"
Luật Ngầm - Tuệ Nghi PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Luật Ngầm - Tuệ Nghi PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1 TRANG KÝ ỨC CŨ
CHƯƠNG 2 SỰ MẤT TÍCH BÍ ẨN CỦA BÁC TÔI CHƯƠNG 3 BÍ MẬT KINH HOÀNG
CHƯƠNG 4 ÁC MỘNG
CHƯƠNG 5 ĐƯỜNG CÙNG
CHƯƠNG 6 NƠI RỪNG HOANG
CHƯƠNG 7 MẬT DANH P-126
CHƯƠNG 8 CHƯA PHẢI LÀ KẾT THÚC
LỜI CẢM ƠN
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Cuốn sách này dành để tưởng nhớ đến Ba tôi. Ông đã đi xa, nhưng tôi tin rằng ông vẫn luôn hiện diện ở đâu đó và âm thầm dõi theo tôi, chỉ là tôi không thể nhìn thấy để nói với ông rằng: “Con yêu Ba!”
Đây cũng là món quà tri ân tôi dành tặng Mẹ Bạch Nga, người đã hy sinh cho tôi tuổi thanh xuân, hạnh phúc riêng và luôn cùng sát cánh với tôi trước mọi chông gai, khốn khó.
Gửi đến Mr. LTP một lời cảm ơn sâu sắc, người đàn ông đã cùng sẻ chia với tôi niềm vui lẫn nỗi buồn. Anh cũng là người động viên tôi viết cuốn sách này.
Bản thảo của tôi cũng chưa thể hoàn hảo nếu không có sự tận tình giúp đỡ, góp ý của Nhà phê bình văn học Nguyễn Thanh Sơn, nhiếp ảnh gia Na Sơn Nguyễn, Trưởng ban biên tập sách Chính trị - Nghiệp vụ Nhà xuất bản Công an nhân dân Đào Anh Tuấn.
Lời tri ân chân thành nhất dành cho những người đã hỗ trợ, đồng hành cùng tôi trong suốt quá trình chuẩn bị cho việc xuất bản: Anh Trần Đăng Nghĩa, chị Vũ Thanh Thúy, Lynn Đỗ, Nam Khanh… cùng nhiều cộng sự khác.
Xin chân thành cảm ơn tất cả những tình cảm, sự quan tâm ủng hộ mà mọi người đã dành cho tôi.
Tuệ Nghi
LỜI NÓI ĐẦU
Tôi bắt đầu viết những dòng đầu tiên của “Luật ngầm” khi chưa tròn mười chín tuổi. Những trang sách dang dở được tôi lặng lẽ ngắm nhìn, chiêm nghiệm và suy nghĩ. Tôi loay hoay không biết mình phải hoàn thành “Luật ngầm” như thế nào. Nỗi trăn trở đó đã đưa tôi qua những chặng đường đầy gian nan trong suốt hai năm, để rồi chính thức hoàn thành câu chuyện trước thềm sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của mình.
“Luật ngầm” là một bản giao hưởng của những nốt trầm và khoảng lặng. Nó ngân lên những giai điệu giòn giã hùng tráng, rồi lại lặng đi trong những suy ngẫm về cuộc đời, về lẽ sống bất tận trong chính những câu chuyện với nụ cười và nước mắt.
Thế giới không phải chỉ tồn tại trắng và đen. Khái niệm đó đã được đặt ra để đánh lừa các giác quan của con người từ ngày này qua ngày khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, và từ cuộc đời này sang cuộc đời khác. Có những thứ tồn tại song song giữa đen và trắng như một cách để khẳng định rằng Thiện và Ác vốn cách nhau chẳng tày gang. Trong Ác chất chứa Thiện và trong Thiện lại lập lờ màu sắc của Ác.
Có những nơi chúng ta không thể nào đi tới, có những điều không nhiều người có thể hình dung, và có những bí mật không phải ai cũng có thể chạm vào.
Tôi gọi đó là “Luật ngầm”.
Và đối với tôi, “Luật ngầm” không chỉ là tiểu thuyết.
Sài Gòn, ngày 20 tháng 10 năm 2014
Tuệ Nghi
"Có một thực tế không thể chối bỏ, đó là trong thế giới này, luôn tồn tại những thứ được vận hành không dựa trên luật pháp."
❉❉❉
Chương 1
C
Trang ký ức cũ
uộc đời mỗi con người cũng giống như vòng đời của một cái cây: sinh ra, lớn lên rồi già cỗi. Hạt giống tốt chưa chắc sẽ cho ra đời một cái cây tốt, và ngược lại.
Tôi đã từng là một hạt giống như thế, nhưng mảnh đất nơi tôi được gieo xuống lại khô cằn và đầy giông bão. Cha mẹ ban cho tôi sự sống, còn cuộc đời ban cho tôi nghị lực - điều mà tôi tin rằng quý giá và cần thiết hơn bất kỳ thứ gì khác. Tôi đã chứng kiến sự trưởng thành của chính mình như nhìn một ai đó trong thế giới song song, như xem một thước phim quay chậm của một người xa lạ hoàn toàn chẳng phải tôi, thước phim đó đưa tôi đi qua những thăng trầm, những cơn bão đời đầy dữ dội.
Mẹ sinh ra tôi vào ngày Quốc khánh lần thứ bốn mươi tám sau ba ngày đau chuyển dạ. Tôi đến với cuộc đời trong một ngày nắng nhuộm vàng mùa thu, với sự chào đón đầy hy vọng và khát khao của các thành viên trong gia đình. Họ bỏ qua định kiến trọng nam khinh nữ, và coi tôi như một sự khởi đầu tốt đẹp của dòng họ.
Mẹ nói tôi là một đứa trẻ đặc biệt, ngay khi ra đời, tôi đã có đôi răng cửa và cái đầu đen nhánh tóc như người lớn. Đầu tôi lại còn to nữa, có lẽ vì vậy mà mẹ đã rất khó khăn để sinh ra tôi. Nhiều người nói tôi thật lì lợm, tôi đã không khóc khi chào đời, chỉ đến khi họ vỗ mạnh vào mông, tôi mới có thể bật khóc oe oe thành tiếng.
Ngày đó, gia đình tôi sống trong một căn hộ tập thể. Ký ức của tôi là mùi rau má thoang thoảng bay vào nhà qua ô cửa sổ mở toang hướng về phía sân sinh hoạt chung. Nhà hàng xóm thường giã nhuyễn rau má trong chiếc cối đá, sau đó lọc lại một lần bằng vải mùng để lấy nước uống. Ngày nắng cũng như ngày mưa, tôi thường
ngồi ở ô cửa sổ đó mà ngắm nhìn nhịp chày đều đặn nghiền nát những lá rau má tươi xanh mơn mởn, mùi hương quyện ngọt lấy từng khoảnh khắc bình yên.
Khi ấy, gia đình tôi có một nhà hàng nhỏ chuyên bán đồ ăn cho người nước ngoài ở khu phố Tây. Mẹ khá bận rộn với công việc ở cửa hàng, còn ba thì luôn có việc riêng ở bên ngoài. Cho đến một ngày, khi ấy tôi khoảng bốn tuổi, tôi chỉ nhớ đó là một ngày mùa hè nắng chói chang, mẹ bắt tôi gọi ba bằng “chú”. Tôi không biết vì sao lại như vậy. Lớn hơn một chút tôi mới hiểu, con cái chính là đòn trừng phạt ghê gớm nhất mà họ có thể dành cho nhau. Như thể ai có được đứa con - là tôi - thì đó là kẻ chiến thẳng. Dẫu tôi biết, mẹ cũng chẳng vui sướng gì, ngược lại, việc tước quyền làm cha của người đàn ông ấy như nêm chặt hơn vào nỗi đau của mẹ, sự ức chế vô hình như một chiếc bình bị dồn nén quá nhiều thứ vào bên trong, chỉ chực chờ tan vỡ.
Ba thường xuyên vắng nhà. Ông có nhiều mối quan hệ chồng chéo với phụ nữ bên ngoài, khiến mẹ tôi cảm thấy bất an. Niềm tin dần mất đi khi ông nhiều lần không giải thích được về những hành động của mình, vì sao ông thường ra khỏi nhà vào ban đêm, và có khi mẹ tôi cũng chẳng thể liên lạc được với ông trong vài ngày. Không ít lần, mẹ tôi bắt gặp ông đi cùng người phụ nữ khác. Lắm lúc, chính ông cũng thừa nhận rằng đó là nhân tình của mình khiến mẹ tôi bao phen sống dở chết dở.
Không như những đứa trẻ khác, tôi chỉ thích loay hoay chơi một mình đằng sau cánh cổng nhà. Bạn của tôi chỉ là mấy chú cá bé xíu nhiều màu sắc trong cái lu nhỏ ngoài sân. Khi buổi chiều nắng dần tắt, thì cũng là lúc tiếng loảng xoảng từ trong nhà vọng ra khiến tôi giật mình. Tôi thu lu ngồi ngoài sân ngắm nhìn những chú cá mà tôi vừa vớt ra khỏi lu bỏ vào chiếc bát con. Trời bắt đầu mưa, nước tràn lênh láng ra khỏi bát, kéo những chú cá đang bơi lội vui vẻ nằm sõng soài trên mặt đất. Chúng bắt đầu giãy đành đạch như tuyệt vọng chờ đợi một bàn tay nào đó cứu vớt lấy sự sống đã bắt đầu mong manh.
Khi giọt nước tràn ra khỏi giới hạn cho phép, tất cả mọi thứ đều trở nên mong manh…
Tôi bắt đầu đến cửa hàng của mẹ nhiều hơn, ngồi ở quầy thu tiền, và lắng nghe những câu chuyện vụn vặt, không đầu không cuối của khách. Họ nói nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau và màu tóc của họ cũng
không giống tôi. Tôi cũng được dạy vài câu ngoại ngữ đơn giản để có thể trả lời khi một số vị khách muốn nói chuyện và chụp ảnh cùng.
Sau sinh nhật lần thứ năm của tôi hai ngày, có một vị khách tây khoác chiếc áo măng tô màu đen tuyền bước xuống từ chiếc ô tô màu bạc đậu phía bên kia đường, bước vào nhà tìm ba mẹ tôi. Họ nói chuyện với nhau khá lâu, sau đó, vị khách ấy ra về. Trước khi bước ra khỏi cửa, ông ấy quay lại nhìn tôi bằng ánh mắt kỳ lạ. Sau cuộc gặp gỡ đó, rất nhiều đồ chơi tư duy, những bộ xếp hình với mức độ khó tăng dần, những loại nhạc cụ cầm tay và nhiều đĩa nhạc với giai điệu dễ chịu được chuyển đến nhà tôi. Mẹ nói tôi cứ chơi lúc nào mà tôi thích, còn ba thì hỏi tôi sau này lớn lên có thích đến Hoa Kỳ du học hay không. Tôi không biết Hoa Kỳ ở đâu, nhưng mẹ nói rằng nơi đó cách chỗ chúng tôi đang sống rất xa, và điều đó khiến tôi không mấy hứng thú, bởi vì phải sống xa ba mẹ thật sự là điều quá khó khăn với tôi.
Vào một ngày cuối tháng Chín, tôi vẫn nhớ hôm đó là thứ Sáu, ba mẹ tôi được người hàng xóm mời đi ăn tối. Dù chúng tôi không muốn đi lắm nhưng thật khó lòng mà từ chối họ. Ngoài trời bắt đầu mưa, nồi lẩu bốc khói nghi ngút trông càng hấp dẫn hơn lúc nào hết. Bỗng có tiếng lao xao, tiếng ly chén đổ vỡ, tiếng la hét và tiếng bước chân dồn dập... Mẹ kéo tôi đứng dậy, mọi thứ như nhoà đi trước mắt tôi. Một lúc sau, tôi cảm thấy tóc mình dần ướt và đầu thì bắt đầu nhức nhối.
“Mẹ ơi, con chảy máu rồi.” Tôi ngước lên nhìn mẹ.
Mẹ tôi bắt đầu không giữ được bình tĩnh nữa. Chúng tôi được đưa sang căn nhà kế bên bằng cách leo qua ô cửa sổ nhỏ xíu. Họ vội vàng mang rất nhiều bông băng ra để sơ cứu cho tôi. Mọi thứ diễn ra quá bất ngờ và hỗn độn, tôi không hiểu vì sao mình bị thương, sao máu lại chảy nhiều như thế, nhưng lạ thay, tôi không khóc một tiếng. Mọi người cố gắng gọi xe để đưa tôi đi cấp cứu. Nối tiếp đó là tiếng băng ca vội vã, tiếng kim loại va vào nhau loảng xoảng, tôi được đẩy qua một khoảng hành lang tối, tối đến mức tôi có thể nhìn thấy ánh trăng sáng lấp ló sau kẽ lá... Tôi lại ngước nhìn mẹ rồi nói nhỏ: “Mẹ ơi, trăng sáng quá! Mẹ ơi... con buồn ngủ...”
Mẹ tôi khóc, bà làm mọi cách để giữ cho đầu óc tôi không chìm vào giấc ngủ. Cô Út tôi, lúc này đang là bác sĩ trong bệnh viện, cũng khóc. Chỉ có tôi là cứ thắc mắc vì sao họ lại khóc như vậy. Rồi tôi
thiếp đi trong tiếng khóc văng vẳng bên cạnh, trong giọng nói của một bác sĩ khác: “Vết chém cận sọ, một chút nữa thôi thì… Đứa bé là cháu ruột của cô à ? Cô run thế này thì làm sao mà làm được?”
Khi tỉnh lại, tôi thấy ba mẹ đang ngồi bên cạnh với đôi mắt đỏ hoe. Thấy tôi mở mắt, ba đầu tiên là ngạc nhiên, mừng rỡ, sau đó run run vuốt nhẹ lên má tôi rồi đứng dậy nói với mẹ: “Con tỉnh rồi! Em ở đây trông con nhé, lát anh về.”
Mẹ tôi không nói gì, ánh mắt bà thăm thẳm, chất chứa bao nỗi niềm, có sự lo lắng, mệt mỏi, và cả giận dữ. Nửa đêm hôm đó, khi đang lơ mơ ngủ, tôi nghe loáng thoáng có tiếng ồn ào, đúng lúc ba trở về, còn mẹ đang cầm chiếc ghế nhựa định ném vào họ. Trước sự im lặng của ba tôi và sự phẫn nộ của mẹ, họ chắp tay van xin: “Em xin lỗi anh chị... Em xin lỗi... Em và bạn cũng bị chém phải vào đây. Tụi em không cố ý làm hại con gái anh chị.”
Thì ra, họ là những người đã gây ra trận ẩu đả đó. Tôi lại thiếp đi không biết thêm gì nữa.
Tôi nằm viện được hai hôm thì cô Thảo - bạn của ba mẹ tôi - mang rất nhiều quà đến thăm. Cô ấy nhìn tôi rồi quay sang nói với ba mẹ tôi, khuôn mặt méo mó, khổ sở: “Em xin tạ tội với anh chị. Người hại con bé ra nông nỗi này là thằng em họ trời đánh của em. Nó biết đã lỡ tay chém nhầm con gái của anh chị nên trốn ra đảo từ đêm hôm đó tới giờ. Bây giờ, nó nhờ em đến tạ tội thay, xin anh chị tha thứ cho nó lần này mà viết giấy bãi nại để nó không phải ra toà. Nếu anh chị không đồng ý thì nó cũng chỉ còn đường ra tự thú chứ không dám vơ vất ở bên ngoài. Nó thực sự biết lỗi rồi, mong anh chị hãy thương em, thương nó mà bỏ qua lần này. Gia đình em sẽ ký giấy cam kết lo cho con bé đến năm cháu mười tám tuổi.”
Mẹ không nói gì. Còn ba thì ra ngoài châm thuốc hút.
Tôi cũng không rõ ba mẹ tôi đã xử lý việc đó ra sao, nhưng hôm sau nữa, tôi lại thấy cô Thảo tới thăm, đi cùng cô là một anh thanh niên gầy rộc. Vừa bước vào phòng, anh ta đã quỳ sụp xuống chân ba tôi. Không ai nói gì. Mọi người trong phòng đổ dồn ánh mắt về phía chúng tôi. Mẹ đưa cho cô Thảo một tờ giấy đã được ký sẵn còn ba thì vẫn im lặng, chỉ xua tay ra hiệu cho người thanh niên đó đi ra ngoài. Tôi cảm thấy ngạc nhiên vì sự sợ sệt của người thanh niên kia đối với
ba tôi. Nhưng rồi cơn đau rát từ vết thương vừa mới khâu khiến đầu óc tôi lại chìm vào cơn mơ hồ, không còn quan tâm đến việc đó được nữa.
Tôi nằm lại bệnh viện khá lâu và bị tiêm thuốc mỗi ngày, đến mức chân mất cảm giác tưởng chừng như bị liệt, không thể đi lại được. Ba cõng tôi ra công viên của bệnh viện và đặt tôi ngồi xuống một chiếc ghế đá, sau đó mang cho tôi đôi dép để tập đi trở lại. Đôi chân không còn chút cảm giác, tôi khuỵu ngã khi vừa chạm đất. Mẹ nói chưa muốn để tôi tập đi, vì có lẽ tôi vẫn còn mệt và vết thương thì chưa lành. Ba nhìn tôi không đỡ, chỉ lẳng lặng nói: “Nếu như con không tập đi bây giờ thì sẽ chẳng bao giờ con có thể đi trở lại được nữa. Sự đau đớn này vẫn còn nhẹ nhàng hơn nhiều lần nếu một ngày con phát hiện ra mình không thể tự đứng dậy, không thể tự bước đi trên đôi chân của mình.”
Rồi ba đến bên cạnh tôi, chìa tay cho tôi vịn để đứng lên. Tôi lê từng bước, từng bước cho đến khi ba thử buông tay và tôi lại ngã. Mỗi buổi chiều, ba lại kiên nhẫn đưa tôi xuống công viên để cho tôi tập đi. Đó quả thực là những ngày gian nan với tôi.
Không lâu sau, tôi được xuất viện về nhà, đã có thể tự đi lại được, nhưng tôi không thể chấp nhận nổi hình ảnh của mình trong gương: quá lạ lẫm, quá kinh khủng. Tôi cảm thấy mình thật xấu xí và đáng sợ, nhưng tôi không dám nói điều đó với ba mẹ mà chỉ lặng lẽ ngồi co mình ở góc giường. Có lẽ thấy tôi cố xoay chiếc gương úp vào tường, mẹ gọi tôi lại và hỏi: “Con khó chịu và không thích kiểu tóc mới này phải không?”
Tôi không trả lời mà chỉ cụp mắt xuống, buồn rười rượi.
Mẹ tôi lại nói tiếp: “Con có biết sự lợi hại của kiểu tóc này không?”
Tôi tròn mắt ngạc nhiên. Tôi không nghĩ kiểu tóc xấu xí như thế lại có bất kì sự lợi hại nào.
Mẹ lại nói: “Chẳng phải con thích bộ đồ chơi nấu ăn mới hay sao? Dùng quả đầu xương rồng của con để bắt ba mua cho con đi!”
Mẹ nháy mắt còn tôi thì bắt đầu nhoẻn miệng cười, lần đầu tiên
tôi nở nụ cười khi nhắc đến kiểu tóc mới của mình. Tôi chạy đến húc đầu vào bụng ba, ba nhột nên cười khúc khích. Tôi la lớn: “Ba mua cho con bộ đồ chơi nấu ăn mới đi, con sẽ tha cho ba.” Vừa la tôi vừa dúi dụi đầu vào bụng ba. Tiếng cười sằng sặc của hai cha con vang khắp nhà. Lần đầu tiên kể từ ngày tôi bị thương, ba mới lại cười vui vẻ như vậy. Tối hôm đó, ba đưa tôi đi mua bộ đồ chơi tôi thích. Có mấy quả dừa nho nhỏ bằng nhựa màu xanh, mấy chiếc ghế xinh xắn bé xíu cùng những cái chén, dĩa nhiều màu sắc. Tôi thích lắm!
Kể từ ngày ra viện, mẹ bắt tôi uống sữa đặc pha với trứng gà suốt một thời gian dài. Tôi thật sự phát ngán với mùi vị đó, thậm chí vừa uống vừa chực nôn ra. Mẹ xoa lưng và động viên tôi: “Cố lên con! Không phải điều gì tốt cho con cũng đều khiến con dễ chịu đâu. Nhưng vì nó có ích, con nên chịu đựng nó, nhé?”
Quả thật, tôi không hề dễ chịu với những mũi tiêm, mùi sữa bò trộn với lòng đỏ trứng gà, việc phải cạo tóc và sự đau rát mỗi khi thay băng cho vết thương. Thậm chí, khi vết thương đã lành, trên đầu tôi vẫn còn một vết sẹo rất dài khiến tóc không mọc lên được. Nó làm tôi vô cùng mặc cảm, nhưng tôi phải học cách sống chung với nó, có lẽ là suốt cuộc đời của mình. Nó nhắc tôi nhớ đến một đoạn tuổi thơ đã từng phải chống chọi với những điều tưởng chừng quá sức đối với một đứa trẻ. Nhưng thật may mắn vì tôi đã vượt qua.
Cũng vào khoảng thời gian ấy, vị khách tây kỳ lạ nọ lại tìm đến nhà tôi, khuôn mặt ông ta lúc này khá căng thẳng. Ba mẹ tôi cho ông ta xem một số giấy tờ, có lẽ là hồ sơ bệnh án của tôi. Lần trao đổi này chóng vánh hơn những lần trước và trước khi rời khỏi, ông ấy đến cạnh tôi, mỉm cười rất thân thiện. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy vị khách tây lạ lùng kia, và cũng kể từ đó, ba mẹ tôi không còn nhắc gì về việc đến Hoa Kỳ học tập khi tôi lớn lên nữa. Nhiều năm về sau, tôi có nghe tin về người em của cô Thảo - người đã vô ý chém phải tôi năm xưa. Chú ấy qua đời trong cô độc trên một hòn đảo vì sốc ma tuý.
❉❉❉
Một năm sau tai nạn đó, tôi vào mẫu giáo. Gia đình tôi chuyển về sống chung trong căn nhà lớn của bà nội. Nhà tôi lúc bấy giờ không quá nghèo nhưng cũng không còn dư dả như trước nữa, vì công việc của ba mẹ tôi bắt đầu có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, mẹ tôi là người phụ nữ giỏi vun vén nên chưa bao giờ tôi bị thiếu thốn bất cứ thứ gì.
Như bao đứa trẻ khác, tôi bắt đầu vòi vĩnh ba mẹ những món đồ chơi để khoe với những đứa bạn ở trên lớp. Tối hôm đó, ba mẹ mang về cho tôi một chiếc hộp nhỏ, nhưng sau bữa cơm, tôi mới được phép mở ra. Tôi háo hức chờ đợi đến khi nắp hộp hé mở, bên trong là một con lật đật bằng nhựa. Ba tôi dùng tay gí đầu con lật đật xuống, và ngay lập tức, nó lại bật đứng dậy. Những chiếc chuông bên trong phát ra âm thanh rất vui tai khi nó đong đưa. Tôi hỏi ba liệu có thể mua cho tôi thêm một con búp bê nữa hay không. Ba đã nói với tôi: “Có thể, nhưng con có thích một con búp bê thật đẹp đẽ nhưng khi bị ngã lại không thể tự đứng dậy không?”
Ba tôi là như vậy, ông rất thương tôi nhưng cũng rất nghiêm khắc. Ông luôn dạy tôi sống tự lập, hiểu rõ giá trị cuộc sống từ khi tôi còn rất nhỏ. Trong ký ức tôi vẫn nhớ, tôi thường bị muỗi cắn và những vết cắn đó luôn trở thành những đốm ghẻ, chúng lở loét vì tôi hay dùng tay gãi sồn sột mỗi khi ngứa ngáy. Mẹ thoa thuốc cho tôi nhưng rồi đâu lại vào đó. Vậy là mỗi chiều, khi đài phát thanh bắt đầu chương trình thường ngày, cũng là lúc ba đạp xe chở tôi ra biển, sau đó lấy cát ướt chà xát lên những đốm ghẻ đang rỉ máu của tôi. Vì vết ghẻ đang loét ra lại gặp nước mặn và cát vụn nên đau rát. Tôi gào khóc đấm bùm bụp vào vai ba.
Ba nói với tôi: “Con chịu khó một chút, bây giờ đau rát nhưng vết thương sẽ mau lành, sau này mới không để lại sẹo.”
Và tôi chợt nhớ lại lời mẹ: “Không phải bất cứ điều gì tốt cho con đều khiến con dễ chịu.”
❉❉❉
Lại nói về gia đình bà nội. Cô Út thường nói chuyện lớn tiếng, có lần nói hỗn với ba tôi. Những lúc như vậy, tôi chỉ thấy ba nhìn cô rồi im lặng đốt thuốc. Có lẽ trong mọi vấn đề, sự im lặng luôn là cách phản ứng đáng sợ nhất. Tôi vẫn thường nghe bà nội mắng rằng cô được ăn học đến nơi đến chốn là nhờ ba thời trẻ đã đi làm vất vả, chắt chiu dành dụm từng chút một để nuôi cô đạt được ước nguyện vào trường Y. Nhưng kể từ khi trở thành một bác sĩ, cô Út luôn tỏ ra xem thường ba tôi vì cô cho rằng mình học cao hơn. Khoảng cách giữa hai anh em như tăng dần lên. Ba tôi đã nhường cho cô những gì tốt đẹp nhất trong cuộc đời này mà một người anh trai có thể làm được cho em gái của mình. Nhưng có lẽ, những thứ được cho đi “vô
điều kiện” thường ít được trân trọng vì người nhận xem đó là lẽ hiển nhiên.
Khi có công việc ổn định tại một bệnh viện lớn, cô Út sinh thêm một cậu con trai nữa. Tôi đứng ngoài cửa cứ thấy mọi người bảo thằng bé nằm trong nôi là “cậu ấm”, tôi không hiểu điều đó có nghĩa là gì nhưng tôi biết rằng mọi người rất yêu quý em. Một buổi chiều nọ, khi cô Út đang bồng thằng bé trong lòng ngồi xem tivi, tôi đang nằm bò dưới sàn để tô màu, bỗng dưng tôi thấy có cái gì âm ấm đang tí tách nhỏ xuống đầu mình. Ban đầu, tôi tưởng cô Út uống nước làm văng trúng đầu tôi. Định thần lại, thấy cô đang ôm bụng cười ngặt nghẽo, tôi mới biết rằng “cậu ấm” nhà cô vừa tè đúng chỗ tôi. Mang cái đầu ướt đầy nước tiểu trẻ con, tôi chạy vào phòng vì mắc cỡ. Tôi trốn trong đó đợi ba mẹ về, nhưng mãi đến tận gần khuya tôi mới thấy bóng dáng họ mang theo những bó củi to đùng để nấu cám cho lợn. Đặt những bó củi ngay ngắn vào góc sân, mẹ xuống nhà dưới rửa tay và dọn ra bàn hai con chim cút nướng, món mà tôi rất thích ăn. Mẹ dành một con cho tôi và một con cho bà nội. Tôi mừng quá mà quên mất chuyện bị tè trên đầu chiều nay. Tôi nhấm nháp món chim nướng một cách chậm chạp như sợ rằng nếu ăn nhanh một chút thôi nó sẽ hết vèo vậy, nhưng cuối cùng, nó vẫn hết nhẵn trong sự tiếc nuối của tôi. Ăn xong xuống bếp rửa tay, tôi nhìn thấy ba mẹ đang ăn cơm nguội với nước thịt còn ở đáy nồi. Cảm nhận được sự nhọc nhằn ấy, tôi không dám chia sẻ thêm về những ấm ức, hờn tủi thường ngày mình phải đè nén khi không có ba mẹ ở nhà. Tôi không muốn họ thêm phiền muộn.
Bà nội tôi là một thương binh. Tôi đã nhìn thấy có rất nhiều huân chương được bà treo đầy ở phòng khách. Những lần đi họp mặt Hội cựu chiến binh, bà thường mặc quân phục được là lượt phẳng phiu và đeo huân chương lấp lánh trên ngực. Tôi vẫn cảm nhận được niềm tự hào của bà khi ngắm nhìn những kỷ vật của một thời hào hùng. Và đối với tôi, đó cũng là màu áo đẹp nhất.
Bà thường kể cho tôi nghe về những kỷ niệm thời chiến tranh của mình, những ngày hành quân gian khổ đến thế nào. Khi ấy, dù chưa thể hiểu được mọi thứ nhưng tôi vẫn chăm chú lắng nghe mỗi khi bà kể chuyện.
Bà thương tôi rất nhiều. Biết tôi thích ăn quả trứng cá, mỗi buổi trưa khi tôi ngủ, bà lại trèo lên ban công nơi gác xép, với tay hái
những quả trứng cá chín lủng lẳng trên những cành cây đang sà vào hiên nhà. Bà đựng chúng trong cái ca uống nước làm bằng nhựa màu xanh nước biển đã rất cũ chờ đến khi tôi thức dậy. Chiếc ca ấy gắn với nhiều kỉ niệm của bà.
Vào một ngày cuối năm, khi tôi sáu tuổi, bà nội nhận được một gói bưu phẩm từ xa chuyển đến, bên trong có một lá thư. Lá thư như gợi về những kí ức trong bà, bà trầm ngâm nhìn xa xăm vô định. Tôi rón rén đến gần, bà dang tay ôm tôi vào lòng, hai bà cháu cứ ngồi im lặng như vậy ngắm hoàng hôn đang buông dần xuống mảnh sân nhỏ trước nhà, nơi có những phiến lá vàng phất phơ trong cơn gió nhẹ cuối ngày.
