🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Máu Đỏ Hoa Đào Ebooks Nhóm Zalo Trong lòng mỗi người đều có một Thịnh Đường, mà Thịnh Đường lại chỉ có một Lý Khác. T hân là Tam hoàng tử quyền quý, mẹ là công chúa tiền triều, còn cha là một trong những hoàng đế lừng danh thiên cổ - Đường Thái Tông Lý Thế Dân, nhưng từ sau cái chết thảm khốc của mẹ, bóng đêm bắt đầu buông xuống cuộc đời Lý Khác. Giữa Đại Đường thịnh thế, phồn vinh thái bình, người người hoan ca, vẫn luôn có một kẻ sống giữa áo gấm cơm vàng mà lạc lõng trăn trở, mãi đi tìm người đứng sau lập mưu giết mẹ mình. Từ một đơn thuốc lạ lùng, dẫn tới chuyện vương phi thật giả, từng vụ từng vụ án hung hiểm, tưởng như vô tình mà lại là cố ý, từ từ cuốn y vào vòng xoáy tranh đoạt, có thể dẫn y tới một kết cục mà người ta đã định sẵn cho y tự lúc chào đời. Nhưng Lý Khác có những phẩm chất khác người - sự mẫn tuệ, óc suy luận sắc sảo và tình bạn của người anh em Dương Chính Đạo - y sẽ làm tất cả để thay đổi số phận... Mục lục Lời dẫn Chương 1 Hoa đào đỏ máu Chương 2 Mờ mịt sát cơ Chương 3 Vu oan giá họa Chương 4 Sắc chiều bảng lảng Chương 5 Lừa gạt lẫn nhau Chương 6 Không đánh mà thắng Chương 7 Tề vương mưu phản Chương 8 Kế lồng trong kế Chương 9 Từng qua bể lớn Chương 10 Bờ cao khe sâu Chương 11 Đâm lao theo lao Chương 12 Chuyện xưa dĩ vãng Mẹ của y là người đàn bà mà Lý Thế Dân cả đời yêu tha thiết. Vì hai mẹ con y, Lý Thế Dân cuối cùng đã hạ quyết tâm phát động chính biến Huyền Vũ môn chấn động nghìn năm. Y là người được Lý Thế Dân thương yêu nhất, cưng chiều nhất trong số rất nhiều người con trai của ông, Lý Thế Dân từng định truyền ngôi cho y. Thái tử mưu phản, y nhìn thấu từ trước. Đột Quyết xâm phạm, y dẫn binh ngăn chặn. Y không chỉ văn võ song toàn, mà còn tài mạo hơn người. Sau khi giết hết hoàng tộc họ Lý, Võ Tắc Thiên chỉ giữ lại duy nhất dòng máu của y. Trên người y có quá nhiều câu đố, quá nhiều bí mật, quá nhiều giai thoại, đang đợi để được khai quật, được phơi bày trên đời. Y chính là hoàng tử Đại Đường thần bí bị lịch sử lãng quên: Lý Khác. Lời dẫn Những năm cuối Tùy, quần hùng đuổi hươu[*]. Cha con Lý Uyên khởi binh từ Tấn Dương, thế mạnh như chẻ tre, đánh thẳng đến Trường An. Tháng Ba năm Đại Nghiệp thứ mười bốn, tại Giang Đô, phản quân họ Vũ Văn thắt cổ chết Tùy Dạng Để và diệt trừ tận gốc gần như toàn bộ tông thất họ Dương, nhà Tùy diệt vong. Lý Uyên liền tự lập làm vua, đổi quốc hiệu là Đường. Cùng năm đó, Tần vương Lý Thế Dân nạp Hoài Dương công chúa làm trắc phi. Sau đó, Tần vương rơi vào một cuộc nội chiến dai dẳng lê thê. Thái tử Lý Kiến Thành và Tề vương Lý Nguyên Cát từng bước dồn ép, anh em lục đục, cốt nhục tranh giành, chính là vì chiếc ngai rồng lấp lánh ánh vàng ở trên thềm cao đó. Rồi một ngày, Hoài Dương công chúa chết, chết một cách rất đột ngột và kỳ lạ. Tần vương nói, công chúa mắc bạo bệnh mà qua đời, rồi vội vàng tổ chức lễ tang không lớn chẳng nhỏ cho nàng. Nhưng trên cổ của vị công chúa nằm trong quan tài bằng gỗ tường đó có một vết thương sâu, rất ghê rợn, khiến người ta không rét mà run. Nàng chết một cách không rõ ràng. Tần vương là một anh hùng cái thế, sao ông ta lại có thể để cho người đàn bà của mình chết mờ ám như vậy? Người trong cung không dám mở miệng hỏi câu này, chỉ bưng cho cậu bé đang khóc như xé gan xé ruột bên cạnh quan tài một cốc nước. Sau đó, Huyền Vũ môn đẫm máu, một chiêu khóa yết hầu. Tần Vương đăng cơ, đại xá thiên hạ. Mà nay, thiên hạ thái bình. Chương 1 Hoa đào đỏ máu An Châu, tháng Hai năm Trinh Quán thứ mười một nhà Đường. Nắng chiều uể oải chiếu xuống mặt đất, làm tan lớp sương giá mỏng đọng lại từ đêm qua. Lý Khác thu quân cờ đen đang cầm vào trong lòng bàn tay, mãi không bỏ xuống, cuối cùng dứt khoát đặt nó trở lại bàn cờ, ngẩng đầu hỏi: “Hôm đó rốt cuộc bệ hạ đã nói gì với huynh?” Dương Chính Đạo xua tay, tiểu nha hoàn bên cạnh lập tức hiểu ý, cất bàn cờ đi. Hồi lâu, gã mới nói: “Bệ hạ muốn ta ở lại Trường An, tiếp tục xử lý vấn đề thu xếp cho người Đột Quyết.” “Nhưng huynh lại từ chối?” Lý Khác phủi tơ liễu rơi trên vạt áo, cười nhẹ: “Xưa nay chưa có ai dám trái ý bệ hạ. Những năm qua, ông ấy luôn lạnh nhạt với ta, nhưng lại đối xử với huynh rất tốt.” Dương Chính Đạo nghe câu nói mang ý ghen tị kiểu trẻ con của y, cũng bật cười theo: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Vị trí của điện hạ trong lòng bệ hạ đương nhiên là đặc biệt. Nhưng bệ hạ muốn đối tốt với ngài thì cũng phải đợi ngài cho cơ hội chứ! Nói cho cùng, vẫn do lòng ngài chưa buông bỏ nổi những chuyện cũ năm xưa thôi.” Lý Khác không đồng tình nói: “Vậy trong lòng huynh, ta là người như thế nào?” Dương Chính Đạo đứng dậy, cúi người vái nói: “Điện hạ không nên hỏi Chính Đạo câu này. Kẻ dưới bàn luận bề trên, đó là bất kính, chắc điện hạ hiểu rõ. Lý Khác lắc đầu cười gượng: “Lúc hai ta mới quen, ta đã nói ngay với huynh nỗi đau chôn giấu ở nơi sâu nhất trong lòng. Biểu huynh, bảy năm qua, ta và huynh cùng ôn văn luyện võ, bầu bạn sớm hôm, khác chi hình với bóng. Từ lâu ta đã coi huynh là tri kỷ, vốn tưởng rằng cũng có thể trở thành tâm giao của huynh, ai ngờ, ta lại không xứng” “Điện hạ nói như vậy là cố ý muốn làm ta không biết giấu mặt vào đâu sao? Ngài thừa biết không phải như thế mà.” “Thật sao?” Lý Khác hờ hững nói: “Huynh thật sự nghĩ như vậy sao?” Kể từ lần đầu tiên gặp Dương Chính Đạo bảy năm về trước, Lý Khác đã luôn gọi gã là biểu huynh, nhưng từ đầu đến cuối Dương Chính Đạo lại luôn giữ một khoảng cách vừa đủ với y. Thoạt đầu có lẽ là gã giữ lại vài phần thăm dò và phòng bị. Về sau thì chỉ là thói quen. Giống như lúc này, gã vẫn chỉ quen nếp mà cung kính nói: “Chính Đạo không dám lừa dối điện hạ.” “Được! Nếu huynh đã muốn xa cách với ta như thế, ta cũng tuyệt đối không ép buộc huynh!” Lý Khác cảm thấy một cơn giận không tên bốc lên, đứng dậy nói luôn: “Từ nay, ta sẽ lấy thân phận thân vương tôn quý để giao thiệp với huynh, tốt nhất huynh cũng nên cư xử với ta theo lễ của kẻ bề tôi!” “Khác đệ...” Dương Chính Đạo thấy y nổi giận thật sự, liền vội vàng đuổi theo hai bước, nói: “Cái tính này của đệ mãi chẳng chịu thay đổi gì cả.” Đang nói chuyện, họ nhìn thấy hộ vệ Quý Ân lúc cúc chạy tới nói: “Điện hạ, công tử, đã chuẩn bị xong xe ngựa rồi ạ.” Lý Khác ừ một tiếng, bước nhanh về phía trước, bỏ mặc Dương Chính Đạo và Quý Ân ở xa xa đằng sau. Quý Ân nhìn Dương Chính Đạo, như muốn hỏi: Điện hạ lại bị ai chọc giận vậy? Dương Chính Đạo chỉ trả cho hắn một ánh mắt bất lực, ý muốn nói: Dù sao cũng không phải ta. Nơi Lý Khác và Dương Chính Đạo muốn đến là Từ Tế đường, y quán nổi tiếng trong thành An Châu. Nghe nói, lão chưởng quỹ Hạ Lăng vốn là một thái y cấp thấp trong cung nhà Tùy, đầu thời Trinh Quán dắt người nhà đến An Châu mở tòa Từ Tế đường này. Ba năm trước, Hạ Lăng mắc bạo bệnh qua đời. Chưởng quỹ ngày nay là Hạ Thiệu Nghiêm, con trai duy nhất của Hạ Lăng. Lúc mới đến An Châu, Lý Khác từng bị cảm lạnh, người đến phủ đô đốc khám bệnh cho y chính là vị Hạ đại phu này. Dần dà, đôi bên cũng quen thuộc. Nhưng trên thực tế, với tư cách là quan đứng đầu An Châu, Lý Khác không tiện qua lại quá nhiều với những nhân vật địa phương nổi tiếng này. Lần này đến Hạ phủ, chẳng qua vì Hạ Thiệu Nghiêm mấy lần gửi thiệp mời, thịnh tình khó chối, nên y mới miễn cưỡng nhận lời. Mới đến đường Hà Thanh, đã thấy Hạ Thiệu Nghiêm đứng ở cửa phủ nghênh đón. Thấy Lý Khác và Dương Chính Đạo chỉ ngồi xe ngựa bốn bánh phổ thông, lại đều ăn vận như những kẻ sĩ bình thường, Hạ Thiệu Nghiêm biết ý, chỉ chắp tay vái một cái: “Mời hai vị vào trong phủ nói chuyện.” Vừa vào phủ là thấy một hòn non bộ ở ngoài nhà chính, hai lối đi phía sau hòn non bộ ngoằn ngoèo, hun hút, cuối đường lại chia làm ba lối nhỏ lát đá. Toàn bộ Hạ phủ quanh co phức tạp, hẳn người thiết kế đã phải hao tổn biết bao tâm trí. Sau khi dẫn hai người đến thư phòng ở nhà trong, Hạ Thiệu Nghiêm mới quỳ gối khấu đầu lạy rằng: “Thiệu Nghiêm bái kiến đô đốc, bái kiến tư mã.” Lý Khác đỡ hờ hắn một cái, mỉm cười nói: “Mời Hạ đại phu đứng dậy. Đâu có lý nào chủ lại hành lễ với khách thế này.” Hạ Thiệu Nghiêm đứng dậy, lại thi lễ lần nữa, rồi mới lấy ra một cái tráp từ trên giá sách ở đằng sau, lúc mở chỉ thấy bên trong đặt một cây linh chi khổng lồ. Điều đặc biệt là, trên cây linh chi đó có vân rồng hằn sâu. Hạ Thiệu Nghiêm nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói: “Một tháng trước, Thiệu Nghiêm đi hái thuốc trong núi Bạch Triệu ở ngoại ô An Châu, ngẫu nhiên kiếm được vật này. Điềm lành như vậy, Thiệu Nghiêm không dám tự ý dùng, xin đô đốc thay Thiệu Nghiêm dâng lên bệ hạ.” Lý Khác nghe vậy, không kìm được đưa tay xoa vân rồng ở bên trên, nói: “Đường vân này quả thật do thiên nhiên tạo thành sao? Thật là quý hiếm! Nay thiên hạ thái bình, bệ hạ thấy nó, có lẽ cũng sẽ vui mừng.” Dương Chính Đạo bưng tách trà ở cạnh tay lên, nhấp một ngụm. Hồi nhỏ ở Đột Quyết, gã đã tận mắt nhìn thấy có người khắc bốn chữ “nghiệp bá mãi hưng” lên một tảng đá lớn, sau đó coi nó như vật thánh, tiến dâng cho Hiệt Lợi khả hãn, vì vậy gã không tin trên đời này thực sự có điềm lành gì cả. Tuy Lý Khác chỉ nhỏ hơn gã một tuổi, lại trải qua chuyện thảm thương như thế, nhưng bản tính vốn đơn thuần, có một số việc chưa chắc y nhìn thấu được. Có điều, gã cũng không muốn vạch trần ngay lập tức, bởi vì nhất thời gã cũng chưa hiểu tâm tư của tay Hạ Thiệu Nghiêm này cho lắm. Giả như hắn thật sự muốn mượn tay Lý Khác để kiếm chút danh lợi từ triều đình, hoàn toàn có thể quang minh chính đại đến phủ đô đốc dâng vật báu, cần gì phải làm trò thần bí như này, đang không lại khiến người ta tăng thêm mấy phần nghi ngờ. Dương Chính Đạo động não cực nhanh, tay phải nhất thời không cầm chắc tách trà, bất cẩn làm nước trà bên trong vấy lên vạt áo. Thấy vậy, Hạ Thiệu Nghiêm vội vàng lấy một chiếc khăn gấm từ trong túi ra, đưa cho gã nói: “Tư mã mau lau đi, nước trà này nóng lắm!” Lý Khác bất giác đưa mắt về bên này, đột nhiên y tiến lên hai bước, quan sát tỉ mỉ chiếc khăn gấm đó, nhất thời mặt trắng bệch như tờ giấy, ánh mắt đầy vẻ kinh ngạc và sợ hãi. Thấy y như vậy, Dương Chính Đạo vừa đỡ y ngồi lại chỗ cũ, vừa hỏi: “Chiếc khăn này của Hạ đại phu có nguồn gốc ra sao?” Dường như Hạ Thiệu Nghiêm không ngờ rằng bọn họ lại đồng thời quan tâm tới chiếc khăn nhỏ bé này, sững lại giây lát rồi mới nói: “Thật không dám giấu, cái... cái này là của cha để lại cho Thiệu Nghiêm. Không biết có gì không ổn?” Nghe Dương Chính Đạo hỏi thay câu mình muốn hỏi, Lý Khác gắng sức ổn định lại tâm trạng, lắc đầu nói: “Không có gì. Nhưng ta thấy ba đóa hoa đào kia quả thực đặc biệt.” Hạ Thiệu Nghiêm thở phào: “Hóa ra là vậy! Rất nhiều người trông thấy nó đều nói thế.” Có cơn gió nhẹ lùa vào từ cánh cửa sổ khép hờ, thổi bay một tờ giấy vốn được đặt trên bàn xuống đất. Dương Chính Đạo nhanh tay lẹ mắt nhặt lên, thoáng thấy trên đó viết tên một số loại thuốc: thục địa ba tiền[*], nhân sâm hai tiền, phòng kỷ bốn tiền, bạch tiền một tiền, đương quy năm tiền, lê lộ năm tiền. Nhìn thấy hai vị thuốc cuối cùng, mặt gã thoáng biến sắc. Ngay lập tức, gã nhét đơn thuốc này xuống dưới thanh chặn giấy ở trên bàn như không có gì xảy ra. Khi hai người về đến phủ đô đốc thì đã là giờ Dậu. Gió chiều êm dịu thổi qua, từ từ hất chiếc áo choàng mà Lý Khác đang mặc lên. Dọc đường, tim y đập loạn xạ khôn kìm, đến khi vào thư phòng, ngồi quỳ trên đệm êm, mới dịu đi đôi chút. Quý Ân phát hiện ra nét khác thường trên mặt y, đang định lên tiếng thì thấy Dương Chính Đạo lắc đầu với mình, nói: “Mời Khang pháp tào[*] qua đây, điện hạ có chuyện muốn hỏi.” Lông mày Lý Khác khẽ động, ánh mắt mang theo vài phần an ủi, y chậm rãi nói: “Biểu huynh, những năm qua, đệ toan tính tìm hiểu chân tướng năm xưa, nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu. Thậm chí có lúc đệ còn muốn bỏ cuộc, mãi đến hôm nay, đệ mới lại nhìn thấy họa tiết hoa đào đó.” Khi nói đến hai tiếng “năm xưa”, y siết tay thành nắm đấm, móng bấu vào lòng bàn tay, đau nhói như kim châm. Tên thích khách mặt trùm khăn đen đó dùng kiếm ghì cổ mẹ, nói với cha bằng giọng điệu chế giễu nhưng chắc nịch: Nếu muốn bảo toàn tính mạng của ả, thì dùng mạng mình để đổi. Mẹ không nỡ làm cha khó xử, liền ra sức nắm lấy mũi kiếm sắc nhọn đó rồi tự vẫn. Lý Khác mãi mãi không quên ánh mắt hung ác của tên thích khách đó, và cả hình xăm hoa đào trên cánh tay hắn: Ba đóa hoa đào xếp hàng ngang, màu đỏ đậm, giống như máu dính lên người lúc mẹ nắm lấy tay y. Mẹ thì thầm bên tai y: “Khác nhị, chăm sóc cha con cho tốt.” Y những tưởng cha sẽ đau lòng giống y. Thế mà, ngay cả lúc khâm liệm mẹ, đứa em trai ruột mới hai tuổi tên là Lý Âm nắm lấy chéo áo y, hỏi y bằng giọng trẻ con bập bẹ: “Sao mẹ lại nằm đó không động đậy gì”, y cũng chưa hề nhìn thấy dù chỉ là một chút buồn thương trong mắt cha. Tim y đau thắt, chẳng kém gì nỗi đau mất mẹ. Dương Chính Đạo thở dài, đưa chiếc chén rót đầy trà xanh đến trước mặt Lý Khác: “Ta hiểu. Vì vậy ta sẽ giúp đệ.” Chẳng mấy chốc Quý Ân đã dẫn pháp tào Khang Kiện đến. Tay Khang Kiện này ngoài hai mươi tuổi, dáng người thấp bé, nước da trắng trẻo, mở miệng ra là nói giọng An Châu đặc sệt, Lý Khác nghe cả tháng mới quen dần với cách nói của hắn. “Điện hạ muốn nói đến Hạ Thiệu Nghiêm?” Khang Kiện ngồi co gối đối diện với Lý Khác, biểu cảm trên mặt vô cùng phong phú, thiếu điều muốn khoa chân múa tay nhảy dựng lên: “Người này hạ quan biết rõ. Ngài đừng thấy hắn gia cảnh giàu có, dung mạo đường đường mà lầm, hai mươi tám tuổi đầu rồi