🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mỗi Câu Chuyện Nhỏ Một Bài Học Lớn
Ebooks
Nhóm Zalo
MỖI CÂU
CHUYỆN NHỎ MỘT BÀI HỌC LỚN
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
PGS.TS. NGUYỄN THẾ KỶ Phó Chủ tịch Hội đồng
TS. HOÀNG PHONG HÀ
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI
TS. NGUYỄN AN TIÊM
NGUYỄN VŨ THANH HẢO
KHU DI TÍCH HỒ CHÍ MINH TẠI PHỦ CHỦ TỊCH
MỖI CÂU
CHUYỆN NHỎ
MỘT BÀI HỌC LỚN
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT HÀ NỘI - 2015
* Chỉ đạo xây dựng bản thảo NGUYỄN VĂN CÔNG
* Nhóm xây dựng bản thảo ĐỖ HOÀNG LINH
NGUYỄN VĂN DƯƠNG VŨ THỊ KIM YẾN
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam - Anh hùng giải phóng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới đã đi xa, nhưng để lại cho chúng ta di sản tinh thần to lớn, những tư tưởng vô giá, những giá trị nhân văn cao cả, trong đó đặc biệt là tư tưởng đạo đức cách mạng. Cả cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người là tấm gương sáng ngời cho toàn Đảng, toàn dân ta nguyện phấn đấu suốt đời học tập và noi theo.
Để góp phần thực hiện việc đẩy mạnh Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách Mỗi câu chuyện nhỏ, một bài học lớn do tập thể tác giả là cán bộ của Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch sưu tầm và biên soạn. Cuốn sách đã chọn lọc, giới thiệu những câu chuyện chân thật, sinh động, ngắn gọn về Bác Hồ trong các giai đoạn và những chuyện kể về Bác qua các di tích, tài liệu, hiện vật hiện đang trưng bày tại Khu Di tích.
Cuốn sách được sắp xếp thành hai phần:
Phần thứ nhất: Những câu chuyện theo dòng thời gian, gồm những câu chuyện được kể theo dòng thời gian từ những năm 1954 - 1969, trong đó có một số ảnh minh họa để cuốn sách thêm sinh động.
5
Phần thứ hai: Chuyện kể về Bác Hồ qua các di tích lịch sử và tài liệu, hiện vật, gồm những câu chuyện kể về những sự vật như nhà sàn, dép cao su, ghế xích đu, chiếu cói, vườn rau, ao cá, cây xanh, ngọn cỏ, sân vườn, đồ dùng của Bác như đang giữ lại
hơi ấm và sức tỏa sáng của một con người chí chân, chí thiện, chí mỹ. Những tài liệu và hiện vật vô giá đó góp phần rất lớn vào việc nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh và Khu Di tích. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 10 năm 2015
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT6
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG CÂU CHUYỆN THEO DÒNG THỜI GIAN (GIAI ĐOẠN 1954 - 1969)
7
8
TẤM VÁN LÁT ĐƯỜNG
Hôm ấy, một buổi chiều cuối hè năm 1958, sau cơn mưa giông ngày hôm trước, trời vén mây cao tít, để lộ ra từng khoảng trời xanh biếc, đôi lúc có những lớp mây trắng bạc bập bềnh đuổi nhau. Đó là một buổi chiều đẹp trời, mát mẻ.
Lúc bấy giờ, khu tập thể của Nhà máy Cơ khí Hà Nội còn nghèo, chưa có nhà ba tầng, đường chưa lát đá như bây giờ. Trận mưa còn để lại những vũng lầy lội. Một chiếc ôtô màu xám nhạt đi rất êm, nhẹ, dừng lại bên hàng rào nứa cạnh chiếc quán lá bán quà sáng cho công nhân. Bác đến! Lúc đó nhiều anh chị em công nhân trông thấy Bác reo ầm lên, đổ xô cả lại. Vẫn mặc bộ kaki bạc màu, đôi dép cao su đen, quai to bản, đế mỏng, Bác nhanh nhẹn bước vào khu tập thể. Anh chị em công nhân đi theo Bác rất đông, trong đó có một số đồng chí lãnh đạo nhà máy. Khi sắp đến một vũng nước ngay giữa lối đi, đồng chí thư ký công đoàn nhà máy vội vàng đi lấy một tấm ván kê vào chỗ lội để Bác bước lên thềm hội trường. Bác xua tay, vén quần và cứ thế lội xuống nước cùng anh chị em công nhân bước lên thềm nhà. Sau đó, Bác dừng lại, quay về
9
phía anh em công nhân, rồi nói với đồng chí thư ký công đoàn nhà máy:
- Các chú là người phụ trách, các chú cần phải để ý đến nơi ăn, chốn ở của công nhân hơn nữa. Không phải bắc ván chỉ cốt để Bác đi, mà phải làm sao đường sá được sạch sẽ, để khi anh chị em công nhân đi làm về khỏi phải đi vào chỗ lầy lội, bẩn thỉu...
TÔI HỌC ĐƯỢC RẤT NHIỀU TỪ NHỮNG THÁNG NGÀY BẢO VỆ BÁC
Đến năm 1960, tôi (Phan Văn Xoàn) được trực tiếp bảo vệ Bác Hồ thay cho đồng chí bảo vệ đi học một thời gian... Là cảnh vệ trực tiếp bảo vệ Bác, chúng tôi không dám lơ là dù chỉ một phút. Dù vậy cũng không thể tránh hết những thiếu sót nhỏ. Bác biết, không trách mắng bao giờ, chỉ góp ý, phê bình nhẹ nhàng nhưng thấu đáo. Có lần, chúng tôi đưa Bác đi thực tế. Đi bộ, tắt rừng, vượt đồi. Đi một lát, phát hiện ra lạc đường, anh em cảnh vệ toát mồ hôi. Bác biết nên hỏi: “Các chú nhầm đường phải không?”. Chúng tôi đành thú thật: “Dạ, chúng cháu thấy hơi lạ”. Vừa trả lời, tim vừa đập thình thịch. Bác khoát tay: “Thôi được, cũng mệt rồi, Bác nghỉ chút. Các chú xem lại thử”. Nghe Bác nói vậy chúng tôi thở phào. Thái độ bình thản và gần gũi của Bác khiến chúng tôi yên tâm trở lại.
10
Lại một lần khác, khi Bác về thăm tỉnh Thanh Hóa. Chúng tôi theo Bác lên xe commăngca tiến vào thị xã. Bác ngả mũ vẫy chào đồng bào. Thấy Bác hồng hào, khỏe mạnh, mọi người vui sướng hô vang: “Hồ Chủ tịch muôn năm”. Một chị cán bộ miền Nam không nén được xúc động, quên cả trật tự, cả hàng ngũ chạy xuống đường. Hai tay chị níu vào cửa xe, miệng hô to: “Bác ơi! Bác ơi!”. Chúng tôi thấy trên gò má chị, nước mắt chảy tràn. Bác với tay ra cửa xe đưa cho chị nắm, chị mừng quá cầm tay Bác, không buông ra nữa, cứ để vậy chạy theo xe.
Thêm một người, một người nữa... rồi cả dòng người đổ ra. Thế là trật tự bị phá vỡ. Từng đợt sóng, biển người, cờ, hoa... vây quanh xe Bác. Tình huống này làm cho các chiến sĩ cảnh vệ chúng tôi lo lắng. Chúng tôi nhảy ra khỏi xe, xuống đường giữ trật tự, trong lúc vội vàng, không may một đồng chí vấp cửa xe, ngã dúi...
Khi về tới địa điểm, Bác gọi chúng tôi đến bảo: Các chú bình tĩnh, trước sự việc xảy ra không nên hoảng hốt. Vừa rồi các chú tỏ ra thiếu bình tĩnh. Các chú nên nhớ việc gì mà giữ được bình tĩnh thì giải quyết được sáng suốt.
Những lời dạy bảo ân cần của Bác, chúng tôi xem như là kim chỉ nam trong suốt cuộc đời làm công tác bảo vệ của mình.
11
QUÀ CỦA BÁC HỒ TẶNG CÁC CHÁU
Ngày Tết dương lịch năm 1960, mọi người lên Phủ Chủ tịch để chúc Tết Bác Hồ. Các cơ quan, đoàn thể trong nước, đoàn ngoại giao và Ủy ban quốc tế đều đến đông đủ.
Vẫn trong bộ kaki giản dị, với phong thái ung dung, chủ động, Bác đáp lễ vui vẻ và nói lời chúc mừng. Sau tiệc ngọt, Bác cầm lấy một quả táo to cùng một túi kẹo đứng lên. Bác đi đến chỗ ông Đại tướng Ấn Độ và hỏi:
- Ngài Đại tướng sang đây có đi cùng phu nhân không? Vị Đại tướng râu hùm, hàm én, lẫm liệt oai phong là vậy mà lúc ấy, vì vô cùng xúc động trước vinh dự bất ngờ, bỗng lộ vẻ lúng túng, ấp úng đáp:
- Thưa Chủ tịch, cảm ơn Chủ tịch, tôi chỉ sang đây cùng cháu trai năm nay chín tuổi.
- Thế thì - Bác Hồ nói - tôi gửi ông mang về cho cháu quả táo này và gửi cháu những cái hôn. Mọi người đều xúc động và vô cùng cảm phục một cử chỉ vừa thân mật, vừa tự nhiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rồi quay lại phía khách nước ngoài, Bác nói: - Tết nhất, ở nhà các vị chẳng thiếu thứ gì. Nhưng xin các vị hãy cầm lấy chút hoa quả ở trên bàn và mang về gọi là quà của Bác Hồ tặng các cháu ở nhà.
Cả phòng khách bỗng ồn ào nhộn nhịp hẳn lên. Khách nước ngoài, khách trong nước ùa đến bàn tiệc, cầm lấy táo, lê, bánh kẹo, nét mặt hớn hở.
12
Bác Hồ chia kẹo cho các cháu
“HỠI AI BƯNG BÁT CƠM ĐẦY”
Tôi (Nguyễn Thành) còn nhớ như in vào một buổi sáng hè tháng 6-1960, sau khi dự Đại hội đoàn kết chống hạn Ứng Hòa - Mỹ Đức xong, Bác ra cánh đồng thôn Thái Bình, xã Vạn Thắng (Ứng Hòa) thăm nông dân chống hạn.
Những năm ấy, vì hệ thống mương máng, thủy lợi chưa có là bao nên bà con nông dân rất vất vả, nắng quá thì hạn, mưa nhiều thì úng. Đời sống của hàng triệu nông dân chỉ trông chờ vào đồng ruộng, thật bấp bênh.
Hôm ấy, Bác mặc quần áo gụ, đội mũ lá cọ, chân đi dép cao su, quần xắn trên đầu gối, khăn vắt trên vai, tay chống gậy đi ra cánh đồng thăm bà con nông dân đang tát nước.
13
Mới 10 giờ mà trời nóng như đổ lửa, chúng tôi - những cán bộ đi theo cũng thấm mệt, mồ hôi vã như tắm tràn xuống mặt giàn giụa, tràn vào miệng mặn chát. Bác đi rất nhanh. Mặc dù đường sống trâu, Bác vẫn thoăn thoắt đặt chân trên các gò đất cách nhau 30-40cm một cách nhẹ nhàng như một lão nông dân thực thụ. Đến đầu một con mương, đồng chí Chủ tịch tỉnh Hà Đông thấy bờ mương hẹp khó đi, vội chạy lên trước để mời Bác đi theo đường chính. Bác xua tay và rẽ vào bờ mương để đến chân ruộng bà con đang lao động giữa cánh đồng bị hạn. Tất nhiên, chúng tôi phải đi sau và cố hết sức mới kịp. Đến một chỗ bờ mương bị xẻ ra chừng 1,5m để tát nước gần đấy, đồng chí Chủ tịch tỉnh lại chạy lên định dắt Bác, chưa kịp thì Bác đã nhảy qua hố và rẽ sang bên kia. Những người theo sau, người thì nhảy qua được, người thì phải men xuống ruộng để qua.
Thấy Bác đến, lại còn mặc như lão nông, bà con vui mừng bỏ cả gầu đổ xô lại vây quanh Bác rất đông. Có cháu thiếu niên độ 14, 15 tuổi len đến bên Bác, đưa tay lên vuốt râu Bác. Bác thân mật thăm hỏi mọi người, bắt tay bà con rồi nói bằng giọng miền Bắc pha xứ Nghệ ấm áp:
- Thuở nhỏ, đã nhiều năm tôi sống với bà con hàng xóm làm nông nghiệp, tôi hiểu nỗi cơ cực của bà con khi trời hạn hán. Bây giờ chúng ta có chính quyền, bà con đã làm chủ ruộng đồng, gặp lúc thiên tai phải cùng nhau đoàn kết chống hạn, cứu lúa.
Mọi người “vâng ạ!” thật rõ và to. Sau đó Bác lên đạp guồng cùng với một bác nông dân ngoài 50 tuổi để bác nông dân guồng đỡ vất vả và được nhiều nước. Bác căn dặn chính quyền thôn, xã tích cực huy động bà con biết nghề mộc xẻ gỗ để đóng guồng.
