🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch Sử Tỉnh Hải Dương Tập II (Từ Năm 905 Đến Năm 1883) Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ NGỌC BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ThS. NGUYỄN THỊ THÚY ThS. VŨ QUANG HUY TRẦN PHAN BÍCH LIỄU Trình bày bìa: Chế bản vi tính: c sách m u: LÊ THU TRANG TRẦN NAM ANH NGUY N THÚY VIỆT HÀ Giấy đăng ký xuất bản số: -2022/CXBIPH/...-..../CTQG Quyết định xuất bản số: ....-QĐ/NXBCTQG, ngày .../.../2022. Mã số ISBN: 978-604-57- In xong và nộp lưu chiểu tháng 02 năm 2022. LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN Đồng chí PHẠM XUÂN THĂNG Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, Chủ tịch Hội đồng Đồng chí LÊ VĂN HIỆU Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Phó Chủ tịch Hội đồng Đồng chí TRIỆU THẾ HÙNG Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Phó Chủ tịch Hội đồng BAN CHỈ ĐẠO ĐỀ ÁN BIÊN SOẠN Đồng chí TRIỆU THẾ HÙNG Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Trưởng ban Đồng chí NGUYỄN MINH HÙNG Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Phó Trưởng ban Thường trực Đồng chí NGUYỄN THÀNH TRUNG Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Phó Trưởng ban Đồng chí NGUYỄN HỒNG SƠN Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Thành viên Đồng chí NGUYỄN QUANG PHÚC Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Thành viên Đồng chí NGUYỄN HUY THĂNG Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Thành viên Đồng chí NGUYỄN ĐỨC TUẤN Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Thành viên Đồng chí NGUYỄN THỊ VIỆT NGA Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh, Thành viên Đồng chí NGUYỄN TRỌNG HƯNG Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tài chính, Thành viên Đồng chí PHẠM MẠNH HÙNG Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Nội vụ, Thành viên Đồng chí NGUYỄN HẢI BÌNH Tỉnh ủy viên, Tổng Biên tập Báo Hải Dương, Giám đốc Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh, Thành viên Đồng chí LƯƠNG VĂN VIỆT Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo, Thành viên 4 4 Đồng chí LÊ HỒNG DIÊN Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, Thành viên Đồng chí TRƯƠNG VĂN HƠN Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, Thành viên Đồng chí TRẦN ANH TUẤN Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ, Thành viên Đồng chí VŨ ĐÌNH TIẾN Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thành viên Đồng chí NGUYỄN THỊ HUÊ Giám đốc Bảo tàng tỉnh, Thành viên HỘI ĐỒNG BIÊN SOẠN Đồng chí NGUYỄN THÀNH TRUNG Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chủ tịch Đồng chí VŨ ĐÌNH TIẾN Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Phó Chủ tịch Thường trực Đồng chí LÊ VĂN BẰNG Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Đồng chí LÊ LƯƠNG THỊNH Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ, Thành viên Đồng chí TĂNG BÁ HOÀNH Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử tỉnh, Thành viên Đồng chí VŨ TRƯỜNG SƠN Trưởng phòng Quản lý Di sản văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thành viên Đồng chí NGUYỄN THỊ HUÊ Giám đốc Bảo tàng tỉnh, Thành viên kiêm Thư ký BAN BIÊN SOẠN TẬP II PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC NHUỆ Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Chủ biên TS. LÊ QUANG CHẮN Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Thành viên TS. NGÔ VŨ HẢI HẰNG Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Thành viên TS. NGUYỄN KHẮC MINH Nguyên Giám đốc Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc tỉnh Hải Dương, Thành viên TS. LÊ THÙY LINH Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Thành viên 5 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) TS. NGUYỄN VĂN BẢO Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Thành viên ThS. VŨ ĐÌNH TIẾN Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương, Thành viên ThS. NGUYỄN THỊ HUÊ Bảo tàng tỉnh Hải Dương, Thành viên ThS. PHẠM THỊ QUẾ LIÊN Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Thành viên ThS. VŨ TRƯỜNG SƠN Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương, Thành viên ThS. BÙI VĂN ĐẠT Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương, Thành viên ThS. BÙI VĂN HUỲNH Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Thành viên ThS. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Thành viên ThS. LÊ THỊ BÉ Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc tỉnh Hải Dương, Thành viên HIỆU ĐÍNH BẢN THẢO: HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG 6 6 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Hải Dương thuộc vùng đất cổ ở đồng bằng sông Hồng - một trong những cái nôi của nền văn minh sông Hồng. Đây là vùng đất tiếp giáp từ kinh đô Thăng Long - trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước, kéo dài tới bờ Biển Đông. Chính vì vậy, văn minh sông Hồng, văn hóa Thăng Long đã trực tiếp tác động và kết tinh nên nhiều thành tựu rực rỡ trên mảnh đất này. Án ngữ vị trí trọng yếu trên các tuyến huyết mạch cả đường bộ, đường thủy và đường sắt, nối liền với các tỉnh và thành phố trong khu vực, tỉnh Hải Dương có điều kiện địa lý và tự nhiên tương đối thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Là vùng “địa linh nhân kiệt” nên Xứ Đông - Hải Dương không chỉ là nơi sinh ra nhiều danh nhân mà còn là nơi thu hút, quy tụ được nhiều nhân tài lỗi lạc khắp bốn phương về đây lập nghiệp. Không phải ngẫu nhiên mà Lê Đại Hành lại chọn núi rừng An Lạc (nay thuộc thành phố Chí Linh) để đóng đại bản doanh chỉ huy trận Bạch Đằng lịch sử đánh tan quân