mà vẫn chưa lấy vợ đấy! Có người nói, hắn từng có một người vợ còn chưa qua cửa, nhưng cô gái đó không có phúc, mới mười lăm, mười sáu tuổi đã ngọc nát hương tan. Cũng có người bảo, hắn mắc bệnh khó nói, không muốn làm lỡ dở con gái nhà người ta. Nhưng mà, hạ quan trộm cho rằng còn có nguyên nhân khác...” Khang Kiện nói cực nhanh, mồm miệng lại không được trơn tru cho lắm, sau một tràng dài, Lý Khác cùng lắm cũng chỉ nghe rõ sáu, bảy phần, đành bảo: “Ngươi nói chậm thôi, không vội.” Khang Kiện gãi đầu, hạ giọng: “Dạo trước, hạ quan nhìn thấy có một tiểu lang quân trông rất tuấn tú nhiều lần ra vào Từ Tế đường. Vì vậy, hạ quan ngờ rằng... Điện hạ hiểu chứ?” Lý Khác vừa mới uống một ngụm trà xanh, còn chưa kịp nuốt hết xuống, đột nhiên nghe thấy hắn hỏi vậy, liền ho sặc sụa mãi không thôi. Dương Chính Đạo thật hết cách với tay đồng liêu tự xưng là “ma xó”, mà trí tưởng tượng lại đi xa hơn cả chân trời này, không nhịn nổi phải mở miệng nói: “Điện hạ muốn hỏi là, thường ngày Hạ Thiệu Nghiêm qua lại với những người nào? Còn nữa, Hạ Lăng cha hắn chết như thế nào?” Khang Kiện nhìn Dương Chính Đạo, lại trông sang Lý Khác khó khăn lắm mới lấy lại hơi, thở phào một cái nói: “Sao điện hạ không nói sớm? Điều này hạ quan cũng rõ. Hạ Thiệu Nghiêm là kẻ si mê nghề y, thường ngày ngoại trừ trau dồi y thuật với mấy vị đại phu già lão luyện trong thành An Châu, cũng không thấy hắn qua lại thân mật với những người khác, nên hạ quan mới càng tò mò về tay tiểu lang quân mặt trắng đó! Về phần Hạ Lăng, nghe nói là mắc bạo bệnh rồi đột ngột qua đời. Bây giờ chủ nhân của Hạ phủ, ngoài Hạ Thiệu Nghiêm thì chỉ còn chú hắn là Hạ Kỷ. Hạ Kỷ là tay ham mê tửu sắc nổi tiếng gần xa, không thân thiết với Hạ Lăng và Hạ Thiệu Nghiêm cho lắm.” Lý Khác hơi thất vọng khẽ cau mày lại, vì thực sự y không thể tìm ra điểm đặc biệt nào của nhà họ Hạ qua lời Khang Kiện kể. Lẽ nào họa tiết hoa đào trông giống hệt hình xăm trên cánh tay tên thích khách năm xưa chỉ là trùng hợp thôi sao? Chân tướng y rất muốn tìm hiểu đó chẳng lẽ mãi mãi không làm rõ được sao? Y bèn đứng dậy, thắp một cây nến chỉ còn phân nửa trên bàn. Dưới ánh nến sáng rực, khuôn mặt y lại hơi tái. Vốn dĩ y vô cùng khôi ngô thanh tú, lại văn võ song toàn, giống hoàng đế hồi trẻ đến tám phần. Chỉ là tâm tư của y quá nặng, lại không muốn giao du với triều thần cho lắm, thêm nữa thái độ của hoàng đế đối với y cũng luôn nóng lạnh thất thường, có thể đích thân dạy y cưỡi ngựa bắn tên, nhưng cũng có thể lệnh cho y làm đô đốc ở An Châu xa xôi chỉ bằng một tờ chiếu thư. Vì vậy, thân phận Ngô vương này của y trong lòng các triều thần hình như không quá quan trọng, song cũng không thể bị coi thường. “Xin mượn bút mực của điện hạ một chút” Dương Chính Đạo đã đứng trước mặt Lý Khác tự bao giờ, lấy một chiếc bút từ trong ống tre ra, chấm mực rồi viết lên tờ giấy trên bàn mấy chữ: Thục địa, nhân sâm, phòng kỷ, bạch tiền, đương quy, lê lô. Lý Khác nhìn những chữ tiểu khải nhỏ xíu mà đẹp đẽ dưới bàn tay Dương Chính Đạo, hồ nghi nói: “Đây là cái gì?” Dương Chính Đạo nghiêm mặt: “Đây là một đơn thuốc rất kỳ lạ mà ta phát hiện ra trên án thư của Hạ Thiệu Nghiêm. Tuy ta không hiểu nhiều về công hiệu của dược liệu, nhưng cũng biết các phương thuốc đều chú trọng việc hỗ trợ lẫn nhau, mục đích nhắm tới cũng phải tương đồng và nhất quán. Nhưng đệ xem, thục địa là vị thuốc tốt để bổ máu; mà phòng kỷ tính hàn, chủ trị nóng sốt; còn đương quy thì lại là vị thuốc mang tính nhiệt; song điều đáng sợ hơn là, hai vị thuốc nhân sâm và lê lô vốn dĩ tương khắc, nếu không cẩn thận uống vào, rằng sẽ nguy đến tính mạng.” “Hạ Thiệu Nghiêm thân là danh y, đáng lẽ sẽ không phạm phải sai lầm sơ đẳng như vậy. Đơn thuốc này thật khiến người ta phải suy ngẫm.” Lý Khác vuốt đi vuốt lại đơn thuốc, cuối cùng trong lòng cũng nhen lên đôi chút hy vọng. Thế là y quay đầu nói với Khang Kiện: “Trưa mai, mời Hạ Thiệu Nghiêm đến phủ một chuyến, bản vương có chuyện quan trọng muốn hỏi hắn.” Phòng ngủ của Lý Khác nằm ở hướng chính Đông của phủ đô đốc An Châu. Hai cây hòe già ở bên ngoài rất tươi tốt. Ánh trăng hắt xuống qua kẽ lá, để lại vài cái bóng loang lổ trên mặt đất. Ngọn nến sắp cháy tàn tỏa ra ánh sáng lờ mờ, Lý Khác bỏ bút xuống, dụi đôi mắt hơi sưng mỏi. Ba viên ngọc mỡ dê y đeo trên cổ tay hơn mười năm qua ngày càng trơn mịn và trong suốt. Y ngẩng đầu, thấy có một đôi tay đang thay ngọn nến tàn cho y, căn phòng bỗng chốc sáng sủa hơn rất nhiều. “Vương phi đi nghỉ trước đi! Đã muộn rồi.” Lý Khác nhìn khuôn mặt có phần mệt mỏi của người con gái trước mặt, dịu dàng nói. Thư Yểu cầm lấy chiếc áo choàng trong tay tiểu nha hoàn Tử Đằng, khoác lên mình Lý Khác, nói nhỏ: “Thần thiếp muốn ở bên điện hạ.” Không lâu sau khi Lý Khác chào đời, hoàng đế đã làm chủ, chọn cháu gái của Trực Các tướng quân Hàn quốc công Dương Sĩ Quý nhà Tùy là Thư Yểu làm vợ y. Song phải đến khi động phòng, Lý Khác mới lần đầu nhìn thấy nàng vương phi lớn hơn y hai tuổi, đã đính ước từ nhỏ này. Kể từ khi thành hôn đến nay, không thể bảo là Lý Khác thích nàng, đương nhiên cũng không thể bảo là y ghét. Y gọi nàng là vương phi, nàng xưng hô với y là điện hạ như bình thường, hai người kính trọng nhau như khách, song luôn mang theo vài phần xa cách khách sáo quá mức. Nhưng thế này không phải rất tốt sao? Mẹ toàn tâm toàn ý yêu cha bằng cả sinh mệnh, cuối cùng thu được kết cục thế nào đây? Một chữ “yêu” này, nghe xong rồi thôi, đừng bao giờ cho là thật. Thư Yểu thấy Lý Khác ngẩn ngơ với tờ giấy trước mặt, cũng không cầm lòng được liếc nhìn, vừa nhìn vừa lẩm nhẩm: “Đất quen thuộc (thục). thục địa...” Tuy Thư Yểu xuất thân tôn quý, giơ tay nhấc chân đều mang phong thái của tiểu thư khuê các, nhưng lại không biết chữ. Lý Khác từng dạy nàng nhận biết một số chữ, song thấy nàng không hào hứng cho lắm, y cũng nhanh chóng bỏ cuộc. Giờ nghe giọng như trẻ con bập bẹ học nói của nàng, y không khỏi cảm thấy hơi buồn cười. Nhưng trong thoáng chốc, một tia sáng lóe lên trong đầu, y bỗng dưng thấy hơi vui lên. Thế là y đứng dậy, xoay cần cổ ê ẩm, rồi lại nói với Thư Yểu: “Trong bếp còn gì ăn không? Bụng ta giờ đói meo rồi.” “Điện hạ muốn ăn thì dĩ nhiên là có.” Thư Yểu mỉm cười. Dung mạo nàng tuy không xuất chúng, nhưng khi cười cũng duyên dáng hẳn lên,“Hôm nay Tử Đằng vừa mới đi mua một ít bánh mô mô thịt tươi ở Vinh Khánh trai nổi tiếng nhất An Châu, làm nóng lên là ăn được ngay.” “Mô mô? Đó là cái gì?” Lý Khác thắc mắc. Thư Yểu nhất thời không biết giải thích thế nào. Tử Đằng ở bên cạnh lanh miệng nói: “Bẩm điện hạ, mô mô là cách gọi ở An Châu, chính là màn thầu ạ.” Lý Khác nhìn sang Thư Yểu, thấy trên mặt nàng thoáng hiện lên một biểu cảm kỳ lạ. Y muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng vẫn gật đầu sai Tử Đằng: “Vậy mau mang mấy cái lên đây đi! Vương phi cũng ăn cùng ta một chút.” Giờ Tị hôm sau, Hạ Thiệu Nghiêm đến đợi trong Minh Đức đường của phủ đô đốc từ sớm. Lý Khác thấy hôm nay Hạ Thiệu Nghiêm chỉ mặc một chiếc áo rộng màu tro xám mộc mạc, có hoa văn chìm hình chim công, liền tò mò nói: “Trước đây Hạ đại phu luôn thích mặc quần áo hai màu xanh đỏ, hiếm khi thấy mặc màu này.” Hạ Thiệu Nghiêm nhích cái đệm mềm dưới đầu gối đang quỳ về phía trước một chút, nói: “Đô đốc không biết, hôm nay chính là ngày giỗ ba năm của cha tôi.” “Thật sao?” Lý Khác lại quan sát Hạ Thiệu Nghiêm từ trên xuống dưới một lượt, thấy vẻ mặt hắn không có gì khác thường, liền nói,“Thật trùng hợp, lần này mời Hạ đại phu qua phủ cũng chính vì chuyện của lệnh tôn.” Đôi mày kiếm của Hạ Thiệu Nghiêm khẽ động: “Không biết đô đốc muốn ám chỉ điều gì?” Lý Khác đi thẳng vào vấn đề: “Nguyên nhân thật sự về cái chết của lệnh tôn.” Hạ Thiệu Nghiêm như bị người ta nhìn thấu tâm sự sâu kín, trái tim khẽ run lên không kìm chế được, nhưng ngoài mặt lại không hề biến sắc, mà tỏ vẻ kinh ngạc vô cùng hợp lý: “Ba năm trước cha tôi mất vì bệnh phổi, rất nhiều người ở An Châu đều biết, đô đốc cảm thấy có gì không ổn sao?” Đang nói chuyện, chợt có mấy tiếng gõ cửa cốc cốc vang lên. Lý Khác đáp lại một tiếng, liền thấy Tử Đằng bưng một chiếc khay bước vào. Tử Đằng tết tóc hai búi gọn gàng, mặc áo váy màu tím thẫm có cổ hình trái đào, trông dáng người càng nhỏ nhắn xinh xắn. Cô đi đến trước chiếc bàn thấp, cúi mình đặt ấm và chén trà trong khay xuống. Lý Khác nhấp một ngụm, nghiêng đầu hỏi: “Sao lại là nước trắng?” “Vương phi nói gần đây tì vị của điện hạ không khỏe, không nên uống trà, vì vậy mới kêu nô tì chuẩn bị ấm nước trắng này.” Tử Đằng vừa nói vừa rót đầy nước vào chén của Hạ Thiệu Nghiêm. Hạ Thiệu Nghiêm gật đầu cảm ơn. Lý Khác nhìn Hạ Thiệu Nghiêm, lại quay sang Tử Đằng nói: “Ngươi lui xuống trước đi.” Thấy Tử Đằng đã đi xa, Lý Khác mới lấy đơn thuốc nọ từ trong ống tay áo ra: “Ta nhìn thấy đơn thuốc này ở trên thư án của ngươi. Giấy đã ố vàng nhăn nhúm, xem ra người thường xuyên xoa vuốt và đọc nó trên tay. Là một đại phu, ngươi không thể kê ra một đơn thuốc có thể sẽ hại đến mạng người như thế. Rõ ràng nó là của người khác để lại cho ngươi. Nếu là người bình thường thì ngươi không thể nào để tâm như vậy. Dương tư mã nghiên cứu khá sâu về mực cổ, thấy y bảo rằng, dấu mực trên đơn thuốc đó ít nhất đã được ba năm, mà cha ngươi đã qua đời chính vào ba năm trước...” Còn chưa đợi Lý Khác nói xong, Hạ Thiệu Nghiêm đã vội vàng đứng dậy, rồi lại quỳ gối hành đại lễ với y. Trước kia tuy hắn cũng tràn đầy niềm kính trọng với vị đô đốc An Châu mười chín tuổi này, nhưng đó chỉ là sự sợ hãi đối với trưởng quan, với hoàng quyền mà thôi. Song giờ đây, hắn đã thực sự khâm phục sâu sắc con người này. Giọng hắn trầm thấp, như đang tìm lại những ký ức đã bị thời gian chôn vùi: “Đô đốc nói không sai, đơn thuốc này đúng là cha tôi viết. Cha tôi xưa nay vô cùng khỏe mạnh, nhưng sáng sớm hôm ấy, khi Thiệu Nghiêm đến thư phòng của cha để thỉnh an thì người đã nằm đó bất động không còn thở nữa, thứ cầm trong tay chính là chiếc khăn hoa đào mà đô đốc đã thấy hôm qua. Thiệu Nghiêm đã kiểm tra kỹ thi thể cha, nhưng chẳng phát hiện ra điều gì khác thường. Nếu có, thì chỉ gói gọn trong bốn chữ: Không bệnh mà chết. Dù Thiệu Nghiêm hết sức đau buồn, nhưng cũng chỉ có thể bắt tay lo hậu sự cho cha. Song khi chôn cất xong, ngay hôm sau tôi lại tìm thấy đơn thuốc cha tôi viết này ở trong quyển sách y mà mình thường đọc.” Lý Khác gật đầu, sờ ba viên ngọc mỡ dê trên tay theo thói quen, ánh mắt thâm trầm: “Hạ đại phu, biết tại sao ngươi tốn tận ba năm mà vẫn không nhìn ra đơn thuốc này có gì đặc biệt không? Đó là vì ngươi quá giỏi y thuật, cũng đã nghiên cứu quá sâu công hiệu và đặc tính của từng vị thuốc, nhưng lại bỏ qua ý nghĩa dễ hiểu nhất trong tên gọi của những dược liệu này.” Hạ Thiệu Nghiêm hơi cụp mắt xuống, lắc đầu với vẻ nghi hoặc. Lý Khác chỉ tay vào đơn thuốc nói: “Thục địa nghĩa là đất quen thuộc (thục). Nhân sâm, sâm là sao Sâm, chỉ người chí thân[*]. Phòng kỷ nghĩa là phòng bị bản thân. Bạch tiền nghĩa là trước khi sáng bạch. Đương quy chữ quy có nghĩa quay về, nghĩa là chết. Còn lê lô, thư phòng của cha người tên là Li Lu[*] nhỉ. Có lẽ ông ấy muốn ám thị với ngươi, tính mạng của ông ấy đang bị uy hiếp. Sau đó, quả nhiên ông ấy đã chết một cách không rõ ràng trước rạng sáng ở thư phòng Li Lư mà ông ấy hay ở lại. “Chuyện này thật không thể tưởng tượng nổi!” Giọng Hạ Thiệu Nghiêm cao hẳn lên, có lẽ ý thức được đó là hành vi thất lễ, hắn vội vàng uống hớp nước để giấu lúng túng: “Bình thường cha tôi đối đãi với mọi người rất tốt, đâu có kẻ thù gì? Huống hồ nếu thực sự gặp nguy hiểm, thì người hoàn toàn có thể nói với tôi, cần gì phải làm chuyện thần bí như vậy chứ?” Dường như Lý Khác chẳng để tâm đến sự thất lễ của Hạ Thiệu Nghiêm, mặt y toát ra vẻ trầm ổn không tương xứng với tuổi. Y đứng dậy, đưa ánh mắt về phía vạt nắng rực rỡ nơi chân trời xa xôi, lấy tay chỉnh lại vạt áo đã hơi nhăn nhúm: “Cái này... thì cần Hạ đại phu tự mình về nhà suy nghĩ kỹ hơn. Bản vương chỉ có thể nói cho ngươi những hoài nghi trong lòng mình thôi. Không có chứng cứ, cũng không tiện nhúng tay.” Hạ Thiệu Nghiêm nhìn bóng lưng cao lớn thẳng tắp của Lý Khác, do dự giây lát, cuối cùng vẫn lên tiếng: “Thiệu Nghiêm biết lời này là mạo phạm, nhưng vẫn muốn hỏi, tại sao đô đốc phải hao tốn tinh lực quan tâm tới việc nhà của Thiệu Nghiêm như vậy?” “Đến lúc ngươi làm rõ việc nhà, thì có lẽ đó không chỉ là việc nhà của ngươi nữa rồi.” Lý Khác ngửi mùi thơm thoang thoảng phát ra từ song cửa sổ được chạm trổ từ gỗ trầm hương thượng hạng, thản nhiên hờ hững buông ra một câu khiến người ta phải trăn trở suy nghĩ. Lúc Hạ Thiệu Nghiêm rời đi thì đã là giữa trưa. Quý Ân mang bữa trưa đã được hâm nóng ba lần đến, nhưng thấy Lý Khác vẫn cầm bút viết nhoay nhoáy trước bàn, hắn không kìm được phải lên tiếng: “Điện hạ dùng cơm trước đi ạ. Hạ đại phu nói rồi, tì vị của ngài không tốt phần nhiều là do không ăn uống hẳn hoi.” Quý Ân bằng tuổi Lý Khác, nhưng lời nói ra lại giống hệt giọng điệu của bậc trưởng bối. Lý Khác nhúng chiếc bút trên tay vào trong bình lưu ly đựng đầy nước trắng rồi rửa sạch, sau đó đặt lên cái gác bút. Thấy vẻ mặt nghiêm túc của Quý Ân, Lý Khác không nhịn được cười: “Gần đây ngươi nói nhiều thật đấy!” Quý Ân nghe y nói vậy, liền lanh trí đặt bát đũa trước mặt y, rồi gắp mấy món y thích ăn là chân ngỗng, lưỡi vịt, nấm hương, thăn bò, vừa gắp vừa nói: “Hôm nay đầu bếp già Hà Nhị xin nghỉ, người đứng bếp là đồ đệ Vương Phú của ông ta, chẳng hay điện hạ có thấy ngon miệng không ạ?” Lý Khác nếm thử hai