuân theo những định luật khác. Khi nỗi sợ xuất hiện, một điều gì đó sẽ xảy ra.
Inej hít thở thật sâu, gồng bụng lại, rồi thực hiện bước đi đầu tiên giữa khoảng không. Bên dưới cô, thảm cỏ giống như một mặt biển dợn sóng, cô cảm thấy trọng lượng của mình thay đổi, dồn sang bên trái, cảm thấy sức hút của mặt đất, trọng lực rắp tâm kéo cô nhập vào cái bóng tít xa bên dưới của chính cô.
Cơ bắp của Inej gồng lên, cô hơi chùng gối lại. Rồi khoảnh khắc đó qua đi, và chỉ còn cô với sợi dây. Cô đã đi được nửa đường thì nhận ra mình đang bị quan sát. Cô mở rộng tầm quan sát nhưng vẫn giữ sự tập trung. Inej sẽ không bao giờ quên vẻ mặt của bố khi ông cùng với mấy chú cháu từ bờ sông quay về. Khuôn mặt ông ngẩng lên nhìn con gái, cái miệng há tròn thành một chữ O kinh ngạc. Mẹ cô cũng xuất hiện từ phía sau cỗ xe và đặt một bàn tay lên ngực. Họ cùng đứng im phăng phắc ở đó, sợ rằng mình sẽ phá vỡ sự tập trung của cô - họ là những khán giả đầu tiên của cô, câm lặng trong nỗi kinh hoàng mà cô cảm thấy giống như sự ngưỡng mộ.
Sau khi Inej trèo xuống, mẹ cô đã dành gần một tiếng đồng hồ để hết ôm cô vào lòng lại mắng mỏ cô không tiếc lời. Bố cô thì tỏ ra cứng rắn, nhưng sự tự hào của ông không qua được mắt cô, ánh mắt khâm phục của mấy đứa em họ
cũng vậy.
Khi một trong số đó kéo cô sang một bên và hỏi, “Làm thế nào chị có thể đi dây điềm nhiên như thế?” Inej chỉ nhún vai đáp, “Cứ thế mà đi thôi.”
Nhưng sự thật không phải vậy. Nó còn hơn là một sự bước đi. Khi những người khác đi trên dây, họ căng mình ra chống đỡ - với gió, độ cao, khoảng cách. Khi Inej bước lên sợi dây, nó trở thành thế giới của cô. Cô có thể cảm thấy độ nghiêng và sức hút của nó. Nó là một hành tinh, và cô là mặt trăng của nó. Điều đơn giản ấy cô chưa bao giờ cảm thấy trong trò đu bay, khi cô được quán tính đưa đi. Cô thích sự tĩnh tại mà mình tìm thấy trên sợi dây thăng bằng, và đó là thứ mà không ai khác có thể hiểu được.
Inej chỉ bị ngã một lần duy nhất, và cô vẫn trách tấm lưới vì điều đó. Họ đã căng lưới khi Hanzi đi xe đạp một bánh trong màn biểu diễn của mình. Lúc Inej bước lên dây, cô ngã ngay lập tức. Cô gần như chỉ kịp ghi nhận điều đó trước khi chạm vào tấm lưới - và văng ra khỏi nó, rơi xuống đất. Cô kinh ngạc khi khám phá ra mặt đất cứng đến thế nào, nó không hề mềm lại hay võng xuống để đón cô. Inej bị gãy hai xương sườn và nhận một cục u to bằng quả trứng ngỗng trên đầu.
“Nó to như thế là tốt rồi,” bố cô đã lầm bầm như vậy. “Có nghĩa là máu không bị tụ trong não con bé.” Ngay khi Inej được tháo băng, cô lập tức đi trên dây trở lại. Kể từ đó, cô không bao giờ sử dụng lưới an toàn nữa. Cô
biết nó sẽ làm mình khinh suất. Nhưng nhìn xuống dưới vào lúc này, cô phải thừa nhận có một chút bảo hiểm cũng không sao. Tít xa bên dưới, ánh trăng mắc kẹt trong các mặt cong của lớp đá lát đường làm cho chúng trông giống như những cái hạt màu đen của một thứ trái cây ngoại lai nào đó. Nhưng tấm lưới giấu sau chốt gác hoàn toàn vô dụng khi chỉ có mỗi Nina để căng nó, và bất chấp kế hoạch ban đầu của Kaz là gì, kế hoạch mới không thể có chuyện ai đó đứng tơ hơ giữ lưới. Do vậy Inej sẽ đi trên dây như đã từng đi, không có bất cứ thứ gì đón đỡ và chỉ được nâng bởi đôi cánh vô hình.
Inej lấy cây gậy thăng bằng trong túi ra, và với một cú vẩy nhẹ, cô duỗi nó dài hết cỡ. Cô ướm thử sức nặng của cây gậy trên tay, co ngón chân trong đôi dép sục. Đôi dép da được xoáy từ đoàn xiếc Zirkoa theo yêu cầu của cô. Phần đế nhẵn của nó thiếu độ bám chắc mà đôi giày yêu thích của cô mang lại, nhưng cho phép cô cởi ra nhanh hơn.
Cuối cùng tín hiệu của Nina cũng xuất hiện. Một ánh chớp xanh ngắn ngủi.
Inej bước lên sợi dây. Ngay lập tức cơn gió tóm lấy cô. Inej thở ra, cảm nhận sức lôi kéo riết róng của nó và dùng cây gậy thăng bằng mềm dẻo để hạ thấp trọng tâm cơ thể xuống.
Cô nhún đầu gối một cái. Ơn trời, sợi dây có độ căng tuyệt vời. Cô bước đi, cảm nhận sức ép của nó dưới gan bàn chân.Theo mỗi bước đi của Inej, sợi dây hơi võng xuống,
chực chờ tuột ra khỏi những ngón chân bấu chặt. Cơn gió phả hơi ấm lên da Inej có mùi đường và mật mía. Phần mũ trùm đầu đã tuột xuống, và cô có thể cảm thấy những sợi tóc bung ra khỏi đuôi sam đang cù nhẹ khuôn mặt mình. Cô tập trung vào sợi dây, cảm nhận sự gần gũi thân thuộc từng trải qua hồi còn bé, như thể sợi dây cũng bám vào cô chắc như cô bám vào nó, chào đón cô vào cái thế giới trong gương ấy, một nơi bí mật chỉ có mình cô. Loáng cái Inej đã sang được nóc tháp xi-lô thứ hai. Cô bước lên đó, thu ngắn cây gậy thăng bằng lại và cất nó vào chỗ cũ. Cô nhấp một ngụm nước từ cái bình trong túi, tự cho phép mình duỗi người một chút. Sau đó, cô mở cửa lật và thả mọt hạt vào trong. Một lần nữa cô nghe thấy tiếng xịt đó, và mùi đường khét xộc vào mũi cô. Lần này nó mạnh hơn, hình thành cả một đám mây dày, ngọt gắt. Bỗng cô thấy mình quay trở lại Vườn Thú, với một bàn tay nần nẫn đặt trên cổ tay cô, thúc ép. Inej rất giỏi trong việc dự phòng trước những khi kí ức quay lại ám ảnh mình và chuẩn bị tư thế đón nhận nó, nhưng lần này cô không phòng bị. Kí ức ập vào cô mạnh hơn cả luồng gió lúc cô đi trên dây, khiến đầu óc cô quay cuồng. Mặc dù hắn nồng mùi vani, cô vẫn ngửi thấy mùi tỏi ẩn đằng sau. Cô cảm thấy lớp lụa trườn qua mình như thể chiếc giường là một sinh vật sống. Inej không nhớ hết bọn họ. Khi màn đêm và Vườn Thú hoà làm một, cô đã trở nên giỏi hơn trong việc làm mình tê dại, biến mất hoàn toàn để gần như không bận tâm đến
những gì họ làm với cơ thể cô bỏ lại phía sau. Cô biết những gã đàn ông tìm đến nhà chứa không bao giờ nhìn quá kĩ, không bao giờ hỏi quá nhiều. Bọn họ muốn một ảo tưởng, và sẵn sàng phớt lờ bất cứ thứ gì để gìn giữ ảo tưởng đó. Nước mắt tất nhiên là điều bị cấm đoán. Cô đã khóc vào cái đêm đầu tiên. Dì Heleen quất cô bằng cái gậy mềm, rồi chuyển sang gậy cứng và bóp cổ cho đến khi cô ngất đi. Sau đó, nỗi sợ của cô đã lớn hơn nỗi buồn.
Cô học cách mỉm cười, thì thào, ưỡn người và phát ra những âm thanh mà các khách hàng của Dì Heleen đòi hỏi. Cô vẫn khóc, nhưng không có giọt nước mắt nào rơi nữa. Chúng lấp đầy khoảng trống trong lòng cô, một cái giếng u sầu mà hằng đêm cô rơi vào như một hòn đá. Vườn Thú là một trong những nhà chứa đắt đỏ nhất khu Barrel, nhưng đám khách hàng thì chẳng tử tế gì hơn những kẻ lui tới những nhà trọ rẻ tiền hoặc các cô gái đứng đường. Theo cách nào đó, bọn họ còn tệ hơn. Khi một gã đàn ông trả nhiều tiền đến thế, cô gái người Kaelish tên Caera đã nói như vậy, hắn nghĩ hắn có quyền làm mọi thứ mình muốn.
Bọn họ già có, trẻ có, đẹp trai có mà xấu xí cũng có. Có những gã khóc tu tu và đánh cô khi gã không làm ăn được gì. Lại có kẻ muốn cô giả vờ như đang trải qua đêm tân hôn và thì thầm lời yêu đương. Có lão răng sắc như răng mèo, cứ cắn vào bầu ngực cô cho đến khi chảy máu. Dì Heleen đã tính thêm tiền giặt tấm ga giường dính máu và những ngày Inej không làm việc được vào giao kèo của cô. Nhưng đó
chưa phải là khách hàng tệ hại nhất, mà là một tay người Ravka, kẻ đã chọn cô trong phòng tiếp khách, kẻ có mùi vani. Chỉ khi họ đã ở trong căn buồng của cô, giữa sắc lụa tím và mùi trầm, hắn mới nói: “Cô biết không, tôi đã từng gặp cô đấy.”
Inej đã bật cười, nghĩ rằng đó chỉ là một phần của cái trò mà hắn muốn chơi, và rót rượu cho hắn từ một cái bình vàng. “Chắc chắn là không.”
“Đó là vài năm trước, tại một trong những gánh xiếc rong ở ngoại vi Caryeva.”
Một chút rượu bị sánh ra khỏi miệng li. “Chắc anh nhầm tôi với ai đó.”
“Không,” hắn nói, hào hứng như một cậu bé trai. “Tôi hoàn toàn chắc chắn. Tôi đã xem gia đình cô biểu diễn ở đó. Lúc đó tôi đang là một quân nhân nghỉ phép. Cô chắc chỉ mới lên mười, một con bé ốm nhách đi trên dây không chút sợ hãi. Cô đeo một cái băng đô gắn đầy hoa hồng. Rồi cô hẫng chân, và những cánh hoa hồng bung ra như một cơn mưa, rơi lả tả, lả tả.” Hắn vẫy vẫy những ngón tay như thể bắt chước những bông tuyết đang rơi. “Đám đông ồ lên, và tôi cũng thế. Đêm sau, tôi lại tới, và chuyện đó lại diễn ra. Mặc dù tôi biết nó là một phần của màn trình diễn, tôi vẫn còn cảm thấy tim mình hụt mất một nhịp khi cô giả vờ mất thăng bằng.”
Inej cố gắng giữ yên bàn tay run rẩy của mình. Băng đô hoa hồng là ý tưởng của mẹ cô. “Con khiến cho nó có vẻ dễ
dàng quá, meja, thoăn thoắt đi qua đi lại như một chú sóc chuyền cành. Khán giả phải tin rằng con đang gặp nguy hiểm, mặc dù đó không phải là sự thật.”
Đó là cái đêm tồi tệ nhất của Inej tại Vườn Thú, bởi vì khi người đàn ông nồng mùi vani khởi sự hôn lên cổ và cởi áo cô, Inej không tài nào bỏ cơ thể lại phía sau. Bằng cách nào đó, kí ức kia đã gắn quá khứ và hiện tại của cô lại với nhau, đè chặt cô ở bên dưới hắn. Cô khóc, nhưng dường như hắn chẳng bận tâm.
Inej có thể nghe thấy tiếng rít của lớp đường khi mọt hạt phát huy tác dụng. Cô cố bắt mình tập trung vào âm thanh đó và hít thở qua cổ họng tắc nghẹn.
Em muốn có anh không một lớp áo giáp che chắn nào. Đó là câu cô đã nói với Kaz trên boong tàu Ferolind, mong ngóng một dấu hiệu nào đó cho thấy anh có thể mở lòng với cô, và họ sẽ không chỉ là hai sinh linh cảnh giác gặp nhau ở sự nghi ngờ dành cho thế giới này. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu anh mở lời tối hôm ấy? Nếu anh đã chủ động trao cô một phần trái tim của mình? Sẽ thế nào nếu anh đến với cô, bỏ đôi găng tay sang một bên, rồi kéo cô lại gần, và hôn lên môi cô? Liệu cô có kéo anh lại sát hơn? Có đáp trả nụ hôn của anh không? Cô có còn là chính mình trong một khoảnh khắc như thế, hay sẽ vỡ vụn và biến mất, một con búp bê trong tay anh, một cô gái không bao giờ toàn vẹn?
Không quan trọng. Kaz đã không mở lời, và có lẽ như vậy là tốt nhất cho cả hai. Họ có thể tiếp tục với lớp áo giáp
nguyên vẹn. Cô sẽ có con tàu của cô, và anh có thành phố của anh.
Inej vươn tay để đóng cửa lật lại, hít một hơi sâu thứ không khí nhuốm mùi than, và tống sạch mùi đường phân huỷ ra khỏi phổi. Bỗng cô loạng choạng khi bị một bàn tay nắm gáy xô tới trước.
