🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mênh Mông Biển Việt Tập 1 Ebooks Nhóm Zalo T HI Ê N N H I Ê N ĐÂT N ư ớ c TA HIÊN NHIÊN ĐẤT Nước T A NGUYỄN QUỐC TÍN - NGUYỄN HUY THANG - NGUYỄN NHƯ MAI BIEN VIẸT NHÀ X U Ấ T BẢN KIM Đ Ồ N G Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Nguyễn Quốc Tín Mênh mông biển Việt/ Nguyễn Quốc Tín, Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Như Mai. - H .: Kim Đổng. - 21 cm. - (Thiên nhiên đất nước ta) T.1.-2015.-192tr. ISBN 9786042058063 1. Biển 2. Đảo 3. Việt Nam 333.916409597-dc23 KDL0106p-CIP Thiên nhiên đất nước ta - Mênh mông biển Việt - Tập 1 © Nguyễn Quốc Tín, Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Như Mai Xuất bản theo Hợp đổng sử dụng tác phẩm giữa nhóm Tác giả và Nhà xuất bản Kim Đổng, 2015 Bản quyền hình ảnh bìa, minh họa thuộc vể Nhà xuất bản Kim Đồng, 2015 Vẽ bìa và minh họa; Nguyễn Doãn Sơn Trình bày bìa: Tô Hồng Thủy LỜI NÓI ĐẦU Non - Sông, Đất-Nước, Giang - Sơn - tổ hợp hai từ ấy, hai yếu tố ấy tạo nên một từ thiêng liêng: Tổ quốc. Tổ quốc không chỉ là khái niệm chung chung, mơ hồ, mà chính là sông là núi, là mảnh đất tổ tiên chúng ta đã tạo dựng nên, đã dùng sức lao động để tô điểm và dùng máu xương để bảo vệ. Càng hiểu và bịết về thiên nhiên đất nước, ta càng thêm yêu, thêm tự hào về Tổ quốc. Để có sự hiểu biết về non nước mình, chúng ta phải học trong nhà trường, đọc trong sách báo và trải nghiệm trong thực tế. Đồng thời, lại phải có ý thức thường xuyên bồi bổ các kiến thức về địa lí, về thiên nhiên rất cần thiết cho mỗi con người trong cuộc sống và cả trong công việc sau này. Bạn cân biết về cương vực, lãnh thổ đất nước khi muốn đi vào nghiệp văn chương, sử học, ngoại giao. Bạn cân thông thuộc địa hình, địa mạo khi làm quy hoạch hay kiến trúc. Bạn càng cân nắm rõ về sông, núi, biển, rừng của Tổ quốc nếu bạn làm nông nghiệp, khai thác tài nguyên hay thương m ại... Khỏi phải nói, trong cuộc sống hằng ngày, những kiến thức ấy giúp ích thê' nào khi bạn đi du lịch khám phá; sự hiểu biết sẽ làm cho bạn có ấn tượng sâu sắc hơn và thu lượm được nhiều điều bổ ích hơn sau mỗi chuyến đi... Bộ sách về thiên nhiên đất nước Việt Nam mà chúng tôi giới thiệu với bạn đọc, đặc biệt với các bạn trẻ, chính là nhằm đem đến những kiến thức bổ trợ giúp tàng cường vốn hiểu biết vê địa lí của bạn, và - điểu này mới là mục đích chính của bộ sách - nhằm khơi gợi tình yêu của mỗi người chúng ta đối với non sông đất nước mình, bắt đâu từ ý thức tìm hiểu và nhận biết rõ về sông, núi quê hương, biển, rừng Tổ quốc. Trước mắt, bộ sách sẽ bao gồm bốn cuốn về núi non, sông ngòi, rừng và biển. Mặc dù nhóm biên soạn đõ cố gàng sưu tầm tư liệu, cập nhật những thông tin mới và viết sao cho thấu đáo, dễ hiểu, dễ tiếp nhận, song chắc chân không tránh khỏi khiếm khuyết. Rất mong bạn đọc góp ý bổ khuyết cho bộ sách. Xin chân thành cảm ơn! NHÓ M BIÊN SO ẠN BIỂN - TỪ KHÔNG đ Ến c ó Có một bài hát từ thuở lóp Một, ta đều nhớ nằm lòng: Trái đất này là của chúng mình Quả bóng xanh bay giữa trời xanh... Rồi ta lớn lên. Cùng vói cơ thể, trí não ta phát triển. Trí tò mò và sự khát khao hiểu biết thôi thúc ta vừa khám phá cái mói, vừa xem lại những kiến thức cũ, mà có khi là định kiến tù thuở ấu thơ để "chủih cho chuẩn". Bay lên tròi cao, các nhà du hành vũ trụ đầu tiên trở về cho hay, Trái đất xem ra không giống nhu lòi bài hát. Từ khoảng không xa xăm nhìn bằng mắt thường, Trái đất giống như một quả bưỏi màu da cam<^\ Không xanh, dù bề mặt Trái đất đa số là biển và rừng. Không tròn trịa, mà hai đầu hoi dẹt. Không nhẵn nhụi như quả bóng bay mà xù xì, lồi lõm. Sao vậy rứiỉ? Ta hãy quay trở lại quá khứ xa xưa của thòi hỗn mang. (1) Cảm nhận của Gagarin trong chuyến du hành vũ trụ đẩu tiên, khi ông nhìn Trái đất bằng mát thường. Nay, với những phương tiện kĩ thuật hiện đại, người ta có thể nhìn thấy đến từng ngôi nhà dưới mặt đất. THUỞ KHAI THIÊN LẬP ĐỊA K ột quá khứ xa lăng lắc, cách nay 4,5 tỉ năm. Bấy giờ, "giọt vũ trụ" bằng vật chất nóng đỏ, thành phần không đồng nhất bị văng ra khỏi vầng Thái dưong rực sáng, bắt đầu cuộc sống độc lập trong không gian bao la. Hàng tỉ năm trôi qua, nó vẫn quay mê mải, vẫn sôi sùng sục, vẫn phun phì phì như giận dữ, vung vãi ra xung quanh những mảnh nhỏ hon và đủ kiểu bức xạ. Khi quay xung quanh trục của nó, giọt chất lỏng đặc quánh ấy dần dần biến dạng thành hìiứi cầu do tác động của các định luật cơ học, nguội đi và đông đặc lại trong khi vẫn chuyển động trên một quĩ đạo hình elip quanh Mặt tròi đã sừứi ra mình. "Giọt chất lỏng" ấy chứih là Trái đất của chúng ta. Bao quanh nó là một lóp khí ga nóng rực. Lực hấp dẫn của Mặt tròi gây ra hiện tượng thủy triều trên bề mặt lóp chất lỏng quánh nhớt của hành tinh mói sữữi, nhưng bị cản trở một phần do lực ma sát nội của các khối macma tạo nên nó. Theo thòi gian, nó nguội đi, co lại, rồi rắn dần, hình thành một lóp vỏ cirng trên bề mặt, nhăn nheo, lồi lõm như một quả táo khô quắt chứ không tron nhẵn. Ruột nó vẫn lỏng (đúng ra gần như quánh, gọi là plasma) và nóng rực. Sự lồi lõm ấy cho ta có những hình dung đầu tiên về địa hình. Nói chung chỗ lồi sau sẽ thành núi, thành đồi, chỗ lõm sẽ là thung lũng, đáy hồ, đáy biển. Noi có độ cao trung gian sẽ thàrửi lục địa, noi phẳng phiu sẽ thàrửi đồng bằng, thảo nguyên. Hàng tỉ năm lại trôi qua, biết bao quá trình địa chất diễn ra ở cả trong ruột lẫn lóp vỏ aíng, đan xen nhau khiến địa hình thay đổi liên tục, rồi đến một thòi điểm nhất định, ta thấy nó như ngày nay trên "quả địa cầu" tròn xoe nhẵn bóng, m hình xarứì đỏ được thầy cô mang ra dạy trên lóp: một hình cầu tự xoay quanh một ữục nghiêng 23 độ 5, hai đầu hoi dẹt (đường kừih giữa hai cực Bắc Nam nhỏ hon đường kứih qua xích đạo 43 km).... Bao quanh hành tữứì non trẻ là một lóp khí hỗn tạp. Các khí nhẹ rứiư hidro thì một phần lớn "ữốn" khỏi sức hút Trái đất, khuếch tán vào vũ trụ; các khí nặng như cacbonic, hoi nước, nitơ... thì bị giữ lại, làm tấm áo che chắn hành tinh, bảo vệ nó khỏi cái nắng đỏ lửa từ Mặt tròi, ta gọi là bầu khí quyển. Hành tinh nguội dần đi. Hoi nước trong khí quyển đọng lại thành những đám mây khổng lồ chuyển động vần vũ trên bầu tròi. Đồng thòi vói các quá trình địa chất đang diễn ra mãrứi liệt ữong lòng Trái đất dưới lóp vỏ cứng, nhiệt độ bầu khí quyển hạ xuống dưói 100 độ c. Hoi nước trở thành thể lỏng, bắt đầu xảy ra hàng loạt hiện tượng khác. Những trận bão lớn khủng khiếp, cuồng điên hoành hàĩữi dữ dội, suốt hàng ngàn hàng vạn năm ữên quả địa cầu. Và mưa. Mưa xối xả, mưa triền miên, mưa như trút nước. Những trận mưa không diít, không chỉ kéo dài hàng tuần, hàng tháng, hàng năm mà hàng thập kỉ, hàng thế kỉ, thậm chí ròng rã hàng thiên niên kỉ. Nước sao mà lắm thế! Nước ngấm vào lòng đất, len lỏi mọi noi thành các mạch ngầm. Những dòng nước lênh láng khắp chốn, tạo ra những con đại hồng thủy theo đúng nghĩa, vói những dòng thác lũ, cứ ào ạt, cuồn cuộn, sấn sổ đua nhau đổ từ chỗ cao xuống chỗ thấp, bất chấp mọi trở lực ngăn cản, cuốn theo những gì không trụ lại được, hòa tan những gì có thể hòa tan, bào mòn những gì có thể bào mòn... Diện mạo Trái đất thay đổi. Sông, suối hình thành. Nước có đường đi vạch sẵn, cứ theo đó mà đổ ra những vừng trũng lón, mênh mang, điền đầy dần và hình thành nên biển và đại dương. Ngưòi ta gọi đại dương là những vùng rộng lớn ăn thông vói nhau (như Thái Bình Dương), còn biển là những vùng hẹp hơn (như Biển Đông). Biển thông ra đại dương. Ví dụ Biển Đông thông ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nhiều khi hai khái niệm này cũng lẫn lộn và ngưòi ta thường gọi chung là biển. Nhúng một ngón chân xuống biển là ta đã được "nối liền" vói tất cả các đại dương, vì biển trên Trái đất là khoảng không gian mênh mông liên thông vói nhau. Trong thành ngữ dân gian, ngưòi ta thường hình dung thế giói rộng lớn là "năm châu bốn biển" thì biển ở đây chính là các đại dưong, mang tên Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương và Bắc Băng Dương. ĐẠI DƯƠNG VÀ BIỂN Trong bốn đại dương trên thế giới, Thái Bình Dương rộng nhất, diện tích 179,7 triệu kilômet vuông (chiếm khoảng 1/3 diện tích địa cầu, chứa 1/2 khối iượng nước của cả hành tinh). Tiếp đến Đại Tây Dương, cố diện tích 102 triệu kilômet vuông với dòng hải lưu Gulf Stream sưởi ấm cho cả Tây Âu. Ấn Độ Dương đứng thứ ba với diện tích 75 triệu kilômet vuông lốm đốm rất nhiều đảo san hô. Với diện tích chỉ 14,09 triệu kilômet vuông, Bắc Băng Dương nhỏ nhất và cũng hiền hòa nhất trong "bốn anh em nhà đại dương", giữa là một băng khối nổi. Khi khí hậu nóng lên, rất có thể khối băng này tan ra, gây ngập lụt toàn cầu và trở thành thảm họa của nhân loại. Ngoài ra, còn Nam Băng Dương với diện tích 20,327 triệu kilômet vuông, bao quanh châu Nam Cực, được đề xuất như một đại dương nhưng chưa được thừa nhận chung. Cùng với bốn đại dương là 70 biển. Các biển lớn nhất là biển San Hô, biển Đông, biển Caribean, Địa Trung Hải, biển Bering, biển Okhotsk, biển Nhật Bản, biển Andaman... Đa số biển liên thông với đại dương nhưng cũng cố những biển kín như biển Caspi, Aran không thông với đại dương nào, gọi là biển hồ. Nước ở biển hồ rất khác với nước đại dương. Một số biển theo thói quen gọi là vịnh như vịnh Hudson, vịnh Persic, vịnh Mexico. Biển chỉ chiếm trên 11 % diện tích các đại dương. NHỮNG CUỘC BỂ DÂU ịa hình của lóp vỏ Trái đất thay đổi không ngừng 5ỊỊS^trong suốt mấy tỉ năm qua. Chỗ này trồi lên, chỗ kia sụt xuống, các mảnh lục địa chuyển dịch, lúc thì tách ra khỏi nhau, lúc lại sáp nhập vào hoặc điíng độc lập một cách tương đối. Các khối dung rửiam dưói lóp vỏ đã đông aíng của hành tữứi cũng không chịu nằm yên, liên tục "cựa quậy", tìm những chỗ xung yếu để phá bung ra và phun trào thành núi lửa... "Thần Đất" và "Thần Biển" cũng luôn bị lôi cuốn vào cuộc chiến giành giật lãnh thổ. Thủy triều tràn vào đất liền, xói lở bờ và khi rút, cuốn theo các khoáng chất vụn. Sóng xô bờ ngày đêm cùng vói các dòng hải lưu ven biển càng làm tăng sức phá hoại của nước. Chưa thỏa mãn vói sự công phá chứih diện, "Thần Biển" còn tung những đoàn quân mây gây mưa vào sâu ữong đất liền để tiếp tục cuộc chưửi phạt. "Đội quân mây" từ đại dương thường vẫn bảng lảng trên đầu chúng ta ấy, nặng những 3.000.000.000 (3 tỉ) tấn cơ đấy! Những trận mưa nhỏ, những suối nước róc rách trong rừng núi, những con sông tưỏng như rất đỗi hiền lành... tất cả góp sức lại, họp thành những sức mạnh khủng khiếp, nghiền nát ngay cả những khối đá lớn thành cát sỏi và đất mịn, hòa tan các chất rồi cuốn chúng ra biển. Dòng Mississippi ở Mĩ cứ ba năm rưõl lại bóc đi một lượng vật liệu khỏi đất liền để đổ vào vịnh Mexico vói thể tích lên tói 1 km^. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra khắp noi noi, năm này qua năm khác. Các nhà địa lí Đan Mạch ghi lại: Năm 1696, một nhà thờ lớn đưọc khánh thành ở tửừi Agerhe cách bờ biển 650 m. Dường như không ưa thích (hay ngược lại, do quá yêu thích) ngôi nhà thờ mĩ lệ này, biển cứ tiến dần vào đất liền một cách thật kiên ữì, và đến năm 1858, tức sau hon thế kỉ rưõi, biển đã nhấn chìm nhà thờ, mang nó xuống lòng đại dương không để lại một dấu tích. Tính ra, trong suốt thòi gian ấy, mỗi năm, biển lấn chiếm tói hơn 4 m! Nói đâu xa, ngay Phố Hiến của nước ta (nay là thành phố Hưng Yên) cũng vậy. Noi đây từng là cảng biển sầm uất bậc nhất trong thế kỉ 17 - Thứ nhất kinh kì, thứ nhì Phố Hiến - như người ta vẫn nói. Nay cách biển tói gần 100 km! Một dẫn chiỉng khác: Cách nay hơn 300 năm, Mạc Ciiu, một thương nhân Trung Quốc phản đối triều đình nhà Thanh, sang khai hoang lập nghiệp ở Hà Tiên. Con ông là Mạc Thiên Tứ lập hội thơ Chiêu anh các, nổi tiếng vói 10 bài thơ Hà Tiên thập vịnh, ca ngợi 10 thắng cảnh noi đây. Trong đó, bài Kim Dữ lan đào vịrửi một hòn đảo chắn sóng ở ngoài khoi, thì nay đảo này đã gắn vào đất liền thành một ngọn núi - núi Kim Dữ. Xem ra, biển cũng "công bằng", lấy đi ở noi này thì lại đền bù noi khác. Có lẽ xuất phát từ hiện tượng này mà trong văn học Trung Quốc có thành ngữ "thương hải biến vi tang điền" (biển xanh hóa thành nương dâu) để chỉ những thăng trầm, thay đổi trong cuộc đòi. Mượn điển tích đó, Nguyễn Gia Thiều từng có câu thơ ai oán: "Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán / Ai bày trò bãi bể nương dâu?" (Cung oán ngâm khúc). Còn Nguyễn Du thì suy ngẫm về cuộc đòi: "Trải qua một cuộc bể dâu / Những điều trông thấy mà đau đớn lòng" (Truyện Kiều). Song các biến đổi trong mối tương quan Đất - Biển đâu chỉ từ tốn kiểu "bãi bể, nương dâu" mà mãnh liệt hơn nhiều. Vì đó mói chỉ là những vận động cơ học (bồi và lở), chưa phải là những vận động kiến tạo học. Vận động kiến tạo thật dữ dội. Do các quá hình địa chất, các mảng lục địa xô đẩy vào nhau làm trồi lên núi cao, tách giãn khỏi nhau tạo nên biển cả. Các nhà khoa học khẳng định rằng, trong suốt 4,5 tỉ năm tồn tại của Trái đất, hầu hết mọi noi trên thế giói đều có một giai đoạn nào đó ngập chìm dưói các lóp sóng biển dạt dào. ở độ cao 2.300 m trên dãy Himalaya, ngưòi ta đã tìm thấy những trầm tích đá vôi do vỏ ốc, xương và mai của các động vật biển tạo nên. Tương tự như vậy, khi lặn xuống đáy biển, người ta tìm thấy hóa thạch của các động vật chỉ sống ữên cạn, hài cốt các gia súc lớn, rửiững thân cây cổ thụ, những khối than bùn chỉ có thể hình thành trong các đầm lầy nước ngọt, thậm chí cả các vật dụng thô sơ do bàn tay con ngưòi tạo ra, chiíng tỏ khi trước đây từng là noi sũìh sống của ngưòi tiền sử. Một "dẫn chiíng sống" khác là nhiều động vật gốc gác sống dưói nước, nay đã thích nghi vói cuộc sống trên cạn và ngược lại, một số loài thú trên cạn sống sót khi bị biển nhấn chìm, đã tự biến đổi cấu tạo cơ thể để chấp nhận quê hương mói là đại dương (hải cẩu, hải tượng...). Các nhà khoa học đã chỉ ra cách đây 200 triệu năm, diện mạo các lục địa và đại dương khác hẳn. Chẳng hạn, Nam Mĩ từng gắn vói châu Phi thành một khối liền; nếu nhìn hai lục địa này trên bản đồ, dù ngày nay chúng bị ngăn cách bỏi Đại Tây Dưong mênh mông, ta vẫn có thể hình dung khóp được chiing vào vói nhau như hai miếng ghép của trò choi ghép hừửi. Lại có giả thuyết cho rằng, xưa kia từng tồn tại một lục địa mang tên Atlantis ở phía đông nam Brazil vói nền văn minh khá cao, nhưng rồi đã bị chìm dưói đại dương. Hiện nhiều nhà thám hiểm (kể cả các cơ quan khoa học các nước như Brazil, Nhật Bản) vẫn đang ra sức tìm kiếm và thủìh thoảng lại công bố những kết quả đáng tin cậy. Cho đến bây giờ, các châu lục vẫn tiếp tục "nhích" dần từng tí một để gần nhau hơn hoặc xa nhau hơn, vói tốc độ mỗi năm 1-2 cm. Chuyện nhỏ! - có thể bạn nghĩ. Song nếu đo thòi gian bằng đơn vị "triệu năm" thì lại là chuyện khác. Ví dụ 50 triệu năm nữa, vùng Sừng châu Phi sẽ tách ra khỏi châu lục, vùng Alaska của Mĩ sẽ dứửi vào Nga, bang Caliíomia sẽ ròi sang phía tây 300 km thành một hòn đảo và Địa Trung Hải có thể cũng không còn... Nhưng ta hãy tạm ngừng lan man về những "lộ truìh" phức tạp của biển tứứi bằng mức thang cả triệu năm để nói chuyện ngày nay, đặc biệt chuyện biển ở nước ta. sự HÌNH THÀNH BIỂN v iệ t ri^h ái Bình Dương là "anh cả" trong số bốn đại dương, ra đòi sóm nhất, trên 600 triệu năm, trong khi đó Đại Tây Dương có tuổi đòi trẻ hon, chừng 200 đến 300 triệu năm. An Độ Dương trẻ nhất, chỉ mói 160 triệu năm. Vào thuở Thái Bình Dương mói xuất hiện, vùng đất nay là nước ta chìm ngập dưới nước biển mêrửi mông. Lúc ấy, chỉ có một dải đảo nổi lên, nằm giữa sông Chảy và sông Hồng ngày nay, đó là dãy núi Con Voi ở phía bắc. Còn một hòn đảo lớn khác ở khu vực cao nguyên Kontum - Bôlôven ở phía nam. Chứih các lóp photphat canxi cùng vói bùn vôi ở vùng biển nông phía tây Lào Cai đã tạo thành mỏ apatit Cam Đường, mà từ nửa thế kỉ nay, chúng ta khai thác làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp phân lân phục vụ nông nghiệp. Trái đất cứ tiếp tục những con vặn mình mãnh liệt. Các lóp đất đá uốn nếp, đùn đẩy nhau dâng cao thàrứi núi. Biển rút dần xuống về phía Mặt tròi mọc. Mặt biển lùi rất xa. Điều đó có nghĩa là cả vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan và các vùng lân cận đều trở thành đất liền. Giả sử hồi ấy đã có loài ngưòi, nếu muốn sang thăm Malaysia, Indonesia bạn nhất thiết phải đi bằng đường bộ. Ngay cả dòng sông Hồng và cẻru Long thòi đó cũng chảy thẳng ra ngoài xa trên các thềm lục địa khô cạn, bằng chứng là hiện 15 nay chiing ta vẫn thấy có những thimg lũng ngầm của các dòng sông này dưói đáy biển. Rồi bỗng nhiên, biển lại quằn quại ữở mình, bước vào giai đoạn mói gọi là thòi kì "biển hến", ào ạt hon và cũng nhanh chóng hơn. Trong suốt 10.000 năm (cách đây 17.000 đến 7.000 năm) nước biển dâng lên bao phủ vùng thềm lục địa và "san lại" cho nó bằng phăng hon. Vào khoảng 6.000 năm đến 3.000 năm trước, mực nước đại dương cao hon mức hiện nay từ 1,5 đến 3 m (hoặc hon). Ngưòi ta biết được điều đó qua các dấu vết còn m đậm trên những đảo ở Thái Bình Dương, cũng như ở nhiều đảo thuộc vịrứi Hạ Long vẫn còn vết tích của những ngấn nước m lại từ buổi xa xưa đó. Dễ thấy hon là nhũng đống vỏ sò điệp chất cao thành gò rộng hàng vạn mét vuông mà những ngưòi Việt cổ đã đổ ra khi sứữi sống ở vùng Quỳnh Lưu (Nghệ An), cách xa bờ biển ngày nay khoảng 5-6 km. Ngay thủ đô Hà Nội xưa kia cũng từng là đáy biển. Sau khi biển rút, noi đây trở thành vùng đầm lầy, rồi rừng rậm, trước khi được phù sa bồi đắp và bàn tay con người cải tạo thành vùng đồng bằng sông Hồng trù phú. Những lóp than bùn ở Đông Anh, Từ Liêm có độ cao tưong đương mực nước biển hiện tại mách bảo cho ta điều đó. Phủ lên lóp than bùn tại địa điểm Hà Nội ngày nay là lóp phù sa sông Cái (tên cũ của sông Hồng) gồm đất sét và đất sét pha, trên cùng là đất thịt. Trải qua năm tháng, trên mảnh đất tiếp giáp vói Thái Bình Dương ấy, một quốc gia hình thành và phát triển, lưng dựa vào dải núi Trường Sơn chất ngất, mặt nhìn ra biển, lô xô những đảo nổi, đảo chìm. Trải qua rứiững bão tố, thăng trầm của nhiều nghìn năm lịch sử, quốc gia ấy vẫn đứng vững và đang vươn lên làm chủ vận mệnh của mình, hiên ngang vượt qua bao khó khăn thách thức để sát cánh cùng bè bạn năm châu hướng tói TƯONG LAI. Đó chừửi là đất nước Việt Nam của chiíng ta. 17 NHTOG TRANG sử VIẾT TRÊN BIỂN DẤU CHÂN VIỆT TRÊN BIỂN ''T^rên mảnh đất hình chữ s, phía đông cận kề vói biển, ^^MŨttông ra Thái B'ưứì Dưong, trong thòi kì "biển tiến" có một số tộc ngưòi nguyên thủy từ vùng trung du bắt đầu đến định cư. Họ ở trong các hang động có sẵn, sống bằng săn bắt và hái lượm, dùng cuội sông để chế tác công cụ lao động. Các nhà khảo cổ đã phát hiện được ở vùng núi Đọ (Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Nghệ An), Hạ Long (Quảng Nữih) và nhiều noi khác các di vật chiíng minh cho sự tồn tại của những cộng đồng người sống tập trung ở ven biển, cách nay trên dưói một vạn năm. Truyền thuyết và huyền thoại không phải là lịch sử, song sự tích Lạc Long Quân vốn dòng dõi Rồng, từ biển tói, diệt Ngư tình, Mộc tinh, Hồ tinh, khai sáng miền châu thổ sông Hồng đã nói lên rằng, đất nước ta từ buổi ban đầu lập quốc đã gắn liền vói biển cả. Câu chuyện Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh bọc trăm tníng, rồi đưa 50 ngưòi con trai theo mẹ lên núi, 50 người theo cha xuống biển cùng nhiều câu chuyện khác vào đòi các vua Hùng, giúp ta hhứì dung ra quá trình phát triển dân tộc Việt thòi tiền sử. Họ đã từ các bộ tộc, tập họp thành một quốc gia sơ khai là Văn Lang. Các bộ tộc này có tổ tiên xa xưa là ngưòi Việt cổ, đã biết lọi dụng thủy triều dồn nước ngọt từ các sông ngòi vào đồng ruộng, rồi ngăn lại để trồng lúa nước. Đồng thòi họ cũng có cuộc sống gắn bó vói biển khoi. Họ không chỉ khai thác sản vật biển làm nguồn thức ăn giàu đạm hàng ngày, mà còn dùng những chiếc thuyền độc mộc hoặc bè mảng bằng thân tre ghép lại để vượt biển đến các hòn đảo xung quanh, thậm chí còn đến tận những vùng đất xa hơn nữa ở Đông Nam Á. Từ những tư liệu khảo cổ học về các nền văn hóa Đa Bút (Ninh Bình), Hạ Long (Quảng Ninh), Cái Bèo (Hải Phòng), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Nghệ An), Thạch Lạc (Hà Tĩnh), Bàu Tró (Quảng Bình)... các nhà khoa học cho biết, khoảng 6.000 - 4.000 năm trước noi đây đã có các cộng đồng cư dân mà cuộc sống liên quan chặt chẽ vói biển. Ngưòi ta đã tìm thấy những "bãi rác bếp" rất lớn gồm vỏ sò điệp, các di vật như chỉ lưói và một số ngư cụ là những bằng chứng của nghề khai thác thủy sản dùng trong bữa ăn hàng ngày. Văn hóa Hạ Long có niên đại vào khoảng 4.000-3.500 năm trước được các nhà nghiên cứu xếp vào giai đoạn hậu kì thòi đại đồ đá mói. Ngưòi tiền sử hồi đó đã chọn vùng biển đảo Đông Bắc Việt Nam - noi có nguồn hải sản dồi dào, lại có bãi biển và hang động thuận tiện - làm noi cư trú. Biển ở đó nông, độ sâu trung bình chỉ khoảng 10 m, vói 20 luồng lạch từ vịnh thông ra đại dương, dễ dàng tránh gió và ra khoi vào lộng. Ngưòi ta đã tìm được trong tầng văn hóa này những khúc xương cá to, ước đoán nặng hàng tạ và không sống ven bờ. Các cư dân còn biết đánh cá bằng lưói mà di vật còn lại là những hòn chì lưói khá nặng. Ngoài cá, nhiều loại hải sản khác cũng được khai thác vì khá nhiều vỏ rửiuyễn thể được tìm thấy khi khai quật. Không những đi biển giỏi, ngưòi cổ Hạ Long còn biết làm nông nghiệp. Trong đòi sống của họ có cả các nông cụ như cuốc, rìu... bằng đá, được chế tác bằng cách mài, cưa, khoan, đánh bóng... Họ nắm được kĩ thuật sản xuất đồ gốm bằng cách nhào đất vói vỏ nhuyễn thể giã nhỏ, rồi khắc vẽ các hoa văn lên sản phẩm trước khi mmg. Nghề trồng cây lấy sọi để đan lưói cũng là nghề thủ công phổ biến. Nghề mộc khá phát hiển vói mục đích đóng thuyền bè đi biển. Việc phát hiện ra khá lứiiều vật dụng gia đình bằng gốm và tầng văn hóa dày dặn đã chứng minh họ là những ngưòi định cư lâu dài, từng lập làng lập xóm. Chừửi những tộc ngưòi cổ ở Hạ Long đã góp một phần vào sự hình thàiứi dân tộc Việt hiện đại, tuy trước khi họ đến định cư, ữên vùng biển Đông Bắc nước ta đã có cư dân của các nền văn hóa sớm hon sinh tụ rứiư nền văn hóa Soi Nhụ, Cái Bèo. Trong khi ở miền Bắc nước ta đang thòi kì các vua Hùng vói nhà nước Văn Lang và nền "văn mữih sông 20 Hồng", thì tiến dần về phía Nam, tại miền Trung có "văn minh Sa Huỳnh" (tên một cửa biển ở Quảng Ngãi), ở vào "thòi đại của các kurung", tiền thân của nhà nước Chămpa. Cư dân Sa Huỳnh - chủ nhân nền văn hóa nổi tiếng cùng tên - là những cư dân biển thực thụ, căn cứ vào các hiện vật khai quật được ở ven biển và các đảo, từ Bắc Trung Bộ đến Đông Nam Bộ. Xa hon chút nữa về phía Nam (và có lẽ muộn hon một chút) tại đồng bằng sông Cửu Long xuất hiện nền "văn hóa Đồng Nai" và "văn hóa Phù Nam - ó c Eo" (tên một cửa biển cũ, nay thuộc Kiên Giang). Hiện nay, cư dân Chămpa và Phù Nam đều được coi là sắc dân trong cộng đồng dân tộc Việt. Tói thòi đại đồ đồng và đồ sắt sớm (cách nay khoảng 2.000-2.500 năm) nền văn hoá Đông Son ra đòi và phát triển rực rỡ dựa trên nền tảng của cả một quá trình hội tụ lâu dài từ những nền văn hoá trước đó. Ngưòi ta khai quật được ngày càng nhiều hai sản phẩm văn hóa rất đặc trimg của ngưòi Việt cổ là những chiếc "trống đồng Đông Son" và "đồ gốm Việt", không chỉ ở lục địa (Lào, Campuchia, Thái Lan, Nam Trung Hoa) mà cả trên những hải đảo Đông Nam Á (Malaysia, Indonesia) cho tói tận đảo Phục Sinh ngoài khoi Thái Bình Dưong. Những phát hiện khảo cổ học ở Đông Nam Á liên quan đến trống đồng trong rứiững năm qua cho thấy những dòng sông và những tuyến giao thương đường bộ xuyên quốc gia chừứi là lộ trình để trống đồng Việt thâm nhập vào các quốc gia Đông Nam Á lục địa, trong khi đường biển là con đường duy nhất để trống đồng Việt "cập bến" Nhật Bản và các đảo quốc láng giềng. Cư dân Đông Son ở miền Bắc Việt Nam, không chỉ làm nông và đúc đồng giỏi mà còn là những ngưòi đi biển thành thạo. Họ mang các giáo đồng, rìu đồng, thạp đồng, nồi đồng và nhất là trống đồng đến các vùng biển xa hơn như quần đảo Trường Sa, Philippines, Malaysia, Indonesia và ngược lên phía Bắc, đến tận cửa sông Trường Giang, Trung Quốc. Thậm chí, nhà dân tộc học ngưòi Áo Robert Von Heine Geldern (1885-1968), khi nghiên C IÍU các điểm tương đồng giữa văn hóa của một số dân tộc châu Mĩ vói văn hóa của cư dân Đông Sơn, còn cho rằng những cư dân đi biển ở Đông Nam Á đã mang văn hóa Đông Sơn tói châu Mĩ trước khi Christopher Columbus đặt chân đến vùng đất này! Cho đến nửa sau thế kỉ 20, Từ điển Bách khoa Anh The New Encycỉopaedia Britanica trong từ mục "Dongson Culture" (Văn hóa Đông Sơn) ghi: "Đông Son không những chỉ riêng là văn minh đồ đồng mà cũng có đồ sắt nữa... Người Đông Sơn là dân đi biển, có thể đã hải hành và giao thương khắp vùng Đông Nam Á châu". Là lũnh khí hay nhạc khí là điều 22 còn tranh cãi, song hình tượng những con thuyền trên mặt trống đồng cũng gọi lên cuộc sống của các cư dân Việt cổ từ hàng ngàn năm trước đã gắn bó vói sông nước, biển ữòi như thế nào. Hình thuyền trên trống dáng to lớn như thế, trang bị đầy đủ như thế (kể cả lưong thực, vũ khí, nghi ữượng), sức chuyên chở nặng như thế ắt hẳn là những con thuyền đi biển. Có thể nói, trống đồng Đông Sơn và đồ gốm Việt chứứi là những "sứ giả" xuất sắc trong hành trình "truyền bá văn hóa Việt". Tất