Có lẽ, cuộc đời của bà tôi là một câu chuyện bi tráng, đầy ắp những ký ức hào hùng nhưng cũng lắm những khoảng trầm trong nước mắt. Mười sáu tuổi, bà nội đã tham gia cách mạng, làm nhiệm vụ giao liên. Sau đó, bà được học để trở thành y sĩ phục vụ ở căn cứ. Trong quá trình học tập, nhìn thấy tư chất ở người thiếu nữ nhỏ bé ấy, tổ chức quyết định đưa bà đi đào tạo để trở thành một nhân viên tình báo chuyên nghiệp. Kể từ đó, cuộc đời bà rẽ sang hướng khác.
Không biết vì sao, trước đây bà chưa từng kể cho tôi nghe về ông nội, bà khó chịu khi có ai đó hỏi về những thứ có liên quan đến ông, kể cả ba tôi. Có lẽ, giữa họ có một bí mật nào đó vô cùng to lớn khiến trái tim vừa hận vừa yêu, nửa muốn thừa nhận nửa lại muốn chối từ. Nhưng vào buổi chiều buồn hôm ấy, bà đã kể cho tôi nghe về ông, đó là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất bà nhắc đến ông.
Ông gặp bà tại chiến khu Việt Bắc, trong một lần ông bị thương và được bà chăm sóc, họ đã bén duyên nhau từ đó. Ông xin phép tổ chức để cưới bà làm vợ và được chấp thuận. Năm 1952, bà sinh con trai đầu lòng, chính là bác cả của tôi.
Ngày mồng 7 tháng Năm năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi. Người ta nói rằng đây là một chiến thắng quan trọng gây chấn động, vì sự tương quan về lực lượng của hai bên tham chiến. Nhưng trong khi cả nước hân hoan ăn mừng chiến thắng vang dội khắp năm châu đó, bà tôi đón nhận tin tức khiến lòng mình chết lặng:
Ông nội tôi đã tử trận.
Cũng trong năm đó, sau khi hiệp định Genève được ký kết, đất nước lấy ranh giới là vĩ tuyến 17 chia cắt hai miền Nam - Bắc. Nén nỗi đau mất chồng vào trong, bà gửi bác cả lại cho gia đình ở Quảng Ngãi rồi lên đường vào miền Nam, tiếp tục hoạt động.
Cho đến tận gần mười năm sau, khi chiến tranh vào giai đoạn cam go khốc liệt nhất, bà gặp lại ông trong một lần ra Hà Nội báo cáo công tác. Bà rưng rưng khi nhắc lại, bà không thể tin nổi cuộc đời này lại còn có thể được nhìn thấy ông bằng xương bằng thịt thêm một lần
nữa. Khi ấy, ông vẫn vậy, không hề thay đổi. Sau mười năm trời dài đằng đẵng, bà bắt đầu tin rằng ông đã bỏ bà đi trước. Vậy mà giờ đây, bà được gặp lại ông, với nguyên vẹn tình yêu và lời hứa ông dành cho bà, rằng khi nào im tiếng súng, ông sẽ cùng bà trở về làm những người bình thường, sống một cuộc đời bình thường bên vườn cây, ao cá... Vào cái đêm đoàn tụ sau một thập kỷ chia cắt ấy, ông đã nói với bà: “Anh nhất định sẽ không để lạc mất em một lần nữa.”
Bà trở vào Nam mang theo lời hứa của ông, mang theo cả giọt máu của ông mà không hề hay biết…
Khi đó, tôi còn quá nhỏ để có thể hiểu được nỗi đau xa cách, nhưng giờ đây, khi hồi tưởng lại từng lời bà kể, tôi hình dung ra được sự thống khổ của chia ly: Đó là cảnh đất nước bị chia cắt, vợ chồng phải chia lìa, anh em cha mẹ cũng xa nhau trong khi đang sống dưới cùng một bầu trời Tổ quốc. Điều đó khác gì trái tim bị cứa làm đôi…
Vào một ngày tháng Bảy năm 1964, chỉ một tuần sau khi bà trở lại miền Nam, một số giới chức của Việt Nam Cộng hoà tuyên bố Bắc chiến. Trong lần họp kín tại Hà Nội, bà được giao nhiệm vụ tiếp tục moi tin từ một Đại tá trong hàng ngũ lãnh đạo quan trọng của quân đội Việt Nam Cộng hoà, người đang chung sống với bà tại Sài Gòn. Hơn một năm về trước, bằng lợi thế nhan sắc và khả năng ngoại giao, bà nhanh chóng trở thành phu nhân của vị Đại tá này, một lớp vỏ bọc quá hoàn hảo và chắc chắn để bà có thể hoạt động trong lòng địch, cung cấp những tin tức quý giá cho hậu phương miền Bắc. Lúc đó, họ hàng và bố mẹ ở quê đã lên án bà dữ dội. Tôi thấu hiểu sự oan ức “kêu trời không thấu” của bà tôi khi đó, nỗi oan không được phép thanh minh.
Từ ngày trở về Sài Gòn, bà luôn cảm thấy trong người nôn nao khác lạ, bà biết mình đã có tin vui xen lẫn nỗi buồn. Đủ ngày đủ
tháng, bà sinh hạ một cặp song sinh, linh cảm của người mẹ cho bà biết chắc rằng đây chính là con của người chồng cũ, người đồng đội và cũng là người đàn ông bà yêu nhất. Còn ông Đại tá kia thì mừng rỡ vì có được quý tử. Cặp song sinh đó chính là bác Hai và ba của tôi. Vì bà tôi luôn trong tình trạng căng thẳng và lo âu suốt thời gian mang thai nên khi sinh ra, cả hai đứa bé đều khá nhẹ cân. Điều đó càng làm ông Đại tá tin rằng bà tôi vì sức khoẻ yếu nên sinh non. Ông ta luôn mong mỏi có nhiều con, bởi cho rằng đó là biểu hiện của sự thịnh vượng. Trong suốt năm năm chung sống với ông ấy, bà đã có thêm hai người con gái, chính là các cô của tôi.
Trong những năm tháng sống cùng ông Đại tá, ngoại trừ khai thác thông tin mật từ phía ông, bà đã tham dự rất nhiều những buổi tiệc cùng các vị mệnh phụ phu nhân thời bấy giờ, nghe ngóng thêm nhiều thông tin từ họ. Không một ai hoài nghi thân phận của bà, một “đại công thần” vì đã sinh được những đứa con đầy hứa hẹn cho chồng. Một cuộc sống hạnh phúc như thế thì có lý do gì để người ta phải nghi ngờ động cơ của cuộc hôn nhân này? Có lẽ, chính lợi thế đó đã càng giúp bà tôi khai thác tối đa thông tin từ các mối quan hệ vàng.
Vào một ngày đầu năm 1969, sau khi phát hiện ra bộ hồ sơ tối mật nằm trong két sắt ở phòng làm việc của ông Đại tá, bà đã mở đường cho lực lượng hỗ trợ của tổ chức vào tận nơi để đánh cắp. Thật không may, ông Đại tá trở về ngay đêm hôm đó, sớm hơn một ngày so với dự tính. Chính bà đã chĩa súng khống chế ông để đồng đội của mình thoát ra ngoài, mang theo cả bộ hồ sơ quyết định vận mệnh của ông. Với một giọng trầm buồn, bà nói: “Khi đó, bà cứ nghĩ rằng giữa bà và ông ấy sẽ có một viên đạn được bắn ra, sẽ có một người phải chết. Nhưng không, cô Út của con bỗng dưng bước vào, òa khóc vì tiếng ồn ào khiến nó thức giấc. Ông ấy đã buông súng, quay lưng đi. Và từ đó, bà không còn gặp lại ông ấy thêm một lần nào nữa.”
Sau cái đêm động trời ấy, bà tôi cùng một người hầu gái thân cận cũng mang trong lòng ý chí hướng về cách mạng đưa cả bốn người con sang Svay Rieng thuộc Campuchia để tạm lánh. Năm 1973, bà trở lại miền Trung Việt Nam, thay tên đổi họ và tiếp tục hoạt động cho đến ngày hoà bình được lập lại. Bà trở về quê hương, những mong tìm lại gia đình, tìm lại đấng sinh thành để nói với họ một lời giải thích, thì bàng hoàng hay tin họ đều đã qua đời. Trái tim quặn thắt, bà thắp một nén hương để xin được nói một lời tạ tội với tổ tiên. Bà ôm trong lòng nỗi day dứt khôn nguôi khi đã khiến đấng sinh thành
về với đất nhưng vẫn mang theo nỗi lòng khắc khoải về con gái của mình. Các cụ đã không thể được nhìn mặt con một lần cuối. Bà tôi không thể có được bất kì một tin tức gì về họ cho đến khi nấm mộ đã mọc đầy rêu xanh.
Đất nước thoát khỏi cảnh chia cắt, bà tôi rất muốn tìm lại ông nội để gia đình đoàn tụ, để ông biết rằng mình còn có hai người con trai nữa ngoài bác cả. Nhưng sự day dứt của một người phụ nữ mang trên đầu cái tội nghiệt “phản bội chồng”, dù là vì nhiệm vụ hay lý tưởng đi chăng nữa thì có lẽ đó cũng là một điều khó chấp nhận. Bà đã không đủ can đảm để tìm lại và đối diện với ông, để cho bác Hai và ba tôi được nhận cha ruột. Bà của tôi, một nữ tình báo dũng cảm xả thân cho an nguy của đất nước, nhưng lại quá yếu đuối trong chính vận mệnh của cuộc đời mình.
Năm 1976, bà đưa cả gia đình đến tỉnh Phú Khánh, tiếp tục thay tên đổi họ và sống những ngày tháng ẩn dật. Bác cả của tôi lúc này đang học ngành Y. Hoà bình lập lại cũng là lúc nỗi oan khuất của bà tôi được hoá giải. Bác cả không còn trách bà nữa, nỗi mặc cảm suốt hơn hai thập kỷ qua trong lòng bác cũng được cởi bỏ. Nhưng hạnh phúc ngắn chẳng tày gang, gia đình đoàn tụ chẳng được bao lâu thì năm 1982, bác tôi qua đời trong một cơn bạo bệnh khi tuổi đời còn khá trẻ.
Từ sau hôm nhận được lá thư đó, bà thường dạy tôi học võ, học ngoại ngữ và những kỹ năng mà bà tích lũy được. Có lẽ, quá khứ hào hùng đang sống lại trong bà. Bà truyền cho tôi lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc và cả nỗi buồn đã phủ một lớp bụi thời gian.
Chương 2
Sự mất tích bí ẩn của bác tôi
G
ia đình tôi chuyển nhà thường xuyên. Năm tôi tám tuổi, gia đình tôi không sống cùng bà nội nữa mà chuyển đến một căn nhà nhỏ khác, nơi có vườn táo sau nhà, và đó là lý do cho những buổi trưa tôi trốn mẹ vác rổ ra đó hái quả.
Mỗi sáng, ba vẫn chở tôi đi học trên chiếc xe đạp màu huyết dụ. Dáng ông cần mẫn đến khắc khổ. Ngày nắng gắt, mồ hôi ông ướt rịn vai áo, hình ảnh ấy như nhắc nhở tôi mỗi con chữ tôi học là một giọt mồ hôi của ba. Ngày mưa bão, sấm chớp như xé toạc bầu trời để trút nước ào ạt xuống trần gian, gió thổi thốc từng cơn làm oằn đi những thân cây khẳng khiu hai bên đường, ba vẫn gồng mình đạp xe băng băng đưa tôi qua những con phố dần thưa vắng bóng người. Ba tôi là một người đàn ông cương trực và rất tự trọng, nhưng chỉ cần vì tôi thì ông sẵn sàng buông bỏ mọi thứ, miễn là tôi được no đủ… Vào một ngày, khi tôi vừa trải qua một cơn sốt cao, nhà không còn tiền nhưng tôi lại thèm xôi gà nóng bán ở góc đường Lê Thánh Tôn. Người bán xôi lớn tiếng chửi bới ba tôi vì ông vẫn còn nợ tiền của họ, mặc cho bao người qua lại xầm xì, ông vẫn kiên nhẫn đứng đợi lấy cho được hộp xôi nóng và đút cho tôi từng muỗng. Ba tôi vẫn cười, vẫn trìu mến nhắc tôi ăn nhiều vào cho chóng khoẻ. Hộp xôi ngon nhất và cũng có lẽ là chua xót nhất trong cuộc đời tôi…
Sau đó không lâu, chúng tôi lại chuyển nhà. Tôi không hiểu vì sao chúng tôi phải thường xuyên thay đổi chỗ ở như vậy. Đến nơi ở mới, mẹ tôi mở một tiệm cơm. Mẹ nấu ăn ngon nên tiệm cơm rất đắt hàng. Tôi đi học một buổi còn một buổi về phụ mẹ bưng bê, rửa chén bát. Có một lần, do sơ ý làm rơi vỡ đĩa cơm mang cho khách mà tôi hoảng quá khóc thét lên, mọi người thương cảm nên từ đó, quán cơm của mẹ tôi trở thành quán ăn tự phục vụ.
Tôi khó kết bạn với những đứa trẻ cùng tuổi khác. Thế giới của tôi chỉ xoay quanh sách. Tôi mê mẩn những căn nhà có nhiều sách để được thoả sức ngắm nhìn, được hít hà mùi giấy khi lật từng trang, từng trang. Đối với tôi, sách là kho tàng giúp tôi thực hiện những
chuyến phiêu lưu dài bất tận, đắm chìm trong sự hào hứng khám phá những bí mật của thế giới này.
Rồi một ngày nọ, ba đưa một người về phụ mẹ buôn bán và bảo mẹ không cần phải trả lương cao. Nhưng sau đó, mẹ phát hiện ra đó chính là nhân tình của ba. Họ cãi nhau, đánh nhau. Ba bỏ đi, để lại cho mẹ vết thương trên đầu đang chảy máu, để lại cho tôi những mảnh ký ức vỡ nát. Tiệm cơm đóng cửa vì mẹ tôi nằm liệt giường. Tôi cũng nghỉ học vài ngày vì cảm thấy không thể tập trung khi ở trên lớp. Nghỉ ngơi được vài ngày, mẹ tôi bắt đầu mở cửa bán hàng trở lại với cái đầu vẫn còn quấn băng trắng. Mẹ bảo tôi giúp bà rửa bát, mỗi ngày, mẹ sẽ cho một nghìn đồng, đến cuối tuần tôi sẽ đủ tiền mua truyện tranh hoặc sách mà tôi thích. Ban ngày, mẹ vẫn làm việc bình thường, nhưng bà bắt đầu uống rượu vào ban đêm. Có những lúc say quá mẹ ngủ quên, khoá luôn cửa phòng trong khi tôi còn đang ở ngoài, gọi mãi mẹ không dậy, tôi đành ngồi bó gối trước cửa suốt đêm.
Sau lần cãi nhau đó, ba không về nhà nữa. Con bé tám tuổi là tôi khi ấy, lần đầu tiên dám tự bắt xe ôm để về nhà bà nội tìm ba. Dọn dẹp xong, không thấy tôi đâu, mẹ hoảng hốt đi tìm kiếm khắp nơi thì hàng xóm nói lại là tôi bắt xe ôm đi rồi, bác xe ôm sau khi chở tôi đến nhà bà nội xong cũng quay về báo tin cho mẹ tôi yên tâm. Mẹ giận lắm. Tôi bị ăn đòn vì dám tự ý bỏ đi mà không xin phép. Nhưng có lẽ vì thế mà mẹ đã tha thứ cho ba để ông có thể trở về.
Thời kỳ này, ba tôi làm chủ một doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và nhanh chóng có tiếng trong vùng. Tôi đã được nhìn thấy rất nhiều bản thiết kế các công trình do ông nhận thầu, và thường xuyên được nghe mọi người khen ngợi. Ít lâu sau, gia đình tôi lại có thêm một tiệm cà phê, công việc kinh doanh bận rộn khiến mẹ phải gửi tôi học bán trú. Những hôm ba bận, người đưa đón tôi sẽ là nhân viên của ba hoặc của mẹ. Thời gian này, tôi chỉ ở nhà vào buổi tối và thường thì khi về nhà, sau khi người giúp việc lo cho tôi ăn uống xong, ba mẹ muốn tôi ở trong phòng làm bài tập, ít khi nào cả nhà cùng ăn cơm cùng nhau.
Một lần, do cô giáo bận việc nên tôi được đón về nhà sớm hơn mọi ngày. Khi về đến nơi, tôi rón rén lên phòng tìm ba mẹ thì thấy ba đang ngồi cùng rất nhiều người, họ có dáng vẻ lạnh lùng và bặm trợn nhưng dường như rất nể sợ ba. Tôi không nghe rõ họ nói gì nhưng
bỗng dưng ba đứng phắt dậy, tát tai một người đàn ông trong số đó và quát lớn: “Cút ngay! Tao không dung thứ bọn nghiện ngập! Mày nghiện được ắt phản được!”
Người đàn ông đó tỏ ra sợ sệt trước thái độ của ba. Ba trong mắt tôi là một người đàn ông hiền lành, luôn nhẹ nhàng với mọi người xung quanh và nhất là với tôi. Quãng thời gian từ khi tôi được sinh ra cho đến khi ông mất đi, chưa bao giờ ông đánh tôi dù chỉ một lần. Tôi hoang mang trở về phòng, chưa bao giờ tôi thấy ba đáng sợ như vậy. Tôi vẫn mang trong lòng nỗi thắc mắc về những người mà mình đã nhìn thấy trong phòng ba mẹ nhưng không dám hỏi.
Cuộc sống của tôi lại bình lặng trôi qua. Thỉnh thoảng, tôi vẫn về với bà nội vào cuối tuần và dần không còn quan tâm đến những người trong phòng của ba mẹ hôm ấy nữa, cho đến ngày, ba đột ngột bị tạm giam để phục vụ cho công tác điều tra. Mẹ nói rằng, đó là một tai nạn. Tôi vẫn nhớ như in, đó là một ngày cuối tuần, ba lái xe ra khỏi nhà rồi bất chợt quay lại nhìn mẹ một lúc lâu. Ánh mắt đau đáu của hai người khiến mọi thứ như ngưng lại. Vào buổi chiều, người ta gọi điện báo cho mẹ là ba bị bắt.
Thời gian đó, mẹ tôi không còn tâm trí để lo lắng cho công việc kinh doanh nữa, cũng vì thế mà liên tiếp gặp thua lỗ và phải đóng cửa. Tôi còn nhỏ, chưa ý thức được những khó khăn mà gia đình mình phải đối mặt. Thứ Năm hàng tuần, mẹ luôn đưa tôi đi hơn bảy mươi cây số để đến thăm ba. Mẹ đã chuẩn bị rất nhiều đồ ăn cho ba và luôn có một vài gói lương khô kèm theo. Thường thì mẹ tôi sẽ đặt mua thịt heo có tí mỡ, sau đó kho mặn và gói kĩ để ba ăn với cơm trắng. Mẹ nói cuộc sống trong đó rất thiếu thốn. Khi ba bị bắt cũng là lúc bắt đầu bước vào mùa đông, mặc kệ những cơn mưa to và những trận gió thổi rét buốt, mẹ con tôi vẫn đèo nhau trên chiếc xe máy cũ để đến nơi ba tôi bị tạm giam. Đó là một nơi hẻo lánh, đường xá rất khó đi, xung quanh là những cánh rừng bạt ngàn thưa người qua lại, vì thế nên mẹ con tôi phải dậy chuẩn bị đi từ sáng sớm để có thể trở về nhà trước khi trời tối.
Có một lần, chúng tôi đến nhưng ba không được ra ngoài gặp mặt, mẹ đứng ngoài khóc, còn tôi thơ thẩn chạy đến các ngóc ngách ở đó xem có cách nào chui vào trong ngôi nhà nằm sau cánh cổng này để gặp ba không. Có lẽ vì tội nghiệp nên lúc ấy, các chú công an đã đặc cách mở cửa phòng giam cho tôi vào nhìn mặt ba, nhưng chỉ mình tôi
thôi còn mẹ thì không được. Sau này tôi mới biết, sự “tội nghiệp” này là sai quy định. Tôi trân trọng điều đó vô cùng bởi tôi hiểu, đó là sự cảm thông sâu sắc mà các chú đã dành cho một đứa trẻ như tôi. Tôi đi vào dãy phòng tạm giam kiên cố, những mảng tường bong tróc đầy rong rêu được nối dài, những chấn song sắt lạnh lùng, gỉ sét chỉ đủ cho người bên trong nhón chân lên nhìn ra bên ngoài. Nhiều phạm nhân chạy xô ra vịn tay vào song sắt, cố nhoài ra nhìn tôi, vì đây là lần đầu tiên họ thấy có người nhà phạm nhân được vào tận trong này. Ba tôi cũng cố chen chúc lại gần, đưa tay ra xoa đầu tôi và dặn: “Ở nhà ráng học hành nghen con.” Chỉ kịp có vậy rồi tôi phải nhanh chóng trở ra ngoài. Lúc đó, dù rất muốn khóc nhưng không nỡ để mẹ thêm buồn, tôi đã nén lòng mình xuống và còn nhảy chân sáo ra ngoài, miệng cố kéo lên thành một nụ cười tươi. Đó là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi cảm thấy đau ở lồng ngực. Cảm giác ấy, cho đến tận bây giờ, mỗi khi nhớ lại, nó vẫn như còn nguyên vẹn trong tôi.
Một lần khác tới thăm ba, lần này mẹ đưa tôi tới bệnh viện. Bác sĩ nói rằng ba có khối u ở gan nên được đưa ra ngoài để tiện cho việc khám chữa bệnh. Thấy tôi bước vào, ba vội vàng lấy chăn phủ lên người, nhưng giây phút ngắn ngủi đó đã đủ để tôi nhìn thấy chân ba bị còng vào giường. Đôi bàn tay lóng ngóng cùng khuôn mặt in hằn nỗi đau khổ, ái ngại của ba khiến tôi cảm thấy đau đớn đến nghẹt thở. Thời điểm đó, tôi tin rằng mình đã lớn hoặc chí ít là đủ lớn để cảm nhận được những cái nhói buốt một cách rõ ràng nhất.
Mẹ đã đi cầu cạnh rất nhiều người để hỏi thêm tin tức của ba. Mùa mưa lũ năm ấy, trong một lần qua sông để đi đến nhà một vị cán bộ thụ lý hồ sơ của ba, mẹ đã bị nước cuốn. May mắn thay, có người đã kịp nhảy xuống cứu mẹ. Sau này, vì thương cảm, bác ấy lại không có con nên ngỏ ý nhận tôi làm con nuôi, có giấy tờ xác nhận đầy đủ và nói với ba mẹ tôi rằng nếu được, hãy đổi sang họ Nguyễn của bác ấy để tôi có thể nhận được những chính sách ưu đãi của nhà nước đối với con em cán bộ trong ngành. Đứa trẻ tám tuổi - là tôi khi ấy - đã thẳng thắn từ chối và nói: “Con chỉ có một ba thôi.” Câu trả lời của tôi khiến bác ấy rất bất ngờ. Những năm tháng về sau, bác vẫn luôn xem tôi là con gái và dành cho tôi sự quan tâm như một người cha thứ hai. Nhiều năm sau, bác chuyển ra Bộ nhận công tác lãnh đạo nên chúng tôi không còn nhiều dịp gặp lại nữa.
Kinh tế gia đình tôi lâm vào cảnh khó khăn, bi đát hơn khi những đối tác của ba tôi đồng loạt tìm cách từ chối thanh toán công nợ khi
hay tin ba tôi bị bắt. Lúc đó, thậm chí nhà cũng không còn gạo để nấu cơm. Sợ mẹ đi làm về không có gì để ăn, tôi đã cầm rổ nhựa đi loanh quanh ngoài vườn xem thử có gì để hái vào nấu được không. Phát hiện ra có một cây rau mồng tơi tôi trồng từ bao giờ đã cao lên và có lá, tôi vặt sạch, mang vào bếp làm bữa chống đói. Lục lọi được khoảng ba, bốn con tôm khô trong bếp, tôi mang ra nấu một chén canh thơm phức. Tôi cứ ngồi nhìn chén canh đó mà không dám ăn. Khi mẹ về, tôi bưng lên cho mẹ, mẹ ngạc nhiên lắm vì lúc đó tôi mới tám tuổi. Tôi cứ tưởng mẹ sẽ la mắng vì dám động vào dao và bếp lửa, nhưng không, mẹ ôm tôi và khóc. Sau này, mẹ đã kể với ba rằng, đó là chén canh ngon nhất trong cuộc đời mẹ.
Một ngày khác, tôi bị cô giáo bắt mời phụ huynh vì làm việc riêng trong giờ học. Khi về nhà, mẹ tức giận cầm roi và hỏi tôi đã làm gì lúc đó. Lúc ấy, tôi chỉ biết mếu máo bảo tôi viết thư cho ba. Lá thư viết dở ấy đã luôn được tôi giữ gìn một khoảng thời gian dài, có một đoạn viết:
“Hôm nay, con đánh nhau với bạn Quốc vì bạn ấy không làm bài tập giúp con để con có thời gian rảnh viết thư cho ba. Ba yên tâm, con đánh thắng, bạn ấy khóc quá trời nhưng con cho ăn kẹo nên nín rồi. Khi nào về, ba nhớ đưa con đi cửa hàng bách hóa, mua cho con một chiếc xe đạp bốn bánh, rồi con sẽ lấy xe chở ba đi cửa hàng mỹ nghệ. Con để dành được sáu ngàn rưỡi, định mua cho ba một hộp bánh, nhưng mẹ mua rồi nên con đã lấy ra mua sách. Con xin lỗi vì trong lúc đọc sách, con đã ăn mất một cái bánh của ba, mẹ không biết đâu vì mẹ chưa đếm lại nhưng ba đừng kể với mẹ nha. Khi nào về, ba dẫn con đi mua thêm truyện tranh mới… Con nhớ ba lắm!”
Lá thư đó được tôi dúi nhanh vào túi áo của ba khi đi cùng mẹ lên thăm nuôi. Sau này, tôi được nghe nói rằng, lá thư ấy được truyền tay cho mọi người trong đó đọc, có rất nhiều người đã rơi nước mắt. Có lẽ lúc ấy, trong họ cũng đang cuộn lên nỗi nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ những đứa con bơ vơ khi họ lạc bước phải vào chốn này.
Mỗi lần thăm ba, tôi đều thấy lạ lẫm với bộ quần áo kẻ sọc trên người ông, tóc của ba cũng đã cắt sát da đầu, tôi không còn ngửi được ở ông mùi mồ hôi như trước đây mà thay vào đó là mùi lạ lẫm chát đắng vị “tù nhân”. Ba tôi là một “tù nhân”. Tôi mang trong lòng nỗi mặc cảm đến cùng cực, mùi hương đó cũng phảng phất theo tôi vào tận trong giấc ngủ. Có lẽ mẹ đã đọc thấu suy nghĩ của tôi nên luôn cố
giải thích cho tôi hiểu rằng ba chỉ đang bị tạm giam để phục vụ công tác điều tra thôi, chưa ra toà, chưa kết án thì chưa phải là “tù nhân”. Tôi học hành sa sút dần, nghỉ học cũng nhiều hơn, điểm số tụt thê thảm. Những lúc ấy, tôi đợi mẹ hút thuốc rồi mới dám rón rén đưa bài kiểm tra cho mẹ xem. Tôi không hiểu vì sao khi trầm tư hút thuốc, mẹ lại dễ dàng bỏ qua những lỗi lầm của tôi hơn. Hoặc có thể, đó chỉ là cảm giác của tôi thôi.
Rồi ông trời cũng không phụ sự cố gắng của mẹ, cuối cùng, ba tôi cũng được ra khỏi nơi tạm giam. Ba trở về và bắt đầu gây dựng lại mọi thứ. Mẹ cố gắng giúp ba rất nhiều để từng bước tìm lại những khách hàng đã mất cũng như thu hồi công nợ. Cuộc sống của gia đình tôi dần ổn định trở lại.
Nhưng có lẽ khoảng lặng bình yên như thế luôn là tiền đề cho những cơn giông bão dữ dội hơn sau đó. Mùa hè năm 2002, mẹ đưa tôi vào Sài Gòn để thăm nhà cậu ruột là anh trai của mẹ. Kỳ nghỉ chưa kết thúc thì bất chợt mẹ đưa tôi quay về Nha Trang. Nhưng lạ thay, chúng tôi không về nhà mà lại ở khách sạn. Tối hôm đó, mẹ đưa tôi đi mua một que kem ốc quế, loại kem mà tôi yêu thích nhất. Tôi hí hửng ăn mà không để ý đến sự trầm ngâm của mẹ, mẹ cứ ngồi rít thuốc đến giữa đêm thì bảo tôi thu xếp đồ đi về nhà. Tôi lấy làm lạ lắm nhưng vẫn nghe lời mẹ. Hai mẹ con bắt taxi, về đến nhà, mẹ lặng lẽ mở cổng và khẽ khàng bước vào, tôi líu ríu đi theo. Nhà tối om như mực, đèn được bật sáng và trước mắt tôi là một người phụ nữ đang trần như nhộng ngay trên giường của ba mẹ tôi. Mẹ che mắt tôi lại rồi đẩy tôi ra ngoài, bảo sang nhà hàng xóm ngủ tạm. Suốt cả đêm, tôi chập chờn với những âm thanh hỗn loạn vọng sang từ phía nhà mình. Những âm thanh mơ hồ theo tôi vào giấc ngủ mệt lả, đục ngầu và nghét đắng.