Cô cảm thấy trọng tâm cơ thể đảo lộn khi bị hút thẳng vào cái miệng toang hoác của tháp xi-lô.
2
KAZ
Đ
ột nhập vào trong ngôi nhà không khó như đáng lẽ nó phải thế, điều này khiến Kaz bực bội. Có phải anh đã đánh giá quá cao Van Eck không? Lão ta suy nghĩ như một thương gia, anh tự nhắc mình như vậy trong lúc kẹp cây gậy chống dưới nách và leo xuống theo một ống thoát nước. Lão ta vẫn tin rằng tiền sẽ giữ cho lão an toàn.
Lối đột nhập dễ nhất là mấy cái cửa sổ ở tầng trên cùng, chỉ có thể tiếp cận từ mái nhà. Wylan không giỏi leo trèo, nên Kaz đột nhập trước rồi đưa cậu ta vào từ tầng dưới.
“Hai chân lành lặn mà vẫn phải cần một cái thang,” Kaz lẩm bẩm, phớt lờ cú nhói ra hiệu đồng tình của cái chân mình.
Anh chẳng ham thực hiện thêm một nhiệm vụ khác cùng với Wylan, nhưng hiểu biết của cậu ta về ngôi nhà này sẽ hữu ích nếu có điều gì bất ngờ xảy ra, ngoài ra cậu ta là người phù hợp nhất để xử lí axit auric. Kaz nghĩ đến Inej, vắt vẻo trên mái nhà thờ Barter, với những ánh đèn đô thị lấp lánh bên dưới. Đây là việc mà tôi làm tốt nhất, nên hãy để tôi làm công việc của mình. Tốt thôi. Anh sẽ để tất cả bọn họ tự làm công việc của mình. Nina sẽ đảm trách phần việc của cô
ta, Inej có vẻ đủ tự tin vào khả năng đi thăng bằng trên dây - dù nghỉ ngơi không nhiều và không cần lưới an toàn. Liệu cô ấy có thổ lộ với mày nếu cô ấy lo lắng không? Có phải đó là điều từng khiến mày tỏ ra thương cảm không?
Kaz xua ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Nếu Inej không nghi ngờ năng lực của bản thân thì anh cũng không cần phải làm thế. Ngoài ra, nếu muốn lấy cái triện cho đám người tị nạn yêu quý của Nina thì anh phải tập trung vào vấn đề của mình.
May thay, hệ thống an ninh của Van Eck không phải là một mối bận tâm. Inej đã nói với anh rằng các ổ khoá đều là loại Schuyler. Chúng đúng là những con quỷ nhỏ phức tạp, nhưng khi đã phá được một, ta sẽ phá được tất. Kaz từng chơi thân với một người thợ khoá ở Klokstraat. Anh ta tin sái cổ rằng Kaz là con trai của một thương gia giàu có, người rất trân quý bộ sưu tập hộp đựng thuốc hít vô giá của anh ta. Nhờ đó, Kaz luôn là người đầu tiên biết được một cách chính xác giới nhà giàu ở Ketterdam cất giấu của cải ra sao. Anh từng nghe sư phụ đạo chích Hubrecht Mohren của Pijl ngẫu hứng kể về vẻ đẹp của một ổ khoá chất lượng trong lúc say bia nâu tại Quạ Đen.
“Ổ khoá cũng giống như đàn bà vậy,” ông ta lè nhè nói. “Mày phải biết cách ve vuốt để làm nó tuôn hết các bí mật ra.” Ông ta là một trong những chiến hữu già của Per Haskell, rất khoái trá khi được khoe khoang về những ngày tháng tươi đẹp và những phi vụ lớn, nhất là khi nó giúp ông ta trốn việc, và đó luôn là thứ thông thái nửa mùa mà những
lão bợm già ấy thích tuôn ra. Quả thực, ổ khoá đúng là giống như một phụ nữ. Nhưng cũng giống như một người đàn ông hay bất kì thứ gì khác, nếu muốn hiểu nó, bạn phải tháo tung ra và xem bên trong hoạt động như thế nào. Nếu muốn làm chủ nó, bạn phải tìm hiểu kĩ đến mức có thể tháo ra rồi lắp lại nguyên vẹn.
Ổ khoá cửa sổ nhượng bộ đôi bàn tay anh với một tiếng tách dễ chịu. Kaz đẩy khung kính trượt sang bên cạnh và leo vào trong. Những căn buồng nhỏ ở tầng trên cùng ngôi nhà của Van Eck được dành cho đám gia nhân, nhưng tất cả đều đang bận bịu với các khách khứa của chủ ở tầng dưới. Một số thành viên giàu có nhất của Hội đồng Thương buồn đang ních căng bụng ở phòng ăn tầng một, lắng nghe Van Eck than thở về việc con trai mình bị bắt cóc và ái ngại trước sự lộng hành của các băng đảng tại Barrel. Căn cứ theo mùi thơm, Kaz đoán trong thực đơn có món giăm bông.
Anh mở cửa và khẽ khàng đi tới cầu thang, rồi thận trọng bước xuống tầng hai. Anh hiểu căn nhà của Van Eck từ lần cùng Inej đánh cắp bức tranh sơn dầu của DeKappel, và anh luôn thích quay trở lại một ngôi nhà, một công ty mà mình từng có lí do để vào trước đây. Không phải chỉ vì sự quen thuộc. Như thể bằng việc quay lại, anh đã chiếm hữu được nó. Chúng ta đã tường tận các bí mật của nhau, ngôi nhà dường như nói thế. Chào mừng cậu quay lại.
Một vệ quân đang đứng gác ở cuối đoạn hành lang trải thảm, phía trước cửa căn phòng mà Kaz biết là của Alys. Kaz
xem đồng hồ. Một tiếng bụp vang lên và ánh sáng chớp loè phía ngoài cửa sổ cuối hành lang. Ít nhất thì Wylan cũng chuẩn chỉ về giờ giấc. Tay vệ quân đi tới đó xem xét. Tranh thủ thời cơ, Kaz lẻn đi theo hành lang về hướng ngược lại.
Anh chui vào trong phòng cũ của Wylan - hiện giờ rõ ràng là được dự tính dùng làm phòng trẻ con. Nhờ ánh đèn đường, anh có thể thấy các bức tường đã được vẽ cảnh biển cầu kì để trang trí. Nôi em bé mang hình dáng của một chiếc thuyền buồm nhỏ, có hẳn những lá cờ đuôi nheo và bánh lái. Van Eck thực sự rất nâng niu người nối dõi mới của mình.
Kaz phá khoá cửa sổ phòng trẻ con rồi mở nó ra, buộc vào đó một cái thang dây và chờ đợi. Nghe thấy một tiếng uỵch, anh nhăn mặt. Có vẻ như Wylan đã trèo qua được hàng rào để vào vườn. Hi vọng cậu ta không đánh vỡ lọ axit auric và làm cháy một lỗ trên người lẫn trên khóm hoa hồng. Giây lát sau, Kaz nghe thấy tiếng thở hồng hộc, rồi Wylan vòng qua góc nhà, lạch bạch như một con vịt bầu. Khi đi đến chỗ phía dưới cửa sổ, cậu buộc chặt cái túi vào người và trèo lên thang dây, làm nó đong đưa dữ dội. Kaz giúp Wylan leo qua cửa sổ, sau đó rút thang và đóng cửa lại. Đây sẽ là lối thoát của họ.
Wylan trố mắt nhìn quanh phòng trẻ con, rồi chỉ lắc đầu. Kaz thị sát hành lang. Tay vệ quân đã quay trở lại vị trí gác trước cửa phòng Alys.
“Sao thế?” Kaz thì thào hỏi Wylan.
“Nó có ngòi nổ cháy chậm,” cậu ta đáp. “Tôi canh giờ
chưa chính xác.”
Nhiều giây trôi qua. Cuối cùng, một tiếng bụp khác vang lên. Tay vệ quân lại đi đến chỗ cửa sổ, và Kaz ra hiệu cho Wylan theo mình rời khỏi phòng. Kaz nhanh chóng phá khoá phòng làm việc của Van Eck, và chỉ nháy mắt sau họ đã vào bên trong.
Lúc Kaz đột nhập vào đây để đánh cắp bức tranh, anh đã khá ngạc nhiên với cách bài trí xa hoa của nó. Anh chờ đợi một sự giản dị thường gặp của cánh thương gia, những lớp ván sàn được trang trí đầy những vòng lá nguyệt quế, một cái ngai bọc nhung đỏ nằm chễm chệ phía sau bàn làm việc dài, bóng loáng.
“Đằng sau bức tranh,” Wylan thì thào, tay chỉ về phía bức chân dung một vị tổ tiên của Van Eck.
“Người đó là ai vậy?”
“Martin Van Eck, cụ cố cố nội của tôi. Nguyên là thuyền trưởng, người đầu tiên đến Eames Chin và lái tàu vào dòng sông của nó. Cụ mang về cả một tàu gia vị và dùng lợi nhuận để mua một con tàu thứ hai. Là cha tôi kể như thế. Đó là khởi đầu cho cơ nghiệp của dòng họ Van Eck.”
“Và chúng ta sẽ là kết thúc của nó.” Kaz lắc lắc cái đèn xương, khiến ánh sáng xanh lét tràn ngập căn phòng. “Cũng khá giống,” anh bình phẩm trong lúc liếc nhìn khuôn mặt gầy guộc, hàng lông mày cao và đôi mắt xanh nghiêm nghị.
Wylan nhún vai. “Ngoại trừ mái tóc đỏ, tôi thừa hưởng mọi thứ từ cha. Và ông nội, cũng như tất cả những người
mang họ Van Eck khác. Giờ thì hết rồi.”
Hai người đứng vào hai phía của bức tranh và tháo nó xuống khỏi tường.
“Nhìn mày kìa,” Kaz ngân nga khe khẽ khi két an toàn của Van Eck hiện ra. Két dường như không phải là từ chính xác ở đây. Nó giống với một cửa hầm kiên cố bằng thép hơn, bắt vào một bức tường cũng được gia cố bằng thép. Ổ khoá trên đó được làm tại Kerch, nhưng không giống với bất kì cái nào mà anh từng thấy. Nó bao gồm một loạt lẫy khoá có thể được cài đặt lại với các mã số mới mỗi ngày. Không thể phá nó trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ. Nhưng nếu cửa này không mở được thì bạn vẫn có thể trổ một cái cửa khác.
Âm thanh của những giọng nói to tiếng vọng lên từ tầng dưới. Các thương gia đã tìm thấy điểm bất đồng nào đó. Kaz sẽ không từ chối cơ hội nghe lỏm cuộc đối thoại. “Làm thôi,” anh nói. “Thời gian không còn nhiều.”
Wylan lấy hai cái lọ trong túi ra. Khi ở riêng thì chúng chẳng có gì đặc biệt, nhưng nếu cậu đúng thì một khi kết hợp với nhau, chúng sẽ tạo thành một hợp chất có khả năng xuyên thủng mọi thứ, ngoại trừ kính balsa.
Wylan hít một hơi sâu và giơ hai cái lọ ra xa. “Đừng lại gần,” cậu nói, đoạn đổ chất lỏng từ lọ này vào lọ kia. Chẳng có gì xảy ra.
“Sao thế?” Kaz hỏi.
“Tránh ra nào.”
Wylan dùng ống pipet bằng thuỷ tinh balsa rút một lượng nhỏ chất lỏng trong lọ, rồi cho nó chảy trên bề mặt cửa két sắt. Ngay lập tức, lớp kim loại bắt đầu tan chảy, làm phát ra âm thanh lụp bụp, ồn ào một cách đáng ngại trong căn phòng nhỏ. Mùi kim loại ngập tràn không gian. Cả Kaz lẫn Wylan đều lấy ống tay áo che mũi.
“Nhỏ mà có võ,” Kaz kinh ngạc thốt lên.
Wylan tiếp tục làm việc. Cậu cẩn thận đổ axit auric từ trong lọ lên lớp thép, khiến cho cái lỗ thủng mỗi lúc một lớn hơn.
“Nhanh tay lên,” Kaz đưa mắt nhìn đồng hồ và giục. “Chỉ cần tôi làm vãi một giọt này thôi, nó sẽ xuyên thẳng qua sàn nhà và rơi xuống bàn tiệc của cha tôi.” “Vậy thì cứ từ từ đi.”
Khi gặp kim loại, axit bùng cháy nhanh chóng rồi chậm rãi lụi đi. Hi vọng nó sẽ không làm thủng bức tường quá mức sau khi họ đi. Cái văn phòng này có đổ ập lên đầu đám khách khứa của Van Eck thì Kaz cũng chẳng màng, nhưng phải sau khi công việc đêm nay hoàn tất đã.
Sau khoảng thời gian tưởng như dài dằng dặc, cái lỗ đã đủ lớn để thò tay qua. Kaz chĩa đèn xương vào bên trong và trông thấy một cuốn sổ cái, nhiều cọc tiền, cùng một cái túi nhung nhỏ. Anh lấy cái túi ra khỏi két, nhăn mặt khi cánh tay chạm gờ kim loại của lỗ thủng. Lớp thép vẫn còn khá nóng.
Anh trút những thứ bên trong cái túi nhung ra tay: một chiếc nhẫn vàng to tướng khắc hình chiếc lá nguyệt quế màu đỏ và tên viết tắt của Van Eck.
Kaz nhét chiếc nhẫn vào trong túi quần, rồi thò tay lấy hai cọc tiền, đưa một cọc cho Wylan.
Anh suýt phì cười khi nhìn thấy vẻ mặt cậu ta. “Cậu không thích chuyện này à, thiếu gia?”
“Tôi không thích cảm giác làm một tên trộm.”
“Sau tất cả những chuyện ông ta đã làm?”
“Phải.”
“Cậu ngay thẳng quá. Cậu có nhận ra chúng ta đang đánh cắp tiền của chính cậu không?”