miếng, gật đầu nói: “Cũng tàm tạm.” Quý Ân không nói nữa, chỉ im lặng đứng hầu ở một bên. Hắn và anh trai Quý Thành đều đi theo Lý Khác từ nhỏ. Theo hắn thấy, vị thân vương đô đốc Lý Khác này thật quá dễ hầu hạ. Có điều, ý nghĩa của cái dễ này, thay vì nói Lý Khác tốt tính, chẳng bằng bảo là dường như y chẳng để tâm đến mọi việc thì đúng hơn. Ví dụ như hồi ở Trường An, ngay cả một quan kinh[*]lục phẩm cũng rất chú ý đến chi phí ăn mặc, nhưng Lý Khác thì lại chưa bao giờ dặn dò họ một câu nửa lời về những việc này. Hắn muốn biết, thứ có thể khuấy động tâm can Lý Khác trên đời này rốt cuộc sẽ là gì? Nhưng hắn không dám dò xét thực sự, thậm chí không cả dám nghĩ kỹ. “Được rồi, dọn xuống đi.” Quý Ân đang nghĩ ngợi vẩn vơ thì bị một câu nói này của Lý Khác kéo về, hắn định trả lời thì lại nghe Lý Khác nói: “Dương công tử vẫn chưa về sao?” Quý Ân vừa đặt bát đĩa vào trong mâm vừa nói: “Từ sáng đến giờ ti chức không thấy Dương công tử, có lẽ đã ra ngoài làm việc gì đó rồi.” Lý Khác gật đầu, không nói nữa. Lúc Quý Ân bưng mâm ra ngoài, Lý Khác nhìn về phía mặt trời đã chếch bóng, sắc trời cũng hơi âm u, không khỏi nhỏ giọng làu bàu: “Cái thời tiết quái quỷ ở An Châu này, sao vừa bảo đổi đã đổi ngay rồi!” Sắc trời xám xịt khiến người ta chán ngán này kéo dài suốt cả buổi chiều. Tuy đã đến An Châu được vài tháng, nhưng Lý Khác vẫn chưa quen lắm với khí hậu kỳ quái thay đổi thất thường này. Có đôi lúc, y cũng nhớ đến ánh nắng dịu dàng ấm áp trong thành Trường An, giống như nụ cười tươi tắn của mẹ khi vuốt má y hồi nhỏ. Lý Khác cầm thanh bảo kiếm Thanh Hồng có chạm hoa văn kỳ lân ở trên giá kiếm lên. Năm đó, y tận mắt thấy mẹ dùng một mũi kiếm sắc nhọn như thế này tự cắt cổ mình không chút do dự. Vò nát hoa đào, cánh rơi đầy đất. Y đã mất đi sự dịu dàng sâu kín nhất trong trái tim mình, cũng mất đi quãng thời gian tươi đẹp vô tư của tuổi thiếu niên như vậy đấy. Lý Khác rút bảo kiếm. Y nhìn mắt mình trên thanh kiếm, đôi mắt đó giống hệt cha y, song cũng chỉ là giống mà thôi. Tay phải y nắm chặt chuôi kiếm, vận hết sức đâm ra, tiếp đó lại múa một trận như mưa dông gió giật, như rồng thần lui tới, làm mây rắc mưa. Từng chút sức mạnh của y đều tập trung trên kiếm, thanh kiếm đó tựa như một bộ phận của cơ thể y, liên kết chặt chẽ với từng tấc da tấc thịt. Chợt cảm thấy có một bóng người vụt qua bên cạnh, Lý Khác cảnh giác đâm kiếm sang. Dương Chính Đạo nghiêng người, linh hoạt né một chiêu kiếm này. Gần như cùng lúc, gã cũng rút thanh trường kiếm đeo ở bên hông ra, nhanh chóng nghênh tiếp. Hai người đều là cao thủ dùng kiếm, mỗi một chiêu kiếm đánh ra đều mạnh mẽ dứt khoát, không chút chần chừ dây dưa. Tiếng trường kiếm chạm nhau leng keng chói tai, ngay cả chim chóc cũng chẳng dám lại gần. Trong chớp mắt, lá trên cành cây bên cạnh rụng sạch, rơi lả tả lên quần áo của hai người. Dương Chính Đạo đưa tay trái khẽ gạt lá cây dính trên mép tóc, tay phải nắm chặt chuôi kiếm, người hơi nghiêng về phía trước, dùng động tác gập gối xoạc chân để tránh chiêu kiếm đâm thẳng của Lý Khác, rồi đưa tay khẽ túm chéo áo y. Dương Chính Đạo bỗng đứng thẳng người dậy, tua kiếm dài lướt qua trước mắt Lý Khác, Lý Khác không khỏi phân tâm, liếc theo tua kiếm. Chính vào chớp mắt phân tâm đó, Dương Chính Đạo lùi lại, vung kiếm đâm về phía ngực Lý Khác, khi chỉ còn cách ngực y hai tấc thì kịp thời thu lại. Lý Khác thở hắt ra, đặt kiếm Thanh Hồng lên trên bệ đá bên cạnh, khó chịu nói: “Dương công tử có thể thu kiếm muộn hơn một chút.” Dương Chính Đạo cúi người nhặt bao kiếm dưới đất lên, phản bác: “Rõ ràng là tự đệ phân tâm. Nếu thực sự gặp phải kẻ xấu thì đã đoạt mạng đệ trong khoảnh khắc rồi.” “Thật sao?” Lý Khác nhướng mày nói: “Nếu thực sự là kẻ xấu, ta sẽ không cho hắn nhiều cơ hội như thế, ngay chiêu kiếm đầu tiên ta đã có thể đâm vào yết hầu hắn, huynh có tin không?” Dương Chính Đạo nhìn vẻ mặt nghiêm túc của y, không khỏi phì cười: “Tin! Sao lại không tin? Ngô vương điện hạ nói gì ta cũng tin.” Hai người bước vào nhà, chợt có một tiếng sấm xuân vang lên. Trong khoảnh khắc, mưa lớn đổ xuống như trút nước, chỉ một chốc, trên nền đá xanh đã nổi lên rất nhiều bọt nhỏ li ti. Cơn gió ngày xuân vẫn mang theo hơi lạnh se se của mùa đông, táp cành cây bên ngoài nghiêng ngả. Dương Chính Đạo giở cuốn sách trên bàn mà Lý Khác vừa xem, nói: “Khác đệ còn đọc cả huyện chí các huyện ở An Châu à? Dựa vào trí nhớ của đệ, không phải đã thuộc như cháo chảy từ lâu rồi sao?” Lý Khác trừng mắt với gã: “Ta là người, không phải thần, hai mươi quyển sách đấy! Dăm bữa nửa tháng có thể đọc xong sao? Huynh đề cao ta quá đấy.” Dương Chính Đạo chẳng để tâm đến lời trách móc của y, vẫn tiếp tục nói: “Còn không phải sao, bệ hạ chẳng thường nói đệ giống ông ấy, ba tuổi biết chữ, bốn tuổi thuộc làu Vương chế[*], năm tuổi có thể làm văn, thiên phú khác thường còn gì!” Bệ hạ ư? Lúc đó, cha y chưa phải hoàng đế, mới là Thiên Sách thượng tướng chiến công hiển hách. Nhưng trong mắt y hồi nhỏ, ông ấy chỉ là một người cha rất tốt với y. Mẹ nói, lúc y chào đời, cha còn đang đánh trận bên ngoài. Đến khi cha trở về ôm lấy cơ thể bé bỏng mềm mại của y, y lại biết u ơ gọi một tiếng “cha”. Đó là sự ăn ý ngầm giữa những kẻ máu mủ ruột rà, vậy mà nay lại chỉ còn sự gượng gạo trong những lời khách sáo đường hoàng đứng đắn. Lý Khác gượng cười, nhanh chóng giấu đi nỗi bơ vơ của bản thân, đổi chủ đề: “Không nói mấy chuyện đó nữa. Cả ngày hôm nay huynh đã đi đâu?” Dương Chính Đạo tháo chuỗi vòng bằng gỗ tử đàn lá nhỏ trên cổ tay xuống, cầm chơi và nói: “Ta đi uống trà ở Thẩm gia trà lâu đối diện Từ Tế đường, qua một tuần trà, quả nhiên nhìn thấy Hạ Thiệu Nghiêm tiễn tay tiểu lang quân mặt trắng mà Khang Kiện nói đó ra ngoài cửa, chiếc khăn gấm mà tay tiểu lang quân đó cầm đúng là cũng có ba đóa hoa đào. Thế là ta liền lặng lẽ bám theo sau hắn, kết quả lại khiến ta vô cùng kinh ngạc.” “Ta còn tưởng rằng biểu huynh không thèm làm những chuyện rình mò theo dấu này cơ!” Dương Chính Đạo còn chưa nói xong, Lý Khác đã ngứa miệng lên tiếng. Dương Chính Đạo thấy y bóp méo trọng điểm trong lời mình nói, cũng chẳng buồn để ý, chỉ lo nói tiếp: “Ta thấy tay tiểu lang quân đó vào Mộ An các, hỏi tiểu nô trông bên ngoài thì mới biết, người này hóa ra là con gái, hơn nữa còn là nha hoàn bên cạnh Triêu Nhan cô nương, một danh kỹ của Mộ An các cũng có chút tiếng tăm quanh đây.” Nghe đến mấy câu cuối, Lý Khác mới thu lại vẻ mặt đùa cợt, hơi nhoài người về phía trước, chậm rãi nói: “Một nha hoàn lầu xanh nhiều lần cải nam trang, ra vào nhà của kẻ si mê nghề y, thực là thú vị. Tức là lời đồn vì vợ chưa cưới qua đời nên Hạ Thiệu Nghiêm nhiều năm trời vẫn chưa kết hôn, xem ra cũng hoàn toàn vô căn cứ. Hơn nữa ta luôn canh cánh trong lòng về chiếc khăn gấm trong tay Hạ Thiệu Nghiêm, lúc đó hắn ấp a ấp úng nói đó là đồ vật của cha hắn, nhưng nhìn đường kim thì chắc chắn từ bàn tay phụ nữ mà ra, đến giờ nghĩ lại, cũng thấy vô cùng đáng ngờ.” Dương Chính Đạo đeo lại chuỗi vòng vào cổ tay mình, nói: “Nếu vậy, tiền uống trà ở Thẩm gia trà lâu hôm nay, còn cả tiền đút cho tiểu nô của Mộ An các, phải chăng nên thanh toán với đô đốc An Châu?” “Đô đốc An Châu cũng không có tiền.” Lý Khác lấy ra mấy đồng xu từ trong hầu bao màu tử đàn thêu hoa hải đường đeo ở hông, đặt lên bàn nói,“Muốn tiền thì có thể tìm Lưu lục sự, ông ta phụ trách tiền bạc của quan.” Dương Chính Đạo uống ngụm nước trắng trong cốc, đứng dậy bước hai bước ra ngoài. “Vội đi thế à!” Lý Khác thấy gã định đi thật, liền la lên ngăn cản,“Hôm nay Lưu lục sự xin nghỉ đi uống rượu đầy tháng cháu trai nhà cậu hai của ông ta, ngày mai huynh đi cũng chưa muộn.” Dương Chính Đạo day huyệt thái dương hơi ê ẩm của mình, thấy mưa bên ngoài đã tạnh, liền xoay người nói: “Ta đâu sợ đệ ăn quỵt! Tranh thủ còn chưa đến giờ giới nghiêm, ta định đi Mộ An các lần nữa, tìm gặp trực tiếp Triêu Nhan cô nương đó để thăm dò ý tứ. Đệ có muốn đi cùng không?” Nếu bị ngôn quan[*] phát hiện đô đốc An Châu nhậm chức chưa đầy nửa năm đã cùng tư mã trong phủ đi chơi lầu xanh, tìm cô nương đầu bảng, mỗi người không dâng một bản tấu sớ lên bệ hạ thì mới là chuyện lạ! Nghĩ đến đây, Lý Khác bật cười vô cớ. Dương Chính Đạo tò mò xem xét biểu cảm của y, nhưng thực sự không nghĩ ra sao y lại cười. Thế là Dương Chính Đạo lại hỏi một câu: “Rốt cuộc đệ có muốn đi không?” “Đi chứ! Giờ chúng ta đi luôn!” Hoàng hôn là lúc thành An Châu náo nhiệt nhất, hai bên đường Hải Yến thuộc khu vực chính của thành đầy những người bán hàng rong đang rao hàng khản cả cổ. Lý Khác đội mũ da báo màu đen, mặc một bộ áo bào gấm xẻ hồng màu đỏ tươi, có hình đầu gấu và chữ triện kỳ lân, ở thắt lưng đeo một con rùa vàng sống động như thật, khí chất ngời ngời ấy không khỏi khiến những cô nương chưa kết hôn ở trên đường vén mũ mạng lên len lén nhìn theo. Dương Chính Đạo nói nhỏ bên tai Lý Khác: “Lần sau đệ ra ngoài, thử hỏi mượn người làm vườn trong phủ một chiếc áo dài vải gai, xem họ có còn nhìn đệ nữa không” Lý Khác ngoảnh đầu, nào ngờ chạm phải ánh mắt tình tứ dịu dàng của một thiếu nữ, vội vàng nhìn lảng đi, lại vừa khéo trông thấy mặt nghiêng góc cạnh đang cười tủm tỉm của Dương Chính Đạo. Đột nhiên y nhớ hồi nhỏ có nghe nhũ mẫu nói rằng, trong hoàng thất triều Tùy, nam nhân ai nấy đều ấm nhuần như ngọc, nữ nhân ai nấy đều xinh đẹp cương nghị. Hồi đó, khi Đậu Kiến Đức kiêu hùng đánh chiếm được Giang Đô, ông ta nhìn thấy trưởng nữ của Tùy Dạng Đế là Nam Dương công chúa, dù đã ba mươi tuổi nhưng vẫn phong tư tài mạo tót vời, lòng muốn giết đứa con duy nhất của nàng cũng mềm đi vài phần. Dương Chính Đạo là hậu duệ trực hệ duy nhất của hoàng thất triều Tùy, dung mạo đương nhiên được di truyền từ đời trước. Thế là Lý Khác cũng hạ giọng: “Sao biểu huynh biết mấy cô nương này không phải nhắm vào huynh? Hồi ở Trường An, số cô nương thích huynh còn ít sao?” “Hai vị công tử... hai vị công tử xin dừng bước.” Một giọng nói khàn khàn khó nghe từ phía sau vọng đến. Hai người đồng thời nhìn lại, chỉ thấy một lão hòa thượng ăn mặc rách rưới, bị thọt một chân, loạng choạng bước tới, chẳng để họ kịp phản đối đã kéo tuột cả hai đến một lối nhỏ vắng vẻ hơn cạnh đó. Dương Chính Đạo đang định bỏ một lạng bạc vụn giắt bên mình vào chiếc bát sứt mẻ của lão hòa thượng, nhưng lại bị ông ta giơ tay từ chối. Lão hòa thượng nhìn chằm chằm vào khuôn mặt gã rất lâu, rồi mới trịnh trọng nói: “Tướng mạo của công tử thật là đại quý, song có mệnh mà không có vận, vì vậy đối với mọi việc không nên yêu cầu khắt khe quá, cứ thuận theo tình thế mà làm, mới có thể giữ được một đời bình an suôn sẻ.” Không đợi Dương Chính Đạo trả lời, lão hòa thượng lại nắm lấy tay Lý Khác bằng bàn tay gầy như que củi, gương mặt lộ ra vẻ bi thương khó giấu: “Bi kịch số phận của cậu là những vướng mắc kiếp trước mà cậu mãi mãi không thoát khỏi được. Chỉ có buông bỏ chấp niệm thì mới có một tia hy vọng sống. Công tử, nhớ kỹ nhé! Phải nhớ là đừng quá cố chấp.” Nói xong, ông ta hất mạnh tay Lý Khác ra, nhanh chóng lần vào đám đông, trong khoảnh khắc cái chân thọt lại lành lặn như một phép mầu. Nghĩ về những lời nói điên rồ không rõ ràng của ông ta, hai người đều sững cả lại. Sau một lúc lâu, Lý Khác mới thốt ra mấy từ như nói mớ: “Biểu huynh, lời ông ta nói... rốt cuộc có ý gì?” “Ý là phải đi làm việc của chúng ta mau lên.” Dương Chính Đạo kéo tay áo của Lý Khác,“Mấy lời linh tinh xằng bậy kiểu này, đệ quan tâm làm cái gì?” Cuối đường Hải Yến chính là Mộ An các. Nghe nói mấy năm trước, nơi đó vẫn mang tên Thúy Hồng lâu. Về sau, tú bà không biết kiếm đâu ra một cô nương tên là Mộ An muôn phần xinh đẹp, lại gảy tỳ bà hay. Vì muốn dùng nàng để thu hút thêm nhiều khách hơn, tú bà liền đổi Thúy Hồng lâu thành Mộ An các, chưa kể đổi tên như thế lại làm tăng thêm mấy phần chất thơ, thu hút đông đảo tài tử phong lưu thích khoe mẽ đến đây tìm giai nhân. Thế là Thúy Hồng lâu vốn không có gì nổi bật này một bước trở thành Mộ An các, lầu xanh số một số hai trong thành An Châu. Tú bà nhìn thấy hai vị công tử tuấn tú ngời ngời này từ xa, trong mắt lập tức nở một nụ cười như đóa mẫu đơn, vội vàng ra nghênh đón, vẫy chiếc khăn thơm nồng nặc trong tay, uốn eo lắc hông, nói với giọng nịnh hót cực kỳ khoa trương: “Chẳng trách hôm nay mí mắt trái của tôi cứ nháy suốt! Hóa ra là gặp được quý nhân! Mời hai vị công tử mau mau vào trong, ngài muốn cô nương nào bầu bạn thì cứ việc nói, a, hai ba cô đều được cả. Hay là để Tôn ma ma tôi giới thiệu cho hai vị nhé!” Dương Chính Đạo mỉm cười, nhưng lại hơi nghiêng mình ra bên ngoài, vừa khéo tránh được đôi tay vươn về phía gã của cô gái áo đỏ bên cạnh mụ tú bà. Gã rút một miếng ngọc bội chạm hình mây từ trong đai lưng ra, đặt vào tay tú bà: “Muốn Triêu Nhan cô nương bầu bạn. Cái này đủ chứ?” Miếng ngọc bội đó trong suốt, không chút tạp chất, cầm trên tay nặng trĩu, ủ lâu dường như có hơi ấm, chỉ một chốc đã ấm áp hẳn lên. Tú bà từng tiếp đãi nhiều quan lớn quý nhân, đương nhiên cũng thấy nhiều đồ tốt, nhưng đây là lần đầu tiên bắt gặp thứ đồ tốt vừa nhìn đã khẳng định được luôn như này. Mụ không cầm lòng được quan sát hai người trước mặt, nhất thời quên cả trả lời, đến khi bị cô gái áo đỏ huých vào cánh tay, mụ mới sực tỉnh, nói liến thoắng: “Đủ rồi đủ rồi! Đủ lắm rồi! Mộc Cận đâu, mau đi gọi Triêu Nhan lên nghênh tiếp khách quý.” Lúc lên lầu, Lý Khác khẽ hỏi: “Biểu huynh biết miếng ngọc bội đó trị giá bao nhiêu bạc không?” Dương Chính Đạo lắc đầu: “Những thứ này đều là năm xưa bà nội ta mang từ hành cung Giang Đô đến Đột