14
Bà con hỏi Bác đủ thứ chuyện. Bác đều trả lời thân mật, dễ hiểu. Trước khi chia tay với bà con nông dân, Bác đã đọc hai câu thơ:
“Hỡi ai bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
Mọi người xúc động đứng mãi tại nơi đã gặp Bác, vẫy chào tạm biệt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với bà con nông dân huyện Mỹ Đức, Hà Nội chống hạn, tháng 6-1960
NGƯỜI LÁI XE
PHẢI BẢO ĐẢM AN TOÀN
Ngày 5-3-1961, anh Vũ Kỳ gọi tôi (Nguyễn Văn Mùi) lên giao nhiệm vụ, tôi sẽ lái xe chính thức cho Bác. Anh Kỳ
15
căn dặn tôi một số điều: Đi với Bác phải cẩn thận như thế nào? Nói năng ra sao?...
Sau đó, anh Nền giao cho tôi chiếc xe Pôbêđa. Sau này, các đồng chí có ý định đổi xe cho Bác nhưng Bác không đồng ý, Bác nói:
- Các chú đi nhiều chứ Bác đi mấy mà đổi xe. Từ khi tôi vào lái xe chính thức cho Bác thì anh Nền được phân công đi sau bảo vệ. Trong thời gian lái xe cho Bác tôi ít khi nghỉ, trừ những lần bị ốm.
Một lần Bác đi công tác Hải Phòng, tôi để cho một xe đi sau vượt lên trước, thấy thế Bác hỏi:
- Xe họ tốt hay xe chú tốt?
Tôi trả lời:
- Xe mình tốt hơn.
Bác lại hỏi:
- Thế sao họ đi nhanh hơn mình?
Tôi giải thích là xe tôi đi chậm để bảo đảm an toàn. Bác khen: Chủ động tốc độ thế là tốt.
Bác khuyên các đồng chí bảo vệ Bác cũng nên học lái xe để nếu có tình huống gì thì dễ xử trí. Bác cũng nhắc chúng tôi đã ngồi vào tay lái phải thật tỉnh táo, nhanh trí xử lý mọi việc và lúc nào cũng thật bình tĩnh. Có lần xe bị một trục trặc nhỏ, thấy tôi có vẻ cuống, Bác nhắc tôi bình tĩnh để tìm cách khắc phục. Bác ân cần, gần gũi như người trong một nhà.
Bác cũng có ý định học lái xe. Có lần xe tôi đưa Bác về đến nhà rồi mà Bác không xuống ngay, còn ở lại hỏi tôi các bộ phận của xe. Bác nói:
- Mỗi ngày Bác học một ít để biết lái xe.
16
Bác muốn học lái xe để biết. Còn chúng tôi, Bác nhắc ngoài nhiệm vụ lái xe còn phải chịu khó đọc sách báo để mở mang hiểu biết. Bác thường nhắc để báo ở trên xe cho chúng tôi đọc trong những lúc rảnh rỗi, những lúc chờ Bác đi họp... Bác nói phải nghĩ ra việc để làm.
Tôi lái xe phục vụ Bác từ năm 1961 đến năm 1969 an toàn, không để xảy ra sơ xuất gì, một phần cũng chính nhờ vào sự quan tâm, động viên và rất hiểu tâm lý của Bác.
TRỞ LẠI PÁC BÓ
Đầu năm 1961, đồng bào Pác Bó (Cao Bằng) đang vui xuân thì được tin có phái đoàn Đảng, Chính phủ về thăm quê hương cách mạng. Đồng bào ai cũng thầm ước mong trong đoàn có Bác. Thế rồi điều mong ước của đồng bào Pác Bó đã trở thành hiện thực. Chiều ngày 19-2
năm đó, chiếc máy bay lên thẳng đưa Bác và phái đoàn đến thị xã Cao Bằng. Sáng ngày 20-2, xe ôtô đưa Bác cùng mọi người đến Đồn Chương. Đồng bào biết tin ra đón Bác. Họ còn mang cả ngựa đến để Bác và phái đoàn đi cho khỏi mệt, nhưng Bác đã từ chối không đi ngựa mà đi bộ. Dọc đường Bác vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ với đồng bào, cùng ôn lại những năm tháng hoạt động gian khổ ở Pác Bó 20 năm trước, khi Bác mới về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Khi Bác vừa đến Pác Bó, đồng bào già trẻ, gái trai chạy ùa ra vây quanh Bác. Có cụ già nắm lấy tay Bác lắc lắc. Các bà, các chị ai cũng
17
mừng mừng tủi tủi, nhớ lại những ngày cơ cực trước cách mạng và cảnh no ấm, tự do ngày nay. Thấy mọi người kéo đến ngày một đông, Bác liền hỏi: “Bà con làm gì mà đông thế này?”. Đồng bào vui vẻ reo lên: “Đón Bác! Đón Bác! Năm mới chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu”. Bác nhìn mọi người và bảo: “Tôi về thăm nhà mà sao lại đón tôi?”. Nghe Bác nói vậy, đồng bào ai cũng cảm động rưng rưng nước mắt. Thực vậy, Bác về thăm Pác Bó là về thăm nhà. Nhà Bác, quê hương của Bác không chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn mà nhà Bác, quê hương Bác là căn cứ địa cách mạng, là mọi nơi trên đất nước Việt Nam yêu dấu.
Sau khi gặp gỡ thân tình mọi người, Bác nói chuyện với đồng bào trong khối mít tinh. Bác đến thăm một số gia đình, cùng ăn bữa cơm thân mật với nhà một đồng bào rồi ra thăm lại hang Pác Bó năm xưa. Đứng trước cảnh non nước mây trời một vùng biên giới của Tổ quốc được tự do, giải phóng, đã từng in dấu và che chở Người trong buổi đầu cách mạng, Bác xúc động đọc mấy câu thơ:
“Hai mươi năm trước ở nơi này,
Đảng vạch con đường đánh Nhật - Tây,
Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu,
Non sông gấm vóc có ngày nay”.
Hình ảnh Bác và những kỷ niệm về Người luôn sống mãi trong lòng đồng bào Pác Bó cũng như đồng bào trong cả nước.
18
Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp ảnh lưu niệm với bà con đồng bào Pác Bó, ngày 20-2-1961
GƯƠNG MẪU TÔN TRỌNG LUẬT LỆ
Hằng ngày, Bác thường căn dặn anh em cảnh vệ chúng tôi (Phan Văn Xoàn, Hoàng Hữu Kháng, Hồng Nam) phải luôn có ý thức tổ chức, kỷ luật, triệt để tôn trọng quy định chung. Bác bảo: Khi bàn bạc công việc gì, đã quyết định thì phải triệt để thi hành. Nếu đã tự đặt ra cho mình những việc phải làm thì cương quyết thực hiện cho bằng được.
Một hôm chúng tôi theo Bác đến thăm một ngôi chùa lịch sử. Hôm ấy là ngày lễ, các vị sư, khách nước ngoài và nhân dân đi lễ, tham quan chùa rất đông. Bác vừa vào chùa, vị sư cả liền ra đón Bác và khẩn khoản xin Người đừng cởi dép, nhưng Bác không đồng ý. Đến thềm chùa,
19
Bác dừng lại để dép ở ngoài như mọi người, xong mới bước vào và giữ đúng mọi nghi thức như người dân đến lễ. Trên đường từ chùa về nhà, xe đang bon bon bỗng đèn đỏ ở một ngã tư bật lên. Đường phố đang lúc đông người. Xe của Bác như các xe khác đều dừng lại cả. Chúng tôi lo lắng nhìn nhau. Nếu nhân dân trông thấy Bác, họ sẽ ùa ra ngã tư này thì chúng tôi không biết làm thế nào được. Nghĩ vậy, chúng tôi bàn cử một đồng chí cảnh vệ chạy đến bục yêu cầu công an giao thông bật đèn xanh mở đường cho xe Bác. Nhưng Bác đã hiểu ý. Người ngăn lại rồi bảo chúng tôi:
- Các chú không được làm như thế. Phải gương mẫu tôn trọng luật lệ giao thông, không nên bắt người khác nhường quyền ưu tiên cho mình.
Chúng tôi vừa ân hận, vừa xúc động, hồi hộp chờ người công an giao thông bật đèn xanh để xe qua.
BÁC VỚI MIỀN NAM
Có lẽ những tình cảm yêu thương sâu nặng nhất Bác dành trọn cho đồng bào miền Nam. Cây vú sữa, tấm bản đồ, đó là những nơi Bác thường đối diện, trầm tư. Thỉnh thoảng Bác chỉ vật này hay vật kia và hỏi tôi, Bác còn bảo tôi kể chuyện đánh du kích ở Bạc Liêu cho Bác nghe và dặn: “Chú ra đây hãy cố gắng học tập thêm. Mai mốt thống nhất miền Nam còn cần nhiều cán bộ”.
20
Vào các dịp lễ tết, điều đầu tiên Bác nghĩ tới là đi thăm các trường con em miền Nam. Bác bảo: “Các cháu xa nhà, xa quê, mong người thân lắm. Để Bác đến thăm cho các cháu đỡ buồn”. Vậy là Bác đi, khi Vĩnh Phú, lúc Hải Phòng...
Hồi đi thăm Trung Quốc, Bác nghỉ lại Nam Ninh, ghé thăm Trường Thiếu nhi miền Nam của ta trên đất bạn. Lúc sắp ra về, Bác bắt nhịp bài “Kết đoàn”, các cháu thiếu nhi biết, quây tròn lại, không cho Bác về, các đồng chí công an Trung Quốc lo lắm. Một em nhỏ luồn dưới chân mọi người, tiến về phía Bác, sờ dép, sờ áo và kêu lên: “Sướng quá, tao sờ được áo ông cụ rồi”. Thế là các cháu khác bắt chước, cố xô lại để chạm được tay vào người Bác. Thấy vậy, các đồng chí cảnh vệ ngăn lại. Bác khoát tay cười: “Các cháu đánh du kích ta đó” và xoa đầu từng cháu một. Hồi lâu các cháu bảo nhau tự động giãn ra để Bác về nghỉ.
Bác Hồ với thiếu nhi miền Nam
21
NGÀY TẾT,
“NỘI VỤ” CŨNG PHẢI GỌN GÀNG
Ngày 3-2-1963, nhân dịp tết Nguyên đán, Bác Hồ đến thăm Đại đội 129, Trung đoàn 206 bộ đội phòng không. Đơn vị lúc bấy giờ đóng quân tại Tiên Hội, Đông Anh, Hà Nội. Cán bộ, chiến sĩ đang lúi húi xây dựng vườn hoa thì Bác đến. Anh em vây xung quanh Bác. Bác
nhìn các chiến sĩ trẻ, âu yếm hỏi:
- Tết mỗi chú được bao nhiêu bánh chưng?
Mọi người trả lời:
- Thưa Bác, được hai chiếc ạ.
Bác nhìn quanh rồi chỉ vào những cây phi lao mới trồng cạnh vườn hoa nhỏ: Cây này có cho quả không? - Thưa Bác, không ạ.
- Thế trồng nhãn có quả ăn không?
- Thưa Bác, có ạ.
Bác tươi cười:
- Thế thì trồng nhãn tốt hơn. Phi lao nên trồng quanh hàng rào. Còn xà cừ trồng ngoài cổng doanh trại, tính từ cổng ngược xuôi 500m, trồng cây nào các chú phải chăm sóc cho được cây ấy.
Sau đó, Bác đi xem nơi ăn chốn ở của đơn vị. Khen nhà bếp sạch, nhưng Người phê bình phòng ngủ chưa gọn:
- Dù là chủ nhật, dù là ngày tết, “nội vụ” cũng phải gọn gàng.
22
Bác Hồ thăm Đại đội 129 Trung đoàn 260 (đoàn Sông Thương), ngày 3-2-1963 tại trận địa Tiên Hội, Đông Anh
HAI TẤM HUÂN CHƯƠNG CAO QUÝ
Quốc hội khoá II, kỳ họp thứ 6, đúng vào dịp chuẩn bị kỷ niệm lần thứ 73 ngày sinh của Bác kính yêu. Trong kỳ họp này, các đại biểu đã nhất trí đề nghị Quốc hội trao tặng Bác Hồ huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta. Biết tin ấy, Bác Hồ rất cảm động. Bác nói: “Tôi vừa nhận được một tin tức làm cho tôi rất cảm động và sung sướng. Đó là tin Quốc hội có ý định tặng cho tôi Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của nước ta. Tôi xin tỏ lòng biết ơn Quốc hội. Nhưng tôi xin Quốc hội cho phép tôi chưa nhận Huân chương ấy. Vì sao? Vì huân chương là để thưởng người có công huân, nhưng tôi tự xét chưa có công huân xứng đáng với sự tặng thưởng cao quý
23
của Quốc hội”1. Bác nhắc đến đồng bào miền Nam đang sống khổ cực dưới chế độ dã man của đế quốc Mỹ và tay sai, đang anh dũng kiên quyết đấu tranh xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc” và xứng đáng được tặng huân chương cao quý nhất, vì những lẽ đó, Bác đề nghị với Quốc hội: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng”2. Năm 1967, Đảng, Chính phủ và nhân dân Liên Xô quyết định tặng Bác Huân chương Lênin - huân chương cao quý của Nhà nước Xôviết - nhưng Bác cũng từ chối, hẹn đến ngày đất nước Việt Nam thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà. Nhưng đến ngày vui đại thắng ấy đã không có Bác. Và cho đến lúc đi xa, trên ngực Bác vẫn không một tấm huy chương.