Sáng hôm sau, tôi về nhà, ba đang ngồi ở sofa, cúi gằm mặt không nhìn tôi. Người phụ nữ hôm qua áo quần xộc xệch ngồi một góc. Đơn ly hôn nằm chỏng chơ trên mặt bàn, nhàu nhĩ. Thấy tôi về, mẹ cất tiếng bảo ba bắt xe cho cô ta về đi. Mẹ gom hết chăn màn, đệm gối vứt ra sân và bảo tôi đi mua cho mẹ một ít dầu lửa, tôi ngoan ngoãn làm theo. Mẹ châm một mồi lửa đốt sạch tất cả. Mẹ bảo không muốn tôi nằm trên chiếc giường đó nữa. Lửa bốc lên dây điện suýt cháy to, ba tôi vội mang nước ra dập. Ngọn lửa thiêu rụi đệm gối nhưng không thể xóa đi lỗi lầm của ba. Khói đen của ngày hôm ấy ám cả vào tuổi thơ tôi.
Ba không chịu ký vào đơn, tôi buộc phải theo mẹ về vùng quê hẻo lánh, nơi có ngôi chùa nhỏ mà bà ngoại tôi đang tu hành. Khi ra đi, tôi phải bỏ lại hai con mèo mà mình đã chăm bẵm từ thuở nhỏ. Ra đi như chạy trốn, tôi chỉ kịp mang theo hai con búp bê, một lớn một nhỏ mà ba đã mua cho tôi cách đó không lâu. Tôi ngoảnh đầu nhìn lại nhà mình, nó tan hoang và ngổn ngang. Người ta nói rằng, gia đình tan vỡ nghĩa là mọi thứ đều trở thành những mảnh vỡ, kể cả trái tim. Điều đó thật đúng với tôi bây giờ.
❉❉❉
Tôi “nổi bật” ở ngôi trường tiểu học nơi vùng quê này, bởi lẽ tôi có sẵn sự mạnh dạn của đứa trẻ thành phố. Tôi chăm chỉ học hành và luôn đứng nhất lớp. Tôi năng nổ trong những đợt gây dựng phong trào, tham gia tích cực các hoạt động đoàn đội, nhờ vậy mà trong mấy năm tiểu học, tôi chưa bao giờ tụt hạng. Giải thưởng lớn bé, cấp trường cấp huyện đều xướng tên tôi. Tôi còn đưa về cho trường những giải thưởng nhiều cấp độ trong công tác Đội.
Mẹ tôi lại mở một tiệm cơm ở chợ huyện. Mỗi ngày, tôi lủi thủi bên bà ngoại đợi mẹ về. Tôi theo bà học kinh kệ, học thiền để kiếm tìm sự bình yên nơi tâm hồn mà một đứa trẻ như tôi đã sớm đánh mất. Lạ thay, tôi tiếp thu rất nhanh giáo lý nhà Phật. Tôi chăm chỉ kinh kệ và trong lòng vẫn cầu mong đức Phật phù hộ cho ba mẹ tôi trở về bên nhau. Thật không ngờ, sau tất cả những gì đã xảy ra, tôi vẫn thật sự mong mỏi điều đó…
Sinh nhật năm đó của tôi được tổ chức trong lặng lẽ. Dù sinh nhật mọi năm cũng ít khi có sự hiện diện của ba bởi ông luôn bận nhiều việc bên ngoài, nhưng chẳng hiểu sao năm nay, tôi vẫn thấy trống vắng bởi tôi hiểu rằng thật khó để chúng tôi có thể trở lại là một gia đình. Đêm khuya, mẹ về mang theo chiếc bánh kem mua vội, tôi ngó ra cửa và buột miệng hỏi: “Ba có về không mẹ?”
Sự thành tâm của tôi không thể qua được mắt bà ngoại. Bà gọi mẹ sang và kể rằng tôi đã quỳ rất lâu mỗi khi kinh kệ. Bà khuyên mẹ hãy cho ba thêm một cơ hội nữa bởi theo bà, trong hôn nhân, hãy nghĩ cho con cái trước tiên, sau đó mới là bản thân mình. Mẹ tôi im lặng không nói gì. Sau đó ít lâu, mẹ lại một lần nữa mở cánh cổng cho ba tôi quay về. Tôi biết, mẹ làm điều đó là vì tôi. Nhưng mẹ quyết định ở hẳn nơi miền quê này mà không trở về thành phố nữa, đó là cách duy
nhất để tẩy xoá đi ký ức đau buồn mà ba đã gây ra.
Ba vẫn thường xuyên vắng nhà như trước. Mỗi lúc rảnh rang, ông lại mang cuốc ra sau nhà xới đất trồng khoai rồi đào khoai, còn tôi thì xách giỏ chạy theo nhặt những củ khoai mập tròn. Tôi tưởng tượng đến một buổi tối cả nhà sum vầy bên nồi khoai xem tivi cùng nhau, một hình ảnh hạnh phúc mà tôi đã từng mô tả trong bài văn viết ở lớp và được điểm cao. Có ngờ đâu đào khoai, ăn tối xong thì ông cũng khoác áo đi mất. Tôi ngóng hoài, ngóng hoài tiếng xe của ông suốt đêm nhưng đều là những tiếng động xa lạ của người qua đường. Chờ đợi một lúc, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào chẳng hay, để rồi sự ngóng trông đó kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Khoai thì đã vơi dần đi, nhưng chưa bao giờ tôi có được hình ảnh như trong bài văn mà tôi đã viết. Đôi lúc, tôi tự hỏi, làm thế nào mà tôi luôn được điểm cao môn văn, nhất là những bài văn nói về gia đình? Vì gia đình của tôi thật sự hạnh phúc như thế, hay bởi khao khát hạnh phúc trong tôi đã quá lớn, đến mức tôi có thể tự tay tô vẽ nên những viễn cảnh viển vông?
Những ngày hè oi ả nơi miền quê cằn cỗi, tiếng ve kêu rợp trời, nắng vàng chói loá trên những đôi cánh bướm bay dập dìu. Tôi đạp chiếc xe mini nhỏ xíu dành cho trẻ em đi học. Mẹ nói mãi mà tôi chẳng chịu đổi chiếc xe lớn hơn, đơn giản vì tôi nhát. Sau giờ học, tôi thường hì hục đạp xe thật nhanh về nhà, trên ghi đông vắt vẻo một bịch khi là chè, khi là bánh, khi lại là bắp rang đường. Tôi mua cho ba, vì ở nhà, chỉ có hai cha con là thích ăn vặt. Ba ngồi trong nhà, nhìn ra xa thấy con gái mua quà cho mình thì cũng được dịp lên mặt với mẹ: “Em thấy chưa, con thương anh ghê hôn!” Ba tôi hoàn toàn có quyền tự hào như vậy vì tôi đã dành cho cho ông một tình yêu vô bờ bến, để rồi những ngày tháng sau đó, tình cảm ấy lại trở thành thứ vũ khí giết chết tâm hồn tôi, giết chết trái tim ông.
Sau nhiều biến cố gia đình, tôi bắt đầu được mẹ rèn luyện tính tự lập. Vì thế nên khi đi lãnh phần thưởng cuối năm, chẳng bao giờ tôi cần ba mẹ phải chở đi như những đứa bạn khác. Tôi tự thức dậy, tự chuẩn bị quần áo rồi tự đạp xe bon bon trên đường đến trường lĩnh thưởng. Thật không may, trên đường về nhà, phần thưởng tôi để ở yên sau bị rớt ngay vào bãi phân trâu nằm chỏng chơ giữa đường. Tôi phi vào nhà, vừa đi vừa khóc lóc kể lể với ba. Hai cha con hì hục phóng ra nhặt về cho mẹ tôi rửa. Có lẽ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc duy nhất còn sót lại trong cuộc hôn nhân của ba mẹ. Có lẽ mẹ tôi có một cuộc hôn nhân không thành công, nhưng ít ra mẹ đã không
thất bại khi sinh ra tôi.
Tôi có một người chị họ lớn hơn mình một tuổi, vì vậy, quần áo tôi mặc đều là đồ xin lại của người chị này. Tôi mặc lại của chị từ đồng phục đi học đến quần áo ở nhà, nhưng quần áo còn mới và đẹp lắm. Mẹ ủi thẳng thớm lại cho tôi nên nom mọi thứ đều như đồ mới. Vì chị chỉ học trên tôi một lớp nên tôi cũng được hưởng sách giáo khoa của chị mà không phải tốn một đồng nào của ba mẹ. Suốt những năm tháng đi học của mình, tôi chưa từng được mua một bộ sách giáo khoa mới, nhưng tôi cũng không cảm thấy buồn bao giờ bởi tôi hiểu, ba mẹ đã phải mưu sinh vất vả như thế nào.
Mùa đông năm đó, trước Giáng sinh hai tuần, ba đưa tôi và mẹ xuống thành phố chơi. Từ nhà tôi xuống trung tâm cách bốn mươi cây số. Trời lạnh se sắt, tôi mặc chiếc áo ấm màu cam và đeo kính chắn gió của ba. Ba bảo trông tôi cứ như một con mèo mướp vậy. Khi đi ngang qua khách sạn Yasaka, toà nhà sang trọng bậc nhất thành phố lúc bấy giờ, tôi bị thu hút bởi ánh đèn nhấp nháy và âm thanh xập xình phát ra từ chiếc loa cỡ lớn. Ngước lên nhìn, tôi thấy họ đề trên băng rôn nội dung đại loại là trước đêm Giáng sinh một hôm, ở đây sẽ có một chương trình ca nhạc phục vụ các bạn nhỏ. Tôi bắt đầu suy nghĩ mông lung suốt quãng đường về nhà cho đến khi ngủ gật lúc nào không hay.
Không một phút chần chờ, sáng hôm sau, ngay khi tỉnh dậy, tôi nắn nót viết một lá thư rất dài gửi cho “Ban lãnh đạo khách sạn”. Đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu được, vì sao thời điểm đó, mình lại có thể hiểu biết và chững chạc để dùng những từ ngữ rất người lớn như thế. Tôi trình bày rõ ràng nguyện vọng của mình là được biểu diễn trên sân khấu vào đêm ca nhạc Giáng sinh của khách sạn. Viết thư xong, tôi lôi chiếc đài cassette cũ của ba ra, bật nút ghi âm lại giọng hát của mình rồi gửi kèm cuộn băng đó cùng với lá thư.
Tôi hì hục đạp xe ra bưu điện xã để gửi thư và bưu phẩm. Cô văn thư thông báo rằng họ đã hết tem nên có lẽ tôi phải đợi đến ngày mai. Quá nôn nóng muốn được gửi ngay, hơn nữa nơi tôi sống lại là miền quê nên thư gửi đi sẽ đến thành phố rất chậm, vì thế tôi lại tiếp tục đạp xe như bay đến thư viện để xin tem thư. Mất vài vòng đạp tới đạp lui như thế, cuối cùng tôi cũng hoàn thành được mục đích của mình. Tôi đi về nhà mà trong lòng ngổn ngang lo lắng, không biết liệu lá thư của tôi có đến được tay “Ban lãnh đạo khách sạn” hay không.
Ngóng đợi đối với tôi là một điều kinh khủng, bởi tôi vốn là một người không có tính nhẫn nại. Khi chỉ còn năm ngày nữa là Giáng sinh, tôi bắt đầu sốt ruột và hy vọng cũng dần nguội tắt vì có lẽ họ chẳng thèm quan tâm đến lời đề nghị của tôi. Ba ngày trước Giáng sinh, tờ mờ sáng hôm đó, tôi thức dậy sửa soạn đi học trong sự buồn bã. Trời mưa phùn khiến con đường đến trường của tôi trở nên ướt nhẹp. Tôi tạt vào ven đường mua một suất ăn sáng, bánh mì thời đó đơn giản thôi nhưng đến tận sau này tôi vẫn không tìm lại được hương vị ngon lành của mỗi sáng đi học hôm nào: Một thứ nước sốt màu cam đỏ rưới vào ruột bánh, có vài miếng hành phi tong teo và váng dầu, vị hơi ngọt. Có những ngày, tôi đi học muộn nên mua mà không kịp ăn, nước sốt thấm ra ngoài làm nhão cả vỏ bánh. Ấy thế mà tôi ăn vẫn thấy ngon lành.
Tiết học đầu tiên trôi qua nặng nề. Đến giữa tiết thứ hai, khi cô chủ nhiệm lên văn phòng lấy dụng cụ giảng bài môn Toán xuống thì có kèm theo một bao thư, cô mang đến cho tôi: “Thư của em này, họ gửi đến từ hôm qua. Giờ ra chơi mới được mở ra đọc đấy, còn bây giờ tập trung học đi đã.” Cảm giác của tôi khi đó có thể diễn tả bằng hai từ “hồi sinh”. Từ tâm trạng ủ ê buồn bã, tôi bỗng trở nên tươi tỉnh. Lá thư như bình nước tưới vào cái cây đang héo úa là tôi, khiến nó trở nên tươi tắn bất ngờ. Tôi vươn vai ngồi thẳng dậy, ra chiều chăm chú học hành nhưng tâm trí thực ra đã gắn chặt vào lá thư. Tôi chỉ mong tiếng trống ra chơi vang lên để tôi được mở thư ra xem ngay lập tức.
“Tùng! Tùng! Tùng!!!” Giờ khắc tôi mong đợi đã đến. Cả lớp ùa ra sân chơi như ong vỡ tổ, riêng tôi ngồi trong lớp, chậm rãi mở lá thư một cách nâng niu như sợ chỉ cần mạnh tay một chút thôi là lá thư quý giá này của tôi sẽ bị rách tan vậy. Tim tôi đập thình thịch, tôi ngấu nghiến đọc từng dòng chữ được người ta gõ bằng máy tính rồi in ra rất đẹp. Lá thư có đoạn:
“Chúng tôi rất vui mừng và đánh giá cao sự mạnh dạn cũng như tinh thần đam mê nghệ thuật của cháu. Tuy nhiên, việc tham gia biểu diễn tại khách sạn phải được sự đồng ý của phụ huynh cháu. Buổi ca nhạc sẽ được tổ chức sau 19 giờ 30 phút ngày 23 tháng 12. Vì khoảng cách khá xa, chúng tôi cần đảm bảo rằng phụ huynh có thể đưa đón cháu...”
Kết thư là lời chúc sức khoẻ cũng như chúc chăm ngoan học giỏi,
chữ kí bằng mực xanh của lãnh đạo khách sạn và dấu tròn đỏ tươi rất đẹp. Vậy là họ đã đồng ý với lời đề nghị tưởng chừng là quá phận của tôi. Tôi sung sướng đọc đi đọc lại những dòng ngắn ngủi đó hàng trăm lần, trong đầu bắt đầu nghĩ đến những bài hát mình có thể thể hiện tốt nhất để trình bày trong đêm đó.
Giờ ra chơi ngắn ngủi kết thúc, các bạn trở về lớp để chuẩn bị cho tiết học tiếp theo. Tôi xếp lá thư ngay ngắn vào phong bì và cẩn thận để ở trước mặt. Tôi đã chia sẻ với mẹ về việc này sau giờ tan học. Tôi ngỏ ý muốn mua một chiếc đầm công chúa màu hồng bằng voan có đính nơ to đằng sau lưng cho buổi biểu diễn. Hôm trước, tôi đã thấy nó được trưng bày đẹp đẽ trong một tiệm bán quần áo lớn trên đường đi dạo. Mẹ im lặng không nói gì rồi hỏi: “Con có chắc chắn là mình muốn biểu diễn ở đó không? Con đã tập bài hát nào chưa?”
“Con chắc chắn, con chắc chắn mà. Mơ ước của con sắp thành sự thật rồi.” Tôi nhoẻn miệng cười, ánh mắt lấp lánh niềm hy vọng.
Tối hôm đó, sau giờ ăn cơm, tôi ngồi học bài ở phòng khách, ba mẹ xem tivi trong phòng ngủ. Bỗng dưng, phân vân không biết chọn bài hát nào để trình bày trong buổi biểu diễn đêm Giáng sinh, tôi vào phòng định hỏi ý kiến mẹ. Vừa đứng trước cửa phòng, tôi đã nghe tiếng ba thủ thỉ với mẹ: “Nếu con thích em cứ mua cho con đi. Bộ váy đẹp một chút vì con sẽ đứng trước rất nhiều người đấy!”
“Nhưng bộ váy diêm dúa như thế con chỉ mặc được một lần rồi cất vào tủ. Như vậy lãng phí quá! Nhà mình đang cần lo nhiều thứ...” Mẹ đáp lại đầy lo lắng.
Tôi lặng lẽ trở về bàn học, có cái gì đó sụp đổ trong tôi, nước mắt giàn giụa lúc nào không hay. Sáng hôm sau, khi mẹ đang buộc tóc cho tôi để đi học, tôi ngắm mình trước gương rồi nói: “Mẹ, chắc con không biểu diễn ở Yasaka đêm Giáng sinh nữa đâu.”
Mẹ ngạc nhiên nhìn tôi. Không đợi mẹ nói gì thêm, tôi tiếp lời: “Tại vì con chưa tập được bài hát ưng ý mà lại sắp đến ngày diễn rồi.”
Nói đến đó, tôi đứng dậy thưa mẹ đi học. Thật ra, tôi cố đi vội để né tránh ánh mắt của mẹ, che giấu sự buồn bã trong lòng.
❉❉❉
Có lẽ vì ý thức được sự khó khăn về mặt tài chính của gia đình trong thời kỳ này mà tôi đã nghĩ nhiều cách để kiếm tiền phụ giúp cho ba mẹ tôi. Tôi đi xin truyện cũ từ các anh chị họ của mình dưới thành
phố để mang về cho thuê. Ở làng quê nghèo này, truyện tranh là thứ vô cùng quý giá với bọn trẻ con như tôi. Tôi đặt một cái bàn nhựa, một cái ghế nhựa nho nhỏ trước nhà như thể bàn thu ngân. Khách hàng của tôi là bọn trẻ trong thôn, bạn cùng trường với tôi. Mùa hè nắng nóng, đá lạnh là thứ cần thiết trong mỗi gia đình nhưng không phải nhà nào cũng có tủ lạnh như nhà tôi. Tôi đi mua cả tập túi nilon loại nửa ký và một nhúm dây thun, đổ nước vào túi, buộc lại cẩn thận rồi cho vào ngăn đá làm đá lạnh bán thêm cho những nhà lân cận. Cứ như thế, tôi có công việc nho nhỏ của riêng mình, làm ra một ít tiền để tiêu vặt và để dành.
Cuộc sống vẫn đều đều trôi qua. Mỗi ngày, tôi vẫn dành thời gian chạy sang chùa của bà ngoại học thiền, theo bà tưới cây, dọn cơm cho bà vào mỗi buổi trưa khi tôi đi học về. Với tôi, bà ngoại là một người nghiêm khắc nhưng lại có nụ cười rất hiền. Chưa bao giờ tôi nói yêu bà, bà cũng chưa bao giờ nói yêu tôi nhưng tôi cảm nhận được sự quan tâm và tình yêu thương bà dành cho mình. Bà chưa bao giờ ôm tôi vào lòng hay vuốt ve tôi. Tôi nghĩ rằng bởi vì bà đã xuất gia nên ít nhiều giữa bà và con cháu cũng nên có một khoảng cách nhất định để bày tỏ sự tôn trọng đối với chốn cửa chùa linh thiêng. Tôi không gọi là “bà” mà phải gọi bằng “thầy”. Bởi vì bà cũng là sư phụ của tôi, người đã quy y Tam Bảo cho tôi. Tôi thường đạp chiếc xe con con của mình đi chơi vào buổi chiều. Hôm đó, khi đạp xe ngang qua chùa, bà ngoại đứng trên cao nhìn xuống, thấy tôi liền gọi to: “Đi đâu đó? Lên đây thầy bảo.”
Tôi giật thót tim vì tôi vẫn luôn sợ bà ngoại. Tôi quẳng xe không kịp dựng chân chống, chạy lên mấy chục bậc tam cấp, vừa lên tới nơi đã chắp tay hành lễ với bà. Cũng thật lạ, các anh chị họ của tôi mỗi khi về thăm bà đều không cần hành lễ, có lẽ họ thi thoảng mới gặp nên bà đã không nỡ nhắc nhở.
“Thầy gọi con ạ?” Tôi rón rén hỏi.
“Con đi đâu đó? Coi tóc tai kìa. Lại đây, thầy chải lại tóc cho.”
Nói rồi bà ngoại kéo tôi lại, tháo cây kẹp đã tróc sơn vài chỗ xuống và chải tóc ngay ngắn lại cho tôi. Tôi chưa bao giờ được ngồi
gần bà ngoại đến thế, đến cả thở mạnh cũng không dám. Chải tóc xong, bà nhìn tôi rồi nói: “Đẹp rồi đó! Lần sau nhớ chải tóc đàng hoàng.”
Tôi chào ngoại rồi tiếp tục leo lên xe đạp đi chơi. Lúc này mà tim tôi vẫn còn đập thình thịch, nhưng tôi thích lắm! Tối hôm đó, tôi đã không dám gội đầu, tôi để nguyên cặp tóc như thế mà leo lên giường đi ngủ.
❉❉❉
Trái tim tôi mềm yếu và luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác. Tôi cảm giác mình như run lên mỗi khi có cơ hội giúp ai đó bất cứ việc gì. Một lần, tôi nhìn thấy bạn học cùng lớp của mình nhịn đói ở lại trường đợi vào học buổi chiều vì nhà bạn ở xa trường lại thuộc diện gia đình khó khăn. Không ngần ngại, tôi chạy một mạch về xin mẹ gói mì để mang lên trường cho bạn. Mẹ nói tôi có thể đưa bạn về nhà ăn cơm, vậy là tôi lại chạy ngược lên trường giữa trưa nắng để đưa bạn về nhà.
Tôi vẫn hồn nhiên giúp đỡ bạn bè của mình với tất cả sự tốt đẹp cho đến một ngày, tôi phát hiện ra người bạn đó không thật lòng yêu quý tôi như tôi vẫn nghĩ. Bạn ấy cảm thấy khó chịu với những thành tích mà tôi nhận được ở trường, cảm thấy khó chịu vì tôi nhận được học bổng trong khi nhà tôi không khó khăn. Thầy Hiệu phó đã giải thích rõ ràng trước toàn thể phụ huynh và học sinh rằng suất học bổng đó dành cho học sinh ưu tú của trường có thành tích xuất sắc trong học tập lẫn công tác đoàn đội. Vậy mà bạn ấy cùng nhiều phụ huynh khác vẫn ghét tôi ra mặt.
Tôi buồn lắm, tôi khóc với mẹ và mẹ đã nói với tôi rằng: “Con có thể lựa chọn thái độ sống của mình khi đối diện người khác chứ hoàn toàn không thể chọn lựa thái độ sống của người khác dành cho mình. Nếu con giúp đỡ người khác vì mưu cầu một điều tương tự nghĩa là sự giúp đỡ đó không xuất phát từ tấm lòng. Vậy con có giúp bạn bằng tất cả tấm lòng của con không?”
“Có mẹ ạ!” Tôi buồn rầu đáp.
“Nếu như vậy thì hãy vui lên vì con đã cho đi rồi.”
Nghe mẹ nói vậy, lòng tôi cũng cảm thấy thanh thản hơn. ❉❉❉
Năm 2004, bác Hai của tôi đột nhiên mất tích. Bác Hai chính là người anh em sinh đôi của ba. Lần cuối cùng bác gọi cho ba là ba ngày trước khi vợ bác thông báo không thấy bác về nhà nữa. Lúc đó, vợ bác đang mang thai lần thứ hai được hơn ba tháng.
Bằng nhiều cách và các mối quan hệ, ba cố tìm kiếm tung tích của bác Hai trong nhiều tháng trời nhưng vô ích. Không có một phản hồi nào, sự mất tích một cách kỳ lạ giống như bác chưa từng tồn tại. Giấy tờ tùy thân, quần áo, tiền bạc và mọi vật dụng cá nhân vẫn còn nguyên vẹn trong tủ ở nhà. Bà nội tôi suy sụp lắm, nhưng bà tin và nghĩ rằng có lẽ bác tôi đi đâu đó một thời gian rồi sẽ quay trở về. Niềm tin đó giúp bà gắng gượng sống tiếp trong chờ đợi.
Bệnh của ba trở nên nặng hơn khi những cơn đau ngày càng dồn dập. Theo bệnh án ban đầu thì ba tôi có một khối u bẩm sinh, may mắn là u lành tính. Tuy nhiên, vì khối u ngày càng lớn nên cần phải xạ trị. Ba và mẹ lui tới bệnh viện ngày một nhiều hơn. Mẹ đưa ba vào bệnh viện Chợ Rẫy để chạy chữa, đêm mẹ trải giấy báo nằm ngoài hành lang. Tài sản trong nhà lại dần đội nón ra đi vì chi phí chữa bệnh quá đắt đỏ. Mẹ và ba đã bắt đầu ăn những suất cơm từ thiện trong bệnh viện để tiết kiệm. Còn tôi ở nhà ngóng đợi từng ngày.
Những lúc ba mẹ không có nhà, bà nội thường lên ở với tôi. Tôi biết bà rất thương tôi. Thấy tôi nói thèm chè khoai tím, bà ra vườn đào lấy một củ thật to rồi vào bếp ngồi bào mỏng để nấu chè cho tôi ăn. Nhà tôi có một cây me rất to và sai trĩu quả, tôi nói thèm ăn mứt me rim đường, bà lại hì hụi ra gốc me nhặt trái chín, nhà có bếp ga nhưng bà sợ tốn kém nên lại loay hoay đi nhặt củi về thổi lửa nhóm bếp rim cho tôi một hộp me thật to. Ấy thế mà tôi chỉ ăn một muỗng rồi cho luôn vào tủ lạnh.
Bà nội tôi vẫn ở thành phố. Nhiều năm trước, bà bán căn nhà lớn đi để chia tiền cho các con có vốn làm ăn, sau đó thì được nhà nước cấp cho một mảnh đất khác nhỏ hơn xây một căn nhà và sống ở đó. Tôi hơi sợ căn nhà mới của bà vì nó nằm gần một nghĩa trang. Lần nào tôi về, có bao nhiêu bánh kẹo, trái cây bà đều gói cho tôi mang về nhà. Quê bà nội tôi có một món bánh truyền thống rất ngon gọi là
“bánh Tổ”. Mỗi năm, bà đều gửi người ngoài quê mang vào cho ba vì ba rất thích ăn món đó.
Khi bệnh tình của ba đã thuyên giảm, ba mẹ bàn với nhau việc sinh thêm em bé cho tôi có chị có em. Tôi hào hứng lắm. Tôi thậm chí đã lấy giấy ra, hỏi mẹ và ghi lại cẩn thận những chi phí cần thiết cho việc sinh em bé. Chi phí khá là nhiều khiến tôi “đau đầu” tính toán không biết phải làm gì để đủ tiền lo cho em tôi.
Ba tôi có một chiếc xe bán tải cũ, chính xác thì chiếc xe đó từng là của bác Hai. Ba dùng nó để chở một vài thứ nông sản hoặc gà vịt mà nhà tôi trồng hoặc nuôi được xuống thành phố cho khách hàng có nhu cầu, hoặc chỉ đơn giản là mang của nhà trồng được đến biếu một số họ hàng. Trong mắt tôi, ba là một người đàn ông chất phác, sống đơn giản và tốt bụng. Đã có lần, ông cùng tôi ngồi hàng giờ trước cổng nhà một người họ hàng bên ngoại của tôi chỉ để đợi họ về mà biếu một giỏ vú sữa chín mọng. Tôi vẫn thường cảm nhận được rằng họ tỏ ra xem thường ba tôi, xem thường bộ quần áo bạc thếch mà ông mặc trên người, xem thường cả món quà quê mà họ dễ dàng mua được nơi phố thị tấp nập. Nhưng ba thì không lấy đó làm phiền lòng, ông vui vẻ vì sự chia sẻ của mình, không bận tâm đến cách người khác nhìn và đánh giá về mình. Đó là điều khiến tôi ngưỡng mộ và tự hào về ba mình. Một buổi chiều nọ, tôi được ba lấy xe đưa đi tắm sông, sẵn tiện chở thêm một vài thùng nước lấy dưới sông về nấu ăn vì ở vùng quê tôi sống, đa phần nguồn nước giếng đều bị nhiễm phèn và vôi, giếng nhà tôi cũng không ngoại lệ. Vì thế, nước giếng chỉ để tắm giặt chứ không thể sử dụng để nấu nướng.
Đang ngụp lặn dưới sông, tôi nhìn thấy trên đường bầy bò và nghé con đi hiên ngang. Trong đầu tôi chợt loé lên một suy nghĩ. Trên đường về nhà, tôi hỏi ba: “Ba, bò con có đắt không hả ba?”
“Khoảng bốn triệu một con. Mà con hỏi làm gì?” Ba vừa lái xe vừa trả lời tôi. Tôi im lặng không nói gì. Mùi cỏ khô bị đốt thoang thoảng khiến tôi cảm thấy khó chịu.
Tối hôm đó về, tôi lại lấy giấy bút ra tính toán. Tôi cảm thấy hào hứng vô cùng và còn mang niềm hào hứng của mình vào trong giấc ngủ ngon lành với tờ giấy được tôi nắn nót ghi “Tính toán chi phí nuôi em bé” đặt dưới gối.
Nhưng rồi, niềm hào hứng của tôi vụt tắt khi mẹ đưa ba đi tái khám ở Sài Gòn. Khi trở về, mẹ nói rằng mẹ không sinh em bé được vì bác sĩ nói ba điều trị khối u bằng biện pháp xạ trị, nếu sinh ra sẽ không tốt cho em. Tôi cảm thấy buồn lắm, tôi vào giường, giở gối nằm của mình ra để lấy “bản kế hoạch vĩ đại”. Tôi đem cất trong ngăn bàn học, cất cả niềm hy vọng có em của tôi.