Tống năm 981, bảo vệ nền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam. Hải Dương có đền Kiếp Bạc là nơi xưa kia được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chọn làm trung tâm chỉ huy của phòng tuyến quân sự vùng Đông Bắc, kéo dài từ biên giới Lạng Sơn ra Biển Đông, nhằm tạo thế trận đánh thắng giặc Mông - Nguyên lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1288; có danh thắng Côn Sơn không chỉ là quê cha đất tổ mà còn là nơi người anh hùng, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi gắn bó những năm tháng tuổi thơ, đồng thời cũng là nơi ông về trí sĩ, dựng nhà, mài mực, viết nên những tác phẩm có giá trị to lớn về sử học, văn học, triết học, quân sự, ngoại giao và trở thành những di sản quý báu lưu truyền hậu thế; có núi 7 7 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Phượng Hoàng, nơi “Vạn thế sư biểu” Chu Văn An về ở ẩn, dạy học và sau này nhân dân đã dựng đền thờ ông ở đây. Đó đều là những nhân vật lịch sử vĩ đại của dân tộc, đã gắn bó máu thịt với mảnh đất Hải Dương. Cuộc đời, sự nghiệp của các danh nhân cùng quá trình lao động sáng tạo của nhân dân qua nhiều thế hệ đã làm cho Hải Dương trở thành “đất học”, “đất danh hương”, “đất văn hiến”, với nhiều truyền thống quý báu, với một kho tàng văn hóa phong phú, đa dạng và độc đáo. Đó là một khối lượng lớn văn hóa vật thể và phi vật thể giá trị, với hàng ngàn di tích lịch sử, hàng trăm làng nghề lâu đời, nhiều sản phẩm văn hóa ẩm thực và lễ hội truyền thống đặc sắc, nhiều sinh hoạt văn nghệ dân gian nổi tiếng như hát chèo, hát đối, hát trống quân và rất nhiều bài ca dao, dân ca làm say đắm lòng người. Lịch sử Hải Dương luôn gắn liền với lịch sử dân tộc và có những đóng góp quan trọng, nổi bật trong suốt những bước thăng trầm của công cuộc dựng nước, giữ nước, bảo vệ đất nước. Con người Hải Dương dũng cảm, kiên cường, bản lĩnh và sáng tạo, thường tiên phong và lập nên nhiều chiến công hiển hách trong các cuộc kháng chiến chống xâm lăng, cũng như những thành tựu to lớn trong quá trình xây dựng và phát triển quê hương, đất nước. Ngay từ xưa, Hải Dương đã được đánh giá là “phên giậu” phía đông bảo vệ kinh thành Thăng Long trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc của lịch sử Việt Nam thời trung đại. Trong lịch sử hiện đại, Hải Dương là nơi phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ, là địa bàn đứng chân của nhiều tổ chức cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, là một trong những địa phương giành thắng lợi và giành chính quyền sớm nhất cả nước trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng thời nổi tiếng với “Sấm đường 5”, “Ba sẵn sàng”, “Cô du kích Lai Vu” và những đóng góp xứng đáng về sức người, sức của trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là từ khi tái lập tỉnh đến nay, Hải Dương không ngừng nỗ lực phát huy truyền thống của quê hương và đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu vươn lên trở thành một trong những tỉnh công nghiệp hàng đầu cả nước. Nhằm lưu giữ và giới thiệu những giá trị lịch sử về vùng đất và con người Hải Dương, đồng thời góp phần giáo dục truyền thống lịch sử, nâng cao lòng tự hào về quê hương, đất nước, động viên cán bộ và nhân dân toàn tỉnh, đặc biệt là thế hệ trẻ ra sức học tập, công tác, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới, 8 8 Lời Nhà xuất bản Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản bộ sách Lịch sử tỉnh Hải Dương, gồm 4 tập: Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập I (từ khởi thủy đến năm 905), do TS. Lê Đình Phụng và PGS.TS. Lại Văn Tới đồng chủ biên, dựng lại một chặng đường dài lịch sử trên vùng đất Hải Dương, từ buổi đầu dựng nước đến đầu thế kỷ X (năm 905), với sự xuất hiện của con người, hình thành nền văn minh dựng nước, chịu ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc và các cuộc đấu tranh kiên cường chống Bắc thuộc. Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập II (từ năm 905 đến năm 1883), do PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ chủ biên, dựng lại lịch sử Hải Dương suốt 9 thế kỷ trong thời kỳ trung đại kể từ sự kiện Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ đến khi thực dân Pháp đánh chiếm thành Hải Dương lần thứ hai ngày 19/8/1883. Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập III (từ năm 1883 đến năm 1945), do GS.TS. Nguyễn Văn Khánh và GS.TS. Phạm Hồng Tung đồng chủ biên, dựng lại lịch sử Hải Dương từ sau khi bị thực dân Pháp xâm lược và quá trình nhân dân Hải Dương đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng đến khi giành chính quyền thành công trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập IV (từ năm 1945 đến năm 2015), do PGS.TS. Nguyễn Văn Nhật chủ biên, dựng lại quá trình nhân dân Hải Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng nhân dân cả nước kinh qua 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy hy sinh và gian khổ (1954 - 1975), 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau chiến tranh trong cơ chế cũ với nhiều khó khăn và thách thức (1975 - 1985), từ năm 1986 đến năm 2015 là thời kỳ tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để bạn đọc tiện theo dõi, ở mỗi tập của bộ sách, chúng tôi đều trình bày Lời Nhà xuất bản, Lời giới thiệu của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy và Lời nói đầu của Ban Biên soạn từng tập. Riêng tập IV có phần Tổng luận bộ sách, khái quát lại toàn bộ tiến trình lịch sử hào hùng của vùng đất Xứ Đông - Hải Dương. Bộ sách là kết quả của sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, khoa học