Quyết. Ta chỉ chọn đại mấy cái cầm đến An Châu, thật không ngờ lại có chỗ dùng đến.” “Đó là ngọc trắng cao cấp nhất trong ngọc Hòa Điền, sản lượng cực ít. Miếng ngọc của huynh, e là trị giá hơn trăm lượng, đủ để mụ tú bà này tiêu ba đời.” Lý Khác cười cười, ánh mắt toát ra một vẻ không biết là cảm khái hay tiếc nuối. Tú bà dẫn họ vào trong một căn nhã phòng ở tầng hai. Vừa ngồi xuống, liền có tiểu nô đến hầu trà. Tú bà cúi người nói với họ: “Xin hai vị đợi một lát, Triêu Nhan đang trang điểm chải chuốt, chút nữa sẽ đến. Nói xong, mụ lại đưa mắt ra hiệu với tiểu nô ở bên cạnh, tiểu nô lập tức hiểu ý rời đi. Không bao lâu sau, quả nhiên thấy một thiếu nữ mặc áo tay dài và váy ôm màu đỏ anh đào, đội mũ triều dương ngũ phụng cài trâm ngọc trai, thướt tha bước tới. Nàng trang điểm tươi tắn nhẹ nhàng, khác hẳn những cô gái tô đậm trát dày vừa thấy ban nãy, nụ cười trên mặt cũng rất chừng mực. Song Lý Khác và Dương Chính Đạo trông thấy, lại chỉ hơi gật đầu tỏ ý. Trong lòng tú bà không khỏi có chút ngạc nhiên: Người bình thường vừa nhìn thấy sắc đẹp của Triêu Nhan, đều hận không thể lập tức nhào tới để hưởng hương thơm, hai vị này lại đàng hoàng đứng đắn, khá là thú vị. Có điều giả sử mình trẻ lại mười mấy tuổi, chuyện tốt như vậy còn đến lượt con ranh Triêu Nhan này sao? Mụ càng nghĩ càng không phục, nhưng cuối cùng vẫn biết điều đóng cửa rời đi. “Hai vị công tử muốn nghe tỳ bà hay cổ cầm?” Giọng nói của Triêu Nhan uyển chuyển êm tai, rất hợp với dung mạo hoa nhường nguyệt thẹn của nàng. Lý Khác đang định bảo là y không muốn nghe gì, chỉ muốn ngay lập tức biết nha hoàn của nàng có quan hệ gì với Hạ Thiệu Nghiêm, biết được bao nhiêu về chiếc khăn gấm đó. Nhưng y còn chưa kịp mở miệng, đã nghe thấy Dương Chính Đạo cao giọng nói: “Cổ cầm, khúc Bình sa lạc nhạn.” Mặt Triêu Nhan chợt ửng hồng. Nàng đã tiếp rất nhiều khách, rất hiếm người có vẻ thực sự đến để nghe nhạc như thế này. Thế là nàng vội vàng sai tiểu nha hoàn Huệ Lan ở bên cạnh đặt cây thất huyền cầm của mình lên trên bàn. Trong lúc chỉnh âm, Dương Chính Đạo quay đầu nói với Lý Khác hai câu bằng khẩu hình: Bỏ ra cả trăm lạng đấy! Nghe một khúc cũng không quá đáng đâu! Bình sa lạc nhạn vốn mang khí thế hùng hồn, nhưng qua tay nữ nhân gảy, nhất là một cô gái nhu mì yểu điệu như Triêu Nhan, tự dưng lại có ý vị riêng, mới mẻ xa xăm. Tầng mây muôn dặm, vang tận chân trời, một tiếng cuối cùng đó ngân rất dài, dư âm quanh quẩn trong phòng lâu thật lâu, giống như tiếng kêu não lòng bất tận của cánh hồng nhạn giữa đại mạc mênh mang. Dương Chính Đạo chợt ngẩn ngơ, tựa như nhìn thấy nụ cười tươi tắn của cô nương luôn thích mặc váy áo hồng cánh sen và cũng giỏi gảy đàn đó. Triêu Nhan thấy gã có vẻ hơi lơ đãng, liền bước tới, đặt một chén bạch ngọc nhỏ đựng đầy rượu tang lạc lên tay gã, hờn dỗi nói: “Là khúc Bình sa lạc nhạn mà chính công tử muốn nghe, lẽ nào công tử không thích sao?” “Sao lại không thích? Chỉ cần là nàng gảy, ta đều thích hết. Dương Chính Đạo nhận lấy chén rượu, một hơi uống cạn, ánh mắt xa xăm nhìn về phương xa, tựa như đang nói với Triêu Nhan, nhưng lại giống đang nói với một người ở trong sâu thẳm trái tim hơn. Lý Khác vừa ngửi thấy mùi rượu liền không kìm được ho sù sụ mấy tiếng. Y thực sự không có duyên với rượu, không chỉ uống một ngụm là say, mà cả ngửi cũng không nổi. Dương Chính Đạo quay sang nói với Huệ Lan: “Đi lấy một bình nước trắng lại đây. Cô nương không biết chứ, cậu em này của ta bình thường gặp rượu là say. Lần say rượu trước, y ngủ mê man suốt một ngày một đêm, may mà có thuốc của Hạ đại phu Từ Tế đường mới tỉnh dậy được.” Lý Khác liếc Dương Chính Đạo bằng ánh mắt bất mãn, nghĩ bụng: Huynh muốn nhắc đến Hạ Thiệu Nghiêm thì cũng nên tìm một lý do hay ho hơn chứ, gì mà say rượu ngủ mê man, thật là hoang đường! Có điều lời đã ra khỏi miệng, y cũng đành tát nước theo mưa hùa vào nói: “Còn không phải sao? Hạ đại phu có y thuật cao siêu, thích làm việc thiện, trông lại khôi ngô đoan chính, thật sự là một lang quân tốt hiếm có. Nếu không phải hắn đã kết hôn thì ta còn muốn gả em gái nhà ta cho hắn đấy!” Triêu Nhan nghe đến đây, hàng mi khẽ run lên, đôi mắt đẹp lăn tăn gợn sóng, buột miệng nói: “Hạ đại phu vẫn chưa kết hôn mà!” “Thật sao? Chuyện này lạ quá!” Lý Khác và Dương Chính Đạo nhìn nhau, ánh mắt cả hai như vừa vỡ lẽ,“Tuổi của hắn cũng không còn trẻ nữa, chẳng nhẽ không có bà mối nào đến cửa mai mối cho sao?” Triêu Nhan sững lại giây lát, do dự không biết có nên nói ra những lời đã đến đầu môi không, nhưng thấy hai người trước mặt đang nhìn mình với ánh mắt vô cùng mong đợi, lại không kìm được nói: “Hạ đại phu vì chị của thiếp nên mới không muốn lấy vợ.” Lý Khác nhận lấy chén trà Huệ Lan vừa dâng lên, nhấp một ngụm nước ngọt thanh, lơ đãng cọ nhẹ vào đầu hổ chạm nổi trên thân chén: “Chị nàng? Chẳng lẽ cũng là cô nương trong Mộ An các này sao?” “Không! Nói chính xác thì chị ấy là chị nuôi của thiếp.” Lời nói của Triêu Nhan ôn hòa, nhưng giọng điệu lại có vài phần buồn bã,“Bốn năm trước, thiếp vẫn còn là một nha hoàn bưng trà rót nước trong Mộ An các. Mùa đông năm đó đặc biệt lạnh, thiếp bị cảm lạnh mấy ngày liền không thấy đỡ, đến tối hôm thứ năm thì sốt đến mức chỉ còn thoi thóp hơi tàn. Sau đó Huệ Lan bất chấp gió tuyết đi mời đại phu cho thiếp, nhưng tuyết trắng xóa đất trời như thế, lại nghe nói bệnh nhân chỉ là một nha hoàn lầu xanh, hầu hết các đại phu đều không muốn đi khám. Cuối cùng người tới lại là một tiểu cô nương mười lăm, mười sáu tuổi, cô ấy châm cứu, lại còn đích thân đi mua thuốc cho thiếp. Chỉ sau vài hôm, thiếp thực sự đã khỏi bệnh. “Quả là một nữ đại phu lương thiện. Lý Khác nghe tiếng gió nghẹn ngào ngoài cửa, vô thức nắm lấy vạt áo: “Trải qua chuyện như vậy, hai người đâm ra thân nhau, hơn nữa còn gọi chị xưng em?” Triêu Nhan gật đầu: “Vâng. Sau đó thiếp mới biết, hóa ra chị ấy là đệ tử của Hạ Kỷ đại phu của Từ Tế đường, cũng chính là tiểu sư muội của chưởng quỹ Hạ Thiệu Nghiêm hiện nay. Bỗng một ngày, chị ấy hẹn thiếp ra ngoài, khóc lóc tỉ tê với thiếp, có một công tử nhà quan đặt lời cầu thân với sư phụ chị ấy, muốn lấy chị ấy làm vợ. Chị ấy và Hạ Thiệu Nghiêm đã tâm đầu ý hợp từ lâu, mà nay lại bị chia loan rẽ phượng trắng trợn.” Đó chẳng qua là một câu chuyện cũ rích! Dương Chính Đạo ở bên cạnh nghe, ánh mắt tràn ngập vẻ không đồng tình. Đây chắc là điểm khác biệt lớn nhất giữa gã và Lý Khác, Lý Khác quá dễ hành động theo cảm tính, đối với con em hoàng thất thì đây có lẽ là điểm yếu trí mạng trong tính cách. Nghĩ đến đây, Dương Chính Đạo không nhịn nổi nói thẳng: “Vậy rốt cuộc những ngày gần đây có nhiều lần bảo nha hoàn của cô ra vào Từ Tế đường để làm gì?” Câu này vừa thốt ra, không chỉ dọa Triêu Nhan giật nẩy mình, mà ngay cả Lý Khác cũng cau mày nhìn gã, ý muốn nói: Không phải đã bảo là tiến dần từng bước sao, thay đổi sách lược cũng không biết nháy mắt trước với ta. Triêu Nhan không còn vẻ mặt buồn rầu ban nãy nữa, mà đảo mắt đầy cảnh giác, trầm giọng hỏi: “Rốt cuộc các ngài là ai? Tại sao muốn...” Đúng lúc vừa thốt ra từ “muốn”, khóe miệng Triêu Nhan chợt rỉ ra một vệt máu, sau đó nàng nhổ ra một búng máu tươi, mặt lập tức trắng bệch, đôi mắt hạnh trợn to, ngã xuống đất co giật hai ba cái rồi bất động. Dương Chính Đạo vội vàng bước tới kiểm tra hơi thở của nàng, lại bắt mạch cho nàng, rồi lắc đầu nói: “Không cứu được nữa rồi.” Lý Khác nhìn xung quanh, trong phòng khách rộng lớn lúc này chỉ có hai người là y và Dương Chính Đạo, ngay cả Huệ Lan ban đầu ở bên bưng trà rót nước cũng không biết đã chạy đi đâu. Đúng lúc này lại có tiếng ồn ào từ bên ngoài vọng vào. “Mới hôm qua Tôn ma ma còn đồng ý để hôm nay Triêu Nhan cô nương uống rượu trợ hứng cùng anh em bọn ta, sao nói mà không giữ lời thế?” “Đúng đấy! Mau mau bảo Triêu Nhan ra đây, tự phạt ba chén trước, sau đó cùng chúng ta mở cuộc vui vầy!” “Vương công tử, Tưởng công tử... Ai dà, Tôn ma ma tôi đâu có lừa các vị... Giờ trong phòng Triêu Nhan quả thực có khách quý. Đợi họ đi rồi, tôi sẽ bảo nó tiếp các vị cả đêm được không?” “Mụ bớt gạt bọn ta đi, lần trước mụ cũng nói như vậy! Có khách quý gì được cơ chứ? Bọn ta cứ muốn xông vào đấy!” Nghe tiếng ồn ào càng lúc càng gần, tiếp theo lại là một tràng tiếng gõ cửa dồn dập vẳng tới. Dương Chính Đạo chỉ vào cửa sổ phòng khách nói: “Dựa vào công phu của hai ta, nhảy từ tầng hai xuống chắc không phải là chuyện khó. Nếu không thì cứ ngồi đây để họ coi chúng ta là nghi phạm giết người.” Lý Khác nhìn cô gái vừa nãy còn cười nói chuyện trò với họ mà bỗng chốc trở thành một xác chết, trong lòng thực sự cũng có mấy phần thương cảm. Y bước đến bên cây thất huyền cầm mà Triêu Nhan vừa gảy, ánh mắt đột nhiên sáng lên: “Biểu huynh vừa mới nghe khúc nhạc này, có phát hiện ra điều gì bất thường không?” Thấy nói một đằng y lại đáp một nẻo, Dương Chính Đạo cũng chẳng bận tâm, mà trả lời thành thật: “Ngón đàn của Triêu Nhan tuy không thể so được với những bậc thầy thực sự, nhưng xét tổng thể thì không tồi. Song, ở nốt búng lên cuối cùng, rõ ràng cô ta không thể đàn được, nên hơi bị vỡ tiếng, chỉ có điều cô ta đã che đậy rất khéo léo.” “Quả nhiên là vậy!” Lý Khác dùng ngón tay bật dây đàn, dây đàn phát ra một tiếng trầm đục,“Biểu huynh vẫn ở lại cùng ta làm nghi phạm giết người chứ?” Dương Chính Đạo nhún vai: “Cũng chẳng ngại gì.” Cửa bị xô bật ra một cách thô bạo, hai gã say rượu ồn ào và tú bà cùng bước vào. Tú bà vừa đưa tay chắn trước mặt bọn say, vừa nói với giọng the thé: “Xin lỗi hai vị công tử. Triêu Nhan à, con ra chào một tiếng trước đi!” Khi lại gần thêm mấy bước, nhìn thấy cảnh tượng trong phòng trong, mụ tú bà không kìm được hét “á” một tiếng, vội vàng sải bước về phía trước, lay Triêu Nhan đang nằm bất động trên mặt đất, lau giọt lệ không hề tồn tại trong mắt, gào khan: “Triêu Nhan, con gái yêu của ta! Con sao thế này? Tên chết đâm chết chém nào lại nhẫn tâm làm con ra nông nỗi này?” Tiếng gào này làm hai gã say tỉnh rượu, chúng hò nhau kêu la: “Giết người! Triêu Nhan cô nương bị người ta giết chết rồi!” Tiếng to như vậy, ngay lập tức thu hút gần như toàn bộ khách trên tầng hai. Huệ Lan và Mộc Cận ba chân bốn cẳng chạy lại nhào tới bên cạnh Triêu Nhan, khóc nức nở, liên tục gọi “chị ơi”, đang khóc, lại quay đầu nhìn Lý Khác và Dương Chính Đạo đứng đó, định nói gì đấy, nhưng cuối cùng vẫn không dám cất lời. Tú bà toan giơ tay túm cổ áo của Lý Khác, thì bị Dương Chính Đạo lấy cây sáo ngọc ở bên cạnh chặn lại. Tú bà nhìn thấy nét dữ dằn trong mắt gã, bất giác lùi lại một bước, lời nói cũng nhụt hẳn: “Các ngươi giết khuê nữ nhà ta trong Mộ An các, thế mà giờ vẫn còn ngang ngược như vậy! Vương Cửu! Vương Cửu, ngươi chết ở xó nào thế? Còn không mau đi báo quan, để hai tên gian tặc vô sỉ này đền mạng cho Triêu Nhan của ta!” Vương Cửu với thân hình thấp bé lách ra từ trong đám đông, lúc cất lời, cơ thịt trên mặt hắn vẫn còn hơi giật giật: “Biết rồi, Tôn ma ma, tôi đi ngay đây!” “Đừng quên gọi cả ngỗ tác[*] cùng đến đấy!” Lý Khác cao giọng nhắc với theo bóng lưng đang rời đi của Vương Cửu. Những năm qua, trăm họ An Châu luôn sống trong cảnh gió yên sóng lặng. Giờ đây, giữa thanh thiên bạch nhật, lại có kẻ cả gan giết người ở nơi náo nhiệt như này, người chết lại là một cô gái mềm yếu có dung nhan thoát tục, không chút năng lực phản kháng, rất nhiều người có mặt đều trừng mắt nhìn Lý Khác và Dương Chính Đạo, hận không thể tự mình ra tay đâm họ mấy nhát dao. Sau nửa canh giờ, Vương Cửu dẫn pháp tào Khang Kiện và ngỗ tác hớt hải chạy tới. Khang Kiện mặc một chiếc áo nhà quan màu xanh đậm, hai hàng ria mép hơi vểnh lên, thoáng nhìn thấy Lý Khác, đôi mắt nhỏ đột nhiên hiện lên vẻ kinh ngạc hết sức. Tú bà níu chặt áo Khang Kiện, nói: “Ngài xem, ngài mau nhìn xem, chính hai tên cuồng đồ này đã giết khuê nữ Triêu Nhan nhà tôi đấy!” Khang Kiện giũ mấy lần mới hất được tay tú bà ra, tiến lên hai bước dài, đang định cúi mình hành lễ với Lý Khác, lại cảm thấy chân mình bị chân y giẫm nhẹ một cái. Khang Kiện là người rất thông minh lanh lợi, lập tức liếc nhìn Lý Khác, chỉ trong chớp mắt, hắn đã hiểu ý Lý Khác. Để xác nhận ý nghĩ này, hắn lại ngẩng đầu trao đổi ánh mắt với Dương Chính Đạo, gã khẽ gật đầu với hắn, chỉ vào ngỗ tác đang khám nghiệm xác chết ở bên cạnh, vạch một chữ “công” ra hiệu cho hắn. Khang Kiện thầm nghĩ: Ý của Dương tư mã là muốn hắn xử lý công bằng à? Chẳng nhẽ thật sự muốn hắn tự tay bắt hai vị trưởng quan này lại sao? Không đúng! Dường như hắn nên tin vào nhân phẩm của họ. “Thưa pháp tào, ti chức đã khám nghiệm cẩn thận, người này vì uống phải một lượng lớn rượu độc mà mất mạng, thời gian trúng độc là khoảng một canh giờ trước.” Giọng của ngỗ tác hơi khàn khàn, nhưng vẫn rành rọt đầy khí thế. Khang Kiện nghe thấy câu này, không khỏi nhìn Dương Chính Đạo cái nữa, thấy đối phương gần như khích lệ ra mặt, liền ho mạnh một tiếng, cố hết sức trợn đôi mắt nhỏ lên thật tròn, ồm ồm nói với mấy tên sai dịch ở đằng sau: “Người đâu, bắt hai tên hung thủ giết Triêu Nhan cô nương này lại cho ta!” Tuy cùng ở phủ đô đốc An Châu, nhưng mấy người này chỉ là sai dịch hạng ba chuyên lo việc lùng trộm bắt cướp, đâu thể nhận ra đây là đô đốc An Châu, nghe Khang Kiện sai bảo, họ không hẹn mà cùng tiến lên trói quặt tay hai người lại. Đúng lúc Khang Kiện do dự có nên nói ra hai chữ “giải đi” hay không, lại nghe thấy Lý Khác nói: “Lẽ nào vì lúc Triêu Nhan cô nương chết, trong phòng chỉ có hai anh em bọn tôi, nên pháp tào cho rằng chúng tôi là hung thủ sao?” Khang Kiện cố xoa dịu bớt tâm