🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Tham Gia Xây Dựng Chính Quyền Nhân Dân
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
PGS.TS. PHẠM VĂN LINH
Phó Chủ tịch Hội đồng
PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI
TS. NGUYỄN AN TIÊM
NGUYỄN VŨ THANH HẢO
ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT HÀ NỘI - 2016
TỔ CHỨC BẢN THẢO
NGUYỄN VĂN PHA
LƯU TRẦN LUÂN
PHÙNG KHÁNH TÀI
LÊ MẬU NHIỆM
ĐINH THỊ THANH GIANG
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc ta, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ trong Mặt trận để cùng nhau chống kẻ thù chung vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Ngày 18-11-1930, Hội Phản đế Đồng minh ra đời, một hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ đó đến nay,
ở mỗi thời kỳ cách mạng có những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, nhưng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không ngừng phát triển và trưởng thành, đóng góp to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên;
thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục ý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng
5
tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Cuốn sách Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng chính quyền nhân dân của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nêu những khái niệm cơ bản về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; một số nội dung cụ thể và một số câu hỏi đáp về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng chính quyền nhân dân.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 8 năm 2016
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
I- SƠ LƯỢC
VỀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1. Sự ra đời của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh - hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam. Từ đó đến nay, trong lịch sử cách mạng Việt Nam không bao giờ vắng bóng tổ chức Mặt trận. Trải qua các thời kỳ cách mạng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam đã không ngừng phát triển và trưởng thành, đã có những đóng góp to lớn vào những thắng lợi vĩ đại của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận Dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện nay.
7
Trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò của Mặt trận trong sự nghiệp cách mạng. Để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về công tác Mặt trận trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, năm 1999 Quốc hội đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, và tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII, ngày 9-6-2015, đã thông qua Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2016, trong đó quy định vị trí, vai trò, quyền, trách nhiệm, tổ chức, hoạt động, mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước, nhân dân
và các tổ chức... Đây là những vấn đề rất cơ bản cần nắm vững và quán triệt cả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ Mặt trận.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - một tổ chức liên minh chính trị
Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai
cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài”.
8
Liên minh chính trị là sự liên kết các lực lượng với nhau thành một khối thống nhất để thực hiện mục tiêu chính trị chung là giành, giữ chính quyền và sử dụng chính quyền để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng; xây dựng cuộc sống ấm no; hạnh phúc cho nhân dân. Mục tiêu chung đó ở mỗi giai đoạn cũng khác nhau, phù hợp với nhiệm vụ cách mạng và lợi ích cơ bản của các lực lượng tham gia liên minh. Mục tiêu chung trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng”1.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam thực hiện sự liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp xã hội khác bằng việc thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đây là nét đặc sắc sáng tạo của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân của khối liên minh đó và nền tảng của khối liên minh là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 158.
9
Tổ chức liên minh chính trị bao gồm:
- Tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. - Các tổ chức chính trị - xã hội: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. - Các tổ chức xã hội: Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Hội Người cao tuổi Việt Nam, Hội Người mù Việt Nam, Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Hội Y học cổ truyền Việt Nam, v.v..
- Quân đội nhân dân Việt Nam - tiền thân là Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - là thành viên của Mặt trận Việt Minh, nay kế tục truyền thống đó, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Các cá nhân tiêu biểu là người có uy tín cao, có quan hệ và ảnh hưởng tốt đối với một giai cấp, một tầng lớp xã hội, một dân tộc, một tôn giáo, một cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài... Thông qua những cá nhân tiêu biểu này, Mặt trận Tổ quốc có thể tập hợp, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau thực hiện chương trình phối hợp thống nhất hành động chung vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không có hội viên, chỉ có các thành viên bao gồm các thành viên tổ chức và các thành viên cá nhân. Mặt trận Tổ quốc
10
được tổ chức theo nguyên tắc liên hiệp tự nguyện của các thành viên. Các thành viên tham gia Mặt trận đều có địa vị bình đẳng và độc lập với nhau.
Là tổ chức liên minh chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức theo cấp hành chính: Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh); huyện, quận, thị xã thành
phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện); xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Ở mỗi cấp hành chính có Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Dưới cấp xã có Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư.
II- VỊ TRÍ, VAI TRÒ, NHIỆM VỤ
VÀ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1. Vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua cũng ghi rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng
11
sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận…”1.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một phần của hệ thống chính trị. Điều này xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, xuất phát từ thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây còn là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống từ khi có Đảng là có Mặt trận. Sau khi giành được chính quyền, Đảng, chính quyền, Mặt trận là những bộ phận hợp thành hệ thống chính trị. Tuy vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động có khác nhau nhưng đều là công cụ để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân và cùng có chung một mục đích là phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế.
“Mặt trận Tổ quốc là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân” - điều đó xác định rõ hơn vị trí của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
2. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Mặt trận Tổ quốc có vai trò rất quan trọng trong
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.86-87.
12
việc tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực hiện việc hiệp thương và phối hợp thống nhất hành động giữa các thành viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận khẳng định mà do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận. Thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 gắn liền với sự nghiệp của Mặt trận Việt Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội Phản đế đồng minh (1930-1936) và của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939). Tiếp theo Mặt trận Việt Minh là Mặt trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi. Kế tục Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời đã đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã cùng với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam đoàn kết nhân dân cả nước làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang: giải phóng miền Nam, bảo
13
vệ miền Bắc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Từ khi đất nước thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo. Với nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, vì thế, cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ đoàn kết, hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp ra đời. Sự phát triển của khoa học - công nghệ, sự giao lưu văn hóa không ngừng đã tác động đến lối sống và nếp nghĩ của mọi tầng lớp, mọi người trong xã hội.
Như vậy, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với nền dân chủ ngày càng phát triển thì vai trò của Mặt trận và các đoàn thể ngày càng được mở rộng. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...”1. Do
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.86.
14
đó, nâng cao vai trò của Mặt trận trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu khách quan, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ: - Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. - Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. - Tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước. - Tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước. - Cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Tham gia phát triển tình hữu nghị hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Thực hiện giám sát và phản biện xã hội. Từ nhiệm vụ chung của Mặt trận Tổ quốc nêu trên, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc từng cấp căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ và tình hình cụ thể của một địa phương để đề ra nhiệm vụ hoạt động cho Mặt trận cấp mình trong
15
một kỳ đại hội hay chương trình phối hợp thống nhất hành động từng năm một cách phù hợp và có tính khả thi.
4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Điều 4 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định:
“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
2. Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.
3. Khi phối hợp và thống nhất hành động, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời, vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức thành viên, vừa lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Các thành viên gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, tán thành Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp xem xét, công nhận. Quan hệ giữa các thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hợp tác, bình đẳng, đoàn kết, chân thành, tôn trọng lẫn nhau để cùng thực
16
hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của Nhà nước và các chương trình của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trong sinh hoạt và hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các thành viên đều có quyền trình bày ý kiến của mình, cùng trao đổi, bàn bạc, hiệp thương dân chủ để đạt sự nhất trí, không dùng mệnh lệnh, áp đặt. Nếu có những ý kiến khác nhau trên những vấn đề cụ thể thì cùng nhau trao đổi, thuyết phục, giúp nhau giải quyết. Khi phối hợp và thống nhất hành động, các thành viên phải thỏa thuận với nhau về chương trình hành động chung và có nghĩa vụ phối hợp giúp đỡ nhau để thực hiện chương trình hành động đã được thoả thuận, đồng thời các tổ chức thành viên của Mặt trận vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình.
III- MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VỚI CÁC THÀNH VIÊN TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1.1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, là một bộ phận của Mặt trận. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách
17
quan, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; Đảng tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm tra và bằng sự gương mẫu của đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận và Đảng đoàn các tổ chức thành viên của Mặt trận, thông qua đại diện của cấp ủy đảng tham gia Ủy ban Mặt trận. Đại diện cấp ủy đảng trong Ủy ban Mặt trận trực tiếp trình bày chủ trương của Đảng và kiến nghị những vấn đề cần thiết với Mặt trận, nhất là những vấn đề liên quan đến khối đại đoàn kết toàn dân để Ủy ban Mặt trận bàn bạc, tham gia ý kiến đi đến thỏa thuận chương trình phối hợp thống nhất hành động. Đảng chăm lo bồi dưỡng và giới thiệu những cán bộ, đảng viên có phẩm chất, có năng lực, có uy tín làm công tác Mặt trận để Mặt trận lựa chọn theo đúng Điều lệ.
Đảng lãnh đạo sự phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên, giữa Mặt trận và chính quyền. Đảng tôn trọng tính độc lập về tổ chức và khuyến khích mọi hoạt động sáng tạo của Mặt trận vì lợi ích của đất nước, của nhân dân.
1.2. Đảng là thành viên của Mặt trận
Là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi thành viên khác. Đại diện
18
cấp ủy đảng trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc có trách nhiệm tham gia sinh hoạt đầy đủ, chủ động trình bày các chủ trương và các kiến nghị của Đảng đối với Mặt trận, đồng thời lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của các thành viên thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành động. Cấp ủy đảng phải giáo dục, vận động đảng viên gương mẫu thực hiện chương trình hành động chung đã được các tổ chức thành viên thỏa thuận và tính cực tham gia công tác Mặt trận ở khu dân cư.
2. Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước
Theo Điều 7 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015:
- Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi bên theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và Quy chế phối hợp công tác do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan nhà nước có liên quan ở từng cấp ban hành.
- Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thông tin kịp thời cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam việc thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
19
- Cơ quan nhà nước có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật.
- Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động có hiệu quả.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Nhà nước đều là bộ phận của hệ thống chính trị. Tùy chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của Mặt trận và Nhà nước có khác nhau nhưng đều là công cụ để nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và Nhà nước là một tất yếu và xuất phát từ nhu cầu tự thân của cả Mặt trận và Nhà nước.
Củng cố và tăng cường đoàn kết phải trên cơ sở chính sách, pháp luật. Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân nên Mặt trận Tổ quốc phải chăm lo xây dựng, bảo vệ và giám sát Nhà nước. Chỉ có phối hợp với Nhà nước thì Mặt trận mới có khả năng và điều kiện thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của mình.
Nhà nước điều hành và quản lý xã hội bằng luật pháp, nhân dân là người trực tiếp thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhà nước cần tôn trọng và tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ và giám sát Nhà nước.
20
Trong quá trình ra các nghị quyết về quản lý và điều hành, cơ quan nhà nước các cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận. Nhà nước căn cứ quy chế tổ chức và cơ chế hoạt động để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận. Nhà nước cần thể chế hóa quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận trong việc tham gia quản lý kinh tế - xã hội.
Nhà nước phối hợp với Mặt trận trong việc chăm lo lợi ích chính đáng của nhân dân trong việc vận động các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phong trào hành động thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế - xã hội.
Một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy nhà nước hiện nay là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Để Mặt trận làm tròn trách nhiệm là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đòi hỏi sự phối hợp giữa Mặt trận với Nhà nước ngày một chặt chẽ hơn.
3. Quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với nhân dân
3.1. Mối quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp
Điều 28 Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định: - Quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp dưới là quan hệ hướng dẫn, kiểm tra.
21
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp dưới thực hiện chủ trương, chương trình hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên; thực hiện chế độ báo cáo và kiến nghị với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên về các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trao đổi kinh nghiệm, phối hợp và giúp đỡ nhau trong hoạt động.
3.2. Quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với nhân dân
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, các tổ chức thành viên mở rộng việc đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân bằng các hình thức tổ chức đa dạng, phát huy vai trò các cá nhân tiêu biểu, xây dựng cộng đồng dân cư tự quản, hoạt động trên cơ sở
hương ước, quy ước; động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước; thường xuyên tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; cùng với Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Điều 8 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định:
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đại diện, bảo vệ22
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp đoàn kết nhân dân; động viên, hỗ trợ nhân dân thực hiện dân chủ, quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. - Nhân dân tham gia tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thông qua các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cá nhân tiêu biểu là Ủy viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, thông qua các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tham gia các hoạt động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, tổ chức.
- Thông qua Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân tham gia ý kiến, phản ánh, kiến nghị với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về những vấn đề nhân dân quan tâm để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước.
- Nhân dân giám sát hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, để bảo đảm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thường xuyên đổi mới nội dung và phương thức hoạt động để thực hiện trách nhiệm của mình với nhân dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
23
MỘT SỐ NỘI DUNG CỤ THỂ
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN
Tham gia xây dựng chính quyền nhân dân là một trong những nhiệm vụ cơ bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được xác định trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Cương lĩnh của Đảng năm 1991, Nghị quyết 07 của Bộ
Chính trị, Nghị quyết Đại hội VIII, Đại hội IX, Nghị quyết Trung ương 7 (lần 2), Đại hội X, Đại hội XI, Đại hội XII Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)... Từ đó, Nhà nước đã pháp luật hóa bằng Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 và nhiều đạo luật khác.
Nhiệm vụ tham gia xây dựng chính quyền nhân dân được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cụ thể hóa thành những công tác sau:
I- NHIỆM VỤ
THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN Căn cứ vào các văn bản pháp luật hiện hành
24
(Hiến pháp, bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định) của Nhà nước quy định quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng chính quyền như sau:
1. Tham gia xây dựng bộ máy chính quyền
1.1. Tham gia công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp Vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong bầu cử được quy định tại Điều 19 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 và được cụ thể trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 với các nhiệm vụ chính như sau:
- Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì tổ chức hiệp thương, lựa chọn giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Công tác hiệp thương với quy trình 5 bước được thực hiện theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (đối với bầu cử đại biểu Quốc hội); của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân).
- Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phối hợp cùng với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành lập các tổ chức phụ trách bầu
25
cử và cử đại diện Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử cùng cấp: Hội đồng bầu cử, Ủy ban bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội; Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì phối hợp với chính quyền cùng cấp ở xã, phường, thị trấn tổ chức hội nghị cử tri ở nơi cư trú, để lấy ý kiến nhận xét và sự tín nhiệm của cử tri trước khi tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ 3 lựa chọn, lập danh sách chính thức giới thiệu người ứng cử.
- Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì tổ chức các hội nghị cử tri để những người ứng cử gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri, thực hiện quyền vận động bầu cử. Đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội thì do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp quận, huyện, thị (gọi tắt là cấp huyện) chủ trì tổ chức. Đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân do Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã chủ trì tổ chức.
- Tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện quyền bầu cử, tự mình đi bỏ phiếu trong ngày bầu cử.
- Thực hiện quyền giám sát việc bầu cử thông qua việc cử đại diện của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tham gia các đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc tự mình tổ
26
chức các đoàn giám sát thực hiện các công việc bầu cử như: giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của cử tri trong cuộc bầu cử; giám sát thủ tục, trình tự tổ chức bỏ phiếu, kiểm phiếu, bầu lại, bầu thêm và những công việc liên quan đến bầu cử theo quy định của pháp luật về bầu cử và hướng dẫn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; chỉ đạo hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân giám sát thực hiện các quy trình bầu cử, công tác hiệp thương của Mặt trận Tổ quốc cùng cấp trong bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
1.2. Tham gia tuyển chọn, giám sát thẩm phán Tòa án nhân dân
Đại diện Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là ủy viên Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương. Danh sách Ủy viên Hội đồng tuyển chọn thẩm phán do Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (Điều 70, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014). Hội đồng này có các thành viên gồm: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm Chủ
tịch; 1 Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án quân sự Trung ương, các Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao; đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ủy ban Trung ương Mặt
27
trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Chấp hành Trung ương Hội Luật gia Việt Nam.