của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh 9 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Hải Dương; quá trình làm việc khẩn trương, công phu, nghiêm túc, trách nhiệm của tập thể nhóm nghiên cứu, biên soạn và sự phối hợp chặt chẽ của các cấp ủy địa phương; sự cộng tác, giúp đỡ nhiệt tình của các nhà khoa học, các chuyên gia hàng đầu đã có những đóng góp quý báu để hoàn thành bộ sách. Lịch sử tỉnh Hải Dương là một bộ sách quý, có giá trị lớn, với khối lượng thông tin, kiến thức đồ sộ, nên mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn, biên tập và xuất bản, song bộ sách khó tránh khỏi những sơ suất, thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của độc giả trong và ngoài tỉnh Hải Dương để bộ sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu bộ sách cùng bạn đọc. Tháng 12 năm 2021 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 10 10 LỜI GIỚI THIỆU Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước trải hàng nghìn năm của dân tộc ta, mảnh đất, con người Xứ Đông - Hải Dương đã có nhiều cống hiến to lớn và giữ vị trí quan trọng. Đây là vùng đất có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống văn hóa và cách mạng, là một trong những cái nôi của nền văn minh sông Hồng, của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trải qua hành trình dựng nước và giữ nước, cộng đồng cư dân nơi đây đã chung sức đồng lòng để chinh phục tự nhiên, tổ chức xã hội, lao động sản xuất và đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước, góp phần xứng đáng viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Là một bộ phận không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam thân yêu, Hải Dương vừa mang những đặc điểm chung, vừa tạo được cho mình một bản sắc Xứ Đông độc đáo, góp phần làm phong phú, sinh động thêm truyền thống dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, Hải Dương vẫn chưa có một bộ thông sử xứng tầm với vị thế của tỉnh trong lịch sử dân tộc. Chính vì thế, ngày 06/8/2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương đã ban hành Quyết định số 2028/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án biên soạn Lịch sử tỉnh Hải Dương (từ khởi thủy đến năm 2015). Theo đó, từ năm 2015, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hải Dương, việc nghiên cứu, biên soạn bộ lịch sử được triển khai thực hiện. Tham gia biên soạn công trình có các nhà nghiên cứu thuộc các cơ quan như: Viện Sử học, Viện Khảo cổ học, Viện Nghiên cứu Kinh thành (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam); Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội); Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh); Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hải Dương; 11 11 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương và Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Hải Dương. Với tinh thần làm việc khoa học, đồng thuận và ý thức trách nhiệm cao, các tác giả đã dày công sưu tầm, khai thác, khảo cứu tài liệu ở địa phương và các kho lưu trữ, thư viện ở Trung ương nhằm bổ sung nguồn tài liệu mới, có giá trị khoa học. Ngoài ra, nhóm tác giả kế thừa có chọn lọc những thành quả của các công trình nghiên cứu về Hải Dương đã được công bố ở trong nước và nước ngoài. Bộ Lịch sử tỉnh Hải Dương gồm 4 tập, với mong muốn tái hiện quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của con người Xứ Đông trên vùng đất Hải Dương; bước đầu tổng kết và rút ra những bài học lịch sử, giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước, đoàn kết đấu tranh, anh hùng bất khuất trong chiến đấu, chịu khó, cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động của người dân Hải Dương nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập I (từ khởi thủy đến năm 905) do TS. Lê Đình Phụng và PGS.TS. Lại Văn Tới đồng chủ biên, có sự tham gia biên soạn của các nhà khoa học thuộc Viện Khảo cổ học, Viện Nghiên cứu Kinh thành, Viện Sử học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các nhà nghiên cứu của tỉnh Hải Dương. Tập I tái dựng chặng đường dài lịch sử, từ buổi bình minh dựng nước đến đầu thế kỷ X (năm 905), một thời kỳ lịch sử giữ vị trí quan trọng là tầng nền trên vùng đất Hải Dương, được coi là tiền đề, động lực cho các thời kỳ lịch sử tiếp theo. Với những điều kiện thuận lợi về tự nhiên, vùng đất Hải Dương là một trong những cái nôi sinh sống của con người từ thời tiền sử mà dấu vết để lại tại hang Thánh Hóa, núi Nhẫm Dương (nay thuộc phường Duy Tân, thị xã Kinh Môn). Theo dòng chảy chung của lịch sử dân tộc, trên vùng đất Hải Dương đã xuất hiện các cộng đồng cư trú cùng xây dựng cuộc sống, tổ chức xã hội, hình thành nên bản sắc văn hóa, là một trong những hạt nhân có mặt từ buổi đầu dựng nước dưới chính thể của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Sau thời đại Văn Lang - Âu Lạc, cùng chung số phận dân tộc, Hải Dương bước vào thời kỳ chịu sự đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc. Với tinh thần bất khuất, khát vọng độc lập, người Hải Dương đã tham gia tích cực và có những đóng góp quan trọng vào các cuộc nổi dậy giành độc lập dân tộc dưới thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, khởi nghĩa Lý Bí và công cuộc xây dựng Nhà nước 12 12 Lời giới thiệu Vạn Xuân,... Truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất, ý thức độc lập dân tộc được gìn giữ, bồi đắp trong hơn nghìn năm chống Bắc thuộc đã được người dân Hải Dương phát huy trong những thời kỳ tiếp theo, làm nên tính cách điển hình “chuộng nghĩa, giữ tiết... hăng hái việc công”. Trong đêm trường Bắc thuộc, vượt qua muôn vàn khó