cả những điều đó chiíng tỏ đòi sống của ngưòi Việt cổ thân thiết vói biển, gắn bó vói biển ngay từ thòi tiền sử xa xưa. BIỂN u ÁM MỘT THỜI bẮC t h u ộ c "hiều trăm năm trước Công nguyên, nước Văn Lang lo các vua Hùng cai trị, tuy không có sử liệu, song có thể suy đoán rằng khi ấy cuộc sống của các "thần dân của vua Hùng" (dân số chưa đến 500.000 ngưòi) đon giản và tương đối an bình. Cùng vói việc trồng lúa nước và rau quả (bầu bí, đậu, dưa hấu, thêm giàn trầu, cây cau như trong sự tích dân gian) ngưòi dân đã biết chăn nuôi, kết họp vói nghề chài lưói. Sử chép: Khi đánh cá, ngư dân thường bị thuồng luồng nổi lên ăn thịt, vua bày cho dân lấy chàm vẽ lên mình để thủy quái tưởng là đồng loại, khỏi làm hại<^'. Lại nữa, ở hai phía của mũi thuyền, ngư dân vẽ hai con mắt thật to và dữ tợn để chúng sợ hãi mà tránh đi. Truyền thuyết Mai An Tiêm cho thấy, thòi đó cũng đã có những thưong thuyền từ biển phía Nam cập bến và Mai An Tiêm vốn xuất thân là một chú bé nô lệ bị đem bán. Chử Đồng Tử cũng đưọc coi là ngưòi đã mỏ mang giao thưong vói các nước qua đường biển... Năm 257 trước Công nguyên, thủ lĩnh bộ lạc Âu Việt mạnh nhất là Thục Phán nổi lên, đuổi vua Hùng đòi thứ 18, lên ngôi lấy hiệu là An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc, dòi đô về Cổ Loa (ngoại thành Hà Nội). Làm (1)Tục xăm mình mâi đến đời vua Lí Anh Tông (1138-1175) mới bỏ. vua chỉ được một đòi kéo dài 50 năm, Thục Phán "đã để cơ đồ đắm biển sâu" (Tố Hữu), do không thấy đưọc âm mưu của Triệu Đà, thủ lĩnh một thế lực phong kiến ngưòi Hán ở quận Nam Hải (Quảng Đông), ôn g bị giặc truy đuổi đến sát nách, mà biển lại chắn ngang trước mặt. Đang lúc tiến thoái lưỡng nan, thần Kim Quy nổi lên nói cho vua biết, kẻ làm nội ứng cho giặc chính là ngưòi đang ngồi sau limg ngựa của ông: Cô con gái yêu độc nhất, MỊ Châu, đã vô tình để chồng là Trọng Thủy, con trai Triệu Đà đổi mất chiếc lẫy nỏ thần, báu vật giữ nước của nhà vua. Thục Phán nổi giận chém chết con rồi nhảy xuống biển tự tử. Triệu Đà sáp nhập quận Nam Hải vói Âu Lạc, lập ra nhà Triệu, đặt tên nước là Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (nay là một quận của Quảng Đông, Trung Quốc), thuận làm chư hầu của nhà Hán. Làm vua (tước Nam Việt Vương) được năm đòi, đến năm 110 trước Công nguyên, nhà Triệu bị nhà Hán đánh bại và đặt ách đô hộ lên cổ dân ta. Thôn tính Nam Việt, nhà Hán đổi Âu Lạc thành Giao Chỉ bộ và nước ta từ đó bị các triều đại phong kiến Trung Hoa nối tiếp nhau thống trị trong hơn một nghìn năm, chịu trăm cay nghìn đắng của kiếp nô lệ. Dưói sự kìm kẹp của chúng, gánh nặng thuế khóa và cống nạp đè nặng lên vai ngưòi dân. ở vùng rừng núi, ngưòi dân phải tìm sừng tê, voi trắng, chim, thú lạ để dâng lên các quan. Nhrmg vẫn chưa khổ sở bằng dân vùng duyên hải, biết bao nhiêu ngưòi đã bị chết mất xác vì phải lặn xuống tìm đồi mồi, ngọc trai, san hô. Họ phải lặn vo, sâu xuống tận đáy biển (cỡ 10 m) mà không hề có các phưong tiện như ngày nay, nên vừa khó nhọc, vừa nguy hiểm, nhiều ngưòi chưa kịp ngoi lên đã chết ngạt. Khắp Giao Chỉ quằn quại trong cảnh bị đánh đập, hà hiếp, cưóp bóc, hãm hại... Trong thòi kì đen tối của lịch sử, đôi khi lóe lên những cuộc khỏi nghĩa, đấu tranh giành độc lập như khỏi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43), Bà Triệu (248), Lí Bí (544-548), Triệu Quang Phục (549-571), Lí Phật Tử (571- 602), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (791-802). Song vì lực lượng quá chênh lệch, những cuộc khởi nghĩa đều bị dập tắt dã man. Tuy rứiiên, bọn thống trị Trung Quốc đều phải thừa nhận "Người Việt thạo thủy chiến, giỏi đóng thuyền" {Hán thư). Chiing lọi dụng khả năng này của ngưòi Việt và sự giao thông thuận lọi trên mặt biển để biến Giao Chỉ thành noi giao thưong quốc tế và khu vực. Ngay từ đầu Công nguyên đã có những luồng thưong mại trên biển. Từ hải cảng Alexandrie (Địa Trung Hải), các thưong rứiân đã biết con đường biển qua bán đảo Đông Dưong (trong đó có Giao Chỉ) để sang buôn bán vói Trung Hoa và "các nước Nam Hải" khác (tức Đông Nam Á). Từ thế kỉ thứ hai, các lái buôn và sứ thần Trảo Oa (tức Java, Indonesia), Ân Độ, La Mã, Ả Rập vẫn theo đường biển giao thiệp buôn bán vói Giao Chỉ hoặc ghé qua để đi vào Hoa Nam vói các mặt hàng trao đổi là tơ lụa, hưong liệu, gia vị, vàng ngọc, đồ thủy tinh, đồ gốm sứ... Việc lái buôn ngoại quốc ghé tàu, thuyền vào bờ biển nước ta hồi ấy trước hết vì noi đây là những hải cảng quan ữọng trên đường hàng hải quốc tế, có nhiều cảng thuận lọi, là chỗ trú ngụ tránh bão tố, lấy nước ngọt... Đồng thòi cũng để khai thác những sản vật quý mà bọn quan lại phương Bắc sang cai trị bóc lột của dân ta, rứiư ngà voi, sừng tê giác, đồi mồi, trầm hương, hổ phách, ngọc trai, san hô... BIỂN RẠNG NGỜI CHIẾN CÔNG THỜI Tự CHỦ ể ^ ó thể nói khi bước vào thòi tự chủ, bất cứ triều đại *ặị||^phong kiến nào ở nước ta cũng chú ý đến biển để khai thác, thông thương và phòng thủ. Lịch sử Việt Nam ghi nhận có tói hai phần ba số cuộc chiến tranh, kẻ thù đã sử dụng đường biển để tiến công xâm lược nước ta. Tứứi ra, mảnh đất hìrửi chữ s đầy bão tố này đã bị ngưòi láng giềng hùng mạnh phương Bắc đến đô hộ hơn 1.000 năm, tiếp sau là 14 lần xâm lược nhằm khuất phục, thôn tữứi; từ bên kia bán cầu, hai quốc gia là Pháp và Mĩ cũng "góp" thêm hai cuộc xâm lăng nữa. Nhưng bao giờ quân xâm lược cũng gặp phải sự nổi dậy, chống trả quyết liệt của nhân dân ta. Cho đến nay, nước Việt đã trải qua biết bao thăng trầm, vói cả nụ cưòi và nước mắt, nhưng cuối cùng, Tổ quốc vẫn vẹn nguyên. Kể từ đầu Công nguyên, trong cuộc khỏi nghĩa đầu tiên của dân Việt, Hai Bà Trưng đã phong nữ tướng Lê Chân làm "Hải tần phòng thủ" trấn giữ đường biển để đề phòng giặc tấn công từ phía đông vào. Ngưòi mở đầu nền độc lập thực sự ở nước ta - Ngô Quyền, ngưòi từng được nhà bác học Lê Quý Đôn gọi là "ông tổ trung hưng nước Việt", "vua của các vua" - đã đánh dấu một giai đoạn mói trong lịch sử dân tộc bằng một chiến công oanh liệt: trận thủy chiến lẫy lừng thắng quân Nam Hán tại vùng cửa sông, noi sông Rừng (tức Bạch Đằng) đổ ra biển. Nắm được quy luật của thủy triều, ông cho cắm cọc gỗ nhọn, đầu bịt sắt xuống đáy sông chờ giặc. Khi đội chiến thuyền của quân Nam Hán do Thái tử Hoằng Tháo đích thân chỉ huy, hùng hổ tiến vào trận địa đã bày sẵn, quân ta dùng hỏa công tấn công mãnh liệt, đồng thòi tung các chiến bữih đổ ra đánh giáp lá cà. Quân giặc hoảng loạn đến cực độ, trong khi quân ta hoàn toàn làm chủ thế trận. Kết cục toàn bộ chiến thuyền giặc bị đốt cháy hoặc đánh đắm, quân giặc chết quá nửa. Hoằng Tháo, vị vua tương lai của Nam Hán bị chém roi đầu. Hay tin, vua Nam Hán là Lưu Cung đang chờ từi thắng trận để cho cánh quân đóng sẵn ở biên giói tràn sang, rụng ròi hạ lệnh rút ngay về nước. Chiến công này đã chấm dứt hon nghìn năm dân Việt phải sống dưói ách thống trị của ngưòi Tàu, đưa Ngô Quyền lên ngôi vua vào năm 984. 43 năm sau, lịch sử lại lặp lại. Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng mất, thấy nội bộ ta rối ren, lứià Tống cho hai vạn quân theo hai đường thủy bộ sang xâm lược, hẹn ngày phối họp để đồng loạt tấn công. Đất nước lâm nguy, triều đ'ưứi tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, lập ra nhà Tiền Lê để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nhà vua vốn là một võ tướng dày dạn chiến trận đã đốc thúc tướng sĩ lập tuyến phòng ngự tại Lạng Sơn và các noi ximg yếu, ngăn giặc rút chạy, còn mình đích thân chỉ huy đạo quân thủy đón đánh giặc bằng cách đánh của Ngô Quyền khi trước. Trận thủy chiến xuất quỷ nhập thần đã xảy ra chóp nhoáng tại chừih noi mà Nguyễn Trãi nhận định trong sách Dư Địa chí rằng: "Cửa sông do Trời bày thế để cứ hai người thì địch được một trăm người." Chiến thắng Bạch Đằng đã làm thay đổi cục diện, phá vỡ sự phối họp giữa hai cánh quân thủy bộ của giặc. Sử gia Ngô Sĩ Liên thuật lại: "Vua đem các tướng đuổi đánh. Quân địch thua to, thây chết đầy đồng. Tướng Quách Quân Biên và Triệu Phụng Huân bị bắt sống đem về Hoa Lư." Nỗi sợ hãi của vua Tống kéo dài cả chục năm sau. Trong một buổi thiết triều, khi các đại thần đề xuất đánh Đại Việt để rửa hận, vua Tống gạt ngay: "Giao Châu là noi lam chướng, đem quân sang đánh sẽ tổn hại rất nhiều. Chi bằng chỉ cẩn thận giữ lấy đất của tiền nhân mà thôi." Để thuận tiện cho việc chỉ huy và bố phòng mặt biển, các triều đại tiếp sau đã phiên chế các từửi ven biển thành hai khu vực: từ Thái Bình, Kiến An, Hải Phòng tói Móng Cái, Quảng Ninh hiện nay gọi là Hải Đông; từ ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh trở vào là Hải Tây. Đồng thòi đặt các quan chức trông coi việc buôn bán, thuyền bè các nước ra vào và có quân đóng giữ tại các cửa biển. Đời Lí, vào năm Ất Mão (1075), khi biết nhà Tống chuẩn bị khỏi binh đánh Đại Việt, Thái úy Lí Thường Kiệt quyết định tấn công trước. Đây là một chiến thuật mà binh thư gọi là “tiên hạ thủ vi cường" (lấy việc ra tay trước làm thế mạnh), ông bất ngờ đem 10 vạn quân thủy bộ sang vây đánh Khâm Châu, Liêm Châu (Quảng Đông) và Ung Châu (Quảng Tây). Trong vòng hai tháng, quân ta san bằng thành quách, triệt hạ bọn quan birứi, tiêu hủy phần lớn tiềm năng quân sự của địch rồi rút về nước an toàn. Nhà Tống không kịp trở tay. Điều này không chỉ chiíng tỏ tài thủy chiến của Đại Việt, mà còn cho thấy sự lọi hại của các chiến thuyền nhà Lí. Lúc bấy giờ, lực lượng thủy quân ta đã có các mẫu thuyền mang tên Mông Đồng (hai đáy), Lưỡng Phúc (hai lòng), rất an toàn và tiện lọi. Ngoài ra còn có Ngự thuyền (thuyền chỉ huy), Lâu thuyền (thuyền lầu) và thuyền đóng riêng cho vua mang tên Kim Phượng, Thanh Lan, Cảnh Hưng, Vĩnh Xuân... Năm 1077, trong cuộc kháng chiến chống quân Tống, Lí Thường Kiệt đã cho xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn giặc, cử Lí Kế Nguyên đón đánh giặc từ ngoài cửa biển. Tiếp đến, ông lập chốt thủy quân vững chắc tại Vạn Xuân (cửa Lục Đầu Giang), có 500 thuyền chiến lớn do hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy. Đội quân này có hai nhiệm vụ: Một là, hỗ trợ quân ta ở phòng tuyến sông Cầu đánh địch khi chúng vượt sông, và đổ bộ tập kích bờ bắc trong trường họp cần thiết. Hai là, chặn không cho thủy quân Tống vào tiếp líng quân bộ vượt sông nếu chúng qua được tuyến phòng ngự của Lí Kế Nguyên từ biển kéo vào. Lí Thường Baệt đặc biệt coi trọng vị trí chiến lược của sông Lục Đầu, coi đây là phòng tuyến thứ hai nếu quân Tống chọc thủng phòng tuyến thứ nhất của Lí Kế Nguyên. Để khích lệ tũứì thần quân sĩ, ban đêm Lí Thường Kiệt cho ngưòi vào đền Trưong Hát ở bên sông, cất giọng sang sảng đọc mấy câu "thơ thần": Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên phân định tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (dịch; Sông núi nước Nam, vua Nam ở / Rành rành phân định tại sách tròi / Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm / Chúng bay sẽ bị đánh toi bòi). Các sử gia gọi đây là bản "Tuyên ngôn độc lập" đầu tiên của nuớc ta, được viết bên sông nước giữa lòng cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước. Năm 1172, vua Lí Anh Tông không ngại sóng gió thân chinh đi tuần tra các cù lao ngoài biển thuộc Hải Tây và Hải Đông. Ông khuyến khích dân khai hoang ven biển, đến xem dân làm muối giữa trưa nắng gắt và phong đất cho một bà vợ tại Diêm Điền mà hiện tại đây vẫn còn đền thờ, gọi là đền Bà chúa Muối. Theo Đại Việt sử kí toàn thư, vua "cho người vẽ lại bản đồ và ghi rõ các phong vật". Đây là lần đầu tiên việc vẽ bản đồ lãnh thổ và lãnh hải được đưa vào sử sách, mà hàng ữăm năm sau mói có Hồng Đức bản đồ (1490), Thiên nam tứ chí lộ đồ thư (thế kỉ 17), Đại Nam nhất thống toàn đồ (thế kỉ 19). Đây cũng là thòi Vân Đồn trở thàrửi một cảng biển tàu bè các nước vẫn ra vào như đã đưọc ghi trong Đại Việt sử kí toàn thư vào tháng 2-1149; "Thuyền buôn ba nước Trảo Oa [Java], Lộ Lạc [Lavo Lopburi, nay thuộc Thái Lan], Xiêm La [tên cũ của Thái Lan] vào Hải Đông, xin ở lại buôn bán, vua bèn cho lập trang ở ncri hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phưong..." Nay tại thị trấn Cái Rồng của huyện đảo Vân Đồn có đền thờ Lí Anh Tông, ghi lại chuyến ông đi thị sát "tổ quốc noi biển đảo". Năm 1225, nhà Trần tiếp ngôi nhà Lí nhờ một cuộc hôn nhân đầy mưu mô của "ngưòi lớn" điíng sau đôi trẻ thơ dại. Từ đây, dòng họ Đông dựng nghiệp thành một triều đại hiển hách trong lịch sử dân tộc, đã lãnh đạo quân dân Đại Việt ba lần chống quân Nguyên Mông vói những ữận đánh oanh liệt, trong đó có chiến thắng Bạch Đằng lần thứ ba. Vốn xuất thân từ một đại gia tộc làm nghề đánh cá ở Hải Âp (Long Hung, Thái