“Jesper cũng nói y như thế, nhưng tôi tin chắc cha tôi đã gạch tên tôi khỏi di chúc ngay khi dì Alys có thai.” “Điều đó không đồng nghĩa rằng cậu không được quyền có nó.”
“Tôi không muốn. Tôi chỉ không muốn ông ta có nó.” “Quay lưng với giàu sang thật là một đặc quyền khó tả.” Kaz nói trong lúc nhét tiền vào túi quần.
“Tôi sẽ điều hành cả một đế chế bằng cách nào kia chứ?” Wylan hỏi lại và vứt ống pipet vào trong két sắt cho cháy luôn. “Tôi không thể đọc được sổ sách chứng từ. Tôi không viết nổi lệnh mua hàng. Cha tôi sai lầm trong nhiều chuyện, nhưng ông ta đúng về chuyện này. Tôi sẽ là một trò cười.”
“Vậy thì thuê người khác đảm trách công việc đó cho
cậu.”
“Liệu anh có làm thế không?” Wylan hỏi lại, cằm hếch lên. “Tin tưởng một người biết nhiều cỡ đó, với một bí mật có thể huỷ hoại anh?”
Có, Kaz nhủ thầm không do dự. Tôi có thể tin tưởng một người. Một người mà tôi biết sẽ không bao giờ dùng điểm yếu của tôi để chống lại tôi.
Anh lật nhanh cuốn sổ cái và hỏi lại, “Khi người ta nhìn thấy một thằng thọt bước đi trên phố, tì vào cây gậy chống, họ cảm thấy gì?” Wylan quay nhìn chỗ khác. Mọi người luôn làm như vậy mỗi khi Kaz nhắc đến cái chân bị tật của mình, như thể anh chưa biết tình trạng của mình, hoặc chưa biết mọi người nhìn nhận anh ra sao. “Họ thấy thương hại. Thế họ nghĩ gì khi họ thấy tôi đi tới?”
Khoé miệng Wylan nhếch lên. “Họ nghĩ tốt hơn nên tránh sang bên kia đường.”
Kaz quẳng cuốn sổ vào trong két sắt. “Cậu không yếu đuối vì không biết chữ. Cậu yếu đuối vì cậu sợ người khác nhìn thấy điểm yếu của mình. Cậu để cho sự hổ thẹn định đoạt con người mình. Giúp tôi một tay nào.”
Hai người nhấc bức chân dung lên và treo trở lại chỗ cũ che đi cái lỗ trên két sắt. Martin Van Eck quắc mắt nhìn xuống họ.
“Suy nghĩ đi, Wylan,” Kaz nói tiếp trong lúc chỉnh lại khung tranh cho ngay ngắn. “Sự hổ thẹn là thứ lấp đầy túi tôi, sự hổ thẹn là thứ giữ cho Barrel kín mít những kẻ ngu
ngốc sẵn sàng đeo một cái mặt nạ để có được điều mình muốn mà không ai biết. Chúng ta có thể chịu đựng đủ loại đau đớn. Chính sự hổ thẹn nuốt chửng con người ta.”
“Nói hay lắm,” một giọng nói vang lên từ trong góc phòng.
Kaz và Wylan quay lại. Những ngọn đèn đồng loạt bật lên, khiến cả căn phòng ngập tràn ánh sáng, và một bóng người bước ra từ cái hốc ở bức tường đối diện mà trước đó ít phút không hề hiện diện: Pekka Rollins với nụ cười nhăn nhở trên mặt, hộ tống bởi một nhóm đàn em trong băng Kim Sư, tất cả đều được vũ trang với súng, dùi cui và rìu.
“Kaz Brekker,” Rollins chế giễu. “Tên trộm triết gia.”
3
MATTHIAS
“N
ằm yên!” Matthias quát bảo Kuwei. Cậu nhóc người Shu dán mình dưới sàn. Loạt đạn thứ hai làm rung chuyển không khí, phá vỡ một ô cửa sổ kính ghép khác.
“Hoặc bọn chúng thích phí đạn, hoặc đây chỉ là những phát súng cảnh báo,” Jesper lên tiếng. Matthias lom khom di chuyển tới phía bên kia của nhà mồ và nhòm qua một khe đá.
“Chúng ta bị bao vây rồi,” anh nói. Những kẻ đang đứng giữa các nhà mồ trên đảo Mạng Đen khác hẳn các thị tuần mà anh chờ đợi. Trong ánh sáng chập chờn của đèn đuốc, Matthias trông thấy những cái áo vest kẻ sọc, kẻ ô hoặc hoạ tiết paisley, và áo khoác caro. Trang phục của dân Barrel. Bọn chúng mang theo những món vũ khí cũng lôm côm chẳng kém: súng, dao dài, gậy gỗ.
“Tôi không thể nhìn rõ hình xăm của chúng,” Jesper nói. “Nhưng tôi khá chắc đứa đứng đầu là Doughty.” Doughty. Matthias lục lọi trong kí ức của mình và nhớ ra người đã dẫn họ vào gặp Pekka Rollins khi cả nhóm cần tiền. “Bọn Kim Sư.”
“Cả đống thằng.”
“Chúng muốn gì?” Kuwei run rẩy hỏi.
Matthias nghe thấy trên nền tiếng la lối nói cười là âm thanh trầm đầy kích động của những chiến binh biết mình đang chiếm lợi thế và đánh hơi thấy mùi đổ máu.
Tiếng hò reo vang lên khi một thằng trong băng Kim Sư chạy đà rồi ném thứ gì đó về phía nhà mồ. Nó bay qua một ô cửa sổ vỡ kính và đập mạnh vào sàn nhà. Chất khí màu xanh tuôn ra.
Matthias lấy một tấm mền ngựa và phủ lên quả bom khói. Anh ném nó trở ra ngoài qua cửa sổ trong lúc một loạt đạn khác no vang. Mắt anh cay xè, lệ tuôn ràn rụa trên má.
Tiếng ồn lên đến đỉnh điểm. Bọn Kim Sư lao tới trước. Jesper nổ một phát súng và một tên trong số những thằng đang lao lên ngã xuống, ngọn đuốc tắt ngấm khi chạm nền đất ẩm ướt. Jesper tiếp tục nã đạn hết lần này đến lần khác, không hề run tay khi những thằng trong băng Kim Sư gục ngã. Hàng ngũ của chúng gãy đổ khi mạnh đứa nào đứa nấy tản ra tìm chỗ ẩn nấp.
“Giữ hàng ngũ đi chứ, mấy đứa,” Jesper gằn giọng. “Ra ngoài đi!” Doughty hét lên từ phía sau một ngôi mộ. “Mày không thể bắn hết bọn tao đâu.”
“Tao không nghe thấy gì cả. Lại gần hơn đi,” Jesper la lớn.
“Bọn tao đã đập nát tàu thuyền của mày. Tụi mày sẽ
không thể đi khỏi hòn đảo này nếu không đi cùng bọn tao. Thế nên im mồm đi, bằng không bọn tao sẽ cắt đầu tụi mày đem về Barrel.”
“Coi chừng!” Matthias cảnh báo. Doughty đang làm họ phân tâm. Một quả bom khói khác bay qua cửa sổ, rồi một quả thứ ba. “Hầm mộ!” Matthias gào lên, và cả bọn lao tới phía bên kia của nhà mồ, chen chúc nhau chui vào lối đi trước khi đóng chặt cánh cửa đá sau lưng. Jesper xé áo nhét vào khe hở giữa cánh cửa và mặt sàn.
Mọi thứ tối om. Trong một thoáng, chỉ có tiếng ba người bọn họ ho sặc sụa, cố gắng tống khí ra khỏi phổi. Rồi Jesper lắc một cái đèn xương, và khuôn mặt họ được chiếu bằng thứ ánh sáng xanh lè ma quái.
“Làm thế quái nào bọn nó tìm được chúng ta kia chứ? Jesper thắc mắc.
“Không quan trọng,” Matthias đáp. Họ không có thời gian để tìm hiểu vì sao đảo Mạng Đen bị đột nhập. Tất cả những gì anh biết là nếu Pekka Rollins cử tay sai đến đây thì Nina cũng đang gặp nguy hiểm. “Đạn dược của chúng ta còn những gì?
“Wylan để lại một số quả bom tím phòng trường hợp chúng ta gặp rắc rối với bọn chiến binh người Shu, ngoài ra tôi cũng có hai quả bom sáng. Kuwei, cậu có gì?” “Tôi chẳng có gì cả.”
“Cái túi chết tiệt của cậu,” Jesper đáp. “Trong đó không có gì hữu dụng à?”
Kuwei ghì chặt túi hành lí vào ngực. “Mấy quyển sổ tay của tôi,” cậu nhóc sụt sịt đáp.
“Thế những thứ mà Wylan đang làm dở thì sao?” Matthias hỏi. Không ai buồn nghĩ đến chuyện dọn sạch chúng.
“Chỉ là một thứ gì đó mà cậu ta dùng để làm pháo hoa cho vụ cầu Thiện Nữ,” Jesper đáp.
Một tràng những tiếng la lối từ phía bên ngoài vọng vào. “Chúng sẽ cho nổ tung cánh cửa nhà mồ,” Matthias nói. Đó là cách anh sẽ làm nếu cần tù binh hơn là thi thể, mặc dù anh tin chắc Kuwei là người duy nhất trong số họ bọn Kim Sư muốn bắt sống.
“Ngoài kia phải có ít nhất ba chục tên sừng sỏ đang tìm cách lột da chúng ta,” Jesper nói. “Nhà mồ chỉ có một lối ra, và chúng ta đang kẹt trên một hòn đảo chết tiệt. Chúng ta tiêu rồi.”
“Có lẽ không,” Matthias nói trong lúc đưa mắt nhìn ánh sáng xanh ma quái của chiếc đèn xương. Mặc dù không có đầu óc mưu mô như Kaz, anh cũng được tôi luyện trong môi trường quân ngũ. Sẽ có cách cho tình huống này.
“Anh bị điên à? Bọn Kim Sư biết thừa quân số chúng áp đảo chúng ta như thế nào.”
“Phải,” Matthias đáp. “Nhưng chúng không biết hai trong số chúng ta là Grisha.” Bọn chúng tưởng chỉ đang truy đuổi một nhà khoa học, không phải một Tiết Hỏa Sư, và
Jesper bấy lâu nay vẫn giữ kín năng lực sáng Chế Gia của mình.
“Phải rồi, hai Grisha hầu như chưa được luyện tập,” Jesper nói.
Một tiếng uỳnh vang lên, khiến các bức tường rung chuyển và làm Matthias ngã dúi vào hai người còn lại. “Chúng đến rồi!” Kuwei hét lên.
Nhưng không có tiếng bước chân nào vang lên. Thêm một tràng những tiếng la lối từ phía ngoài hầm mộ vọng vào. Chúng dùng chưa đủ thuốc nổ,” Matthias nói. “Chúng muốn bắt sống cậu, thế nên chúng tỏ ra thận trọng. Chúng ta còn một cơ hội nữa. Kuwei, cậu có thể tạo ra bao nhiêu nhiệt lượng từ một ngọn lửa?”
“Tôi có thể làm cho lửa cháy mạnh hơn, nhưng duy trì thì khó đấy.”
Matthias nhớ lại hình ảnh những lưỡi lửa màu tím ngùn ngụt cháy trên thân thể gã người Shu có cánh, không thể dập tắt. Wylan đã nói sức nóng của chúng cao hơn lửa thường.
“Đưa một quả bom cho tôi,” anh nói với Jesper. “Tôi sẽ cho nổ vách tường phía sau của hầm mộ.”
“Để làm gì?”
“Để làm cho bọn chúng nghĩ chúng ta sẽ thoát ra ngoài qua lối đó,” Matthias đáp, rồi đặt quả bom ở cuối đoạn hành lang đá.
“Anh có chắc nó không làm chúng ta tan xác không
đấy?”
“Không,” Matthias thừa nhận. “Nhưng trừ phi cậu có ý tưởng gì hay ho hơn…”
“Tôi…”
“Bắn hạ nhiều địch thủ nhất có thể trước khi chúng ta toi mạng không phải là một lựa chọn.”
Jesper nhún vai. “Nếu vậy thì tiến hành thôi.” “Kuwei, ngay khi bom nổ, cậu hãy chạy nhanh hết sức có thể tới cửa nhà mồ. Lúc đó chắc khói độc đã tản bớt, nhưng tôi muốn cậu chạy. Tôi sẽ yểm trợ ngay phía sau cậu. Cậu có nhớ ngôi mộ có cột buồm lớn bị gãy không?”
“Ở phía bên phải á?”
“Đúng rồi. Hãy chạy thẳng tới đó. Jesper, lấy hết chỗ bột mà Wylan để lại, và chạy theo cậu ta.”
“Tại sao?”
Matthias châm ngòi. “Cậu có thể nghe theo mệnh lệnh của tôi, hoặc đi gặp bọn Kim Sư mà thắc mắc. Giờ thì nằm xuống.”
Anh đẩy cả hai sát vào tường, che chắn cho họ khi một tiếng uỳnh khủng khiếp vang lên từ đầu kia của đường hầm. “Chạy!”
Ba người lao qua cửa hầm mộ.
Matthias dùng một tay giữ vai Kuwei, thúc cậu ta chạy qua đám khói xanh còn sót lại. “Nhớ nhé, lao thẳng tới chỗ cột buồm gãy.” Anh đá tung cửa nhà mồ và ném quả bom
sáng lên trời. Nó nổ tung, tạo thành một chùm ánh sáng trắng loá. Anh lao vào bụi cây, dùng súng trường bắn về phía bọn Kim Sư trong lúc lom khom chạy qua các ngôi mộ.