NHỮNG THÁNG NGÀY BÊN BÁC
Bác phải lo nhiều công việc lớn, nhưng không bỏ qua những việc nhỏ. Đọc thư gửi lên Bác, tôi (Lê Hữu Lập) phải đọc thật kỹ, nhất là những thư của cá nhân, có người không còn biết kêu đâu đành phải gửi thư lên Bác. Một lần có hai chị nông dân ở Hà Tây gửi lên Bác kể những chuyện khổ sở bị chồng hành hạ, đánh đập. Nghe thư _______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14, tr.79, 80.
24
xong Bác giữ lại, hôm sau trong cuộc họp Ban Bí thư, Bác đưa bức thư ra và nói đến tệ nạn này còn nặng nề, nhất là ở nông thôn. Rồi nhiều lần đi thăm địa phương, trong cuộc nói chuyện với nông dân, Bác thường nói đến quyền bình đẳng nam nữ và lên án tệ bắt nạt vợ. Có một chị y tá ở cơ quan trung ương viết thư lên Bác: Hai vợ chồng đều là cán bộ công nhân viên đã có hai con nhỏ, chồng là Đảng ủy viên Bộ Giao thông bị phát hiện khai man lý lịch, bị khai trừ ra khỏi Đảng và sa thải ra khỏi cơ quan. Nếu chồng bị đuổi khỏi cơ quan thì gia đình tan nát, chị xin Bác cứu cho. Bác cho mời đồng chí Nguyễn Lương
Bằng sang và nói: Kỷ luật Đảng phải nghiêm nhưng phải cho người phạm lỗi có con đường sửa chữa để trở thành người tốt chứ không phải là đuổi khỏi cơ quan, nên xem xét có thể cho làm một công việc khác để có điều kiện cải tạo. Tôi được biết hai năm sau đồng chí kia được kết nạp lại vào Đảng.
MỘT LẦN GẶP BÁC
Xe đưa tôi (Phan Tứ) và anh Trần Đình Vân vào Phủ Chủ tịch. Xe chạy ngang qua khu vườn rộng trồng toàn xoài, rồi đỗ bên mấy căn nhà trệt gần dinh Toàn quyền cũ. Chúng tôi vào một căn nhà chỉ rộng khoảng 20 thước vuông, vừa ngồi chưa đầy một phút đã thấy Bác đến. Bác mặc bộ quần áo nâu nhạt như một lão nông. Có lẽ Bác đã hỏi qua về chúng tôi nên Bác biết cả hai sức khỏe không được tốt vì ở chiến trường lâu ngày.
25
Trong căn phòng chỉ có ba bác cháu và anh Tố Hữu. Bác nói, căn phòng này Bác dành để tiếp khách ở miền Nam ra.
Nghe chúng tôi báo cáo xong, Bác giục chúng tôi ăn nhãn. Bác nói các đồng chí trong Nam ra đều khen nhãn ngoài Bắc ngon. Bác cầm từng trái nhãn đưa tận tay hai chúng tôi. Sau đó, Bác cho chúng tôi uống cà phê, hương vị thật đậm đà.
Bác căn dặn chúng tôi khi trở về miền Nam cần chú ý viết người thật, việc thật. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam hằng ngày sản sinh ra bao nhiêu anh hùng, bao nhiêu sự tích anh hùng ta cần ghi lại trung thực, đừng để mất những tài liệu quý giá có được nhờ máu xương của bao anh hùng. Bác căn dặn chúng tôi nhiều điều tỉ mỉ. Bác dặn là khi viết cho giới có văn hóa đọc, chớ quên bà con nông dân và dân tộc thiểu số. Nên vẽ nhiều tranh truyện với nét vẽ giản dị, lời chú thích ngắn và rõ nghĩa, in đậm nét và chữ to để bà con nghèo chữ dễ xem (Bác không dùng từ dốt chữ hay mù chữ như hồi Cách mạng Tháng Tám mới thành công). Nên đưa những mẫu người tốt, việc tốt ở cái mức ai cũng làm được. Viết ngắn và vui, dễ hiểu, dễ làm như các truyện Nhị thập tứ hiếu ngày xưa mà nhiều người còn nhớ.
Bỗng Bác nhắc mấy câu khiến chúng tôi giật mình: Các chú hay viết như người anh hùng đẻ ra đã thành anh hùng, người có số lãnh đạo vừa lọt lòng đã có năng khiếu thành lãnh đạo. Viết thế là sai. Không phải đâu. Các Mác, V.I.Lênin, Ph.Ăngghen đều phải trọn cuộc đời đi tìm
26
chân lý, dám hy sinh vì chân lý dù bị tù đày, xua đuổi, đâu có đơn giản như các chú viết. Nếu không, người ta cứ tưởng “nhất ẩm nhất trác, giai do tiền định”. Đừng viết thế nữa mà dân mình hiểu sai, hiểu lầm, xa lánh những người mà họ nghĩ là “tốt phúc” hơn mình. Viết thế nào để dân mình hiểu rằng ai cũng trở thành người tốt được cả, miễn là chịu khó vượt qua những cơn đau đớn để cho cái tốt thắng cái xấu, cái đúng thắng cái sai ngay trong ruột gan mình. Mười lần thắng thì kẻ xấu trở thành anh hùng, ngàn lần thắng thì đứa lạc đường biến thành người lãnh đạo.
Chúng tôi nhớ như in những lời Bác dạy, rất hiện đại và cũng vô cùng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng nhà thơ Tố Hữu trò chuyện với nhà văn Trần Đình Vân và nhà báo Phan Tứ từ miền Nam ra thăm miền Bắc, ngày 17-8-1966
27
CÂU CHUYỆN VỀ CHIẾC TÀU
PHÁ THỦY LÔI MANG BIỆT HIỆU T5 VÀ TẤM LÒNG CỦA BÁC
Năm 1965, tôi (Phan Trọng Tuệ) làm Chính ủy kiêm Tư lệnh đường mòn Hồ Chí Minh. Một hôm anh Vũ Kỳ gặp tôi và nói:
- Anh có phim tư liệu gì mới đem vào chiếu cho Bác xem.
Tôi đưa cuộn phim về giao thông vận tải, quay từ Hà Nội vào đến Vinh cho Bác xem. Bác xem phim rất chăm chú và hỏi thăm tình hình nhân dân trong đó. Tôi báo cáo với Bác:
- Chúng cháu muốn đảm bảo giao thông phải dựa vào dân. Nhân dân nhiều khi phá cả nhà để lát đường cho xe qua.
Bác nói:
- Nhân dân không nhà không cửa thì ở vào đâu? Các cháu học hành thế nào?
Tôi thưa với Bác:
- Các cháu vẫn được học. Học dưới hầm. Giao thông vẫn có những chuyến xe đặc biệt chở dụng cụ học tập và sách vở cho học sinh.
Nghe tôi nói thế, Bác mới yên tâm và khen:
- Thế là tốt. Nếu chú có gặp các đồng chí trong đó, cho Bác gửi lời thăm đồng bào.
Bác vừa nói chuyện vừa suy nghĩ trầm tư, vẻ mặt Bác rất xúc động.
28
Tôi vào Khu IV truyền đạt lời thăm hỏi của Bác cho các đồng chí trong đó, các đồng chí rất xúc động. Bộ phim mang vào chiếu cho Bác xem có cảnh phá thủy lôi bằng kích thích. Cho ca nô chạy nhanh qua bãi thủy lôi. Thủy thủ lái ca nô mặc áo bảo vệ kèm phao bơi. Bác xem và hỏi:
- Mặc như thế kia thì cử động thế nào được? Tôi báo cáo với Bác:
- Ca nô chạy nhanh, thủy lôi sẽ nổ, thủy thủ phải mặc như thế để bảo đảm an toàn.
Bác nghe xong, suy nghĩ một lát rồi nói:
- Các chú đó thật dũng cảm. Nhưng chú thử nghĩ xem có phương pháp nào điều khiển ca nô chạy tự động qua bãi thủy lôi, chứ làm thế này nguy hiểm cho tính mạng của các chiến sĩ.
Tôi suy nghĩ rất nhiều về gợi ý của Bác. Sau đó tôi cho họp Hội đồng kỹ thuật, báo cáo lại ý kiến của Bác. Mọi người đều rất tán thành và đề nghị thiết kế tàu không người lái, điều khiển từ xa.
Sau đó một loại tàu mới có biệt hiệu là T5 ra đời, có người điều khiển từ xa để phá hủy thủy lôi. Đó là do bao công sức đóng góp của các anh em làm công tác kỹ thuật sáng chế.
Khi chiếc tàu này mới được chế tạo, chúng tôi cho mang lên Hồ Tây chạy thử. Lần chạy thử đó có mời đồng chí Tố Hữu đến xem. Nhờ chiếc tàu đó mà chúng tôi đã phá được rất nhiều thủy lôi, bảo đảm giao thông đường thủy thông suốt, lại không nguy hiểm đến tính mạng cho các chiến sĩ.
29
Lời gợi ý của Bác đã tác động đến anh em kỹ thuật, giúp họ suy nghĩ, phát huy sáng kiến và chế tạo ra chiếc tàu mang biệt hiệu T5.
MỘT CHUYẾN THĂM, BA BÀI HỌC
Sau hơn một tuần diễn ra trận chiến bảo vệ kho xăng Đức Giang, ngày 29-6-1966, Bác Hồ đến thăm một đại đội thuộc đoàn thông tin Sông Điện, bộ đội phòng không đóng ở chùa Trầm (huyện Chương Mỹ, Hà Nội). Cuộc đi thăm không báo trước. Khi chiếc xe con dừng lại ở lưng chừng dốc, một chiến sĩ nhận ra Bác reo to lên. Bác giơ tay ra hiệu không được làm ồn ào rồi bảo chiến sĩ đó đưa Bác vào đơn vị.
Với đôi dép cao su giản dị, Bác đi rất nhanh lên sườn đồi, bộ quần áo bà ba nâu bay trong gió. Sau khi dừng lại xem câu lạc bộ, Bác nhanh nhẹn đi xuống nhà bếp. Thấy đồng chí Hào, tổ trưởng anh nuôi đang bê một nồi cơm to từ trên bếp lò xuống, Bác vui vẻ hỏi:
- Mỗi bữa chú ăn được mấy bát?
- Thưa Bác, cháu ăn được ba bát ạ.
- Chú ăn được như vậy là tốt - Nói xong, Bác mở hộp thuốc lá lấy ra một điếu đưa cho Hào.
- Bác biếu chú, chú hút đi.
Rồi Bác lấy một điếu khác ra để hút. Thấy Bác có ý tìm đóm để châm lửa, Hào vội rút bao diêm trong túi ra định bật diêm cho Bác, Bác liền ngăn lại:
30
- Chú để dành diêm mà nhóm bếp. Cả bếp lò đang hồng thế kia tha hồ cho Bác cháu ta châm thuốc. Chỉ một que diêm mà Bác đã cho chúng tôi bài học sâu sắc về tinh thần tiết kiệm.
Ở bếp bước ra, Bác hỏi cán bộ đại đội:
- Các chú có trồng rau không?
- Thưa Bác, chúng cháu chỉ trồng được rau muống dưới chân núi thôi ạ. Còn trên sườn đồi này nhiều sỏi, trồng không lên.
Bác kể lại kinh nghiệm hồi ở chiến khu và bảo: Các chú xúc hết đá đi, xới đất, xuống ao bốc bùn đổ lên, rau sẽ xanh tốt. Có trồng có ăn, đỡ phần cung cấp của nhân dân.
Từ đó, trên vách đá men theo con đường trong đơn vị, các vườn rau đua nhau mọc lên xanh tốt. Đơn vị không chỉ tự túc rau ăn mà còn bán cho đơn vị bạn và nhân dân nữa.
Bài học thứ ba Bác dạy cho chúng tôi là con đường mòn và công tác dân vận. Khi đơn vị chưa đóng ở chùa Trầm, bà con trong vùng vẫn đi làm đồng theo con đường mòn qua núi. Từ ngày đơn vị đến, anh em đã tự động rào lại, cấm người qua lại. Thăm qua mấy nơi, Bác bảo tập hợp bộ đội lại để Bác nói chuyện, Bác căn dặn:
- Muốn làm tốt nhiệm vụ, các chú phải đoàn kết nội bộ tốt, đoàn kết chặt chẽ với nhân dân địa phương, chỉ có dựa vào nhân dân, đoàn kết với nhân dân mới bảo vệ được mình, che mắt địch và đánh thắng được chúng.
Chợt Bác chỉ tay ra phía đường cái và hỏi:
- Thế các chú cấm con đường này thì nhân dân đi lối nào?
31
- Thưa Bác, đi vòng theo các bờ ruộng ngoài kia ạ. Bác nghiêm mặt:
- Như vậy là không được. Các chú cấm đường để bảo mật, phòng gian là đúng, nhưng phải đắp đường khác cho dân đi chứ. Có như vậy mới đúng là quân dân đoàn kết.