khăn khắc nghiệt, người Hải Dương từng bước xây dựng quê hương ngày càng phát triển trên nhiều lĩnh vực. Với tri thức kinh nghiệm kế thừa từ các thế hệ dựng nước, việc khai phá đất đai, khai hoang, khẩn hóa đã hình thành nền sản xuất nông nghiệp truyền thống. Cùng với nông nghiệp là sự tiếp thu, chọn lọc những kỹ thuật sản xuất, nghề sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ bên cạnh những nghề thủ công truyền thống như dệt vải, đúc kim loại, tạo nên nhiều loại vật dụng phong phú phục vụ cuộc sống. Là một bộ phận trong lịch sử dân tộc, từ khởi thủy con người sinh sống trên địa bàn Hải Dương đã góp phần xây dựng nên bản sắc văn hóa dân tộc. Những phong tục, tập quán sinh hoạt xã hội phù hợp với quan niệm, nhận thức của cộng đồng xuất hiện, hình thành những tín ngưỡng, nghi lễ như tục thờ cúng hiện tượng tự nhiên (thần đất, thần sông, thần núi, thần cây...) hay tục thờ cúng tổ tiên, nghi lễ hôn nhân cưới hỏi, tang ma..., tạo nên nền tảng văn hóa, tư tưởng vững chắc trong các cộng đồng chống lại chính sách đồng hóa của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Trong thời kỳ nghìn năm bị đô hộ, đồng hóa, Hải Dương là nơi đã tiếp thu và dung dưỡng Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo hội nhập với truyền thống văn hóa bản địa góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của cộng đồng. Những điều kiện kinh tế, văn hóa cùng tinh thần độc lập dân tộc đã hun đúc, tôi rèn bản lĩnh, nhân cách con người Xứ Đông, làm tiền đề để sau này tham gia vào quá trình giành độc lập và phục hưng văn hóa dân tộc trong những thời kỳ lịch sử tiếp theo của dân tộc. Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập II (từ năm 905 đến năm 1883) do PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ chủ biên. Tham gia biên soạn tập II là các nhà nghiên cứu của Viện Sử học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và các nhà nghiên cứu của tỉnh Hải Dương. Tập II được bắt đầu từ năm 905 gắn với sự kiện hào trưởng đất Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ lãnh đạo nhân dân đứng lên giành quyền tự chủ từ chính quyền đô hộ nhà Đường. Dấu mốc năm 905 được coi là khởi đầu cho lịch sử Việt Nam thời trung đại, tạo cơ sở và nền móng cho Ngô Vương Quyền xây dựng nền độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc Việt Nam 13 13 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) sau đại thắng Bạch Đằng đánh tan quân xâm lược Nam Hán cuối năm Mậu Tuất (năm 938). Tập II cũng tạm kết vào năm 1883, gắn với sự kiện thực dân Pháp đánh chiếm thành Hải Dương lần thứ hai vào ngày 19/8/1883. Trong hơn chín thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, sự hưng vong, thịnh suy của các triều đại quân chủ, nhưng quốc gia Đại Cồ Việt, Đại Việt, Việt Nam đến Đại Nam vẫn trường tồn và ngày càng phát triển, cương vực ngày càng mở rộng, khẳng định vị thế của một cường quốc trong khu vực. Trong tiến trình lịch sử ấy, nhân dân Hải Dương đã có những cống hiến xuất sắc trên nhiều lĩnh vực, góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, tự chủ. Ngay từ buổi đầu của nền độc lập, tự chủ, người dân Hải Dương đã tích cực tham gia vào cuộc tấn công phủ Tống Bình (thời họ Khúc, họ Dương); đóng góp sức người, sức của làm nên đại thắng Bạch Đằng năm Mậu Tuất (năm 938) do Ngô Quyền lãnh đạo. Miền đất Hải Dương từng là đại bản doanh, là cơ sở hậu cần quan trọng của Lê Hoàn trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (năm Tân Tỵ, 981). Thời Lý - Trần, Hải Dương là phên giậu, là bức bình phong che chở cho kinh đô Thăng Long. Đặc biệt, trong thế kỷ XIII, Hải Dương vừa là chiến tuyến, vừa là hậu phương của cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên. Đầu thế kỷ XV, quốc gia Đại Việt chuyển sang một giai đoạn bi hùng với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh. Cùng với nhân dân cả nước, người dân Hải Dương đã vùng lên tranh đấu với hàng loạt cuộc khởi nghĩa nổ ra trên địa bàn Xứ Đông. Những địa danh, danh nhân tiêu biểu còn lưu lại trên đất Hải Dương ngày nay là minh chứng sống động về những cống hiến xuất sắc của người dân Hải Dương trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, bảo vệ giang sơn. Duy trì và tiếp nối dòng chảy văn hóa từ giai đoạn trước, trong thời kỳ phong kiến độc lập, tự chủ, bên cạnh các sinh hoạt tín ngưỡng đậm đà bản sắc quê hương, sự phát triển của Nho, Phật, Đạo đã làm phong phú thêm đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân địa phương. Nhiều ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý - Trần và tiếp tục được trùng tu, tôn tạo mở rộng ở các triều đại sau đã khẳng định đời sống tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng Phật giáo) của người Hải Dương rất phong phú, xứng đáng được coi là trung tâm của văn hóa Phật giáo Xứ Đông. Thiền phái Trúc Lâm ra đời từ thời Trần với người sáng lập là Phật hoàng Trần Nhân Tông đã chọn non thiêng Yên Tử (Đông Triều, 14 14 Lời giới thiệu Quảng Ninh) làm chốn Tổ. Sự tồn tại bền vững của hệ thống chùa chiền trên đất Hải Dương cho thấy rõ nét, đầy đủ tính hướng thiện, hướng đến chân, thiện, mỹ của người dân Xứ Đông trong trường kỳ lịch sử. Hệ tư tưởng Nho giáo ưu trội từ thế kỷ XV (từ thời Lê sơ) đã tạo điều kiện cho hàng loạt cơ sở tôn giáo thờ Khổng Tử ra đời ở các địa phương Hải Dương, đó là hệ thống văn miếu, văn chỉ, văn từ. Cùng với hệ thống này, giáo dục Nho học ở các làng xã cũng được thổi vào một luồng gió mới. Từ triều Lý, trải qua các triều đại Trần - Hồ đến Lê sơ và về sau, giáo dục Nho học ở Hải Dương đặc biệt phát triển và đã tạo nên một đội ngũ quan lại Nho học rất đông đảo, bổ sung cho bộ máy quan lại ở trung ương và địa phương. Những gương mặt danh nho tiêu biểu đã trở thành trụ cột, lương đống của triều đình qua các thời đại. Họ không chỉ là những chính trị gia xuất sắc, những sứ thần lỗi lạc, nhà giáo dục đạo cao đức trọng mà còn là những tác gia lớn, là tinh hoa văn hóa dân tộc. Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập III (từ năm 1883 đến năm 1945) do GS.TS. Nguyễn Văn Khánh và GS.TS. Phạm Hồng Tung đồng chủ biên, với sự tham gia của các nhà khoa học thuộc Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội); Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh); Viện Sử học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và các nhà nghiên cứu của tỉnh Hải Dương. Dấu mốc khởi đầu của lịch sử cận đại Hải Dương gắn với sự kiện thực dân Pháp nổ súng tấn công và chiếm thành Hải Dương vào giữa tháng 8/1883. Cũng từ đây, thực dân Pháp bắt đầu quá trình thiết lập bộ máy thống trị ở Hải Dương cũng như toàn xứ Bắc Kỳ. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Hải Dương bắt đầu cuộc hành trình đầy gian khổ, nhưng cũng hết sức vẻ vang - hành trình đấu tranh tự giải phóng mình khỏi ách áp bức dân tộc và áp bức xã hội. Từ đầu thập niên 70 thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã đưa quân ra xâm lược các tỉnh Bắc Kỳ. Hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi (tháng 7/1885), phong trào vũ trang kháng Pháp lại bùng nổ mạnh mẽ trên khắp cả nước. Dưới sự lãnh đạo của các vị thủ lĩnh như Nguyễn Thiện Thuật và Nguyễn Đức Tiết (Đốc Tít), nhân dân Hải Dương kiên cường đứng lên chống giặc, nhưng cuối cùng vẫn bị thất bại. Hải Dương thời cận đại đã diễn ra những biến đổi căn bản trên tất cả các lĩnh vực, từ sự thay đổi về chính trị, hành chính, địa giới đến những chuyển 15 15 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) biến về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, nghệ thuật, tín ngưỡng, tôn giáo... Đó là những chuyển biến từ hình thức bên ngoài đến cấu trúc bên trong, đặt trong mối liên hệ đa chiều với những chuyển biến chung của lịch sử dân tộc. Nhìn toàn cảnh, Hải Dương thời kỳ này vẫn là một tỉnh nông nghiệp - nông thôn - nông dân điển hình của châu thổ Bắc Kỳ. Các cơ sở công nghiệp trong tỉnh đều tương đối nhỏ bé, chủ yếu là công nghiệp chế biến với quy mô nhỏ và trình độ kỹ nghệ khá lạc hậu. Khu vực thành thị cũng khá nhỏ hẹp cả về quy mô và mức độ ảnh hưởng. Các khu vực nông thôn cơ bản vẫn là nông thôn - làng xã đậm tính truyền thống. Chính quyền thuộc địa nhiều lần tìm cách can thiệp sâu vào các vùng nông thôn ở Hải Dương thông qua cải lương hương chính và một số chính sách khác nhưng không làm đổi thay được bao nhiêu. Ở vùng nông thôn, sau các lũy tre và cổng làng, thế lực cường hào và các hủ tục vẫn ngự trị và thao túng các làng xã, thống trị dân nghèo. Dưới tác động của nhiều yếu tố chính trị, kinh tế... dưới thời Pháp thuộc, số lượng người dân Hải Dương ly hương khá đông đảo, bao gồm cả di cư dài hạn và di cư mùa vụ. Hàng vạn nông dân làng xã đã tìm đến các hầm mỏ, nhà máy ở vùng Đông Bắc, thậm chí đến cả các đồn điền xa xôi ở Nam Kỳ, Campuchia hoặc Tân Thế giới, để tìm kiếm không chỉ miếng cơm manh áo mà cả cơ hội đổi đời. Không cam chịu cuộc đời nô lệ, nhân dân Hải Dương liên tục đứng lên chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, giải phóng quê hương, giành lại độc lập dân tộc. Các cuộc đấu tranh này hết sức phong phú về nội dung, về định hướng chính trị và đa dạng về quy mô và hình thức tổ chức, đồng thời chúng không bao giờ tách biệt, mà trái lại, luôn ở trong mối quan hệ khăng khít, gắn bó với cuộc đấu tranh giải phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc từ đầu thế kỷ XX đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhiều người con ưu tú của Hải Dương đã có những đóng góp nổi bật vào các cuộc vận động yêu nước, tiến bộ và cách mạng, như phong trào Đông du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân, đến các phong trào cải cách xã hội, phong trào nữ quyền, cách mạng văn chương, truyền bá chữ Quốc ngữ..., hay trực tiếp tham gia khởi nghĩa vũ trang của Việt Nam Quốc dân Đảng và dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng theo khuynh hướng cách mạng vô sản, tiêu biểu là Nguyễn Lương Bằng, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Hới, Nguyễn Phương Thảo (Nguyễn Bình)... 16 16 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Lời giới thiệu Tháng 8/1945, theo lời kêu gọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Hải Dương đã nhất tề nổi dậy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”1. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố Hải Dương và phần lớn các huyện trong tỉnh đều đã diễn ra nhanh gọn, ít đổ máu. Với thắng lợi to lớn của Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc, ngày 02/9/1945, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt quốc dân đồng bào trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập và công bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”2. Đây cũng là dấu mốc kết thúc thời kỳ cận đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam cũng như lịch sử tất cả các địa phương trên cả nước, trong đó có tỉnh Hải Dương. Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập IV (từ năm 1945 đến năm 2015) do PGS.TS. Nguyễn Văn Nhật chủ biên, với sự tham gia biên soạn của các nhà nghiên cứu thuộc Viện Sử học, Học viện Khoa học xã hội (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và các nhà nghiên cứu của tỉnh Hải Dương. Tập IV được mở đầu bằng sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) ngày 02/9/1945, tuyên bố về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tạm dừng ở năm 2015. Nội dung tập IV đã dựng lại một cách khách quan, toàn diện và có hệ thống quá trình lịch sử 70 năm của Hải Dương (1945 - 2015), qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và quá trình thực hiện đường lối đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, ngày 02/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do cho đất nước và nhân dân Việt Nam. Trong những năm đầu mới được thành lập, nhà nước non trẻ đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng lúc phải đối phó với ba thứ giặc: “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm, nhân dân Hải Dương cùng nhân dân cả nước đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đấu tranh chống các thế lực phản động, bảo vệ chính quyền cách mạng, thực hiện thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.596. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3. 17 17 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) các cấp, thành lập đảng bộ và chính quyền địa phương, tích cực tham gia sản xuất, ổn định đời sống nhân dân. Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Hải Dương đã anh dũng đứng lên dựng làng chiến đấu, đẩy mạnh sản xuất, đảm bảo đời sống nhân dân. Trên lĩnh vực quân sự, quân và dân Hải Dương tích cực xây dựng căn cứ kháng chiến, khu du kích vững chắc, xây dựng tiềm lực về mọi mặt, vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng kháng chiến lâu dài. Chiến thắng của quân và dân Hải Dương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp có ý nghĩa quan trọng đối với cả nước, góp phần vào các chiến thắng Đường 5, Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Chiến dịch Quang Trung, Chiến dịch Điện Biên Phủ... giải phóng miền Bắc vào năm 1954. Sau khi hòa bình lập lại, là địa phương chịu nhiều thiệt hại bởi chiến tranh, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, song quán triệt sâu sắc yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước đặt ra, nhân dân Hải Dương đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội (1954 - 1960), cùng với nhân dân miền Bắc thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Từ năm 1965, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong 10 năm xây dựng quê hương trong điều kiện đất nước vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh (1965 - 1975), nhân dân Hải Dương đã vượt qua khó khăn, thử thách, lao động sáng tạo, hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo đời sống của nhân dân; đảm bảo giao thông vận tải, góp phần đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất đất nước. Sau năm 1975, cách mạng Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới. Nhân dân Hải Dương vượt qua khó khăn, thử thách trong những năm đầu đất nước thống nhất, vừa tham gia các cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc, vừa lao động, sản xuất phục hồi kinh tế - xã hội sau chiến tranh. Từ năm 1986, khi cả nước thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Hải Dương đã đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân, lập được những thành tựu đáng tự hào. Từ năm 1996, đất nước bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và năm 1997 tỉnh Hải Dương chính thức được tái lập, mở ra 18 18 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Lời giới thiệu thời kỳ mới cho Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Ngay sau khi tái lập, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương từng bước xây dựng và ổn định hệ thống chính quyền địa phương, xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống, khẩn trương triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra. Tuy con đường đổi mới còn nhiều khó khăn, thách thức, song với truyền thống lao động cần cù và sáng tạo, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương hăng hái đi đầu trong việc triển khai các chủ trương, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước, làm cho diện mạo kinh tế - xã hội của Hải Dương có những thay đổi rõ rệt. Đến nay, Hải Dương không những phát triển toàn diện, mà còn có nhiều điểm sáng đột phá, góp phần cùng cả nước thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống, với hoài bão, ý chí và khát vọng vươn lên, người dân Hải Dương đang từng ngày, từng giờ nỗ lực phấn đấu xây dựng quê hương - miền quê văn hiến, yên bình và mạnh giàu - trong lòng Tổ quốc Việt Nam. Bộ sách Lịch sử tỉnh Hải Dương được phát hành, sẽ góp phần cung cấp cho các thế hệ người dân Hải Dương những hiểu biết về lịch sử hình thành và phát triển, truyền thống tốt đẹp của quê hương. Từ đó, khơi dậy niềm tự hào, giáo dục truyền thống và ý thức trách nhiệm của mỗi người trong công cuộc xây dựng và phát triển tỉnh Hải Dương ngày càng giàu mạnh. Bộ sách cũng là nguồn tài liệu tra cứu hữu ích cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử địa phương. Để có được công trình nghiên cứu giá trị Lịch sử tỉnh Hải Dương hôm nay, trước hết thay mặt lãnh đạo tỉnh Hải Dương, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới các đồng chí nguyên là lãnh đạo Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hải Dương, nhiệm kỳ 2015 - 2020, đặc biệt là đồng chí Nguyễn Mạnh Hiển, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh; đồng chí Nguyễn Dương Thái, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh... đã luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao, tạo mọi điều kiện thuận lợi để triển khai thực hiện; sự tham gia cung cấp tư liệu, đóng góp ý kiến nhiệt tình, trách nhiệm của các sở, ban, ngành, đoàn thể và các tổ chức, cá nhân có liên quan, trong đó Hội Khoa học lịch sử tỉnh đã tham gia đọc và hiệu đính lần cuối trước khi 19 19 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) xuất bản. Đặc biệt là sự nỗ lực, nhiệt huyết, tinh thần làm việc trách nhiệm, khoa học, nghiêm túc của các chủ biên và các thành viên tham gia nghiên cứu, biên soạn bộ sách. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác sưu tầm tài liệu và biên soạn, song do tái hiện quá trình lịch sử từ khởi thủy, nên nội dung cuốn sách khó tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được những góp ý của quý độc giả để công trình được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Hải Dương, tháng 9 năm 2021 ỦY VIÊN BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM BÍ THƯ TỈNH ỦY - CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH Phạm Xuân Thăng 20 20 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... LỜI NÓI ĐẦU TẬP II Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập II được bắt đầu từ năm 905 gắn với sự kiện hào trưởng đất Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ đứng lên giành quyền tự chủ từ chính quyền đô hộ nhà Đường. Hiện nay, trong giới sử học có nhiều ý kiến lấy dấu mốc năm 905 được coi là khởi đầu cho lịch sử Việt Nam thời Trung đại. Trong Đề án biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam (gồm 30 tập, trong đó có 25 tập Lịch sử và 5 tập Biên niên sự kiện lịch sử) do GS. Phan Huy Lê làm Tổng Chủ biên cũng xác định năm 905 mở ra một thời kỳ độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc Việt Nam. Do đó, tập III của bộ sách gồm 25 tập bắt đầu với sự kiện nêu trên. Đối với Hải Dương, sự kiện Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ càng có ý nghĩa to lớn vì theo nhiều nguồn tài liệu (thư tịch, dân gian...) đến nay phần lớn các nhà sử học đã xác định quê hương của Khúc Thừa Dụ ở Hồng Châu, địa bàn thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay, hay cụ thể hơn là ở Cúc Bồ, nay thuộc xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo... không chỉ là niềm tự hào của Hải Dương - Xứ Đông mà còn là niềm tự hào chung của cả nước. Mốc thời gian kết thúc của Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập II là năm 1883. Theo phân kỳ truyền thống trước đây của lịch sử Việt Nam nói chung thì giai đoạn kết thúc của thời kỳ Trung đại là năm 1858. Tuy nhiên, một số quan điểm mới gần đây cho rằng, phải đến Hiệp ước Giáp Thân (Hiệp ước Patơnốt, ngày 06/6/1884) ký giữa triều đình Huế với Pháp thì toàn bộ Việt Nam mới thực sự chịu quyền bảo hộ của người Pháp, và từ đây chấm dứt thời kỳ độc lập, tự chủ của triều Nguyễn. Do đó, lấy mốc năm 1884 là thời điểm kết thúc thời kỳ lịch sử Trung đại và cũng là mốc mở đầu thời kỳ lịch sử cận đại Việt Nam. 21 21 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Đối với Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập II kết thúc vào năm 1883, gắn với sự kiện thực dân Pháp đánh chiếm thành Hải Dương lần thứ hai vào ngày 10 tháng Bảy năm Quý Mùi, tức ngày 19/8/1883. Từ đây, Hải Dương cũng như toàn bộ Bắc Kỳ chịu sự bảo hộ của thực dân Pháp sau Hiệp ước Giáp Thân (1884). Nghiên cứu lịch sử địa phương là một nghiên cứu cụ thể, do đó nguyên tắc lịch sử, cụ thể, toàn diện, toàn bộ được quán triệt xuyên suốt công trình. Trải qua tiến trình lịch sử kéo dài gần chín thế kỷ, miền đất Hải Dương ngày nay có nhiều lần biến cải danh xưng và cương vực. Đối với danh xưng thì miền đất này từng được gọi với nhiều tên khác nhau nhưng danh xưng Hải Dương được duy trì khá bền vững từ thế kỷ XV về sau. Về cấp hành chính, địa bàn Hải Dương cũng thay đổi tên gọi thường xuyên, có khi là đạo, lộ, giang, châu, thừa tuyên, xứ, trấn, đến năm Tân Mão, niên hiệu Minh Mệnh thứ 12 (1831), triều đình nhà Nguyễn đổi là tỉnh Hải Dương, biệt danh là tỉnh Đông. Về địa dư, Hải Dương thường xuyên có sự điều chỉnh qua các triều đại lịch sử (tách, nhập, điều chỉnh địa giới phủ, huyện, thậm chí đến cấp xã). Thực tế lịch sử cho biết, trong các thế kỷ trước, địa bàn trấn (tỉnh) Hải Dương rất rộng, bao gồm căn bản vùng đất tỉnh Hải Dương ngày nay, một phần địa bàn tỉnh Hưng Yên, trên 90% thành phố Hải Phòng, một phần địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Do đó, với nguyên tắc lịch sử, cụ thể trong quá trình biên soạn, chúng tôi không khu biệt địa bàn nghiên cứu là tỉnh Hải Dương hiện tại mà trình bày cả những sự kiện đã từng diễn ra trên địa bàn của Hải Phòng, Hưng Yên, Quảng Ninh... ngày nay mà đương thời thuộc về trấn (tỉnh) Hải Dương. Các nhân vật lịch sử cũng vậy, chúng tôi đặt nhân vật trong bối cảnh lịch sử cụ thể để trình bày, có như vậy mới đảm bảo tính khách quan, khoa học của công trình. Ví dụ, toàn bộ hoạt động của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm diễn ra trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XV đến gần trọn thế kỷ XVI, khi ấy huyện Vĩnh Bảo (thành phố Hải Phòng ngày nay) là một phần của huyện Vĩnh Lại 22 22 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Lời nói đầu tập II và một phần của huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương, do đó trong Lịch sử tỉnh Hải Dương, tập II trình bày về nhân vật này là hoàn toàn hợp lý và phù hợp. Ngoài ra, còn rất nhiều sự kiện, nhân vật cũng ở trong tình trạng tương tự. Trên đây là đôi lời phi lộ cùng quý độc giả. T/M BAN BIÊN SOẠN Chủ biên PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC NHUỆ 23 23 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Chương I HẢI DƯƠNG THỜI HỌ KHÚC, NGÔ, ĐINH, TIỀN