Bình), hơn ai hết các vua Trần hiểu rõ tầm quan trọng của biển đối vói đất nước. Ngay khi lên ngôi, Trần Thái Tông đã khuyến khích các vương hầu, công chúa, phò mã và thân tộc chiêu tập dân lưu tán lập trang ấp để khai hoang vùng đất duyên hải, đắp đê lấn biển, thau chua rửa mặn, đào kênh dẫn nước... Nhà Trần cũng rất chú trọng xây dựng thủy quân và thực tế, trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, nhiều sự kiện đã diễn ra trên sông biển. Chiến thắng lớn đầu tiên là trận đánh ở bến Đông Bộ Đầu (1258) trên sông Hồng, ngay sát kinh thành. Trần Thái Tông thân làm tướng xông pha tên đạn, được tướng quân Lê Tần che đỡ bảo vệ, đã chỉ huy quân nhà đánh tan đại quân giặc, giải phóng Thăng Long, khôi phục lại đất nước. Hon hai chục năm sau, vua Nguyên Hốt Tất Liệt lại tính chuyện "làm cỏ" Đại Việt để rửa mối hận khi xưa. Biết được ý đồ của họ, vua Trần Nhân Tông đã họp bách quan trên thuyền ở bến Bình Than (Chí Linh, Hải Dương) bàn kế sách chống giặc. Tại đây, Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh toàn quân. Năm 1285, (1)Theo cách chiết tự, hai chữ Đông và A ghép lại thành chữTrán. quân giặc ồ ạt kéo sang xâm lược. Sau những thất bại ban đầu trước đội quân xâm lược thiện chiến, quân ta đã giành được chiến thắng quan trọng ở cửa Hàm Tử (bên tả ngạn sông Hồng, nay thuộc Hưng Yên) và bến Chưong Dưong (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội), để rồi chuyển sang phản công chiến lược, chiếm lại Thăng Long. Tướng giặc Toa Đô tử trận, Thái tử Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn về nước... Song thất bại ê chề chưa đủ để nhà Nguyên rút ra bài học. Ba năm sau, họ lại một lần nữa mang 7 vạn bộ bũih thiện chiến nhất, 500 chiến thuyền cùng vói đạo quân Vân Nam và bốn châu ven biển, tổng cộng 30 vạn ngưòi, sang "bắt Đại Việt phải quỳ gối". Lần này họ lập một đạo thủy birửi hùng hậu do Ô Mã Nhi cầm đầu vì cho rằng, chỉ có sự họp đồng tác chiến của thủy binh mói ứng phó được trong một vùng có quá nhiều sông biển như Đại Việt. Trước mắt đạo thủy bứứi này yểm hộ cho Trương Văn Hổ chở 17 vạn thạch lương thực, vũ khí, thuốc men tiến vào vùng biển An Bang (Quảng Nữứi). Cuối tháng 12-1278, từ Quảng Đông, thủy bữứi và đoàn thuyền lương của nhà Nguyên tiến vào vịnh Bắc Bộ. Phó đô tướng quân Trần Khánh Dư đã cùng quân dân biến đảo Vân Đồn thành căn cứ hải quân trọng yếu, ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Trong trận giao trarửi đầu tiên, thấy thủy quân ta rút chạy, Ô Mã Nhi chủ quan thúc quân vượt lên trước để nhanh chóng hội quân vói Thoát Hoan ở Vạn Kiếp. Đó cũng là lúc đoàn thuyền lương của Trưong Văn Hổ vừa roi vào trận địa của thủy binh ta. Trần Khánh Dư tung quân giấu ở những bãi sú, vẹt kéo ra, tập kích như vũ bão. Thuyền lương nặng, di động chậm chạp, lại mất sự yểm trợ của đoàn thuyền chiến nên trong chốc lát đã "vỡ trận", từng chiếc chìm xuống đáy biển. Trương Văn Hổ phải cưóp thuyền nhỏ, mở đường máu trốn về nước, trong khi đoàn thuyền của Ô Mã Nhi không hề hay biết. Thắng lọi của Trần Khánh Dư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối vói toàn bộ diễn biến tiếp theo. Sau khi lập căn cứ ở Vạn Kiếp, Thoát Hoan chờ mãi không thấy Trương Văn Hổ chở lương tói, bắt Ô Mã Nhi cấp tốc đi đón. Lúc ấy mói hay đoàn thuyền lương đã bị đánh tan tành. Thiếu lương thực, lại không cưóp được của dân vì họ đã theo lệnh triều đừửi lánh đi, quân Nguyên roi vào thế vô cùng khốn quẫn. Các đạo quân "ít mà tinh", được tổ chức, xây dựng theo Binh thư yếu lược của Himg Đạo Vương bắt đầu ra tay. Không còn cách nào khác, Thoát Hoan phải ra lệrứi rút quân về nước. Quân ta tổ chức mai phục khắp noi, buộc đạo bộ bứửi do đích thân Thoát Hoan chỉ huy không thể tiếp ứng được cho đạo quân của Ô Mã Nhi theo đường sông Bạch Đằng rút về Quảng Đông. Một lần nữa, chiến thuật của Ngô Quyền lại được áp dụng hên clúnh cửa sông này. Quân Nguyên chết như ngả rạ. Nghe tìn thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan dẫn các tướng tháo chạy, đi đến đâu thì bị ta truy đuổi đến đấy, về đến Tàu thì tan tác cả. Quân ta chiếm được hơn 400 chiến thuyền, tù bữih nhiều vô kể... Một thòi thái bình và thịnh trị mói của Đại Việt được mở ra bằng những trận thắng lẫy lừng trong lịch sử. Có thể nói, trong đó, những trận đánh tiêu biểu nhất đều là những trận thủy chiến, mà hai trận Vân Đồn và Bạch Đằng là những chiến thắng có ý nghĩa nhất! Năm 1400, Hồ Quý Li cưóp ngôi nhà Trần. Dù nhà Trần đã đến lúc suy vi, thay đổi thể chế là điều đáng làm, nhung hành động của Quý Li lại mất lòng dân. Biết nhà Minh bên Tàu sẽ kiếm cơ sang xâm lược, Quý Li hết sức đề phòng. Để tăng cường khả năng quốc phòng, ông cho chế tạo rứiững khẩu đại thần công và đóng những con thuyền lớn hai tầng, trên có sàn đi, dưói để ngưòi chèo chống, rất thuận lọi cho thủy chiến, ở các cửa biển và chỗ hiểm yếu trên sông lớn đều cho đóng cọc bằng gỗ lim ngăn giặc từ biển vào. Tuy nhiên, do lòng người không theo nên khi nhà Mứửi đưa quân sang, cha con họ Hồ đã nhanh chóng thất bại, bị giặc bắt sống (1407), đành đem thân sang sống nhục ở nước ngưòi^^^ Lê Lợi mở đầu nhà Hậu Lê một cách thật đường hoàng. Đánh tan giặc ngoại xâm, vua cho 15 vạn lính trong tổng số 25 vạn về làm ăn, chỉ để lại 10 vạn mà cũng lần lượt thay đổi nhau mà về. Riêng thủy quân vẫn được giữ nguyên và tổ chức lại cho chừứì quy hơn. ông là ngưòi đầu tiên quy định nghi thức, cờ hiệu, trang phục cho thủy quân, ban hành quy chế rất cụ thể cho binh chủng này (1) Có tài liệu cho rằng nhà Minh biết cha con Hổ Quý Li đểu lầ những người có tài nên trọng dụng. Hổ Nguyên Trừng được phong chức cao ở bộ Công, Hó Hán Thương dạy kinh dịch cho Hoàng gia. Khi mất, Quý Li được xây lăng mộ ở Lão Hổ Sơn (Kim Lăng, Trung Quốc). 36 cũng như trang bị vũ khí cho từng chiến thuyền, từng bũìh lứih. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết; “Mỗi chiến thuyền dùng 50 người, giữ trại 5 người, vận lương 5 người, sai phái 5 người". Mỗi quân còn có “thuyền chiến dùng vào hỏa công 10 chiếc, thuyền nhỏ đi tuần thám 2 chiếc". Tiếp nối đường lối quân sự đó, năm 1470, vua Lê Thánh Tông đã huy động một chiến dịch thủy chiến chưa từng có để chinh phạt Chiêm Thành, vói 25 vạn quân và 5.000 chiến thuyền. (Quy mô này cũng là hiếm trong lịch sử quân sự thế giói.) Vói chiến thắng rực rỡ của thủy quân Đại Việt, biên giói quốc gia đã tiến tói Quảng Nam ngày nay. Miền đất miền Trung giáp biển đã tạo điều kiện cho nhà vua phát triển hải quân mạnh và là mầm mống cho sự hình thành một quân chủng hải quân độc lập sau này. Năm 1467, vua Lê Thánh Tông cho vẽ bộ bản đồ địa lí đầu tiên ở nước ta, được hoàn tất và ban hành vào năm 1490, gọi là Bản đồ Hồng Đức. Bộ bản đồ đã phản ánh phạm vi cưong giói, hệ thống hành chúứi nước Đại Việt vào nửa cuối thế kỉ 15. Nhà Mạc (1527-1592) lên thay rửià Lê là gốc dân chài xứ Hải Đông (Cổ Trai, Nghi Dưong xứ Hải Dương, nay thuộc Kiến An, Hải Phòng). Chứứi vì thế mà các vua Mạc có cái nhìn rất thoáng về biển. Cưóp ngôi được 3 năm, bắt chước nhà Trần, Mạc Đăng Dung truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh, lên làm Thái thượng hoàng, cho xây một "kứứi đô thứ hai" ngay sát bờ biển gọi là Dương Kinh (ven biển Kiến An, Hải Phòng ngày nay). Triều đmh cho tạc tượng thờ đức Quan Âm Nam Hải - vị bồ tát phù hộ cho thương nhân - ở khắp các chùa, nâng cặp vợ chồng Chử Đồng Tử - Tiên Dung, những người buôn bán trên biển đầu tiên, lên hàng "Tứ bất tử". Chiến thuyền và thương thuyền rứià Mạc đã từng tung hoành từ Vmh Hạ Long đến Thuận Hóa - Quảng Nam, đồng thòi các thuyền buôn nước ngoài cũng được ra vào hàng ngày tại các thương cảng. Tiếc thay cuộc "đổi mói" thòi Mạc sớm bị dang d ả năm 1592, nhà Mạc bị nhà 38 Lê Trung hưng đánh đuổi khỏi Thăng Long, phiêu bạt lên mạn bắc. Nhà nước quân chủ Lê - Trịnh (1692-1786) chủ trưong hướng nội, thi hành chứửi sách họng nông ức thưong, tuy có mở phố Hiến đón các tàu buôn phưong Tây song chủ yếu là để mua vũ khí súng đạn, thuốc nổ, đồng, sắt... phục vụ chiến tranh. Thòi kì Trịnh - Nguyễn phân tranh, Đàng Trong coi trọng biển đảo hơn hẳn Đàng Ngoài. Ngay từ những ngày đầu tiên đặt chân lên đất Thuận Quảng, các chúa Nguyễn đã lo xây dựng đội thuyền để mở cửa buôn bán vói nước ngoài và tiến hành chiếm lĩnh các đảo ngoài biển xa, từ Hoàng Sa, Trường Sa đến tận quần đảo Thổ Chu, Phú Quốc. Chírửi các chúa Nguyễn là những ngưòi đầu tiên chừih thức xác lập chủ quyền quốc gia trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà họ đặt tên là Hoàng Sai Chử (tức Bãi Cát Vàng). Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (cầm quyền từ năm 1613 đến 1635) đã thành lập đội Hoàng Sa, sau đó thêm đội Bắc Hải gồm những ngưòi thạo nghề đi biển ở đảo Lí Son (Quảng Ngãi). Họ được giao nhiệm vụ khai thác sản vật và thu thập những thứ còn sót lại từ những tàu đắm, thực thi chủ quyền quốc gia ở những vùng biển đảo này. Cũng chúứi ông khi còn là Thế tử và được chúa Tiên giao chức Trấn thủ dinh Quảng Nam, đã hồi sữữi thị cảng hoang phế của ngưòi Chiêm xưa gọi là Lâm Ap Phố, nạo vét sông Thu Bồn, mở rộng bến cảng, đặt tên là Hội An (1692). Tại đây ông cho chuẩn bị mặt bằng và mòi gọi các thưong gia nước ngoài đến làm ăn. Giáo sĩ Christoíoro Borri kể trong cuốn hồi kí của mìrửi; ‘'Chúa Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc, người Hà Lan củng tới như những người khác, cùng với tàu chở các hàng hóa của họ.” Đô thị Hội An do ông thiết lập nhanh chóng trở thành một thương cảng quốc tế sầm uất thuộc loại nhất khu vực Đông Nam Á. Các thương gia Nhật Bản, Trung Hoa, Ấn Độ, Bồ Đào Nha, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan, Indonesia, Thái Lan... tấp nập qua lại. Hàng hóa trao đổi rất phong phú. Phố Nhật Bản hình thành và phát triển cực thịnh trong nửa đầu thế kỉ 17, gồm những ngôi nhà bằng gỗ hai, ba tầng. Vói vai trò là trung tâm liên vùng, Hội An đã cùng vói Goa (An Độ), Ayuthaya (Thái Lan), Malacca (Malaysia), Batavia (Indonesia), Luzon (Philippines)... nối kết vói Pormosa (Đài Loan), Ma Cao, Hạ Môn (Trung Quốc) tạo nên hệ thống thương mại hoàn chửih của châu Á. Trận đụng độ lớn đầu tiên giữa thủy quân Đại Việt vói thủy quân phương Tây cũng là một trận kịch chiến trên biển Đông, xảy ra vào thòi chúa Nguyễn. Trước đó, Thanh Đô Vương Trịnh Tráng đã hai lần mang đội quân tinh nhuệ vào đánh Đàng Trong, nhưng dù binh lực vượt trội, thậm chí có lần còn ép vua Lê ngự giá thân chinh mà vẫn thất bại. Quá tức tối, năm 1643 ông quyết định thuê ba chiến hạm lớn của Hà Lan vói giá 20.000 đến 30.000 lạng bạc, trang bị hiện đại đánh thẳng vào cửa Thuận An. Còn mình rước vua Lê cùng đại bừửi đi đường bộ, vượt sông Gianh đánh xuống, ông chắc mẩm đây sẽ là trận đánh xóa sổ chính quyền Đàng Trong. Tàu Hà Lan đã vào đến hải phận, gồm ba chiếc lừng lững như ba tòa nhà lớn, bắn đại bác thị uy. Tiếng nổ kinh thiên động địa làm rung chuyển thàiứi Phú Xuân. Dân chúng nháo nhác, hoang mang cực độ. Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan họp tả hữu để bàn cách đối phó. Triều thần bối rối, vì chưa ai hình dung ra sức mạrủì của các chiến hạm "Tây dương". Hỏi đến một tù binh Hà Lan đang được Chúa dùng để giúp việc quân sự, ngưòi này nói: "Tàu của người Hà Lan chỉ sợ mãnh ỉực và quân đội của Trời mà thôi". Bị xúc phạm vì câu nói xấc xược ấy, Chúa Thượng quyết thử lửa một phen vói giặc. Thế tử Nguyễn Phúc Tần (sau là chúa Hiền) xin ra trận. Chúa Nguyễn Phúc Lan cả mừng, tự mình cùng các quan ra cửa Thuận An chiíng kiến từ xa trận hải chiến, trong lòng không khỏi âu lo trước cảnh "châu chấu đá xe". Các chiến thuyền của chúa Nguyễn xuất kích. Đại bác từ các chiến hạm Hà Lan ào ạt bắn tói rửiư mưa. Thuyền Việt nhẹ, cơ động luồn lách, tránh hỏa lực đối phương. Số không dứih đạn nhất tề lao tói rửiư những cảm tử quân. Tàu Hà Lan bị đánh ngang sườn nên vô cùng hoảng sợ. Các chiến thuyền của thủy quân chúa Nguyễn bất chấp hỏa lực, dũng mãnh lao sát tói, khiến cho đại bác địch mất tác dụng vì quá gần. Đang ở thế yểm trợ cho nhau, nhưng chiếc chiến hạm nhỏ nhất bên Hà Lan thấy thế liền mở hết tốc độ bỏ chạy ra khoi. Chiếc thứ hai kềnh càng, luống cuống, vừa quay đầu để tháo lui thì đụng đá ngầm, thủng đáy chìm dần cùng cả thủy thủ đoàn. Chiếc thứ ba lớn nhất và trang bị mạnh nhất, cố chống cự, bị thủy quân chúa Nguyễn lấy câu liêm bẻ bárữi lái và thi nhau móc vào thân tàu, trèo lên. Các chiến binh liều chết nhảy lên boong chặt gãy cột buồm, dùng mã tấu lao vào địch, đánh giáp lá cà. Bọn chỉ huy hốt hoảng, tuyệt vọng, ra lệnh cho nổ kho thuốc súng. Những tiếng nổ liên hoàn như sấm sét, tung lên tròi xác chết của hơn 200 lứửi Tây dương. Lửa rừng rực bốc cao. Khói đen che km bầu tròi. Tiếng reo hò của quan quân và dân chúng vang động cả kinh thành. Trận hải chiến diễn ra chỉ trong một buổi sáng, nhưng ý nghĩa của nó thì vô cùng lớn: đây là lần đụng độ đầu tiên của ngưòi Việt vói chiến hạm Tây phưong, và ta đã toàn thắng! Tin đại bại của hải quân Hà Lan đưa tói, chúa Trịnh Tráng uất ức, ôm hận dẫn cánh quân bộ đang đóng ở Bố Chính (Nghệ An) rút về Thăng Long. THỦY QUÂN HÙNG MẠNH MỘT THỜI T t àm chủ một lãnh thổ nằm dọc theo ven biển nên các ^‘liầỉl^úa Nguyễn đều quan tâm xây dựng thủy quân, đặc biệt chú ý đến kĩ thuật đóng tàu thuyền. Đội chiến thuyền hồi ấy có nhiều kích cỡ khác nhau. Loại lớn dài chừng 30 m, ngang 12 m, có ba lóp vỏ trét bằng dầu rái nhào vói sọi thực vật. Thuyền có 13 tay chèo, ngồi hai bên sườn, chia làm ba cụm, một cụm ngồi ở đầu thuyền, hai cụm kia ở một phần ba thân. Khi đi biển, các boi chèo do thuyền viên điều khiển không trực tiếp gạt nước mà phối họp làm quay một hệ thống ròng rọc gắn vói chiếc quạt nước. Quạt nước vừa nâng thuyền lên, vừa đẩy thuyền đi. Sự phối họp của ba cụm tay chèo thông qua hệ ròng rọc có thể điều chỉnh hướng của quạt nước làm thuyền lướt đi vói tốc độ cao và di chuyển linh hoạt. Vật liệu đóng thuyền chỉ bằng gỗ - loại gỗ "xây" chịu nước và rất bền chắc, được khai thác từ rừng Trường Son. Không dùng đến sắt thép, kể cả cánh quạt, đinh chốt, vít. Soái thuyền chỉ huy to lớn hon, dài 50 m, ngang 15 m. Tuy không so được vói tàu thuyền phưong Tây nhưng cũng là một tiến bộ rất lớn đưong thòi. Đàng Trong bắt đầu suy tàn kể từ khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vưong (1744). Sự thay đổi thể chế kéo theo hàng loạt tiêu cực trầm trọng ở tầng lóp thống trị: sống xa hoa, hưởng lạc, tiếp đó là bè phái, traiứi giành quyền lực, tham nhũng, mua quan bán tước, bóc lột dân đen tàn tệ để ăn choi. Nạn đói diễn ra liên tiếp ữong 4, 5 năm liền, dân chúng cực kì khổ sở, oán hận thấu tròi, tạo điều kiện thuận lọi cho cuộc khỏi nghĩa của Tây Son tam kiệt - ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ (1771). Sau 7 năm chiến đấu bền bỉ, Tây Son đã lật đổ chứih quyền Đàng Trong. Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Thái Đức (1778), đóng đô ở một đô thị ven biển là Quy Nhon, phong tước cho hai em và tướng sĩ. Trong ba anh em, ngưòi lĩnh trọng trách ữưóc lịch sử và để lại dấu ấn không phai mờ là Nguyễn Huệ. "Triều đại Tây Son" bắt đầu từ đó cho đến ngày vua Gia Long thống nhất đất nước (1802), kéo dài gần một phần tư thế kỉ. Đó là thòi kì của những cuộc nội chiến triền miên, đầy ắp những biến cố lịch sử, trong đó nổi bật nhất là sự kiện nhà Thanh lấy cớ hộ tống Lê Chiêu Thống về nước giành lại vưong vị, đưa 20 vạn quân cùng 9 vạn dân binh sang xâm chiếm nước ta. Trước tình hình ấy, để có chính danh, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng đế (1789), lấy hiệu là Quang Trung, rồi cấp tốc từ Phú Xuân hành quân ra Thăng Long diệt giặc. Vói tài thao lược kiệt xuất, tác phong quyết đoán và lối tấn công bất ngờ, chỉ trong 7 ngày, ông đã đánh tan 29 vạn tên giặc phưong Bắc ngạo mạn, viết nên một trang sử đẹp như thần thoại của dân Việt. Một số nhà sử học cho rằng, một trong rửiững yếu tố làm nên thành công quân sự của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ là ông đã coi trọng và sử dụng rất giỏi thủy quân trên một chiến trường có bờ biển dài như Việt Nam. Vào thòi bấy giờ, đường biển là phưong tiện chuyên chở quân lính và vũ khí được nhiều nhất và mau lẹ nhất, rất thích họp vói lối đánh nhanh, đánh áp đảo và đánh bất ngờ vốn là sở trường của Nguyễn Huệ. Dùng đường thủy lại có thể tập kích sâu vào hậu tuyến địch một cách dễ dàng. Có ngưòi còn nhận định, thủy binh Tây Son là một hiện tượng đột xuất, có tữih chất nhảy vọt trong lịch sử chiến tranh trên sông biển của Việt Nam. Bước nhảy vọt này làm sức mạnh của Tây Son, dưói sự chỉ huy của ngưòi thủ lĩnh bách chiến bách thắng Nguyễn Huệ, chẳng những vượt xa thủy binh Trịnh, Nguyễn và thủy binh Nguyễn Ánh đưọc phương Tây giúp, mà còn vượt cả những cố gắng của vua Minh Mạng trong thòi kỳ thịnh đạt nhất của vương triều Nguyễn sau này. Từ sau năm 1789, tại vùng lãnh thổ do Nguyễn Huệ cai quản, các cửa biển, cảng biển đều có những đồn trú của hải quân; trên mặt biển thường xuyên có các đội "di thuyền" tuần tra; các xưởng đóng tàu làm việc rất khẩn trương và các công birửi xưởng ngày đêm chế tạo những cỗ pháo lớn nhỏ để hang bị cho các hạm thuyền... Tất cả làm nên một lực lượng thủy quân hùng hậu. Một bộ phận thủy quân đóng vai trò chiến đấu của bộ birửi được coi như một quân chủng độc lập, kiểu "thủy quân lục chiến" ngày nay. Có tài liệu của nhà Thanh còn viết rằng, thủy quân Tây Son dưói thòi Nguyễn Huệ là lực lượng thủy quân hùng mạnh bậc nhất Đông Nam Á đương thời. Một tài liệu khác {Thánh vũ kí của Ngụy Nguyên) còn thú nhận, thuyền Tây Son cao to, trang bị rửìiều súng ống hơn hẳn thuyền Trung Quốc. Nếu xảy ra đụng độ thì quân nhà Thanh cũng khó lòng đối địch. Trong các trận tiến đánh Gia Định (các năm 1777,1780, 1782,1783) để đập tan các căn cứ của Nguyễn Ánh, cũng như trận giành lại Phú Xuân từ tay các danh tướng Đàng Ngoài (1786) rồi đánh dấn tói Bắc Hà trên danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh", Nguyễn Huệ luôn chọn thòi điểm vào mùa xuân và mùa hạ. Đó là để lọi dụng sức gió, tiến đại quân bằng đường thủy. (Chính vì thế, thòi ấy dân dã thường gọi quân Tây Son là "giặc gió mùa".) Trong bốn lần đánh Gia Định thì ba lần đầu Nguyễn Huệ động binh vào mùa xuân, và lần cuối cùng vào mùa đông hãy còn gió đông bắc muộn, thuận cho thuyền buồm của thủy quân xuôi về phưong Nam. Khi đánh Phú Xuân và Bắc Hà, Nguyễn Huệ tiến quân vào mùa hạ thuận gió tây nam. Duy chiến dịch đại phá quân Thanh, đại quân Nguyễn Huệ tiến bằng đường bộ, một phần vì quân số quá đông, không thể di chuyển bằng thuyền, một phần vì ngược gió đông bắc vào những ngày giáp Tết năm Kỉ Dậu (1789). Thế nhưng vua Quang Trung vẫn không quên huy động hai hạm đội thủy quân, phối họp tác chiến trong chiến dịch quan trọng này. Phải chăng vì dựa vào thủy quân làm nòng cốt nên tất cả các tướng soái dưói trướng ông (kể cả nữ tướng Bùi Thị Xuân) đều mang danh Đô Đốc - danh ximg trong thủy quân? Trong các cuốn sách ghi lại hoạt động của các giáo sĩ hoặc thuyền trưởng phưong Tây cộng tác vói Nguyễn Anh (Barizy, Letondal, Poivre, Chaigneau, Vanier, De 47 Porẹan...) cũng như cuốn Lịch triều tạp kỉ của Ngô Cao Thăng, khi nói về lực lượng của hạm đội Tây Son do Đại đô đốc Vũ Văn Dũng chỉ huy, họ đều thuật lại lực lượng này có tói 673 chiến hạm đủ cỡ lớn nhỏ. Trong số đó, có những chiến hạm hạng nặng trang bị súng đại bác và có đoàn thủy thủ nhiều hon cả những chiến hạm lớn nhất kiểu Tây phưong mà Nguyễn Ánh được ngoại bang viện trợ. Hạm đội Tây Son có 9 chiến hạm lón trang bị 60 khẩu đại bác vói thủy thủ đoàn 700 ngưòi; 5 chiến hạm khác trang bị 50 đại bác vói số thủy thủ 600 ngưòi; 40 chiếc cùng loại trang bị 16 đại bác vói 200 thủy thủ. về loại chiến thuyền trung bình, hạm đội của Vũ Văn Dũng có tói 93 chiếc, mỗi chiếc trang bị một khẩu đại bác cùng 150 thủy thủ. Nhũng chiến thuyền còn lại không mang đại bác, cùng 300 xuồng vói 50 thủy thủ, 100 "thuyền buồm kiểu bản xứ" vói 70 thủy thủ. Ngoài ra Tây Son có rất rứiiều thuyền vận tải. Vói lực lượng thủy quân hùng hậu như thế, xét về quy mô thì đây quả là cuộc cách mạng quân sự lón lao vào thòi đó, khiến các giáo sĩ rất ngạc nhiên. Việc đóng được các con tàu lón, trang bị 60 khẩu đại bác và chở tói 700 binh sĩ (các thuyền trưởng phưong Tây ước tính trọng tải ít ra cũng 150 tấn) chiíng tỏ kĩ thuật đóng tàu thuyền thòi Tây Son có sự cải tiến vượt bậc, nếu không nói là phi thường. Thậm chí John Barrow - hội viên Hội Hoàng gia Anh đến Đàng Trong vào nhũng năm 1792-1793 đã miêu tả tỉ mi kĩ nghệ đóng thuyền của ngưòi Đàng Trong như là một trong những nghề mà họ thành thạo nhất, ông kể: "Thuyền biển của họ đi không nhanh lắm, nhưng rất an toàn. Bên trong được chia thành từng khoang, loại này rất chắc có thể đâm vào đá ngầm mà không chìm vì nước chỉ vào một khoang mà thôi. Hiện tại ở Anh đã bắt chước cách làm này để áp dụng vào việc đóng tàu." Trong chiến dịch đại phá quân Thanh, vua Quang Trung chia binh lực của mình ra làm 5 mũi tiến công, trong đó có hai mũi do thủy quân đảm trách. Đó là: - Mũi vu hồi do Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy, xuất phát từ Biện Sơn (Thanh Hóa) vượt biển, chiếm giữ vùng cửa sông Lục Đầu<^^ tiêu diệt đạo quân do Lê Chiêu Thống gấp rút lập nên và quân Thanh đóng ở Hải Dương, rồi tiến lên uy hiếp sườn phía đông của Tôn Sĩ Nghị đóng ở bờ sông Hồng, tiếp ứng cho đạo quân chủ lực đánh vào Thăng Long. - Mũi bao vây do Đô đốc Nguyễn Văn Lộc chỉ huy cũng theo lộ trình giống rửiư trên, song dừng tại cửa sông Lục Đầu nhanh chóng đổ bộ lên Lạng Giang, Phượng Nhãn, Yên Thế khóa chặt đường rút lui của địch, nhằm ữánh việc chúng tập họp tàn binh và quay lại phản kích. Cánh quân của ông cũng đã đánh một ữận lớn ở Phượng Nhãn khiến đội tàn quân của Tôn Sĩ Nghị tan tác và bản thân y phải tìm đường vòng chạy về nước. (1) Sông Lục Đẩu là quãng sông do sông Thương, sông cẩu, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Môn, sông Thái Bình gặp nhau tạo thành. Sông được đào vào giữa tháng Chạp âm lịch năm Mậu Tí thứ 21 (lúc quân ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng). 49 Trong chiến dịch thần tốc chưa đầy 5 ngày kết thúc vào mùng 7 Tết Kỉ Dậu, đội quân Thanh 29 vạn ngưòi chưa kịp tham chiến đã tan rã hoàn toàn, hầu hết các tướng giặc đều bị giết, tự sát hoặc chết trong đám loạn quân. Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị hồn xiêu phách lạc, một mình trên lung ngựa chưa kịp thắng yên, nhịn đói nhịn khát len lỏi trong đường rừng bảy ngày bảy đêm mói chạy thoát thân về đến Trấn Nam Quan. Hai cánh quân thủy của Đô đốc Tuyết và Đô đốc Lộc đều lập công xuất sắc. Trong khi những cải cách của vị vua xuất thân võ tướng đầy khát vọng đang tiến triển tốt đẹp thì việc ông qua đòi đột ngột ở tuổi 40 đã làm ngưng lại hết tất cả. Sự yếu kém của những ngưòi thừa kế sự nghiệp ông và sự chia rẽ, bè phái, tranh giành quyền lực giữa họ đã được một đối thủ khôn ngoan và kiên cường của triều Tây Son là Nguyễn Ánh lọi dụng để vượt trội hẳn lên. Hon ai hết, Nguyễn Anh hiểu rõ vai trò chiến lược của thủy quân qua rứiững thất bại liên miên trước quân Tây Son nên đã tập ữung xây dựng binh chủng này. ông nhờ giáo sĩ Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhame) mà ông coi như quân sư thành lập cho mừửi xưởng sản xuất vũ khí và xưởng đóng tàu thuyền, ông mua một chiếc tàu phưong Tây cũ, đem tháo ra từng chi tiết rồi ráp lại giống như cũ, thậm chí còn cải tiến để tiện dụng hon. Từ đó rập khuôn sản xuất hàng loạt. Chỉ trong vòng hai năm (1792-1793), Nguyễn Ánh đóng được hon 300 chiếc tàu chiến, 5 thuyền buồm và một đội lứữi thủy được tổ chức theo mô hình của châu Âu. Từ chỗ ban đầu chỉ có duy nhất một chiến 50 thuyền vào năm 1793, sau 6 năm, số chiến thuyền họng tải khá lớn của Nguyễn Anh đã tăng lên tói 1.200 chiếc. Trong số này có ba chiếc thuộc loại "khủng", được chế tạo theo kiểu châu Âu và 20 chiếc thuyền mành lớn, giống như của ngưòi Trung Quốc, trang bị đầy đủ vũ khí. Số còn lại là tàu chiến và tàu vận tải. Bên cạnh đó, ông còn ra lệnh tuyển những thanh niên mạrửi khỏe vào đơn vị này, huấn luyện bài bản theo kiểu phương Tây, ví dụ truyền tm bằng các tm hiệu hàng hải. Một hạm đội có khả năng chiến đấu cao được hình thành, cho phép ông mở những "chiến dịch gió mùa" như hước đây quân Tây Sơn thường thực hiện. Năm 1800, tương quan lực lượng giữa nhà Tây Son và chúa Nguyễn ở vào thế giằng co. Thàrửi Quy Nhơn - một địa điểm tối quan trọng về mặt quân sự của chúa Nguyễn - bị quân Tây Son bao vây. Quyết giải cứu Quy Nhon, chúa Nguyễn đưa hạm đội hùng hậu chưa từng có tiến ra phá vòng vây của Tây Sơn, vói trên dưói 1.000 chiến hạm, trong số đó có 5 chiếc mang được 46 khẩu đại bác. Trong bộ chỉ huy có các sĩ quan Pháp đi kèm. Lực lượng quân Tây Sơn không thua kém, án ngữ trước ở cửa biển Thị Nại vói 3 chiến hạm khổng lồ Địiứi Quốc, trang bị tói hơn 60 khẩu đại bác, phía sau là gần 2.000 chiến thuyền lớn nhỏ. Hạm đội Tây Sơn còn được yểm trợ bỏi nhiều đại pháo đặt trên pháo đài tại Gành Ráng và Phương Mai ở cửa ngõ vào Thị Nại. Hai bên đều hiểu đây là trận quyết chiến chiến lược mà bên nào thua, bên đó sẽ mất hoàn toàn quyền kiểm soát mặt trận đường thủy, kéo