1.3. Tham gia tuyển chọn kiểm sát viên
Đại diện Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là ủy viên Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Danh sách ủy viên Hội đồng này do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hội đồng này có 5 thành viên bao gồm: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm Chủ tịch; đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Luật gia Việt Nam (Điều 86, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014).
1.4. Hiệp thương lựa chọn giới thiệu người để Hội đồng nhân dân bầu làm hội thẩm Tòa án nhân dân; việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hội thẩm nhân dân
Hội thẩm Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Điều 86, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương đề xuất nhu cầu về số lượng, cơ
cấu thành phần hội thẩm đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp lựa chọn và giới thiệu người đủ tiêu chuẩn... để Hội đồng nhân dân có thẩm quyền theo luật định bầu hội thẩm nhân dân”.
28
Việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp (Điều 86, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014).
1.5. Giúp đỡ và tham gia tổ chức để đại biểu dân cử tiếp xúc cử tri và tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri với các cơ quan dân cử
Về nhiệm vụ này, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc có những trách nhiệm sau:
Khi thực hiện nhiệm vụ người đại biểu, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân yêu cầu gặp Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thì Ban Thường trực có trách nhiệm cử đại diện tiếp, tạo điều kiện giúp đỡ trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận, để đại biểu đó hoàn thành nhiệm vụ.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp làm nhiệm vụ đại biểu. Tạo điều kiện cho đại biểu tiếp xúc với cử tri, thu thập ý kiến, nguyện vọng và kiến nghị của nhân dân với Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Theo quy định, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ động phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp hoặc với Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội và Ủy ban nhân dân ở địa
29
phương xây dựng kế hoạch tổ chức các cuộc họp để đại biểu dân cử tiếp xúc với cử tri. Cơ chế cụ thể để đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri thực hiện theo Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH13- ĐCTUBTWMTTQVN ngày 27-9-2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
2. Tham gia xây dựng pháp luật
Theo quy định tại Điều 21 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng pháp luật với các nội dung và cơ chế sau đây:
2.1. Ở Trung ương
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập hợp, nghiên cứu những kiến nghị, đề xuất của nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở các địa phương, các tổ chức thành viên để đề nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội xây dựng chương trình pháp luật hàng năm và cả nhiệm kỳ trình Quốc hội quyết định.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trình Quốc hội dự án luật, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án Pháp lệnh, chủ yếu về những vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thủ tục, trình tự đề nghị xây dựng luật,
30
pháp lệnh, trình dự án luật, pháp lệnh tuân theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nghị quyết, văn bản liên tịch để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định trách nhiệm Mặt trận Tổ quốc tham gia quản lý nhà nước. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên hữu quan ở trung ương tham gia ý kiến vào dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định và văn bản quy phạm pháp luật khác, chủ yếu về những vấn đề có liên quan đến quyền, trách nhiệm của tổ chức mình, đến quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, hoạt động của bộ máy nhà nước, liên quan đến tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Cơ chế cụ thể về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng pháp luật được cụ thể hóa bằng Quy chế phối hợp công tác giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch, Quy chế phối hợp giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy chế phối hợp giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các văn bản pháp luật khác. Việc tham gia xây dựng pháp luật ở Trung ương với lực lượng chủ yếu của 7 Hội đồng tư vấn của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban chuyên môn, Ban Thường trực và Đoàn Chủ tịch dựa
31
trên các quy chế làm việc của Hội đồng tư vấn, Ban chuyên môn, Ban Thường trực, Đoàn Chủ tịch và mối quan hệ giữa các tổ chức này.
2.2. Ở địa phương
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương phối hợp với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân vào các dự án luật, pháp lệnh, các văn bản pháp quy của chính quyền địa phương trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại có liên quan mật thiết đến quyền và nghĩa vụ công dân, đến các tầng lớp xã hội do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc trực tiếp vận động, hoạt động của bộ
máy nhà nước, liên quan đến tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc. Quyền tham gia xây dựng pháp luật của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương được thực hiện theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp vào các văn bản pháp luật được thực hiện theo Quy chế phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, đoàn đại biểu Quốc hội ở
cấp tỉnh theo các hình thức như sau:
- Tổ chức các hội nghị nhân dân hoặc đại diện hộ gia đình theo địa bàn dân cư, xóm, ấp, khu phố. - Tổ chức hội nghị những người tiêu biểu trong các dân tộc, các tôn giáo, công thương gia, thân nhân Việt kiều.
32
- Tổ chức hội nghị cán bộ chuyên trách của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương hoặc giữa cán bộ chuyên trách Ủy ban Mặt trận Tổ quốc với cán bộ chuyên trách các đoàn thể nhân dân và tổ
chức xã hội cùng cấp.
- Ở những địa phương đã lập Ban tư vấn pháp luật thì nên dựa vào sự hoạt động của Ban tư vấn để tham mưu cho Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc góp ý kiến vào những dự thảo văn bản pháp luật.
- Tham gia góp ý kiến trong các hội nghị do Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương tổ chức.
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cần dựa vào lực lượng nòng cốt là Hội luật gia, Đoàn luật sư để phối hợp và hỗ trợ hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc trên lĩnh vực tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, văn bản pháp quy của chính quyền địa phương.
II- HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Quyền giám sát của Mặt trận lần đầu tiên được chính thức ghi nhận tại Điều 9 Hiến pháp năm 2013, đó là: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
33
thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước...”.
Thực hiện quyền giám sát cũng đồng thời là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thực hiện tốt quyền và trách nhiệm này chính là góp phần củng cố và bảo vệ chính quyền nhân dân, củng cố và bảo vệ
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhân dân ngoài việc thực hiện quyền giám sát trực tiếp hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước, còn thông qua Mặt trận và các đoàn thể để thực hiện quyền giám sát của mình. Trên thực tế, quyền giám sát của Mặt trận, của nhân dân đã đi vào cuộc sống và thu được những kết quả và kinh nghiệm nhất định. Trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó có Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nhà nước đã thể chế hóa quyền giám sát của Mặt trận trên nhiều lĩnh vực, gần đây, ngày 12-12-2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Quyết định số 217- QĐ/TW về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, theo đó đối tượng và nội dung phản biện xã hội là các văn bản dự thảo về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Nội dung phản biện
34
xã hội là sự cần thiết, tính cấp thiết của văn bản dự thảo; sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; thực tiễn của đơn vị, địa phương; tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính khả thi của văn bản dự thảo; dự báo tác động, hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của văn bản dự thảo. Phạm vi phản biện xã hội, quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì phản biện xã hội đối với các văn bản dự thảo về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các đoàn thể chính trị - xã hội chủ trì phản biện xã hội đối với các văn bản dự
thảo về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên, hội viên, tổ chức, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của đoàn thể mình; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện nhiệm vụ phản biện xã hội.