Bác dặn đơn vị phải làm ngay, đắp đường cho to, trồng cây hai bên và khi nào làm xong báo cáo cho Bác biết. Ngay hôm sau, đơn vị bắt tay vào làm đường, làm cả trưa hè nắng lửa, đốt đuốc làm cả đêm. Con đường hoàn thành trước hạn định. Các cụ trong làng đem cây ra trồng hai bên. Con đường quân dân đoàn kết ấy được đặt tên là “Đường Quyết Thắng” - Con đường mang ý Bác, lòng dân, con đường đi của chúng tôi: vì nhân dân phục vụ.
Bác Hồ đến thăm một đại đội thuộc đoàn thông tin Sông Điện, bộ đội phòng không đóng ở chùa Trầm (Hoài Đức),
ngày 29-6-1966
32
THẤU HIỂU PHONG TỤC
CỦA MỘT DÂN TỘC
Có một lần, đoàn đại biểu phụ nữ Mỹ sang thăm nước ta theo lời mời của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Đoàn đến vào đúng dịp lễ Nôen. Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ chuẩn bị chiêu đãi đoàn tại khách sạn Thống Nhất. Trước đó, các đồng chí phụ trách Hội đã đến báo cáo với Bác chương trình hoạt động của đoàn và dự kiến một buổi để Bác tiếp. Sau khi nghe báo cáo, Bác hỏi đồng chí phụ trách:
- Các cô định tổ chức chiêu đãi đoàn thế nào? Đồng chí phụ trách báo cáo với Bác là sẽ chiêu đãi đoàn những món ăn dân tộc của Việt Nam. Ngoài ra, trong phòng còn đặt một cây thông Nôen như phong tục của người Mỹ trong ngày lễ này. Nghe xong Bác cười và bảo: - Các cô tiếp đoàn bằng những món ăn dân tộc như thế là tốt, nhưng theo Bác biết ở Mỹ ăn mừng lễ Nôen bao giờ cũng có món thịt gà tây được đặt nguyên cả con. Các cô nên làm thêm món đó.
Biết được chi tiết đó, các đồng chí phụ trách đã cho chuẩn bị đúng như vậy. Trong buổi chiêu đãi, tất cả các thành viên trong đoàn phụ nữ Mỹ rất ngạc nhiên và cảm động. Trong khi Chính phủ Mỹ đang gây biết bao tội ác đối với dân tộc Việt Nam mà đoàn lại được những người phụ nữ Việt Nam tiếp đón hết sức ân cần, chu đáo. Thì ra phong tục trên đây Bác Hồ biết trong thời gian Người sống và làm việc ở nước Mỹ cách đây hơn 50 năm. Vậy mà đến bây giờ Bác vẫn còn nhớ rất kỹ. Đúng là Bác Hồ
33
không những yêu thương, quý trọng người dân lao động mà còn thấu hiểu cả phong tục, tập quán của cả các nước mà Bác đã đi qua.
TẤM LÒNG CỦA BÁC
ĐỐI VỚI THANH NIÊN
... Nhớ có lần, sau hơn một tháng đi xa về, Bác ra ngồi bên bờ ao cho cá ăn. Theo tiếng vỗ tay quen thuộc của Bác gọi, đàn cá kéo dần về động nước cuồn cuộn. Những lưng cá bóng nhẫy, đen thẫm, loáng bạc, hồng tươi, đỏ thắm. Bác ném thức ăn cho cá. Những con cá lớn bạo dạn xô vào ăn tận bờ. Thế là Bác lại vung tay tung thức ăn ra xa, dành phần cho lũ cá con chỉ dám lảng vảng ở vòng ngoài.
Mắt Bác nhìn đăm đăm vào mặt nước, như chờ đợi. Rồi thấy Bác nhận xét:
- Mình không thấy con cá gáy đỏ đến ăn nữa. Không khéo các chú ở nhà câu mất rồi.
Đó là con cá gáy vây, đuôi và miệng màu đỏ thường quẩn quanh bên bóng Bác những buổi chiều Bác cho cá ăn. Tôi không biết trả lời thế nào, chỉ dám đáp lại một câu gọn lỏn: “Thế ạ!”.
Tối, tôi hỏi anh em, được biết không ai câu cả. Thế là tôi cũng quên bẵng đi. Chiều chiều, Bác vẫn đúng giờ cho cá ăn. Đôi mắt Người vẫn đăm đăm dường như chờ đợi.
Khoảng 10 ngày sau. Chiều. Bên ao cá, Bác bỗng bảo tôi:
- Kìa, chú xem, con cá gáy đỏ đến rồi đấy.
34
Tôi nhìn theo tay Bác, nhận ra những sắc đỏ lấp loáng. Chà! Chà! Cái anh chàng này không biết lang thang tận đâu, giờ mới mò về. Tôi thầm nghĩ.
Chừng như biết được ý nghĩ của tôi, Bác nhận xét: - Các chú ở nhà chắc là không cho cá ăn đều, nó mới phải đi kiếm ăn lăng băng như thế.
Rồi Bác hạ giọng nói:
- Với con người cũng thế, nhất là thanh niên, không quan tâm đến thì cũng như thế.
Bác Hồ với các đại biểu thanh niên tại Đại hội Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước, tháng 1-1967
MIỀN NAM Ở TRONG TRÁI TIM TÔI
Suốt đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc, thống nhất của Tổ quốc.
35
Đối với miền Nam, tình cảm của Bác vô cùng thắm thiết. Bác nói: “Miền Nam ở trong trái tim tôi”, “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”1. Chưa giải phóng được miền Nam, Bác tự coi là nhiệm vụ làm chưa tròn, cho nên Người đã nói với Quốc hội khi Quốc hội có ý định trao Huân chương Sao Vàng cho Người: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý”2.
Những năm miền Nam chiến đấu chống Mỹ ác liệt, Bác đã có ý định vào miền Nam “để thăm đồng chí, đồng bào” và yêu cầu tổ chức để Bác đi. Bác nêu vấn đề một cách rất kiên quyết. Thấy Bác tuổi đã cao, sức khỏe không còn được như trước, các đồng chí Bộ Chính trị đề nghị xin cố gắng cùng toàn dân đánh Mỹ mau thắng rồi mời Bác vào. Bác nói: “Tôi muốn vào là vào lúc này, chứ thắng rồi mới vào thì nói làm gì?”.
Lâu lâu Bác lại nhắc lại vấn đề và hỏi việc chuẩn bị đến đâu rồi. Thấy Bác rất quyết tâm, các đồng chí phụ trách đành phải báo cáo đường đi rất khó khăn, vất vả, Bác đi không được. Bác nói: “Nếu không có đường nào khác thì tổ chức cho tôi đi bộ. Các chú đi được thì tôi đi được. Đi mỗi ngày một ít. Chưa chắc thua các chú đâu”.
Trong những năm cuối đời, tuy yếu mệt nhưng Bác vẫn tập đi bộ, tập leo dốc và nhiều khi leo những dốc _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.470.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.80.
36
khá cao. Các đồng chí đều can ngăn, nhưng Bác vẫn leo. Bác muốn xem sức mình hiện nay thế nào và vẫn quyết tâm rèn luyện để thực hiện ý định “vào miền Nam với đồng bào, đồng chí”.
Từ năm 1968 trở đi, Bác yếu nhiều hơn. Bác yêu cầu: hễ có đồng chí miền Nam nào ra thì phải cho Bác biết và đưa vào gặp Bác. Vì vậy, rất nhiều cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra Bắc đã được vào thăm Bác, đặc biệt là các chị và các cháu. Mỗi lần gặp, Bác đều hỏi tình hình rất tỉ mỉ và Bác rất vui...
BIỂN CẢ DO CÁI GÌ TẠO NÊN?
Năm 1968, các ông Hà Huy Giáp, Lê Xuân Đồng, Phan Hiền được Bác Hồ mời đến trao đổi về việc biên soạn lại sách Người tốt, việc tốt.
Bác chỉ chồng tài liệu cao gần nửa mét trên bàn và cho biết đó là những bài báo và báo cáo viết về hơn bốn nghìn người được Bác thưởng huy hiệu trong mấy năm qua. Bác đã sắp xếp lại thành 18 tập. Nếu kể cả tập thứ 19 đang làm dở dang thì số người được Bác khen đã lên tới năm nghìn.
Những tập tài liệu đều đóng bìa vở học sinh, giấy nền bên trong là giấy báo cũ. Những bài báo và báo cáo về Người tốt, việc tốt được cắt dán cẩn thận trên giấy báo. Bài nào cũng mang bút tích của Bác bằng mực đỏ hoặc bút chì đỏ, ghi rõ tặng một hay mấy huy hiệu.
37
Bác nói đùa:
- Như thế là đã thành Bách khoa toàn thư rồi đấy. Từ đó, các chú chọn ra những tấm gương nào cần viết lại trước và viết cho thật tốt, để mọi người có ý thức làm theo và làm hơn thế.
Bác trao cho ông Giáp mấy tờ giấy đánh máy ghi rõ mỗi ngành, mỗi giới, mỗi địa phương có bao nhiêu người được khen thưởng. Bác phê bình một số cán bộ lãnh đạo mải làm công tác sự vụ hơn là để tâm sức xây dựng con người mới..., cho nên không chịu theo dõi việc làm hằng ngày của quần chúng nhân dân... và hỏi:
- Hình như các chú cũng chưa coi trọng những việc nhỏ như thế?
Không đợi trả lời, Bác nói tiếp:
- Các chú có biết biển cả do cái gì tạo nên không? Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông, rồi thành biển. Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái nền mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cái nền. Như thế thì chỉ thấy ngọn mà quên mất cái gốc.
Ngừng một lúc, Bác nói tiếp:
- Bác chỉ muốn nhắc nhở các chú một điều: Chớ bỏ qua những việc mà các chú tưởng là tầm thường. Nếu cứ ngồi kể lại những gương Người tốt, việc tốt thì kể mãi cũng chẳng hết được. Tất cả những việc làm như vậy đều nói lên tinh thần yêu nước, đạo đức trong sáng,
38
thuần phong mỹ tục của nhân dân ta. Chúng ta đánh giặc và xây dựng xã hội mới bằng những việc làm muôn hình muôn vẻ của hàng chục triệu con người như thế, chứ không phải chỉ bằng thành tích nổi bật của một số cá nhân anh hùng...
“NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN”
Ngày 25-1-1969, Bác cho mời đồng chí phụ trách Tuyên huấn của Đảng đến giao nhiệm vụ chuẩn bị bài viết “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Bác nói rõ mục đích, nội dung và nhấn mạnh yêu cầu quan trọng của bài báo. Ngày 28-1-1969, Bác sửa lại bài viết rồi cho đánh máy thành nhiều bản gửi đến từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị đề nghị tham gia ý kiến. Đây hẳn cũng không phải là một việc ngẫu nhiên. Dưới hình thức tham gia một bài viết trong dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng, mỗi đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị sẽ có trong tay một tài liệu mà câu đầu tiên là: Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Chiều 30-1, Bác cùng cán bộ Văn phòng đọc lại từng ý kiến đóng góp của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị bổ sung vào bản thảo rồi cho đưa đi đánh máy. Bác dặn đánh máy xong gửi cho Bác một bản. Ngày 1-2, 15h30, đồng chí phụ trách
39
Tuyên huấn sang gặp Bác, xin bản thảo chính thức để kịp gửi đăng báo. Cầm bản thảo cuối cùng, đồng chí phụ trách Tuyên huấn đề nghị với Bác xin sửa lại đầu đề: đưa vế “nâng cao đạo đức cách mạng” lên trước, chuyển vế “quét sạch chủ nghĩa cá nhân” ra sau với lý do cán bộ, đảng viên ta nói chung là tốt, ưu điểm là cơ bản. Bác quay sang hỏi đồng chí cán bộ Văn phòng: “Ý kiến chú thế nào?”. Đồng chí cán bộ Văn phòng cũng nhất trí. Bác Hồ im lặng suy nghĩ, cuối cùng Bác nói: “Ý kiến của các chú Bác thấy cũng có lý. Nhưng Bác còn phân vân điều này: gia đình các chú tiết kiệm mua sắm được bộ bàn ghế, giường tủ mới. Vậy trước khi kê vào phòng, các chú có quét dọn nhà cửa sạch sẽ hay cứ để rác rưởi bẩn thỉu mà khiêng bàn ghế, giường tủ vào?”. Anh em đang lúng túng chưa biết trả lời thế nào thì Bác đã nói: “Vì cả hai chú đã đề nghị, là đa số, Bác đồng ý nhượng bộ, đổi lại tên đầu bài là: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Nhưng ở trong bài thì dứt khoát phải để nguyên ý của Bác: Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Ý tứ ấy của Bác, cho mãi đến hôm nay càng thấy vô cùng sâu sắc.