trạng đang phập phồng bất định, cuối cùng ưỡn thẳng lưng, lấy giọng thượng quan tra hỏi hung thủ cất tiếng hỏi: “Các ngươi vẫn già mồm cãi cố à?” “Chẳng nhẽ chúng tôi không nên cãi lại sao?” Lý Khác vùng ra khỏi tay của hai tên sai dịch, chậm rãi đi đến bên thi thể Triêu Nhan, đưa tay vuốt đôi mắt mở to của nàng,“Ngỗ tác đã nhận định Triêu Nhan cô nương chết vì trúng độc, vậy thì xin hỏi pháp tào, độc từ đâu ra?” “Nhất định là nước có vấn đề!” Tú bà tranh trả lời. Khang Kiện không nói, rõ ràng là ngầm thừa nhận ý kiến của mụ ta. Lý Khác cầm chén trà trên bàn mà y vừa mới dùng lên, lại rót thêm một chút nước từ ấm trà vào trong, uống một hơi cạn sạch. Dương Chính Đạo cũng bước lên, rót rượu tang lạc mà Triêu Nhan và gã từng uống vào trong một chiếc chén rỗng ở bên cạnh, rồi từ tốn uống. Lý Khác cười nhạt nói với mọi người: “Thế này là sao?” Tú bà thấy họ như vậy, nhất thời cũng cứng họng. Khang Kiện ngớ người trong giây lát rồi lại nói: “Cho dù trong trà và rượu này không có độc, cũng không thể chứng minh các ngươi vô tội được.” “Tất nhiên!” Lý Khác rút cây trâm cài trên đầu Triêu Nhan xuống, đâm vào vết thương nhỏ trên ngón tay trái của nàng, đến khi rút ra thì đầu trâm đã xám đen,“Ngỗ tác, ông lại nhìn xem.” Ngỗ tác ngồi xổm xuống, quan sát tỉ mỉ vết thương nhỏ đó, lại nhìn cây trâm bạc, rồi nói rất quả quyết với mọi người: “Vết thương trí mạng của cô nương này quả thật là ở trên ngón tay.” “Đa tạ!” Lý Khác chắp tay với ngỗ tác, cuối cùng hướng ánh mắt lên cây thất huyền cầm,“Ngài pháp tào lại nhìn xem, cây đàn này có vấn đề gì không?” Khang Kiện bước đến bên cây thất huyền cầm, mân mê hí hoáy một hồi, lại lật cây đàn lại quan sát rất lâu, mãi sau, hắn mới tự tin nói: “Hạ... bản quan cảm thấy không có gì bất ổn.” “Không có gì bất ổn ư?” Lý Khác chỉ vào dây đàn thứ hai phía trên,“Pháp tào không nhận ra dây đàn này hơi chùng hơn các dây khác một chút sao?” Khang Kiện lấy tay gảy dây đàn, nghiêng đầu nói: “Hình như là vậy. Nhưng thế thì liên quan gì đến cái chết của Triêu Nhan cô nương?” “Cái này để tôi giải thích với pháp tào cho. Dương Chính Đạo nhìn Lý Khác, nghĩ bụng, đệ giỏi văn hay võ, nhưng riêng âm luật lại không rành, xem ra ông trời thật sự quá công bằng, “Ngón đàn của Triêu Nhan cô nương nổi tiếng gần xa, trước lúc biểu diễn, cô ấy cũng đã chỉnh thử phím đàn, theo lý mà nói, cô ấy tuyệt đối không thể không cảm nhận được sự khác thường của dây đàn này. Cách giải thích duy nhất chính là trong quá trình biểu diễn, dây đàn này đột nhiên bị chùng, vì vậy, lúc cô ấy chơi đến đoạn chính thanh mười hai của khúc Bình sa lạc nhạn, âm tiết mới có chút rối loạn rất nhỏ như thế.” “Bản quan vẫn không hiểu lắm.” Khang Kiện ngồi lên chiếc ghế đầu thấp bên cạnh cây thất huyền cầm, phủi bụi bẩn không biết đã bám vào chiếc áo mới tinh trên người từ bao giờ,“Cho dù Triêu Nhan cô nương phát hiện dây đàn bị chùng trong quá trình biểu diễn, hơn nữa còn vì vậy mà gảy sai một nốt, thì chẳng lẽ cô ấy sẽ mất mạng bởi điều này sao?” Những người xung quanh chăm chú lắng nghe bọn họ phân tích vụ án giết người tưởng chừng đơn giản này, ngay cả mụ tú bà gào khóc ầm ĩ lúc này cũng im lặng. Huệ Lan và Mộc Cận càng siết chặt chiếc khăn trong tay hơn, căng thẳng nhìn mấy người trước mặt. Lý Khác quan sát kỹ biểu cảm của mọi người xung quanh, rồi gật đầu nói với Khang Kiện: “Pháp tào nói đúng! Chính vì điều này mà Triêu Nhan cô nương đã mất mạng. Nếu ngài nhìn kỹ hơn một chút, sẽ phát hiện ở phía dưới dây đàn này có một cái dằm nhỏ, vết thương trên ngón tay Triêu Nhan cô nương do chính nó đâm. Vì đau nên ngón tay của cô ấy sẽ vô thức co vào trong, để giữ cho nốt không bị loạn, tay gảy đàn còn lại sẽ duy trì cân bằng hết mức có thể, mà sở dĩ dây đàn đó bị chùng, chính là vì cô ấy dùng sức quá mạnh.” Khang Kiện dường như còn mù mờ hơn vừa nãy: “Cho nên... thực ra hung thủ đã hạ độc trên dây đàn phải không? Vì chạm phải dằm, nên ngón tay của Triêu Nhan cô nương bị thương, mà cô ấy vẫn kiên trì tiếp tục gảy đàn, độc trên dây đàn cứ thế xâm nhập vào cơ thể của cô ấy qua vết thương một cách tự nhiên.” Ở đằng sau đã có người hùa theo ý kiến của Khang Kiện. Nhưng Lý Khác vẫn lắc đầu: “Hạ độc trên dây đàn cũng giống như hạ độc trong rượu, sau khi sự việc xảy ra sẽ khó tiêu hủy chứng cứ, nhưng nếu hạ độc trên đồ vật mà mình mang theo, thì sau khi xong việc, sẽ có thể đem nó đi xử lý. Vì là đồ vật của mình, nên sẽ không bị người khác nghi ngờ. Có đúng vậy không, Huệ Lan cô nương?” Chương 2 Mờ mịt sát cơ Nghe thấy câu này, khuôn mặt vốn đã tái mét của Huệ Lan lộ ra vẻ sợ hãi tột cùng. Cô rụt rè nhìn Khang Kiện một cái, lại kéo chéo áo của tú bà, lí nhí như cầu cứu: “Ma ma... con thật sự không biết chị ấy chết như thế nào, con...” Lúc cô nói, cây trâm mành mành bằng bạc hình chim hỷ thước ngậm ngọc trai trên đầu phát ra từng chuỗi âm thanh lảnh lót, một giọt nước mắt lăn dài trên má, rõ là một tiểu mỹ nhân yếu đuối phải chịu oan ức. Tú bà thấy vậy, vỗ vai cô an ủi, rồi quay sang oán giận nói với Lý Khác: “Tên kia, ngươi nói bậy nói bạ gì vậy?” “Nói bậy nói bạ á?” Lý Khác tiến lên hai bước, nhanh tay lẹ mắt giật chiếc khăn gấm Huệ Lan giấu trong ống tay áo ra, nhúng vào ấm trà trên bàn, rồi lại rót một chút nước trà vào chiếc chén nhỏ ở bên cạnh. Trên khuôn mặt tuấn tú ngời ngời của y lộ ra nụ cười cực nhẹ cực nhạt, giọng điệu mang theo năm phần trêu đùa, năm phần chế giễu: “Nếu Huệ Lan cô nương dám uống một ngụm nước trà này, tôi sẽ đền mạng cho Triêu Nhan chị cô ngay tại đây.” Tiếng khóc của Huệ Lan bỗng nhiên im bặt, cô nghẹn ngào cầm chén trà đó trong tay. Nước trong chén vẫn trong veo như cũ, phản chiếu rõ nét khuôn mặt thanh tú như hoa lê thấm mưa của Huệ Lan. Cô đặt miệng chén trà lên môi, nhắm mắt lại, giống như đã lấy đủ can đảm để uống nó, nhưng cuối cùng chỉ nghe thấy một tiếng “choang” giòn tan vang lên, chén trà bị ném phăng xuống. Huệ Lan ngồi xổm trên mặt đất, tay ôm chặt lấy đầu gối, gào khóc nức nở, nước mắt từ từ làm lem luốc khuôn mặt được trang điểm vô cùng tinh tế của cô. Mọi người đều trợn mắt há mồm, Huệ Lan lấy tay áo lau đi nước mắt đầm đìa trên mặt. Mãi sau, cô mới ổn định được tâm trạng, quỳ thẳng người nói: “Không sai! Là tôi giết cô ta! Ai bảo cô ta... ai bảo cô ta đã hủy hoại cuộc đời tôi!” Lúc này, mụ tú bà từ kinh hoảng chuyển thành giận dữ, tay đấm chân đá Huệ Lan giống một con sư tử điên dại. Cây trâm mành mành bị đánh rơi xuống đất, toàn bộ mái tóc của Huệ Lan xòa xuống tựa thác đổ. Dường như tú bà vẫn chưa hả giận, lại giáng cho cô một cái tát nặng nề, gần như tát lệch cả mặt cô: “Cái con bé chết giẫm này! Đó là chị họ ngoại của mày mà! Sao mày có thể làm chuyện vô đạo đức như vậy! Tao khinh!” “Dừng tay!” Lý Khác cúi người giữ tay tú bà lại, nghiêm mặt nói: “Pháp tào ở đây! Ai cho phép mụ dùng hình phạt riêng!” Dường như đến giờ Khang Kiện mới nhận ra mình cần phải mở miệng nói: “Bắt cô ta lại!” Bốn sai dịch vừa nghe thấy câu này, lập tức hùa nhau kéo Huệ Lan đứng dậy. Huệ Lan đầu tóc rối bù lúc này lại trợn tròn đôi mắt, nói với giọng khàn đặc nghe hết sức đáng sợ: “Trước đây tôi cũng là con gái nhà lành, chính người cha làm tiểu lại của cô ta sau khi giết người đã bỏ trốn đến nhà chúng tôi, mẹ tôi niệm tình anh em nên cho ông ta ở lại. Ai ngờ sau này... sau này vẫn bị người của nha môn tìm thấy. Mẹ tôi bị lưu đày vì chứa chấp tội phạm, chết bệnh trên đường đi. Còn tôi cùng cô ta thì bị bán vào lầu xanh này làm nô tì.” “Nhưng mà nay, cô ta đã thành cô nương đầu bảng ở đây, còn ngươi thì vẫn là một tiểu nha hoàn bưng trà rót nước.” Dương Chính Đạo ở bên cạnh lạnh lùng nói,“Đối với cô ta, trong lòng ngươi có đến tám, chín phần ghen tị! Nghe nói gần đây có một phú thương buôn tơ lụa muốn chuộc thân và cưới cô ta về làm thiếp, phải vậy không?” Huệ Lan như bị chạm đúng chỗ đau, người mềm nhũn, suýt nữa ngã ra: “Phải! Tôi không có được tự do, cô ta cũng đừng hòng có được. Tôi khổ sở vùng vẫy ở nơi tối tăm không thấy ánh mặt trời này, còn cô ta lại sắp ra ngoài hưởng phúc, ngài bảo tôi cam tâm làm sao đây! Cam tâm thế nào đây!” “Vốn dĩ Triêu Nhan không muốn đi, mặt tú bà vẫn hầm hầm tức giận, nhưng giọng nói lại đượm phần thê lương,“về sau, nó đã thuyết phục vị phú thương đó chuộc cả mày ra cùng. Nó bảo mười lăm tháng sau là sinh nhật mày, định đến lúc đó sẽ nói với mày, cho mày một bất ngờ! Nào ngờ mày lại... Nghe xong câu này, cuối cùng hai chân Huệ Lan cũng mềm oặt, cô hoàn toàn tê liệt, ngã quỵ xuống đất. Trong ánh mắt cô có hối hận, có day dứt, còn cả một nỗi sợ hãi không diễn tả nổi. Các sai dịch muốn kéo cô lên giải đi, nhưng không biết lấy sức ở đâu ra, cô đột nhiên giãy thoát khỏi tay họ, mọi người còn chưa kịp phản ứng, cô đã bất ngờ cầm ấm trà trên bàn lên. Lý Khác thầm kêu hỏng bét, nhưng khi y lao tới giật lấy ấm trà, Huệ Lan đã uống hết quá nửa nước trà bên trong. “Không! Bây giờ cô chưa được chết!” Lý Khác nhìn đôi môi đang dần chuyển sang màu tím của Huệ Lan, không giữ được vẻ ung dung điềm tĩnh xưa nay nữa, vội vã đưa tay nâng cằm cô hỏi,“Họa tiết hoa đào trên chiếc khăn gấm của cô là do ai dạy cô thêu? Nói mau!” Vì dùng lực quá mạnh, móng tay của Lý Khác đã bấm sâu vào da của Huệ Lan. Khóe miệng Huệ Lan ộc ra máu độc đỏ bầm, hơi thở dồn dập hẳn, đồng tử cũng đang từ từ giãn ra, Lý Khác lại cao giọng hét lên một lần nữa: “Rốt cuộc là ai?” Hơi thở của Huệ Lan mảnh như tơ, cô nói với giọng mà chỉ có hai người mới nghe được. “Cảnh... Cảnh... Cảnh Nguyệt...” “Cảnh Nguyệt là ai?” Lý Khác vừa hỏi dứt câu, bàn tay của Huệ Lan đã thõng xuống, máu chảy ra từ miệng cô vấy lên tay áo đỏ tươi đính tơ vàng của Lý Khác. Y buông tay, chậm rãi đứng dậy, nét mặt hết sức khó coi vì thất vọng. Dương Chính Đạo vội bước đến bên cạnh, vỗ nhẹ lên vai y, nói nhỏ: “Khác đệ, không sao đâu, chúng ta vẫn còn cơ hội.” Trong màn đêm, phủ đô đốc An Châu đặc biệt yên tĩnh. Cát bảy màu trong đồng hồ chầm chậm chảy xuống không ngừng. Lư hương toan nghệ bằng đồng đỏ ở hai bên bức bình phong gỗ tử đàn đang nhả ra khói biếc lượn lờ. Lý Khác nhìn cành hoa đào đã hơi úa trong chiếc bình lưu ly trong suốt, mới hôm qua đây thôi, y vừa sai người hầu hái nó trên cây đào nở rộ. Đóa hoa đẹp như vậy, lại chẳng sống được quá ba ngày. Sau khi xử lý ổn thỏa tất cả những vấn đề còn lại, Khang Kiện mới vội vội vàng vàng đến thư phòng của Lý Khác. Trong khoảnh khắc nhìn thấy Lý Khác, mặt hắn hơi giần giật. Hắn cúi rạp mình xuống đất, gục đầu thật thấp: “Hôm nay hạ quan mạo phạm điện hạ, xin điện hạ trừng trị hạ quan tội đại bất kính.” Hắn nói như vậy, rõ ràng là ý thức được hành vi hôm nay đã xúc phạm đến hoàng quyền. Lý Khác đứng dậy, đỡ hờ lấy hắn, nửa đùa nửa thật nói: “Nếu không phải pháp tào nhìn rõ ý của bản vương, e rằng ngày mai trăm họ toàn thành đều biết chuyện tai tiếng đô đốc An Châu quyến luyến thanh lâu, còn bị tình nghi giết chết danh kỹ lầu xanh. Khang Kiện nở nụ cười thật thà chất phác trên khuôn mặt tròn trịa, gãi đầu nói: “Điện hạ cứ đùa. Chỉ là... có một số chuyện, hạ quan vẫn chưa hiểu lắm. Làm sao điện hạ biết trên chiếc khăn mà Huệ Lan mang theo có độc?” “Rất đơn giản,” Lý Khác chậm rãi nói,“ngay từ lúc bắt đầu, ta đã chú ý đến vẻ mặt căng thẳng và hoảng sợ của Huệ Lan. Ngón tay của Triêu Nhan cử động một cái là ánh mắt của cô ta sẽ thay đổi một lần. Đến khi Triêu Nhan chạm phải cái dằm đó khiến ngón tay bị thương, cô ta mới đưa chiếc khăn trong tay cho Triêu Nhan cầm máu. Nhìn thấy đôi mày Triêu Nhan hơi nhăn lại vì đau, Huệ Lan mới xác nhận rằng vết thương mới có của Triêu Nhan đã chạm vào độc trên chiếc khăn, liền lộ ra nụ cười như trút được gánh nặng. Sau đó, cô ta lại rỉ tai với Triêu Nhan điều gì đó, rồi rời khỏi phòng, ta đoán, cô ta định ra ngoài xử lý chiếc khăn ấy. Có điều vừa đi ra thì cô ta đã đụng phải tú bà và hai tên say rượu gây rối, nhất thời khó mà thoát thân, thế là cô ta đành phải giấu chiếc khăn vào trong tay áo mình, vốn tưởng rằng tuyệt đối sẽ không bị người khác phát hiện ra.” “Nhưng vẫn không thoát khỏi mắt điện hạ. Tuy trước giờ Dương Chính Đạo luôn biết người em họ ngoại này thông minh, nhưng nay nghe thấy y có thể nhạy bén nắm bắt được những thay đổi biểu cảm đầy tinh tế như vậy, trong mắt vẫn có một chút sắc thái khác lạ. Lý Khác mỉm cười, nhìn gã nói: “Chuyện này có gì mà kinh ngạc? Biểu huynh đâu phải không biết, ta hoàn toàn không có hứng thú với cầm khúc. Trong khi biểu huynh say sưa với khúc Bình sa lạc nhạn, ta không có việc gì làm, đành chú ý tới những tiểu tiết vụn vặt đó thôi. Huống hồ, thứ Huệ Lan lấy ra lại là một mảnh khăn như thế! Chỉ tiếc là, lúc đó ta còn chưa nghĩ sâu xa, nếu không thì cũng chẳng để Triêu Nhan cô nương phải uổng mạng như vậy.” Khang Kiện ở bên cạnh nghe mà ngẩn cả người, rất lâu sau, hắn mới sắp xếp rành mạch được những suy nghĩ phức tạp trong đầu: “Nhưng điện hạ đã có thể minh oan cho mình, sao còn để cho mụ tú bà đó coi ngài là nghi phạm, mặc mụ sỉ nhục như vậy?” “Pháp tào không hiểu sao?” Dương Chính Đạo thấy Lý Khác không nói, liền trả lời thay y,“Điện hạ cố ý đợi người đến mới nói ra tất cả những gì mình biết, là để dạy người cách xử án đấy! Trong tay ngươi không phải còn mấy vụ vẫn chưa kết án sao? Để xem qua vụ án này, ngươi có thể có được chút gợi mở mới nào không.” “Điện hạ dụng tâm vất vả như vậy, hạ quan nhất định sẽ không phụ lòng ngài.” Khang Kiện lại quỳ xuống đất lần nữa, nét mặt kiên định hẳn. Lý Khác gật đầu. Y tự thấy mình giỏi nhìn người, tuy Khang pháp tào bình thường có phần không chú ý đến tiểu