❉❉❉
Nhà tôi có một đàn chó. Con lớn nhất tên Ki, nó có bộ lông màu mỡ gà óng mượt và rất dày, điều này khiến nó có rận vì đất ẩm ở quê cộng với thời tiết nắng nóng. Con tiếp theo là Rex, ba tôi đặt tên như vậy vì nó cao ráo, lông ngắn và mượt lại rất nhanh nhẹn, nom giống chú chó thám tử trong một bộ phim truyền hình nước ngoài mà chúng tôi đã xem. Tiếp nữa là Boy, cậu chàng này trái ngược với hai cậu kia, Boy mập ú và lùn, tạo ra cái dáng tròn lẳn rất buồn cười. Gia đình tôi yêu chúng lắm. Mỗi mùa đông về, trời rét mướt, mẹ mở cửa cho chúng chạy vào nhà, rồi trải thảm cho từng con ngủ trong nhà, hoặc ba sẽ đốt lửa để sưởi ấm cho bọn nó. Chiều nào đi học về, tôi cũng tha thẩn chơi với ba đứa, đến giờ ăn, chỉ cần lấy cái muỗng gõ vào nồi là ba con sẽ lũ lượt kéo nhau chạy về. Nhưng rồi, cơ cực sẽ cướp đi kỷ niệm, sự nghèo đói sẽ cướp đi những thứ mà ta yêu quý. Hàng ngày, có một chiếc xe máy chở cái lồng sắt, bên trong là những chú chó co ro đầy tội nghiệp đi ngang qua nhà tôi, vừa đi vừa rao: “Ai bán chó không?”
Cái âm thanh phát ra từ loa điện tử gắn trước đầu xe mà tôi vẫn nghe mỗi ngày khiến tôi cảm thấy thật khó chịu. Vậy mà, tôi không ngờ rằng có một ngày, chiếc xe chở cái lồng sắt ấy lại dừng lại trước cửa nhà tôi.
Mẹ tôi bán chó.
Chính xác là mẹ tôi đã gọi chiếc xe ấy lại và cắn răng bán đi đám chó mà gia đình tôi đã chăm bẵm từ nhỏ. Người mua bắt đầu ỉ ôi chê đứa này lắm rận, đứa kia quá béo. Tôi biết người đàn ông đó chỉ nói như vậy để tìm cách ép giá thôi, và tôi bỗng dưng nhớ đến nhân vật chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố. Tôi thấy khi đó, mẹ cũng không khác chị Dậu là bao, đến đàn chó của gia đình cũng phải cắn răng bán để gom tiền cứu chữa cho ba tôi đang nằm trong bệnh viện. Mẹ rất thương tôi, mẹ đã từng nói sẽ không bao giờ
lấy đi những gì tôi yêu quý. Nhưng có lẽ, khi bị đẩy vào bước đường cùng, con người ta thật khó để có thể chọn lựa…
Mẹ cầm nắm tiền nhàu nát trong tay và ôm tôi đứng nhìn người ta cầm kẹp sắt cẩu từng con bỏ vào chiếc lồng. Lần lượt con Ki, con Boy bị cẩu lên với sự thảng thốt và vùng vẫy trong tuyệt vọng. Con Rex lanh lợi hơn nên linh cảm được sự chẳng lành đang xảy ra với mình, nó vùng chạy nhưng không kịp. Cái kìm sắt vươn ra kẹp lấy nó, lôi ngược trở lại và ném nó vào lồng chung với những con chó khác. Người đàn ông mồ hôi nhễ nhại, giơ tay đóng sập cửa lồng rồi lên xe rồ máy. Những con chó yêu quý của tôi giương mắt buồn rầu nhìn về phía tôi và mẹ, ánh mắt ai oán đầy tuyệt vọng. Chúng không hiểu vì sao tôi lại có thể để cho người khác làm những điều độc ác với chúng như vậy. Chúng bắt đầu kêu ăng ẳng khi chiếc xe rời đi, tiếng kêu xé nát lòng tôi văng vẳng xa dần, xa dần... Tôi vùng chạy theo nhưng không thể làm được gì ngoài việc đứng chôn chân nhìn theo chiếc xe mờ dần rồi khuất hẳn trong làn bụi mù mịt của con đường làng chưa được đổ bê tông. Chiếc lồng chật hẹp đã mang những người bạn của tôi đi xa mãi, chở theo cả một vùng trời tuổi thơ tôi…
Lạ thay, tôi chẳng khóc chút nào. Tôi không như những đứa trẻ khác thường khóc nấc lên mỗi khi bị lấy đi những thứ mình yêu thích. Tôi giấu hết nỗi buồn vào trong lòng, dù nhỏ bé nhưng trái tim tôi cũng đủ chất chứa hết những muộn phiền, để không phải khiến người bên cạnh mình thêm bận tâm. Biết tôi buồn nên mẹ xoa đầu tôi và nói: “Rex, Boy và Ki đều đẹp. Người ta sẽ bán nó cho những người muốn nuôi chứ không mang đi ăn thịt đâu. Vì thế, con đừng lo lắng nhé! Chúng sẽ tìm được chủ nhân mới và có cuộc sống mới tốt đẹp hơn mà.”
Nghe đến đây, cổ họng tôi như nghẹn đắng. Làm sao tôi có thể tưởng tượng ra được hình ảnh khủng khiếp khi những chú chó thân yêu của tôi sẽ bị người ta làm thịt? Tôi biết mẹ đang cố trấn an tôi, muốn tôi được yên lòng. Quả thật là tôi cần lời xoa dịu đó bởi nó mang cho tôi một tia hy vọng, một sự thoả hiệp với cảm xúc đau đớn lúc bấy giờ. Tôi hy vọng những chú chó của mình sẽ được bình an như mẹ nói, hay tôi đang tự lừa dối bản thân rằng mình không có lỗi với những người bạn bốn chân kia vì rời xa tôi, chúng sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn? Sẽ thật sự tốt đẹp hơn nhưng là ở một thế giới khác chăng?
Và rồi từ đó, tôi lờ mờ nhận ra rằng, đói nghèo sẽ lấy đi của tôi tất cả. Nếu nghèo, tôi sẽ chẳng thể giữ được những điều mà mình yêu quý. Nếu nghèo, tôi sẽ chẳng thể bảo vệ được mọi thứ ở bên cạnh mình.
❉❉❉
Mọi chuyện rồi cũng qua. Ba bắt đầu điều trị thêm bằng thuốc nam. Chén thuốc nghi ngút khói có mùi hơi khó chịu cộng với màu đen đậm đặc khiến tôi cảm thấy sờ sợ. Ba là người mạnh mẽ nhất mà tôi từng biết nhưng khi bưng chén thuốc uống một hơi đánh ực, khuôn mặt ba vẫn không tránh nổi nét chau mày. Có lần, vì tò mò, tôi đã chấm thử một giọt thuốc đưa lên lưỡi nếm thử, vị đắng nghét đến lợm cổ họng khiến tôi phải nhổ ra ngay lập tức. Tôi thương ba vì ngày nào cũng phải uống loại thuốc đắng như thế.
Thời gian đó, chiều nào tôi cũng đi khắp vườn để nhổ những bụi cây diệp hạ châu già trĩu những hạt màu xanh để mang về cho mẹ sắc. Vườn nhà mình hết, tôi lại lân la sang vườn nhà hàng xóm để xin. Tôi cùng chiếc xe con con của mình đi từ thôn này qua thôn khác để mang về cho mẹ những bó cây diệp hạ châu và lá đu đủ già. Ngày nắng cũng như ngày mưa, mọi người dần quen với hình ảnh con bé đen nhẻm khi thì mặc áo mưa ướt nhẹp, lom khom gồng người đạp xe chở theo sau là một bó xanh xanh, lúc lại thấy con bé đội cái nón màu vàng vừa đạp xe vừa nháo nhác nhìn vào từng nhà xem nhà nào có thứ cây nó cần để dựng xe chạy vào xin. Ông trời rồi cũng không phụ sự cố gắng của tôi và mẹ, ba đỡ bệnh hơn rất nhiều. Những cơn đau cũng dần bị đẩy lùi, tôi biết vì tôi không còn nhìn thấy ba ôm bụng ngồi thụp xuống mỗi khi làm việc nặng nữa. Ba lại bắt đầu đi nhiều hơn, có những đêm không về nhà. Tôi lại mong ngóng tiếng xe của ba mỗi khi đêm về. Làng quê thanh vắng đến nỗi tôi có thể đếm được từng tiếng xe ngang qua nhà mình. Tôi dường như đã quen với tiếng xe của ba nên không khó để nhận ra có phải ba về hay không. Sự mong ngóng có khi được đền đáp bằng tiếng lách cách mở cổng, và tiếng dắt xe vào nhà - ba tôi về. Nhưng lắm lúc, trả lời tôi chỉ là những khoảng không đầy yên lặng, tiếng côn trùng kêu rả rích bên ngoài, tiếng chó nhà hàng xóm sủa văng vẳng xa xa, hay tiếng đôi mèo đuổi nhau chạy rầm rập trên mái nhà…
Gia đình tôi thường xuyên phải chuyển nhà, kinh tế lúc khá giả khi lại nghèo túng đến không còn lối thoát. Tôi không hiểu lý do vì
sao, cũng chưa từng hỏi mẹ bởi vì đối với mẹ, có những việc chỉ người lớn mới được quyền biết, tôi cũng phải đợi đến khi mình đủ lớn để có thể hiểu điều ấy.
Cuối đông, trời vẫn lạnh và bóng đêm đen đặc cứ mang ba tôi đi biền biệt vào những ngày như thế. Tết năm đó, ba đã đưa mẹ con tôi đi mua rất nhiều bánh mứt, toàn là loại tôi thích. Mẹ cũng mua vải để đưa thợ may áo sơ mi và quần tây mới cho ba mặc Tết. Lần đầu tiên tôi thấy ba mặc quần áo chỉnh tề đóng bộ như thế. Ba đẹp trai lạ thường, mặc dù ông ngượng nghịu với sự chỉnh tề khác lạ đó nhưng tôi vẫn thấy ba rất bảnh. Mẹ thì được ba mua cho một đôi giày mới rất đẹp. Lần đầu tiên nhìn thấy, mẹ đã rất thích nhưng vì giá khá đắt nên mẹ cương quyết kéo ba về mà không mua nữa. Hôm sau, đôi giày “bỗng dưng” có mặt ở nhà tôi, mặc cho mẹ cằn nhằn còn ba thì cười xoà. Mấy ngày giáp Tết, thời tiết dịu ngọt và không khí rộn ràng khiến con người trở nên thư thái hơn. Trẻ con chạy tung tăng trên khắp các con đường làng vì đã vào kỳ nghỉ năm mới kéo dài gần hai tuần lễ. Tôi mang rổ ra vườn chọn một trái đu đủ xanh thật to, sau đó ra chợ mua cà rốt, củ cải về gọt vỏ, phơi cho héo để làm dưa món. Chợ quê nhộn nhịp buôn bán, rau củ cũng được chất nhiều hơn ngày thường, câu đối đỏ, bao lì xì được bày bán đỏ một góc chợ. Những cái mẹt lớn đựng đầy củ kiệu còn bám đầy bùn đất mang đến cho tôi một hương vị Tết nao lòng đến khó tả.
Người ta vẫn thường nói, Tết vui nhất là những ngày chuẩn bị, tôi cũng cảm thấy như vậy. Mọi người đều tất bật ngược xuôi, người tha phương cầu thực vội vã trở về quê hương để được đoàn tụ với gia đình, kẻ bán buôn hàng hoá tấp nập chỉ mong cho chóng hết. Khuôn mặt người lớn thì đượm vẻ lo lắng, còn trẻ thơ thì tươi rói những nụ cười trên môi. Người lớn âu lo bộn bề chỉ mong được nhìn thấy nụ cười thơ trẻ khi chúng được cầm trên tay chiếc áo mới, bé gái thì có thêm một cái ví nhỏ đủ màu sắc để đựng phong bao lì xì. Tôi cảm nhận được sự trăn trở đó dù vẫn chỉ là một đứa trẻ. Tôi biết rằng rồi đây mình sẽ lớn lên, sẽ trưởng thành và sẽ giống như ba mẹ, như những người lớn mà tôi đã nhìn thấy.
Đêm ba mươi, hơn mười một giờ mà ba vẫn chưa về. Tôi lặng lẽ ra cửa đứng ngóng với bộ quần áo mới có chút cọc cạch với đôi giày cũ. Hôm nay, ba hứa sẽ mua cho tôi một đôi giày, nhưng khoảnh khắc giao thừa sắp điểm mà ba vẫn chưa về. Không giờ ba mươi phút, giao thừa đã qua được một lúc, tôi như chực khóc vì với tôi, đó là thời
khắc đoàn viên quan trọng nhất. Tôi ngồi thừ một góc ngoài cửa, mẹ ngồi trên ghế ở phòng khách, mâm cúng giao thừa ngoài sân đã tàn nhang từ lâu mà chưa có ai mang vào. Ngọn gió chớm xuân thổi tạt qua làm tung toé bụi nhang. Thật lạ, gió xuân nên là những ngọn gió mát mẻ và tươi mới nhất mới phải, ấy vậy mà sao tôi lại cảm thấy nó hiu hắt đến lạ thường? Bỗng có tiếng xe của ba đỗ xịch trước cổng, tiếng lách xách mở khoá, lòng khấp khởi mừng vui, tôi đứng bật dậy đón ba vào nhà. Ba đưa cho tôi một cái túi trong có đựng một đôi giày màu xanh lá mạ, bên trên có thêu hình lá trúc. Tôi ướm thử mà trong lòng vui lắm.
❉❉❉
Tôi vào cấp hai, trường cách nhà năm cây số. Vì muốn tự lập nên tôi xin ba mẹ cho phép đạp xe đi học mỗi ngày như chúng bạn. Ba mẹ tôi đồng ý và đổi cho tôi một chiếc xe đạp lớn hơn. Cả đi cả về là mười cây số, con đường làng dẫn ra đường nhựa với đủ loại xe tải lớn chạy bạt mạng khiến thời gian đầu tôi có chút lo sợ, nhưng rồi cũng quen dần. Có những hôm bận học thêm, hơn chín giờ tối tôi mới tan học về nhà, con đường xa tít tắp với những cánh đồng mía hai bên đường tối om om, không một ánh đèn đường. Tôi thường rủ những đứa bạn cùng xã đi về chung cho đỡ sợ, một ánh đèn xe máy chạy lướt qua cũng khiến chúng tôi mừng rỡ trong giây lát. Những ngày không có ai về chung, tôi đi một mình trên con đường tối như mực hay sáng mờ ánh trăng mà trong lòng không khỏi suy nghĩ vu vơ. Tôi thường đi ngang qua gốc cây cổ thụ rất to, cái cây mang theo nhiều lời đồn thổi về những hồn ma, những câu chuyện được thêu dệt đầy màu sắc huyền bí khiến con đường về của học sinh chúng tôi càng thêm phần gian nan, càng thêm nhiều nỗi sợ vô hình. Hai bên đường luôn có bóng học sinh ôm cặp xin quá giang, đó là những học sinh từ miền núi xuống, còn xa hơn cả xã tôi. Họ đi bộ xuống tận đây rồi xin đi nhờ xe của những người qua đường đi tiếp xuống trường học. Những lúc chở tôi đi học bằng xe máy, ba luôn dừng lại để đón thêm ít nhất hai bạn nữa đi cùng. Một đứa ngồi trước còn một đứa ngồi sau lưng tôi. Chiếc xe máy cà tàng của ba cứ thế lặc lè đưa đón những đứa trẻ thèm tri thức.
Cái nắng cháy da và gió Lào hầm hập khiến học sinh chúng tôi đứa nào đứa nấy đều đen nhẻm đen nhèm, da khô sần. Nhìn những đứa cùng trường nhưng ở xã gần thị trấn, đứa nào cũng trắng như bông bưởi mà tôi thèm. Ngày mưa, đường xá lầy lội, đã thế cây cầu xã
tôi còn thấp hơn các xã khác nên chỉ cần một trận mưa nguồn thôi cũng đủ khiến cho nước dâng lên làm cây cầu mất hút rồi. Nước lũ cuồn cuộn, đen ngòm cùng với những khúc gỗ và rác rưởi kéo về. Ngày mùa, những chiếc xe tải lớn chạy bạt mạng trên con đường nhựa đã xuất hiện nhiều ổ voi, ổ gà. Bóng những chiếc áo trắng học sinh cố gồng mình trên chiếc xe đạp như chơ vơ giữa đường, dạt sang hai bên lề đường như chực chờ đổ ập xuống. Thỉnh thoảng, có những chiếc nón vải tung lên, bay ra giữa đường bị xe cán qua, đứa học trò bất chấp ô tô qua lại mà chạy ra nhặt, bàn tay đen nhẻm phủi phủi bụi đất trên chiếc nón đã sờn cũ rồi lại đội lên, tiếp tục hành trình đến trường, hành trình đi tìm con chữ của những đứa học trò nơi làng quê nghèo xa xôi.
Mùa mưa là thời điểm mà học sinh xã tôi lo lắng nhất. Buổi sáng, đạp xe qua cầu thấy nước mấp mé thành cầu là cả buổi chúng tôi ngồi học không yên, chỉ cần nghe tiếng loa trường thông báo là phải hoảng hốt lục đục thu dọn đi về cho kịp trước khi nước tràn qua cầu. Vì thế
mà chúng tôi luôn bị mất nhiều bài vở, đứa học giỏi cũng phải rất vất vả mới theo kịp bài, còn đứa có học lực yếu hơn chắc chắn kết quả học tập không mấy khả quan. Những lớp có học sinh thuộc xã vùng xa cũng chẳng mấy khi được giao những nhiệm vụ quan trọng của trường bởi vì những hạn chế đó.
Mùa lũ năm ấy, nước tràn về nhanh hơn dự kiến, lớp tôi nháo nhác như ong vỡ tổ. Giữa trời mưa giăng kín cùng những cơn gió thổi tốc mái tôn, nhiều đứa gồng mình đạp thật nhanh để kịp chạy về bất chấp thời tiết nguy hiểm. Về đến đầu cầu dẫn vào xã, chúng tôi lặng đi khi nước đã ngập qua cầu, những con nước đục ngầu bạc trắng cuồn cuộn dâng mải miết. Hai bên cầu đứng nhìn nhau, phía bên kia là phụ huynh còn phía bên này là học sinh chúng tôi cùng những người lỡ việc về không kịp. Lúc này, nước chưa dâng cao lắm, một vài đứa đánh liều dắt xe lội qua, một đứa rồi hai đứa. Tôi run lắm vì tôi không biết bơi và mẹ cũng đã dặn đi dặn lại không được đi qua cho dù nước chưa dâng cao nhưng cứ nghĩ đến cảnh không được về nhà khiến tôi nhắm mắt làm liều. Tôi lấy cặp đeo trên vai, cởi giày ra treo ở cổ xe rồi bắt đầu lội qua. Các ngón chân của tôi bám xuống nền cầu bằng xi măng lúc này đang khá trơn và nước chảy siết đã gần đến đầu gối. Ra đến giữa cầu, tôi bắt đầu lo sợ vì nước chảy mạnh cứ chực chờ cuốn phăng chiếc xe đạp của tôi đi. Tay tôi ghìm chặt xe lại, các ngón chân cũng bấu xuống chặt hơn. Tôi bắt đầu nghe thấy tiếng la hét của những phụ huynh bên kia cầu xen lẫn trong tiếng nước chảy ào ạt
ngày một dữ dội. Tôi lấy hết sức bình sinh tiếp tục bước qua, vì lúc này tôi đã ở thế tiến thoái lưỡng nan rồi. Đột nhiên, có một khúc gỗ mục lớn trôi về như chực chờ sẽ đâm sầm vào tôi. Tôi bước nhanh hơn, đành phó mặc số phận của mình cho dòng nước. Cuối cùng, tôi cũng sang được bờ bên kia. Tay chân tôi lạnh ngắt và bắt đầu nhăn nheo vì nước. Nhìn thấy tôi đạp xe về nhà, mẹ hoảng hốt hỏi: “Tại sao con về được? Nghe xã báo nước lên, mẹ vừa gọi ba đang ở dưới thành phố chạy về đón con. Sao con đã về đến đây rồi?”
Biết tôi đánh liều lội qua, mẹ thất thần. Mẹ nhìn tôi nửa muốn mắng, nửa muốn đánh, nửa mừng nửa sợ còn tôi thì đứng lặng người.
Lũ về lớn, các con đường tắt dẫn vào xã tôi cũng ngập sâu trong nước. Chính quyền xã bắt đầu nhắc nhở người dân không được sử dụng ghe thuyền làm phương tiện qua sông để tránh nguy hiểm. Tôi nghe loáng thoáng có anh thanh niên vì vợ sinh con nên cương quyết lội qua sông đã bị nước cuốn trôi không tìm thấy xác. Ba cũng không về kịp nên đành ở lại nhà bà nội dưới thành phố. Chợ xã đìu hiu vì thực phẩm ở đây đều do dân buôn dưới thị trấn mang lên bán, nay nước lớn, họ cũng không thể qua được. Những cơn mưa dầm thối đất thối cát đổ ầm ầm xuống mái tôn kèm theo cái lạnh cắt da cắt thịt, thức ăn trong nhà cũng vơi dần. Những hàng tạp hoá cũng không còn mì gói, bánh kẹo và sữa nữa vì những hộ khá giả đã thu gom hết. Vườn rau nhỏ tôi trồng vừa mới nhú mầm cũng đã bị những trận mưa dầm quật nát hết cả. Mẹ con tôi bắt đầu hái đu đủ, rau dại quanh vườn vào nấu canh với bột ngọt. Những trái mít non cũng được khều xuống để trộn ăn qua bữa đợi nước xuống. Hàng xóm í ới gọi nhau, chia sẻ từng lon gạo, hộp sữa.
Hồi ấy, miền quê nơi tôi sống đối mặt với hai trận lũ lớn. Điều khiến tôi cảm thấy buồn đó là cách cư sự của ba trong cả hai lần gian nan đó. Ở trận lũ đầu tiên, ba tôi không về được vì nước lớn, tôi và mẹ đều hiểu và thông cảm được. Trận lũ thứ hai cách trận đầu gần ba tuần. Trước lúc ấy, có một cô bạn của ba tên Nguyệt đến nhà ở nhờ vì giận chồng, mẹ vui vẻ sắp xếp chỗ ở cho cô ấy. Cô Nguyệt là người miền Tây, có dáng người khá mập mạp và làn da trắng hồng. Cô vừa ở được gần một tuần thì lũ quét lại tràn về trong đêm, may mắn nhà tôi ở trên cao nên không bị ảnh hưởng mấy, nhưng rất nhiều nhà ở mé sông đã bị cuốn trôi, giao thông bị gián đoạn hoàn toàn, xã tôi bị cô lập. Vậy mà sáng hôm sau, ba về đến nhà mang theo một túi to gạo,
thịt hộp, cá hộp và các loại thực phẩm khô khác. Khi đó, khuôn mặt mẹ tôi sa sầm thấy rõ nhưng tôi chưa đủ nhạy bén để nhận ra sự khác lạ này. Tôi không hiểu vì sao ba mang thức ăn về mẹ lại không vui nhưng mãi đến tận sau này, khi nghe mẹ tâm sự, tôi mới hiểu được cảm giác bẽ bàng và xót xa của mẹ khi đó. Bỗng nhiên, tôi cũng cảm thấy có một chút đăng đắng trong cổ họng.
Mùa hè năm ấy, mẹ bảo sẽ cho tôi vào Sài Gòn nghỉ hè ở nhà cậu Tư. Cậu Tư là anh ruột của mẹ tôi, một người rất giàu có trong dòng họ. Tôi rời miền quê nghèo khó để bắt đầu kỳ nghỉ hè của mình trong sự khấp khởi chờ mong mà không hay biết rằng có một bi kịch đang chờ đợi mình ở phía trước.
B
Chương 3
Bí mật kinh hoàng
uổi sáng được đưa đến nhà cậu Tư, tôi đã được chơi rất nhiều
trò chơi điện tử thú vị với các anh chị họ của mình. Anh họ tôi có bộ đồ chơi xếp hình Lego rất đẹp, những chi tiết của nó khiến tôi mê mẩn. Các cháu của mợ Tư tôi cũng sang nhà chơi
cùng vì đang là kỳ nghỉ hè, chúng tôi chia nhau mớ đồ chơi để cùng chơi. Mặc dù chỉ được chia những mảnh Lego sứt mẻ, cũ mèm nhưng tôi không hề tị nạnh hay muốn đòi hỏi gì hơn. Các anh chị bàn tán rôm rả về những trò chơi điện tử mới, những loại Lego và giá tiền của chúng. Tôi im lặng ngồi lạc lõng một góc, vì tôi có biết gì đâu để nói xen vào. Rồi tôi nhận ra và hiểu được vị trí của mình ở đâu trong mớ đẳng cấp của các ông anh bà chị. Khi tôi tắm xong, vừa bước ra, họ nhìn tôi rồi cười ầm lên, người giúp việc nhà cậu tôi cũng cười ngặt nghẽo. Tôi ngơ ngác không hiểu gì cho đến khi anh họ tôi lên tiếng: “Sao lại mặc quần bơi? Không thấy nóng à?”
Lúc này, tôi mới nhìn lại mình từ trên xuống dưới. Chiếc quần đến đầu gối này được một người chị họ cho, tôi đã mặc rất nhiều lần, và cho đến bây giờ mới biết nó là quần bơi. Ngượng đỏ mặt, tôi im lặng không nói gì, lủi thủi đi vào phòng nằm trùm chăn khóc rấm rứt vì xấu hổ và tủi thân. Sáng hôm sau, tôi không còn nghĩ ngợi gì đến chuyện tối qua nữa.
Mợ Tư đưa cả nhà đi siêu thị, là một nơi rất to và có máy lạnh chạy mát rượi. Chúng tôi vào một cửa hàng gà rán, và tôi lại bị cười nhạo khi lao ngay vào bàn ngồi đợi phục vụ đến. Họ cười tôi không biết “fast food” là gì, tự phục vụ là gì. Sau đó, mợ Tư mua cho tôi một bộ pijama màu hồng cổ sen có thêu hoa rất đẹp, vải rất mịn lại còn thơm phức. Tôi thích lắm! Vì nó giống với bộ mà chị họ tôi vẫn mặc. Tối hôm đó, thấy chị mặc bộ đồ như vậy, tôi cũng đi tắm và thay sang bộ đồ mới mua dù nó chưa được giặt lại. Tôi muốn mặc giống chị. Nhưng vừa thấy tôi đi ra, chị đã nhìn tôi bằng ánh mắt khó chịu, rồi đi vào phòng thay bộ khác. Tôi bất giác hiểu rằng họ không muốn tôi giống họ, vì tôi cố gắng mãi mãi cũng chẳng thể giống họ. Một lần khác, nhìn thấy chị họ không vui, tôi xuống xin tiền mẹ rồi lẳng lặng
ra tiệm trái cây gần đó mua một túi đào. Tôi mang đĩa đào đã được trình bày đẹp mắt lên cho chị và nghĩ rằng chị sẽ vui, nhưng tôi đã thất vọng khi chị chỉ ăn một miếng rồi chẳng quan tâm nữa, cũng không nói một lời cảm ơn. Tôi đã từng nghĩ rằng nếu có ai đó ngoài ba mẹ quan tâm tôi như vậy, ắt hẳn tôi sẽ rất vui và hạnh phúc. Nhưng làm vui lòng người giàu sao mà khó quá!
Những ngày nghỉ hè không vui như tôi nghĩ. Những món đồ chơi không được chia sẻ công bằng, tôi luôn là người nhận được những thứ cũ nhất, xấu nhất hoặc là sắp hỏng. Một lần lỡ ăn quá nhiều kem trong tủ lạnh vì quả thật nó rất ngon, khi vô tình xuống bếp uống nước, tôi đã nghe lỏm được người giúp việc và các anh chị họ của tôi thì thầm với nhau: “Nhà nó làm gì có tiền mua mấy thứ đó nên thấy thèm là phải thôi. Ăn gì mà thấy khiếp. Mua gì về chắc phải mang cất đi quá, để nó thấy nó lại ăn mất.”
Tôi nghe được mà trống ngực đập thình thịch, không phải tôi sợ mà là cảm thấy nhục nhã. Từ bé đến lớn, dù gia đình ở vị trí nào, hoàn cảnh ra sao, tôi vẫn luôn được dạy dỗ và tự ý thức được mình phải cư xử thế nào cho phải phép, đặc biệt là trong việc ăn uống. Tôi chưa bao giờ để ai chê cười mình về cái ăn, cái mặc đến như thế này. Ngày tôi bước chân vào nhà cậu Tư, cậu đã nói rằng tôi thích ăn gì trong tủ lạnh thì cứ lấy. Tôi đã xin phép trước khi ăn và nhận được sự đồng ý, vì tôi không bao giờ động vào đồ của ai nếu chưa được họ cho phép. Vậy mà…
Tôi từng ngồi trước điều hoà để hít lấy hít để hơi lạnh phả ra từ đó, vì nó khiến căn phòng có mùi “nhà giàu”. Tôi ngửi thấy mùi quen thuộc đó khi đẩy cửa bước vào bất cứ căn phòng nào có điều hoà. Nhưng giờ đây, tôi bắt đầu thèm được trở về nhà, thèm được nằm trong căn phòng của tôi, căn phòng không có mùi “nhà giàu” nhưng tôi được tự do ở đó. Ngôi nhà với mái tôn nóng hầm hập vào những trưa hè, những cơn gió Lào thốc vào hiên. Ba vẫn thường đặt một thau nước đá trước cây quạt, rồi bật hết công suất để tôi được ngon giấc vào những buổi trưa oi ả như thế. Tôi thèm thuồng đến cháy lòng những que kem đá không “sang miệng” nhưng được mua bằng tiền của mình, và không ai có quyền mang hoàn cảnh gia đình tôi ra để phán xét khi tôi ăn nó. Tôi bắt đầu buồn bã trong ngôi nhà lộng lẫy, tráng lệ này. Mẹ đi đâu cả ngày, tôi ngồi bên ô cửa sổ trong phòng đồ chơi nhìn xuống đường xá đông nghịt xe cộ qua lại. Tôi tự hỏi phố xá thênh thang nhưng cớ sao lòng người lại chật hẹp đến thế?