BÀI HỌC VỀ SỰ TIẾT KIỆM
Trước kia, Thông tấn xã Việt Nam hằng ngày đều đưa bản tin lên cho Bác xem. Khi in một mặt, Bác phê bình là
40
lãng phí giấy. Sau đấy, Thông tấn xã in hai mặt bằng rônêô, nhoè nhoẹt khó đọc hơn nhưng Bác vẫn đọc. Sang năm 1969, sức khỏe Bác yếu và mắt giảm thị lực, Thông tấn xã lại gửi bản tin in một mặt để Bác đọc cho tiện. Khi xem xong, những tin cần thiết Bác giữ lại, còn lại Bác
chuyển cho Văn phòng Phủ Chủ tịch cắt làm phong bì tiết kiệm hoặc dùng làm giấy viết. Ngày 10-5-1969, Bác đã viết lại toàn bộ đoạn mở đầu bản Di chúc lịch sử bằng mực xanh vào mặt sau tờ tin Tham khảo đặc biệt ra ngày 3-5-1969. Từ giữa năm 1969, sức khỏe Bác yếu đi nhiều nên Bộ Chính trị đề nghị: Khi bàn những việc quan trọng của Đảng, Nhà nước thì Bác mới chủ trì, còn những việc khác thì cứ bàn rồi báo cáo lại sau, Bác cũng đồng ý như vậy. Tháng 7-1969, Bộ Chính trị họp ra nghị quyết về việc tổ chức bốn ngày lễ lớn của năm: ngày thành lập Đảng, ngày Quốc khánh, ngày sinh Lênin và ngày sinh của Bác. Sau khi báo Nhân dân đăng tin nghị quyết này, Bác đọc xong liền cho mời mọi người đến để góp ý kiến: “Bác chỉ đồng ý 3/4 nghị quyết. Bác không đồng ý đưa ngày 19-5 là ngày kỷ niệm lớn trong năm sau. Hiện nay, các cháu thanh thiếu niên đã sắp bước vào năm học mới, giấy mực, tiền bạc dùng để tuyên truyền về ngày sinh nhật của Bác thì các chú nên dành để in sách giáo khoa và mua dụng cụ học tập cho các cháu, khỏi lãng phí”.
41
CÂU HÁT VÍ DẶM
Chiều ngày 18-5-1969, các diễn viên Đoàn Văn công Quân khu IV vào Phủ Chủ tịch biểu diễn văn nghệ để mừng thọ Bác tròn 79 tuổi. Sau một số tiết mục, đến lượt chị Mai Tư hát dặm đò đưa: “Nước sông Lam biết khi mô cho cạn cũng như tinh thần cách mạng của dân ta...”. Bác hỏi mấy đồng chí ngồi xung quanh: “Có hay không các chú?”. “Thưa Bác, hay ạ!”. Bác hỏi chị Mai Tư: “Trong ta chừ còn dệt vải nữa không?”. “Dạ thưa Bác, có ạ!”. “Rứa cháu có biết hát phường vải không?”. “Dạ thưa Bác, có ạ!”. Bác bảo chị Mai Tư hát một câu mà các cụ ngày xưa hay hát, chị Mai Tư thưa với Bác: “Dạ, chúng cháu hát điệu phường vải nhưng không biết lời cũ ạ!”. Bác bảo: “Thì cháu lấy câu ni để hát nhé: “Khuyên ai chớ lấy học trò””. “Cháu tiếp đi...”. “Dạ, thưa Bác, có phải dài lưng tốn vải ăn no lại nằm không ạ!”. “Giờ cháu tiếp câu nữa đi”. Chị Mai Tư lúng túng không biết, Bác nhắc: “Lưng dài có võng đòn cong; áo dài đã có lụa hồng vua ban”. Chị Mai Tư hát câu Bác vừa nhắc theo điệu hát ví Nghệ An. Đến lượt Minh Huệ, chị đứng dậy thưa: “Thưa Bác, bây giờ cháu xin hát điệu ru em, dân ca miền Trung theo lời cũ ạ!”. Rồi chị cất giọng “A ờ ơ... Ru em em ngủ cho muồi”, Bác sửa lại: “Ru tam tam théc cho muồi”. Chị Minh Huệ hát tiếp: “Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu; Mua cau chợ Sải, mua trầu chợ Dinh”. Bác cười và nói: “Mua cau Cam Phổ chứ không phải chợ Sải”. Thế mới biết Bác Hồ đã từng đi năm châu bốn biển
42
mấy chục năm trời mà vẫn không quên từng tên làng, ngõ xóm, từng câu hát ví dặm của quê nhà.
CHAI MẬT ONG BÁC TẶNG
Thường vào các buổi tối thứ bảy, Bác ra xem phim ngắn khoảng gần một tiếng tại Phủ Chủ tịch, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng xem với Bác. Buồng chiếu phim có anh em ở đơn vị bộ đội bảo vệ, anh em bảo vệ và phục vụ Bác. Thỉnh thoảng anh Vũ Kỳ lại tổ chức buổi hát hoặc ngâm thơ phục vụ Bác.
Tối 31-5-1969 tại Phủ Chủ tịch, Bác và đông đủ các lãnh đạo Đảng, Nhà nước tới dự buổi ca múa nhạc nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi. Buổi tối hôm đó đã được ghi lại trên những thước phim, ảnh Bác ngồi giữa các cháu như ông tiên ngồi giữa bầy cháu nhỏ. Lúc ra về, dọc đường Bác hỏi đồng chí Vũ Kỳ:
- Dưới hàng ghế có cụ nào ngồi đấy? Đồng chí Vũ Kỳ trả lời:
- Dạ, đó là cụ thân sinh của bác sĩ Mẫn.
Bác nói:
- Sao không giới thiệu để mình bắt tay.
Vài ngày sau đồng bào Tây Bắc gửi về biếu Bác một chai mật ong, Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ: Chai mật ong này để biếu ông cụ chú Mẫn.
Tôi (Lê Văn Mẫn1) đưa về và kể cho bố tôi, bố tôi _______________
1. Bác sĩ chăm sóc sức khỏe của Bác Hồ.
43
cảm động chảy nước mắt và giữ gìn chai mật ong cho tới lúc chết (hai năm sau đó)...
Bác Hồ với các cháu thiếu nhi đạt thành tích tốt trong phong trào thi đua làm nghìn việc tốt, tháng 1-1967
TRÊN GIƯỜNG BỆNH
Đầu năm 1969, một chị cán bộ trong Nam ra thăm miền Bắc. Như bất cứ đồng bào miền Nam nào khác,
44
khi tới Thủ đô, chị mong ngày mong đêm được sớm thấy Bác Hồ. Một hôm, thật hết sức bất ngờ, chị được Trung ương gọi vào Phủ Chủ tịch gặp Bác!
Cùng tiếp khách với Bác hôm ấy có cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Gặp Bác, điều đầu tiên chị thưa với Bác là: - Chúng cháu ở miền Nam, vâng theo lời Bác, không nề hy sinh gian khổ, đánh Mỹ đến một trăm năm cũng không sợ. Chỉ sợ một điều là Bác trăm tuổi.
Chị đã nói ra cái điều mà mọi người hằng nghĩ, nhưng không ai dám và muốn nhắc đến. Một cái gì thoáng qua nhanh, rất nhanh, trên vầng trán, đôi mắt, đôi môi và chòm râu bạc của Bác. Bác quay lại hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng:
- Năm nay Bác bảy mươi mấy rồi, chú?
- Thưa Bác, năm nay Bác bảy mươi chín.
Bác mỉm cười, mắt ánh lên hóm hỉnh:
- Thế thì còn đến 21 năm nữa Bác mới trăm tuổi. Bác kêu gọi các cô, các chú đánh Mỹ 5, 10, 20 năm chứ có bao giờ Bác nói 21 năm đâu. Nếu hai mươi năm nữa mà ta thắng Mỹ thì Bác cũng còn một năm để vào thăm các cụ, các cô, các chú, các cháu miền Nam...
Thấy Bác nói vui như vậy, chị cán bộ miền Nam thấy vững lòng. Chị thầm tin rằng, rồi đây đánh Mỹ xong, thế nào Bác cũng sẽ vào thăm đồng bào miền Nam, để đồng bào miền Nam thỏa lòng mong ước.
Trước ngày mùng 2-9-1969, Nha khí tượng phát đi một thông báo khô khan như thường lệ: “Cơn bão số 3...”. Tối hôm mùng một, không thấy Bác dự lễ mừng Quốc khánh, người dân Thủ đô cảm thấy lo lắng. Chưa có
45
thông báo chính thức thế nào về sức khỏe của Bác, nhưng nhân dân cũng biết Bác mệt nhiều.
Không biết tin ở đâu phát ra mà ở Thủ đô từng nhóm người tụ tập đều truyền cho nhau nghe tin Bác mệt và kể lại cho nhau nghe câu chuyện sau đây:
“Trên giường bệnh, Bác hỏi:
- Trong Nam mấy hôm nay đánh thế nào?
- Thưa Bác, anh em trong ấy đang đánh tốt lắm. - Quốc khánh năm nay có đốt pháo hoa cho đồng bào vui không?”...
46
PHẦN THỨ HAI
CHUYỆN KỂ VỀ BÁC HỒ QUA CÁC DI TÍCH VÀ TÀI LIỆU, HIỆN VẬT
47
48
A. CHUYỆN KỂ VỀ BÁC HỒ
QUA CÁC DI TÍCH
CHUYỆN Ở PHỦ CHỦ TỊCH
Phủ Toàn quyền Đông Dương được thuê thiết kế và phụ trách thi công trong 6 năm liên tục 1901 - 1906, dựa trên mẫu kiến trúc hậu Phục hưng của Pháp. Với diện tích xây dựng chung 5.185m2, diện tích sử dụng 1.300m2, công trình bề thế, tráng lệ này tiêu tốn rất nhiều công của,
49
mồ hôi và nước mắt của nhân dân lao động Việt Nam vì trong thời gian xây dựng, thực dân Pháp đã đặt ra nhiều loại thuế hết sức bất công và tàn khốc để trang trải phí tổn mà sử sách vẫn ghi “thời kỳ thuế của nhà nước bảo hộ”. Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta thắng lợi vẻ vang, Thủ đô Hà Nội được giải phóng, ngày 15-10-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội và ở tạm trong khu Đồn Thuỷ. Với mong muốn bảo đảm đầy đủ tiện nghi sinh hoạt và công tác chăm sóc sức khỏe cho Bác trên cương vị Chủ tịch nước sau nhiều năm kháng chiến gian khổ, đồng thời phục vụ những nghi lễ đón tiếp khách ngoại giao, Trung ương và Chính phủ có ý định mời Bác về ở trong Phủ Toàn quyền cũ này nhưng Bác từ chối mà chọn ở trong ngôi nhà nhỏ của người thợ điện bên bờ ao.
Từ đó, toà nhà này được đổi tên là Phủ Chủ tịch, trở thành địa điểm đón tiếp chính thức những vị nguyên thủ quốc gia và lãnh tụ đảng các nước xã hội chủ nghĩa, các đoàn khách quốc tế từ Đông Âu, Trung Á, Đông Nam Á, Mỹ Latinh, châu Phi... Đây cũng là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận quốc thư của những nước đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ngày 20-3-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai mạc kỳ họp thứ IV Quốc hội khoá I tổ chức lần đầu tiên sau những năm kháng chiến. Nhiều phiên họp của Hội đồng Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã diễn ra tại đây, đưa ra những chủ trương, đường lối quan trọng nhằm bảo vệ và xây dựng thành công miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chi viện cho miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà. Tại phòng nghi lễ của Phủ Chủ tịch,
50
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đón tiếp, gặp mặt, dự lễ mít tinh với nhiều đại biểu thuộc các chính đảng, đoàn thể, các ngành, các giới và các tầng lớp xã hội từ khắp đất nước cùng kiều bào ta từ nước ngoài về xây dựng Tổ quốc. Các em thiếu niên và nhi đồng - những chủ nhân tương lai của nước nhà được Bác Hồ đặc biệt quan tâm: các cháu vẫn được vào đây vui chơi, biểu diễn văn nghệ và triển lãm những thành tích lao động và học tập theo lời Bác dạy. Vào tối thứ bảy hằng tuần, Bác mời anh chị em cơ quan, bộ phận phục vụ văn phòng cùng gia đình đến xem phim với Bác ở phòng chiếu phim Phủ Chủ tịch: khi là phim truyện, khi là phim tài liệu hoặc tư liệu từ chiến trường gửi ra.
Câu chuyện xảy ra vào một tối thứ bảy. Tối ấy nghe tin có phim hay, mọi người kéo đến khá đông. Đúng giờ, Bác tới. Người ra hiệu cho mọi người ngừng vỗ tay, rồi ngồi vào ghế. Một số cháu nhỏ tíu tít lại ngồi quây quanh Bác.
Đồng chí thuyết minh phim trình bày tóm tắt nội dung phim: Hoàng tử lấy cóc.
Phim lồng tiếng Pháp, người thuyết minh chưa kịp xem trước nên khi thuyết minh thường không đạt ý. Bác không bằng lòng, Người bảo:
- Chú thuyết minh như vậy mất cả cái hay của phim đi. Chú để Bác thuyết minh cho.