Bọn Kim Sư nổ súng đáp trả, và Matthias vội thụp xuống nấp sau một đống đá phủ đầy rêu phong. Anh trông thấy Jesper vừa lao qua cửa nhà mồ vừa nổ súng, phá vòng vây chạy về phía cột buồm gãy bằng đá. Matthias ném nốt quả bom sáng còn lại lên không trong lúc Jesper nhào người sang bên phải và nhiều khẩu súng đồng loạt nổ vang như sấm dậy, khi băng Kim Sư phớt lờ mọi kỉ luật hoặc phần thưởng được hứa hẹn để xả bằng hết chỗ đạn mình có. Chúng có thể đã được chỉ thị giữ cho Kuwei còn sống, nhưng chúng chỉ là một đám trộm cướp Barrel, nào phải những binh lính được rèn luyện.
Dán bụng xuống đất, Matthias bò qua những ngôi mộ. “Mọi người có bị gì không?” Anh hỏi khi đến được khu lăng mộ có cột buồm đá bị gãy.
“Hết cả hơi, nhưng vẫn còn thở được,” Jesper đáp. Kuwei cũng gật đầu xác nhận dù đang run lẩy bẩy. “Kế hoạch rất tuyệt. Giờ thì bị mắc kẹt ở đây có gì khá hơn bị kẹt trong nhà mồ bên kia?”
“Cậu có mang theo chỗ bột của Wylan không?” “Những gì còn lại,” Jesper đáp và dốc hết các túi, lấy ra ba cái gói.
Matthias chọn bừa một cái. “Cậu có thể điều khiển chúng không?”
Jesper lúng túng đổi tư thế. “Có, tôi nghĩ thế. Tôi đã từng làm điều tương tự tại Lâu Đài Băng. Tại sao?”
Tại sao. Tại sao. Nếu đang ở trong hàng ngũ drüskelle, chắc cậu ta đã bị tống giam vì bất tuân phục rồi.
“Mạng Đen nổi tiếng là bị ma ám, đúng không? Chúng ta sẽ tạo ra vài con ma.” Matthias liếc nhìn quanh khu lăng mộ. “Bọn chúng đang tiến đến. Tôi cần cậu vâng lệnh và ngừng thắc mắc. Cả hai cậu.”
“Chẳng trách anh và Kaz không hợp nhau,” Jesper lẩm bẩm.
Cố gắng nói ngắn gọn trong chừng mực của mình, Matthias giải thích dự định của mình cho lúc này và khi họ tới mép đảo, nếu như kế hoạch của họ thành công.
“Tôi chưa bao giờ làm chuyện này trước đây,” Kuwei nói.
Jesper nháy mắt với cậu ta. “Thế nó mới hào hứng chứ.” “Sẵn sàng chưa?” Matthias hỏi.
Anh mở cái gói. Jesper giơ hai bàn tay lên. Với một tiếng vút khẽ, chỗ bột bay lên không trung, trở thành một đám mây lơ lửng, như thể thời gian trôi chậm lại. Jesper dồn sự tập trung vào đó đến mức mồ hôi túa ra trên trán, rồi phóng hai tay tới trước. Đám mây dàn mỏng ra, quần đảo trên đầu bọn Kim Sư, và bắt lửa từ một ngọn đuốc, nổ ra ánh sáng xanh lè.
Những kẻ đứng quanh tên cầm đuốc há hốc mồm.
“Kuwei,” Matthias ra lệnh.
Cậu nhóc người Shu giơ tay lên, và ngọn lửa của cây đuốc bắt đầu lan dọc theo phần cán, trườn xuống cánh tay kẻ đang cầm. Hắn hét lên, vứt cây đuốc đi rồi nằm lăn lộn trên mặt đất hòng dập lửa.
“Tiếp tục đi,” Matthias nhắc. Kuwei cong ngón tay lại, nhưng ngọn lửa xanh tắt phụt.
“Tôi xin lỗi!” Kuwei nói.
“Thử lại đi,” Matthias yêu cầu. Anh không có thời gian để dỗ dành.
Kuwei lại phóng hai bàn tay tới trước, và một chiếc đèn lồng của bọn Kim Sư nổ tung, làm bùng lên những lưỡi lửa màu vàng. Kuwei lui lại, như thể không dự định dùng lực mạnh như vậy.
“Đừng để mất tập trung,” Matthias hối thúc.
Kuwei ngoắc tay, và ngọn lửa cuồn cuộn bốc lên cao. “Ê, cũng không tệ đấy.” Jesper thốt lên, mở một cái gói khác và tung đám bột vào không trung, rồi vung tay, đẩy chúng bay tới trước, về phía ngọn lửa của Kuwei. Lưỡi lửa rùng rùng chuyển sang màu đỏ rực. “Stronti clorua,” Jesper thì thầm. “Thứ tôi thích nhất.”
Kuwei ngoắc tay, và một lưỡi lửa khác nhập vào ngọn lửa đỏ, tạo thành một con mãng xà uốn lượn bên trên đảo Mạng Đen, sẵn sàng tấn công.
“Ma!” Một đứa trong băng Kim Sư hét toáng lên.
“Đừng có hâm,” đứa khác đáp.
Quan sát con rắn lửa uốn lượn, hết thu vào lại toả ra, Matthias cảm thấy nỗi sợ trước kia dâng lên trong lòng. Anh đã kết thân với Kuwei, dù chính những ngọn lửa Tiết Hoả Sư này đã thiêu rụi ngôi làng của anh trong một trận đánh. Anh đã quên mất thứ năng lực mà thằng nhóc sở hữu. Hồi đó là chiến tranh, anh tự nhủ. Và bây giờ cũng vậy.
Băng Kim Sư đang bị sao nhãng, nhưng chuyện này sẽ không kéo dài.
“Thổi lửa sang mấy cái cây đi,” Matthias ra lệnh, và với một tiếng gằn, Kuwei dang rộng hai cánh tay. Những tán lá xanh cố gắng chống cự cuộc tấn công của lửa, nhưng rồi cũng khuất phục.
“Chúng có Grisha,” Doughty hét lớn. “Lột da chúng!” “Chạy ra mép nước!” Matthias nói. “Ngay!” Họ vội lao qua những tấm bia mộ và tượng thánh vỡ. “Kuwei, sẵn sàng nhé. Chúng ta cần toàn bộ nội lực của cậu.”
Họ trượt xuống bờ dốc, lao vào chỗ nước nóng. Matthias ném chỗ bom tím vào các thân thuyền bị đập vỡ. Lưỡi lửa tím lập tức nuốt chửng chúng, mượt mà một cách rùng rợn. Matthias đã qua lại chỗ này đủ nhiều lần để biết đây là nơi nông nhất của con kênh, doi cát dài là nơi những con thuyền dễ mắc cạn nhất, nhưng bờ đối diện của đất liền lại ở quá xa.
“Kuwei,” anh ra lệnh, thầm mong cậu nhóc người Shu đủ mạnh mẽ để đảm đương kế hoạch mà Matthias đã vạch ra ban nãy. “Mở đường đi.”
Kuwei phóng hai tay tới trước. Những ngọn lửa đổ xuống mặt nước, làm hơi nước bốc lên ngùn ngụt. Thoạt đầu, Matthias chỉ nhìn thấy một bức tường trắng xoá mờ mịt. Sau đó hơi nước tản ra và anh trông thấy những con cá nhảy lách tách trên mặt bùn, cua bò lổm ngổm dưới lòng kênh trơ đáy, trong lúc những lưỡi lửa tím liếm vào lớp nước ở hai bên bờ.
“Lạy các thánh và lũ lừa họ cưỡi,” Jesper ngỡ ngàng thốt lên. “Kuwei, cậu làm được rồi.”
Matthias quay người về phía đảo và nổ súng vào đám cây cối.
“Mau lên!” Anh hét to. Họ vội lao qua con đường mà mới một phút trước chưa từng tồn tại, phóng tới bờ kênh bên kia, nơi các ngõ hẻm để ẩn nấp đang chờ đợi. Phi tự nhiên, một giọng nói vang lên trong đầu Matthias. Không, anh nghĩ thầm. Kì diệu.
“Anh có nhận ra mình vừa lãnh đạo một top quân Grisha không vậy?” Jesper hỏi trong lúc họ nâng mình lên khỏi lòng kênh bùn lầy và chạy vội trên những con phố hướng đến Bãi Ngọt.
Quả vậy. Một suy nghĩ lạ lùng. Thông qua Jesper và Wylan, anh đã điều khiển năng lực Grisha. Thế nhưng anh không cảm thấy mình bị vấy bẩn hay nhúng chàm vì chuyện đó. Anh còn nhớ điều mà Nina đã nói về cách thức Lâu Đài Băng được xây dựng, rằng nó chắc phải là công trình của Grisha, chứ không phải của Djel. Liệu sẽ thế nào nếu cả hai
đều đúng? Sẽ thế nào nếu Djel đã ra tay thông qua những con người này? Phi tự nhiên. Chữ đó đến với anh một cách quá dễ dàng, để xua đi những thứ anh không hiểu, để hạ thấp Nina và những người như cô. Nhưng sẽ thế nào nếu như phía sau sự chính trực mà các drüskelle đi theo, có một điều gì đó kém trong sạch hoặc bất minh? Sẽ thế nào nếu nó thậm chí không phải là sự sợ hãi hay tức giận, mà chỉ đơn thuần là ghen tị? Có nghĩa lí gì khi dốc lòng phụng sự Djel, chỉ để thấy quyền lực của Ngài qua năng lực của người khác, chứ bạn không bao giờ có thể sở hữu những năng lực đó?
Các drüskelle đã thề trung thành với Fjerda lẫn vị thần của họ. Nếu họ sinh ra để thấy những điều kì diệu mà họ từng xem là sự kinh tởm, thì còn chuyện gì xảy ra nữa? Tôi được sinh ra để bảo vệ Người. Bổn phận của anh với vị thần của mình, bổn phận của anh với Nina. Nếu như chính là bàn tay của Djel đã dâng nước lên trong cơn bão cuồng nộ nhấn chìm con tàu drüskelle để đưa anh và Nina đến với nhau thì sao?
Matthias đang chạy qua những con phố của một vương quốc xa lạ, tiến đến những nguy hiểm mà anh chưa biết tới, nhưng đây là lần đầu tiên kể từ khi anh nhìn vào mắt Nina và thấy sự nhân đạo của mình phản chiếu trong đó, cơn bão lòng của anh lắng xuống.
Chúng ta sẽ tìm cách làm họ thay đổi suy nghĩ, cô đã nói như thế. Tất cả bọn họ. Anh sẽ tìm được Nina. Họ sẽ sống sót qua
đêm nay. Họ sẽ thoát khỏi cái thành Ketterdam ẩm ướt, bất lương này, và rồi… Phải, và rồi họ sẽ thay đổi thế giới.
4
INEJ
I
nej vặn người, thoát ra khỏi bàn tay đang nắm chặt gáy mình. Cô thụp xuống cho khỏi ngã. Đạp chân vào mái xi-lô, cô nhoài người ra xa cửa lật. Rồi cô bật dậy, dao đã kịp rút khỏi vỏ, sẵn sàng trên tay.
Đầu óc cô không thể hiểu được thứ mà mình nhìn thấy. Một đứa con gái đang đứng trước mặt cô, sáng trưng như một bức tượng tạc từ ngà voi và hổ phách. Áo và quần dài của con nhỏ có màu kem, viền da màu ngà và thêu hoạ tiết màu vàng. Mai tóc nâu của nó được tết thành bím dày, kết trang sức lấp lánh. Con nhỏ cao gầy, lớn hơn Inej chừng một hoặc hai tuổi.
Inej nghĩ tới nhóm chiến binh Kherguud mà Nina và những người khác chạm trán tại Tây Stave, nhưng đứa con gái này không giống người Shu.
“Xin chào, Bóng Ma,” con nhỏ lên tiếng.
“Chúng ta biết nhau à?”
“Ta là Dunyasha, Bạch Kiếm, được huấn luyện bởi Hội Hiền nhân Ahmrat Jen, sát thủ tài năng nhất lứa tuổi mình.” “Lạ hoắc.”
“Ta mới tới đây thôi,” đứa con gái thừa nhận, “nhưng ta biết ngươi là một huyền thoại trên những đường phố bẩn thỉu này. Phải thừa nhận, ta cứ tưởng ngươi phải… cao lớn hơn kìa.”
“Có chuyện gì?” Inej hỏi lại bằng câu cửa miệng của người Kerch vào đầu mọi cuộc gặp, mặc dù nói ra nó ở độ cao hai mươi tầng nhà như thế này thật kì dị hết sức.
Dunyasha mỉm cười. Nụ cười có vẻ như đã được tập luyện, giống các cô gái trong phòng tiếp khách thếp vàng của vườn Thú. “Ở cái nơi thô lỗ này mọi người chào hỏi nhau cộc cằn ghê!” Con nhỏ bâng quơ khoát tay về phía đường chân trời trong một cử chỉ vừa như nhìn nhận vừa phủi bỏ Ketterdam. “Định mệnh đã đưa ta tới đây.”
“Thế định mệnh có trả tiền cho mày không?” Inej hỏi lại, đưa mắt ước lượng đối thủ. Cô không nghĩ con nhỏ trèo lên cao thế này chỉ để làm quen. Khi giao đấu, chiều cao sẽ giúp nó có tầm đánh xa hơn, nhưng cũng ảnh hưởng tới sự thăng bằng của nó. Có phải Van Eck đã cử nó tới đây không? Và nếu vậy thì ông ta có cử ai đó bám theo Nina luôn không? Inej liếc nhanh xuống dưới, nhưng không thấy được gì trong những cái bóng tối om của cụm tháp. “Mày làm việc cho ai?”
Những con dao xuất hiện trong tay Dunyasha. Cạnh sắc của chúng ánh lên lấp loáng. “Cái chết là công việc của bọn ta,” con nhỏ nói, “và nó rất thiêng liêng.”
Vẻ đắc chí ánh lên trong mắt Dunyasha, sự sinh động
đầu tiên mà Inej nhìn thấy, ngay trước khi con nhỏ tấn công. Inej bị bất ngờ bởi tốc độ của địch thủ. Dunyasha di chuyển như một vệt màu, như thể bản thân là một lưỡi thép cắt xuyên bóng tối, với hai lưỡi dao phối hợp nhịp nhàng, hết trái lại phải. Inej để cho cơ thể mình đáp trả, né những đường dao theo bản năng và lùi xa địch thủ, nhưng tránh gờ mép của tháp xi-lô. Cô giả vờ né trái rồi vung nhát dao đầu tiên.