Ánh nắng vàng yếu ớt cuối ngày hắt vào chỗ tôi ngồi. Tôi nằm xuống, tự nhủ mình sẽ ngủ một lát trong lúc đợi mẹ về. Tôi lịm dần trong tiếng cười đùa chát chúa vang vọng ở phòng bên cạnh. Tôi biết mẹ về nhưng mắt nặng trĩu không thể mở ra được. Cơn sốt mê man khiến hơn ba ngày sau tôi mới tỉnh lại. Trong những ngày mông lung đó, tôi nằm mơ thấy rất nhiều điều: Tôi thấy ba mẹ bỏ nhau và tôi lang thang một mình nơi những cơn sóng biển xô dữ dội vào bờ sủi bọt trắng xoá; tôi thấy mình chới với giữa không gian quay cuồng như một chú chim nhạn mất phương hướng, chơ vơ trong cơn giông bão... Đó là cơn sốt thập tử nhất sinh nặng nề nhất trong cuộc đời tôi tính đến thời điểm này. Ở tôi có một sự nhạy bén lạ thường mà mẹ tôi thường nói là giác quan thứ sáu. Tôi linh cảm được hết những điều sẽ xảy đến với mình. Dẫu chỉ là cảm giác mơ hồ, không căn cứ nhưng cũng khiến tôi bồn chồn và âu lo không biết khi nào nó mới xảy ra. Sau khi tôi khỏi ốm vài ngày, mẹ dắt tôi ra tiệm cà phê gần nhà cậu Tư. Mẹ bảo muốn nói chuyện với tôi như hai người bạn, và trên hết là, tôi hãy thể hiện mình là một người lớn thực thụ vì giờ đây, đã đến lúc tôi phải trưởng thành rồi.
“Mẹ muốn ly hôn với ba, và mẹ hy vọng con sẽ suy nghĩ nghiêm túc về điều này. Con có quyền nói lên ý kiến của mình, mẹ sẽ cân nhắc và tôn trọng quyết định của con vì cuộc đời này, mẹ chỉ sống vì con.”
Tôi không bất ngờ trước quyết định này của mẹ, dù rằng trong lòng tôi vẫn có chút bàng hoàng. Mẹ cho tôi nghỉ hè ở nhà cậu Tư để âm thầm theo dõi ba, theo dõi mối quan hệ giữa ông và một người phụ nữ mà mẹ đã nhiều lần bỏ qua. Cô ta tên là Lan. Ba tôi và cô ta quen nhau từ khi tôi vừa vào lớp một. Tôi đủ lớn khôn để hiểu được rằng, khoảng thời gian sáu năm đã đủ để chứng minh cho một tình yêu nghiêm túc, khó có thể là thứ tình cảm phù phiếm bên lề cuộc sống vợ chồng mà con người ta vẫn thường dùng đó làm lý do để thứ tha cho nhau. Tôi cũng đã chứng kiến những chuỗi ngày dài đẵng đằng với những bí mật của ba, nỗi bất ổn trong gia đình và sự chịu đựng của mẹ. Có lẽ, mẹ đã chờ đợi quá lâu rồi, chờ cho đến khi tôi đủ lớn để hiểu và cùng mẹ gánh vác nỗi bất hạnh này. Sẽ thật bất công nếu như tôi ích kỷ ngăn cản mẹ ra đi. Lòng tôi chùng xuống, tôi thốt ra những lời đắng nghét từ tận tâm can: “Lúc nhỏ, mẹ đã sống cho con. Giờ đây, con đã khôn lớn rồi, con muốn sống vì mẹ. Mẹ hãy ly hôn với ba đi.”
Mẹ tôi không nói gì. Sự thảng thốt khiến mẹ không thể nói gì hơn.
Không gian nghèn nghẹt những cảm xúc bao trùm một người làm mẹ và một kẻ làm con. Tôi vẫn luôn ước gì những lỗi lầm đừng xảy ra, còn nếu xảy ra, xin hãy sửa chữa và bù đắp nó. Nhưng có lẽ, con người ta thường không biết trân trọng những cơ hội dành cho mình, cho đến khi không còn cơ hội nào nữa. Chim vẫn hót ríu rít trên hàng cây ven đường, xe cộ qua lại ồn ào tấp nập, mọi thứ vẫn thế nhưng nào có ai biết cuộc đời tôi trong phút chốc đã đổi thay. Chiếc đài cassette ở đâu đó phát ra âm thanh dìu dặt:
“Xa nhau chưa mà lòng nghe quạnh vắng
Đường thênh thang gió lộng một mình ta...”(1)
Mẹ con tôi trở về Nha Trang mà không báo trước. Để đảm bảo mọi thứ thật chắc chắn, và cũng để cho nhau một cơ hội cuối cùng, chúng tôi bắt xe đến nhà người phụ nữ tên Lan kia. Tôi không bất ngờ khi nhìn thấy ba ở đó, họ cùng nhau nấu ăn. Ba đã xây cho người phụ nữ kia một ngôi nhà xinh xắn với đầy đủ tiện nghi. Họ thật sự giống như một gia đình. Mẹ tôi không nói gì nhưng tôi biết, dù đau đớn, mẹ cũng chẳng còn gì để mà vụn vỡ.
❉❉❉
Chúng tôi thuê một căn nhà nhỏ ở thành phố, cuộc sống mới đầy khó khăn bắt đầu. Giữa căn nhà trống trải vì chưa kịp mua đồ dùng trong nhà, mọi thứ hoang lạnh đến đáng sợ, sự hoang lạnh của tan vỡ. Mẹ tôi vừa lo thủ tục đơn phương ly hôn vừa tất bật tìm trường mới cho tôi, vì không trường nào chịu nhận tôi nếu hồ sơ không có đầy đủ các giấy tờ cần thiết. Nhưng bà nội tôi giữ rịt lấy hộ khẩu vì không muốn mẹ bỏ ba, bà nghĩ rằng đó sẽ là áp lực khiến mẹ tôi suy nghĩ lại. Nhưng một người phụ nữ đã kiên quyết ra đi sẽ không bao giờ quay đầu lại, dù cho có chịu áp lực nào đi chăng nữa. Nhờ vào mối quan hệ của mẹ, tôi đã được nhập học tại một trường công lập trong thành phố.
Tôi và mẹ vừa bắt đầu cuộc sống mới, vừa phải trốn tránh sự truy tìm của ba. Ba không đồng ý ly hôn, ông cho người lùng sục tìm kiếm mẹ con tôi khắp nơi. Giờ đây, tôi đủ lớn để nhận ra rằng ba tôi không đơn thuần là một người làm kinh doanh, hay một nhà thầu xây dựng như trước kia nữa. Dưới trướng ba có rất nhiều “tay chân” làm việc cho ông. Dường như ông có liên quan mật thiết đến thế giới ngầm
đằng sau lớp vỏ bọc hiền lành và tận tuỵ. Hay nói một cách khác, ông là “ông trùm” cai quản một băng nhóm nào đó, tôi đã nghe được sự thật này qua cuộc điện thoại của mẹ vào một đêm khuya khoắt khi mẹ nghĩ rằng tôi đã ngủ. Có lẽ, với bản chất của một ông trùm, thì bất cứ điều gì từng là sở hữu của ông sẽ vĩnh viễn thuộc về ông, bằng không, chính tay ông sẽ huỷ hoại điều đó trước khi nó thuộc về người khác. Một buổi tối, mẹ đưa tôi ra ngoài ăn khuya, chợt thấy ba đi ngang qua, mẹ níu tôi ngồi sụp xuống. Chúng tôi đã sống chui nhủi như những kẻ chạy trốn. Chạy trốn quá khứ để bắt đầu lại mọi thứ.
❉❉❉
Tôi vào trường mới với nhiều bỡ ngỡ. Sau giờ học, tôi vẫn thường leo lên xe bus đi từ đầu trạm đến cuối trạm, bởi vì tôi không muốn về nhà. Ánh mắt buồn rười rượi nhìn xa thăm thẳm, nơi có những ngọn sóng đang cồn cào xô bờ, tôi ước mình là ngọn sóng đó, để được thoả sức gào thét những nỗi niềm riêng cố chôn giấu. Nhưng tôi không thể làm gì khác hơn là để sự khắc khoải ấy gặm nhấm trái tim mình trên những chuyến xe bus muộn. Và rồi dần dần, tôi biến mình thành con nghiện, tôi nghiện sự buồn phiền. Tôi rơi vào những mối tình ảo trên mạng, nơi tôi có thể lang thang và trải lòng. Những dòng chữ ngọt ngào từ người khác phái khiến tôi cảm thấy ấm áp, trái tim vụn vỡ như được xoa dịu. Tình cảm ảo nhưng cảm giác nó mang lại là thật.
Mẹ tôi gom góp và vay mượn thêm để mở một nhà nghỉ đối diện bến xe làm kế sinh nhai, nuôi tôi ăn học. Không hiểu vì sao ba biết được nên tìm đến, đập phá đồ đạc khi không có mẹ ở nhà. Tôi rất hoảng sợ, lần đầu tiên trong đời, tôi thấy hận ba vô cùng. Chính tôi đã nhấc máy gọi cảnh sát đến. Những ngày sau đó, ba không làm ầm ĩ nữa mà lặng lẽ ngồi ở quán cà phê đối diện nhà tôi nhìn sang. Ba mặc một chiếc áo gió màu xanh áo lính, đeo kính đen và đội mũ lưỡi trai che nửa khuôn mặt. Có lẽ ông hiểu rằng, ông sẽ vĩnh viễn đánh mất tôi, đánh mất tình thương yêu và sự tôn trọng của tôi nếu như đẩy mọi việc đi quá xa. Mỗi ngày, ông ngồi ở đó và chờ đợi tôi sang tiệm tạp hoá kế bên mua đồ ăn vặt, sau đó ông sẽ chạy sang trả tiền cho tôi. Nhìn thấy ba, tôi ráo hoảnh từ chối tiền của ông. Người hàng xóm hỏi tôi: “Ba của con hả?”
Ba nhìn tôi bằng ánh mắt lấp lánh niềm hy vọng.
“Không phải ạ!” Câu trả lời của tôi khiến khuôn mặt ba trở nên dúm dó và tràn đầy tuyệt vọng. Tôi biết ba đau đớn nhưng không biết có lớn bằng nỗi đau trong tôi hay không...
Một đêm mưa gió, ông đến thăm tôi và tìm cách gặp mẹ. Cảm giác tôi dành cho ông lúc này không còn gì ngoại trừ nỗi khiếp sợ. Tôi không hiểu vì sao lại sợ hãi chính ba ruột của mình như thế, nhưng có lẽ sức chịu đựng của tôi cho đến thời điểm này đã đi quá giới hạn. Ông bước vào nhà, xô đổ vài vật dụng ở phòng khách. Tôi hoảng sợ la hét, đẩy ông ra khỏi nhà. Ra đến sân, ông ngồi thụp xuống, ôm bụng đau đớn.
Ông đã khóc...
Bất giác, tôi cảm thấy thương ông và ước rằng giá như mình mất hết ý thức để không phải chứng kiến những điều đang diễn ra trước mắt mình, và như thế, tôi sẽ không phải đau đớn hay giằng xé đến tận tâm can như thế này. Tôi tự hỏi vì sao con người ta không thể chọn cách buông tay nhẹ nhàng khi không còn có thể chung sống, yêu thương nhau được nữa? Vì sao không trân quý, nâng niu khi mọi thứ còn đang nằm trong tầm tay, mà phải đợi đến khi yêu thương vụt mất mới thấy tiếc nuối trong nỗi bàng hoàng và điên cuồng níu giữ? Nhưng có lẽ, tôi còn quá nhỏ và chưa đủ trải nghiệm để thể tìm ra câu trả lời cho mình.
❉❉❉
Một ngày tháng Mười năm tôi mười bốn tuổi, bà ngoại đột ngột ra đi trong lần phẫu thuật tim. Không ai trong gia đình tôi tin được rằng bà sẽ ra đi đột ngột đến vậy. Các xét nghiệm đều cho thấy bà sẽ dễ dàng vượt qua đợt phẫu thuật này. Bác sĩ được cậu tôi mời từ Úc cũng như các máy móc thiết bị đều được nhập hoàn toàn từ nước ngoài về. Cuộc phẫu thuật được bác sĩ thông báo thành công tốt đẹp, tuy nhiên, bà ngoại tôi lại không thể tỉnh lại sau đó, và ra đi vì tràn dịch. Tất nhiên, để đảm bảo uy tín của các bác sĩ, một cuộc điều tra quy mô cục bộ đã được thực hiện nhằm tìm ra nguyên nhân tử vong bất thường này. Các báo cáo cho thấy bà tôi mất vì sự tắc trách của ê kíp y tá được giao chăm sóc hậu phẫu. Nhưng các dì và cậu tôi quyết định cho qua chuyện này với mong muốn bà được ra đi thanh thản, vì có kiện họ ra toà đi chăng nữa thì bà tôi cũng chẳng thể sống lại. Một người xuất gia như bà chắc chắn cũng không muốn con cái vì mình
mà bỏ đi đạo lý từ bi hỉ xả.
Trong suốt những ngày tang lễ, ba luôn túc trực bên cạnh linh cữu của bà ngoại. Lúc sinh thời, bà rất quý ba mặc dù ngày trước, gia đình mẹ tôi cương quyết ngăn cấm mối lương duyên này, thậm chí đã đe dọa sẽ từ mặt mẹ khi mẹ quyết khăn gói theo ba. Vậy mà theo thời gian, sự hiền lành, tận tuỵ và cần mẫn của ba đã khiến bà ngoại hồi tâm chuyển ý, chấp nhận ba là một người con rể trong gia đình. Trước lúc bà mất, mỗi chiều, ba đều vác cuốc sang trồng cho bà một vườn cây ăn trái theo sở thích của bà. Mặc dù không còn chung sống với mẹ nhưng hàng tuần, ba vẫn thường ghé thăm bà. Ngày bà ngoại tôi lên đường vào Sài Gòn trị bệnh, ba hứa khi bà về sẽ trồng thêm một vườn xoài, nhưng mấy ai biết được chuyến đi nào sẽ là chuyến đi cuối cùng của cuộc đời…
Ngày hoả táng bà ngoại, mẹ dường như ngất lịm trong vòng tay ba. Ông cũng khóc. Đây là lần thứ ba trong cuộc đời tôi thấy ba khóc.
❉❉❉
Giáng sinh năm đó, tôi mời ba đến nhà, một lời mời chính thức và đĩnh đạc sau những hờn trách mà tôi đã dành cho ông. Trước đó vài hôm, tôi đã nhìn thấy ba cùng người phụ nữ tên Lan kia đi cùng nhau khi tôi đang lặng lẽ ăn sáng một mình trước cổng trường. Tôi bỏ
dở bữa sáng khi ông bố bên cạnh liên tục dỗ dành đứa con gái trạc tuổi tôi. Tôi không hề biết rằng đó là Giáng sinh cuối cùng trong cuộc đời tôi có ba. Ông đến với dáng vẻ gầy gò và hiền lành như mọi lần. Sau bữa tối, mọi người cùng quây quần ở sofa để tặng quà cho nhau. Tôi có quà cho tất cả mọi người, từ mẹ, cô giáo cho đến người giúp việc và nhân viên bảo vệ của nhà tôi. Nhưng ba thì không. Ông đã ngồi ở đó với nụ cười lạc đi trong ánh mắt đau đáu của tôi. Tôi đã hành hạ ông bằng cách đó, nhưng sao tôi lại không thấy hả hê hay vui sướng trong lòng? Khuôn mặt và cảm xúc của ba khi đó đã ám ảnh tôi cho đến tận bây giờ, để rồi mỗi khi nghĩ lại, tôi vẫn cảm thấy một nỗi niềm dâng lên khiến cổ họng nghẹn ứ.
Một ngày, tôi bị cảm lạnh, ba mang một con gà sang để mẹ nấu cho tôi bát cháo gà tẩm bổ. Tôi nói không thích ba vào nhà nên ông đã đứng nép ngoài cổng. Tôi cố tình đi ra, bắt taxi đi thẳng mà không thèm ngoái lại, để lại ông với tiếng gọi lọt thỏm giữa biển người: “Con ơi… Con ơi…”
Nhìn qua gương chiếu hậu, tôi thấy ba gọi với theo, đôi tay vẫn nắm chặt túi thịt gà. Hình bóng ba trong chiếc áo khoác màu xanh sờn cũ nhoè đi trong mắt tôi.
Tết năm đó, mẹ không về kịp vì chuyến công tác. Ba sang nhà đưa tôi đi mua một số bánh mứt mà tôi thích. Tôi đòi những chiếc váy sang trọng trong cửa tiệm cho buổi văn nghệ toàn trường, ba cũng vét sạch ví để mua cho tôi. Ba lặng lẽ ngồi ở bậc thềm bên ngoài cửa tiệm trong lúc chờ tôi thử váy. Vẻ ngoài lam lũ khiến ông lọt thỏm lẻ loi giữa ánh đèn vàng và sự nhộn nhịp tấp nập của những cửa hàng này. Ánh mắt ông luôn man mác một nỗi buồn, một sự cưng chiều vô điều kiện dành cho tôi.
Đêm ba mươi Tết, mẹ vẫn chưa về kịp, một mình tôi ngồi lặng lẽ ở góc sân thượng ngắm nhìn dòng người qua lại trong nỗi buồn sâu thẳm đến tận đáy lòng. Đồng hồ điểm thời khắc giao thừa, tiếng reo vui nơi nhà hàng xóm, tiếng chúc tụng nhau, tiếng cha mẹ mừng vui ăn một bữa cơm đoàn tụ cùng con cái... cứ râm ran trong bóng đêm. Tôi ngồi đây, lặng lẽ một mình nuốt từng dòng lệ đắng nghét vào trong…
Đêm ba mươi. Đêm ba mươi
Đất trời reo vui sao lòng người quạnh vắng?
Con ngồi đây khóc thương đời chết lặng
Cha mẹ nơi đâu sao bỏ mặc con thơ?
❉❉❉
Sáng mồng một, tôi ghé về thăm nội và ba, mang theo một vài củ sâm mà tôi mua được cho ba nhưng thời điểm này, ông đã bắt đầu phải kiêng khem một số loại thực phẩm nên không ăn được sâm do tôi mang đến. Tôi ngồi một lát rồi tìm cớ ra về dù bà nội và ba muốn tôi ở lại ăn cùng ba bữa cơm đầu năm. Nhưng tôi đã từ chối… Tôi không hiểu vì sao mình lại từ chối trong khi ngày trước, được cùng ăn cơm với ba luôn là niềm vui lớn đối với tôi. Ông gầy đi trông thấy, bóng dáng hắt hiu tiễn tôi ra về mà nửa như muốn chạy theo… Đôi mắt ấy đã giày vò trái tim tôi suốt những năm tháng về sau.
Ba mẹ tôi cùng nhận được giấy triệu tập của toà án để giải quyết đơn ly hôn. Con người là thế, họ đấu tranh để xa rời nhau, nhưng chính tại thời điểm cận kề và hiểu thấu được rằng đã thật sự mất nhau sau gần hai mươi năm chung sống, không ai có đủ can đảm để đối diện với điều đó. Chẳng ai bảo ai, họ không đến toà mà gặp nhau nơi quán cà phê cũ đã từng nhiều lần hò hẹn trước đây. Họ lặng lẽ ngồi cạnh nhau mà không ai nói với ai một lời nào. Có lẽ không cần nói ra, họ cũng đã thấu hiểu được suy nghĩ của người kia rồi. Chầm chậm lật lại những trang ký ức sờn cũ, những ngày nghèo túng nhưng vẫn sắt son nghĩa vợ chồng, niềm vui và nỗi buồn, nụ cười và những giọt nước mắt... Ngày xưa cũ, khi mái đầu còn xanh, họ đã hứa sẽ bên nhau trọn đời trọn kiếp. Giờ đây, mái đầu đã ngả màu thời gian, họ lại lặng lẽ rời xa nhau…
“Hạnh phúc trong tay, một thời mơ ước, gối mộng xa bay Còn nhớ khôn nguôi, một chiều im nắng
Mưa còn rơi, gợi niềm cay đắng
Là mất nhau rồi, là đời chia lối, nỗi buồn riêng tôi.
Người đã quay đi, lời nào không nói
Riêng mình tôi chờ mùa đông tới
Một kiếp xa xôi, một đời quên lãng
Em còn yêu tôi.”(2)
Một tháng sau lần gặp gỡ cuối cùng đó, ông đã mãi mãi ra đi về cõi vĩnh hằng…
Tôi vẫn còn nhớ, cái đêm mà ba hấp hối, ngoài trời sương giăng ngập lối. Hơn mười hai giờ đêm, sau khi nhận được tin của bà nội, tôi đã có mặt bên cạnh ba ngay lập tức. Lúc này, ông đã không còn tỉnh táo để nói lời trăng trối với tôi nữa. Đôi mắt ông nhìn trân trân lên trần nhà, và tiếng rên rỉ không ngừng khiến lòng tôi chết lặng. Máu trào ra từng đợt từ khoé miệng ông. Người phụ nữ tên Lan cũng có ở đó. Mẹ theo sau tôi nhưng cô Út không mở cửa cho mẹ vào. Có lẽ vì có người phụ nữ đó ở đây, hoặc cũng có thể vì sự ích kỷ cá nhân
nào đó trong lòng họ. Tôi chỉ biết rằng mẹ tôi đứng bên ngoài kêu gào rất lâu nhưng không hiểu sao lúc đó tôi không nghe thấy gì cả. Cũng có lẽ, ba không muốn mẹ nhìn thấy cảnh tượng này, không muốn mẹ nhìn thấy giây phút ông hấp hối lìa trần, cho đến tận những năm sau này, mẹ vẫn luôn tin rằng ông còn hiện diện ở đâu đó trên cõi đời này.
Ngày còn sống, ba tôi có một con chó Becgie Đức, ông gọi nó là Nô. Bà nội tôi bảo, những ngày cuối cùng trước khi ông ra đi, Nô cứ đi ra đi vào, thỉnh thoảng sủa vống lên như thể nó linh cảm được chuyến đò tử thần sắp đưa ông sang thế giới bên kia. Ngày đưa tang ba tôi, Nô bị xích ở nhà vì nội tôi sợ nó chạy theo rồi bị bắt mất. Ấy vậy mà khi chuẩn bị làm lễ hạ huyệt, Nô lù lù chạy đến từ xa, vừa chạy vừa la ăng ẳng. Không ai hiểu làm thế nào mà nó có thể giật đứt xích và tìm được lên ngọn núi này. Trở về nhà, Nô không rời chiếc giường của ba tôi nửa bước. Nó quanh quẩn ở đó, không thiết ăn uống gì, thỉnh thoảng lại chạy lên núi nơi ba tôi nằm, rít lên và dùng chân cào cào xuống đất. Một thời gian rất ngắn sau ngày ba tôi ra đi, Nô cũng trút hơi thở cuối cùng bên cạnh chiếc giường của ông…
Chỉ có chủ là bỏ rơi chó chứ chúng không bao giờ rời bỏ chủ…
Liên tiếp đối mặt với hai nỗi mất mát người thân quan trọng nhất trong đời, mẹ tôi dường như không còn nhiều dũng khí để tiếp tục bước đi trên con đường rất dài ở phía trước nữa. Mặc dù mẹ không nói ra, cũng không hề khóc, nhưng tôi hiểu được cảm nhận của mẹ lúc bấy giờ bởi vì chính tôi cũng như thế. Trước, trong và sau tang lễ của ba, tôi vẫn lặng lẽ đi đi về về như một cái bóng. Tôi không khóc lóc, bi lụy nhưng với tôi, bầu trời dường như đã sụp đổ...
Tôi và mẹ như hai cái bóng trong nhà. Thành thật mà nói, trở thành một người mẹ đơn thân là điều không hề dễ dàng. Mẹ tôi phải đối mặt với quá nhiều thứ, nhất là khi tôi đang ở độ tuổi mới lớn, một giai đoạn đầy khó khăn cho cả tôi lẫn mẹ. Bà bắt đầu cáu gắt nhiều hơn. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại nặng nề với nhau vì những việc không đâu, cuộc sống trở nên ngột ngạt và đầy chán nản. Tôi muốn tìm một phương trời mới đầy nắng để hong khô những mảng ký ức hoen nước mắt của mình ở nơi này. Tôi muốn tạm quên đi những thứ phải là một phần trong cuộc đời.
Một điều khá bất ngờ là sau tang lễ của ba khoảng hai tuần, ông Đại tá năm xưa bà nội tôi đã từng kết hôn để nằm vùng, cho người trở
về Việt Nam tìm lại gia đình xưa và có ý đưa các cô còn lại của tôi sang Pháp đoàn tụ với ông. Ông ấy đã già yếu nơi xứ người, nên nhắn nhủ rằng rất đau buồn trước sự ra đi của con trai. Bà nội tôi từ chối tiếp người đưa tin của ông ấy, nên tôi phải hẹn người đó đi ăn trưa vào một ngày khác. Cuộc trò chuyện diễn ra vào một ngày mưa phùn, tôi hẹn người đàn ông kia tại một nhà hàng Ý nằm trên đường Lê Lai. Trong buổi nói chuyện hôm đó, tôi mới biết người đàn ông này tên Bern, con trai của ông Đại tá với người vợ sau, họ kết hôn trong thời gian ông ấy lưu vong. Họ đã từng có thời gian sinh sống tại Mỹ và hiện giờ sống tại Strasbourg, một thành phố ở phía Đông Bắc nước Pháp. Họ chuyển đến đây vì yêu phong cảnh đẹp nên thơ và sự bình yên ở đó. Theo vai vế thì tôi phải gọi Bern bằng chú. Suốt bữa ăn, tôi không nói quá nhiều, chỉ lắng nghe chú chia sẻ về cuộc sống của họ ở xứ người, và cảm nhận của Bern khi trở về Việt Nam để thay cha tìm lại những người anh em cùng cha khác mẹ. Bern cho tôi xem hình ảnh của gia đình họ. Tôi cảm nhận được ông Đại tá đã thật sự tìm thấy sự yên bình sau những năm tháng đạn bom và giết chóc. Ông ấy đã già, và có lẽ cũng không còn đủ sức để lắng nghe sự thật về hai người con trai của mình nữa. Làm sao tôi có thể tàn nhẫn nói ra rằng họ không phải là con ruột của ông? Vì thế, tôi quyết định giữ kín bí mật này với Bern cũng như với ông ấy. Bern hỏi tôi lý do bà nội từ chối sự đoàn tụ này. Tôi trầm lắng một lúc trước khi cho chú một câu trả lời thích hợp, bởi tôi không thể trả lời bừa bãi khiến Bern bị tổn thương trong trường hợp này được. Nhìn chú, tôi nói: “Chú biết đó, chiến tranh quá tàn khốc, nó khốc liệt đến mức chúng ta khó lòng hình dung được, chỉ có người trong cuộc mới hiểu. Cháu nghĩ rằng sẽ đến lúc, những thắng thua trong chiến tranh không còn quá quan trọng nữa mà quan trọng hơn hết là cách mà con người ta vượt qua, chữa lành những vết thương, những mất mát. Bà nội đã có những ký ức đau thương trong quá khứ và cháu nghĩ rằng bà muốn nó được ngủ yên.”
Suốt buổi hôm đó cho đến lúc chia tay, tôi còn cố nói cho Bern hiểu rằng, những người con trai đã lần lượt rời bỏ bà tôi mà đi, bà chỉ còn lại hai người con gái để nương tựa khi tuổi già. Bern tỏ ra trầm ngâm trước những lời giải thích của tôi. Cuối buổi, chú chia sẻ với tôi rằng sở dĩ năm xưa bố của chú không phản kháng dù ông ấy có thể đem quân vào tiêu diệt tiểu đội của bà, là bởi vì ông ấy thật lòng yêu bà và những đứa con của mình. Ông ấy cũng đoán biết trước được thời cuộc, và những gì xảy ra năm 1975 đều đã đúng với giấc mơ từng lặp đi lặp lại của ông. Ông luôn tin rằng mình không phải là kẻ phản
bội, bởi vì cùng một dân tộc tàn sát lẫn nhau mới là sự phản bội đáng ghê sợ nhất.
Trong bức ảnh Bern cho tôi xem, tôi nhìn thấy chân trái của ông Đại tá phải chống nạng. Tôi hỏi thăm về tình trạng sức khoẻ của ông. Câu trả lời của chú khiến tôi rất bất ngờ: “Trong đêm hôm đó, ông đã tự bắn vào chân mình để tạo hiện trường giả. Và cháu biết đấy, tuổi già khiến vết thương đó thỉnh thoảng lại tái phát, gây nhức nhối. Ông thường nói đùa với chú rằng ông cũng có vết thương chiến tranh để làm kỷ niệm.”
Sau câu nói của Bern, chúng tôi đều im lặng. Ngoài trời bắt đầu ngớt mưa và tôi xin phép ra về trước. Bern ghi lại cho tôi một số thông tin để giữ liên lạc với nhau, vì hôm sau chú sẽ quay trở lại Pháp.