Bác nói rồi liền ra hiệu cho đồng chí thuyết minh đứng dậy, Người cầm lấy ống nói và ngồi vào ghế của đồng chí thuyết minh một cách bình thản. Bác theo dõi trên màn ảnh, lắng nghe đối thoại rồi thuyết minh. Đôi khi Bác
51
giải thích thêm những ý trong khi chuyển cảnh mà người xem cảm thấy khó hiểu. Bác thuyết minh rõ ràng, song ngắn gọn, súc tích. Mọi người lúc đầu thấy Bác thuyết minh thì rất ngạc nhiên và thích thú. Ai nấy đều bị cuốn hút bởi hình ảnh trong phim và lời thuyết minh của Bác.
Bác đang xem bỗng quay lại, thấy đồng chí thuyết minh đang đứng tựa vào tường xem phim, Bác chỉ vào chiếc ghế Bác đã ngồi lúc ấy để trống mà nói:
- Chú này lạ thật, ghế để không sao không ngồi mà lại đứng xem!
Các cháu cũng như mọi người xem cùng bật cười và nhắc đồng chí thuyết minh ngồi vào ghế. Đồng chí thuyết minh đành sẽ sàng chuyển chiếc ghế vào sát tường ngồi xem. Bác lại tiếp tục công việc thuyết minh phim.
Màn ảnh chuyển từng cảnh: “Cung điện huy hoàng của nhà vua. Hoàng tử bắn cung để chọn vợ. Mũi tên rơi xuống cạnh một con cóc. Cóc nói tiếng người, yêu cầu hoàng tử đưa mình về cung... Hoàng tử sống với vợ cóc, nhưng chàng rất buồn.
Rồi những bữa cơm ngon lành, nhà cửa được xếp dọn sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp làm Hoàng tử nghi hoặc, theo dõi cóc... Cuối cùng cóc hiện nguyên hình là một cô gái đẹp trước mắt Hoàng tử. Hai vợ chồng sống cuộc đời tươi đẹp...”.
Đèn bật sáng. Như thường lệ, mọi người quay về phía Bác chờ đợi một lời, một ý của Người và cũng là để chào Bác sau buổi tối xem phim. Bác cũng đứng dậy vui vẻ hỏi:
- Phim có hay không?
52
- Dạ, hay lắm! - Mọi người gần như đồng thanh trả lời. - Hay vì sao?
Mọi người còn đang suy nghĩ câu trả lời thì Người đã giải thích:
- Phim hay vì nội dung tốt, câu chuyện khuyên mọi người: Muốn có lứa đôi hạnh phúc thì đừng quá lệ thuộc vào hình thức bề ngoài, phải thấy cái đẹp bên trong. Cái đẹp về phẩm giá. Các tài tử đóng khéo. Màu sắc đẹp, tình tiết hấp dẫn.
Bộ phim được Bác nói gọn lại mấy ý, ai nấy thêm sáng ra. Trong dòng người ra về có những ý trao đổi: - Phim hay thật! Không có Bác thuyết minh thì mất hay!
NGÔI NHÀ NGƯỜI THỢ ĐIỆN
53
Những ngày đầu tiên tiếp quản Thủ đô, Văn phòng Trung ương bố trí nơi làm việc tạm thời của Bác ở khu Đồn Thủy cũ. Ít ngày sau, Văn phòng mời Bác về ở một biệt thự. Biết tin này, Bác bảo các anh đưa Bác đến thăm nơi đó trước. Cùng đi với Bác hôm đó có anh Bảy, anh Kiên, anh Vũ Kỳ và một số đồng chí phục vụ, bảo vệ.
Chiếc xe con đưa Bác đến cuối đường Phan Đình Phùng, rẽ vào con đường nhỏ trải nhựa phẳng lỳ, băng qua vườn cổ thụ rồi dừng lại trước ngôi nhà lớn. Đây vốn là dinh của Toàn quyền Pháp ở Đông Dương, được xây từ những năm đầu thế kỷ XX. Đứng trước công trình kiến trúc theo kiểu Pháp lộng lẫy ấy khiến tôi nhớ lại những ngày Hà Nội còn tạm chiếm, Phủ Toàn quyền luôn được canh phòng cẩn mật, người dân Việt Nam không mấy ai dám đến gần. Giờ đây, cả ngôi nhà và khu vực rộng lớn thuộc về nhân dân, sẽ là nơi Bác làm việc.
Bác dạo quanh ngôi nhà một lượt, Người nói với chúng tôi:
- Ngôi nhà đẹp đấy. Các chú hãy quét dọn sạch sẽ, sửa chữa lại làm nơi vui chơi cho các cháu thiếu nhi. Bác không ở đây đâu. Bây giờ các chú cho Bác xem những nhà khác ở khu vực này.
Các đồng chí phục vụ hướng dẫn Bác đi qua khu vườn rất rộng ở phía trái ngôi nhà. Ngoài đường náo nhiệt nhưng ở đây thật yên tĩnh. Trong vườn có nhiều loài cây. Bác ung dung vừa đi vừa ngắm cảnh. Đến dãy nhà trước đây dành cho những người phục dịch trong Phủ Toàn quyền, Bác xem khắp lượt, rồi chỉ một căn nhà nhỏ nhất
54
nói với đồng chí đi cùng: Các chú hãy sắp xếp cho Bác ở nhà này (Đó là căn nhà của người thợ điện, có lẽ lâu ngày ít có người qua lại nên lá cây phủ dày lối đi, quanh nhà cây hoang cỏ dại mọc cao). Các đồng chí đi theo rất ngạc nhiên, nhưng biết tính Bác, khi Người quyết định điều gì
đều đã cân nhắc kỹ nên đã làm theo đúng lời Người. Bác ở căn phòng hẹp nên mùa hè rất nóng. Bác thường dùng chiếc quạt bằng mo cau do Bác tự làm. Anh em ở Bộ Ngoại giao thương Bác ở nóng bức nên đã mua biếu Bác một chiếc điều hòa nhiệt độ do nước ngoài sản xuất. Nhân một hôm Bác đi công tác, anh em phục vụ lắp máy điều hòa vào phòng của Bác. Mọi người rất hồi hộp chờ đợi xem Bác có ý kiến gì không? Vừa về đến nhà, khi bước vào phòng, Bác đứng lại hỏi tôi: “Chú ơi, hôm nay nhà mình có mùi gì lạ quá” (chả là chiếc điều hòa có một bình bơm nước hoa tự động. Khi máy vận hành thì nước hoa bay ra nên trong phòng lúc nào cũng phảng phất mùi thơm). Biết không giấu được Bác, các đồng chí phục vụ phải trình bày lý do về chiếc điều hòa. Không thấy Bác nói gì mọi người ai nấy đều vui mừng, phấn khởi. Nhưng chỉ đến buổi chiều, Bác cho gọi các đồng chí phục vụ đến, Người nói: các chú hãy đem chiếc điều hòa này cho anh em thương binh ở Hàng Bột. Hôm Bác đến thăm thấy các chú ấy ở nóng lắm. Còn Bác thì chưa cần. Các đồng chí Trung ương khác còn chưa có sao Bác lại được dùng. Thế là ngay chiều hôm ấy anh em phục vụ lại phải chuyển chiếc máy điều hòa cho anh em thương binh theo yêu cầu của Bác.
55
CHUYỆN VỀ CHIẾC XE ÔTÔ
Phía bên trái ngôi Nhà 54 có một gara nhỏ, nơi trưng bày hai chiếc xe ôtô: Pôbêđa và Pơgiô 404. Đây là những chiếc xe đã dùng phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian Người sống và làm việc ở Khu Phủ Chủ tịch. Chiếc ôtô Pôbêđa là một trong những chiếc xe do Chính phủ Liên Xô tặng cho Việt Nam vào năm 1955. Tháng 3-1957, Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao đã chuyển chiếc xe này sang Văn phòng Phủ Chủ tịch. Xe đã phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh từ đó đến năm 1969. Loại xe này gầm cao phù hợp với việc đi đường trường vì vậy thường được Người sử dụng cho những chuyến đi thăm các địa phương xa Hà Nội. Đầu những năm 60, Chính phủ Liên Xô tặng Chính phủ ta một số xe ôtô hiệu Vonga đẹp hơn về kiểu dáng, tốt hơn về tính năng kỹ thuật so với xe Pôbêđa. Các đồng chí trong Văn phòng xin phép Chủ tịch Hồ Chí Minh cho sử dụng loại xe mới này để phục vụ Người,
56
nhưng Người từ chối vì muốn để dành xe tốt cho các đồng chí làm công tác ngoại giao. Bác hỏi đồng chí lái xe: - Xe của Bác đã hỏng chưa?
Đồng chí lái xe thành thật:
- Thưa Bác xe chưa hỏng, nhưng chúng cháu muốn đổi xe mới để Bác đi nhanh và êm hơn.
Bác cười bảo:
- Thế thì chưa đổi... ai thích đi nhanh thì đổi xe mới, còn Bác thì vẫn dùng xe này vì nó chưa hỏng. Một hôm sắp đến giờ Bác đi làm việc mà xe chưa nổ máy được. Thấy Bác đứng đợi, đồng chí lái xe rất lo lắng. Đoán xe có sự cố, Bác bước lại gần ân cần bảo đồng chí lái xe:
- Máy móc thì có lúc nó trục trặc, chú cứ bình tĩnh mà sửa.
Vài phút sau, xe sửa xong, đồng chí lái xe xin lỗi Bác, Bác cười độ lượng:
- Thế là xe Bác vẫn còn tốt. Lần sau chú nhớ kiểm tra trước kẻo nhỡ việc của Bác.
Thế là Bác vẫn dùng chiếc xe Pôbêđa cũ kỹ cho đến ngày Bác đi xa.
NHÀ SÀN
Sau gần bốn năm tiến hành công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ở miền Bắc Việt Nam cơ sở vật chất của xã hội bước đầu được củng cố và phát triển, đời sống nhân dân đã phần nào được nâng cao,
57
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị mong muốn xây dựng một ngôi nhà mới để Chủ tịch Hồ Chí Minh có nơi ở, làm việc được tốt hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đồng ý với ý định này của Trung ương sau buổi gặp mặt đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Bắc tại Phủ Chủ tịch và sau chuyến đi thăm một số nơi của tỉnh Thái Nguyên. Người nói với anh em: Trung ương đề nghị xây cho Bác một ngôi nhà mới, Bác nghĩ: nên làm một căn nhà nho nhỏ ở phía bên kia bờ ao theo kiểu nhà đồng bào dân tộc ở Việt Bắc, giống như ngôi nhà Bác đã từng ở trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
58
Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, người có vinh dự được giao nhiệm vụ thiết kế và thi công Nhà sàn Bác Hồ đã kể lại như sau:
Trong thời gian Bác đi công tác vắng, đơn vị chúng tôi được giao nhiệm vụ thi công xây dựng Nhà sàn của Bác. Bằng mọi cách, ngôi nhà phải được xây cất xong trước ngày Bác về. Chúng tôi thi nhau làm. Quả nhiên, trước hôm Bác về, mọi việc đều đâu vào đấy. Nhìn ngôi Nhà sàn hai gian thoáng đãng, tầng dưới bốn phía để trống, tầng trên chia làm hai phòng, một phòng Bác ở, một phòng Bác làm việc, xung quanh là hành lang rộng có mành che, chúng tôi vừa mừng, vừa hồi hộp. Không biết việc làm của chúng tôi có vừa lòng Bác không? Chúng tôi chỉ mong Bác về để được trực tiếp nghe ý kiến Bác. Như đọc được ý nghĩ của chúng tôi, quả nhiên hôm sau, Bác tổ chức một bữa tiệc liên hoan ngay tại ngôi nhà chúng tôi vừa dựng. Không khí buổi liên hoan sao vừa thiêng liêng vừa đầm ấm lạ lùng. Đó là hình ảnh của một người cha hiền dịu trong gia đình và đàn con xúm xít chung quanh. Sau khi phát huy hiệu của Bác cho từng anh em chúng tôi, Bác khen:
- Các chú làm như thế là nhanh, tốt, đảm bảo thời gian nhưng còn một khuyết điểm. Các chú có biết khuyết điểm gì không?
Anh em chúng tôi đưa mắt nhìn nhau lo lắng. Tôi giơ tay xin Bác cho nói: Thưa Bác, so với ý Bác dặn thì có tốn kém hơn đôi chút ạ.
Bác cười chòm râu bạc rung nhè nhẹ:
- Chú nói đúng.
59
Tôi vội đỡ lời: Thưa Bác, làm nhà để Bác ở, chúng cháu ai cũng cố gắng làm tốt, làm đẹp. Trong phần việc của mình mỗi người thêm thắt một ít, cộng lại tốn kém hơn đôi chút, nhưng chúng cháu muốn Bác ở nhà đẹp hơn, tốt hơn.
Nghe tôi nói xong, Bác chỉ lên nhà bảo:
- Nước ta còn chưa giàu, dân ta còn khổ, chưa đủ nhà ở. Bác ở như thế này là tốt lắm rồi, các chú không phải lo cho Bác.