tiết, nhưng ngay thẳng trung thành, y có thể yên tâm sử dụng. Y ấn huyệt thái dương, xoa dịu những mệt mỏi cả ngày hôm nay: “Còn một chuyện nữa. Pháp tào biết trong thành An Châu có ai tên là Cảnh Nguyệt không?” “Cảnh Nguyệt?” Khang Kiện nhắc lại hai chữ này, suy nghĩ rất lâu, cuối cùng vẫn lắc đầu nói: “Hạ quan chưa bao giờ nghe thấy cái tên này. Không biết người này là nam hay nữ, già hay trẻ ạ?” Tiếng nhạn bi ai ngoài cửa sổ vọng vào, dư âm ngân nga réo rắt, xẹt qua tầng mây dày nặng trên bầu trời thành An Châu. Lý Khác thở dài thườn thượt, tuy đã đoán trước được chuyện này, nhưng vẫn không giấu nổi vẻ chán nản. Thấy Khang Kiện lộ vẻ xấu hổ vì không giúp được mình, Lý Khác an ủi: “Không có gì, ngươi về nghỉ ngơi trước đi.” Khang Kiện dạ một tiếng, lúc ra ngoài, vừa khéo nhìn thấy Quý Thành đang đi nhanh về phía này. Quý Thành trông rất giống người em trai Quý Ân của mình, chỉ là tính cách có phần trầm ổn, thu mình hơn. Quý Thành gõ cửa bước vào, đưa bức thư trong tay cho Lý Khác: “Điện hạ, viên tiểu lại ở dịch trạm Cát Dương vừa mới gửi tới.” Lý Khác nhận xong, liền xua tay với hắn: “Ta biết rồi, ngươi đi trước đi.” “Thư từ Trường An tới à?” Dương Chính Đạo nghiêng người hỏi. “Không sai, là thư hồi âm của Nhuệ ca.” Lý Khác vừa nói vừa đưa bức thư cho gã. Người anh rể Tiêu Nhuệ này của Lý Khác là con trai trưởng của Tiêu Vũ, em trai út của Tiêu hoàng hậu nhà Tùy. Nếu luận về thứ bậc, Lý Khác còn phải gọi gã là cậu họ. Chỉ có điều hai người trạc tuổi nhau, hồi nhỏ Lý Khác thường xuyên qua lại với gã, cũng chẳng bao giờ kể đến vai vế. Mấy năm trước, được hoàng đế ban hôn, Tiêu Nhuệ đã vẻ vang rước chị cả của Lý Khác là Tương Thành công chúa về làm vợ. Từ đó, Lý Khác cũng cứ thuận theo lẽ mà gọi gã là Nhuệ ca, so với ngày trước đôi bên còn thân thiết hơn vài phần. “Đệ với Trinh Khanh rời kinh, ta rất nhớ. Từ khi nhậm chức Đại Lý thiếu khanh, ta thấy u uất khó chịu, dù miệt mài bất kể ngày đêm, cũng khó mà phán đoán được những uẩn khúc ly kỳ của các vụ án...” Dương Chính Đạo nhận thư, thấy cả bức toàn là những lời kể khổ, không khỏi phì cười, nói: “Bệ hạ xem trọng chàng rể cả, cũng là chú họ ta nhường ấy, còn giao cho chú nhiệm vụ quan trọng như vậy, nếu để bệ hạ đọc được những lời than phiền này, không biết lão nhân gia người sẽ giận đến mức nào đây!” Lý Khác cười: “Nếu để huynh ấy nghe thấy huynh gọi huynh ấy là ‘chú họ, cũng không biết huynh ấy sẽ tìm huynh tính sổ như thế nào đây!” Dương Chính Đạo không nói gì, kiên nhẫn đọc hết những lời oán thán chiếm trọn hai trang giấy đó, lại thấy ở cuối thư có viết: “Bệ hạ gần đây thân thể khỏe mạnh, tinh thần dồi dào, đệ chớ ưu tư lo lắng” Dương Chính Đạo bỏ lại lá thư vào trong phong thư, tựa như không hiểu, lại tựa như thở than, nói: “Một tháng đệ phải viết ba công văn báo cáo công việc cho bệ hạ, sức khỏe bệ hạ thế nào, tinh thần ra sao, đệ không thể tự hỏi à, sao phải vòng qua Tiêu Nhuệ?” Lý Khác thu lại nụ cười, nói với vẻ mặt lạnh tanh: “Huynh không hiểu đâu.” “Sao ta lại không hiểu?” Dương Chính Đạo chỉ muốn lấy một thùng nước lạnh giội thẳng lên người Lý Khác: “Thứ chắn ngang đệ và bệ hạ là một cái gai hoàn toàn vô nghĩa. Ta nói sẽ giúp đệ, nhưng tuyệt đối không đồng tình với sự cố chấp nực cười này của đệ.” “Nực cười à?” Lý Khác bị hai chữ này đâm sâu vào tim gan đau nhói: “Mẹ ta hy sinh mạng sống của mình, chỉ vì không muốn làm người đàn ông bà yêu nhất phải khó xử. Nhưng người cha đó của ta đã làm gì cho bà hả? Dương Chính Đạo, huynh nói ta nực cười, bởi vì huynh chưa bao giờ có được.” “Đệ nói không sai, ta không hiểu chuyện giữa mẹ con, cha con các người. Từ giờ, ta cũng sẽ không khuyên đệ nửa lời. Đệ muốn điều tra họa tiết hoa đào đó, muốn biết thích khách năm xưa là ai, ta sẽ giúp đệ. Những cái khác, ta sẽ không quản nữa. Dương Chính Đạo gắng gượng đè nén nỗi đau trong lòng, giọng nói hơi run rẩy. “Xin lỗi, xin lỗi biểu huynh, ta không nên nói vậy, ta...” Thực ra lúc câu vừa rồi buột khỏi miệng, Lý Khác hối hận ngay. Cho dù cầm đao kề cổ y, y cũng có thể ung dung đối đáp, chỉ có động chạm đến chuyện này, y mới không kiểm soát được cảm xúc. Có lẽ, đó thật sự là một cái gai không thể đụng vào trong trái tim y, giữ lại thì đau, nhổ đi lại càng đau. Thấy Dương Chính Đạo không nói, Lý Khác đi đến trước mặt gã vái dài một cái, đang định quỳ gối thì lại bị gã đỡ lấy tay: “Ta không nhận nổi lễ lớn như vậy của Ngô vương điện hạ. Thôi bỏ đi, ta không chấp nhặt đệ đâu.” Từ tháng Năm, thành An Châu đã bước vào mùa mưa liên miên không ngớt. Mưa rơi rí rách rề rề từ sáng đến tối. Thư Yểu đón bát canh đậu xanh táo gai mà tiểu nha hoàn Đan Quế bê trên tay, bưng đến trước mặt Lý Khác, mắt ánh lên niềm vui dìu dịu: “Điện hạ mau nếm thử món canh thần thiếp nấu này, nghe nói nó thanh mát, giải khát tốt lắm” Lý Khác cầm thìa húp hai miếng, mỉm cười nói: “Vương phi nấu món đặc sản dân gian này của An Châu, thật chẳng thua kém gì các đầu bếp bậc thầy ở Vinh Khánh trai. Thư Yểu bất giác đỏ bừng cả mặt: “Đây là món mà thần thiếp dốc lòng học từ bà đầu bếp bản xứ trong phủ, điện hạ thích là được rồi.” “Tất nhiên là ta thích. Vương phi vất vả rồi.” Lý Khác vừa nói vừa đưa mắt ra hiệu với Đan Quế. Đan Quế thu dọn bát canh và thìa, lặng lẽ lui ra ngoài. Lý Khác thấy Thư Yểu hơi cúi đầu không nói gì. Vị vương phi này của y quá trầm tính, nên mỗi khi ở một mình với nàng, y đều cảm thấy hơi lúng túng. Nhưng y dường như cũng rất khó tìm ra chủ đề trò chuyện để phá vỡ không khí ngượng ngùng này. Giống như bây giờ, y nghĩ ngợi một hồi, lúc ngẩng đầu chợt liếc mắt thấy một bức tranh treo trên tường, liền chỉ vào nó nói với Thư Yểu: “Vương phi biết bức tranh này vẽ gì không?” Thư Yểu quan sát tỉ mỉ hồi lâu, thấy trong tranh có rất nhiều nhân vật, mà trang phục mỗi người một khác, nhưng đều hướng về một vị quân vương đội mũ miện chín tua ngọc trai trắng, mặc áo cổn màu đen viền chỉ vàng đứng cao nhất trong tranh làm lễ triều bái. Bức tranh tao nhã, mộc mạc cổ xưa, mang khí phách hào hùng, rất có phong vị Trung Hoa sừng sững. “Bức tranh này vẽ cảnh các nước phiên thuộc làm lễ triều bái với hoàng đế bệ hạ của Đại Đường chúng ta phải không ạ?” Thư Yểu nói rất nhẹ, có phần rụt rè vì cực kỳ thiếu tự tin. “Chính là cảnh đấy, nhưng đối tượng thì không đúng” Lý Khác nói: “Bức tranh này tên là Phiên khách nhập triều đồ, do Lương Nguyên Đế Tiêu Dịch vẽ. Nó cùng với Thánh tăng tượng, Tuyên ni tượng được người đời sau gọi là “tam tuyệt. Bản gốc hiện đang ở chỗ Diêm Lập Bản, đệ nhất họa sư bản triều, tướng tác thiếu giám. Diêm thiếu giám rất quý trọng chúng, bản vương từng mượn ông ta ba ngày, vội vàng sao chép lại, chung quy vẫn chưa đạt được tinh túy của Tiêu Dịch.” “Điện hạ lợi hại quá!” Mặt Thư Yểu tràn đầy vẻ kính phục, “Thần thiếp thấy, tranh của điện hạ thật sự rất đẹp!” Lý Khác không đồng tình: “Còn kém xa! Nàng nhìn công phu dừng chuyển của nét bút này xem, so với Tiêu Dịch thì khác nhau một trời một vực. Hay ví dụ như màu đỏ của áo bào mà vị sứ giả này mặc, không thể bì được với màu đỏ trong bản gốc. Ta từng định đun sôi chu sa để làm thuốc màu, nhưng cuối cùng lại thôi.” “Điện hạ chớ tùy tiện thử.” Thư Yểu nghe câu cuối cùng này, không kìm được vội vàng nói: “Chu sa mà gặp nhiệt sẽ sinh ra khí độc ngay, không tốt cho cơ thể.” Lý Khác trầm ngâm nhìn nàng, nét cười trên mặt đậm dần: “Vương phi chớ lo, ta biết mà, chẳng qua chỉ nói vậy thôi.” Vẻ mặt Thư Yểu lúc này mới hơi dịu đi, ngay sau đó nàng chậm rãi nắm lấy tay của Lý Khác, tựa đầu vào vai y: “Mấy hôm nay thời tiết khó chịu, điện hạ phải giữ gìn sức khỏe cẩn thận, nhất thiết không được quá lao lực.” Giữa trưa, mưa phùn rả rích cuối cùng cũng ngừng một lúc, cầu vồng cong cong treo giữa bầu trời, hơi ẩm trong không khí rõ ràng đã giảm bớt mấy phần. Lý Khác thu dọn xong mười lăm bản công văn trên bàn, đứng dậy nói: “Vương phi có muốn ra ngoài phủ đi dạo cùng ta không?” Thư Yểu hơi ngẩn người. Hồi xưa lúc ở trong khuê các, nàng gần như không ra khỏi cửa. Sau khi làm vương phi, cũng ở trong phủ cả ngày. Nàng nhớ chị mình luôn nói, cô nương nhà gia giáo không được thò đầu lộ mặt. Cô nương nhà gia giáo cũng không nên tùy tiện bàn luận chuyện yêu đương, dù là chồng tương lai cũng chỉ được kính, không được yêu. Bằng không, nếu một ngày chồng thay lòng đổi dạ, nàng sẽ chẳng còn gì cả. Thư Yểu cũng đồng ý với lời của chị. Vì vậy từ khi được gả vào vương phủ, nàng chỉ tận tâm tận lực làm một vương phi, chứ không phải là một người vợ. Nàng có thể lo liệu tốt mọi việc trong phủ cho y, nhưng chưa bao giờ thỏ thẻ làm nũng với y. Giống như chiều hôm qua, nàng đau đầu ghê gớm, nhưng vẫn cứ ngăn cản các nha hoàn, không cho họ đi nói với Lý Khác, mà chỉ nằm mê man trên giường cả buổi chiều. “Vương phi?” Lý Khác thấy nàng lâu không trả lời, liền gọi một tiếng. “Tất nhiên là thần thiếp muốn đi theo điện hạ rồi, xin điện hạ đợi một lát.” Đến giờ Thư Yểu mới lên tiếng như vừa tỉnh giấc mơ. Nàng thay một bộ đồ nam với ống tay hẹp, mặc vào trông lại hơi giống một thư sinh nho nhã yếu ớt. Lý Khác thấy nàng ăn vận như vậy, bất giác thoáng ngẩn ngơ: “Thư Yểu ăn vận thế này, thật là hiếm thấy.” Trong trí nhớ, dường như đây là lần đầu tiên y gọi nàng bằng khuê danh. Nếu không phải trên tờ canh thiếp[*]lúc hợp hôn có ghi họ tên của đôi bên, thì Thư Yểu thậm chí còn cho rằng, cả đời này y sẽ không biết tên nàng. Mà nay, y bất ngờ gọi nàng như vậy, trong lòng nàng lại có một niềm vui nhàn nhạt vô cớ. Nàng không đáp, chỉ hé một nụ cười nhẹ như gió thoảng. Khi hai người họ đến Chu Ký trà lâu trên đường Hà Thanh thì đã là giờ Mùi ba khắc. Tòa Chu Ký trà lâu này chia làm hai tầng, tầng trên có tổng cộng sáu gian nhã phòng, tầng dưới thì đặt hơn mười chiếc bàn thấp để cho mọi người thưởng trà trò chuyện. Gã tiểu nhị trẻ tuổi tên Chu Lộc vắt một chiếc khăn vải trắng trên vai, rảo bước ra chào đón: “Mời hai vị vào trong.” Lý Khác chọn chỗ gần cửa sổ, ngồi xuống nói: “Cho một ấm trà mao tiêm thượng hạng. Còn nữa... Thư Yếu muốn dùng gì?” “Vậy cho một cốc nước mật ong đi! Thêm bốn cái bánh trà nữa!” Thư Yểu vừa nói vừa hơi nhấc cánh tay lên, rõ ràng vẫn không hoàn toàn thoải mái với chiếc áo bào trên người. “Vị công tử này thật đúng là người sành sỏi!” Chu Lộc toét miệng, không giấu nổi nụ cười trên mặt,“Nói đến việc làm bánh trà, nếu bảo Chu Ký trà lâu của chúng tôi là số hai thì không ai dám nhận là số một!” Đến khi Lý Khác nếm món bánh trà này, mới biết Chu Lộc không hề nói quá. Mùi vị vừa thơm mát vừa mềm dẻo này, theo y nhớ thì cũng chỉ có ngự thiện trong cung là có thể sánh được. Lý Khác quan sát Thư Yểu, song nàng lại không tỏ ra ngạc nhiên thích thú gì lắm với mùi vị của món bánh trà này. Y đang định nói thì chợt nghe thấy giọng nói hùng hồn của một người đàn ông vạm vỡ mặt tròn ở bàn bên: “Người ông bảo chính là Hạ Kỷ, chú của Hạ đại phu Hạ Thiệu Nghiêm của Từ Tế đường đó ư? Sao đột nhiên lại chết thế?” Người đàn ông trung niên thân hình cao gầy, gò má cao sống mũi tẹt ngồi đối diện nọ bèn hạ thấp giọng: “Chính là hắn đấy! Nghe nói hôm qua sau khi say rượu hắn ngã xuống sông Lưu Vận ở phía Tây thành, lúc vớt lên thì cơ thể đã trương phình hết cả rồi!” Người mặt tròn đút nửa cái bánh trà vào miệng, mới nhai được hai miếng, chắc là bị nghẹn, vội vàng cầm lấy ấm, rót thật nhiều nước trà vào miệng, mãi sau mới nói tiếp: “Tay Hạ Kỷ này suốt ngày chỉ biết uống rượu, tìm nữ nhân trong kỹ viện để vui vẻ. Kết cục như vậy cũng chẳng có gì lạ.” “Ai bảo không có! Chỉ là nghe nói Hạ Thiệu Nghiêm rất đau lòng, suy cho cùng cha và chú y mất cả rồi, nhà họ Hạ cũng chỉ còn mỗi y kế thừa hương hỏa. Người cao gầy uống ngụm trà, nói với giọng đầy cảm khái. Lý Khác nghe câu chuyện phiếm này, phiền muộn trong lòng lại trỗi dậy. Đơn thuốc đoạt mạng mà Hạ Lăng để lại, hai chị em họ là Triêu Nhan và Huệ Lan dường như có liên quan mật thiết đến Hạ gia nhưng đều đã chết, Cảnh Nguyệt không biết là nam hay nữ mà Huệ Lan nói, tiểu sư muội bí ẩn bị ép gả cho nhà quan, cùng với hai chiếc khăn gấm thêu họa tiết hoa đào giống hệt hình xăm trên cánh tay thích khách năm xưa... Giờ đây, dường như lại có thêm tai nạn là người chú phong lưu say rượu chết đuối. Vở kịch hay này của Hạ phủ đang được trình diễn lần lượt từng màn một. Lý Khác không lắng nghe hai người này nói nữa, ngoảnh sang thấy Thư Yểu đang đưa tay xoa trán, đôi mày hơi nhíu lại, liền quan tâm hỏi: “Sao thế? Khó chịu ở đâu à?” Thư Yểu lấy tay chống trán, hạ giọng xuống rất thấp: “Không có chuyện gì to tát đâu, chẳng qua chứng đau đầu cũ lại tái phát, là bệnh từ nhỏ của thần thiếp, điện hạ chớ lo.” Lý Khác đang định nói “không nghiêm trọng thì tốt”, nhưng nhìn thấy mặt nàng đã hơi tái, liền đứng dậy kéo tay nàng nói: “Đã đau đến mức này mà vẫn bảo là không có gì. Dù sao phủ đệ của Hạ đại phu cũng không xa, ta đưa nàng đến khám!” Lý Khác không bảo đi Từ Tế đường, mà nói thẳng là đi Hạ phủ, vì biết giờ này Hạ Thiệu Nghiêm tất nhiên đang chủ trì tang lễ. Nếu không đưa Thư Yểu đi khám bệnh, y cũng sẽ tìm lý do khác để đến Hạ phủ tìm hiểu ngọn nguồn. Tuy nhiên, y có tìm được lý do hay không thì cũng chẳng đáng ngại, cho Hạ Thiệu Nghiêm một trăm lá gan, hắn cũng không dám chặn đô đốc An Châu ở ngoài cửa. Người đến Hạ phủ điếu tang nườm nượp không ngớt. Nhưng tuyệt đại đa số đều không coi cái chết của Hạ Kỷ ra gì, chẳng qua họ nể mặt Hạ Thiệu Nghiêm mà thôi. Hạ Thiệu Nghiêm mặc đồ tang trắng, tóc búi lại gọn gàng bằng một cây trâm gỗ, mắt lờ mờ tia máu đỏ, chắc là do cả đêm chưa ngủ. Sau khi chẩn mạch kỹ càng, hắn mới khẳng định: “Lý công tử yên tâm, bạn ngài chẳng qua là thể chất hư hàn, gần đây lại ngủ không ngon, uống chút thuốc ấm dạ ngủ yên này chắc chỉ ít ngày nữa là bệnh tình sẽ thuyên giảm ngay.” Nói xong, Hạ Thiệu Nghiêm liền đưa đơn thuốc vừa mới viết cho một tiểu nô ở bên cạnh. Lý Khác nghe thấy giọng hắn khàn khàn, rất khác với ngày thường, chắc do không cẩn thận bị cảm lạnh: “Đa tạ Hạ đại phu. Vừa nãy ta và bạn đi đến đây, mới hay chuyện của lệnh thúc, xin Hạ đại phu nén buồn gắng sống.” Hạ Thiệu Nghiêm đứng dậy vái dài Lý Khác một vái nói: “Đa tạ Lý công tử quan tâm. Chú tôi ra đi đột ngột, trong lòng tôi thật sự...” Giọng hắn hơi nghẹn ngào, vừa mới nói hai câu đã không nói tiếp được nữa. Đúng lúc này, tiểu nha hoàn Hồng Lăng bước vào nói với Hạ Thiệu Nghiêm: “Công tử, An đại phu và hai vị An công tử của Lô Tuyết đường đã đến linh đường tế bái.” Hạ Thiệu Nghiêm lấy lại tinh thần nói: “Mời ba vị ấy nghỉ ngơi một lát trước đi, ta sẽ đến ngay.” Nói xong lại cáo lỗi với Lý Khác, rồi vội vàng đi theo Hồng Lăng. Lý Khác nhìn thấy trên tường trong phòng treo một bức chữ: Kiến công lập nghiệp, thịnh đức trường lạc (Dựng công lập nghiệp, đức dày vui mãi). Hai bên là tranh cổ Nhan Uyên vấn nhân và Tử Lộ vấn chính[*]. Lý Khác nghĩ bụng: Lẽ nào Hạ Thiệu Nghiêm vẫn còn ôm mộng làm quan sao? Lại thấy trên giá sách bằng gỗ tử đàn đó chất đầy thẻ tre, tiện tay mở vài quyển thì thấy tất cả đều là sách y, phương thuốc cổ quý hiếm. Xem ra tin đồn Hạ Lăng từng làm thái y trong cung nhà Tùy chắc không phải là giả. A Mai nãy giờ đứng hầu bên cạnh đưa một chiếc cốc nhỏ viền vàng vẽ đầy những hoa cho Lý Khác, nói: “Công tử hãy cứ ngồi đợi một lát đã, Triệu Nhị ca sẽ cầm thuốc về nhanh thôi.” Lý Khác nhấp một ngụm xong liền nói: “Đây là...” A Mai ngẩn ra giây lát mới kịp phản ứng: “Công tử không phải là người gốc An Châu rồi. Đây là tập quán của chúng tôi, trong nhà có tang thì đều dùng nước đường để tiếp đãi khách.” Lý Khác “à” một tiếng, lại hỏi vu vơ: “Lang chủ[*] nhà cô ra ngoài gặp bạn, lẽ nào đều không mang theo người hầu bên mình ư? Sao lại gặp phải kiếp nạn này?” A Mai nhìn vị công tử trẻ tuổi phong thái ngời ngời trước mặt, trong lòng không khỏi nảy sinh đôi chút rung động thiếu nữ, giọng nói cũng dịu dàng thùy mị hơn nhiều: “Hà quản gia không ở đây, bình thường chính Triệu Nhị ca là người luôn bên cạnh lang chủ. Chỉ là hôm qua lang chủ lại bảo rằng phải ra ngoài gặp một người bạn cũ đã rất lâu không gặp, không cần Triệu Nhị ca đi theo. Kết quả là... đến khi người qua đường cứu lang chủ lên, quay lại báo cho công tử, thì đã không kịp nữa rồi.” “Nói vậy thì, hôm qua lúc lang chủ nhà cô say rượu chết đuối, Hạ đại phu ở trong phòng thuốc suốt à?” Lý Khác đảo mắt tránh ánh nhìn nồng cháy đang dán vào mình của A Mai, chậm rãi vê ngón tay hỏi. A Mai bước vài bước đến bên cạnh Lý Khác, rót thêm chút nước đường vào trong cốc của y: “Vâng ạ! Triệu Nhị ca bảo là, hôm qua công tử ở trong phòng thuốc viết đơn, sau đó giao việc bốc thuốc cho mấy người bọn anh ấy cũng đang ở đó.” “Cũng tức là, bình thường Triệu Nhị đều ở bên cạnh lang chủ nhà cô, chỉ có hôm qua đột nhiên bị Hạ đại phu gọi đến phòng thuốc bốc thuốc giúp y. Việc này không phải rất kỳ lạ sao?” Lý Khác nhanh chóng tóm lấy ý tứ ẩn trong lời nói của A Mai, ánh mắt từ từ xoáy vào cô. A Mai giật mình sợ hãi trước ánh mắt dữ dội đó, nhất thời không biết nên trả lời thế nào, vô thức nhìn ra bên ngoài, lại trông thấy đằng xa Triệu Nhị đang chạy tới. Triệu Nhị vừa chạy vừa lau mồ hôi trên trán, trong tay cầm hai gói thuốc và một bình nước mật ong nhỏ, thở hồng hộc nói: “Đây là thuốc bốc theo đơn mà công tử viết, pha với nước mật ong này uống là được.” “Thay ta cảm ơn công tử nhà cậu.” Lý Khác lấy một lạng bạc từ trong tay áo đưa cho Triệu Nhị, sau đó lại nói,“Chiều qua ta đến phủ tìm Hạ đại phu, vừa rồi nghe cô nương này bảo, mới biết Hạ đại phu cùng cậu ở trong Từ Tế đường suốt.” Triệu Nhị thu bạc về, mồ hôi làm nhúm tóc lòa xòa của hắn bết lại trên trán: “Còn không phải sao, từ sáng sớm hôm qua công tử đã bảo tiểu nhân là muốn kê một ít thuốc chữa cảm lạnh và mẩn ngứa cho mấy cụ già nhà nghèo uống.” “Hạ đại phu quả là một thầy thuốc nhân từ.” Lý Khác thấy mặt Thư Yểu lộ vẻ mệt mỏi, liền nói với A Mai,“Mặt trời sắp lặn rồi, nhờ cô nương chuyển lời với Hạ đại phu, giờ chúng ta về phủ trước đã, mấy hôm nữa sẽ lại đến cửa cảm ơn!” Triệu Nhị thấy bọn họ đi xa, quay đầu lại thì bắt gặp ánh mắt si mê của A Mai, liền huơ tay trước mặt cô nói: “Anh bảo này, công tử nhà ta qua lại với nhân vật hàng đầu như vậy khi nào thế? Còn nữa, em... em ngắm trúng người ta rồi phải không? Em quên hồi nhỏ từng nói là muốn làm vợ anh rồi sao?” A Mai đỏ mặt, phớt lờ hẳn, bưng khuôn mặt nóng bừng chạy vụt ra ngoài như làn khói, suýt chút nữa đụng phải một cây lựu trong sân. Lý Khác và Thư Yểu còn chưa vào cửa phủ đã thấy Quý Ân hớt hải chạy tới, mặt lộ vẻ sốt ruột, nói: “Điện hạ, cuối cùng ngài cũng đã về. Vương công công trong cung tới, giờ Dương công tử đang trò chuyện với ông ta!” “Vương công công?” Lý Khác không khỏi cau mày: “Ông ta tới làm gì? Người đưa vương phi về nghỉ trước đi, bảo Tử Đằng sắc thuốc này cho vương phi uống” Người tên Vương Trung này là đại hoạn quan hầu hạ bên mình hoàng đế, không dễ gì rời khỏi kinh đô. Bình thường nếu hoàng đế có gì cần dặn bảo y, sẽ chỉ phái một tiểu thái giám. Lần này để Vương Trung tới, chẳng lẽ trong triều xảy ra chuyện lớn gì sao? Song, sau gần nửa canh giờ tán gẫu với Vương Trung, Lý Khác vẫn không biết vị công công già tóc bạc này tới đây làm gì. Vương Trung uống chén trà đã nhạt toẹt từ lâu, lại quan sát Lý Khác từ đầu đến chân một lần nữa, sau đó nói: “Nô tài vẫn cảm thấy điện hạ gầy đi rất nhiều. Thân thể điện hạ vẫn khỏe mạnh thật chứ?” Lý Khác dang hai tay, cười rằng: “Nãy giờ ông đã hỏi vấn đề này ba lần rồi, ta thật sự rất khỏe.” “Vậy điện hạ sống ở An Châu đã quen chưa? Nô tài thấy hôm nay trời nồm ghê gớm, rất dễ sinh bệnh.” Vương Trung cầm ấm trà lên, rót thêm chút trà vào chén của mình, lần này cũng không vội uống. Lý Khác nghĩ bụng: Có chuyện gì ngươi không thể nói rõ hơn một chút được sao? Cứ vòng vo như vậy, ngươi không mệt thì ta cũng mệt lắm rồi! Có điều y vẫn nói với giọng rất ôn hòa: “Đa tạ Vương công công quan tâm. Lý Khác ở An Châu mọi thứ đều ổn cả.” Vương Trung dường như vẫn không chịu từ bỏ, chẳng ngại phiền hà, hỏi tiếp: “Vậy các quan viên trong phủ đô đốc An Châu cũng ổn cả chứ? Không vì điện hạ còn trẻ mà làm việc lấy lệ đấy chứ?” Lần này Lý Khác thực sự chịu hết nổi, y không kìm được ném ánh mắt cầu cứu về phía Dương Chính Đạo đang ngồi một bên im lặng đã lâu, nào ngờ Dương Chính Đạo cũng chỉ nhìn trả lại y bằng vẻ mặt bất lực, ý nói: Người ông ta hỏi là đệ, không phải việc của ta. Lý Khác thấy vậy, cuối cùng đành phải nói: “Bọn họ cũng đều ổn cả. Không biết bệ hạ phái Vương công công đến An Châu rốt cuộc là muốn truyền đạt ý chỉ gì?” “À thì… thực ra cũng không có chuyện gì.” Vương Trung vuốt cái cằm nhẵn thín, chậm rãi nói: “Hoàng Châu lụt lớn, bệ hạ muốn nô tài truyền chỉ cho thứ sử Hoàng Châu Tăng Truyền, trao quyền tùy nghi làm việc cho ông ta, tiện đường qua xem điện hạ có ổn không.” Đi từ Hoàng Châu, phải tiện bao nhiêu đường mới có thể đến được An Châu đây! Lý Khác bất giác thấy hơi tức cười: “Vậy thì vất vả cho Vương công công rồi. Ông đi cả chặng đường gió bụi đến đây, chi bằng vào phòng khách trong phủ nghỉ một lát trước đã, đến giờ cơm tối ta sẽ cho nha hoàn đến gọi.” “Vậy cũng được.” Vương Trung thấy Lý Khác luôn miệng gọi mình là “ông” trong lòng thực sự nảy sinh vài phần cảm động. Ông ta đứng dậy, lúc sắp bước đến bậu cửa thì đột nhiên quay người lại gọi một tiếng: “Điện hạ...” “Vương công công còn có chuyện gì sao?” “Điện hạ thực sự không biết tại sao bệ hạ bảo nô tài đến An Châu ư?” Vương Trung suy nghĩ một chút, cuối cùng vẫn nói ra những lời trong lòng,“Bệ hạ nhớ ngài. Nếu nô tài trở về nói điện hạ ở An Châu có gì không thoải mái, chắc bệ hạ sẽ bảo ngài về Trường An ngay lập tức.” Vẻ mặt của Lý Khác không chút xao động, giọng y điềm đạm, lạnh băng: “Vậy phiền Vương công công tâu với bệ hạ, Lý Khác ở An Châu, muôn việc đều toại lòng, xin ngài không cần lo lắng.” Vương Trung nghe xong, còn muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng cũng chỉ lắc đầu bất lực, tiếp tục đi. “Tính tình hai cha con đệ thật sự giống hệt nhau.” Dương Chính Đạo nhìn theo bóng lưng rời đi của Vương Trung, không khỏi thở dài một tiếng, vừa đảo mắt thì đụng phải ánh mắt của Lý Khác, liền dừng ngay lời đang định nói,“Được rồi, ta không chọc đệ nữa.” “Biểu huynh vẫn còn thù ta cơ à! Mấy hôm nay ta đã xin lỗi hơn ba lần rồi mà. Lý Khác thấy Dương Chính Đạo cứ giữ bộ dạng kính trọng mà xa cách mình, bèn kéo tay áo gã như một đứa trẻ mắc lỗi,“Ta có chuyện nghiêm túc muốn nói với biểu huynh.” Nói rồi y cũng mặc kệ Dương Chính Đạo có chịu nghe hay không, nhất nhất kể lại tình hình trong Hạ phủ mà hôm nay y đến thăm dò được cho Dương Chính Đạo. Dương Chính Đạo nghe chuyện, không khỏi cau mày: “Giữa ban ngày ban mặt Hạ Kỷ một mình ra ngoài uống rượu, đã sơ ý uống say, còn bất cẩn trượt chân rơi xuống nước, cũng thật là kỳ lạ!” “Còn gì nữa! Ta thà tin rằng Hạ Thiệu Nghiêm ra tay giết chú của hắn, chứ không tin mấy lời bậy bạ trượt chân gì đấy!” Lý Khác bước tới gạt then cửa sổ đang cài hờ lên, khóe miệng nhếch lên đầy mỉa mai lạnh lùng. Dương Chính Đạo nghĩ một chút rồi mới nói: “Đệ chắc chắn tay Triệu Nhị đó không nói dối chứ? Hắn thật sự ở cùng Hạ Thiệu Nghiêm cả buổi chiều sao?” “Trông cách hắn nói chuyện thì không giống giả. Huống hồ lúc đó trong phòng thuốc còn có hai người làm thuê khác, nghe nói, họ cũng tận mắt chứng kiến Hạ Thiệu Nghiêm đưa đơn thuốc đã viết xong cho họ đi bốc thuốc... Không, không đúng!” Trong thoáng chốc, Lý Khác dường như hiểu ra điều gì đó, sau đó liền nói ra những nghi ngờ trong lòng mình bằng giọng đều đều. “Ý của đệ là..” Dương Chính Đạo càng băn khoăn lo lắng ra mặt: “Chuyện này cũng thật khó bề tưởng tượng, sao có thể tồn tại một người như vậy chứ?” “Sao lại không thể? Chẳng phải Khang Kiện bảo là bình thường Hạ Thiệu Nghiêm toàn giao du với đại phu sao? Chưa biết chừng có ai đó có quan hệ cực thân với hắn.” “Dù là thân thiết tới đâu chăng nữa, lại có kẻ cam tâm tình nguyện làm những chuyện kiểu này giúp hắn sao? Còn cả thời cơ, động cơ nữa, đệ đã nghĩ đến chưa?” “Ta không biết. Ta chỉ cảm thấy toàn bộ sự việc này đều vô cùng kỳ quặc. Khang Kiện từng nói, mối quan hệ giữa Hạ Kỷ và Hạ Thiệu Nghiêm tương đối lạnh nhạt. Song Hạ Thiệu Nghiêm mà ta thấy hôm nay lại đau lòng cùng cực, đương nhiên cái này rất có thể là vờ vịt cho người ngoài xem. Nhưng... nhất thiết phải vờ vịt sao? Vờ vịt thái quá, trái lại sẽ thành giấu đầu hở đuôi.” Nụ cười khẩy nơi khóe miệng Lý Khác càng hằn rõ. “Nhưng đó cũng chỉ là suy đoán của đệ thôi.” Dương Chính Đạo lắc đầu, “Ta luôn cảm thấy, mối nghi ngờ của đệ đối với Hạ Thiệu Nghiêm xuất phát từ thành kiến của đệ với hắn, mà tất cả những nghi ngờ thiết lập trên cơ sở thành kiến đó, thực chất không đứng vững được, không phải sao?” “Ta với hắn vốn chẳng quen biết, lấy đâu ra thành kiến?” Lý Khác phản bác, “Chính huynh quan sát thấy đơn thuốc đó có vấn đề trước, cũng chính huynh phát hiện ra tiểu lang quân ra vào Từ Tế đường là nha hoàn lầu xanh Huệ Lan. Giờ huynh lại bảo mối nghi ngờ của ta hoàn toàn xuất phát từ thành kiến?” Dương Chính Đạo nói lập lờ: “Ta chỉ nói ra sự thật hiện lên bề ngoài thôi, chính đệ đã trao thành kiến cho những sự thật này... đó chỉ là suy đoán chủ quan thôi. Ví dụ như đơn thuốc đó, lẽ nào không thể chỉ là Hạ Lăng tiện bút viết bừa? Hay như Huệ Lan, chẳng nhẽ một công tử trẻ tuổi đẹp trai sáng sủa như Hạ Thiệu Nghiêm không thể tìm một, hai hồng nhan tri kỷ trong lầu xanh sao?” Tay phải Lý Khác xoa nhẹ viên ngọc mỡ dê trên cổ tay, mắt dần tối lại: “Có lẽ huynh nói đúng, có lẽ mọi chuyện liên quan đến Hạ Thiệu Nghiêm đều chỉ là phỏng đoán của ta mà thôi.” Dương Chính Đạo nghe y nói vậy, chợt nhớ lại tết Nguyên tiêu năm nọ, trên thảo nguyên mênh mông ở Đột Quyết, người đàn bà đó đã nói với gã bằng giọng trịnh trọng: Trong bất cứ hoàn cảnh nào, cháu đều phải toàn tâm toàn ý hỗ trợ nó, bất kể cháu coi nó là em trai, là bạn, hay là chủ nhân. Gã hỏi: Nếu cháu không giúp nổi y thì phải làm thế nào? Người đó nói: Làm tất cả những gì cháu có thể! Nếu vẫn không được, vậy thì đó là số mệnh của nó, cũng là số mệnh của cháu. Nghĩ đến đây, gã liền vỗ nhẹ vào tay Lý Khác: “Không sao, đó có lẽ là phỏng đoán của ta thôi. Ngày mai chúng ta cùng đến bờ sông Lưu Vận xem thử. Giờ đệ nghỉ ngơi trước đi, lát nữa dùng bữa tối không biết Vương công công còn muốn làm phiền đệ như nào nữa đâu!” “Đợi đã biểu huynh..” Lý Khác thấy Dương Chính Đạo quay người sắp đi, liền gọi giật gã lại,“Tại sao?” “Tại sao cái gì?” Lông mi Dương Chính Đạo khẽ động, gã không hiểu hỏi lại. Lý Khác nghiêm nghị nói: “Tại sao biểu huynh phải đến An Châu? Từ lâu bệ hạ đã có ý coi trọng huynh, một chức tư mã phủ đô đốc có thể giữ chân được huynh sao?” “Năm đó ta và bà nội từ Đột Quyết trở về, cho dù bệ hạ dùng nghi lễ long trọng nhất, cho dù Giang Hạ vương đối đãi với chúng ta có thừa tôn kính, nhưng ta vẫn cảm thấy sợ hãi, sợ hãi vì cảm giác lạc lõng bơ vơ” Dương Chính Đạo ung dung nói, chỉ là khó giấu nổi nét đau buồn nhàn nhạt giữa hai hàng lông mày,“Ta không dám đối mặt với ánh mắt hoặc thương hại hoặc chế giễu của một đám người lạ, vì vậy