theo sự thay đổi cục diện 51 cuộc chiến. Sau nhiều lần bị chặn điíng bỏi hỏa lực của đối phưong quá mạnh, chúa Nguyễn bàn vói các tướng dùng cách đánh hỏa công nhân mùa gió đang thuận. Rằm tháng Giêng năm Tân Dậu (1801), 1.200 quân chúa Nguyễn bí mật đổ bộ lên bờ, đánh úp các pháo đài của Tây Son nhằm bịt miệng các cỗ đại pháo. Quân hên phong của họ cải trang thành thuyền Tây Sơn vượt qua chốt phòng thủ tiến sâu vào bên trong bắn phá. Sự bất ngờ làm quân Tây Son liing túng và bị động, toàn bộ hạm đội của nhà Nguyễn tổng tấn công bằng hỏa lực mạnh. Ba chiến hạm Định Quốc của Tây Sơn bị trên 60 chiếc thuyền tiên phong của chúa Nguyễn áp sát và đánh chìm. Thủy quân Nguyễn thọc sâu vào đội hình Tây Sơn, đồng loạt bắn tên lửa tẩm dầu. Khi lửa đã bén, họ quay thuyền rút lẹ. Lửa bùng lên mãnh liệt, cháy phần phật, gió thổi mạnh làm lửa lan nhanh từ thuyền này sang thuyền khác, biến mặt đầm Thị Nại thành một biển lửa rực sáng, khói ngút tròi. Trận đánh được ví vói ữận Xích Bích thòi Tam Quốc bên Tàu 16 thế kỉ ữưóc. Chiến trận kéo dài đến giữa trưa hôm sau (1-3-1801). Chiến thắng thuộc về chúa Nguyễn, tuy mất tói hơn 4.000 chiến thuyền chỉ trong một trận đánh. Phía Tây Sơn, thiệt hại nặng hơn nhiều. Toàn bộ hạm đội ở Thị Nại - xương sống của hải quân Tây Son - bị tiêu diệt. Sử triều Nguyễn bình: "Người ta phải gọi trận này là đệ nhất vỗ công". Kể từ đây, Tây Sơn hoàn toàn không còn kiểm soát được mặt biển, để thủy quân Gia Định tha hồ timg hoành, kéo ra lấy Phú Xuân mà không sợ một lực lượng nào ngăn trở. Quân 52 tướng Tây Son vây thành Quy Nhon không thể rút ra Bắc theo ven biển khi không có thủy quân yểm trợ nên tự tan. Trong khi đó, lực lượng của chúa Nguyễn ngày càng trở nên áp đảo. Triều đại Tây Son, sáng lên như một chóp lóe ngắn ngủi trong lịch sử rồi tắt lịm. Chưa thu được cả đất nước, Nguyễn Ánh đã lên ngôi vua (1801), lấy hiệu là Gia Long, hàm ý giang son của mình trải dài từ Gia Định đến Thăng Long, vượt xa ước nguyện của tổ tiên xưa, chỉ muốn tìm một noi phía sau đèo Ngang để "vạn đại dung thân". HOÀNG SA, TRƯỜNG SA VÀ NHỮNG TRANG sử MỚI ^hư ta đã thấy, để khôi phục lại vưong quyền, vua ha Long đã phải dựa rất nhiều vào lực lượng thủy quân, trên cơ sở kĩ thuật đóng tàu thuyền và vũ khí của phương Tây. Bản thân ông hiểu khá sâu công nghệ đóng tàu khi ông trực tiếp phụ trách các công xưởng, lại chịu khó học hỏi từ các sĩ quan ngoại quốc cũng như đọc sách phương Tây do giám mục Adran dịch hộ. ông ra lệnh cho bộ Công tổ chức biên soạn cuốn Duyên hải lục ghi chép độ sâu của thủy triều ven biển và cây số đường biển để phát cho các đon vị thủy quân. Theo Đại Nam Thực lục Chính biên thì vào năm 1803, chỉ mấy tháng sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã "sai mộ dân ngoại tịch lập đội Hoàng Sa", theo truyền thống có từ thòi chúa Nguyễn Phúc Nguyên gần hai thế kỉ trước. Liên tục trong các năm 1815, 1816, ông “sai đội Hoàng Sa của Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển" và hiển khai đồng bộ các hoạt động thực thi chủ quyền. Nhà vua mở rộng quan hệ vói các nước, tiếp nhận bản đồ đảo Hoàng Sa từ năm 1817, tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa mà không có bất cứ một quốc gia nào phản đối hay có ý định tranh giành. Ngưòi kế vị ông - vua Minh Mạng - cũng ra sức củng cố lực lượng thủy quân phục vụ việc trị nước, an dân, phát huy vị thế của biển. Năm 1835, nhà vua ra chỉ dụ: "Nước ta dựng nước ở phưong Nam đất nhiều bãi biển, thủy sự rất là quan yếu, nên thường xuyên huấn luyện để thuộc hết đường biển". Vì thế "gặp lúc ngoài biển gió thuận, sóng yên, phải thao diễn quân thuyền cho được tinh thạo lên, nhân thể mà tuần tiễu mặt biển, cũng là làm một việc mà được hai việc vậy". Thủy quân triều Nguyễn có hai bộ phận: Một bộ phận líng hực ở Kừih đô gọi là Kinh kì thủy sư, được trang bị đầy đủ, thường xuyên thao luyện để đáp líng các yêu cầu về quân sự và dân sự khi rữià nước cần. Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (gọi tắt là Hội điển) ghi chép rất tí mỉ cơ cấu thủy quân, số lượng, biên chế, nhiệm vụ, khen thưởng, xử phạt... Một bộ phận khác là thủy quân ở các tính, số lượng tùy theo số dân. Lứứi tuyển vào là những ngưòi thạo sông biển, chịu sự chỉ huy trực tiếp của Đề đốc hoặc Lãnh bưih. Theo Hội điển, tứứi đến năm 1838, tổng số thủy quân ở các từửi vào khoảng 16.500 ngưòi. Họ có 54 n nhiệm vụ đi tuần kiểm bờ biển và ngoài khoi, không chỉ thường xuyên lui tói các quần đảo Phú Quốc, Côn Son, Hoàng Sa, Trường Sa mà hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ trên biển đều được họ tiếp quản, thiết lập chủ quyền và canh phòng cẩn mật. Suốt mấy trăm năm không để mất một tấc đảo nào, một khoảnh lãnh hải nào cho nước ngoài. Ngoài ra họ cũng quét sạch những toán hải tặc đến từ Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan..., bảo vệ an ninh bờ biển và mặt biển khỏi bị cưóp phá. Là ông vua mẫn cán lại thạo việc, Minh Mạng thường hay nhắc nhở những công việc cụ thể mà vói quãng lùi hàng trăm năm, giờ đây ta càng thấy là vô cùng cần thiết. Chẳng hạn, tháng Tám năm Quý TỊ (1833), nhà vua chỉ thị cho bộ Công: "Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông sâu. Gần đây thuyền buôn thường mắc cạn, nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới dó, dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối. Ngày sau, cây cối to lớn xanh tốt, người ta dễ nhận biết, ngõ hầu tránh được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc để lại muôn dời.” Năm 1836, nhà vua lại ra sắc chỉ: "Không cứ là đảo nào, bãi cát nào khi thuyền đi đến cũng phải xem xét xứ ấy chiều j ỵ . _____________ _____ \ .íí_____ - 7. . . - . i _ ' dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển nông hay sâu, có đá ngầm, bãi ngầm hay không, hình thể hiểm trở bình dị thế nào phải tường tận đo và vẽ thành bản đồ, lại xét ngày khởi hành từ cửa biển nào ra khen nhằm phưcmg hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào đường đi ước tính bao nhiêu dặm, nhất nhất miêu tả rõ ràng đem về dâng trình"... Sau khi Pháp xâm chiếm và cai trị toàn bộ nước ta, kể từ Hiệp ước Patenôtre (1884), mọi việc nhất nhất đều do Nhà nước bảo hộ chủ trưong. Họ đại diện cho triều đình Huế, thực thi chủ quyền trên các vùng lãnh hải của Việt Nam, trong đó có các đảo ven biển đang có ngưòi ở như Cát Bà, Cát Hải, Lí Sơn, Côn Sơn, Phú Quốc, Thổ Chu... và các đảo ngoài khoi như Trường Sa, Hoàng Sa. Hải quân Pháp thường xuyên tuần tiễu các đảo này, ah i giúp các tàu thuyền bị đắm trong vùng biển. Đặc biệt năm 1909, hải quân Pháp đã ngăn chặn tàu chiến của chính quyền tỉnh Quảng Đông định xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa. Về mặt pháp lí, ngày 8-3-1925, chừửi quyền Pháp ở Đông Dương ra tuyên bố quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là lãnh thổ của xứ Đông Dương thuộc Pháp (Indochme tranẹaise). Một mặt, họ khẳng định chủ quyền lịch sử từ xưa của Việt Nam đối vói Hoàng Sa, mặt khác đưa hải quân đến chiếm các đảo Trường Sa, Ba Bình, Thị Tứ, Loại Ta... Sau đó, cử một hạm đội từ Sài Gòn ra thực địa thực hiện đầy đủ các nghi thức truyền thống theo đúng tập quán quốc tế về việc chiếm hữu một mảnh đất vô chủ làm lãnh thổ của mình. Ngày 21-12-1933, Thống đốc Nam kì kí nghị định sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tủửi Bà Rịa và đến ngày 15- 6-1938, Toàn quyền Đông Dương kí nghị định thành lập một đơn vị hành chúứi là quần đảo Hoàng Sa thuộc tírửi Thừa Thiên, và đưa lừửi ra đồn trú. Không chỉ khẳng định về mặt hành chính, Pháp đã thực sự khai thác hai quần đảo này vào các mục đích hàng hải, khí tượng thủy văn. Tại các đảo Hoàng Sa, Phú Lâm (trong quần đảo Hoàng Sa) cũng như tại đảo Ba Bmh (quần đảo Trường Sa), họ đã dựng hải đăng, xây trạm khí tượng, đài thu, phát vô tuyến và đăng kí vói các tổ chức quốc tế để gia nhập vào hệ thống toàn cầu. Trong Thế chiến II, phát xít Nhật cậy sức mạnh đã chiếm đóng một số đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng sau khi chiến tranh kết thúc, Pháp giành lại quyền kiểm soát. Đến giữa chiến tranh Đông Dưong, Pháp dvmg lên nhà nước Quốc gia Việt Nam vói chừửi phủ Bảo Đại và trao lại cho chứứi phủ này quyền quản lí trên các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Năm 1954, Hiệp địrứì Geneva về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được kí kết. Theo đó, hai quần đảo này do nằm dưói vĩ tuyến 17 nên thuộc quyền quản lí của chứih phủ Việt Nam Cộng hòa, ngưòi thừa kế các quyền của chứứi phủ Bảo Đại... Tất cả những vấn đề này vói các diễn biến cụ thể sẽ được đề cập ở phần sau. NGƯỜI VIỆT CÓ ÔNG "CHÚA TÀU SÔNG BIỂN" ^ầu thế kỉ 20, tình hình chứứi trị ở Việt Nam đã có vẻ Ệặm yên. Phong trào Cần vương chấm dứt. Các nhà nho tiến bộ trong phong trào Duy Tân đưa ra "Văn mirửì tân học sách" như một cưong lĩnh hoạt động. Mục đích là làm "quốc phú dân cường" bằng cách "chấn himg công nghệ", lập các hiệp hội buôn bán và sản xuất vói sự góp vốn và chung sức kinh doanh. Tầng lóp doanh nhân đầu hên xuất hiện trong lịch sử dân tộc. Trong bối cảnh đó, Bạch Thái Bưỏi là một gưong mặt tiêu biểu cho sự thàrửi đạt cao nhất, đáng tự hào nhất của doanh nhân Việt nam trước Cách mạng Tháng Tám. ông sữih năm 1874, quê làng Yên Phú, huyện Thanh Trì, Hà Đông (cũ) trong một gia đình nông dân không ruộng đất. Cậu bé vốn họ Đỗ, bố mất sớm, nhà rất nghèo, phải làm con nuôi cho một gia đình Hoa kiều làm nghề buôn bán. Được nuôi ăn học hết bậc thành chung, anh xin vào làm thư kí cho giám đốc một hãng buôn ngưòi Pháp. Thấy Bưỏi chu đáo, nắm bắt vấn đề nhanh, ông ta rất quý, đi đâu cũng cho anh đi theo để sắp xếp giấy tờ, phụ giúp công việc. Là ngưòi sáng ý, anh nhanh chóng học được cách tổ chức, quản lí sản xuất - kinh doanh và các thủ tục giao tiếp trên thưong trường. Năm 1895, 21 tuổi, Bưởi được Phủ Thống sứ Bắc kì chọn làm người giói thiệu sản phẩm cho gian hàng của Đông Dưong tại hội chợ Bordeaux (Pháp). Tiếp xúc vói văn minh phương Tây, anh cố gắng tìm hiểu vì sao họ đạt được những điều "kỳ diệu" ấy, và nhất là làm sao để nước mình cũng tiến bộ được như họ. Về nước, Bưỏi được nhận vào làm cho một hãng thầu công chính đang tham gia xây dựng cầu Paul Doumer (tức cầu Long Biên), một công trình lớn của ngưòi Pháp hồi bấy giờ để phục vụ chương trình khai thác thuộc địa. Tại đây, anh có điều kiện học hỏi về cách vận hành máy móc, tổ chức nhân công và quản lí sản xuất theo mô hình Pháp ở một xí nghiệp lớn. Mấy năm làm việc, ông Bưỏi nhịn ăn nhịn mặc, tích lũy được ít vốn liếng, ông mạnh dạn bỏ việc, điíng ra nhận thầu cung cấp tà vẹt gỗ cho tuyến đường sắt Nam Bắc đang thi công. Chỉ vài năm, ông đã có một số tài sản kha khá. Sau nhiều vụ đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau, thành công có, thất bại có, kể cả là 'Tên bờ xuống ruộng", năm 1909, Bạch Thái Bưỏi quyết định dấn thân vào cuộc đấu tranh sinh tử vói ngưòi nước ngoài trong một lĩnh vực chưa ngưòi Việt nào mơ ước đặt chân tói: vận tải thủy. Đầu tiên, ông đúng ra thuê lại ba chiếc tàu của một ngưòi Pháp là R. Marty vừa hết họp đồng vói nhà nước, đổi sang tên Việt là Phi Long, Phi Phượng và Bái Tử Long, chuyên chạy tuyến Nam Định - Hà Nội và Nam Đứữi - Bến Thủy. Vào nghề sông nước, ông phải đương đầu vói các đối thủ ngưòi Pháp và ngưòi Hoa đang nắm giữ ngành vận tải này, có thế lực mạnh, trường vốn lại giàu kữứì nghiệm hon rất nhiều. Giói Hoa thương lúc đầu rất coi thường ông, tưởng dễ dàng bóp chết hãng vận tải bản xứ này trong chốc lát. Nhưng họ nhanh chóng nhận ra mình đã gặp phải một đối thủ đáng gờm, làm ăn bài bản, lấn sân họ một cách quyết liệt và hiệu quả. Đến lúc đó họ mói hốt hoảng liên liên kết vói các hãng Pháp khác để xúm vào "đánh hội đồng" ông. Dân chúng hồi đó đã chiíng kiến một cuộc cạnh tranh sôi nổi, gay gắt và ngoạn mục. 60 1 ông Bưỏi khoi mào cuộc chiến bằng cách hạ giá vé tàu để thu hút khách thì họ (tức liên minh Tây - Tàu) cũng hạ theo, nhưng hạ nhiều hon. Cứ thế hai bên rượt đuổi nhau xuống giá vé, cứ vài ngày lại thay đổi một lần. Hễ ông hạ một giá, họ hạ hai; ông hạ ba, họ hạ bốn... ông có trà tàu cho khách uống thì họ đãi khách bárứì ngọt. Vé Nam Địrủì - Hà Nội lúc đầu giá là 40 xu, thì vào cuối cuộc rượt đuổi chỉ còn có... 5 xu. Đâm lao phải theo lao, ông Bưỏi đánh nước bạc cuối cùng: 3 xu! Đưong nhiên là lỗ nặng, càng hoạt động càng lỗ. Mỗi con tàu, ông phải thuê mất 2.000 đồng một tháng, tiền dầu nhót, công xá cho tài công... hàng nghìn đồng nữa, trong khi tổng số tiền thu được của mỗi chuyến chỉ là 20 đồng. Cả hai bên đều kiệt sức. Bạch Thái Bưỏi hiểu