Dunyasha xoay người tránh đòn một cách dễ dàng, nhẹ nhàng như một tia nắng phản chiếu trên mặt họ. Inej chưa bao giờ thấy ai chiến đấu như vậy, như thể con nhỏ di chuyển theo một thứ âm nhạc mà chỉ mình nó nghe thấy.
“Ngươi e sợ rồi à, Bóng Ma?” Inej cảm thấy lưỡi dao của Dunyasha cắt qua ống tay áo. Cái nhói mà nó gây ra giống như một cú roi quất. Không quá sâu, cô tự nhủ. Trừ phi con dao có tẩm thuốc độc. “Ta nghĩ là có đấy. Người ta không thể vừa sợ cái chết vừa là phái viên thực thụ của nó được.”
Con nhỏ này có bị chập mạch không vậy? Hay nó chỉ lắm lời? Inej lùi lại, di chuyển vòng quanh mái xi-lô. “Ta sinh ra đã không biết sợ,” Dunyasha nói tiếp với một cái chậc lưỡi khoái trá. “Ba mẹ cứ sợ ta sẽ chết đuối, vì hồi nhỏ ta bò xuống biển, vừa bò vừa cười.”
“Có khi họ sợ mày chết vì nói nhiều ấy.”
Dunyasha lao tới với một sự mạnh mẽ mới. Inej tự hỏi phải chăng con nhỏ chỉ vờn cô trong loạt đòn tấn công đầu tiên, thăm dò điểm mạnh và điểm yếu trước khi chiếm lấy
ưu thế. Cả hai trao đổi vài đường dao, nhưng Dunyasha vẫn còn nguyên sức mạnh. Inej có thể cảm thấy từng vết đau, từng thương tích và những thử thách của một tháng qua trên cơ thể mình - nhát dao suýt đoạt mạng cô, màn leo ống khói lò đốt rác, những ngày cô bị cầm tù.
“Phải thú thực là ta thất vọng đấy,” Dunyasha lên tiếng trong lúc đôi bàn chân lướt đi thoăn thoắt trên mái xi-lô. “Ta đã tưởng ngươi sẽ là một thách thức. Nhưng ta thấy gì thế này? Một con mọi đen Suli biết nhào lộn, đánh đấm như phường du côn mạt hạng.”
Sự thật là vậy. Inej đã học lóm các ngón đòn từ bọn con trai như Kaz và Jesper trong các ngõ hẻm quanh co của Ketterdam. Dunyasha không chỉ có một lối tấn công. Con nhỏ có thể mềm dẻo như lau sậy khi cần, tấn công như một con mèo, rút lui như một làn khói. Inej không thể nắm bắt hay dự đoán chúng.
Con nhỏ giỏi hơn mình. Sự nhìn nhận đó có vị chua lòm như thể Inej vừa cắn vào một món trái cây hấp dẫn nhưng đã hỏng. Khác biệt không chỉ nằm ở việc rèn luyện. Inej học đánh nhau vì buộc phải làm thế nếu muốn sống sót. Cô đã khóc nức nở vào cái đêm mình hạ sát lần đầu tiên. Còn con nhỏ này khoái trá với điều đó.
Nhưng Ketterdam đã dạy cô rất kĩ. Nếu không thắng được vận may thì đổi trò chơi. Inej đợi cho đối thủ lao tới để nhảy lên sợi dây căng giữa hai xi-lô và liều mình đi trên nó. Cơn gió ập vào cô quyết liệt, như thể cảm thấy cơ hội của
mình. Inej nghĩ đến việc sử dụng cây gậy thăng bằng, nhưng cô muốn đôi tay rảnh rang.
Cô cảm thấy sợi dây võng xuống. Không thể nào. Nhưng khi Inej liếc nhìn qua vai, Dunyasha đã bắt chước cô đi trên sợi dây thăng bằng. Con nhỏ đang nhoẻn cười, làn da trắng sáng rực lên như thể nuốt chửng ánh trăng.
Bàn tay của Dunyasha phóng tới, và Inej hộc lên khi bị một vật sắc nhọn đâm vào bắp chân. Cô nhoài người ra sau, nắm lấy sợi dây bằng hai tay, và quay lại để đối mặt với địch thủ. Con nhỏ lại vung tay. Inej cảm thấy một cú đau nhói khác, và khi nhìn xuống, cô trông thấy một cái phi tiêu đang cắm trên đùi mình.
Từ đâu đó bên dưới, cô nghe thấy tiếng la hét và ẩu đả. Nina. Van Eck đã cử kẻ nào hay thứ gì tới tìm chị? Nhưng cô không thể sao nhãng, nhất là khi đang ở trên dây thăng bằng với con quỷ này.
“Nghe nói ngươi từng làm gái cho mụ công,” Dunyasha nói trong lúc phóng một phi tiêu nữa vào Inej, tiếp nối bằng một cái thứ ba. Inej tránh được cả hai, nhưng nhận một cái khác vào vai phải. Cô chảy máu khá nhiều. “Ta thà giết chính mình cùng tất cả mọi người dưới mái nhà đó chứ không để bản thân bị lợi dụng như vậy.”
“Mày đang bị lợi dụng đó,” Inej đáp. “Van Eck không xứng đáng với những kĩ năng của mày đâu.”
“Nếu ngươi nhất định muốn biết, thì Pekka Rollins là người trả tiền cho ta đó,” Dunyasha đáp. Inej cảm thấy sợi
dây dưới chân tròng trành. Rollins. “Ông ta trả tiền đi lại, ăn ở cho ta. Nhưng ta không đòi tiền cho những mạng sống mà mình tước đi. Chúng là đồ trang sức của ta. Là thanh danh của ta trên cõi đời này, và sẽ mang lại vinh dự cho ta ở kiếp sau.”
Pekka Rollins. Liệu ông ta đã tìm thấy Kaz rồi? Còn những người khác? Sẽ thế nào nếu Nina đang nằm chết dưới kia? Cô phải thoát khỏi con nhỏ này. Lại một cái phi tiêu hình sao bay vèo tới, khiến Inej né sang trái để tránh. Cô giật lùi trên sợi dây thăng bằng, và thoáng thấy một vệt sáng bạc khác. Cơn đau xé toạc cánh tay Inej. Cô rít lên.
Cái chết là công việc của bọn ta và nó rất thiêng liêng. Nhỏ lính đánh thuê này phụng sự thánh thần hắc ám phương nào đây? Inej mường tượng ra một gã khổng lồ sừng sững bên trên Ketterdam, không có cá tính và nét đặc biệt nào, làn da căng bóng nơi những cái tay cái chân mập ú, ừng ực uống máu từ các nạn nhân của đám lâu la. Cô có thể cảm thấy sự hiện diện của gã và lạnh toát trong cái bóng đồ sộ của gã.
Một mũi phi tiêu cắm vào cẳng chân của Inej, mũi khác găm vào cẳng tay. Cô liếc nhìn qua vai. Chỉ còn mươi bước chân nữa thôi là cô đến được tháp xi-lô thứ nhất. Dunyasha có thể đánh đấm giỏi hơn Inej, nhưng con nhỏ không biết rõ Ketterdam. Inej sẽ nhanh chóng trèo xuống chân tháp tìm Nina. Họ sẽ cắt đuôi con quỷ này nhờ hệ thống đường sá kênh rạch mà Inej thuộc nằm lòng.
Một lần nữa, cô ước lượng khoảng cách ở phía sau lưng mình. Chỉ vài bước nữa thôi. Nhưng khi cô quay lại nhìn thì Dunyasha đã không còn trên dây. Cô trông thấy con nhỏ cúi xuống, thò tay về phía cái móc nam châm. Không.
“Xin hãy bảo vệ con,” cô thì thào với các vị thánh của mình.
Sợi dây long ra. Inej rơi xuống, vặn người trong không trung như cô từng làm hồi bé, tìm kiếm đôi cánh của mình.
5
KAZ
K
az nghe thấy một tiếng rít trong tai. Anh luôn có cảm giác nhìn đôi lạ lùng mỗi khi quan sát Rollins, như thể vừa thức quá khuya sau một chầu nhậu tuý luý. Kẻ đứng trước anh là Pekka Rollins, ông vua của khu Barrel, trùm băng đảng kiêm bầu sô. Nhưng lão cũng là Jakob Hertzoon, thương gia liêm chính giả hiệu đã chiếm được lòng tin và cảm tình của hai anh em Kaz, trước khi cuỗm sạch tiền rồi bỏ mặc họ trên những con phố không biết nhân nhượng.
Đêm nay, mọi dấu vết của Jakob Hertzoon đã biến mất. Rollins mặc một chiếc gilet sọc xanh lá cài khuy chật khít trên cái bụng chớm phệ và quần dài màu ngọc lục bảo sặc sỡ. Rõ ràng lão ta đã thay thế cái đồng hồ bị Kaz xoáy mất, vì lão vừa lấy ra một cái mới và đang nhìn vào nó.
“Cái này chẳng chạy đúng giờ gì cả,” Rollins nói và lắc mạnh cái đồng hồ, chỗ tóc mai rung lên nhè nhẹ khi lão bực bội thổ hắt ra, “nhưng tôi không thể kiềm chế trước những thứ sáng bóng. Đừng có nói là cậu vẫn còn giữ cái đồng hồ đánh cắp của tôi nhé.” Kaz không nói gì. “Thôi,” Rollins nhún vai, đóng sập nắp đồng hồ lại và nhét nó vào túi áo gilet. “Ngay lúc này, thuộc hạ của tôi chắc đã bao vây nhóm
của cậu cùng một con tin vô giá trên đảo Mạng Đen.” Wylan buột miệng kêu lên một tiếng tuyệt vọng. “Tôi cũng đã chuẩn bị một thứ đặc biệt dành cho Bóng
Ma,” Rollins nói tiếp. “Một báu vật khác thường, con bé đó. Tôi không thích việc cậu sở hữu vũ khí siêu việt ấy, nên tôi đã tìm một người còn khác thường hơn để xử con bé.”
Một cảm giác khó chịu cồn lên trong bụng Kaz. Anh nhớ lúc Inej nhún vai, vóc người nhỏ nhắn toát lên sự tự tin. Tôi không cần lưới an toàn.
“Cậu thực sự nghĩ mình khó tìm đến thế à, Brekker? Tôi chơi cái trò này từ lâu lắm rồi. Tất cả những gì tôi phải làm là nghĩ xem mình sẽ làm gì nếu trẻ hơn và ngu ngốc hơn.”
Tiếng rít trong tai Kaz lớn hơn. “Ông làm việc cho Van Eck.” Anh đã nghĩ đến khả năng này, nhưng lại phớt lờ nó. Anh đã nghĩ nếu mình hành động đủ nhanh thì bọn họ sẽ không kịp hình thành một liên minh.
“Tôi làm ăn với Van Eck. Sau khi cậu đến gặp tôi để tìm cách kiếm tiền, tôi đã có cảm giác ông ta cần sự giúp sức của tôi. Lúc đầu ông ta ngần ngại, sau quả đắng với dân Barrel. Nhưng cái trò vặt vãnh mà cậu bày ra với cô vợ của Van Eck đã đẩy ông ta vào vòng tay âu yếm của tôi. Tôi đã nói với Van Eck rằng cậu sẽ luôn đi trước ông ta một bước, bởi vì ông ta không thể không suy nghĩ như một thương gia.”
Kaz khựng lại. Chẳng phải anh cũng có cùng suy nghĩ như vậy sao?
“Ông ta là một người khôn ngoan, hẳn rồi,” Rollins nói
tiếp, “nhưng lại có óc tưởng tượng hạn chế. Trong khi cậu, Brekker, cậu suy nghĩ như một thằng ranh con độc địa. Cậu là tôi, với nhiều tóc hơn, và ít kiểu cách hơn hẳn. Van Eck chắc mẩm đã nắm gáy được cậu ở Tây Stave, thậm chí ông ta còn tự tin đến mức lôi cả thị tuần vào cuộc. Nhưng tôi biết cậu không dễ bị bắt như thế.
“Và ông biết tôi sẽ đến đây?”
Rollins chậc lưỡi. “Tôi biết cậu không thể cưỡng được chuyện này. Ồ, tôi không biết kế hoạch của cậu, nhưng tôi biết bất kể thế nào nó cũng sẽ đưa cậu tới đây. Cậu không thể bỏ qua cơ hội làm nhục Van Eck và lấy lại những gì mà cậu nghĩ ông ta nợ cậu.”
“Thoả thuận là thoả thuận.”
Rollins lắc đầu, kêu cục cục như một con gà mái mẹ. “Cậu cá nhân hoá vấn đề quá mức, Brekker à. Lẽ ra cậu nên tập trung vào công việc, nhưng cậu lại quá bận ôm một mối thù.”
“Chỗ này thì ông sai rồi,” Kaz đáp. “Tôi không ôm mối thù. Tôi nâng niu nó. Tôi chiều chuộng nó. Tôi cho nó ăn những miếng thịt ngon lành, và đưa nó đi học ở những ngôi trường tốt nhất. Tôi nuôi dưỡng nó, Rollins à.”
“Tôi mừng là cậu vẫn giữ sự hài hước của mình. Sau khi cậu ra tù, đấy là tôi giả dụ như Van Eck để cho cậu được sống, có lẽ tôi sẽ nhận cậu vào làm việc. Thật đáng tiếc nếu để phí hoài một tài năng như cậu.”
“Tôi thà bị Van Eck quay chín trên một cái xiên còn hơn.”
Rollins nở một nụ cười cao thượng. “Tôi nghĩ chuyện đó cũng có thể thu xếp được. Tôi đâu phải loại người hẹp hòi.” Cứ nói tiếp đi, Kaz âm thầm giục trong lúc luồn tay vào cái túi đeo chéo của Wylan.