ta đã rút khỏi bữa tiệc tối đó giữa chừng. Sau đó ta gặp đệ ở đình Quy Vân, chính một tiếng ‘biểu huynh’ đó của đệ đã cho ta biết rằng, có lẽ ta có thể coi nơi đây là nhà.” Lý Khác vì mấy câu này của gã mà thấy cay cay nơi sống mũi. Lúc đó, đại quân triều đình thắng trận trở về từ Đột Quyết, khắp nơi ăn mừng, Lý Thế Dân mở đại tiệc đãi quần thần trong điện Sùng Đức. Chẳng ai muốn nhớ đến những chuyện làm mất vui, mà hôm đó cũng là ngày giỗ của mẹ Lý Khác. Lý Khác đã rời khỏi đám đông từ sớm, một mình đi đến đình Quy Vân. Mai đỏ nở hoa, từng làn hương thơm thoang thoảng quanh quẩn trong không trung. Lý Khác thẫn thờ hồi lâu, đến khi nghe thấy tiếng bước chân đằng sau dần lại gần, mới quay đầu lại. Pháo nổ đì đùng, khói hoa lóa mắt. Lý Khác khẽ gật đầu với gã, gọi một tiếng: “Biểu huynh.” Có lẽ vì thấy trên mặt Dương Chính Đạo có một chút bi thương chẳng ăn nhập gì với bầu không khí của buổi tiệc lớn giống mình, Lý Khác gần như không buồn suy nghĩ, kể hết những tâm sự chất chứa đã lâu cho gã. Y nói: “Biểu huynh, mẹ ta chết trong một âm mưu lớn, ta không cam lòng để chân tướng bị chôn vùi mãi mãi.” Dương Chính Đạo yên lặng lắng nghe, đến khi nghe y nói ra câu này, mới chăm chú nhìn y, nói với giọng điệu kiên định khác thường: “Nếu điện hạ bằng lòng, ta sẽ mãi mãi ở bên cạnh giúp đỡ ngài.” Qua song cửa, ánh chiều tà từ từ chiếu lên khuôn mặt của Lý Khác. Y không hồi tưởng lại nữa, chỉ chầm chậm siết bàn tay thành nắm đấm. Giờ Thìn ngày hôm sau, Lý Khác và Dương Chính Đạo đích thân tiễn Vương Trung lên xe ngựa, làm ông ta cảm động suýt nữa thì lã chã tuôn rơi giọt lệ già. Tiểu thái giám Sĩ Lộc cúi người hành lễ tạm biệt họ xong, liền đánh xe chạy một mạch như bay. Dương Chính Đạo thở phào, không nhịn được ngáp một cái nói: “Đêm qua ta cùng vị Bồ tát này nói chuyện mãi đến giờ Dần, cuối cùng ông ta mới buông một câu, rốt cuộc vẫn là Dương công tử trẻ tuổi, sinh lực dồi dào. Ông ta không nhìn ra, rõ ràng ta đã díp cả mắt lại.” Lý Khác nghe gã than phiền như vậy, không khỏi phì cười: “Dương công tử vất vả rồi, đợi cuối năm ta sẽ phát thêm một tháng bổng lộc cho huynh, được không?” “Lần sau ông ta đến nữa, ta sẽ cho đệ ba tháng bổng lộc của mình, đệ đi mà tiếp chuyện ông ta!” Dương Chính Đạo dụi đôi mắt khô khốc, sau đó nói với Quý Thành ở bên cạnh: “Đi chuẩn bị ngựa đi, ta và điện hạ phải ra ngoài.” Từ phủ đô đốc phi nước đại một mạch về phía Tây Bắc hơn nửa canh giờ là đến sông Lưu Vận. Nghe nói vào thời Tây Tấn, trưởng sử An Châu Du Bành kiến nghị triều đình xây đắp đê điều ở bên cạnh sông Lưu Vận, đề phòng xảy ra lũ lụt. Ai ngờ các đại thần trong triều khi đó nhìn chung đều cho rằng Du Bành lo bò trắng răng, bèn lấy lý do triều đình mới lập, quốc khố trống rỗng để bác bỏ đề nghị của ông ta. Du Bành không nản lòng, không chỉ dốc hết gia sản, mà còn động viên bạn bè người thân bỏ tiền ra xây dựng. Trong hơn ba trăm năm sau đó, con đê này đã chặn đứng ít nhất năm trận lũ lụt lớn, đến nay vẫn sừng sững chưa sập. Bầu trời xám xịt, bốn bề mưa nhỏ lất phất, chốc chốc còn vang lên cả mấy tiếng sấm. Xung quanh sông Lưu Vận ít thấy khói bếp, dù là ban ngày nhưng vẫn có một luồng khí lạnh lẽo âm u. Lý Khác bước chậm rãi trên bờ đê thênh thang, nhìn nước sông trôi lững lờ, trong lòng càng thêm chắc chắn: “Con đê rộng lớn như này, bất kể thế nào cũng đâu đến nỗi trượt chân rơi xuống sông. Huống hồ Hạ Kỷ khi không lại một mình chạy đến đây làm gì?” Dương Chính Đạo ngồi trên ghế đá bên bờ, lấy tay lau những giọt mưa rơi trên má: “Vậy thì Hạ Thiệu Nghiêm... đúng là có chút thú vị.” Trong lúc nói chuyện, thấy có một chiếc thuyền nhỏ đang trôi chầm chậm về phía này, Dương Chính Đạo vội vàng vẫy tay với ông lái thuyền. Ông lái thuyền sang sảng đáp một tiếng, rồi chèo mạnh tay hơn. Khi sắp đến gần, ông lái thuyền mới bỏ nón lá trên đầu xuống, giũ nước mưa trên áo tơi, nói: “Hai vị công tử muốn qua sông à?” Dương Chính Đạo đặt một xâu tiền xu vào trong tay ông lão: “Tôi muốn hỏi thăm ông một chuyện. Chiều hôm qua có một người đàn ông trung niên ngoài ba mươi tuổi chết đuối ở sông Lưu Vận, ông có biết không?” Ông lái thuyền hơi ngập ngừng bỏ xâu tiền vào trong chiếc giỏ tre ở bên cạnh, gật đầu, rồi lại lắc đầu: “Già không tận mắt trông thấy, chỉ nghe người anh em trong nhà kể, lúc vớt lên ấy à, khuôn mặt của cậu ta đã trương lên rất to, đáng sợ lắm! Tôi nói mấy lần rồi, sợ là ma nước dưới sông đã quấn lấy cậu ta!” “Hả? Ông nói vậy nghĩa là sao?” Dương Chính Đạo tò mò hỏi. Ông lão buộc thuyền vào cây liễu lớn ở trên bờ, nói: “Thấy bảo trên mặt cậu ta có mấy vết cào. Không biết hai vị đã nghe qua chưa, mấy năm trước ở vùng này có ma quỷ lộng hành.” “Mấy năm trước sao?” Lý Khác cũng thấy hào hứng: “Mong được nghe rõ.” Ông lái thuyền ngồi khoanh chân trên sàn, vết sẹo hằn sâu trên gò má gầy nhom: “Vào một đêm chừng ba năm về trước, người anh em đó của tôi đưa một người phụ nữ và con gái của cô ta qua sông, khi đến giữa sông, thuyền bỗng ngày càng nhẹ đi, ngoảnh đầu nhìn thì đã không thấy hai mẹ con họ đâu, làm người anh em của tôi sợ đến nỗi đổ bệnh hai ngày.” Lý Khác thấy ông lái thuyền kể chuyện sinh động như thật, thầm nghĩ chắc ông ta có thể kết nghĩa với Khang Kiện được đây: “Sau đó thì sao? Không ai nhìn thấy mẹ con họ nữa ư?” “Đúng thế! Không thì sao gọi là ma quỷ lộng hành chứ!” Ông lái thuyền ngồi thẳng người, xếp ngay ngắn chiếc nón lá ở bên cạnh,“Người anh em của tôi không yên tâm, còn đến nha môn báo án. Nha môn phái mấy người tới, cũng chẳng thu được kết quả gì. Sau đó còn có một lão hòa thượng vân du bốn phương qua đây, khẳng định là họ bị con ma ở dưới sông bắt đi, không thì sao lại sống không thấy người, chết chẳng thấy xác chứ! Nghĩ lại thì cái cậu chết hôm qua cũng là bị bắt đi, ai ngờ con ma đó không vừa mắt với cậu ta, nên mới đem trả lại.” Lý Khác cúi người nhặt mấy hòn đá nhỏ ở cạnh chân ném xuống sông, mặt sông lập tức gợn sóng lăn tăn. Ma nước? Mấy lời bậy bạ này có ma mới tin. Ông lái thuyền đó chưa nhìn ra tâm tư của y, vẫn ngồi đó dông dài lải nhải những chuyện mà bản thân tin sái cổ. Khi ông lái thuyền kể đến hôn sự của đứa con thứ năm của ma nước dưới sông, mưa đã dần mau hơn. Dương Chính Đạo đành đưa thêm cho ông lão một xâu tiền xu, mua hai chiếc nón lá và áo tơi trong khoang thuyền của ông ta, với lại để cho ông ta về nhà sớm một chút, khỏi cần kể chuyện nữa. Ông lái thuyền ước lượng số tiền xu, giận dỗi nói gì đó, rõ ràng là kể vẫn chưa hết hứng. Hai con ngựa trắng sánh bước cạnh nhau, Lý Khác kéo dây cương, vuốt bộ bờm ngựa mềm mại nói: “Cuối cùng biểu huynh cũng biết trả người khác tiền xu, chứ không phải vàng bạc ngọc ngà nhỉ!” Dương Chính Đạo kéo nón lá xuống thấp hơn một chút, vừa đủ để chắn nước mưa tạt thẳng vào mặt: “Đây vẫn là khoản tiền trà mà lần trước ta đã tìm Lưu lục sự đòi hoàn trả. Vị quản gia này của đệ tính toán chi li thật, không đưa thêm dù chỉ một đồng.” Lý Khác không khỏi bật cười: “Huynh mà thiếu tiền tiêu sao?” Dương Chính Đạo hỏi lại: “Tại sao ta không thể thiếu tiền?” “Tuyết Lộ cũng đâu cần nhiều sính lễ của huynh như thế.” Lý Khác ngứa miệng lẩm bẩm, nhưng ngay sau đó lại cảm thấy câu này rất không hợp thời điểm, liền cố ý cao giọng hỏi: “Tối nay huynh có hứng cùng ta đến Hạ phủ một chuyến không?” Dương Chính Đạo dường như không nghe rõ câu trước của y, chỉ nghiêng đầu nhìn y nói: “Đệ... chắc không định đường hoàng mà đến phải không?” Lý Khác gật đầu, nói với vẻ đương nhiên: “Chúng ta trèo tường vào.” Dương Chính Đạo dở khóc dở cười: “Nhưng đệ đường đường là...” “Ta thật sự muốn làm trộm một lần,” Lý Khác ngắt lời gã, nghiêm túc nói,“huynh cứ ở bên ngoài canh cho ta là được rồi.” “Đệ cho rằng trộm chạy không được mà kẻ canh chừng lại chạy được sao?” Dương Chính Đạo khẽ thở dài một tiếng, đầy hàm ý sẵn sàng bỏ mạng theo quân tử: “Cùng nhau đi thôi, mấy năm nay những nơi kỳ quái mà ta và đệ đi còn ít sao?” “Vậy đúng giờ Tý đêm nay chúng ta sẽ xuất phát.” Lý Khác vỗ lưng ngựa một cái, con ngựa trắng phi như bay về phía trước, chỉ còn lại giọng nói của y vang vọng trong không gian. Cho dù nhà họ Hạ không được coi là gia đình phú hào hạng nhất ở An Châu, nhưng tường bao lại được xây cao ngất ngưởng. Tuy Lý Khác chăm chỉ học cưỡi ngựa bắn cung từ nhỏ, nhưng công phu trèo tường này vẫn kém xa Dương Chính Đạo. Sau ba lần thất bại, y đành phải xé đai lưng của cả hai thành những dải vải mảnh, buộc nối chúng lại rồi cột vào hàng rào để mượn lực trèo lên. Hành động ấy gây ra động tĩnh không nhỏ, may mà hai gia đinh trông cửa của Hạ phủ sau một ngày một đêm túc trực bên linh cữu đã mệt đến nỗi ngồi trên bậu cửa ngáy khò khò. Về khoản mù đường thì Lý Khác và Dương Chính Đạo giống nhau một cách kỳ lạ. Thế nên sau khi đi lòng và lòng vòng một lúc lâu, hai người mới tìm được linh đường của Hạ Kỷ. Hạ Thiệu Nghiêm quỳ gối trên chiếc bồ đoàn ở trước quan tài, người hơi nghiêng ngả, như thể đang ngủ gật, hai tiểu nha hoàn mặc đồ trắng ở bên cạnh vẫn ném tiền giấy vào trong chậu đồng, không biết đang nói chuyện gì. Dương Chính Đạo lấy ra hai viên đá lửa từ trong túi áo, châm ba nén hương trong tay, mùi hương nhanh chóng lan vào trong linh đường, ba người từ từ ngã xuống. Bây giờ Lý Khác mới cởi chiếc khăn ướt che mũi miệng xuống, thở phào nói: “Hương này lợi hại thật! Ở đâu ra vậy?” “Mê hương của Tây Vực, ta lại thêm vào trong đó mấy vị thuốc an thần, xem ra hiệu quả không tồi? Dương Chính Đạo ngắt tắt ba nén hương, tiện tay vứt vào trong bụi cỏ bên cạnh. Lý Khác cười: “Biểu huynh làm những chuyện trộm gà bắt chó kiểu này hợp thật đấy!” Dương Chính Đạo lườm y, cũng chẳng nói gì, chỉ lo bước nhanh về phía trước, thấy cả ba người đã nằm mê man bất tỉnh dưới đất, liền yên tâm gõ vào chiếc quan tài trước mặt. Xem ra nó được làm bằng gỗ tường thượng hạng, chất gỗ rất cứng. Lý Khác ở bên cạnh cảm khái: “Hạ Thiệu Nghiêm đúng thật là không tiếc vung tiền... Nghe tiếng mèo kêu đêm khàn khàn từ bên ngoài vắng tới, rốt cuộc Lý Khác cũng có tật giật mình, khẽ rùng mình, nuốt ngay những lời định nói tiếp theo xuống. Dương Chính Đạo vươn tay đẩy nắp quan tài, hạ giọng: “Còn ngây ra đấy làm gì? Mau qua giúp ta đi!” Lúc này Lý Khác mới tiến lên hai bước, đẩy mạnh nắp quan tài về phía trước vài cái. Hạ Kỷ trong quan tài mặc áo liệm màu đỏ, sắc mặt nhợt nhạt đáng sợ, như ông lái thuyền đã nói, trên má có mấy vết thương dài và mảnh, tứ chi sưng to tướng, có thứ gì đó như rêu xanh bám trong móng tay hắn. Hai tay thi thể siết chặt lại thành nắm đấm, vì đã cứng đờ từ lâu nên Lý Khác cố hết sức mới cạy ra được, thấy tay phải có nắm một mảnh nhỏ thứ gì đó dạng sợi. Dương Chính Đạo ấn mạnh vào phần phổi của thi thể, lập tức có nước bùn từ trong mũi miệng chảy ra. Gã vừa dùng khăn lau sạch tay mình, vừa nói: “Phần phổi có một lượng nước ứ đọng lớn, vết bầm tử thi trên tay hiện màu đỏ nhạt, nang lông có tình trạng phồng lên rõ ràng. Nhìn thi thể thì đích thị là chết đuối.” Lý Khác gật đầu, nghĩ bụng: Bình thường huynh thích đọc sách y, cuối cùng đến lúc then chốt cũng có thể dùng được đôi chút. “Nhưng nhìn vết cào trên mặt hắn cùng vết siết trên cổ tay thì không giống chẳng may rơi xuống nước mà chết. Nói rồi Lý Khác lại không kìm được nhìn xuống Hạ Thiệu Nghiêm đang ngã nằm trên mặt đất,“Mấy hôm nữa biểu huynh đi làm giúp ta một việc được không?” Dương Chính Đạo nghe tiếng bước chân dần đến gần, vội vàng đẩy nắp quan tài lên, kéo Lý Khác nấp dưới lá phướn trắng phía sau. Không lâu sau, quả nhiên nhìn thấy một người phụ nữ mặc áo trắng bước chầm chậm về phía bên này, cô ta thấy ba người nằm ngủ gục trên mặt đất thì cũng không kinh ngạc, mà đi thẳng lên đằng trước, sờ chiếc quan tài, gào khóc nức nở. Lý Khác hỏi bằng khẩu hình: Cô ta là ai? Dương Chính Đạo lắc đầu, hơi đứng thẳng lên một chút, vừa đủ để có thể nhìn thấy nét mặt của người phụ nữ đó. Cô ta khóc hết sức thương tâm, trông dáng vẻ thì tầm hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi, đôi mắt vô cùng linh động, có thể thấy hẳn là một mỹ nhân hàng đầu. Sau khi khóc đủ rồi, cô ta mới nghẹn ngào nói: “Chàng cứ yên tâm ra đi! Về phần thiếp, mọi thứ đều ổn cả.” Nói xong, cô ta lại hướng vào quan tài khấu đầu dập đất ba cái liên tiếp, rồi mới nghẹn ngào quay người rời đi. Đúng lúc này, Lý Khác nhìn thấy trên cổ cô ta có một hình xăm bươm bướm nhỏ. Hóa ra cô ta đến từ nơi ấy, lẽ nào cô ta chính là... Không phải chứ? “Còn chưa đi? Thuốc mê của ta cũng không duy trì được lâu đâu.” Không đợi Lý Khác hoàn hồn, Dương Chính Đạo đã kéo lá phướn trắng ra, sải bước đi ra. Hai người thấy hai gia đinh gác cửa ngủ ngáy ran bốn bề, liền hạ then gỗ cài cửa chính xuống, nghênh ngang bước ra. Lúc này trên đường phố thành An Châu vắng tanh không một bóng người, chỉ có bầu trời đầy sao đang nhấp nháy, tỏa sáng yếu ớt. Dương Chính Đạo tiện tay bẻ một cành liễu khua đi khua lại trên cái bóng của mình: “Vừa nãy đệ muốn ta làm giúp việc gì? Đừng có nói lại là theo dấu bám đuôi, trèo tường làm trộm nữa nhé.” Hiếm khi Lý Khác thấy gã trẻ con như vậy, vội vàng nói: “Triệu Nhị bảo là chiều hôm Hạ Kỷ chết, Hạ Thiệu Nghiêm luôn ở trong phòng viết đơn thuốc. Huynh giúp ta trộm... à mượn những đơn thuốc đó đi!” Dương Chính Đạo hừ khẽ một tiếng, ném cành liễu vào tay Lý Khác. Hôm nay coi như gã đã được lĩnh giáo tường tận thế nào là được đằng chân lân đằng đầu. Lý Khác quan sát kỹ biểu cảm trên mặt gã, cười xòa nói: “Vốn dĩ ta định tự đi, nhưng chẳng phải biểu huynh hiểu y thuật ư? Có thể nhân cơ hội chuyện trò với Hạ Thiệu Nghiêm để ra tay mà!”