Sau bốn mươi chín ngày của ba, tôi bày tỏ với mẹ nguyện vọng muốn được đi giao lưu văn hoá ở một đất nước khác vào mùa hè. Mẹ không trả lời nhưng tôi vẫn tự mình lên mạng để tìm hiểu thêm thông tin về các khoá học. Một ngày nọ, trong lúc dọn dẹp đồ đạc trong tủ riêng, tôi tìm thấy chiếc điện thoại mà ba đã cho tôi trước khi ông mất đúng một tháng. Chiếc điện thoại có kiểu dáng khá to và nặng, mặt bên ngoài giống như những chiếc điện thoại bình thường, nhưng mở màn hình bên trong ra thì không khác gì một chiếc máy tính xách tay mini. Lúc đó, tôi không hứng thú lắm vì trông nó không thời trang, cũng không gọn nhẹ để tiện cho vào túi. Vì thế, tôi đã cất vào tủ rồi quên mất. Tôi mở điện thoại ra, pin vẫn còn khá đầy, đây quả là kiểu điện thoại sử dụng pin tốt nhất trong mọi loại mà tôi từng biết. Mở phần danh bạ, tôi thấy một vài dãy số không lưu tên. Còn ở phần hộp thư đến, có một vài tin nhắn bằng những ký tự khá khó hiểu. Mở tiếp phần máy tính ra, tôi thấy có một vài phần mềm từ điển, một vài thư mục với ảnh mặc định, có một thư mục được mã hoá khiến tôi khá tò mò. Tôi muốn mở ra xem thử ba tôi đã lưu gì ở đây, tôi nghĩ mãi cũng không biết mật mã là gì, bỗng dưng, tôi nhớ lại thời điểm tặng cho tôi chiếc máy này, ba có dặn: “Dù thế nào thì con cũng không được quên ngày tháng năm sinh thật của mình.”
Ngày tháng năm sinh thật của tôi chỉ ba và mẹ biết, sau này tôi lớn lên, mẹ mới nói cho tôi. Tôi nhập thử thì lạ thay, mật mã được chấp nhận. Hàng loạt dữ liệu tự động giải mã nhanh chóng. Tôi vào xem từng phần, càng xem tôi càng run rẩy. Chiếc máy chứa toàn bộ
những bí mật trong cuộc đời ba tôi, kể cả nguyên nhân cái chết của ông và sự mất tích của bác tôi.
T
Chương 4
Ác mộng
hư mục được tự động giải mã dần hiện ra trước mắt tôi. Đầu tiên là hồ sơ về một băng nhóm mafia xuyên quốc gia có tên là Rồng Đen.
Các báo cáo được ghi lại từ đầu tháng 7 năm 1992 đến tháng 1 năm 2007 thì ngừng. Hồ sơ cũng chỉ rõ ba tôi bắt đầu theo đuổi vụ này từ tháng 3 năm 1992. Việc ba bị bắt tạm giam cũng nằm trong kế hoạch của cơ quan công an nơi ba tôi hợp tác để cùng triệt phá băng nhóm tội phạm này. Ông phải vào tù để tiếp cận một người có liên quan đến các hoạt động rửa tiền phi pháp của Rồng Đen tại Việt Nam. Tại các nước châu Á, Rồng Đen hoạt động mạnh mẽ trong lĩnh vực rửa tiền, chế tạo khuôn tiền giả, buôn bán ma tuý và buôn người.
Bác Hai của tôi vốn hoàn toàn không liên quan đến vụ này, nhưng sau khi ba tôi lấy được thông tin là những số liệu và cách thức thao túng tài chính đen tại Việt Nam của Rồng Đen, một lệnh tiêu diệt khẩn cấp được đưa ra từ trung tâm đầu não của chúng để ngăn chặn ba hợp tác cùng tổ chức bóc dỡ âm mưu gây nhiễu loạn nền kinh tế trong nước. Kẻ được giao đi thực hiện vụ ám sát đó đã bắt nhầm bác tôi là anh em song sinh của ba.
Biết đã bắt nhầm mục tiêu, chúng tiếp tục cho người trở lại Việt Nam để tìm giết ba tôi bằng được. Tuy nhiên, rút kinh nghiệm từ sai lầm lần trước, cũng như không muốn mạo hiểm giết người một cách lộ liễu khiến những toan tính của chúng có thể đi chệch quỹ đạo bất cứ lúc nào, chúng đã chọn một cách thức an toàn và hiệu quả hơn, đó là giết chết ba tôi bằng thuốc độc. Lợi dụng sơ hở khi ba tôi nằm viện tiến hành xạ trị định kỳ, chúng đã tráo morphine(1) bằng một loại thuốc độc gây tử vong sau một thời gian. Và không ai nghi ngờ về cái chết của ba tôi.
Điều này giải đáp cho thắc mắc của tôi vì sao ba lại ra đi một cách rất nhanh chóng như thế, khi mà trước đó gặp tôi, ông vẫn còn khá khoẻ mạnh, bệnh tình đang dần hồi phục. Bà nội nói ba rơi vào trạng
thái mất ý thức rất nhanh. Tôi nghĩ rằng bọn chúng không muốn ba tôi tiết lộ thêm bất cứ điều gì trước khi chết. Tôi không biết vì sao ông lại phát hiện ra âm mưu sát hại này, nhưng có lẽ chính vì biết mình khó có thể thoát khỏi cửa tử, ông quyết định để lại hồ sơ cho tôi với mong muốn chính tôi sẽ tiếp tục đi theo con đường của ông.
“Con yêu, khi con xem được những tài liệu này thì có nghĩa là ba đã bước vào cửa tử. Ba không muốn công sức nhiều năm qua của mình cùng các đồng đội bị lãng phí. Sự hy sinh của họ, cũng như sự hy sinh của bác con và cả của ba không vô nghĩa. Con hãy ghi nhớ rằng, đất nước hòa bình không có nghĩa là chúng ta không còn phải chiến đấu. Điều hối hận lớn nhất của ba chính là đã đánh mất mẹ con. Ba ước gì có thể sửa chữa lỗi lầm của mình ở kiếp sau. Hãy thay ba chăm sóc mẹ và tiếp tục hành trình bảo vệ Tổ quốc dù con ở trên bất cứ mặt trận nào. Ba và bà nội của con đều mong muốn con sẽ là người kế nghiệp lý tưởng của gia đình, có lẽ điều này buộc lòng phải đến sớm hơn dự định. Đừng hoang mang vào khả năng của mình, bởi năm xưa, con đã được chọn là người sẽ kế nghiệp ba, được đào tạo để trở thành một cán bộ chuyên nghiệp trong tương lai. Không may, tai nạn xảy ra bất ngờ hồi năm tuổi đã khiến con bị loại khỏi danh sách đó vì không ai tin vào khả năng phục hồi của con. Nhưng con hoàn toàn có thể làm được điều ấy, hãy tiếp tục lý tưởng của ba và nội con. Dũng cảm lên con!
Ba thương con nhiều. Nhắn với mẹ rằng ba luôn yêu bà ấy! Ba của con.”
Bức thư của ba khiến tôi trở nên hoang mang, mất phương hướng như rơi vào trạng thái không trọng lực. Tôi không biết phải bắt đầu mọi thứ từ đâu. Thì ra, bà nội và ba luôn tin rằng khi lớn lên, tôi sẽ tiếp tục kế thừa truyền thống nghề nghiệp của gia đình, tiếp tục phụng sự cho đất nước, bảo vệ bình yên cuộc sống.
Tôi giấu mẹ về những phát hiện của mình bởi tôi không biết phải nói thế nào cho bà hiểu và bà sẽ đón nhận việc này ra sao. Có lẽ, từng ấy chuyện dồn dập xảy ra đã là quá sức với mẹ tôi, bà không cần thêm bất kì sự bất ngờ và kích động nào nữa.
Sau khi chứng kiến những tan vỡ của gia đình mình, tôi đã từng dại dột thử tự vẫn nhiều lần. Tôi muốn tự kết liễu cuộc đời mình để
quên đi những nỗi đau và khoảng trống mà mình đang phải đối mặt. Tôi chọn cách hèn nhát như thế để trốn chạy quá khứ, quên đi thực tại và để không phải bước tiếp đến tương lai. Những lần đứng trên sân thượng nhìn xuống dòng xe cộ tấp nập, tôi chợt nghĩ rằng chỉ một giây lát buông tay thôi thì tôi sẽ chấm dứt mọi khổ đau trong kiếp này, nơi cõi tạm đầy những ngổn ngang để đi đến một chốn khác đầy ánh sáng và nắng ấm. Sâu thẳm trong lòng, thật sự tôi chưa muốn chết, nhưng lẩn khuất đâu đó vẫn có những tiếng nói văng vẳng thôi thúc tôi lê chân về phía bên kia cuộc đời. Những ám ảnh dai dẳng thôi thúc khiến tôi phải tìm đến một sư thầy tại ngôi chùa nằm trên ngọn đồi gần nhà. Lắng nghe lời tâm sự của tôi trong nước mắt, thầy khoan thai nói với tôi rằng: “Con hãy buông tay, nhưng là buông tay với những lỗi lầm của người đã khuất, với thương đau trong quá khứ chứ không phải buông tay với chính bản thân và tương lai mình. Một sinh vật nhỏ bé cũng khao khát được tồn tại dù thế giới hoang dã của chúng cũng đầy những khốc liệt, vậy thì hà cớ gì mà con lại muốn chết?”
Câu nói của sư thầy như thức tỉnh tôi.
Tôi thôi không còn nghĩ quẩn nữa, nhưng những ngày mưa gió triền miên, khi mẹ không có nhà, tôi lại ôm lấy chiếc điện thoại rồi liên tục bấm số. Tôi gọi cho hết người này đến người khác như sợ rằng chỉ một phút giây bơ vơ giữa căn nhà này thôi, tôi sẽ chết. Hoá đơn điện thoại hàng tháng có khi lên đến nhiều triệu đồng khiến mẹ rất ngạc nhiên và nhiều lần nhắc tôi không được hoang phí. Nhưng rồi những ngày dài một mình ở nhà, tôi lại bấu víu lấy chiếc điện thoại như một người bạn duy nhất trung thành, người bạn không bao giờ rời bỏ tôi.
Có một lần, nhìn thấy tôi thẫn thờ nơi thềm cửa, mẹ cất tiếng hỏi: “Bé An à, con có trách mẹ về quyết định trước đây đối với ba con không?”
Tôi sửng sốt đôi chút trước câu hỏi này, thật lòng mà nói, mẹ tôi đã làm đúng. Một người phụ nữ có lẽ không nên vì hai chữ “cam chịu” mà chôn vùi tuổi thanh xuân của mình và dành tình yêu một chiều cho người đàn ông đã quay lưng bội bạc.
Thoáng nhìn mẹ, tôi nói: “Không đâu mẹ à, mẹ đã làm đúng.”
Có lẽ thời gian chỉ làm dịu bớt đau đớn chứ không thể nào xoá nhòa được những gì đã xảy ra với mẹ con tôi. Ba tôi luôn cố gắng che giấu những mối quan hệ ngoài luồng, đó là hiển nhiên bởi không một người đàn ông nào có ý định từ bỏ vợ con để đến với một người phụ nữ thừa lửa tình nhưng thiếu ân nghĩa. Chữ “nghĩa” nặng tựa vạn cân, nó được bồi đắp bởi những ngày tháng chung lưng đấu cật, cùng nhau vật lộn với cái nghèo, cái đói, sự khó khăn gian khó khi cuộc sống thường nhật phải xoay quanh với những thứ tầm thường, cơm áo gạo tiền. Tình yêu và mật ngọt khi đó lại trở nên xa xỉ biết mấy? Và những người phụ nữ chấp nhận kiếp u tối lại luôn biết cách xuất hiện thật đúng lúc, giải toả cơn thèm khát dục vọng của những người đàn ông tham lam. Họ hùng hục lao vào nhau, trao cho nhau những thề non hẹn biển vì chẳng cần phải nhớ hôm nay nhà đã hết gạo, chẳng cần âu lo ngày mai tiền nhà, tiền điện, học phí cho con đã đến hạn phải đóng. Nhưng người vợ thì khác, những thứ lo lắng tầm thường đó đã chặn đôi môi của họ thốt ra những thứ vời vợi kia. Ngày từng ngày, giờ từng giờ, hai chữ “hy sinh” đã đẩy họ ra khỏi thứ tình yêu vốn được cho là chỉ thuộc về hai người.
Và họ mất chồng!
Hay nói chính xác hơn là họ phải đối diện với những người phụ nữ đang vênh khuôn mặt xinh xắn không một vết đồi mồi, đôi môi mọng đỏ không một vết chân chim về phía mình. Đôi môi ấy thốt ra những lời ngọt ngào trên chiếc giường ấm áp với chồng họ để rồi thở ra những lời nồng nặc đắng cay với những người vợ.
Người phụ nữ ấy cũng vậy.
Khi ba qua đời, tôi mới bắt đầu hồi tưởng nhiều hơn về những thứ mình đã từng được chứng kiến. Cô ta tên Lan - Nguyễn Thị Lan, dáng người phốp pháp với khuôn mặt tròn nhưng sắc sảo bởi đôi lông mày được kẻ đậm và xếch lên. Có lẽ suốt cuộc đời này, tôi chẳng thể xoá nhoà khỏi tâm trí hình ảnh cô ta trần như nhộng trong căn nhà nhỏ bé của mình năm nào. Nó như một cuốn phim không bao giờ bị lão hoá, ngày từng ngày tôi gặm nhấm thước phim đó, từng chút từng chút một. Tôi ngấu nghiến nó, cào xé nó, nhai nát nó ra thành từng mảnh rồi lại lặng lẽ ghép lại nguyên vẹn. Những ngấn mỡ ngồn ngộn, bầu ngực căng đầy, trắng hếu đang chờ đợi một bàn tay tội lỗi. Ánh mắt hoảng sợ, cô ta đã túm lấy chiếc khăn để che vội tấm thân hoang dại của mình, chiếc khăn của tôi! Nó là của tôi! Tuổi thơ tôi có
lẽ đã chết yểu kể từ cái đêm đáng thương đó.
Nguyễn Thị Lan là mối tình vụng trộm lâu năm nhất trong hết thảy các mối tình trăng gió của ông. Nhưng điều đáng phục là ông đã có thể giấu kín người phụ nữ này trong bóng tối suốt nhiều năm trời, cho đến một ngày, khi không còn có thể chờ đợi thêm bằng lời hứa nữa, với khao khát bước ra khỏi bóng tối, cô ta đã tìm đến nhà gặp mẹ tôi và nói hết mọi chuyện trước cả cái đêm mà chúng tôi nhìn thấy cô ta trên “chiếc giường hạnh phúc” tại nhà mình. Mẹ tôi có lẽ đã tiếp nhận việc này một cách rất bình thản, tôi nhìn thấy sự bình thản đó trong ánh mắt, đôi môi và cả cái vuốt tóc của mẹ. Nhưng thật ra, nó còn đáng sợ hơn cả một cơn giận dữ. Tiễn cô ta ra về, mẹ lại nhìn tôi và mỉm cười. Nụ cười mang một chút héo hắt, một chút ai oán, và một chút đắng.
Lần đó, mẹ đã lại tha thứ cho ba. Tôi cũng không chắc đó là sự tha thứ, bởi vì nó cũng có thể là một sự cam chịu, chấp nhận, điều mà người phụ nữ sinh ra và lớn lên tại Việt Nam luôn được dạy. Mẹ tôi cũng vậy, bà cần mẫn nhặt nhạnh những lỗi lầm của ba tôi rồi cho vào chiếc hộp, khoá lại.
Nhưng đó là câu chuyện của nhiều năm về trước, khi tôi còn rất bé, và đó là khi mẹ tôi còn le lói chút tia hy vọng đối với ba. Tôi thậm chí còn không biết mình có nên hận người phụ nữ tên Lan hay không. Đôi khi, tôi chợt nghĩ, có lẽ cũng nên cho người thứ ba được quyền lên tiếng, được quyền giãi bày nỗi khổ riêng đằng sau nỗi khổ chung của những người vợ, những đứa con.
Tôi đến thăm mộ ba vào một ngày trời sắp sang đông. Ngọn đồi dốc quanh co chỉ mình tôi bước, những con dê giật mình chạy vụt đi khi nghe thấy tiếng chân người. Ngôi mộ của ba tôi được xây tươm tất hướng ra biển, tôi cứ ngồi như vậy như thể tôi và ông đang cùng nhau ngắm biển, như khi ông còn sống. Nước mắt tôi vẫn cứ ứa ra thành dòng mặn đắng, biển xa xăm quá, ba cũng đã ở quá xa tôi rồi. Tôi cứ ngồi như vậy đến khi hoàng hôn ẩn mình về dãy núi phía xa mới thu dọn để ra về. Bất chợt, có một người đàn ông vận một chiếc áo sơ mi xanh cùng quần bò màu đen tiến đến, trên tay ông ta là một đoá hoa cúc trắng, một ly cà phê sữa đá và một gói bánh chuối rán giòn. Giống như tôi đã chuẩn bị, vì đó đều là những món mà ba tôi thuở sinh thời rất thích. Mặc cho sự ngạc nhiên của tôi, người đàn ông ấy đến gần nơi ba tôi nằm và bày mọi thứ ra, đốt một nén nhang
rồi thì thầm điều gì đó trong ánh mắt đầy tò mò của tôi.
Khấn xong, chú quay lại nhìn tôi mỉm cười và nói: “Chào con! Chú là Tân, bạn của ba con.”
Tôi chợt nhớ đến lá thư của ba, trong thư có nhắc về chú Tân, người cộng sự mà ba đã cùng công tác. Ba nói rằng chú ấy sẽ tìm tôi và thay ông chăm sóc cho tôi cũng như dìu dắt tôi đi tiếp trên con đường mà ông đã bỏ dở. Chú Tân cho tôi xem tấm ảnh mà chú chụp cùng với ba tôi, lúc đó, ba còn rất trẻ. Chú bắt đầu kể cho tôi nghe về ba…
Nhiều năm trước, ba tôi có một dạo bán thuốc lá ở trước cửa rạp chiếu phim Tân Tân khi chỉ mới mười lăm tuổi. Mười bảy tuổi, ông chuyển sang làm bốc vác ở cảng cá. Cuộc sống nghèo khó khiến ông phải bươn chải nhiều hơn, lăn lộn nhiều hơn để có tiền nuôi mấy miệng ăn trong gia đình và cho em gái ăn học. Vì sinh tồn, ông dần dần trở thành tay anh chị cộm cán trong vùng trước khi trở thành cộng tác viên của lực lượng công an vào năm 1989.
Rít điếu thuốc trên tay, chú Tân trầm ngâm: “Dũng là người có ý chí sắt đá. Trong quá trình thi hành nhiệm vụ, nhiều lần bị các băng nhóm bắt, thử thách và tra tấn dã man nhưng Dũng vẫn không khai ra thân phận của mình để đảm bảo an toàn cho chiến dịch.”
Đôi vai tôi run lên bần bật. Điều sợ hãi nhất trong tôi là có ai đó vô tình nhắc về ba, nó là điểm yếu chí mạng của tôi. Nó khiến tôi khó lòng kiềm chế được cảm xúc của mình kể cả khi tôi là đứa khá cứng cỏi và lạnh lùng. Buổi chiều dần tắt, nhưng câu chuyện vẫn còn bỏ lửng. Chúng tôi ra về, trước khi đi, chú Tân lưu số chú vào điện thoại của tôi và dặn hãy gọi cho chú khi có bất cứ việc gì cần hỗ trợ.
Tôi trở về nhà khi mẹ đang dọn bữa tối, nhìn thấy mắt tôi đỏ hoe, mẹ biết là tôi vừa ở chỗ ba về. Nén tiếng thở dài, mẹ bảo tôi vào rửa tay rồi ăn cơm. Lại một bữa cơm trong yên lặng, chỉ có tiếng bát đũa khua vào nhau, bát canh bốc khói nghi ngút nhưng cũng không thể xua tan đi sự lạnh lẽo ở đây. Thỉnh thoảng, tôi len lén nhìn mẹ, mẹ vẫn bình thản như vậy. Đôi lúc, tôi tự hỏi, làm thế nào mà mẹ tôi lại có thể vượt qua mọi thứ một cách bình thản đến như thế? Mẹ tôi
cũng là một người phụ nữ, một người đàn bà có trái tim nóng ấm vẫn đập từng giây từng phút. Nhưng vì sao bà lại không cần những người đàn ông muốn chở che, quan tâm mình? Mẹ tôi dường như đã lạc lối
quá sâu vào những định kiến, những thứ được cho là chuẩn mực xã hội, chuẩn mực của một người phụ nữ.
“Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.”
Tiếng ngâm nga từ chiếc radio nghe sao mà ai oán lòng. Những người mẹ đã sống như thế, nhiều năm, rất nhiều năm. Để rồi họ cũng dạy những đứa con gái của mình như thế. Người đàn ông có thể có những phút yếu lòng, có thể cần hồng nhan tri kỷ, có quyền được mưu cầu những thứ ngoài hôn nhân nhưng phụ nữ thì không. Họ phải lặng lẽ chờ đợi chồng mình bên mâm cơm đã dần nguội lạnh trong khi người chồng còn đang ấm nóng với tình nhân. Họ phải quay cuồng với con cái đến quên mất bản thân đang mặc một bộ quần áo đầy mùi thức ăn, mùi trẻ con, mùi mồ hôi, ngước lên chai nước hoa đã phủ bụi từ đời nào, hộp phấn thỏi son cũng nằm im lìm trong ngăn kéo. Còn chồng của họ thì bận cuồng quay với những vòi vĩnh nũng nịu như trẻ thơ của một cô gái nào đó. Và họ phải có trách nhiệm thứ tha, trách nhiệm giữ cha cho con khi những người chồng được quyền mắc sai lầm, không chỉ một mà có thể là nhiều lần. Và nếu ly hôn thì lỗi là do đàn bà “không biết giữ chồng”, người ta sẽ cười họ, mỉa mai họ như thế. Người đàn ông có thể ngay lập tức kết hôn với một người đàn bà khác, rồi lại nhanh chóng dựng xây một tổ ấm mới như thể khi cơn bão đi qua, người ta phải vội vàng lợp lại mái nhà. Nhưng người phụ nữ thì sẽ phải ở trong ngôi nhà đã mất nóc như thế giữa nắng mưa giông tố, phải phơi mình ra ôm lấy con dại vào lòng mà chở che, bởi nếu xây lại một ngôi nhà mới, người đời sẽ nhìn họ như những người phụ nữ thiếu “chính chuyên”. Thật nực cười, thật chua chát! Chiếc lưỡi tưởng chừng như yếu ớt nhưng có thể bẻ cong bất cứ sự thật nào, bất cứ câu chuyện nào, những chiếc lưỡi trong khuôn miệng đời.
Tôi tin rằng một ngày nào đó, một năm nào đó, một thế kỷ nào đó, người phụ nữ sẽ không còn thống khổ như thế nữa. Họ sẽ được quyền tự quyết định lấy cuộc đời mình bởi vì không có một khuôn khổ đạo đức nào mãi mãi trường tồn, mọi thứ nguyên tắc rồi sẽ đổi thay theo sự phát triển của xã hội, phụ nữ cũng là con người và họ cũng có quyền được sống cho hạnh phúc của mình chứ không phải là sự lầm lũi đi qua tháng ngày như những cái bóng trên thế gian này
cùng với bốn chứ “Tiết - Hạnh - Khả - Phong” nữa.
❉❉❉
Một tuần sau lần đầu gặp mặt, chú Tân đón tôi vào giờ tan học. Chúng tôi ngồi uống nước với nhau ngay trước cổng trường tôi. Chú nói sẽ gửi tôi đi học ở lò võ của một võ sư thân với chú, điều này sẽ giúp tôi nâng cao thể lực cũng như cân bằng lại cuộc sống. Đều đặn trong suốt một năm trời ròng rã sau đó, ban ngày tôi đi học, buổi chiều học võ còn buổi tối thì tập đàn piano ở nhà văn hoá. Cuộc sống dần dễ chịu hơn dù rằng nỗi buồn man mác vẫn lẩn khuất đâu đó.
Thời gian đầu tập võ, tôi ra quyền rất mạnh tay, tứ chi gồng cứng lại. Thầy của tôi nhìn thấy nhưng không nói gì dù rằng ông luôn cần mẫn sửa thế tập cho những môn sinh cùng học với tôi. Đêm về, người tôi đau ê ẩm. Khi ngủ, tôi thường hay gặp ác mộng, mồ hôi toát ra như tắm. Tôi dần trở nên nóng nảy, những nỗi buồn tôi cố chôn giấu vào trong để sự hiếu chiến bộc lộ ra ngoài. Tôi đến trường và sẵn sàng động tay động chân mỗi khi có điều không vừa ý với bạn bè cùng trường. Tôi dùng nắm đấm mà mình học được để giải quyết mọi vấn đề trong lòng.
Một ngày nọ, sau buổi tập, thầy gọi tôi ở lại, ra sau vườn uống trà với thầy. Tôi líu ríu theo mà không biết liệu có phải thầy muốn đuổi tôi hay không bởi vì suốt một tháng trời mà tôi không tập nổi một bài quyền cho trọn vẹn. Thầy khoan thai rót một ít nước sôi vào ấm, tráng nhẹ rồi đổ bỏ. Sau đó, thầy dùng chiếc thìa nhỏ được vót từ cây tre khéo léo lấy trà trong hộp cho vào ấm, rồi đổ nước nóng tráng sơ và lại đổ bỏ. Ngước lên nhìn tôi mỉm cười trong chốc lát, thầy lại tiếp tục châm nước lưng bình. Tôi vẫn chăm chú theo dõi từng thao tác của thầy tôi, ông có lẽ cũng đã lớn tuổi nhưng dáng người rắn rỏi, tóc lơ phơ bạc, tôi cảm nhận rằng ẩn sau mái đầu trắng kia là một bộ óc rất tinh nhanh bởi vì không một thái độ nào của môn sinh quả khỏi được mắt thầy. Người ta thường gọi thầy tôi là võ sư Huỳnh Đệ. Ngôi nhà của thầy lẩn sâu trong một con hẻm nhỏ hai xe máy ngược chiều phải né nhau. Thầy sống kín đáo và có phần đạm bạc, môn sinh cũng không nhiều, thêm tôi nữa thì chỉ khoảng mười đứa đổ lại. Ít khi nào tôi thấy thầy ra khỏi nhà, thầy chỉ sống một mình, tôi không thấy vợ con thầy, cơm nước thầy đều tự lo mà không cần ai giúp đỡ.
Được vài khắc, thầy lại châm nước đầy bình. Bất ngờ, thầy đặt ấm
trà xuống đánh “cạch” một tiếng và nhìn tôi khiến tôi giật nảy mình vì mải suy nghĩ đã quên mất lý do thầy bảo tôi ngồi ở đây. Thầy hỏi tôi: “Nãy giờ, An có thấy thầy làm gì không?”
Tôi nhìn thầy rồi khẽ khàng đáp: “Dạ… Thầy đang pha trà ạ!” Mỉm cười, khoé mắt thầy nheo lại theo độ cong của khuôn miệng.
“An à, pha trà cũng là một nghệ thuật, con có biết không? Người ta phải thật từ tốn trong việc châm nước cho trà bởi vì nếu hấp tấp châm đầy một lần, con sẽ không có được ấm trà ngon. Muốn trà được ngon, uống vào còn nghe vị thanh ngọt nơi cổ họng thì nước châm trà phải là loại nước vừa sôi gờn gợn, nhất định không được dùng nước sôi già để châm vì nó sẽ làm bình trà của con chát đắng.”
Tôi ngẩn ngơ nuốt từng lời thầy nói nhưng vẫn chưa thật sự hiểu hết ý tứ trong câu nói của thầy. Rót chén trà đầu tiên, thầy đẩy tách trà về phía tôi, ra hiệu cho tôi nếm thử. Quả thực tôi không biết uống trà, cầm tách trên tay, tôi đánh ực trong một giây khiến thầy nửa muốn cười nhưng lại nửa kìm lại. Tự rót cho mình tách thứ hai, thầy thong dong nói: “Nếu vội vàng, con sẽ không thể cảm nhận được cái ngon cái dở của vị trà, càng không thấy được cái ngọt đằng sau vị chát. Nếu nóng nảy vô chừng, con sẽ chỉ nhận lại được thứ nước trà chát đắng. Pha trà, uống trà cũng giống như làm người vậy.”
Tôi tròn xoe mắt, thầy Huỳnh Đệ nhấp một ngụm trà rồi xoay mình về phía những chiếc lồng chim treo khắp trong vườn. Ánh mắt có phần thư thái.
“Con biết không, An, nếu muốn giỏi võ thì trước tiên, con phải thấu rõ đạo làm người đã. Đạo đức tối thượng của một người học võ là phải trung với nước, hiếu kính với đấng sinh thành, nghĩa tình với thầy bạn và nhân ái với chúng sinh. Tiếp theo, con phải hiểu rõ và sống đúng phẩm chất tự trọng, tự tin, có ý chí vươn lên, có kỷ luật, không ngại khó ngại khổ, không khoe khoang hợm hĩnh, không thấy giàu có mà tỏ ra ham muốn, không thấy nghèo khó mà trở nên sân hận đổi thay, không thấy cường bạo mà tỏ ra sợ hãi. Tiếp nữa, người học võ giỏi hay dở không phải ở thắng hay thua mà là ở cốt cách con người. Cái tâm của con phải vững vàng, kiên định, chớ có bị dao động bởi những cảm xúc nóng nảy, yêu ghét, giận hờn, đố kỵ thường tình. Thần thái phải luôn đĩnh đạc, hoà nhã. Võ dùng để tự vệ chứ không
phải để hiếp đáp kẻ yếu thế hơn mình.”
Tôi ngậm ngùi trước những lời thầy nói, thầy đã nhìn thấu tâm can tôi, thấu những sai lầm của tôi trong suốt thời gian qua. Tôi luôn ra quyền trong sự bế tắc của chính mình, điều đó đã không qua được đôi mắt của thầy.
❉❉❉
Mẹ tôi vẫn lặng lẽ đi về một mình. Có vài người đàn ông đến nhà tôi nhưng có lẽ không đủ kiên nhẫn để “rã đông” một tảng băng chìm nên đều lặng lẽ rút lui.
Tôi đã cứng cỏi hơn rất nhiều so với trước đây. Chú Tân cũng dần dần dìu dắt tôi vào lý tưởng mà ba đã từng muốn tôi tiếp tục theo đuổi. Thỉnh thoảng, chú cho tôi mượn vài cuốn sách và thường hỏi lại cảm nhận của tôi sau khi đọc xong. Tôi bắt đầu trở lại với đam mê đọc sách của mình, thứ đam mê mà tôi đã bỏ quên quá lâu.
Một đêm nọ, khi trời đã về khuya, đường xá thưa thớt tiếng xe, bỗng dưng, tôi đau bụng dữ dội và nôn oẹ không ngừng. Mẹ hoảng hốt gọi xe đưa tôi đi bệnh viện. Có phải một lần trải qua việc làm mẹ đơn thân thì mới thấu hiểu được hết sự tủi hờn của một người mẹ tự đưa đứa con thơ dại của mình đến bệnh viện trong đêm khuya mà không có ai bên cạnh. Mẹ con tôi cũng không biết phải gọi cho ai, bởi chỉ có những người thân, rất thân mới sẵn sàng lao đến với nhau vào cái giờ mà ai cũng đã say giấc nồng.
Tiếng băng ca rầm rập, phòng cấp cứu nồng nặc hơi người, tiếng bước chân xầm xập và tiếng rên rỉ của các bệnh nhân xung quanh. Mùi mồ hôi, mùi dịch, mùi thuốc, mùi máu hoà lẫn vào nhau tạo nên một cảm giác lờm lợm khó tả. Mẹ tôi đứng ngoài, thấp thỏm, âu lo. Chúng tôi bơ vơ quá, tôi ước giá như có ba tôi đứng ở ngoài cùng với mẹ để bà đỡ chông chênh mà tôi cũng đỡ sợ hơn. Tôi quả thật rất sợ.
“Ba ơi, con sợ lắm!” Tiếng lòng tôi đã thét vang như thế, nhưng chẳng có hồi đáp. Kia kìa, đứa trẻ nào vào đây cấp cứu cũng có ba ở bên cạnh, họ âu yếm nó kìa, họ hôn nó kìa, tôi thèm như thế biết mấy! Bất chợt, tôi nhìn thấy bóng dáng chú Lĩnh, chú ấy đã đến tự bao giờ? Chú đứng cạnh mẹ tôi, có vẻ như đang cố trấn an bà. Chú Lĩnh là một người em kết nghĩa lâu năm của gia đình tôi, chú cũng là một cán bộ
công an. Chú xem mẹ con tôi như những người thân thật sự, và như thế, chú mới đứng ở đó.
Sáng sớm hôm sau, tôi được về nhà sau một đêm truyền nước biển. Cơn ngộ độc thực phẩm nhẹ vào đêm qua khiến tôi kiệt sức, tôi xuống bếp ăn bát cháo nóng hổi cùng với cốc sữa nóng mà chị giúp việc đã chuẩn bị sẵn. Đang ăn thì tôi nghe có tiếng nói chuyện bên ngoài, đứng dậy nhìn ra cửa, tôi thấy mẹ đang nhận một người mới vào làm nhân viên lễ tân để thay thế cho người nhân viên cũ. Nhà nghỉ của chúng tôi cũng không thật sự quá lớn, chỉ khoảng hơn mười phòng, trong đó có một phòng ở tầng lửng là của mẹ con tôi, vì vậy mà nhân viên cũng chẳng cần quá đông.
Người lễ tân mới tên là Nguyễn Văn Tuấn. Tôi đọc được thông tin này trên cuốn sổ tay của mẹ và bộ hồ sơ xin việc của anh ta. Dáng người Tuấn cao ráo, ốm, khuôn mặt gầy hóp và trắng trẻo. Đặc biệt, Tuấn có một đôi mắt khá cuốn hút với lông mi cong dài. Tuấn nhanh chóng bắt chuyện làm quen với tôi sau hai, ba hôm vào làm việc. Nhưng chúng tôi cũng không nói chuyện quá nhiều, tất cả chỉ dừng lại ở những lời hỏi thăm về gia đình, tên tuổi. Tuấn nói với tôi rằng anh ta từng học ngành kinh tế tại Thủ đô nhưng vì chia tay mối tình đầu nên muốn vào miền Nam lập nghiệp. Thật sự thì lúc đó tôi không quá quan tâm đến những gì Tuấn nói.
Tôi thường đến trường buổi sáng bằng xe bus vì mẹ tôi không có nhiều thời gian cho việc đưa đón tôi. Những chuyến xe bus vào giờ cao điểm chật như nêm. Quả thật, việc chen lấn trên những chuyến xe bus như thế khiến tôi phát ngấy. Buổi chiều đi học về, tôi có buột miệng than phiền với Tuấn về điều này. Mấy hôm sau, tôi thấy anh ta gợi ý với mẹ tôi việc đưa đón tôi đến trường vào buổi sáng, sau đó sẽ về cho kịp giờ mở cửa đón khách. Vì xót tôi nên mẹ cũng đồng ý. Tuấn và tôi thân thiết hơn kể từ đó.
Tuấn có vẻ không có nhiều người thân vì tôi chưa bao giờ nghe anh ta nhắc đến những người thân của mình. Tôi cũng chưa bao giờ nghe mẹ tôi hỏi, có lẽ bà luôn tôn trọng những vấn đề riêng tư của người khác. Thỉnh thoảng, tranh thủ vào giờ nghỉ buổi tối, Tuấn cũng có vài người bạn đến thăm và họ trò chuyện với nhau tại quán nước cạnh nhà tôi. Tuấn ở lại nhà tôi sau giờ làm, vì vậy mà có thể nói rằng Tuấn sẵn sàng làm việc 24/24. Mẹ tôi tỏ ra rất hài lòng vì sự tháo vát chịu khó của anh ta. Ban đêm, tôi và mẹ ngủ ở phòng tại gác lửng
nhưng nhà tắm và nhà vệ sinh lại nằm dưới tầng trệt, còn Tuấn thì ngủ luôn tại quầy lễ tân trên một chiếc giường xếp mini.
Một hôm, sau giờ học võ, tôi trở về nhà, khá mệt mỏi vì đã gắng tập quá sức. Gật đầu chào Tuấn, tôi đi thẳng lên phòng để nằm nghỉ một lát trước khi đi tắm. Mẹ tôi hình như chưa về. Uể oải nhìn đồng hồ, đã hơn tám giờ tối, đánh phịch túi đồ bên cạnh, tôi nằm dài ra
sofa. Bỗng có tiếng gõ cửa, tôi he hé nhìn ra thì thấy Tuấn đang tươi cười cầm trên tay một cốc nước ép hoa quả. Nhận lấy cốc nước từ tay anh ta, tôi ngại ngùng cảm ơn rồi đóng sầm cửa lại. Thật sự tôi rất ngại khi có một người khác giới lên tận phòng riêng thế này. Đôi khi, tôi cảm thấy khá bất tiện vì khách trọ cũng đi ngang qua phòng tôi bởi chúng tôi chỉ có một cầu thang chung dẫn đến tất cả các phòng ở ba tầng phía trên, mẹ con tôi lại muốn tiết kiệm tiền nên không muốn thuê riêng một căn nhà khác để ở, vì vậy mà tạm thời chúng tôi vẫn sống như vậy. Nhấp một ngụm nước trái cây mát lạnh, sự dễ chịu lan toả khắp cơ thể khiến tôi quên đi sự ái ngại vừa rồi.
Vơ lấy chiếc khăn tắm và bộ đồ ở nhà, tôi đi tắm. Tuấn đứng trước cửa phòng tôi!
“Sao anh lại đứng đây?”
Tôi giật nảy mình hỏi mà trống ngực đập thình thịch, ánh mắt với con ngươi màu đen sẫm của Tuấn khiến tôi phát hoảng khi mà hành lang tối om om không bật đèn.
“À... Ừ… Anh xin lỗi, anh đang định gõ cửa thì em bước ra. Anh chỉ muốn hỏi em có muốn ăn tối gì không để anh gọi đồ ăn. Mẹ em gọi về nói bận dùng bữa với đối tác nên sẽ về hơi muộn và dặn anh lo bữa tối cho em.” Tuấn đáp.
“Không ạ!” Tôi trả lời nhát gừng rồi đóng sầm cửa lại. Phải mất gần mười lăm phút sau, tôi mới dám hé ra nhìn xem Tuấn còn ở đó hay không. Hình như tôi quá nhát gan, Tuấn chỉ hỏi tôi về bữa tối thôi mà. Nghĩ bụng như vậy nên tôi yên tâm đi tắm.
Trời bên ngoài bỗng dưng chuyển mưa rất to, sấm chớp ầm ầm. Tôi khoá cửa phòng rồi lên giường nằm đọc sách, ánh đèn vàng dìu dịu toả ra từ chiếc đèn bàn, thỉnh thoảng tiếng sấm đánh rầm làm tôi giật mình. Tôi nghe thấy tiếng sột soạt ở nhà dưới, chắc lại là lũ chuột
đuổi nhau giành thức ăn thừa mà hôm nay chị giúp việc đã quên dọn khi ra về. Hơn mười giờ tối, mẹ mới về và ướt như chuột lột, mang cho tôi mấy cái bánh bao nóng hổi. Ngoài căn nhà nghỉ này thì mẹ tôi còn cùng với bạn bè hùn hạp làm thêm nhiều công việc khác nhau khiến bà bận tối mắt. Cũng nhờ vậy mà cuộc sống của chúng tôi dễ chịu hơn về mặt tài chính, nhưng tôi với mẹ lại hiếm khi trò chuyện hay ăn cơm cùng nhau. Ăn xong, tôi đi ngủ trước vì mẹ còn bận tính toán sổ sách, tiếng bấm máy tính lạch cạch đưa tôi vào giấc ngủ với tiếng mưa tí tách bên ngoài.
Hôm Valentine năm đó, bạn bè tôi bắt đầu biết yêu. Cuối cấp hai rồi, đứa nào cũng tự cho rằng mình đã trưởng thành để có thể có người yêu. Chúng nó tặng nhau chocolate, thú bông hình trái tim xanh đỏ, hoa hồng và muôn vàn những lời yêu thương nổi gai ốc trong tấm thiệp. Tôi chẳng có bạn, cũng chẳng có người yêu, chỉ duy nhất một người bạn qua mạng Internet mà tôi đã quen biết và có cảm tình, nhưng bạn ấy lại ở xa tôi quá. Chúng tôi chẳng biết mặt nhau nhưng lại có thể chia sẻ cho nhau nhiều thứ trong cuộc sống. Mỗi lần mở máy tính lên, tôi chỉ mong được nhìn thấy mặt cười màu vàng trên Yahoo! Chat hiện đèn sáng, những câu chuyện miệt mài qua những con chữ nhảy múa trên màn hình khiến tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn, vui vẻ hơn. Mẹ tôi nói bạn trên mạng ảo thì không có thật, ý mẹ tôi là tình cảm cũng sẽ là ảo. Nhưng tôi lại nghĩ khác, cuộc sống “ảo - thật” lập lờ, người thật còn có thể ảo với nhau thì làm sao yêu cầu mạng ảo phải chân thật? Chỉ mong mỗi ngày khuôn mặt cười màu vàng kia luôn sáng để tôi lại được sẻ chia, được tâm sự. Nếu có một ngày khuôn mặt cười đó mãi trở thành màu xám, tôi cũng sẽ chấp nhận như một sự thường tình. Người thật đôi khi còn có thể phút chốc rời bỏ thì ảo có là gì?
Bỗng dưng hôm đó, Tuấn lại mua một đôi cốc để tặng cho tôi. Tuấn nói tôi một chiếc và Tuấn một chiếc, xem như hai anh em có một cái gì đó làm kỷ niệm. Tôi không nghĩ ngợi gì nhiều nhưng nét mặt mẹ thì sa sầm hẳn khi tôi cầm chiếc cốc ấy về phòng. Buổi chiều, tôi thấy mẹ nói chuyện với Tuấn rất lâu. Tuấn cúi mặt không nhìn mẹ tôi còn bà thì liên tục nói với thái độ rất căng thẳng. Ít phút sau, Tuấn gặp tôi và xin lại cái cốc. Tôi đưa cho Tuấn nhưng trong lòng không khỏi băn khoăn, hình như mẹ tôi không thích Tuấn làm như vậy với tôi thì phải.
Trong nhà tắm có một chiếc cửa sổ thông gió nhỏ thông với khu
vườn phía sau. Dạo gần đây, khi đi tắm, tôi thường cảm thấy như có ai đó đang nhìn mình. Tôi quay lại thì quả thật chẳng có ai. Hình như tôi nhát nên nhạy cảm quá thôi, tôi trấn an mình như thế rồi dự định sẽ không tắm đêm nữa. Nhưng đi học về khi trời đã tối, tôi cũng không còn cách nào khác. Buổi sáng, tôi ra sau vườn kiểm tra, chẳng có gì cả, tôi đúng là quá nhát gan rồi!
Tôi được vào đội tuyển học sinh giỏi môn văn, vì vậy mà phải thường xuyên thức khuya hơn trước để nghiên cứu bài vở. Chú Tân dạo này ít gọi cho tôi. Mấy lần tôi hỏi chú về việc có nên nói cho mẹ biết việc của ba hay không, nhưng chú nói chưa nên vì mẹ tôi cần có thêm thời gian để đón nhận, vì vậy mà tôi tiếp tục giữ kín bí mật đó. Mẹ tôi có một người bạn là bác sĩ, dạo này cũng hay đến nhà thăm chúng tôi. Tôi thừa biết chú ấy thích mẹ tôi, có lần chú hỏi tôi về loài hoa mà mẹ thích. Nhưng tôi không mấy thiện cảm, dường như sự ích kỷ bắt đầu nổi lên trong tôi, tôi muốn giữ mẹ cho riêng mình. Được vài lần đến nhà và nhìn thấy thái độ không mấy vui vẻ của tôi nên chú ấy không đến nữa. Tôi hả hê trong lòng vô cùng.
Một hôm, tôi thức khuya học bài, lại nghe tiếng sột soạt bên dưới, bọn chuột quá lì lợm! Tôi sẽ nói với chị giúp việc mua bẫy vào ngày mai.
Cốc! Cốc! Cốc!
Có tiếng gõ cửa phòng, đồng hồ đã điểm chín giờ tối, mẹ tôi chưa về, hay là mẹ nhỉ? Nghĩ vậy nên tôi đứng dậy ra mở cửa. Nhưng không có ai cả. Chắc tôi quá mệt vì học bài nên ù tai nghe nhầm rồi.
Sau kỳ thi, tôi được nghỉ vài ngày, tranh thủ về thăm bà nội, bà đã già đi nhiều. Vẫn thói quen nhóm bếp củi để nấu nướng và nhặt chó mèo từ khắp mọi nơi về nuôi, đó là niềm vui ít ỏi của bà. Cô Út không vui khi tôi về. Bà tôi không còn người con trai nào nữa, tình thương của bà dồn hết cho các cháu nội vì bà thương các cháu mồ côi cha quá sớm. Bà tôi được nhà nước cấp cho một mảnh đất, hai mảnh đất của ba và bác của tôi cũng ở cạnh nhau. Tôi không quan tâm đến tài sản, mẹ tôi cũng thế, hai con gái của bác tôi thì còn quá nhỏ để nghĩ ngợi, vợ của bác đã tái giá cách đó không lâu. Mặc dù chúng tôi vẫn sống ổn và không có ý định tranh giành nhưng cô Út chắc không nghĩ như vậy. Cô luôn tưởng tượng rằng mẹ tôi sẽ xúi bẩy tôi trở về xin bà nội chuyển tên sở hữu mọi đất đai nhà cửa cho tôi, vì thế mà cô không
còn yêu quý tôi nữa. Thắp nén nhang lên bàn thờ của ba, tôi ra sau vườn trò chuyện với bà nội. Bà bận cho heo cho gà ăn, rồi lại đi ra đi vào hái khế, hái ổi cho tôi. Bà trách tôi ít về thăm bà quá, bà đã già nhưng chỉ sống một mình thế này buồn lắm. Nhiều đứa cháu khác cũng đến rồi lại đi, có đứa luôn đến vào đúng ngày bà lĩnh tiền hưu rồi lại đi biền biệt cả tháng trời. Tôi nghe mà lòng buồn lắm. Thỉnh thoảng, tôi để dành tiền tiêu vặt của mình để biếu bà, nhưng bà bao giờ cũng từ chối, bà bảo tôi chưa làm gì ra tiền cả, hãy giữ lấy mà mẹ con lo lắng cho nhau. Vừa nói bà lại vừa móm mém nhai trầu, miếng trầu đỏ thắm.
Mẹ tôi bảo phải đi công tác xa vài ngày vì công việc của mẹ đang có một số trục trặc cần phải giải quyết. Mẹ dặn tôi ở nhà, có việc gì thì gọi cho chú Lĩnh vì cơ quan chú cũng ở gần nhà tôi. Tối hôm đầu tiên mẹ vắng nhà, tôi đi tắm sớm rồi định sẽ mang ít trái cây lên phòng nằm đọc sách. Đèn nhà tắm bỗng vụt tắt, tim tôi như ngừng đập, tôi hét lên gọi Tuấn bởi vì buổi tối chỉ có anh ta ở nhà. Chị Tuyết giúp việc cho nhà tôi đã đi về từ năm giờ chiều. Không có ai trả lời. Tôi vớ lấy quần áo mặc vội vào, bỗng dưng đèn lại sáng trở lại. Chết thật, cái đèn này quá cũ rồi, từ hồi về đây tôi đã nghe mẹ nói nên thay nó nhưng mãi vẫn chưa thay. Tôi lại tiếp tục tắm. Hơi nước nóng khiến tấm gương soi mờ đi.
Tôi thấy có một cái bóng đen vừa lướt qua ở ô cửa thông gió sau lưng tôi!
Quay lại nhìn, không có gì cả. Lấy khăn khô lau tấm gương soi. Tôi nghĩ rằng mình đã bị hoa mắt. Tắm xong, tôi ra ngoài, Tuấn vẫn đang ngồi nghe nhạc ở quầy lễ tân. Mở tủ lạnh lấy một ít trái cây nhưng tôi không tìm thấy con dao ở đâu cả. Bực mình, tôi đóng tủ lạnh đánh rầm!
Tôi đang nằm đọc sách.
“Cốc! Cốc! Cốc!” Tiếng gõ cửa lại vang lên, tôi mở cửa nhưng cũng chẳng thấy ai. Đóng cửa đi vào, tôi bỗng nghe thấy tiếng giày nện xuống nền nhà như có ai đang đi từ tầng dưới lên. “Cộp… Cộp… Cộp…” Tiếng giày dừng trước cửa phòng tôi. Yên ắng một lát, tiếng gõ cửa lại chậm rãi vang lên giữa màn đêm tĩnh mịch nhưng lần này lại chậm hơn như thể người bên ngoài đang cố gằn từng tiếng. “Cốc… Cốc… Cốc!” Tôi run lẩy bẩy đứng ở góc phòng mà không dám mở cửa.
Bất chợt, cánh cửa rung lên, kẻ nào đó đang cố mở, chiếc tay nắm cửa xoay lạch cạch. “Rầm! Rầm! Rầm!” Hắn đã đập cửa mạnh hơn! “Kétttttt…” Bỗng dưng, cánh cửa mở ra nhẹ nhàng như thể có ai đó dùng chìa khoá để mở. Cửa mở ra từ từ, bên ngoài hành lang tối om. Tuấn chầm chậm đi vào, tay cầm con dao gọt hoa quả nhọn hoắt, sáng loáng giữa màn đen bóng tối. Tiến đến gần tôi, Tuấn vung dao lên đâm tới tấp! Nhưng tôi đã né được, đẩy anh ta ngã ra sàn rồi chạy ra ngoài. Tuấn vùng dậy, kéo tôi ngã dúi dụi, anh ta đâm vào tay tôi một nhát, máu bắt đầu tuôn xối xả. Tuấn cười sằng sặc cùng với đôi mắt chỉ còn lòng trắng. Anh ta chụp lấy một chân của tôi và lôi xềnh xệch, hành lang dài hun hút, đen đặc. Tiếng giày lại nện xuống sàn nhà. Tuấn lôi tôi lên bể chứa nước ở sân thượng và nhấn tôi vào đó…
Tôi giật mình thức dậy, mồ hôi đầm đìa, thở hổn hển. Thì ra tôi đã nằm mơ! Một cơn ác mộng quá khủng khiếp. Lao ra cửa sổ nhìn xuống phía dưới, tôi thấy Tuấn vẫn đang ngồi nghe nhạc. Một ngày mệt nhoài nên có lẽ tôi đã thiếp đi mà mơ thấy giấc mơ kinh khủng như vậy. Thở hắt ra, tôi đứng dậy lấy nước uống. Bỗng nghe tiếng cửa
cót két ở bên dưới, âm thanh thật sự ghê rợn với tôi lúc này. Đánh liều mở cửa phòng đi xuống, tôi thấy chiếc cổng sắt nhỏ dẫn ra sân vườn chưa được cài khoá khiến gió lay làm nó phát ra tiếng kêu như vậy. Với tay cài cửa lại, tôi quay lưng về phòng.
Tuấn đứng sau lưng tôi!
Hoảng hốt nhìn Tuấn, tôi thất sắc. Anh ta bảo nghe tiếng cửa bị gió đập nên định ra đóng, ai ngờ tôi đóng rồi. Nói đoạn, Tuấn mở tủ lạnh lấy đĩa trái cây đã gọt sẵn đưa cho tôi bảo mang lên phòng ăn. Tôi lắp bắp: “Anh lấy dao ở đâu vậy? Lúc nãy… Lúc nãy em đâu có tìm thấy?” Tuấn nhìn tôi ra chiều ngạc nhiên rồi chỉ vào tủ bếp: “Ở trong này, lũ chuột quậy quá nên chắc chị Tuyết dọn dẹp lại khu vực nhà bếp rồi cất tạm vào đây.”
Tôi thở phào. Từ ngày biết về công việc của ba, tôi trở nên đa nghi trước tất cả mọi vấn đề. Tôi thường suy nghĩ, quan sát và muốn tìm ra cốt lõi thật sự đằng sau mọi thứ. Tôi đã dần tự ám ảnh bản thân mà không hề hay biết.
Sáng hôm sau, Tuấn đưa tôi đến trường như mọi ngày, lại còn dặn tôi mang theo mũ vải kẻo buổi trưa trời nắng. Tôi cũng lấy làm lạ vì chưa bao giờ Tuấn nhắc tôi như thế, nhưng sáng sớm còn ngái ngủ
nên tôi cũng không suy nghĩ nhiều. Buổi trưa đi học về, thấy cổng chính khép hờ, tôi rất ngạc nhiên. Đẩy cửa vào nhà, tôi gọi to nhưng không ai trả lời. Quái lạ thật! Chị Tuyết từ trên tầng xuống, trên tay ôm một mớ drap bẩn, vừa đi vừa nói: “Tuấn nó nói với chị ra ngoài có chút việc, vì bận dọn dẹp nên chị khép cửa lại một lát.”
Một sự bất an bỗng dấy lên trong tôi. Chạy vội hai bậc một lên phòng, cửa phòng vẫn khoá, chìa khoá tủ đựng tiền của mẹ tôi vẫn nằm phía trong hốc nhỏ đằng sau tủ. Lấy chìa mở tủ xem xét, tôi tá hoả!
Tiền, vàng, ngoại tệ và nữ trang của mẹ tôi trong tủ, toàn bộ đã không cánh mà bay!
Run lập cập, tôi với điện thoại bấm số gọi cho chú Lĩnh. Công an lập tức vây kín nhà tôi, tiếng còi hụ inh ỏi, dồn dập đầy căng thẳng, băng niêm phong được giăng ra. Chị Tuyết đang được lấy lời khai ở dưới nhà. Còn tôi thì thẫn thờ ngồi bên cạnh chiếc tủ đã trống rỗng. Chú Lĩnh cố gắng liên lạc để báo tin với mẹ tôi.
Số điện thoại của Tuấn đã không còn liên lạc được. Công an kiểm tra khu vực quầy lễ tân, tìm thấy một cuốn sổ có ghi vài số điện thoại, tôi nhận ra đó là sổ tay của Tuấn vì tôi thường thấy anh ta hí hoáy ghi chép trong đó. Cuốn sổ còn ghi lại giờ giấc đi lại, sinh hoạt của mẹ con
tôi, sơ đồ ngôi nhà của chúng tôi và cả một tấm ảnh của tôi mà không biết Tuấn đã lấy nó khi nào. Cảnh sát điều tra yêu cầu tôi cung cấp hình ảnh, giấy tờ tuỳ thân hoặc hồ sơ xin việc của Tuấn cũng như đặc điểm khi Tuấn rời khỏi nhà. Tôi chỉ có thể nhớ rằng khi đưa tôi đi học vào buổi sáng, Tuấn mặc áo phông màu đỏ và quần jean màu đen. Nhưng chị Tuyết lại khẳng định khi ra khỏi nhà, Tuấn mặc áo sơ mi trắng và quần kaki màu kem, tay xách túi giấy đựng sữa hộp bảo rằng đi thăm bạn vừa bị tai nạn. Giấy tờ tuỳ thân của Tuấn cũng nằm trong tủ, vì vậy anh ta cũng đã khoắng sạch, không để lại dấu vết nào. Theo nhận định ban đầu của cơ quan điều tra, có lẽ túi giấy ấy chứa tài sản hắn trộm được trong tủ của mẹ tôi. Họ ra thông báo phong toả toàn bộ các chuyến tàu khởi hành trong sáng nay và yêu cầu các trưởng tàu âm thầm kiểm tra hành khách trên tàu theo đặc điểm nhận dạng trong lời khai của chúng tôi, đồng thời rải người toả ra các bến xe Nam - Bắc. Chú Lĩnh trấn an tôi: “Không có thiệt hại về người là may mắn rồi An à, con đừng quá lo lắng! Các chú sẽ làm việc hết sức!”
Mẹ tôi gọi, nhấc máy lên, tôi nghe mẹ nói nhẹ như gió thoảng: “Thôi An, mất rồi thì thôi con. Mẹ xin lỗi vì đã để con ở nhà một mình.”
Tôi ngồi thụp xuống mà nước mắt lưng tròng. Những số điện thoại Tuấn ghi chép trong sổ lần lượt được triệu tập lấy lời khai, họ đều là nữ sinh viên cách trường đại học trong vùng. Tuấn đã làm quen họ trong những quán cà phê bằng nhiều cử chỉ ga lăng. Đã có người trong số đó trao thân cho Tuấn. Nhưng tuyệt nhiên không một ai biết rõ về anh ta bởi với mỗi người Tuấn đều cung cấp một thông tin cá nhân khác nhau.
❉❉❉
Mẹ tôi ngồi hút thuốc ở sân thượng. Đôi mắt mẹ trũng sâu vì thiếu ngủ, tôi lặng lẽ úp một bát mì tôm nhưng mẹ không ăn. Đã một tháng trôi qua kể từ ngày Tuấn vơ vét tất cả rồi trốn đi, hắn lặn mất tăm như chưa từng tồn tại dù rằng cơ quan công an ra sức truy tìm. Căn nhà ba tầng vắng lặng và tối tăm đến đáng sợ, công việc kinh doanh đã ngưng lại nên các phòng đều không có khách lưu trú. Nền nhà phủ đầy bụi vì cả tuần không có ai lau dọn, mẹ tôi đã cho chị Tuyết nghỉ việc để tiết kiệm tiền. Hành lang dài tăm tối với những dãy phòng đóng kín cửa khiến tôi rùng mình.
Công việc của mẹ tôi gặp nhiều trục trặc. Các khoản đầu tư đều thất bại vì đối tác lừa, chúng tôi không còn tiền dự trữ, nợ nần ngập đầu. Mẹ tôi suốt ngày hút thuốc và uống rượu, không buồn mở cửa nhận khách trọ nữa. Ban ngày, tôi đi học như bình thường. Tối đến, tôi tranh thủ nấu tạm bữa tối qua loa nhưng cũng không ai muốn ăn. Căn nhà tối tăm và ảm đạm như nhà ma. Nấu cơm xong không thấy mẹ đâu, tôi bật sáng đèn ở từng tầng rồi lần lên sân thượng. Mẹ ngồi một góc đằng sau cánh cửa dẫn ra ban công, vỏ lon bia và tàn thuốc lá vương vãi khắp nơi. Mẹ với tay cố lấy chùm chìa khoá nằm phía bên ngoài cánh cửa, có lẽ khi cố tra vào ổ khoá để mở cửa ra ban công, bà đã làm rơi nó ra ngoài. Bà vừa đưa tay khều lấy chùm chìa khoá, vừa khóc lại vừa cười. Bất chợt, bà cất một tràng cười dài, ghê rợn, the thé trong màn đêm tĩnh mịch, rồi lại bật khóc thảm thiết, đầy nỗi u uẩn. Chốc chốc, mẹ tôi lại đập đầu vào tường rồi khóc cười đầy ma mị. Tôi lao đến ôm, ngăn không cho bà tiếp tục hành hạ bản thân. Bà ngơ ngác rồi bật khóc nức nở trong vòng tay tôi. Hai hàng nước mắt chảy dài.