Hôm đó là ngày 17-5-1958. Và kể từ hôm đó, Bác chính thức dọn từ ngôi nhà nhỏ bên kia hồ sang ở Nhà sàn. Trước khi thiết kế ngôi Nhà sàn gỗ của Bác tại Phủ Chủ tịch (tầng trên có hai phòng, một phòng Bác dùng làm việc, một phòng nghỉ. Còn tầng dưới là nơi Bác họp và tiếp khách), Bác có ý kiến:
- Khách của Bác có nhiều, có lúc Bác phải tiếp đông các cháu, vì vậy các chú thiết kế cho Bác một hàng ghế bằng xi măng bao quanh.
Vâng lời Bác, các đồng chí đã thiết kế hàng ghế đó. Mỗi lần các cháu đến, các cháu đều quây quần bên Bác và được Bác chia bánh kẹo cho.
Một hôm, Bác nói với đồng chí giúp việc:
- Chú xem, khách “tí hon” của Bác khá nhiều, để các cháu vui thì phải có cảnh cho các cháu xem, chú gắng kiếm một cái bể về để nuôi cá vàng làm cảnh cho các cháu.
Vâng lời Bác, đồng chí giúp việc đi tìm mua một bể nuôi cá đặt tại hành lang của tầng dưới ngôi Nhà sàn và thả ba con cá vàng rất đẹp.
60
Hằng ngày, sau giờ làm việc, Bác thường cho cá vàng ăn. Người để dành những mẩu bánh mỳ làm thức ăn cho cá. Được Bác chăm sóc, ba con cá vàng ngày một lớn và phát triển.
Mùa đông trời lạnh, Bác nói:
- Cá cũng như người, mùa đông phải giữ nhiệt độ đủ ấm. Chú nên làm một chiếc nắp đậy bể cá để bảo đảm độ ấm cho cá.
Khách đến thăm nhà Bác, nhất là khách “tí hon” rất thích thú đứng ngắm bể cá vàng. Những con cá màu sắc thật sặc sỡ, tung tăng, lấp lánh, bơi lặn trong bể nước.
NHÀ H67
Vào những năm 1966 - 1967, cuộc phiêu lưu mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân
61
của đế quốc Mỹ ngày càng trở nên ác liệt, những kẻ cầm đầu Nhà Trắng tuyên bố: phải huỷ diệt các thành phố lớn, phải đưa miền Bắc Việt Nam quay về thời kỳ đồ đá, vì vậy Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác cùng các khu công nghiệp bị bắn phá ngày đêm. Trước tình hình đó, để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị đã quyết định xây dựng ở phía sau Nhà sàn một ngôi nhà kiên cố đề phòng tình huống bất ngờ xảy ra. Ngày 1-5-1967, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi công tác nước ngoài, ngôi nhà được khởi công xây dựng. Cán bộ, chiến sĩ ở Cục Công trình thuộc Bộ Tư lệnh công binh được giao nhiệm vụ thiết kế và xây dựng công trình. Ngôi nhà được đặt tên theo năm xây dựng: Nhà 67. Ngày 30-6-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về Hà Nội sau chuyến đi công tác dài ngày. Thấy ngôi nhà mới Người tỏ ý không vui. Các đồng chí trong Bộ Chính trị báo cáo với Người về sự cần thiết phải xây dựng ngôi nhà này. Đồng chí Phạm Hùng, Phó Thủ tướng, Ủy viên Bộ Chính trị thưa với Chủ tịch Hồ Chí Minh việc xây dựng ngôi nhà là nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là của đồng bào chiến sĩ miền Nam. Mặc dù vậy, Người vẫn không nhận cho riêng mình. Người đề nghị sử dụng ngôi nhà làm nơi họp Bộ Chính trị, nơi làm việc với các đồng chí Trung ương. Ngày 17-8- 1969, sau khi kiểm tra sức khỏe cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, các bác sĩ đề nghị Người không lên xuống Nhà sàn nữa. Theo lời đề nghị của bác sĩ, ngày 18-8 Người chuyển hẳn xuống ở Nhà 67.
Những ngày cuối tháng 8-1969, bệnh tình của Bác càng trầm trọng thêm, Người đã phải trải qua những cơn
62
đau dữ dội. Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định điều động một số cán bộ, nhân viên y tế giỏi của các bệnh viện lớn cùng với những thiết bị hiện đại đến cứu chữa cho Bác. Trong số đó có một số là nữ y tá. Một lần, vừa tỉnh lại qua cơn đau, Bác thấy có mấy nữ y tá ở cạnh, Bác hỏi một đồng chí phục vụ: “Những ai thế chú?”. “Thưa Bác, đó là các nữ đồng chí y tá của Bệnh viện Quân y 108 được điều động đến phục vụ Bác”. Bác không nói gì, một lúc sau Bác mới chậm rãi: “Các cháu còn trẻ, đang tuổi ăn, tuổi ngủ, Bác biết các cháu rất thương Bác, nhưng không nên để các cháu ở đây, vì các cháu gái thường dễ xúc động”. Thoáng nhìn thấy những bông hoa hồng cắm trong lọ hoa bên cạnh, Bác hỏi đồng chí phục vụ: “Hoa trong vườn phải không chú? Còn nhiều không? Nếu còn chú hái vào tặng cho các cháu gái”. Đồng chí phục vụ ra vườn hái hoa, khi cầm hoa vào, Bác liền bảo: “Bác đang mệt, chú thay mặt Bác tặng mỗi cháu gái một bông hồng”. Tất cả các cô y tá trẻ hôm đó mỗi người được tặng một bông hoa hồng trong vườn Bác. Không trừ một ai, tất cả đều cảm động và sung sướng đến chảy nước mắt. Ngày 27-8, lúc tỉnh cơn đau, Bác nói muốn nghe một khúc dân ca. Cô y tá Ngô Thị Oanh đã cố gắng hát bài “Chiến sĩ quân y làm theo lời Bác” và bài dân ca quan họ “Người ơi người ở đừng về”, nghe hát xong Bác tặng chị một bông hoa hồng đỏ thắm. Đến phút chót của cuộc đời Bác vẫn không lo gì cho riêng mình, chỉ lo lắng khi mực nước sông Hồng dâng lên, lo cho dân được xem bắn pháo hoa ngày Độc lập, nghĩ đến miền Nam, theo dõi chiến công mới nhất và mong sao cho các cháu gái ngày ngày vẫn có hoa.
63
CĂN HẦM PHÒNG KHÔNG
Về thăm lại nơi Bác ở xưa, đồng bào ta, kiều bào ở nước ngoài, khách quốc tế đều rất xúc động khi ngắm từng lối sỏi quen, ao cá, bờ cây... nhưng ít ai biết dưới khóm cây hoa móc diều đỏ (hoa giấy) bên cạnh Nhà sàn gỗ có căn hầm phòng không dùng tránh bom trong thời kỳ giặc Mỹ bắn phá Hà Nội.
Phía ngoài căn hầm H66
Từ tháng 8-1964, cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ ở miền Bắc Việt Nam diễn ra hết sức quyết liệt. Bom đạn đã rơi ngay ở phố Hoàng Diệu, cách Phủ Chủ tịch không xa, vì vậy Bộ Chính trị đã quyết định xây dựng hầm này là để Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng khi có báo động phòng không. Hầm do Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 259 thuộc Cục công trình Bộ Tư lệnh công binh
64
xây dựng. Căn hầm có tên gọi H66 (năm xây dựng hầm). Căn hầm được khởi công xây dựng ngày 17-5-1966, hoàn thành ngày 5-8-1966. Trong quá trình thi công, đơn vị đã gặp một số khó khăn như thời tiết mưa bão nhiều gây cho đất sụt lở phải sửa lại, nhân công thiếu nên anh em phải làm việc tới 12 - 16 giờ một ngày. Nhiều khẩu hiệu động viên thiết thực được đề ra như “Tranh thủ trời nắng, chiến thắng trời mưa”, “Quyết tâm thi đua, chiến thắng sụt lở”. Trong phong trào thi đua ấy, tính chung toàn bộ công trình, đơn vị đã hoàn thành sớm hơn mức được giao là 8 ngày, chất lượng bảo đảm tốt, bí mật an toàn tuyệt đối.
Căn hầm Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng khi báo động phòng không có kiến trúc kiên cố, mái bằng, có một phòng, tường đổ bê tông cốt sắt. Bên phải hầm là nhà cầu con, nơi Bác làm việc khi báo động phòng không. Hầm thông với nhà cầu con bằng một cửa ra vào để tiện cho Bác khi từ Nhà sàn xuống hầm. Bên trái hầm là Nhà H67, nơi Bác họp với Bộ Chính trị và cũng là nơi Người chữa bệnh và qua đời. Hầm H66 thông với Nhà H67 bằng một cầu thang dài 9,1m gồm 22 bậc, chiều ngang bậc là 1m. Cầu thang bằng xi măng và có tay vịn bằng gỗ. Xung quanh hầm ốp gỗ, có cách âm, ở cửa hầm có thiết bị thông gió. Hầm có diện tích 12,6m2 , dài 4,2m, rộng 3m, có thể chống được bom xuyên. Khi xuống hầm có cảm giác như ở phòng làm việc.
Bài trí bên trong căn hầm rất đơn giản. Bên phải kê sát tường là 8 chiếc ghế khung sắt. Bên trái là một chiếc tủ nhỏ trên có để đèn điện và bên cạnh là một chiếc giường gỗ có mặt đan bằng mây được thiết kế theo kiểu đặc biệt: khi nâng lên là ghế, còn khi hạ xuống là giường
65
có thể phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Bộ Chính trị ngồi họp khi có báo động phòng không. Hầm H66 khi xây dựng có hệ thống thông gió nhưng do hầm làm dưới mặt đất nên bí và nóng vì vậy hầm được trang bị thêm một chiếc quạt điện. Ngoài ra trong hầm còn có đèn pin không khí dùng khi mất điện, trên tường treo biểu kế đo độ ẩm để từ đó có chế độ điều chỉnh nhằm bảo đảm phục vụ cao nhất cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Bộ Chính trị làm việc. Để bảo đảm liên tục thông suốt với bên ngoài dưới hầm phòng không đã lắp đặt ba chiếc máy điện thoại để Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng liên lạc với Cục Tác chiến, Bộ Chính trị và Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân.
Căn hầm Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng khi có báo động phòng không là một trong những di tích lịch sử quan trọng của Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Ngay từ khi xây dựng, những người làm hầm đã có một vinh dự đặc biệt, đó là đơn vị thi công được Bác Hồ thưởng một chiếc radio Rumani và một buổi tối văn nghệ tại Ba Đình. Đây là niềm vinh dự lớn lao mà Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 259 được nhận. Đồng chí Trần Sỹ Yêm, tiểu đoàn phó đã gửi báo cáo kết quả công trình lên Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng là bức thư cảm ơn Người đã quan tâm tới đơn vị.
Đồng chí Vũ Kỳ, nguyên là thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho biết: Tại căn hầm H66 này, Bác đã xuống trú ẩn một vài lần và không lần nào đóng cửa hầm. Bác chỉ xuống hầm khi thật cần thiết và vẫn liên lạc ra ngoài bằng điện thoại.
66
Đồng chí Cù Văn Chước, nguyên là cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, người đã giúp việc cho Bác nhiều năm cho biết: Tháng 5-1967, giặc Mỹ bắn phá ác liệt, Bác cùng Bộ Chính trị đã nhiều lần họp ở đây, có khi Bác gọi điện trực tiếp chỉ đạo từ H66.
Căn hầm H66 đã đi vào lịch sử, là một trong những di tích lịch sử quan trọng trong Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, có thể tuyên truyền rộng rãi để nhận thức đầy đủ, toàn diện về đời sống của một danh nhân.
NHÀ BẾP A
Bên ngoài nhà bếp A
Trở về Thủ đô Hà Nội sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc 15 năm tại Khu Phủ Chủ tịch (1954 - 1969). Đây là
67
nơi Người sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Ngay sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định bảo tồn nguyên vẹn và vĩnh viễn nơi ở và làm việc của Người tại Phủ Chủ tịch để mở cửa đón khách trong và ngoài nước tới tham quan, học tập nhằm góp phần giáo
dục về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, về cuộc sống giản dị, khiêm nhường của Bác Hồ. Một trong những điểm di tích có ý nghĩa lớn lao như vậy còn ít người được biết đến trong Khu Phủ Chủ tịch là căn bếp dùng nấu ăn phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ năm 1955 đến tháng 7-1969.
Trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh và cơ quan Văn phòng Phủ Chủ tịch về làm việc tại đây, toàn bộ khu nhà này là nơi ở và làm việc của những người phục vụ Phủ Toàn quyền Đông Dương. Căn bếp này nằm trong dãy nhà đã được sử dụng vào việc phục vụ Phủ Toàn quyền Đông Dương thời đó, nằm ở gần đầu hồi phía bên phải Nhà 54 (ngôi nhà Bác Hồ đã ở và làm việc từ năm 1954).
Những năm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc tại đây, cả dãy nhà này đã được sử dụng làm nơi làm việc của anh em bảo vệ Phủ Chủ tịch, riêng mấy phòng đầu hồi được sửa sang để làm bếp phục vụ sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước khi sử dụng ngôi nhà này làm bếp phục vụ Bác, từ tháng 12-1954 đến tháng 5-1955, cơ quan đã sử dụng tạm ngôi nhà phía sau bếp này, đó là một ngôi nhà hai mái lợp tôn của gia đình cai đội và lính phục vụ Phủ Toàn quyền.