“Điều gì khiến ông nghĩ rằng Van Eck sẽ tôn trọng thoả thuận với ông hơn là những thoả thuận với chúng tôi?” “Bởi vì tôi rất sòng phẳng chuyện tiền nong, và những đòi hỏi của tôi rõ ràng là vừa phải hơn. Vài triệu kruge để loại khỏi Barrel một mối nguy mà bản thân tôi cũng muốn tống tiền ư? Hợp lí quá còn gì!” Rollins móc ngón tay cái vào áo gilet. “Sự thật là Van Eck và tôi hiểu nhau. Tôi đang bành trướng, mở rộng địa bàn, nghĩ lớn hơn. Hoàng Tử Kaelish là công trình đẹp đẽ nhất mà Đông Stave từng thấy, và nó chỉ mới là khởi đầu. Van Eck và tôi là những nhà xây dựng. Chúng tôi muốn tạo ra thứ gì đó trường tồn hơn bản thân. Rồi cậu sẽ hiểu điều đó, nhóc ạ. Giờ thì đưa cái triện đó đây, và đi từ tốn thôi, đồng ý chứ?”
Kaz lôi cái triện từ trong túi ra, giơ lên cao để nó được ánh đèn đường chiếu vào, thu hút ánh mắt của Rollins. Anh ngần ngừ.
“Coi nào, Brekker. Cậu kiên cường lắm, tôi phải công nhận điều đấy, nhưng tôi đã dồn cậu vào chân tường, và áp đảo cậu về quân số. Cậu không thể nhảy xuống qua cái cửa sổ kia, Van Eck đã điều thị tuần đứng đầy con phố bên dưới. Cậu đã xong, đã tiêu, đã vào tròng, vậy nên đừng làm bất cứ điều gì ngu xuẩn.”
Nhưng nếu không thể mở một cánh cửa, ta chỉ việc trổ cái khác. Rollins thật dễ gợi chuyện. Thật ra, Kaz không chắc mình có thể làm lão ta ngừng nói nếu muốn. Anh chỉ còn việc giữ cho đôi mắt của lão không rời khỏi cái triện vàng choé trên bàn tay phải của anh trong lúc mở lọ axit auric bằng tay trái.
“Sẵn sàng nhé,” anh thì thào.
“Kaz…” Wylan phản đối.
Nhưng Kaz đã quẳng cái triện cho Rollins đồng thời đổ phần axit còn lại xuống sàn. Căn phòng nóng rực lên, tấm thảm bốc khói cay xè trong tiếng rít dữ dội.
“Bắt chúng!” Rollins la lớn.
“Hẹn gặp ông ở bên kia,” Kaz nói, giáng mạnh cây gậy xuống ván sàn dưới chân. Chúng long ra với một tiếng ken két lạnh người.
Kaz và Wylan rơi xuống bàn tiệc ở tầng một giữa đám khói và bụi thạch cao, khiến nó sụm xuống vì sức nặng của cả hai.
Chân nến và bát đĩa văng tứ tung. Kaz bật dậy với gậy chống trong tay, nước sốt ròng ròng trên áo. Anh kéo Wylan đứng lên.
Anh có một khoảnh khắc ngắn ngủi để ghi nhận vẻ sửng sốt của các vị thương gia quanh bàn. Miệng họ há ra kinh ngạc, những chiếc khăn ăn vẫn còn nguyên trên đùi. Sau đó Van Eck hét lớn, “Tóm lấy chúng!” và Kaz cùng Wylan nhảy
qua một cái đùi giăm bông, ba chân bốn cẳng lao đi trên hành lang lát gạch đen trắng.
Hai vệ quân mặc chế phục bước vào qua cánh cửa lắp kính mở ra vườn sau nhà, súng trường giương lên. Kaz đua nước rút rồi trượt người tới trước. Anh xoay ngang cây gậy chống trước ngực và lướt qua giữa hai vệ quân, để cho cây gậy đập vào cẳng chân họ, hất ngã cả hai. Wylan bám theo anh, luống cuống chạy xuống mấy bậc thềm dẫn ra vườn. Họ mau chóng tiến đến nhà thuyền, leo qua lan can rồi nhảy xuống chiếc gondel của Rotty đang nằm chờ sẵn dưới kênh.
Một viên đạn găm vào mạn thuyền khi cơn mưa đạn trút xuống mặt nước quanh họ. Anh và Rotty cầm lấy mái chèo. “Chơi khô máu đi,” Kaz quát to, và Wylan ném toàn bộ chỗ bom sáng, pháo thăng thiên lẫn những mẫu thử cầm theo. Bầu trời phía trên ngôi nhà của Van Eck bùng nổ trong những luồng sáng, khói lửa và âm thanh, khiến các vệ quân nằm rạp xuống đất để nấp tránh.
Kaz đưa con thuyền tiến vào dòng lưu thông tấp nập trên kênh Geld.
“Đột nhập rồi thoát ra mà không gây chú ý là thế này sao?” Rotty hỏi.
“Tôi đúng được vế đầu,” Kaz gằn giọng.
“Chúng ta cần phải cảnh báo những người kia,” Wylan hổn hển nói. “Rollins đã nói…”
“Pekka Rolllins ở trong đó á?” Rotty hỏi. Kaz có thể nghe thấy sự hoảng sợ trong giọng điệu của Rotty. Một gã giang hồ kênh rạch sẵn sàng nghênh tiếp hàng nghìn bọn côn đồ, trộm cắp lẫn thương gia, nhưng lại sợ Pekka Rollins.
Kaz nghiêng mái chèo, lái con thuyền tránh kịp một chiếc tàu chở đầy khách du lịch.
“Chúng ta cần phải quay lại đảo Mạng Đen. Những người kia…”
“Im đi, Wylan, tôi cần suy nghĩ.”
Jesper và Matthias đều giỏi chiến đấu. Người có cơ may đưa Kuwei thoát khỏi Mạng Đen chính là họ. Nhưng làm thế nào Pekka Rollins tìm thấy họ? Chắc ai đó đã bị bám theo trong lúc quay về đảo. Tất cả bọn họ đều đối diện nguy cơ khi rời đảo. Bất kì ai cũng có thể bị nhận diện và theo dõi. Nina và Matthias? Wylan và Jesper? Hay bản thân anh? Sau khi Pekka Rollins đã phát hiện ra nơi ẩn náu của cả nhóm, chắc lão chỉ cần theo dõi rồi đợi cho họ tách ra và tự làm mình yếu đi.
Kaz gồng vai và Rotty hoà theo. Những nhịp chèo đưa con thuyền tiến nhanh hơn trên dòng kênh. Anh cần nó len lỏi giữa dòng thuyền bè và tránh xa ngôi nhà của Van Eck tối đa. Anh cần đến được Bãi Ngọt. Người của Rollins chắc hẳn đã theo chân Inej và Nina từ Mạng Đen tới đó. Sao anh lại để cho hai người tấn công cụm tháp một mình kia chứ? Nina và đám người tị nạn quý hoá của cô ta. Sẽ không có cuộc giải cứu vĩ đại cho các Grisha đêm nay. Mọi cơ hội của họ đều đã
tan tành. Tôi cũng đã chuẩn bị một thứ đặc biệt dành cho Bóng Ma. Trả thù cái quái gì, mưu mô cái quái gì chứ. Nếu Rollins đụng tới Inej, anh sẽ sơn lại khu Đông Stave bằng máu của lão.
Nghĩ đi. Khi một kế hoạch thất bại, ta vạch ra một cái mới. Khi bị dồn vào chân tường, ta trổ một cái lỗ trên mái nhà. Nhưng anh không thể sửa chữa thứ mà anh chưa nắm bắt được. Mưu đồ đã đổ vỡ. Anh đã không đáp ứng được kì vọng của mọi người. Anh đã không đáp ứng được kì vọng của Inej. Tất cả chỉ vì anh có một điểm mù mỗi khi Pekka Rollins xuất hiện. Jesper chắc đã mất mạng. Inej chắc đang đổ máu trên những con phố của Bãi Ngọt.
Anh quay mái chèo lại. “Chúng ta sẽ đi tới khu kho bãi.” “Những người kia thì sao?”
“Jesper và Matthias là hai chiến binh thiện nghệ, và Pekka Rollins sẽ không dám làm hại Kuwei. Chúng ta sẽ tới Bãi Ngọt.”
“Anh đã nói chúng ta sẽ được an toàn trên đảo Mạng Đen,” Wylan phản đối. “Anh đã nói…”
“Không có nơi nào an toàn cả,” Kaz nạt nộ. “Ở Barrel, hay ở bất kì đâu.” Anh dồn sức vào tay chèo. Không triện. Không tàu. Tiền thì mất.
“Giờ chúng ta làm gì đây?”Wylan khẽ hỏi, giọng cậu gần như không nghe được giữa tiếng sóng nước ì oạp và âm thanh của những con tàu khác trên kênh.
“Cầm lấy mái chèo và tỏ ra hữu ích đi,” Kaz đáp. “Hoặc
tôi sẽ quẳng cái đồ trẻ con nhà cậu xuống nước và để cho cha cậu tới vớt cậu lên.”
6
NINA
N
ina nghe thấy trước khi nhìn thấy chúng. Cô đang đứng giữa tháp xi-lô thứ hai và thứ ba, nơi có thể quan sát các diễn biến của Inej và để mắt trông chừng chốt gác.
Inej đã trèo lên tháp như một con nhện bé xíu lanh lẹ, di chuyển ở tốc độ khiến Nina chỉ nhìn thôi cũng thấy mệt. Góc nhìn dốc đứng khiến cô gần như không quan sát được sau khi Inej lên đến đỉnh tháp và không thể biết cô bé thao tác đến đâu với cái cửa lật. Nhưng Inej không khởi sự băng qua tháp thứ hai khi Nina phát tín hiệu lần đầu tiên, nên có lẽ cô bé bị chậm trễ gì đó với sợi dây hoặc với mọt hạt. Ở lần phát tín hiệu thứ hai, Nina trông thấy Inej bước ra ngoài không trung.
Từ chỗ đứng của Nina, sợi dây hoàn toàn vô hình trên nền trời đêm, và trông Inej giống như đang lơ lửng, chuẩn xác và cân nhắc trong từng bước đi. Ồ, có một chút nghiêng ngả. Giờ là một hiệu chỉnh nhỏ. Tim Nina đập thình thịch trong lúc chứng kiến. Cô có cảm giác phi lí rằng nếu mất tập trung dù chỉ một giây thôi, Inej sẽ té ngã, như thể sự chú ý và niềm tin của cô là thứ giúp cho Bóng Ma ở trên dây.
Khi Inej rốt cuộc cũng đến được tháp xi-lô thứ hai, Nina
muốn reo lên, nhưng cô nén lòng lại để chỉ nhún nhảy khe khẽ. Sau đó, cô đợi cho tốp vệ quân xuất hiện ở phía tây của vòng rào. Họ dừng lại vài phút tại chốt gác trước khi đi tiếp. Nina sắp phát tín hiệu cho Inej thì nghe một tiếng cười lớn. Tốp vệ quân cũng nghe thấy và tỏ ra cảnh giác. Nina thấy một người trong số họ thắp ngọn đèn lồng trên nóc chốt gác để gọi viện binh - một biện pháp phòng ngừa trong trường hợp có rắc rối. Dạo này hay xảy ra những vụ bạo động, và với tình hình hỗn loạn ở Tây Stave ngày hôm qua, cô không mấy ngạc nhiên khi tốp vệ quân mau chóng gọi tiếp viện.
Có vẻ như họ sẽ cần đến nó. Nina có thể nhận ra những gã côn đồ khu Barrel ngay khi trông thấy, và dường như nhóm này khá nguy hiểm. Tất cả bọn chúng đều to cao, lực lưỡng, được vũ trang đầy đủ. Hầu hết có súng, một dấu hiệu rõ rệt cho thấy chúng không chỉ tìm kiếm một cuộc ẩu đả. Tên cầm đầu mặc một chiếc áo gilet kẻ ô chật khít nơi bộ ngực vạm vỡ, tay vung vẩy sợi xích. Nina có thể nhìn thấy một hình xăm tròn nơi cẳng tay hắn. Tuy không thấy hết các chi tiết từ khoảng cách này, nhưng cô dám cá đó là một con sư tử cuộn mình tạo thành chiếc vương miện. Băng Kim Sư. Đàn em của Pekka Rollins. Bọn chúng làm cái quái gì ở đây?
Nina ngước nhìn lên. Inej chắc đang bỏ mọt hạt vào tháp xi-lô thứ hai. Hi vọng cô bé nằm ngoài tầm quan sát của chúng. Nhưng băng của Pekka muốn gì?
Câu trả lời đến ngay sau đó. “Nghe nói có một Độc Tâm Y đang ẩn nấp đâu đây,” thằng mặc gilet nói lớn tiếng, tay
vẫn vung vẩy sợi xích.
Thánh thần ơi, tiêu rồi. Có phải bọn Kim Sư đã bám theo Inej và cô từ đảo Mạng Đen không? Những người kia có gặp rắc rối không? Sẽ thế nào nếu Pekka Rollins và đồng bọn đã biết về những Grisha đang trốn ở đại sứ quán? Một vài người trong số đó đang phá vỡ giao kèo làm việc khi tìm cách rời khỏi Kerch. Họ có thể bị tống tiền hoặc tệ hơn. Pekka có thể bán họ cho người Shu. Bây giờ mày có rắc rối của riêng mày, một giọng nói cất lên trong đầu Nina. Đừng có lo đi giải cứu thế giới nữa, lo cứu cái thân mày trước đi. Đôi khi giọng nói trong cô tỏ ra rất khôn ngoan.