1. Đặc trưng của giám sát
1.1. Khái niệm
Hiện nay trong nhiều văn kiện của Đảng, pháp luật Nhà nước còn sử dụng thuật ngữ giám sát, nhưng giám sát là gì còn nhiều ý kiến khác nhau. Từ điển tiếng Việt năm 1995 của Viện ngôn ngữ học nêu khái niệm “giám sát là theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không”. Theo
35
Từ điển tiếng Nga thì “giám sát là một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi người, việc nào đấy”. Giám sát không chỉ đơn thuần là sự quan sát một cách thụ động, mà giám sát là sự chủ động của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người trong mối quan hệ với đối tượng giám sát.
Trong cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng nêu ra như sau: ”Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước, các quyền, nghĩa vụ của công dân, của các tổ chức chính trị - xã hội và kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái”1.
1.2. Đặc trưng của giám sát
Tuy với cách diễn đạt của thuật ngữ giám sát có khác nhau, nhưng chúng đều có đặc trưng là: - Giám sát là hành vi của chủ thể biểu hiện qua theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá về việc làm của đối tượng bị giám sát.
____________
1. Nguyễn Văn Thạo - Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên): Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 129.
36
- Mục đích của giám sát là xem xét, đánh giá việc làm của đối tượng bị giám sát có đúng những điều quy định, những định hướng đã đặt ra hay không, để có những biện pháp xử lý nhằm khắc phục những sai sót.
- Giám sát mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục.
- Sự tác động qua lại giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát có mối quan hệ pháp lý, gắn quyền và trách nhiệm của mỗi bên.
Chú ý: Cần phân biệt giữa giám sát với kiểm tra. - Kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” (Từ điển tiếng Việt năm 1995 của Viện Ngôn ngữ học), do đó kiểm tra là xem xét cụ thể (đo, đếm, nhìn, sờ hiện vật, giấy tờ), là đối thoại, đối chất, chất vấn để thu thập thông tin, làm rõ sự việc, tìm hiểu đối tượng bị kiểm tra. Sau kiểm tra có đánh giá nhận xét sự việc, hiện tượng.
- Kiểm tra là bản thân tự kiểm tra, cũng có thể là cấp trên trong cùng một hệ thống xuống kiểm tra, là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đến kiểm tra.
- Giám sát và kiểm tra khác nhau về quan hệ pháp lý, về đối tượng, chủ thể, phạm vi, phương pháp thực hiện và biện pháp xử lý.
1.3. Phân biệt giám sát của Đảng, cơ quan quyền lực nhà nước với giám sát của nhân dân Trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có ba
37
loại giám sát, đó là giám sát của Đảng, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân), và giám sát của nhân dân (trong đó có giám sát của Mặt trận).
Giám sát của Đảng:
Theo quy định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, thì đồng thời có vai trò giám sát việc thực hiện sự lãnh đạo đó. Coi giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng.
Mục đích, yêu cầu của giám sát là phát hiện những vấn đề mới, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm ngay từ lúc manh nha.
Nội dung giám sát là cùng với công tác kiểm tra, công tác giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết cấp ủy và đạo
38
đức, lối sống của đảng viên theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Chức năng giám sát được Đại hội Đảng giao cho các cấp ủy đảng và Ủy ban kiểm tra các cấp của Đảng thực hiện. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Ủy ban kiểm tra các cấp ngoài nhiệm vụ kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng, còn có nhiệm vụ giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về các nội dung giám sát nêu trên. Ủy ban kiểm tra các cấp có quyền yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên giải trình về các vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm kiểm tra, giám sát được giao.
Trong quá trình giám sát, phát hiện có vi phạm, phải được kết luận rõ ràng đúng, sai và kiến nghị xử lý theo quy định của Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân: Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân có tính quyền lực của cơ quan quyền lực nhà nước. Ví dụ: tính quyền lực thể hiện ở việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền đình chỉ thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định hủy bỏ các văn bản đó; bãi bỏ Hội đồng nhân dân tỉnh,
39
thành phố trực thuộc Trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân. Hội đồng nhân dân có quyền bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình; quyết định giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích nhân dân.
Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước trên cơ sở hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Giám sát thực hiện các nghị
quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.
40
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không mang tính quyền lực, là giám sát mang tính nhân dân. Mặt trận là nơi thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân giám sát, tham gia giám sát hoặc độc lập giám sát theo nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định với cơ chế là “theo dõi, phát hiện, đánh giá, kiến nghị” cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết và giám sát việc giải quyết kiến nghị đó.
Tính nhân dân thể hiện rõ nhất là sử dụng nhiều hình thức, biện pháp để vận động được đông đảo nhân dân tham gia giám sát; dựa vào sự theo dõi, phát hiện và cung cấp thông tin từ người dân; dựa vào các ý kiến, kiến nghị của các thành viên của Mặt trận, hội viên, đoàn viên của các đoàn thể. Tính nhân dân còn thể hiện ở chỗ, sau khi đã đánh giá sai sót, vi phạm, cần có kiến nghị mang tính xây dựng, khách quan nhằm giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục sửa chữa sai sót, xử lý vi phạm (nếu có) hoặc giải quyết quyền lợi cho công dân bị xâm hại.
2. Mục đích, phạm vi đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
2.1. Mục đích hoạt động giám sát
Theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 thì hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
41
với mục đích là “theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật” (Điều 25) để quản lý tốt mọi mặt của đời sống xã hội theo pháp luật, thể hiện được quyền lực của nhân dân; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Cần tránh khuynh hướng lệch lạc cho rằng giám sát chỉ đi tìm những khuyết điểm, sai sót, những việc làm sai trái của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đại biểu dân cử.
2.2. Yêu cầu và nguyên tắc hoạt động giám sát Hoạt động giám sát cần bám sát các yêu cầu và tuân theo các nguyên tắc sau đây:
- Bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, phối hợp chặt chẽ với chính quyền và cơ quan liên quan (Thanh tra nhà nước, Ủy ban kiểm tra Đảng, Viện kiểm sát, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội luật gia…).
- Quá trình hoạt động giám sát không làm cản trở công việc, sinh hoạt của tổ chức, cá nhân. - Hoạt động giám sát phải bảo đảm công khai, khách quan, minh bạch theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động giám sát được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan nhà nước có thẩm quyền biểu dương, khen thưởng. Người có hành vi trả thù, trù dập người phát hiện, kiến nghị, tố cáo hoặc bao che cho người có hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc phát hiện,
42
kiến nghị, xử lý người có hành vi vi phạm thì tùy theo mức độ đều bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
- Việc giám sát còn đòi hỏi có sự theo dõi đến cùng việc thực hiện các kiến nghị, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, cải tiến công tác, làm cho việc giám sát có hiệu lực và có hiệu quả thiết thực.
2.3. Phạm vi đối tượng giám sát
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, thì đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên bao gồm:
- Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. - Giám sát cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. - Giám sát tổ chức, đại biểu dân cử.
Đại hội XI của Đảng đề ra: “Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư pháp. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của mỗi cơ quan”1.
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.263.
43
Đại hội XI của Đảng đề ra:
Hoạt động của cơ quan nhà nước là một phạm trù pháp lý rộng. Hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
Cán bộ, công chức nhà nước theo Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008, bao gồm:
- Cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. - Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển chọn, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong đơn vị công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
44
- Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Đại biểu dân cử là những người do dân bầu ra theo nhiệm kỳ, bao gồm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu dân cử do pháp luật quy định.
3. Phạm vi, nội dung và hình thức giám sát
3.1. Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước Nội dung giám sát:
Phạm vi, nội dung hoạt động của cơ quan nhà nước rất rộng, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa quy định cụ thể phạm vi giám sát đến đâu, nhất là giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, thì giám sát những cơ quan nào? Thứ hai là, những tổ chức thành viên nào có quyền giám sát? Từ thực tiễn hoạt động và điều kiện của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, nội dung giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước chủ yếu tập trung vào: Giám sát việc thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước, tập trung vào những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
45
dân, liên quan đến các tầng lớp xã hội do Mặt trận trực tiếp vận động, liên quan đến tổ chức và hoạt động của Ủy ban Mặt trận và các tổ chức thành viên. Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và kiến nghị xử lý văn bản trái pháp luật.