rằng, muốn thắng đối thủ nặng kí như họ thì không thể chỉ dùng con bài giá cả. Và ông đã tìm đến một vũ khí quyết định mà đối phương không thể có: tữứi thần tự cường dân tộc mà đã là dân Việt thì ai cũng có. Lúc ấy, ai cũng bất bình trước sự xâm lấn kinh tế của ngoại bang. Để khoi gọi tình thần đó, ông đổi tên tàu của mình sang những cái tên gọi nhớ đến cội nguồn, đến lịch sử hào hùng của dân tộc như Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Đữửi Tiên Hoàng, Lê Lọi, Hàm Nghi... ông tung ngưòi đi diễn thuyết trên các bến tàu, kể những thiệt thòi của ngưòi Việt trước sự lấn át của ngưòi nước ngoài, cổ vũ tình thần "chấn hưng công nghiệp" làm giàu cho đất nước, để đi đến kết luận "ngưòi Việt chỉ nên đi tàu Việt", ông mua chiếu hoa cạp điều ưải lên sàn tàu để đón tiếp những ngưòi chân lấm tay bùn ngồi "vé hạng bét", ông kêu gọi ai thấy việc làm của ông là đáng khuyến khích thì tùy tâm, giúp cho chủ tàu đỡ lỗ ít nhiều, đủ sức cạnh tranh vói ngoại bang. Kết quả thật mĩ mãn: hành khách chẳng ai còn tìm đến tàu Hoa, tàu Tây mà chỉ đi tàu Việt. Bạch Thái Bưởi là ngưòi tiếp ý chí cho thế hệ doanh nhân sau ông dám cạnh tranh ngang ngửa vói tư bản ngưòi Pháp, ngưòi Hoa trên thưong trường, mà tên tuổi của họ được cả nước biết đến, như Nguyễn Son Hà, Nguyễn Hữu Thu, Trưong Văn Bền, Bùi Huy Từi, Trịnh Đình Kứứi... Theo các tài liệu, cuộc cạnh tranh của giói công thưong Việt vói tư bản nước ngoài kéo dài khoảng 30 năm, từ 1905 đến 1935. Họ đã viết nên trang sử vẻ vang vói khẩu hiệu cho đến nay càng cần được giưong cao: "Ngưòi Việt Nam dùng hàng Việt Nam". Cuối cùng Bạch Thái Bưỏi đã toàn thắng. Đội tàu của ông không những vượt qua sóng gió mà còn lớn mạnh gấp bội vì được bổ simg bằng hàng chục chiếc tàu khác của clúnh các đối thủ Pháp và Hoa đã bị phá sản vì cạnh ữanh vói ông. Năm 1915, ông còn mua lại xưỏng đóng chữa tàu của R. Marty, giao cho đốc công Nguyễn Văn Phúc phụ trách. Vậy là, sau bảy năm kứứi doanh trên sông nước, Bạch Thái Bưỏi đã tạo dựng một cơ ngoi khép km từ chạy tàu đến đóng tàu, sửa chữa tàu và các chi nhánh ở nhiều noi. Năm 1916, ông chuyển trụ sở từ Nam Địrửi ra Hải Phòng và đặt tên cho hãng là "Giang hải luân thuyền Bạch Thái Công ty", vói lá cờ hiệu màu vàng có hình mỏ neo và ba 62 sao đỏ. Chủ nhân của công ty đó được mọi ngưòi phong danh hiệu "Chúa tàu sông biển Bắc Kì". Ngày 7-9-1919, công ty của Bạch Thái Bưỏi đã làm rạng danh ngành hàng hải Việt Nam khi cho hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu biển Bmh Chuẩn. Chiếc tàu lấy tên của một tổ chức thòi xa xưa chuyên khuyến khích thưong nghiệp để tạo vốn cho quốc gia, hoàn toàn do ngưòi Việt thiết kế, thi công. Tàu Bình Chuẩn dài 42 m, rộng 7,2 m, cao 3,6 m, trọng tải 600 tấn, động cơ 450 mã lực, chạy bằng hoi nước có dung tích tám mét khối, vận tốc đạt 8 hải lí/giờ. Chuyến đầu tiên từ Hải Phòng đã cập bến Sài Gòn ngày 17-9-1920, trong sự đón chào nồng nhiệt của giói công thương noi đây. Không chỉ mạnh ở "sân nhà", Công ty của Bạch Thái Bưỏi còn mở rộng tầm hoạt động khắp Đông Dương và các nước lân cận, như Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Smgapore... Đừih cao của sự phát triển công ty là khoảng cuối thập niên 1920 đầu 1930, khi ấy công ty có trên 40 con tàu, khoảng 20 chiếc sà lan chở hàng, số nhân viên cũng lên tói 2.500 ngưòi làm việc hên các đội tàu, xưởng đóng tàu... Mỗi năm tàu và sà lan của công ty chạy khoảng 5.000 chuyến, vói 1,5 triệu lượt hành khách và 15 vạn tấn hàng hoá. Nếu như hồi đó, ngưòi ta coi Công ty Bạch Thái Bưỏi như một niềm tự hào của ngưòi Việt thì ngày nay, Bạch Thái Bưỏi được truy tặng danh hiệu Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu, bên cạnh những tên tuổi khác là Nguyễn Sơn Hà, Lương Văn Can, Trịnh Văn Bô. 63 'ĐƯỜNG MÒN TRÊN BIỂN" - MỘT KHÚC CA BI TRÁNG ^heo Hiệp định Geneva (1954), sau hai năm tạm thòi ia cắt đất nước giữa hai chứứi phủ: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Quốc gia Việt Nam ở miền Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giói, sẽ tổ chức Tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước. Nhưng kế hoạch ấy bất thành vì chúah quyền miền Nam (lúc này mang tên Việt Nam Cộng hòa) phá hoại Hiệp định. Các nhà lãnh đạo ở miền Bắc nhận định: "chỉ có thể thống nhất đất nước bằng bạo lực cách mạng" và phát động nhân dân miền Nam nổi dậy đấu tranh vũ trang chống lại clúnh quyền. Đầu năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân giải phóng được thành lập. Cùng vói phong trào Đồng khỏi ở Bến Tre, cuộc đấu tranh cách mạng ở các từih đồng bằng Nam Bộ chuyển mạnh lên thế tiến công và trở thành cao trào rộng khắp. Trước tình hình đó, yêu cầu về vũ khí, trang bị, đạn dược và thuốc chữa bệnh trở thành vấn đề sống còn. Để chi viện cho cách mạng miền Nam, Trung ương Đảng và Chứứi phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định mở tuyến đường Trường Sơn (thường gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh), một mạng lưới giao thông quân sự chiến lược. Con đường bắt đầu từ Quảng Bình, đi dọc dãy Trường Sơn vào tói Kiên Giang, qua 20 tính, Hạ Lào và Campuchia, chuyên chở vũ khí, đạn dược, thuốc men và cán bộ quân đội cho nhân dân miền Nam. 64 Song song vói tuyến đường "xẻ dọc Trường Son đi cihi nước" này, năm 1959, theo chỉ đạo của Bộ Chừửi ữị Ban Chấp hành Trung ưong Đảng, Quân ủy Trung ưong quyết định thành lập đoàn 759. Đoàn có nhiệm vụ mở con đường chiến lược trên biển để chi viện cho chiến trường miền Nam, lúc đầu thuộc Tổng cục Hậu cần, sau trực thuộc Bộ Quốc phòng, từ tháng 8-1963 được chuyển giao cho Quân chủng Hải quân và đổi phiên hiệu thàrứi Lữ đoàn 125. Tuyến đường biển ấy thường được gọi là Đường mòn trên biển hoặc Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đầu năm 1960, chuyến thuyền buồm đầu tiên đóng giả làm thành viên của Tập đoàn đánh cá sông Gianh, khỏi hành từ một địa điểm bí mật ở Hải Phòng. Con thuyền chở 5 tấn súng đạn, 500 kg vải, 400 kg nilon và một số lượng lớn thuốc men chữa bệnh, dự kiến sẽ theo một hành trình ven biển đến giao "hàng" tại bến Hố Chuối (Quảng Nam). Thế nhưng, do chưa có kinh nghiệm và cũng do thiếu hiểu biết về tình hình các tỉnh duyên hải phía Nam, nên chuyến vượt biển không thành công. Thuyền gặp gió mùa, sóng lớn, bị trôi dạt và đã không đến được tói đích; cả 6 thuyền viên đều bị địch bắt khi vừa vào đến vùng biển Quảng Nam. Một năm sau (1961), Bộ Chửih trị và Quân ủy Trung ưong quyết định triệu tập những chiến sĩ trung kiên xuất thân từ các vùng ven biển miền Nam, tự mình đưa thuyền ra Bắc để cùng Trimg ưcmg bàn định kế hoạch vận chuyển hàng hóa, vũ khí bằng đường biển vào Nam. Cuộc hội ngộ của những "con cá kình" vùng sông nước Nam Bộ ấy có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối vói sự thành bại của rứiững chuyến tàu chở hàng vào Nam. Thông qua họ, Trung ưong Đảng và Quân ủy đã hiểu thêm tình hmh miền duyên hải miền Nam, nắm chắc được cách bố phòng trên biển của đối phưong để lên kế hoạch, đề ra phưong án tác chiến họp lí, sát họp với tình hình. Đồng thòi, tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được giao nhiệm vụ thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách việc chuẩn bị bến bãi tại bờ biển các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ huy các Khu V, VI, VIII cũng được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để tiếp nhận vũ khí, đạn dược, phưong tiện và các hàng hóa khác từ miền Bắc chuyển vào bằng đường biển. Rõ ràng, vận tải trên biển có những đặc thù và khó khăn riêng: điều kiện thòi tiết khắc nghiệt (mưa, bão thất thường), địa bàn biển Đông vô cùng phức tạp (vừa trống trải, vừa nhiều bãi ngầm, bãi cạn, chế độ thủy văn không ổn định), hon nữa hệ thống bố phòng trên biển của đối phưong rất chặt chẽ. Nếu ở trên bộ, để ngăn chặn Đường mòn Hồ Chí Minh, quân đội Mĩ đã dựng lên Hàng rào điện tử McNamara, "đến một con muỗi cũng khó vượt qua" như họ huênh hoang, thì trên biển, các chuyên gia quân sự Mĩ cũng khổ công xây dựng một "tuyến bố phòng biển" dày đặc và cực kì hiện đại. Theo các tài liệu của Mĩ, 40% lực lượng của Hạm đội 7 được huy động để cùng vói lực lượng hải quân Việt Nam Cộng hòa thực hiện phong tỏa đường biển hòng cắt điít đường dây chi viện của miền Bắc vào chiến trường phía Nam. Hệ thống bố phòng của đối phưong được thiết lập theo thế liên hoàn bờ - biển - đảo. ở ven bờ biển, ngoài hệ thống đồn bốt dày đặc, còn có các lực lượng hải quân đặc nhiệm mang sô hiệu 115,116,117 tuần tra liên tục suốt hải phận miền Nam. ở tuyến xa bờ, từ hàng không mẫu hạm, hàng trăm máy bay, tàu chiến các loại thường xuyên hoạt động trên khắp vùng biển, sẵn sàng tác chiến chống lại sự xâm nhập của các tàu "lạ" và hỗ ữợ các lực lượng trên bờ khi cần thiết. sự KIỆN VỊNH VŨNG RÔ Ngày 1-2-1965, tàu số 143 chở 63 tấn vũ khí cùng 17 người từ Hải Phòng vào khu V. Mặc dù đã ngụy trang là tàu đánh cá, nhưng vẫn bị máy bay địch liên tục bám theo, rồi bị tàu chiến địch dàn hàng kèm sát. Do đi lạc, nên mãi gần 4 giờ sáng 16-2, tàu mới vào được Vũng Rô, một địa điểm thuộc Phú Yên đã nhiều lần tiếp nhận vũ khí. Sau khi bốc rỡ "hàng", tàu quay ra thì tời neo bị hỏng. Chữa xong, trời đã sáng rõ, nên đành ở lại bến. Địa hình Vũng Rô ba bề là vách đá dựng đứng, chỉ có ít cây mọc sát mép nước, nhưng tàu của ta quá to nên không nép sát được vào chân núi. Mọi người phải chặt cây phủ lên để ngụy trang, nhưng trông vẫn rất lộ, mà cách đó không xa là đồn địch. Sáng ngày 16-2, một chiếc máy bay của địch từ Quy Nhơn về Nha Trang qua Đèo Cả. Viên phi công bất ngờ phát hiện thấy một "mỏm đá lạ" xuất hiện trên vách núi phía tây Vũng Rô liền báo về cho chỉ huy. Một tiếng sau, một máy bay trinh sát được điều đến chụp ảnh. ít phút sau nữa, mấy chiếc máy bay của địch bay tới, thả pháo mù, bơm xăng xuống "mỏm đá" rồi đốt. Lá cháy hết, lộ ra con tàu nằm trên biển. Lập tức địch huy động máy bay, tàu chiến và bộ binh tấn công Vũng Rô. Phía ta thủy thủ trên tàu, bộ binh và dân quân du kích kiên cường đánh trả, nhằm bảo vệ đến cùng số vũ khí được đưa vào. Đồng thời, nhanh chóng vận chuyển vũ khí ra khỏi Vũng Rô, về kho chính ở hang Vàng. Quân địch có ý đồ bắt sống tàu 143, nên chỉ thả bom quanh tàu chứ không tiêu diệt. 68 Biết rõ ý đồ của địch, ban chỉ huy ra lệnh hủy tàu, quyết không để một khẩu súng từ miền Bắc lọt vào tay địch. Nhưng việc hủy tàu không đơn giản, vì do sức ép của bom, đạn, tàu đã bị nghiêng, các cửa đều bị đóng chặt, không thể vào được các khoang. Phương án ốp bộc phá ngoài tàu để phá hủy được đưa ra. Trong khi quân ta vẫn kiên cường chiến đấu đánh bật địch ra biển, thì một bộ phận vận chuyển một tấn thuốc nổ xuống tàu, một số khác đi tìm dây cháy chậm và kíp nổ. Do thiếu kinh nghiệm, nên phải mất hai đêm mới phá hủy được con tàu. Sau một tiếng nổ rung chuyển Vũng Rô kèm theo ánh lửa sáng lòa, con tàu chìm dần. Dưới sức ép của cả ngàn cân thuốc nổ, những mảnh vỡ của con tàu văng khắp nơi, lên tận đỉnh núi... Địch điều thêm quân đến, khiến cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Trước thế địch quá mạnh, ta chủ động phá vòng vây rút lui và tiếp tục phá hủy số vũ khí còn lại, nhưng không hủy được hết. Đjch quyết chiếm kho súng d hang Vàng, liền bị ta cho nổ tung, khiến địch chết rất nhiều. Sau đó, chúng tổ chức mò vũ khí của ta ở con tàu chìm, tháo gỡ một số bộ phận của tàu mang về Sài Gòn để triển lãm. Con đường vận chuyển trên biển được xây dựng kì công đã bị lộ. Nhưng sự kiện Vũng Rô đã làm kẻ địch kinh hoàng. Chúng tổ chức kiểm soát biển chặt chẽ hơn nữa. Năm 1986, Vũng Rô đã trở thành Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay ở đó có bia di tích và đài tưởng niệm để mãi khắc ghi một sự kiện oai hùng trong lịch sử dân tộc. Sau "sự kiện Vũng Rô", Mĩ đã quyết định tăng cường tuần tra, theo dõi 24/24 giờ trên mọi ngả từ ven bờ đến ngoài khoi. Hải quân Việt Nam Cộng hòa chịu trách nhiệm tuần tiễu, giám sát chặt khu vực từ bờ đến mốc 12 hải lí; Hải quân Mĩ thuộc Hạm đội 7 ngăn chặn khu vực biển từ mốc 12 đến 40 hải lí. Vói lực lượng hùng hậu và cách thức giám sát gắt gao, các tướng lĩnh và chuyên gia quân sự Mĩ tin rằng không thể có bất cứ một con tàu nào của miền Bắc xâm nhập miền Nam được nữa. Thực tế, do vụ Vũng Rô, ta đã phải ngừng tiếp tế cho miền Nam trong một thòi gian, nhưng dù sao đến lúc ấy đã có 88 (trong tổng số 100) chuyến tàu chở vũ khí đi qua trước mũi kẻ thù mà không hề bị phát hiện. Ngưòi Mĩ bằng nhiều cách có thể nắm rất rõ về lực lượng, trang thiết bị và vũ khí của Hải quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để