❉❉❉
Mẹ tôi ở rịt trong nhà, không bước ra ngoài. Chủ nợ bắt đầu kéo đến yêu cầu siết ngôi nhà mẹ con tôi đang ở cùng toàn bộ tài sản. Họ hung hăng đập phá, chửi rủa và hăm doạ. Vì sự an toàn, mẹ con tôi không thể ở lại căn nhà đó nên phải thuê tạm một căn phòng trọ để ở. Những hộp cơm được mua về mỗi bữa, nhưng không ai buồn đụng đến. Mẹ chỉ ngồi một góc uống bia và đốt thuốc. Khói thuốc mờ nhạt qua ánh mắt tôi, làm mờ đi cả con đường tương lai ở phía trước. Tôi không biết phải làm gì và cũng không biết phải bắt đầu từ đâu. Mẹ tôi nhiều lần có ý định tự tử. Sự tuyệt vọng ăn mòn từng tế bào nghị lực trong ý chí của bà. Có lẽ mọi thứ đã vượt quá sức chịu đựng của một người phụ nữ ấy.
Mẹ tiếc công sức gây dựng sự nghiệp. Bà đau đớn khi bị những người được cho là bạn, là đối tác tin cậy lừa trắng trợn, thất vọng khi nhân viên tin cẩn cũng quay lưng phản bội. Sâu thẳm trong suy nghĩ, bà lao vào kinh doanh cũng chỉ để chứng tỏ cho ba thấy rằng không có ông, bà vẫn sống rất tốt, vẫn thành đạt và kiêu hãnh ngẩng cao đầu. Sự ra đi của ba khiến bà như rơi từ trên cành cây cao xuống đất, bà không còn ý chí phấn đấu hay động lực để tiếp tục tham vọng. Có lẽ khi nào phải đứng giữa ranh giới của sự yêu - ghét, lòng hận thù và nỗi khát khao “trả thù”, tôi mới có thể hiểu được.
Chúng tôi quyết định bỏ lại tất cả mọi thứ nơi này để cùng nhau đi đến một vùng đất mới. Thành phố này đã in bước chân người xưa trên mỗi con đường, hình ảnh hiển hiện trên từng góc phố chẳng thể nào bôi xoá được. Trở về đây cũng là lúc nỗi buồn sâu thẳm trong trái tim tôi trỗi dậy. Tôi không sợ nghèo khó bởi cảm giác giàu sang cũng chưa đủ lâu để làm tôi quên đi khoảng thời gian thăng trầm mà gia đình tôi đã từng trải qua trong quá khứ. Tiền bạc mất đi còn có thể lấy lại được, nhưng có những thứ vụt mất sẽ vĩnh viễn không bao giờ có thể quay trở lại.
Một buổi sáng sau mấy ngày trở về, tôi gặp Huỳnh Thuận tại tiệm bách hoá khi đang mua một ít đồ dùng cá nhân. Huỳnh Thuận và tôi quen biết nhau trong một lần tôi đi du lịch cùng bạn bè trên hòn đảo của gia đình anh. Sau những biến cố và sự thiếu hụt tình cảm, dù chỉ là sự rung động rất nhẹ nhưng cũng đủ để lại cho tôi thật nhiều nỗi thất vọng sau này. Cuộc đời đổi trắng thay đen đã nhanh chóng dạy cho tôi một bài học về lòng người. Bạn bè và Huỳnh Thuận đều chưa
biết về chuyện của gia đình tôi. Gặp lại tôi sau mấy tháng bặt tin, Huỳnh Thuận mừng rỡ hỏi han đủ điều. Anh ngỏ lời mời tôi đến bữa tiệc sinh nhật của mình tối nay trên du thuyền riêng của gia đình. Tôi ngập ngừng nhận lời. Bữa tiệc đêm hôm đó khiến tôi chẳng thể nào quên, thứ cảm giác lạc lõng khi lọt thỏm giữa đám đông nói cười, những lời chúc tụng, những chai rượu và các loại thức uống đắt tiền đầy ắp trên bàn tiệc, những con tôm hùm to được nướng trên bếp lửa, và chúng bạn vừa ăn vừa ném lẫn nhau. Tôi chợt nghĩ về mẹ, về những hộp cơm nguội lạnh trên bàn. Có lẽ cuộc đời phải có những tương phản để ta biết trân trọng hơn những gì mình đang có. Trên chiếc du thuyền màu trắng xa xỉ, phút huy hoàng cuối cùng để khép lại trang sách của ngày hôm nay và chào đón cuộc đời tôi bước sang một trang mới vào ngày mai.
Sau bữa tiệc sinh nhật xa hoa, tôi trở về căn phòng trọ. Mẹ vẫn ngồi ở đó, ánh trăng mờ hắt bóng, đêm nay sẽ thật dài bởi vì nó dành để nhìn lại những gì đã xảy ra tại thành phố này, như một thước phim quay chậm, đủ mọi ngọt bùi đắng cay. Ngày hôm sau, mẹ tôi bắt đầu tỉnh táo hơn. Bà gọi điện dặn dò chú Lĩnh giúp bà thu xếp vấn đề trả nợ cho các chủ nợ , mọi vấn đề pháp lý về tài sản sẽ dễ dàng được giải quyết mà không cần sự có mặt của mẹ.
Buổi chiều tắt nắng, tôi vội vã trở về nhà lấy đồ đạc cần thiết nhét vội vào vali. Sự ra đi như trốn chạy, chạy trốn những ký ức và sự thất bại, cảm giác đó có lẽ cũng không khác ngày tận thế là mấy. Trước khi ra bến xe, mẹ dặn tôi ghé tiệm may lấy hai bộ đồng phục mà mẹ đã đặt may cho năm học mới của tôi. Không một ai có thể biết được ngày mai đến như thế nào.
Bóng đêm đổ dần xuống cung đường quen thuộc mà tôi đã đi qua mười mấy năm trời. Sự cô đơn cuốn lấy tâm hồn tôi, co ro trên chuyến xe bus đưa tôi qua từng vùng ký ức mờ ảo, xa vời. Ở chỗ này, tôi vẫn nhác thấy bóng ba người chúng tôi đang chở nhau trên đường, cười vang cả một góc trời. Ở chỗ kia, tôi vẫn nhìn thấy ba tôi đang vịn yên xe đạp cho tôi còn mẹ thì đứng cạnh cổ vũ. Mảng hồi ức mỏng manh chực chờ tôi chạm tay vào để rồi tan biến đi như chưa từng tồn tại.
Chúng tôi bắt một chuyến xe muộn để bắt đầu sự trốn chạy lặng lẽ. Khi chiếc xe dần lăn bánh, những căn nhà ven phố lùi xa về phía sau, những kỷ niệm cũng nhỏ dần, nhỏ dần rồi khuất hẳn. Nhưng nỗi
buồn trong tôi không thể lùi xa, sự cay đắng nào có khuất đi? Trái tim tôi bỗng thắt lại vì sực nhớ ra, khi về nhà thu dọn, vì quá vội nên tôi đã quên mất chiếc hộp đựng tất cả các loại bằng khen của tôi trong suốt nhiều năm.
Bỏ lại sau lưng một miền ký ức là khi tôi đánh mất tất cả và làm lại từ đầu ở một phương trời xa lạ.
C
Chương 5 Đường cùng
húng tôi đặt chân đến Sài Gòn vào rạng sáng, khi bầu trời vẫn còn chưa thức giấc nhưng người dân nơi đây đã trở mình mưu sinh. Người ta vẫn thường nói Sài Gòn hoa lệ, nhưng hoa cho người giàu còn lệ cho kẻ nghèo. Tính đến thời điểm hiện tại,
tôi đã thấm thía điều đó khi được nếm trải cả hoa lẫn lệ của đất Sài thành rộng lớn.
Mẹ con tôi đi xe bus từ bến xe về nhà người em út của mẹ. Tôi ăn tạm một cái bánh mì cho qua bữa sáng, thấy khô khốc như đang nuốt chính những băn khoăn, trăn trở trong lòng. Người ta chen lấn trên chiếc xe bus chật như nêm, nồng nặc hơi người. Chúng tôi lạc lõng giữa dòng đời nơi xứ lạ, cuộc đời mơ hồ như một cánh cửa đã đóng kín ngay trước mắt. Khư khư chiếc giỏ xách bên mình, mẹ như sợ những đồng tiền cuối cùng cũng sẽ bị dòng đời cuốn đi mất.
Sau sự ra đi của ngoại, cậu Tư và mẹ tôi đã không còn nhìn mặt nhau nữa. Mẹ không chấp nhận được sự tệ bạc của mợ Tư đối với ngoại, nhất là khi ngoại đã nhắm mắt xuôi tay. Vì vậy mà kể từ sau tang lễ, chúng tôi chưa từng gặp lại cậu. Tôi chỉ biết rằng cậu cũng đã sống những ngày tháng khổ tâm, dằn vặt sau khi ngoại mất. Lần này vào Sài Gòn, mẹ cương quyết không liên hệ với cậu cũng như không nhờ đến bất kỳ sự giúp đỡ nào. Với mẹ, dù có mất hết tất cả và sống nghèo đói thì thứ duy nhất còn lại phải giữ được chính là lòng tự trọng của bản thân.
Nhà cậu Út nằm sâu trong một con hẻm quanh co cách xa thành phố. Cậu có ba đứa con nhỏ đang tuổi ăn tuổi học và gia cảnh cũng không thật sự khá giả. Vì vậy, khi ở tạm tại nhà cậu, mẹ con tôi vẫn phụ giúp các khoản sinh hoạt phí. Cậu đi làm xa nhà, mỗi tuần mới về một lần. Tôi và mẹ ở tạm trên căn gác xép, trời mưa nước chảy tong tong xuống thau nhựa hứng bên dưới. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, mẹ con tôi cảm thấy hài lòng vì có một chỗ ở là tốt rồi. Mẹ tôi nhốt mình trên căn gác xép không ra ngoài, bà cần được yên tĩnh để ngẫm chuyện đời và nghĩ chuyện tương lai, chỉ có tôi xuống nhà phụ mợ
nấu cơm và dọn dẹp. Thế nhưng kiếp ăn nhờ ở đậu chẳng bao giờ là dễ chịu, lắm lúc mợ cũng tỏ thái độ khó chịu với mẹ con tôi khi cậu vắng nhà. Được một thời gian ngắn, mợ nói chúng tôi hãy dọn ra phòng trọ ở gần đấy. Mẹ đồng ý nhưng xin thêm vài ngày để tìm một căn nhà trọ thích hợp. Mợ không chấp nhận và đưa mẹ tôi đến xem một căn phòng cho thuê cách nhà cậu một con hẻm.
Nói là nhà trọ cũng không hẳn, chính xác hơn nó từng là một cái chuồng lợn rộng bốn mét vuông. Chủ nhà là một người phụ nữ không được bình thường, sau này người nhà của cô ấy cải tạo cái chuồng lợn thành một căn phòng chứa đồ bằng cách xây thêm tường lên cao, sau nữa thì bỏ hoang, mái tôn hoen gỉ, tường đóng rêu và nền nhà thì chưa tráng xi măng. Xác gián, phân mèo, phân chuột... ô uế cả căn phòng. Có lẽ vì bỏ hoang như vậy nên căn phòng được cho thuê lại với giá bèo bọt, thậm chí con trai cô chủ nhà còn mừng rỡ khi thấy chúng tôi hỏi thuê.
Chúng tôi đặt vali ở giữa phòng mà lúng túng không biết tối nay sẽ ngủ ra sao khi căn phòng không có gì. Con trai chủ nhà thấy vậy mang cho chúng tôi mượn một chiếc giường gỗ ọp ẹp như chực gãy chân cùng một chiếc chiếu rách. Tối hôm đó, mẹ con tôi gối đầu trên những bộ quần áo gấp lại, ôm nhau ngủ. Thỉnh thoảng giữa đêm, tiếng cười sằng sặc của cô chủ nhà ở phía bên kia khiến tôi giật mình tỉnh giấc, nổi cả gai ốc.
Tôi chưa quen với cái nắng mưa bất chợt của Sài Gòn. Ngồi bó gối nhìn ra con đường mòn nhỏ, những cô cậu học trò í ới rủ nhau đi về mỗi sớm chiều khiến tôi chạnh lòng ứa nước mắt. Tôi đã từng nghĩ con đường học hành của mình đến đây là chấm dứt. Mẹ không nói gì, bà lặng lẽ quay đi, lúc thì quét cái nhà, khi thì đặt nồi cơm, ánh mắt xót xa thỉnh thoảng nhìn như trông chừng phản ứng của tôi. Nhiều bận, thấy mẹ ứa nước mắt, tôi hỏi thì bà chỉ bảo là do khói bếp làm cay mắt. Khổ nỗi trong căn phòng trọ chật hẹp, cái lò xô dùng dầu lửa để nấu thì lấy đâu ra khói để làm mắt người cay?
❉❉❉
Lại nói về cậu Tư. Cậu và mẹ không còn gặp gỡ hay liên lạc với nhau nữa, nhất là sau khi hay tin mẹ con tôi lại rơi vào cảnh túng quẫn thì mợ Tư càng ra sức giám sát tình hình tài chính của cậu hơn. Mợ ấy lo cậu sẽ đưa tay giúp đỡ mẹ con tôi chăng? Ấy thế mà không
biết vì lẽ gì, nhiều người vẫn cho rằng mẹ là em gái út mà cậu Tư thương nhất, không lý nào cậu lại bỏ rơi, vì vậy nên việc nâng đỡ mẹ con tôi chỉ là câu chuyện sớm hay muộn mà thôi. Họ đon đả mời mọc mẹ con tôi về nhà tá túc.
Thời gian đầu, tôi và mẹ như những trái bóng trên sân. Hàng tá người đuổi theo giành giật, cốt chỉ để chiếm được cảm tình của cậu Tư cũng như được tiếng cưu mang chúng tôi nhằm chờ đợi ngày cậu đưa đôi tay vàng xuống thì ít nhiều họ cũng được hưởng lợi. Những lời hứa hẹn, sự tử tế ban đầu khiến tôi và mẹ tin rằng họ thật sự tốt. Trong mỏi mòn, “đôi tay vàng” đợi mãi chẳng thấy mà số tiền ít ỏi còn lại của chúng tôi cũng dần vơi đi. Một lần nữa, chúng tôi lại bị mời ra khỏi nhà vì những lý do không đầu không cuối. Rồi cậu Năm xin cho tôi vào học bổ túc văn hoá vì nguyện vọng của tôi là được tiếp tục đi học, tôi muốn vào đại học. Bạn gái của cậu muốn mẹ tôi mua một đôi quang gánh ra chợ bán rau mỗi ngày để kiếm tiền nuôi tôi ăn học, nhưng tôi cương quyết không chấp nhận bởi vì thời gian này, mẹ tôi bắt đầu có nhiều cơn đau ở vùng bụng. Hơn nữa, suốt gần hai mươi năm kết hôn và sống cùng ba tôi, mặc dù cuộc sống phải trải qua nhiều thăng trầm nhưng ba tôi chưa từng để mẹ phải vất vả mưu sinh nơi hè phố. Vậy thì có lý nào giờ đây, khi ông vừa ra đi, tôi lại để cho điều đó xảy ra? Một thời gian ngắn được đếm bằng ngày, họ cũng buông tay với chúng tôi khi nhận ra rằng sự cưu mang này không có lợi. Tin tưởng và chạy theo những hứa hẹn khiến chúng tôi cạn kiệt, tôi ngộ ra rằng không có cách nào khả dĩ hơn là tự làm chủ vận mệnh của mình. Nếu không biết cách vượt qua những hứa hẹn, nó sẽ dẫn chúng tôi đi vào con đường không lối ra.
Không còn tiền để thuê nhà trọ, tôi lẳng lặng đi xin việc làm. Căng mắt tìm những cái bảng nhỏ tuyển nhân viên dán trước mỗi hàng quán đã làm tôi ám ảnh đến mức mãi đến sau này khi cuộc sống đã sang một trang khác sáng sủa hơn, thì mỗi khi đi ngang qua một nơi nào có dán dòng thông báo như thế tôi đều ngoái đầu lại nhìn một cách vô thức. Tôi đã xin được việc trong một cửa tiệm bán quần áo lớn nhất nhì tại quận 12.
Một buổi chiều muộn, tôi và mẹ đón chuyến xe bus vắng người để đưa tôi đến chỗ làm. Mẹ tôi cũng đã xin vào làm tạp vụ cho một khách sạn cùng quận. Làm việc và ăn ở tại đó là cách duy nhất cứu lấy mẹ con tôi khi tiền trong túi đã vơi dần đến cạn kiệt. Sau khi mua vé xe bus, số tiền còn lại chỉ vỏn vẹn mười lăm ngàn đồng, mẹ đưa tôi mười
ngàn, còn mẹ giữ lại năm ngàn. Tôi xuống xe mà cảm nhận được mẹ đang lặng người nhìn theo dáng tôi, có lẽ đôi mắt đã ầng ậc nước. Cuộc chia ly không quá xa nhưng là lần đầu tiên tôi chập chững bước ra đời nên nghe đắng cay bội phần. Khi đặt chân vào Sài thành, tôi không còn nhiều tâm trí để nghĩ về những thứ vừa đi qua cuộc đời mình nữa, chỉ đến khi bắt đầu lăn vào cuộc sống mưu sinh thật sự, tôi mới bắt đầu cảm thấy phần tiềm thức trong tôi như tỉnh giấc. Tôi từng tủi thân đến ứa nước mắt khi nhìn thấy con gái của chủ tiệm ăn một bữa cơm với đầy ắp thịt cá. Tôi nhớ lại hình ảnh của mình trước đây và nhìn lại bát cơm trên tay, chỉ có vài miếng thịt mỡ cùng ít rau luộc nhưng sao tôi thấy đáng quý đến thế! Trong những giấc mơ, ký ức về quá khứ vẫn khiến tôi giật mình giữa đêm rồi âm thầm bật khóc.
❉❉❉
Những chị em đồng nghiệp cùng là nhân viên bán hàng như tôi có rất nhiều mánh khoé. Chúng tôi được đánh giá năng lực dựa trên doanh số bán ra, điều đó quyết định ai xứng đáng được tiếp tục làm việc và ai phải ra đi. Họ có nhiều cách để giành giật những món hàng mà tôi bán được, có lẽ họ làm lâu hơn tôi, cũng có lẽ tôi không phải là người thích dùng sự cướp đoạt để đấu tranh với cuộc đời đầy khắc nghiệt này. Cả ngày, chúng tôi luân phiên thay nhau bán hàng. Khi khách của tôi gật đầu mua hàng, những chị làm cùng thường xông tới giật món hàng trên tay tôi. Họ đã giật phăng nó khỏi tôi nhưng trên môi vẫn nở một nụ cười cất giọng đều đều ngọt lịm: “Em ra bán tiếp đi, để chị tính tiền giúp cho”. Tôi đứng trân trân nhìn họ cướp đi công sức của mình mà không biết làm gì để phản kháng.
Tôi vẫn còn nhớ, khi chỉ còn hơn hai mươi phút nữa là đến giờ đóng cửa, một cặp tình nhân bước vào xem đồ, tôi thỏ thẻ năn nỉ họ: “Anh chị hãy mua một món giúp em đi, nếu không, em sẽ bị đuổi việc ạ…” Đáp lại lời van lơn của tôi là tiếng cười phá lên của họ, họ nhìn tôi khinh khỉnh rồi đi thẳng. Tôi không nghĩ là họ vô cảm, chỉ là họ đã sống quá lâu ở cái đất Sài thành rộng lớn này, mảnh đất buộc con người phải đề phòng mọi sự đáng thương, bởi ai biết được đằng sau đó là gì?
Khi có khách đến mua hàng vào giờ sắp ăn trưa, các chị đều đẩy cho tôi bán dù đang là lượt của họ. Họ sẽ ăn cơm trước và chừa lại cho tôi khi thì một ít cá chỉ còn mỗi đầu, khi thì một miếng sườn bị
gặm hết thịt chỉ còn xương cùng một bát canh trơ đáy.
Những tủi thân và nỗi nhớ cha mẹ khiến tôi nhiều lần trào nghẹn nước mắt nơi cuối nhà kho. Ông chủ cảm thấy khó chịu nên đề nghị tôi thôi việc. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác nghẹn ngào khi nghe tin mình bị đuổi, tôi nấc không kiểm soát được và tưởng chừng như sự uất nghẹn đó đã dâng đến đỉnh điểm. Tôi mong được tiếp tục làm việc chỉ để có chỗ ở và cơm ăn hàng ngày. Tại thời điểm đó, nhiều lao động chưa đủ tuổi vị thành niên là nạn nhân của những vụ bóc lột và hành hạ. Vì thế, cơ quan chức năng địa phương đã tiến hành rà soát kỹ càng nguồn lao động phổ thông trên địa bàn. Lấy lý do không muốn vướng vào những rắc rối như vậy, ông bà chủ cương quyết không thuê tôi nữa.
Xách chiếc giỏ đựng quần áo, tôi tìm đến chỗ mẹ làm việc mà không dám vào. Mẹ tôi như có linh cảm nên đã chạy ra. Đêm hôm đó, mẹ xin cho tôi ngủ lại cùng mẹ. Được mẹ ôm vào lòng sau bao ngày, tôi mới có một giấc ngủ ngon không mộng mị. Sáng hôm sau, tôi xin vào làm ở một tiệm bán phở đối diện với nơi mẹ làm việc. Mẹ không muốn xa tôi nữa, vì vậy làm việc ở một nơi mà mẹ có thể nhìn thấy tôi mỗi ngày là sự lựa chọn tốt nhất. Nhiệm vụ của tôi là rửa chén bát. Những chiếc tô to được chất thành nhiều hàng, ngổn ngang trong những chiếc thau cỡ đại. Tôi phải rửa với tốc độ nhanh nhất có thể nhưng phải đảm bảo độ sạch để phục vụ các thực khách luôn tấp nập tại đây. Công việc của tôi bắt đầu từ năm giờ sáng và kết thúc lúc một giờ chiều. Sau khi ăn vội một bát cơm ngay tại nơi làm việc, tôi chạy đến trường để bắt đầu buổi học và quay lại tiếp tục làm ca cuối khi thành phố đã lên đèn.
Khi những thực khách cuối cùng rời khỏi quán, tôi rửa nốt dụng cụ làm bếp và tất cả mọi thứ lem nhem còn sót lại, đồng hồ điểm mười hai rưỡi đêm. Dọn bớt bàn ghế vào một góc, tôi ngả lưng trên những tờ báo, gối đầu bằng chiếc giỏ đựng quần áo của mình và đắp bằng một chiếc chăn mỏng. Sàn nhà ở đây vẫn là sàn đất chưa được lót gạch hay tráng xi măng, giữa đêm hơi đất thốc lên khiến tôi lạnh cóng. Tiếng những con chuột hư hỏng chạy xung quanh giành nhau miếng xương còn sót trong hốc bàn cứ lích rích cả đêm. Mỗi sáng, ánh bình minh he hé rọi vào góc tôi nằm, soi rõ những con gián vô tình chạy lổn nhổn trên mặt trong lúc tôi ngủ say, đánh thức tôi bước vào một ngày mới.
Được hơn một tháng, đôi tay nhỏ bé với những ngón tay thon dài của tôi bắt đầu bị lở loét bởi nước xà phòng. Tôi không thể đeo găng tay bởi điều đó sẽ khiến cho tốc độ giảm đi và kiểu gì cũng phải lắng nghe những lời khá nặng nề từ bà chủ. Thỉnh thoảng nhớ mẹ, tôi lén lút sang nơi bà làm việc, thậm thụt đứng bên ngoài chờ cho người quản lý ra về để chạy vào ngủ với mẹ một đêm. Và cũng để được đưa tôi vào ngủ cùng, mẹ đã nhường luôn phần tiền thưởng doanh thu cuối ngày cho người làm cùng, mọi việc nặng nhọc đều tranh làm nhằm lấy lòng họ, để họ không báo lại với quản lý. Đôi tay mẹ cũng nổi lên những vết chai sần do cầm chổi, da tay bong tróc vì các loại nước tẩy rửa. Nhiều lần quỳ xuống nhặt những chiếc bao cao su đã được dùng và vứt lung tung trong phòng, mẹ đã bật khóc. Nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy hạnh phúc, dù chỉ là một đêm được ngủ cùng với nhau trên chiếc đệm mỏng nơi nhà kho.
Tôi luôn giấu mẹ những uất ức mà mình đã phải chịu đựng khi đi học. Là một nữ sinh tỉnh lẻ vào đất Sài thành rộng lớn để bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới, tôi thu mình lại, bơ vơ trước mọi thứ. Nhiều nam sinh trong và ngoài trường dành sự quan tâm đến tôi, nhưng tôi vẫn lặng lẽ đi, lặng lẽ về bởi tôi không có tâm trí cho việc gì khác. Những nữ sinh học cùng tôi lại cảm thấy chướng mắt với sự lầm lũi đó. Vài lần bị đón đường và nhận những cái tát tai vô cớ từ những nữ sinh có bè phái trong trường, tôi vẫn âm thầm chịu đựng không phản kháng. Chỉ một vài cái tát, tôi chịu được, không nên gây gổ vì tôi vẫn cần được đến trường. Vậy mà mọi chuyện không dừng lại ở đó, cuộc đời này có lẽ luôn muốn đẩy mọi thứ đi quá giới hạn để thử thách con người. Một buổi tan học, Thùy cùng một đám nữ sinh mặt đằng đằng sát khí lao đến túm tóc tôi, kéo xềnh xệch vào phòng vệ sinh nữ. Thùy học cùng lớp với tôi và là một đàn chị trong trường, ai cũng nể sợ. Trung tâm giáo dục thường xuyên luôn là ngôi trường đáng sợ với những đứa như tôi và Thùy đã cho tôi thấy nó đáng sợ đến như thế nào.
Dồn tôi vào chân tường, Thùy vung tay tát tôi liên tiếp nhiều cái rồi hất hàm: “Con đĩ! Mày dám gây sự chú ý với thằng Hùng bồ tao. Nó đòi bỏ tao rồi đó, mày vừa lòng chưa? Con đĩ lẳng lơ này, tao đánh cho mày chết!”
Nói dứt lời Thùy lao vào đấm đá tôi túi bụi, cả nhóm của Thùy cũng lao vào. Những cái tát vào mặt, những cú giật tóc đau điếng người, chúng đá vào ngực, vào bụng tôi, xen vào đó là tiếng nói văng
vẳng. “Đánh đi, đánh chết mẹ nó đi! Ma mới mà láo hả mày!”
Dù cố gắng thét lên rằng tôi không làm gì cả, tôi không biết Hùng nào cả nhưng chúng vẫn không buông tha cho tôi. Trong cơn say máu, Thùy lôi tôi đi một đoạn rồi đập đầu tôi vào bồn cầu, nhấn tôi vào đó. Tôi sặc sụa bởi thứ nước dơ bẩn kia còn chúng thì cười sằng sặc, vỗ tay ầm ĩ. Bất chợt, Thùy giật tung cúc áo dài của tôi, một đứa rú lên khoái trá rồi rút điện thoại ra chụp hình liên tục.
“Quay phim đi, quay phim đưa lên mạng đi tụi bây!”
Tai tôi ù đi, đầu óc quay cuồng, tay nắm chặt lại thành nắm đấm. Tôi chồm lên, vật Thùy xuống sàn, bị bất ngờ, Thùy thét lên một tiếng lạc giọng. Cả bọn lập tức xông vào giải vây. Mắt tôi long lên sòng sọc, nước mắt, nước mũi và cả nước dãi vẫn tèm lem khắp khuôn mặt, trông tôi có lẽ không khác một con chó dại là mấy! Túm lấy một đứa trong số đó, tôi giằng lấy chiếc điện thoại mà nó cầm trên tay để ghi hình, đập mạnh xuống đất. Chiếc điện thoại vỡ tan tành. Cả bọn bắt đầu hoảng sợ. Thùy lồm cồm bò dậy định túm tóc tôi nhưng bất ngờ tôi lại xoay người đạp cho Thùy một cú vào bụng, ngã dúi dụi về phía sau, bồi thêm một cú đá cho đứa đang muốn đập cái ghế nhựa lên đầu tôi. Cả bọn lùi lại, tám đôi mắt dán chặt vào tôi vừa đề phòng vừa ngạc nhiên tột cùng và pha lẫn sự sợ hãi. Nhặt chiếc thẻ nhớ điện thoại, vơ lấy cặp sách và mặc áo khoác vào người, tôi lừ mắt gằn từng tiếng: “Từ bây giờ, tao… đ**… nhịn… nữa!”
Tôi về và vẫn làm việc như bình thường nhưng tối hôm đó, tôi không sang tìm mẹ. Dường như có linh cảm nên mẹ sang đứng đợi tôi trước cửa, nhìn thấy mặt mũi, mình mẩy tôi thâm tím, sưng húp, bà khóc không thành tiếng.
Sau trận ẩu đả hôm đó, tôi nghỉ học. Tôi biết Thùy sẽ không tha cho tôi, nó có nhiều mối quan hệ quen biết với du đãng ngoài trường, tôi không muốn thêm rắc rối. Tìm một trường khác, tôi lại tiếp tục những ngày lầm lũi của mình.
Bằng mọi giá, tôi phải vào đại học.
Vài tháng sau, tiệm phở sang lại cho một người chủ khác mở quán cà phê và các loại đồ uống. Tôi vẫn ở lại làm việc cho chủ mới. Người chủ mới là một cô gái còn khá trẻ, luôn son phấn và ăn vận rất
"""