Tùy đặc điểm địa phương và chương trình công tác Mặt trận hàng năm nên xây dựng kế hoạch giám sát việc thực hiện pháp luật, pháp quy của chính quyền địa phương như: giám sát thực hiện Luật đất đai, các luật thuế, Luật nghĩa vụ quân sự, Luật bảo vệ môi trường, các pháp luật về chính sách đối với người có công, chính sách xã hội, nghị quyết của Hội đồng nhân dân...
Hình thức giám sát:
Theo quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 27), Mặt trận có 5 hình thức giám sát sau: - Nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
- Tổ chức đoàn giám sát.
- Thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
- Tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ phối hợp với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận
46
Tổ quốc Việt Nam ban hành nghị quyết liên tịch quy định chi tiết Điều này.
Giám sát của Mặt trận chủ yếu thông qua những hoạt động sau đây:
Ở Trung ương:
- Thông qua hoạt động các Hội đồng tư vấn của Mặt trận để góp ý kiến vào các dự thảo văn bản luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết của cơ quan có thẩm quyền soạn thảo và ban hành (của Chính phủ, các bộ, ngành, Ủy ban Thường vụ Quốc hội).
- Tham gia với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Hội đồng nhân dân hoặc Ủy ban nhân dân trong các đoàn kiểm tra, giám sát theo chương trình hàng quý, hàng năm, hoặc giám sát, kiểm tra vụ việc nào đó theo quyết định của người đứng đầu cơ quan nhà nước ở Trung ương, địa phương.
- Thông qua việc tổ chức các phong trào, các cuộc vận động nhân dân như: phong trào xóa đói giảm nghèo, giúp nhau làm kinh tế, đền ơn đáp nghĩa, dân số kế hoạch hóa gia đình, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”... mà phát hiện những vi phạm trong việc thực hiện pháp luật.
- Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ do pháp luật quy định như: tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo mà phát hiện những vi phạm trong việc
47
giải quyết khiếu nại, tố cáo của cán bộ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ở địa phương:
- Thông qua báo cáo của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tại các kỳ họp thường niên của Hội đồng nhân dân, hoặc khi nhận được các thông báo từ phía các cơ quan nhà nước, nhất là việc thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn. Khi phát hiện có vi phạm, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc kiến nghị cơ quan nhà nước xem xét, giải quyết và trả lời những
kiến nghị và giám sát việc trả lời kiến nghị đó. - Giám sát thông qua việc cử đại diện của Mặt trận tham gia các Hội đồng hoặc Ban chỉ đạo ở địa phương, đây là hoạt động trực tiếp giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước trên một số công việc cụ thể. Mặt trận có cơ hội góp ý trực tiếp trong quá trình hoạt động của Hội đồng, Ban chỉ đạo. - Giám sát thông qua việc trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn theo pháp luật thanh tra và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. - Giám sát thông qua theo dõi, nhận xét hoạt động hàng năm của đại biểu dân cử.
- Giám sát thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu theo quy định của pháp luật.
48
- Giám sát thông qua các cơ chế ở các lĩnh vực cụ thể do Chính phủ ban hành như: Giám sát đầu tư của cộng đồng (theo Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18-4-2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng).
Thông qua các hoạt động giám sát nêu trên, điều cốt yếu là:
- Góp ý kiến cụ thể vào một hoạt động cụ thể của cơ quan nhà nước để thực hiện tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Phát hiện những quy định pháp luật không phù hợp với thực tế, trái Hiến pháp, pháp luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung, đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản đó (Điều 81 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
- Phát hiện cán bộ, công chức vi phạm pháp luật để kiến nghị xử lý.
- Phát hiện có sự hiểu khác nhau về nội dung của văn bản nào đó hoặc quy định nào đó, dẫn đến việc thực hiện khác nhau thì Mặt trận kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích văn bản đó để việc thực hiện được thống nhất và đúng đắn.
3.2. Giám sát cán bộ, công chức nhà nước Phạm vi của nội dung giám sát cán bộ, công chức nhà nước là những đối tượng đã nêu ở mục 2.3. Phạm vi nội dung giám sát bao gồm:
49
- Nghĩa vụ của cán bộ, công chức nhà nước (Điều 8, 9, 10 Luật cán bộ, công chức năm 2008).
- Đạo đức, văn hóa giao tiếp của cán bộ, công chức (Điều 15, 16, 17 Luật cán bộ, công chức năm 2008). - Những việc cán bộ, công chức không được làm (Điều 18, 19, 20 Luật cán bộ, công chức năm 2008). Hình thức, cơ chế giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư được cụ thể hóa ở Nghị quyết liên tịch số 05/2006/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 21-4-2006 giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc ban hành Quy chế “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư”, trong đó, quy định rõ mục đích giám sát, nguyên tắc giám sát, đối tượng giám sát, quyền và trách nhiệm của chủ
thể giám sát và đối tượng bị giám sát, nội dung giám sát, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khi trả lời kiến nghị giám sát. Đây là văn bản pháp luật quy định cơ chế cụ thể giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức còn được quy định cụ thể trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với hình thức “lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu”, đó là Chủ tịch Hội
50
đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân do Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã chủ trì tổ chức việc lấy phiếu tín nhiệm. Giám sát cán bộ, công chức còn được quy định trong Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiệt kiệm, chống lãng phí.
3.3. Giám sát hoạt động của đại biểu dân cử Nội dung giám sát:
Nội dung giám sát hoạt động của đại biểu dân cử, bao gồm: giám sát tiêu chuẩn đại biểu và việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Hội đồng nhân dân, cụ thể là:
- Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật.
- Việc tham dự đầy đủ các kỳ họp, các phiên họp của Hội đồng nhân dân, tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân.
- Việc đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri.
Thực hiện chế độ, sau mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân, các đại biểu Hội đồng nhân dân phải báo cáo với cử tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải
51
thích các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, vận động và cùng với nhân dân thực hiện nghị quyết đó. Thực hiện chế độ, ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri.
- Việc đại biểu Hội đồng nhân dân phải tiếp dân theo lịch đã được phân công. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết đồng thời thông báo cho người khiếu nại, tố cáo biết.
Hình thức giám sát:
Hiện chưa có văn bản pháp luật cụ thể hóa hình thức giám sát của Mặt trận đối với đại biểu dân cử (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân). Do vậy, Mặt trận Tổ quốc một số tỉnh phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp tổ chức hoạt động nhận xét đại biểu Hội đồng nhân dân theo trách nhiệm và tiêu chuẩn người đại biểu như đã nêu ở phần trên về nội dung giám sát. Cách làm này nhằm góp ý kiến với đại biểu để khắc phục những điểm yếu, thiếu sót trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn người đại biểu nhân dân.
Hình thức thứ hai hiện đang thực hiện là giám sát chức danh chủ chốt của Hội đồng nhân dân (Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng
52
nhân dân) với hình thức bỏ phiếu tín nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã theo quy định tại Điều 26 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Qua giám sát, nếu thấy đại biểu dân cử nào phạm sai lầm, không còn xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân, thì tùy mức độ sai phạm mà Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp đề nghị Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm hoặc đề nghị Hội đồng nhân dân miễn nhiệm, bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân đó. Đối với đại biểu hoạt động xuất sắc thì đề nghị Nhà nước hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc khen thưởng.