Một người trong tốp vệ quân bảo vệ cụm tháp xi-lô bước tới trước - một hành động can đảm, Nina nghĩ bụng, xét theo sự biểu dương sức mạnh của băng Kim Sư. Cô không nghe được hai bên nói gì. Một tờ giấy có dấu triện đỏ rực được đưa ra.Tay vệ quân đưa nó cho người bên cạnh đọc. Giây lát sau anh ta nhún vai. Thế rồi, trước sự kinh hoàng của Nina, tay vệ quân bước tới mở cổng. Chiếc đèn lồng trên nóc chốt gác lại loé lên. Họ đang gọi viện binh.
Dấu triện đỏ. Màu của Van Eck. Đây là cụm xi-lô của ông ta, và không thể nào có chuyện quân lính của ông ta mở cổng nếu không được chủ nhân ra lệnh. Sự liên can đó khiến đầu óc cô quay cuồng. Có thể nào Jan Van Eck và Pekka Rollins hợp tác với nhau hay không? Nếu thế thì cơ hội để bọn cô rời khỏi Ketterdam đã tan tành.
“Ra mặt đi nào, Nina bé cưng. Pekka có việc cho cưng
đây.”
Nina trông thấy sợi xích trên tay thằng cầm đầu có gắn một cặp còng lớn. Hồi cô mới tới Ketterdam, Pekka Rollins đã đề nghị nhận cô vào làm và hứa bảo vệ cô. Nhưng cô lại chọn theo băng Cặn Bã. Có vẻ như Pekka không còn quan tâm đến giao kèo hay luật giang hồ. Lão ta sẽ xích cổ cô lại, có lẽ để bán cho người Shu, hoặc dâng cô cho Van Eck để ông ta thuốc cô bằng parem.
Nina được che chắn trong bóng của tháp xi-lô thứ hai, nhưng chỉ cần đi vài bước là cô sẽ để lộ mình. Cô nghĩ đến viên thuốc độc trong túi.
“Đừng buộc bọn tao phải bắt mày, gái cưng à.” Thằng cầm đầu bọn Kim Sư ra hiệu cho những đứa còn lại tản ra. Nina nhận thấy cô có hai lợi thế: Đầu tiên, cặp còng kia đồng nghĩa Pekka có lẽ muốn bắt sống cô. Lão ta sẽ không muốn hi sinh một Độc Tâm Y đáng giá, nên bọn chúng sẽ không nổ súng. Thứ hai, bọn nhãi nhép này không biết parem đã làm năng lực của cô bị gián đoạn, cô và Inej sẽ có thêm một ít thời gian.
Nina vén tóc, huy động toàn bộ sự can đảm của mình để bước ra chỗ sáng. Ngay lập tức cô nghe thấy tiếng lên cò súng.
“Bình tĩnh nào,” cô lên tiếng, một tay chống hông. “Tôi sẽ chẳng có ích lợi gì cho Pekka nếu các anh khoan lỗ chi chít trên người tôi giống như nắp một cái lọ tiêu.”
“Xin chào, cô em Grisha, có muốn chúng ta vui thú một
chút không?”
Tuỳ vào định nghĩa của chúng mày. “Này trai đẹp, anh tên gì?”
Thằng nhóc băng Kim Sư nhoẻn cười, để lộ một cái răng vàng và một lúm đồng tiền quyến rũ. “Eamon.” “Tên Kaelish đẹp đấy. Kenye hom?”
“Mẹ tao là người Kaelish. Tao không nói cái thứ tạp ngữ đó.”
“Ồ, hay là anh bảo đồng bọn hạ súng xuống để tôi dạy anh vài từ nhé.”
“Quên đi. Tao biết bọn Độc Tâm Y sử dụng năng lực như thế nào. Đừng hòng nắm thóp được tao.”
“Tiếc quá,” Nina đáp. “Nghe này, Eamon, đêm nay chúng ta không cần gây hấn. Tôi chỉ muốn biết đề nghị của Pekka thôi. Nếu tôi phải qua mặt Kaz thì tôi cần biết chuyện đó đáng giá bao nhiêu…”
“Kaz Brekker chắc đã ngoẻo rồi, cưng à. Và Pekka không đề xuất gì hết. Mày sẽ đi với bọn tao, dù tay có bị còng hay không.”
Nina giơ hai tay lên và trông thấy đám Kim Sư cứng người lại, sẵn sàng nhả đạn bất chấp mệnh lệnh của Pekka. Cô biến cử chỉ của mình thành cái duỗi người. “Này Eamon, anh nên biết rằng trước khi bập được còng vào tay tôi thì ruột gan của một nửa trong số các anh đã bị nghiền ra bã.”
“Mày không thể nhanh thế được.”
“Tôi đủ nhanh để khiến anh không bao giờ…” Cô liếc mắt đầy ngụ ý vào bụng dưới của hắn “… chào cờ ở Tây Stave được nữa.”
Giờ thì Eamon tái mặt. “Mày không thể làm được.” Nina bẻ ngón tay rôm rốp. “Tôi thử nhé?”
Một tiếng xoảng khẽ vang lên từ đâu đó trên đầu họ, và bọn Kim Sư lập tức chĩa súng lên trời. Chết tiệt, Inej, đừng có gây tiếng động. Nhưng khi Nina ngước mắt lên, tâm trí cô đờ ra trong sự kinh hãi. Inej đã quay lại sợi dây, nhưng không đi một mình.
Trong một thoáng, Nina tưởng mình bị ảo giác khi quan sát cái bóng trắng bám theo Inej trên dây. Nom cô ta giống như một con ma lơ lửng trên không. Cái bóng ném một vật gì đó, loang loáng giống như bằng kim loại. Nina không thấy được nó trúng vào đâu, nhưng Inej loạng choạng, trước khi chỉnh lại tư thế, hai cánh tay dang ra giữ thăng bằng.
Phải có cách nào đó để giúp Inej. Nina thử dùng năng lực với bóng ma áo trắng. Cô cố tìm kiếm mạch đập, những thớ cơ hay bất cứ thứ gì mà mình có thể kiểm soát được của cô ta, nhưng một lần nữa lại là sự mù loà khủng khiếp, sự trống rỗng ấy.
“Không định giúp bạn à?” Eamon hỏi.
“Bạn tôi tự xoay sở được,” Nina đáp.
Eamon cười đểu. “Mày hoá ra chẳng mạnh mẽ được như bọn tao nghe đồn. Chỉ giỏi nói thôi.” Hắn quay về phía đồng
bọn. “Đứa nào tóm được nó trước tiên, tao đãi rượu đêm nay.”
Bọn chúng không lao vào cô. Chúng không ngu. Chúng chậm rãi tiến lên, súng giương cao. Nina giơ hai tay lên. Đối phương khựng lại, nao núng. Nhưng khi không có chuyện gì xảy ra, cô thấy chúng liếc nhau, trao đổi vài cái cười khẩy, rồi tiến tới nhanh hơn, không còn sợ hãi, sẵn sàng tóm lấy phần thưởng của mình.
Nina đánh liều liếc nhìn lên trời. Inej vẫn đang làm cách nào đó giữ được thăng bằng. Hình như Inej đang tìm cách quay trở lại tháp xi-lô đầu tiên, nhưng rõ ràng cô bé đang bị thương và bước đi không vững.
Tấm lưới. Nhưng một mình Nina không thể xoay sở với nó được. Nếu cô dùng một chút parem, chỉ nhấm một tí thôi, cô có thể buộc những tên ngốc này giúp mình. Chúng sẽ tuân lệnh cô răm rắp mà không buồn suy nghĩ.
Tâm trí Nina vươn ra, tìm bắt một thứ gì đó, bất cứ thứ gì. Cô sẽ không đứng đờ ra ở đây để bị tóm và nhìn Inej chết. Nhưng tất cả những gì cô cảm thấy là một khoảng trống tối đen. Không có mảnh xương nào, không có mẩu bụi nào để nắm bắt. Thế giới từng rất sống động với nhịp tim, hơi thở, dòng máu, giờ trống rỗng. Một hoang mạc đen ngòm với bầu trời không sao, mặt đất trơ trọi.
Một tên Kim sư lao tới, thế là cả bọn xông vào Nina, níu lấy tay cô, lôi cô về phía Eamon, kẻ đang cười ngoác miệng, lúm đồng tiền biến dạng thành hình trăng lưỡi liềm.
Nina rú lên một tiếng điên dại, vẫy vùng như một con thú hoang. Cô không bất lực. Cô từ chối chấp nhận điều đó. Em không biết chiến binh nào quả cảm hơn chị, dù có hay không có năng lực Grisha.
Thế rồi cô cảm thấy nó - ở đó, giữa hoang mạc đen ngòm, một nơi lạnh đến mức làm cô phải bỏng. Ở đó, phía bên kia cụm xi-lô, trên bờ kênh, về phía hải cảng - con tàu gom xác, nơi những tử thi chất thành đống. Một sự thức tỉnh chạy xuyên qua người cô. Cô không cảm nhận được nhịp tim hay dòng máu, nhưng cô cảm thấy một điều gì đó khác. Cô nghĩ tới những mảnh xương, nhớ lại cảm giác dễ chịu của mình khi ở trên đảo Mạng Đen, giữa những nấm mồ.
Eamon cố gắng bập còng vào cổ tay Nina.
“Xích cả cổ nó nữa!” Một thằng Kim Sư khác hét lên. Nina cảm thấy một bàn tay luồn vào tóc mình, kéo ngửa đầu cô ra sau để phơi bày cái cổ. Cô biết điều mình đang nghĩ thật điên rồ, nhưng cô không còn lựa chọn tỉnh táo nào nữa. Bằng tất cả hơi sức còn lại, cô đá thật mạnh vào Eamon, làm hắn buông ra. Rồi cô vung hai cánh tay lên, tập trung toàn bộ ý thức, và cảm thấy các tử thi trên tàu nhỏm dậy. Cô siết nắm đấm lại. Đến với tôi.
Bọn Kim Sư nắm lấy hai cổ tay Nina. Eamon vả vào miệng có, nhưng Nina vẫn tiếp tục siết nắm đấm, không lơi lỏng sự tập trung. Đây không phải là sự phấn khích mà cô cảm thấy khi dùng parem. Nó từng là hơi nóng, là ngọn lửa, là ánh sáng. Giờ đây nó là ngọn lửa lạnh, ngấm ngầm và
xanh lét. Cô cảm thấy các tử thi đứng dậy, từng người một, đáp lại lời kêu gọi của cô. Những bàn tay đang tóm chặt cô, sợi xích quấn lấy cổ tay cô, nhưng cái lạnh giờ đây càng mạnh mẽ hơn, như một dòng sông mùa đông cuộn chảy với những ghềnh thác đen ngòm lởm chởm băng vỡ.
Nina nghe thấy tiếng la hét, một loạt súng, và tiếng kim loại bị bẻ cong. Những bàn tay đang níu giữ cô buông ra, và sợi xích rơi xuống mặt đá với một âm thanh gần như là tiếng nhạc. Nina phóng hai cánh tay tới trước, thọc sâu hơn nữa vào cái lạnh của dòng sông.
“Cái quái gì đây,” Eamon thốt lên sau khi quay người về phía chốt gác. “Cái quái gì đây!”
Lúc này bọn Kim Sư đã lùi lại, quên cả nhiệm vụ, sự kinh hoàng hiện lên trên khuôn mặt, và Nina có thể hiểu được vì sao. Một hàng người đang đẩy hàng rào, lay nó cật lực. Có những người già, người trẻ, nhưng tất cả đều đẹp đẽ - những đôi má ửng hồng, đôi môi đỏ, mái tóc óng mượt bồng bềnh quanh gương mặt họ tựa như đang ở dưới nước. Họ vừa đáng yêu lại vừa đáng sợ, vì trong khi một số người không mang thương tích gì, một cô gái lại có chiếc váy đầy vệt máu và chất nôn, một người khác thì mang trên mình vết thương rộng hoác đã phân huỷ đen ngòm. Hai người trần truồng, một người có vết cắt dài ngang bụng, làn da hồng hào phanh ra. Những con mắt của họ ánh lên sắc đen lạnh như mặt nước mùa đông.
Nina cảm thấy buồn nôn. Cô thấy lạ lẫm và hơi hổ thẹn,
như thể mình đang nhòm qua một cửa sổ mà không được phép. Nhưng cô không có lựa chọn nào khác, và sự thật là, cô không muốn dừng lại. Cô cong ngón tay.
Hàng rào đổ ập tới trước trong tiếng kim loại gãy răng rắc. Bọn Kim Sư nổ súng, nhưng những tử thi tiếp tục tiến tới, không chút bận tâm hay sợ sệt.
“Là nó đó!” Eamon hét lên và lật đật quay người, ngã xuống rồi lồm cồm bò dậy, trong lúc đám đàn em tháo chạy vào đêm tối. “Chúng kéo đến vì con chó Grisha đó!”
“Dám cá là bây giờ anh chỉ ước gì chúng ta nói chuyện đàng hoàng như lúc nãy,” Nina gằn giọng. Nhưng cô không còn bận tâm tới băng Kim Sư nữa.
Cô ngước mắt nhìn lên. Inej vẫn còn đang ở trên sợi dây, nhưng đứa con gái đã leo vào tháp xi-lô thứ hai và đang vươn tay với tới cái móc.
Tấm lưới, Nina ra lệnh. Mau. Các tử thi di chuyển nhanh như chớp. Họ lao tới, rồi thình lình dừng lại, như thể đang chờ hiệu lệnh. Nina tập trung mọi tư tưởng buộc họ vâng lệnh, cô dồn toàn bộ sức mạnh và sự sống của mình vào họ. Chỉ trong chớp nhoáng, họ đã có tấm lưới trong tay, và họ chạy, nhanh đến nỗi Nina không nhìn theo kịp.
Sợi dây bung ra. Inej rơi xuống. Nina hét lên.
Cơ thể Inej chạm vào tấm lưới, bật lên cao, rồi lại rơi xuống lưới.
Nina chạy tới. “Inej!”
Cô bé Suli nằm lọt thỏm giữa tấm lưới, cơ thể găm đầy những mảnh phi tiêu hình sao, máu túa ra từ các vết thương. Đặt cô ấy xuống, Nina ra lệnh, và các tử thi làm theo, hạ thấp tấm lưới xuống mặt đá. Nina lật đật quỳ xuống bên cạnh. “Inej,” cô gọi.