68
Tủ bếp
Di tích bếp A là một trong những di tích lịch sử quan trọng của Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Nơi đây đã lưu giữ những đồ dùng phục vụ bữa ăn hằng ngày của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có một số đồ ăn Á, Âu để Người dùng tiếp khách trong những dịp lễ, tết, mời cơm thân mật các nguyên thủ quốc gia hoặc gặp mặt các cá nhân anh hùng, chiến sĩ thi đua có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, học tập hoặc tiếp các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng gia đình các đồng chí đó. Chăm lo đến sức khỏe của vị lãnh tụ tối cao của Đảng và Nhà nước là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Các đồng chí trực tiếp phục vụ bữa ăn của Bác luôn xác định đó là vinh dự và trách nhiệm, thay mặt cho nhân dân cả nước chăm lo sức khỏe cho Bác. Trong gian bếp chủ yếu là những đồ dùng đơn giản,
69
bình thường như của nhiều gia đình người Việt Nam như: bát canh, lọ đựng hạt tiêu, ấm pha chè, cối giã cua, chiếc xoong rim thịt... bởi Người thích ăn những món ăn dân tộc, đậm đà hương vị quê hương như cá kho gừng, cà muối, canh cua... Căn bếp A sử dụng từ năm 1955 đến tháng 7-1969 ngay sau khi Bác Hồ về ở Phủ Chủ tịch. Hằng ngày, các đồng chí phục vụ nấu ăn ở bếp này và đưa đồ ăn sang phòng ăn của Nhà 54 cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Sở thích của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng rất khác nhau, Bác thích ăn các món luộc và các món ăn dân tộc, còn Thủ tướng thích ăn xào và các món ăn Âu.
Căn bếp A nằm trong dãy nhà mái ngói một tầng được xây dựng năm 1923, tường xây gạch, vì kèo bằng thép; diện tích 90m2. Bếp được ốp gạch men trắng, có bệ nấu, bồn rửa và tủ lưới đựng thức ăn, xung quanh có cửa sổ rộng, thoáng mát. Trong quá trình sử dụng nấu ăn, căn bếp được tu sửa để tạo điều kiện làm việc cho anh em phục vụ đỡ nóng bức, vất vả. Để bảo đảm điều kiện vệ sinh nơi nấu ăn phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh, căn bếp được mở rộng thêm, mở thêm ba cửa sổ, xây bồn rửa và bể nước chìm để dự trữ nước... Ngày 5-11-1969, sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời không lâu, các đồng chí ở Văn phòng Phủ Chủ tịch đã lập bản danh sách các đồ dùng phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một số đồ dùng cần thiết đã bàn giao cho cấp dưỡng phục vụ Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp tục sử dụng. Số còn lại được bảo quản tại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Số hiện vật này bao gồm
70
các chất liệu: gốm, sứ, thuỷ tinh, nhựa, kim loại, đồ dệt, đồ mộc... Các hiện vật được phân chia làm bốn nhóm: - Nhóm các hiện vật là đồ dùng trực tiếp phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Nhóm các hiện vật là đồ dùng phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp khách.
- Nhóm các hiện vật là quà tặng của các nơi gửi đến biếu Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Nhóm các hiện vật là quà tặng chuẩn bị để Chủ tịch Hồ Chí Minh đem tặng.
Các đồ dùng phục vụ bữa ăn hằng ngày của Chủ tịch Hồ Chí Minh được các đồng chí cấp dưỡng sắp xếp, bảo quản, cất giữ ngay sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Tuy chưa được ghi số kiểm kê, nhưng chúng đã được nghiên cứu, phân loại để nắm được ý nghĩa, cách sử dụng
từng loại khi dùng phục vụ bữa ăn của Người. Trong nhiều năm qua, Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch đã tiến hành xác minh, kiểm kê khoa học toàn bộ các đồ dùng nhà bếp và đồ dùng đã phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng ngày và phục vụ Người tiếp khách, đặc biệt có các hiện vật chỉ dùng tiếp riêng các đồng chí trong Bộ Chính trị... Căn cứ vào ý nghĩa lịch sử của các đồ dùng ở nhà bếp đã sử dụng phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh là những hiện vật gốc có thể giúp khách tham quan hiểu biết thêm về cuộc sống đời thường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để nơi đây thực sự trở thành trường học khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Bác Hồ cho mọi thế hệ người Việt Nam.
71
CĂN PHÒNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CHỦ TRÌ HỌP BỘ CHÍNH TRỊ
VÀ TIẾP KHÁCH
Nằm ở chính giữa tầng một của ngôi nhà hai tầng, đối diện với ngôi nhà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng sống và làm việc có một căn phòng đã từng là địa điểm họp Bộ Chính trị và cũng là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhiều đoàn khách trong nước và quốc tế.
Căn phòng vốn là nơi ở của người quản lý phục vụ cho Toàn quyền Đông Dương. Trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc trong Khu Phủ Chủ tịch, nhiều cuộc họp Bộ Chính trị đã diễn ra tại căn phòng này. Tại đây, ngày 28-12-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp đặc biệt của Bộ Chính trị đưa ra quyết định “chuyển cuộc cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới -
72
thời kỳ giành thắng lợi quyết định”, đồng thời chính thức thông qua kế hoạch cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Đây là một quyết định mang tính bước ngoặt đối với cách mạng Việt Nam. Sau Hội nghị, Người chỉ thị cho cán bộ chỉ huy các chiến trường: “Kế hoạch phải thật tỉ mỉ. Hợp đồng phải thật khớp. Bí mật phải thật tuyệt đối. Hành động phải thật kiên quyết. Cán bộ phải thật gương mẫu”1.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh. Đêm 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã phải công khai tuyên bố: Mỹ đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc (từ vĩ tuyến 20 trở ra), sẵn sàng cử đại diện đi vào đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng thời quyết định rút dần quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam khi chưa một mục tiêu nào của cuộc chiến tranh này được thực hiện. Từ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, nhiều lực lượng mới chống Mỹ và tay sai xuất hiện, Mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mỹ được mở rộng. Tổ chức “Liên minh các dân tộc, dân chủ và hòa bình” ở miền Nam được thành lập. Xu hướng chính trị, hòa bình, trung lập càng thu hút đông đảo các tầng lớp trung gian, thúc đẩy thêm sự phân hóa trong chính quyền và quân đội tay sai Sài Gòn. Từ đây số phận cuộc chiến giữa đế quốc Mỹ và nhân dân Việt Nam đã được định đoạt.
_______________
1. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.10, tr.155.
73
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp hội nghị Bộ Chính trị nghe báo cáo kế hoạch cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, ngày 28-12-1967
Không chỉ là địa điểm họp Bộ Chính trị, căn phòng còn là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thân mật các đoàn khách trong nước và quốc tế như: Đoàn Đại biểu các anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam (năm 1966); Đoàn cán bộ Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình (năm 1968); Đoàn Đại biểu Liên đoàn Thanh niên dân chủ thế giới sang dự Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (năm 1956); Nữ nhà báo Pháp Mađơlen Ripphô (1966, 1969), v.v.. Các buổi tiếp khách của Người luôn diễn ra trong không khí thân mật, tự nhiên, để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế. Qua đó làm tăng thêm sự gắn bó giữa lãnh tụ với nhân dân và sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, nhằm tăng cường sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đối với cuộc
74
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đẩy nhanh cuộc đấu tranh chính nghĩa đi đến thắng lợi, đồng thời khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
PHÒNG TRƯNG BÀY THIẾT BỊ Y TẾ PHỤC VỤ CHỮA BỆNH CHO
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI
Phòng trưng bày thiết bị y tế phục vụ chữa bệnh cho Chủ tịch Hồ Chí Minh những ngày cuối đời nằm cạnh ngôi nhà 67. Căn phòng được xây dựng vào tháng 5-1958, là nơi nghỉ giải lao giữa phiên họp của các đồng chí trong Bộ Chính trị. Từ ngày 24-8-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh lâm bệnh nặng, căn phòng là nơi hội đồng bác sĩ họp hội chẩn bệnh và đưa ra phác đồ điều trị cho Người.
Căn phòng trưng bày 42 dụng cụ y tế đã sử dụng để chữa trị cho Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 24-8-1969 đến ngày 2-9-1969
75
Phòng trưng bày các dụng cụ y tế đã được sử dụng để chữa bệnh cho Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian từ ngày 24-8-1969 đến ngày 2-9-1969. Đó là các thiết bị y tế cần thiết cho một phòng hồi sức cấp cứu, hiện đại nhất lúc bấy giờ. Phần lớn các thiết bị được nhập từ nước ngoài như: máy thở tự động PO-2, máy quang kế ngọn lửa nhập từ Liên Xô; máy hút dịch XQ-30b, ống nghe tim phổi nhập từ Trung Quốc; máy kích thích và phá rung tim MPA-2, máy chụp Xquang YAMOTO nhập từ Nhật; đèn soi đáy mắt, giường bệnh nhập từ Cộng hòa Dân chủ Đức, v.v..
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, các thiết bị y tế đã được đưa về Viện Quân y 108 để phục vụ khám, chữa bệnh cho các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các chiến sĩ quân đội và nhân dân. Sau một thời gian lưu giữ tại kho trang thiết bị y tế của Viện Quân y 108, năm 1995, những dụng cụ y tế này đã được bàn giao cho Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch để bảo quản và phát huy tác dụng.
Năm 2009, nhân kỷ niệm 55 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh về sống và làm việc tại Phủ Chủ tịch và 40 năm ngày Bác đi xa, Khu Di tích đã mở cửa phòng trưng bày các thiết bị y tế phục vụ chữa bệnh cho Chủ tịch Hồ Chí Minh những ngày cuối đời để phục vụ khách tham quan trong nước và quốc tế. Tham quan phòng trưng bày, người xem cảm nhận đầy đủ hơn về sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cũng như tình cảm, trách nhiệm và lòng kính yêu vô hạn của nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, người bạn lớn của nhân dân thế giới.
76
VƯỜN RAU, AO CÁ CỦA BÁC
Bác Hồ cuốc đất trồng rau trong vườn Phủ Chủ tịch
Cuộc sống ở Việt Bắc rất khó khăn và gian khổ. Tuy vậy, dù bận đến đâu Bác cũng không quên nhắc nhở, động viên các cán bộ tích cực tăng gia sản xuất để cải thiện đời sống, giảm bớt khó khăn. Ngày ngày, sau giờ làm việc lại thấy Bác đi tăng gia. Quanh khu vực Bác ở, mấy luống rau xanh, vài gốc bầu bí mọc lên là niềm vui, nguồn thúc đẩy anh em cùng làm theo Bác. Rau của Bác và các đồng chí cán bộ trồng tốt, nhiều khi ăn không hết, Bác lại nhắc đem sang tặng các cơ quan bên cạnh.
Khi về sống giữa Thủ đô, Bác vẫn giữ nếp quen lao động.
77
Năm đầu mới hòa bình có biết bao công việc bận rộn, nhưng Bác vẫn tranh thủ thời gian để tăng gia. Khu vườn trong Phủ Chủ tịch, lúc đầu, ngoài những chỗ trồng cây cũ còn có những khoảng đất bỏ trống, cỏ mọc um tùm. Thấy vậy, Bác bảo các đồng chí cán bộ:
- Bác cháu ta nên tổ chức khai hoang để lấy đất trồng rau ăn và trồng hoa cho đẹp.
Nghe lời Bác, buổi chiều nào mấy Bác cháu cũng vác cuốc ra vườn. Một thời gian sau, thay cho những đám cỏ hoang trước kia là những luống rau bắp cải, su hào xanh tươi mơn mởn. Trước ngôi nhà ở đã thấy các loại hoa khoe sắc, toả hương thơm ngào ngạt, trông thật vui mắt.
Cạnh nhà Bác ở còn có một ao tù cạn nước. Một lần, sau khi đi tưới rau về, Bác chỉ xuống ao vui vẻ bảo: - Các chú sửa cái ao cạn này đi để nuôi cá thì rất tốt. Theo ý Bác, mấy hôm sau các đồng chí cảnh vệ đã bắt tay vào sửa ao. Hằng ngày, Bác thường ra động viên mọi người làm việc, Bác còn đem cả thuốc lá ra đưa cho từng người.
Công việc gần xong, Bác bảo:
- Ao đào sâu thế này Bác cháu ta sẽ thả được nhiều loại cá, như thế là tận dụng được thức ăn, không phí. Còn ở quanh ao, các chú thấy nên trồng cây gì cho đẹp?
Mọi người bàn tán sôi nổi. Người thì nêu ý kiến nên trồng hoa, người lại bàn trồng dừa, có người lại bảo trồng chuối... Mỗi người một ý. Nghe xong, Bác ôn tồn nói:
- Ý các chú đều hay cả, nhưng theo Bác thì ở xung quanh ta nên trồng dâm bụt, cạnh bậc lên xuống ao trồng dừa, Bác cháu ta lại nhớ đến miền Nam.
78