III- HOẠT ĐỘNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1. Về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Chủ trương của Đảng về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được xác định tại:
- Nghị quyết Đại hội lần thứ X, XI, XII của Đảng. - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
53
- Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Quy định pháp luật: Trước Hiến pháp năm 2013, hầu như không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội mà chỉ
dừng ở mức độ quy định về hoạt động đóng góp ý kiến, kiến nghị về xây dựng chính sách, pháp luật. Luật ban hành văn bản pháp luật năm 2008 quy định việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam góp ý vào dự
thảo một số văn bản quy phạm pháp luật. Đây cũng có thể coi là hình thức phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với hoạt động xây dựng pháp luật của Nhà nước.
2. Nội dung chủ yếu về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
2.1. Đối tượng phản biện xã hội
Là các dự thảo văn bản về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình, bao gồm:
- Dự thảo về chủ trương, đường lối của Đảng liên quan đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân.
54
- Dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội, dự thảo nghị quyết, pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo các đề án, dự án, nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp; dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
- Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp.
2.2. Phạm vi phản biện xã hội
Ở Trung ương:
Khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ở Trung ương yêu cầu, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì phản biện:
- Dự thảo văn bản về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội; liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; các dân tộc; các tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài.
- Dự thảo quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; các chương trình, dự án, đề án lớn về kinh tế - xã hội (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia).
55
- Dự thảo đề án thành lập mới, chia tách, sáp nhập các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và các đơn vị hành chính ở địa phương.
- Dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ở địa phương:
Khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ở địa phương yêu cầu, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp chủ trì phản biện xã hội:
- Dự thảo các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của cấp ủy liên quan đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở
địa phương.
- Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cùng cấp; chương trình, dự thảo các nghị quyết, chương trình, đề án của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế - xã hội, các nội dung có liên quan đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân ở địa phương.
- Dự thảo đề án về phương án quản lý, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ở địa phương; đề án thu, chi các loại phí, lệ phí, các khoản đóng góp của nhân dân.
56
- Dự thảo đề án thành lập, chia tách, sáp nhập các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp và các đơn vị hành chính.
2.3. Việc xây dựng chương trình, kế hoạch phản biện xã hội hàng năm
Đầu quý IV hàng năm, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp gửi văn bản đề nghị các cơ quan, tổ chức đề xuất các vấn đề cần phản biện. Căn cứ vào yêu cầu phản biện của cơ quan, tổ chức cần phản biện gửi đến, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch phản biện xã hội của năm sau.
Việc lập dự toán kinh phí để thực hiện chương trình, kế hoạch phản biện xã hội được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
Trong trường hợp có yêu cầu phản biện xã hội đột xuất thì các bên sẽ thống nhất bổ sung vào chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện.
IV- NHIỆM VỤ
THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1. Tham gia công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
Theo sự hướng dẫn của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp trên, chủ trương của cấp ủy đảng địa phương hoặc theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân
57
dân, Ủy ban nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở địa phương phối hợp với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân hoặc chủ trì phối hợp với các tổ chức thành viên trong việc tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của chính quyền địa phương, đồng thời vận động nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của chính quyền địa phương.
Về nội dung tuyên truyền, theo kế hoạch của Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chính quyền địa phương mà tổ chức tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật trong nhân dân, như chính sách thuế, pháp luật về đất đai, về khiếu nại, tố cáo; Pháp lệnh tôn giáo; Luật giao thông đường bộ; pháp luật về hình sự, dân sự; nghĩa vụ quân sự... hoặc tuyên truyền vận động thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách Việt kiều, v.v..
Về hình thức tuyên truyền vận động, nên đề ra nhiều hình thức như: thông qua các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương, thông qua các cuộc vận động chính trị của các tổ chức thành viên; các hội nghị chuyên đề theo các đối tượng xã hội; thông qua những người tiêu biểu; thông qua việc tổ chức các phong trào rộng lớn trong nhân dân như cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới,
58
đô thị văn minh”, phong trào giúp nhau làm kinh tế, phong trào bảo vệ trật tự an toàn trên địa bàn khu dân cư, phong trào thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... Tuyên truyền bằng panô, áp phích, các hình thức cổ động, tờ gấp..., nhất là đẩy mạnh hình thức tuyên truyền miệng, tùy đặc điểm từng địa phương.
Về chỉ đạo, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao nhiệm vụ cho Ban dân chủ - pháp luật phối hợp với Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật của địa phương có chương trình hàng năm tuyên truyền, giáo dục nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật ở địa phương... Qua tuyên truyền, vận động mà thu thập ý kiến, kiến nghị của nhân dân về những điểm không phù hợp để có kiến nghị với Nhà nước sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn và hợp lòng dân.
Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật của Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương thực hiện theo sự hướng dẫn của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Sau khi Ban Bí thư có Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9-12-2003 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg, ngày 16-12-2004 phê duyệt chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức
59
chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có đề án “Xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư”, gọi tắt là “đề án 2-212”, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có thông tri hướng dẫn các cấp Mặt trận địa phương tiếp tục đẩy mạnh công tác này và thực hiện “đề án 2-212” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại địa phương mình.
2. Công tác tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân
Điều 66, Luật khiếu nại năm 2011 quy định: “1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại theo quy định của Luật này; động viên nhân dân nghiêm chỉnh thi hành pháp luật về khiếu nại; tổ chức việc tiếp công dân đến khiếu nại; khi nhận được khiếu nại thì nghiên cứu, hướng dẫn người khiếu nại đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. 2. Khiếu nại do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận chuyển đến phải được người giải quyết khiếu nại xem xét, giải quyết và trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết phải thông báo bằng văn bản cho tổ chức đã chuyển đơn biết kết quả giải quyết;
60
nếu không đồng ý với kết quả giải quyết đó thì tổ chức đã chuyển đơn có quyền kiến nghị cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết; cơ quan, tổ chức nhận được kiến nghị có trách nhiệm trả lời kiến nghị đó trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết”.
Điều 44, Luật tố cáo năm 2011 quy định:
“1. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận động viên nhân dân, hội viên của mình nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về tố cáo; giám sát việc thi hành pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo.
2. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm tổ chức việc tiếp công dân đến tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, phản ánh; khi nhận được tố cáo thì nghiên cứu, chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
3. Tố cáo do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận chuyển đến phải được người giải quyết tố cáo xem xét, giải quyết và trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có quyết định xử lý, phải thông qua bằng văn bản cho tổ chức đã chuyển đơn đến biết kết quả giải quyết; nếu không đồng ý với kết quả giải quyết đó thì tổ chức đã chuyển đơn có quyền kiến nghị cơ quan, tổ
chức cấp trên trực tiếp của người giải quyết tố cáo xem xét, giải quyết; cơ quan, tổ chức hữu quan có
61
trách nhiệm trả lời kiến nghị đó trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có quyết định xử lý”.
3. Tổ chức chỉ đạo Ban thanh tra nhân dân
Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn hướng dẫn tổ chức, chỉ đạo hoạt động. Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước do Ban chấp hành Công đoàn cơ sở ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đó hướng dẫn tổ chức, chỉ đạo hoạt động (Điều 12 Luật thanh tra năm 2010).
Ban thanh tra nhân dân có nhiệm vụ giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước (Điều 66 Luật thanh tra năm 2010).
Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp trực tiếp chỉ đạo hoạt động. Ban thanh tra nhân dân căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn, chương trình hành động và sự chỉ
đạo của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn đề ra phương hướng, nội dung kế hoạch hoạt động của mình. Ban thanh tra nhân dân
62
có trách nhiệm báo cáo về hoạt động của mình với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn. Khi cần thiết, Trưởng Ban thanh tra nhân dân được mời tham dự cuộc họp của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn.
Trong nhiệm kỳ, thành viên Ban thanh tra nhân dân không hoàn thành nhiệm vụ hoặc không còn được nhân dân tín nhiệm thì Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn đề nghị Hội đồng nhân dân hoặc Hội nghị đại biểu nhân dân đã bầu ra thành viên đó bãi nhiệm và bầu người khác thay thế.
Điều 71 Luật thanh tra năm 2010 quy định trách nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn như sau:
- Hướng dẫn việc tổ chức Hội nghị nhân dân hoặc Hội nghị đại biểu nhân dân ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố bầu Ban thanh tra nhân dân.
- Ra văn bản công nhận Ban thanh tra nhân dân và thông báo cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp và nhân dân ở địa phương; tổ chức cuộc họp của Ban thanh tra nhân dân để Ban thanh tra nhân dân bầu Trưởng ban, Phó Trưởng ban, phân công nhiệm vụ cho từng thành viên.
- Hướng dẫn Ban thanh tra nhân dân xây dựng chương trình, nội dung công tác; định kỳ nghe báo cáo về hoạt động của Ban thanh tra nhân dân;
63
đôn đốc việc giải quyết những kiến nghị của Ban thanh tra nhân dân.
- Động viên nhân dân ở địa phương ủng hộ, phối hợp; tham gia các hoạt động của Ban thanh tra nhân dân.
- Xác nhận biên bản, kiến nghị của Ban thanh tra nhân dân.
4. Tham gia thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 18-2-1998 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở giao trách nhiệm cho Mặt trận Tổ quốc ba nhiệm vụ sau đây:
- Tuyên truyền trong nhân dân về Chỉ thị này và Quy chế dân chủ ở cơ sở, làm cho mọi người hiểu và sử dụng đúng các quyền đã được quy định trong Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời chấp hành đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân.
- Phối hợp với chính quyền trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Ngày 20-4-2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Pháp lệnh có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2007.
64
Ngày 17-4-2008, Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trong đó có hướng dẫn cụ thể việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu. Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc cần hướng dẫn công tác Mặt trận tham gia thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn theo các văn bản pháp luật mới ban hành.
Trong công tác chỉ đạo, cần lưu ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nắm chắc 5 quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị theo Chỉ thị 30-CT/TW ngày 18-2-1998 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Thứ hai, nắm chắc 4 khâu trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trong đó từng năm đề ra các công việc cụ thể thuộc trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc để thực hiện có kết quả từng công việc. Xây dựng quy chế phối hợp với Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cùng cấp để thực hiện tốt nội dung công tác Mặt trận tham gia thực hiện dân chủ ở cấp xã theo hướng dẫn của Trung ương.
Thứ ba, chú trọng việc sơ, tổng kết từng chuyên đề, rút kinh nghiệm chỉ đạo ở từng khâu để nâng
65
cao chất lượng hoạt động của Mặt trận trong việc tham gia thực hiện dân chủ ở cấp xã.
5. Tham gia tố tụng của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng hình sự, dân sự, lao động, hành chính, kinh tế... để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của công dân, hội viên, đoàn viên... theo quy định của pháp luật tố tụng (Điều 10 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015).
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “... Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng... Nếu phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thì... có quyền kiến nghị với cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật” (Điều 32).
Một số hình thức tham gia tố tụng của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc:
66
5.1. Về hình sự
- Tố giác và báo tin về tội phạm cho các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 25 và Điều 101 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên được cử người bào chữa cho thành viên, đoàn viên, hội viên của tổ chức mình với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đương sự
(Điều 42a Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) theo quy định của pháp luật.
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên có quyền bảo lãnh cho bị can, bị cáo (Điều 92 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ theo dõi, giám sát, giáo dục người bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc bị phạt tù nhưng được hưởng án treo (Điều 257 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn có quyền đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ (khoản 2 Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn có thể được Tòa án giao người bị phạt tù được hưởng án treo, người bị phạt cải tạo không giam giữ để giáo dục, giám sát (Điều 264 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
67
- Mặt trận Tổ quốc có thể đưa ra tài liệu, đồ vật, trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án để làm sáng tỏ vụ án (khoản 2 Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
- Có quyền phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết (Điều 32 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003).
Ngoài những quy định trên của pháp luật, việc Mặt trận Tổ quốc tham gia tố tụng và quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp còn được quy định trong Quy chế phối hợp số 01/2004/QCPHCT/BTTUBTWMTTQVN-VKSTC ngày 11-10-2004 giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
5.2. Về dân sự
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ví dụ: Hội Liên hiệp phụ nữ có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động theo quy định của pháp luật về lao động. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền khởi kiện về một vụ án để
68
bảo vệ quyền lợi của mình hoặc của thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cũng có quyền khởi kiện một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.
Khi khởi kiện ra Tòa án thì có quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật trong quá trình tố tụng cho đến khi kết thúc vụ án, như có quyền đưa ra chứng cứ, các tài liệu đọc được, nhìn được; vật chứng; kết luận giám định, kết quả định giá tài sản, biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ..., quyền được khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng dân sự trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp; yêu cầu thi hành bản án...
6. Tham gia công tác đặc xá
Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương đặc xá, thực hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước và truyền thống nhân đạo của dân tộc ta đối với người phạm tội bị kết án phạt tù, khuyến khích họ phấn đấu, rèn luyện trở thành người có ích cho xã hội. Nhà nước đã ban hành Luật đặc xá.
Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng và quyết định của Chủ tịch nước đối với mỗi đợt đặc xá, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp từ trung ương đến xã, phường, có trách nhiệm tham gia công tác đặc xá với những công việc sau đây:
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp tuyên truyền trong nhân dân ý nghĩa chính trị, xã hội nhân đạo sâu sắc của chủ trương đặc xá.
69
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh tham gia trong Hội đồng tư vấn đặc xá để xét duyệt và đề nghị đặc xá cho phạm nhân thuộc địa phương mình quản lý.
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương phối hợp với chính quyền và đoàn thể cùng cấp bàn kế hoạch quản lý, giúp đỡ, giáo dục những người được tha tù trước thời hạn trở về địa phương mau chóng hoà nhập cộng đồng, nhất là giúp họ tìm công ăn việc làm ổn định đời sống, phấn đấu trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội.
- Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp phối hợp với các tổ chức thành viên cùng cấp giám sát việc thi hành quyết định đặc xá và các văn bản pháp luật có liên quan, góp phần bảo đảm đúng chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đặc xá.
Thực hiện trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc trong công tác đặc xá hiện nay theo các văn bản của Đảng, Hội đồng tư vấn đặc xá Trung ương, Chủ tịch nước, Ban Thường trực hướng dẫn cụ thể theo Luật đặc xá.
V- NHỮNG BẢO ĐẢM CHO CÔNG TÁC MẶT TRẬN THAM GIA XÂY DỰNG
VÀ CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN
1. Về thể chế
Các nhiệm vụ tham gia quản lý nhà nước nói trên phải được thể chế hóa thành pháp luật cho
70
từng nhiệm vụ cụ thể dưới hình thức văn bản luật, pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nghị quyết liên tịch, văn bản liên tịch giữa Mặt trận với các cơ quan nhà nước ở
trung ương, xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể của Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở mỗi cấp đối với cấp dưới trực tiếp. Xây dựng chương trình công tác Mặt trận tham gia xây dựng, quản lý, giám sát và phản biện xã hội hàng năm.