Inej quàng tay quanh cổ Nina.
“Đừng bao giờ, đừng bao giờ làm như vậy nữa,” Nina nức nở.
“Một tấm lưới?” Một giọng hài hước cất lên. “Ăn gian thật.”
Inej cứng người. Đứa con gái tóc trắng đã xuống đến chân xi-lô thứ hai và đang bước nhanh về phía họ. Nina vung tay. Các tử thi lập tức bước tới che chắn cho hai chị em cô. “Có chắc là mày muốn chiến không, hoa tuyết?”
Đứa con gái nheo cặp mắt xinh xẻo. “Ta đã thắng,” nó nói với Inej. “Ngươi thừa biết điều đó.”
“Đêm nay mày gặp may,” Inej đáp với giọng yếu ớt. Đứa con gái nhìn binh đoàn tử thi trước mặt, ước lượng cơ hội của mình. Rồi nó nghiêng người. “Chúng ta sẽ gặp lại nhau, Bóng Ma.” Nói đoạn nó quay về hướng mà Eamon cùng đồng bọn đã bỏ chạy, nhảy qua hàng rào đổ, và biến mất.
“Một kẻ thích làm màu,” Nina lên tiếng. “Ý chị là, ai lại đi mặc đồ trắng khi cận chiến bằng dao kia chứ?”
“Dunyasha, Bạch Kiếm hay gì đó. Con nhỏ rõ ràng muốn giết em. Không chỉ nó.”
“Em có bước đi được không?”
Inej gật đầu, dù da mặt tái xanh. “Nina, những người này… họ đã chết rồi sao?”
“Em nói chị mới thấy, đáng sợ thật.”
“Nhưng chị có dùng…”
“Không. Chị không dùng parem. Chị không biết nó là cái gì.”
“Một Grisha có thể nào…”
“Chị không biết nữa.” Giờ đây, khi nỗi sợ trước cuộc phục kích và cú ngã của Inej lắng xuống, Nina cảm thấy một chút tởm lợm. Cô vừa mới làm gì vậy? Cô đã nhúng tay vào thứ gì?
Nina còn nhớ mình từng hỏi một giáo viên ở Tiểu Điện về nguồn gốc năng lực của Grisha. Hồi đó cô chỉ là một đưa trẻ mới lớn, kinh ngạc trước những Grisha trưởng thành lên đường và trở về sau những sứ mạng quan trọng.
Năng lực gắn kết chúng ta với cuộc sống theo những cách mà những người bình thường không bao giờ hiểu được, giáo viên của Nina đã nói vậy. Chính vì thế, việc sử dụng năng lực làm cho chúng ta mạnh lên thay vì yếu đi. Chúng ta gắn liền với quyền năng sáng tạo, sự tạo dựng mang tính cốt lõi của thế giới này đối với Tâm Y, sợi dây gắn kết đó càng bền chặt, bởi vì chúng ta làm việc với sự sống và cái chết.
Người giáo viên đó đã giơ tay lên, và Nina cảm thấy mạch đập của mình chậm lại một chút. Các học viên khác ồ lên rồi nhìn nhau, tất cả đều cảm thấy giống như cô. Các em có cảm thấy không? Người giáo viên hỏi. Tất cả trái tim của chúng ta, đập cùng nhau, gắn liền với nhịp sống của thế giới này?
Đó là cảm giác kì lạ nhất, cơ thể cô hoà tan như thể họ không còn là các học viên mài đũng quần trên ghế nhà trường, mà là một sinh vật, với một trái tim, một mục tiêu duy nhất. Điều đó chỉ kéo dài trong vài giây, nhưng Nina không bao giờ quên cảm giác kết nối ấy, cũng như việc nhận thức đột ngột rằng năng lực của cô đồng nghĩa với việc cô không bao giờ đơn độc.
Nhưng năng lực mà cô sử dụng đêm nay là gì? Nó không hề giống như thế. Nó là một sản phẩm của parem, không phải sự tạo dựng mang tính cốt lõi của thế giới này. Nó là một sai lầm.
Nhưng để sau hẵng hay. “Chúng ta rời khỏi đây thôi,” Nina nói, đỡ Inej đứng dậy và nhìn các tử thi quanh họ. “Thánh thần ơi, họ bốc mùi ghê quá.”
“Nina, họ nghe thấy chị thì sao?”
“Các người có nghe thấy tôi không?” Nina hỏi. Nhưng các tử thi không đáp, và khi cô dùng năng lực để với tới họ, cô không cảm thấy chút sự sống nào. Tuy vậy, có một điều gì đó ở đây, một điều gì đó đáp lại cô theo cái cách mà người sống không thể tạo ra nữa. Cô lại nghĩ đến dòng sông băng giá. Cô vẫn có thể cảm thấy nó quanh mình, quanh mọi thứ,
nhưng giờ đây nó trôi lững lờ.
“Chị sẽ làm gì với họ?” Inej hỏi.
Nina nhún vai bất lực. “Trả họ về nơi của họ, chị nghĩ vậy.” Cô giơ hai tay lên. Đi đi, cô thầm nói với họ một cách rành rọt nhất có thể, hãy yên nghỉ.
Các tử thi di chuyển, một sự nhộn nhịp thình lình khiến Inej lẩm nhẩm lời cầu nguyện trên môi. Nina nhìn họ mờ dần, chìm khuất vào trong bóng tối.
Inej khẽ rùng mình, rồi gỡ một cái phi tiêu cắm trên vai, thả rơi nó xuống đất với một tiếng keng rợn người. Máu đã chảy chậm lại, nhưng rõ ràng cô bé cần được băng bó. “Chúng ta đi thôi, trước khi các thị tuần kéo đến,” cô nói.
“Đi đâu?” Nina hỏi lại trong khi họ khỏi sự đi về phía con kênh. “Nếu Pekka Rollins tìm ra chúng ta thì…” Bước chân Inej chùng lại khi cô nhận ra thực tế. “Nếu Mạng Đen đã bại lộ, Kaz… Kaz dặn em cần đi đến một chỗ này nếu mọi chuyện xấu đi. Nhưng…”
Câu nói bị bỏ lửng. Sự can thiệp của Pekka Rollins đồng nghĩa với điều tồi tệ hơn nhiều so với một kế hoạch đổ vỡ. Nếu đảo Mạng Đen bị nổ tung thì sao? Chuyện gì đã xảy ra với Matthias? Pekka Rollins có tha mạng cho anh, hay sẽ bắn anh trước rồi nhận tiền thưởng sau?
Các Grisha. Sẽ thế nào nếu Pekka Rollins bám theo Jesper và Matthias tới đại sứ quán? Sẽ thế nào nếu họ cùng những người tị nạn đi tới hải cảng và bị bắt giữ? Một lần nữa cô
nghĩ tới viên thuốc màu vàng trong túi. Cô nghĩ tới đôi mắt vàng hung tợn của Tamar, ánh mắt quyền lực của Zoya, và nụ cười trêu chọc của Genya. Họ đã tin tưởng cô. Nếu có gì xảy ra với họ, cô sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân mình.
Trong lúc hai chị em quay ra bò kênh, nơi neo con thuyền của họ, Nina liếc nhìn chiếc tàu gom xác, nơi tử thi cuối cùng đang nằm xuống, thu xếp tư thế cho vừa chỗ. Lúc này trông họ khác hẳn, làn da trở lại màu xám tro và trắng bệch của cái chết. Nhưng có lẽ cái chết không chỉ có một diện mạo.
“Chúng ta đi đâu đây?” Nina hỏi lại.
Đúng lúc đó, họ trông thấy hai bóng người chạy tới. Inej lần tìm bộ dao của mình, còn Nina thì giơ hai tay lên, sẵn sàng kêu gọi các chiến binh chết chóc một lần nữa. Cô biết lần này sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Kaz và Wylan xuất hiện dưới ánh đèn đường, quần áo nhàu nhĩ, tóc tai dính đầy thạch cao và thứ gì đó giống như nước thịt. Kaz nặng nề tựa vào gậy chống, nhịp chạy không ngơi nghỉ, những đường nét sắc cạnh trên khuôn mặt anh toát lên sự cương quyết.
“Chúng ta sẽ cùng nhau mở đường máu,” Inej thì thào. Nina đưa mắt từ Inej nhìn sang Kaz, và nhận ra khuôn mặt họ có cùng biểu hiện. Cô biết nét mặt này. Nó xuất hiện sau khi tàu đắm, khi thuỷ triều chống lại bạn và bầu trời tối sập. Nó là hình ảnh đầu tiên của đất liền, mang theo hi vọng về nơi trú ẩn, thậm chí là một sự cứu rỗi đang chờ đợi bạn ở
một bến bờ xa xôi.
7
WYLAN
M
ình sắp chết và sẽ không có ai giúp mẹ. Không còn một ai nhớ tới Marya Hendriks.
Wylan muốn tỏ ra can đảm, nhưng cậu bị lạnh và bầm dập, tệ hơn thế, vây quanh cậu là những con người gan dạ nhất cậu từng biết, thế mà tất cả bọn họ hình như cũng đang run rẩy.
Họ chậm rãi đi qua các con kênh, dừng lại dưới các gầm cầu và trong những vùng bóng tối để chờ trong lúc tốp thị tuần rầm rập đi qua trên đầu hoặc trên các tuyến kênh. Đêm nay họ triển khai lực lượng rất đông, những chiếc thuyền của họ đi chậm rãi, đèn lồng thắp sáng rực trước mũi. Một điều gì đó đã thay đổi chỉ trong thời gian ngắn sau vụ chạm trán ở cầu Thiện Nữ. Ketterdam đã sống dậy, và nó đang giận dữ.
“Các Grisha…” Nina cất tiếng.
Nhưng Kaz nhanh chóng cắt lời chị. “Hoặc họ đang an toàn tại toà đại sứ, hoặc nằm ngoài khả năng cứu giúp của chúng ta. Họ có thể tự xoay sở được, chúng ta mới là những kẻ bị kẹt.
Và Wylan hiểu ra họ đang gặp rắc rối đến mức nào, vì Nina không cãi nữa. Chị chỉ vùi mặt vào tay và im lặng. “Họ sẽ ổn cả thôi,” Inej lên tiếng và vòng tay qua vai Nina. “Anh ấy cũng thế.” Nhưng cử chỉ của Inej khá ngập ngừng, và Wylan có thể thấy máu trên quần áo cô. Sau đó không ai nói tiếng nào. Kaz và Rotty lâu lâu mới khua mái chèo, đưa họ vào những con kênh hẹp và yên tĩnh, thả trôi con thuyền mỗi khi có thể, cho tới khi họ đi vòng qua một khúc quanh gần Schoonstraat và Kaz nói, “Dừng lại. Anh và Rotty thu mái chèo, đưa con thuyền cập sát bờ kênh, rồi nấp phía sau một chiếc thuyền buôn đồ sộ. Không rõ chiếc thuyền kia bán gì, vì nó đã khép chặt cửa nẻo để bảo vệ hàng hoá.
Phía trước, Wylan có thể trông thấy các thị tuần đang kéo quân qua một cây cầu, hai chiếc thuyền của họ chặn đứng lối đi qua gầm cầu.
“Họ đang lập các chốt chặn,” Kaz bảo.
Có nhóm bỏ lại con thuyền để lên bờ đi bộ.
Wylan biết họ đang đến một nơi trú ẩn an toàn khác, nhưng chính Kaz đã nói: Không có nơi nào an toàn cả. Họ có thể trốn ở đâu đây? Pekka Rollins đang bắt tay với cha của Wylan. Hai người có thể kiểm soát cả nửa Ketterdam này. Cậu sẽ bị tóm cổ. Và rồi sao nữa? Sẽ không ai tin cậu là con trai của Jan Van Eck. Wylan Van Eck có thể bị cha đẻ coi thường, nhưng vẫn có những quyền hạn mà không một tên tội phạm người Shu nào với tới được. Liệu cậu có bị tống
vào Cổng Địa Ngục không? Liệu cha cậu có tìm được cách để trừ khử cậu hay không?
Khi họ rời xa khu vực nhà xưởng và Barrel, việc tuần tra cũng thưa thớt hẳn, và Wylan nhận ra thị tuần hẳn đang dồn lực vào những địa bàn nhiều tai tiếng nhất. Tuy vậy, cả nhóm vẫn thay đổi lộ trình liên tục, luồn lách qua những ngõ hẻm mà Wylan chưa từng biết tới, đôi lúc còn đi vào những cửa hiệu trống không ở tầng dưới của các toà nhà bỏ hoang để chui ra con phố kế tiếp. Cứ như thể Kaz có một tấm bản đồ bí mật cho thấy những địa điểm bị quên lãng của Ketterdam.
Jesper có đang đợi ở nơi họ sắp đến không? Hay anh đang bị thương và đổ máu trên mặt sàn của nhà mồ mà không có ai tiếp cứu? Wylan từ chối tin vào điều đó. Định mệnh càng nghiệt ngã, Jesper càng kiên cường, cậu còn nhớ lời năn nỉ của anh với ông Colm. Con biết mình đã phụ lòng bố. Nhưng hãy cho con một cơ hội nữa. Đã bao lần Wylan nói điều tương tự như thế với cha mình và hi vọng rằng mình sẽ làm được? Jesper phải sống sót. Cả bọn phải sống.
Wylan nhớ lại lần đầu tiên mình nhìn thấy anh chàng thiện xạ. Nom anh như một sinh vật đến từ thế giới khác, mặc đồ xanh chuối và vàng chanh, sải chân dài ngoẵng, như thể mỗi bước đi tuôn ra từ một cái chai thít cổ.
Vào đêm đầu tiên tại Barrel, Wylan lang thang qua những con phố, chắc mẩm mình sắp bị cướp, răng va vào nhau lập cập vì lạnh. Cuối cùng, khi da cậu chuyển sang