đề phòng, ngăn chặn. Nhưng họ không lường được rằng hải quân ta lại "cả gan" chọn con đường đầy thách thức mà họ đã dày công thiết lập cả một hệ thống bố phòng nhiều tầng, nhiều lóp trên biển. Trước đấy, cMnh sự bất ngờ (giả dạng tàu cá trà trộn vào dân để luồn lách qua hệ thống bố phòng dày đặc của địch) đã góp phần tạo nên thành công lớn trong giai đoạn đầu của "Đoàn tàu không số" (cách gọi những con tàu bí mật). Nay, ta quyết định chuyển hướng hoạt động vận tải ra các vùng biển xa bờ, ngoài tầm kiểm soát của đối phương. Đêm xuống mói cho tàu ngoặt vào noi tiếp nhận để tránh bị hệ thống trinh sát điện tử của đối phương phát hiện. Những "con tàu không số" liên tục thay đổi hướng xuất phát và hải trình: khi thì nhanh chóng vượt ra hải phận quốc tế, trà trộn vói các tàu vận tải của nước ngoài, lúc lại vòng sang vùng biển của Trung Quốc, Ma 70 Cao, thậm chí len lỏi ven các vùng biển của Philippmes, Indonesia, hoặc sang tận vùng biển Singapore rồi sau đó mói bất ngờ xâm nhập vào các bến "trả hàng". Đây quả là cách vận chuyển táo bạo và sáng tạo, vượt qua mọi suy tứứi thông thường trong chiến lược ngăn chặn của địch. Các chuyên gia quân sự Mĩ nghĩ rằng ta vẫn đang mạo hiểm trên những con tàu nhỏ ven biển, nên không thể lí giải nổi vì sao dòng chi viện Bắc Nam không hề gián đoạn. Vào giai đoạn 1959-1972, tuyến chi viện đường bộ mói vào được đến chiến trường Trị Thiên, Trung - Hạ Lào, Tây Nguyên mà chưa tói được các chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Đường Hồ Chí Minh trên biển đã giải quyết được điều đó. Nhờ vũ khí tuồn vào qua tuyến đường này, ta đã tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp các vùng chiến lược ở miền Nam. Đặc biệt, sự xuất hiện kịp thòi của những vũ khí tương đối hiện đại, có tính năng chiến đấu cao đã làm thay đổi cách đánh của quân và dân ta, làm lệch tương quan lực lượng giữa ta và địch. Tổng kết lại, từ năm 1961 đến 1975, Lữ đoàn 125 đã thực hiện được gần 2.000 chuyến tàu, đi gần 4 triệu hải lí, trải qua hơn 20 cơn bão lớn, vận chuyển gần 8 vạn lượt ngưòi, trên 15 vạn tấn vũ khí, đạn dược và hàng vạn tấn hàng hóa, góp phần chi viện đắc lực cho nhiều hướng chiến trường, nhiều chiến dịch lớn, nhiều địa bàn trọng yếu mà tuyến đường bộ chưa vươn tói được. Trong các chuyến đi, đoàn tàu đã phải khắc phục hơn 4.000 quả thủy 71 lôi; đánh trả hơn 30 lần tàu địch bao vây; chiến đấu vói hơn 1.200 lần máy bay địch tập kích; bắn roi 5 máy bay và bắn cháy nhiều tàu địch, góp phần quan trọng vào chiến thắng cuối cùng. Tiếc rằng, nhiều con tàu ra đi không trở lại, nhiều đồng chí, đồng đội đã vĩnh viễn yên nghỉ noi biển cả mênh mông. Đếm sao hết số lần phải thi gan, đấu trí vói địch; kể sao hết những tấm gương dũng cảm, sự hi sinh cao quý của từng thành viên "Đoàn tàu không số", sẵn sàng gặp địch là đánh, chấp nhận hủy tàu, tự nguyện hi sinh để bảo vệ sự bí mật của con đường. Đường Hồ Chí Mừứi trên biển mãi mãi lưu truyền trong lịch sử chống ngoại xâm như một thiên anh hùng ca bất tử, tô thắm truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam. 'BIỂN ẤY CHÍNH LÀ BIỂN ĐÔNG VẬY!" "Hải Đông hải dã" (Nguyễn Trãi - D u địa chí) 1» ăịa chí, quyển sách về địa lí học đầu tiên của nước ức Trai tiên sinh đã viết ra trong 10 ngày bằng kiến thức tích lũy trong nửa đòi mình để dâng lên vị hoàng đế trẻ Lê Thái Tông, giúp cho nhà vua hiểu về đất nước mà mình đang trị vì. Khi nói về một vùng biển mênh mông, nằm về phía Mặt tròi mọc, ôm lấy dải đất uốn cong hình chữ s, ông kết luận: "Hải Đông hải dã" (Biển ấy chúửi là Biển Đông vậy!). BIỂN ĐÔNG BAO LA ĩển Đông có nhiều tên gọi. Thòi Bắc thuộc, biển có là Giao Chỉ Dưong*^), Philippines gọi là biển (1) Giao Chỉ: chữ người Hán gọi dân địa phương nơi đây, có nghĩa là "hai ngón giao nhau". Vốn hai ngón chân cái của họ tõe ra, nếu vạch từ hai ngón ấy hai đường thẳng thì chúng sẽ giao nhau. Luzon theo tên hòn đảo lớn của họ. Trong các tài liệu cổ về hàng hải của Bồ Đào Nha thế kỉ 15-16, biển có tên là Biển Chăm Pa, trong khi đó ngưòi Trung Quốc gọi là Nam Hải (tên Đông Hải, tức biển Đông họ dùng cho một vùng biển khác ở phía bắc, còn gọi là biển Hoa Đông). Sau này, khi các nhà hàng hải phưong Tây vẽ bản đồ khu vực Đông Nam Á, họ đều ghi là biển Nam Trung Hoa (tiếng Anh "South China Sea", tiếng Pháp "Mer de Chine Méridionale"). Vì sao lại như vậy? Theo quy đũứi của Uỷ ban Quốc tế về biển, tên của các biển rìa thường dựa vào địa danh của lục địa lớn gần nhất, hoặc mang tên của một nhà khoa học phát hiện ra chúng. Biển Đông nằm ở phía nam đại lục Trung Hoa, do đó có tên gọi là biển Nam Trung Hoa. Địa danh này không có ý nghĩa về chủ quyền như có ngưòi ngộ rửiận, cũng như An Độ Dưong là đại dưong ở phía nam Ân Độ, giáp nhiều nước ở châu A và châu Phi, không phải là của riêng An Độ; biển Nhật Bản, được bao quanh bỏi Nga, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và Nhật, không phải của Nhật Bản. Trong các văn kiện chứứi thức của Nhà nước ta đều gọi là Biển Đông. Thuật ngữ này đã có từ lâu đòi, không chỉ trong sử sách mà trong lòi ăn tiếng nói của dân gian. Nó tượng trưng cho một vùng biển rộng lớn, có quy mô to tát. Chẳng hạn, một việc làm dù cố gắng đến mấy cũng chẳng đi đến đâu, ngưòi ta bảo việc làm đó khác nào "Dã tràng xe cát biển Đông". Để chỉ sự đồng tâm nhất trí tạo thành sức mạnh lớn lao, ngưòi ta ví "Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn", hoặc "Thuận bè, thuận bạn tát cạn biển Đông". Lòi mẹ hiền ru ta từ tấm bé, căn dặn ta phải nhớ công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, thì so sánh: "Công cha như núi ngất trời / Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông / Núi cao biển rộng mênh mông I Cù lao chín chữ, ghi lòng con oi". Giở lại ữang sử, cách đây gần 2.000 năm, ngưòi con gái đất Cửu Chân Triệu Thị Trinh, đã tỏ chí huớng của mình bằng rửiững lòi đầy khí phách: "Tôi chỉ muốn cưỡi con gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lây lại giang son, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lung làm tì thiếp người". Năm 1428, trong áng văn Bình Ngô đại cáo bất hủ, Nguyễn Trãi đã thay lòi vua Lê Thái Tổ lên án tội ác của giặc Minh: "Độc ác thay, trúc trên rừng không ghi hết tội / Nhơ bẩn thay, nước biển Đông không rửa sạch mùi". Biển Đông quả là một địa danh có từ lâu đòi ữong tư duy Việt, ngôn ngữ Việt! Biển Đông nằm ở rìa Tây Thái Bình Dương, là một biển nửa km, được bao bọc bỏi nhiều đảo và quần đảo, thông ra Thái Bình Dương và An Độ Dương, trải rộng từ vĩ độ 3° lên đến vĩ độ 26° Bắc và từ kirửi độ 100° đến 121° Đông. Có 9 quốc gia có bờ biển tiếp giáp vói Biển Đông, trong số đó 8 nước trong khối ASEAN'^' là Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia, Malaysia, Thái (1) ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam A (tiếng Anh: A s s o c ia tio n o íS o u t h e a s t A sia n N a tio n s, viết tắt là ASEAN) là một liên minh chính trị, kinh té, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 với các thành viên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, Brunei, Singapore, Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar. Mục đích là để biểu hiện tinh thán đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực, đóng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn tại các nước thành viên. Lan, Campuchia, Singapore, cùng vói Trung Quốc và một vùng lãnh thổ là Đài Loan. Vói diện tích 3.447.000 km^ rộng gấp 8 lần Hắc Hải và 1,5 lần Địa Trung Hải, độ sâu trung bình 1.140 m, chỗ sâu nhất là 5.016 m, Biển Đông là một trong sáu biển rộng trên thế giói, có địa hình vào loại phức tạp nhất. Noi đây không chỉ là ngã tư, ngã năm mà là ngã mưòl trên bản đồ hàng hải quốc tế vói mưòi tuyến đường biển đi lại, qua "cửa ngõ" là những eo biển như eo biển Đài Loan ở phía bắc, eo biển Basi ở phía đông thông vói Thái Bìiứi Dương, eo biển Malacca, Karimata ở phía tây nam thông vói Ân Độ Dương và nhiều eo khác nữa như eo Lombok, eo Sunda... Vào bất cứ thòi điểm nào ngưòi ta cũng có thể đếm được tói ba trăm con tàu lớn nhỏ, cắm cờ đủ các quốc gia xuôi ngược trên Biển Đông, trong đó 10% là những con tàu cực lớn trọng tải từ 300.000 đến 1.000.000 tấn. Vì thế, nó có vai trò rất quan trọng không chỉ đối vói những nước trong khu vực Đông Nam Á mà còn là con đường nối liền châu Á vói châu Âu, châu Phi, châu úc - một con đường huyết mạch đối vói các nền kinh tế, nói rộng ra, vói sự ổn định và phát triển của cả thế giói. Giống như những con sông lớn chảy trong lòng biển cả, Biển Đông có hai dòng hải lưu, một ở ngay trong Biển Đông, một ở trong Vịnh Thái Lan. Khó có thể ngờ rằng, chính chúng tham gia bồi đắp thêm cho lãnh thổ Việt Nam ngày một rộng, và cũng chữửì chúng mang đến bờ biển nước ta nhiều giống cá quý từ phương bắc và từ phương 76 nam lại, tạo ra những ngư trường giàu có và rộng lớn, đặc biệt ở ngoài khoi Phan Thiết. Vùng thềm lục địa vói độ sâu không quá 200 m chiếm gần nửa diện tích của Biển Đông, trải rộng suốt miền tây nam, tây bắc và bắc, trong đó có hai vịnh lớn là Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan, độ sâu không quá 100 m. Điều đáng chú ý là trên biển Đông có những dải thềm lục địa lan rất xa bờ, vượt quá 300 đến 500 km, thậm chí có chỗ đạt mức kỉ lục thế giói là 1.300 km. Mà các thềm lục địa luôn luôn là những khu vực giàu có nhất của biển, noi hứa hẹn những điều kì diệu chưa phát hiện ra. Biết đâu đó là một mạch khổng lồ của thứ khoáng sản quý hiếm nào đó, một trữ lượng dầu khí tiềm tàng mà thiên nhiên che giấu ở một vị trí bất ngờ nào đó... Hay một loại dược phẩm quý hiếm nằm trong cơ thể một loài sinh vật biển, có khả năng chữa lành một bệnh nan y mà y học đang "bó tay"... Đó là lí do ngưòi ta thường nói tương lai nhân loại là ở biển khoi, hay cụ thể hơn, "thế kỉ 21 là thế kỉ của biển". Nhờ sự điều hòa của Biển Đông, khí hậu nước ta mang nhiều đặc tính của khí hậu đại dương, cỏ cây quanh năm xanh tốt. Khi các ngành công nghiệp biết cách khai thác và tận dụng mọi tiềm năng của biển thì Biển Đông sẽ phát huy tất cả các ưu thế của mình để biến nước ta thàrửi một quốc gia giàu mạnh. Hiện tại thì Biển Đông đang là nguồn nuôi sống khoảng 300 triệu ngưòi dân các nước trong khu vực Đông Nam Á. BIỂN ĐÔNG - NGUỒN TÀI NGUYÊN SINH HỌC KHỔNG Lồ I iển Đông nằm hoàn toàn ở vùng nhiệt đói gió mùa. lặt nước biển tưong đối ấm, rứiiệt độ trong năm dao động không nhiều. Vị trí địa lí và khí hậu ôn hòa là điều kiện thuận lọi để thế giói sinh vật dưói mặt nước phát triển. Rong tảo, cỏ biển cũng như các loại phù du thực vật và động vật sinh sôi nảy nở nhanh chóng, cung cấp nguồn thức ăn phong phú, tạo ra môi trường lí tưởng cho các loài sinh vật biển đảo. Tất cả được gọi chung là tài nguyên sinh học. Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên từ vùng biển phía bắc đến phía nam, chênh lệch nhiệt độ theo vĩ tuyến, mức độ trao đổi môi trường vói các vùng xung quanh, hình thái thềm lục địa... đã tạo nên những nét đặc trimg của từng hệ sinh thái giữa các vùng và làm tăng mức độ đa dạng sirứi học của Biển Đông. Nếu so sánh về diện tích thì Biển Đông chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trên tổng diện tích biển và đại dưong, thế nhưng số loài động thực vật thủy sinh của nó lại chiếm tói 1 /3 tổng số loài dưói mặt nước trên toàn thế giói. Theo số liệu thống kê, vùng biển này có khoảng 11.000 loài sinh vật sinh sống trong hon 20 kiểu hệ sinh thái điển hình thuộc 6 vùng đa dạng sũah học biển khác nhau. Trong đó hai vùng biển Móng Cái - Đồ Son và Hải Vân - Vũng Tàu của nước ta có mức độ đa dạng sinh học cao hon cả. Đặc biệt, tại vùng thềm lục địa của Biển Đông có 9 vùng nước trồi có năng suất sinh học rất cao rứiờ các bãi cá lớn. Trong số trên 6.000 loài động vật lấy Biển Đông làm noi cư ngụ, có 2.458 loài cá (130 loài có giá trị kirứi tế), hon 300 loài san hô cứng, 225 loài tôm biển, 15 loài rắn biển, 12 loài thú biển, 5 loài rùa biển, cùng vói 43 loài thủy cầm hoang dã. Để làm thức ăn cho chúng có 653 loài rong biển, 14 loài cỏ biển, 657 loài phù du động vật, 537 loài phù du thực vật, 94 loài thực vật mọc trên đất ngập mặn. Nguồn tài nguyên sữửi vật biển quan trọng ấy (vói khoảng 8% tổng sản lượng cá đánh bắt trên toàn thế giói) đã giải quyết được một phần về đòi sống cũng như sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực. Các nhà sinh học Việt Nam cho biết, theo thống kê chưa đầy đủ, vùng biển nước ta có trên 2.000 loài cá khác nhau, trong đó khoảng 50 loài có giá trị kinh tế, 75 loài tôm thuộc sáu họ (tôm he, tôm hùm, tôm rồng, tôm gai.