Theo quy định tại Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 thì: “Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bên theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và Quy chế phối hợp công tác do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan nhà nước ở từng cấp ban hành” (khoản 1, Điều 7).
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Thông tri số 10/2001/TT-MTTW ngày 25-9-2001 hướng dẫn xây dựng Quy chế phối hợp công tác giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân. Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các tỉnh căn cứ vào hướng dẫn của Trung ương đã được tập huấn để tổ chức chỉ đạo thực hiện ở từng cấp.
Trong quá trình xây dựng chương trình công tác, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp cần chú ý một số điểm cụ thể như sau:
71
Một là, việc xác định nội dung công tác là căn cứ vào chương trình hành động từng năm của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thường họp vào tháng đầu năm); căn cứ vào nội dung công tác Mặt trận tham gia xây dựng và củng cố chính quyền, các nội dung và công tác Mặt trận tham gia quản lý nhà nước có liên quan đến quyền và trách nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc từng cấp ở địa phương; căn cứ vào thực trạng tình hình tổ chức và hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở địa phương.
Hai là, việc đề ra chương trình công tác thuộc lĩnh vực này phải rõ nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện và có điều kiện bảo đảm thực hiện có hiệu quả. Trong một nội dung công tác cụ thể, mỗi năm đề ra một vài việc thực hiện có kết quả, hiệu quả, năm sau tiếp tục thực hiện việc khác hoặc nâng lên về chất lượng công việc. Tránh đề ra chung chung theo danh mục các nội dung công tác.
Ba là, khi đề ra mỗi chương trình công tác, cần nêu rõ từng việc do ban nào chủ trì, ban nào có trách nhiệm phối hợp; có phối hợp với cơ quan nhà nước không? Nếu có thì với cơ quan nào ở địa phương? Cán bộ nào có trách nhiệm chỉ đạo và thực hiện? Tiến độ, thời gian và kinh phí bảo đảm để thực hiện có kết quả, hiệu quả.
Bốn là, Ban dân chủ - pháp luật cấp tỉnh là ban chuyên môn giúp việc cho Ban Thường trực có trách
72
nhiệm tham mưu, xây dựng chương trình công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền, đồng thời thực hiện các quyết định của Ban Thường trực chỉ đạo lĩnh vực công tác này.
2. Về tổ chức cán bộ
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ của công tác Mặt trận tham gia xây dựng, quản lý và giám sát cần phải tổ chức bộ máy giúp việc ở cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và có kinh phí hoạt động.
2.1. Thành lập Ban dân chủ - pháp luật
- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định: “Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có bộ máy giúp việc. Tổ chức, biên chế bộ máy giúp việc của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền quy định” (Điều 37). Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có văn bản Hướng dẫn về tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, trong đó có quy định thành lập Ban dân chủ - pháp luật ở
cấp tỉnh có số lượng từ 3 đến 7 người tùy đặc điểm địa phương.
- Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các tỉnh căn cứ vào Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các văn kiện của Đảng và của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tình hình thực
73
tiễn ở địa phương báo cáo Thường vụ Tỉnh ủy để xác định biên chế của Ban dân chủ - pháp luật; ra quyết định thành lập Ban dân chủ - pháp luật và ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Ban dân chủ - pháp luật.
- Việc xây dựng Quy chế về tổ chức và hoạt động của Ban dân chủ - pháp luật theo các nhiệm vụ công tác nêu trên do Ban dân chủ - pháp luật cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn. Cần thường xuyên củng cố tổ chức Ban dân chủ - pháp luật.
2.2. Công tác bồi dưỡng cán bộ
- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định: ”Cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người làm công tác mặt trận không chuyên trách được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, nghiệp vụ công tác mặt trận, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao” (Điều 37).
- Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định: ”Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp có trách nhiệm tổ chức việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất, nghiệp vụ cho cán bộ Mặt trận theo hướng dẫn của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” (khoản 2 Điều 11).
- Nội dung, chương trình bồi dưỡng cán bộ Mặt trận theo hướng dẫn của Trung tâm bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của Ủy ban Trung ương
74
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Các địa phương dựa trên đề cương các bài giảng của trung ương để xây dựng bài giảng cụ thể ở địa phương cho phù hợp với từng đối tượng cán bộ.
2.3. Thành lập Hội đồng tư vấn dân chủ - pháp luật - Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định tại Điều 12 như sau:
+ Hội đồng tư vấn ở cấp Trung ương, cấp tỉnh, Ban tư vấn ở cấp huyện và cộng tác viên ở mỗi cấp là tổ chức, cá nhân không chuyên trách, gồm: Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chuyên gia ở một số lĩnh vực có liên quan đến hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ giúp Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định.
+ Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp thành lập các tổ chức tư vấn, xây dựng đội ngũ cộng tác viên ở cấp mình. Riêng các Hội đồng tư vấn ở cấp Trung ương do Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định thành lập.
+ Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mỗi cấp hướng dẫn, bảo đảm điều kiện cho hoạt động của các tổ chức tư vấn, cộng tác viên của cấp mình.
75
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 03/2008/TTLT-BTC-UBTWMTTQVN ngày 3-1-2008 hướng dẫn quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của Hội đồng tư vấn thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh.
- Căn cứ các văn bản trên, và tùy tình hình thực tế từng địa phương chỉ đạo tổ chức các hình thức tư vấn và hướng dẫn nội dung và hoạt động cụ thể ở từng cấp theo hướng dẫn của Ban Thường trực và Ban dân chủ - pháp luật Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ban dân chủ - pháp luật có trách nhiệm giúp Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh làm Thường trực Hội đồng tư vấn dân chủ - pháp luật.
3. Về kinh phí hoạt động
Quá trình xây dựng và ban hành các văn bản của địa phương cụ thể hóa các nhiệm vụ công tác nêu trên, cần có quy định điều kiện bảo đảm kinh phí thực hiện.
Theo phân cấp ngân sách nhà nước, hàng năm Mặt trận các cấp cần dự toán kinh phí hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp mình để thực hiện công tác Mặt trận tham gia xây dựng, quản lý, giám sát và phản biện xã hội, kinh phí hoạt động của Hội đồng tư vấn dân chủ - pháp luật.
76
Hàng năm, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, cấp huyện cần kiến nghị Hội đồng nhân dân cùng cấp có chủ trương, chính sách về kinh phí hoạt động cho các hình thức tổ chức mặt trận (Tổ chức tư vấn của cấp huyện, cấp xã, Ban công tác mặt trận), chế độ kinh phí bồi dưỡng cho các lực lượng cộng tác viên và cho các hoạt động cụ thể của Mặt trận tham gia xây dựng, quản lý, giám sát và phản biện xã hội mà Trung ương chưa có quy định, thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh.
77
HỎI - ĐÁP
VỀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN
1. Ban giám sát đầu tư của cộng đồng?
Hình thức tổ chức để thực hiện giám sát đầu tư của cộng đồng theo Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng ban hành theo Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18-4-2005 của Thủ tướng Chính phủ. Công dân sinh sống trên địa bàn xã giám sát các dự án đầu tư
trên địa bàn xã thông qua Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
Ban giám sát đầu tư của cộng đồng do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã thành lập theo yêu cầu của cộng đồng và hướng dẫn hoạt động. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã tổ chức Hội nghị của cộng đồng hoặc Hội nghị đại biểu của cộng đồng để bầu Ban giám sát đầu tư của cộng đồng (bầu mới, bổ sung, bãi nhiệm và bầu thành viên thay thế) hoặc quyết định giải tán Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; cử đại diện của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã tham gia Ban giám sát đầu tư của cộng đồng (thành viên này do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã cử và
78