LÊ (905 - 1009) 24 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... I- TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI 1. Diên cách hành chính Dưới thời Bắc thuộc, chính quyền đô hộ chia nước ta thành các quận, huyện để tổ chức cai trị. Đến thời Đường, khu vực từ miền Nam Trung Quốc trở vào đến Đèo Ngang được đặt làm An Nam đô hộ phủ. Cuối đời Đường, An Nam đô hộ phủ quản lĩnh 12 châu và một số châu kimi ở khu vực miền núi. Trong số 12 châu này, có 4 châu thuộc đất miền Nam Trung Quốc và 8 châu thuộc lãnh thổ nước ta từ miền Bắc vào đến Đèo Ngang1. Trị sở của An Nam đô hộ phủ thời Đường đặt ở Giao Châu, trên khu vực thuộc địa bàn Hà Nội ngày nay. Dưới thời thuộc Đường, vùng đất Hải Dương được cho là phần đất huyện Chu Diên thuộc Giao Châu. Sách Đất nước Việt Nam qua các đời của học giả Đào Duy Anh xác định: “Chúng ta đã biết Chu Diên đời Lương, đời Tùy là ở khoảng giữa sông Thái Bình và sông Hồng. Cựu Đường thư chép rằng từ phủ trị về phía đông đến cửa sông Tiểu Hoàng giang ở địa giới huyện Chu Diên, đường thủy là 500 dặm. Xem thế thì huyện Chu Diên là ở về phía đông, liên lạc với phủ trị bằng đường thủy, tức là ở miền Hải Dương là phải”2. Năm 905, lợi dụng lúc nhà Đường suy yếu, Khúc Thừa Dụ nổi lên giành quyền Tiết độ sứ, lật đổ ách đô hộ của nhà Đường, giành độc lập tự chủ. Trong thời gian 3 năm xây dựng nền tự chủ (905 - 907), Khúc Thừa Dụ vẫn sử dụng cách phân chia đơn vị hành chính cũ của nhà Đường. Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, con trai là Khúc Hạo lên thay cha giữ quyền Tiết độ sứ. Khi nắm quyền quản lý, Khúc Hạo “muốn nhân cuộc loạn ly của Trung Quốc mà xây dựng cơ sở tự cường, bèn thiết lập các thứ chế độ theo quy mô của một nhà nước độc lập”3. Ông đã cho thực hiện một cuộc cải cách lớn về chính trị, kinh tế, xã hội, trong đó, có việc định lại các đơn vị hành chính thay cho cách phân chia cũ của 1. Xem Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2005, tr.106. 2, 3. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, tr.97, 108. 25 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) nhà Đường, lấy lộ thay cho châu, lấy phủ, châu thay cho huyện và đổi các hương thành giáp. Về địa danh của vùng đất Hải Dương thời họ Khúc, triều Ngô, sách Lịch triều hiến chương loại chí cho biết: “Đường đặt làm trấn Hải Môn, sau gọi là châu Hồng. Ba triều Đinh, Lê, Lý vẫn theo như thế”1. Như vậy, trong cải cách của Khúc Hạo, có thể một phần địa bàn huyện Chu Diên (thời Đường) được đổi thành châu Hồng. Tên gọi này cũng được giữ nguyên dưới triều Ngô (939 - 965). Các sử gia triều Nguyễn khi khảo cứu về tỉnh Hải Dương đều cho biết, vùng đất này dưới thời Đường thuộc Hải Môn trấn, sau gọi là Hồng Châu. Sau đời nhà Đinh, Tiền Lê và Lý vẫn theo như thế2. Dựa trên cơ sở đó, tập thể tác giả sách Địa chí Hải Dương đã cho rằng, Hải Dương thời thuộc Đường (618 - 907) thuộc trấn Hải Môn, sau lại đổi thành Hồng Châu. Thời Đinh, Tiền Lê (968 - 1009) thuộc đất Hồng Châu3. Về địa danh Hải Môn, đã thấy xuất hiện trong chính sử vào tháng Sáu và tháng Bảy năm Quý Mùi (863), nhưng khi chú thích, các dịch giả sách Đại Việt sử ký toàn thư đều cho rằng, địa danh này nay thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc)4. Trong trận chiến diễn ra vào tháng Chạp năm Mậu Tuất (938), mặc dù quân Nam Hán tiến quân theo sông Bạch Đằng mà vào, 1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2008, t.1, tr.139. 2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản dịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, t.1, tr.1044 chép: “Nhà Đường đặt Hải Môn trấn, lại gọi là Hồng Châu. Nhà Đinh chia làm đạo; nhà [Tiền] Lê và nhà Lý cũng theo như nhà Đinh”. Sách Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, chép: “... Đường đặt làm trấn Hải Môn, sau gọi là châu Hồng. Ba triều Đinh, Lê, Lý vẫn theo như thế”. 3. Xem Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương: Địa chí Hải Dương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t.I, tr.4. 4. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.I, tr.196-197 cho biết: khi nhà Đường cho bỏ An Nam đô hộ phủ, đặt chức Hành Giao Châu ở trấn Hải Môn, cho Hữu giám môn vệ tướng quân là Tống Nhung giữ chức Hành Giao Châu thứ sử, cho Vũ Nghĩa tiết độ sứ là Khang Thừa Huấn kiêm lĩnh chức Lĩnh Nam cập chủ quân hành doanh. Chỉ một tháng sau (tháng 7), lại đặt An Nam đô hộ phủ ở Hành Giao Châu, cho Tống Nhung làm Kinh lược sứ, đem quân Sơn Đông một vạn người đến trấn giữ. Sang năm Giáp Thân (864), vua Đường Ý Tông cho Tổng quản kinh lược sứ là Trương Nhân kiêm coi giữ việc Giao Châu, tăng thêm quân ở trấn Hải Môn cho đủ số 2 vạn 5 nghìn người, sai Nhân tiến quân lấy lại phủ thành. Sách này có chú rằng: “Trấn Hải Môn: lỵ sở ở huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay”. 26 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... “vua Hán là Cung... tự làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện”1 nhưng Hải Môn ở đây thuộc châu Uất Lâm (Trung Hoa nhà Đường) hay là địa danh thuộc vùng Hải Dương, Hải Phòng hay Quảng Ninh ngày nay, hiện chưa có sử liệu rõ ràng để khẳng định2. Địa danh Hồng Châu được ghi chép trong sự kiện diễn ra vào tháng Giêng năm Bính Dần (906), khi Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ được nhà Đường gia phong chức Đồng bình chương sự. Ông là người họ Khúc, “một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu”3. Tác giả Đào Duy Anh cho biết cụ thể hơn rằng, “Hồng Châu là tên đời sau, tương đương với huyện Chu Diên đời Đường”4. Điều đó phù hợp với sách Tân Đường thư khi chép về sông A Lao ở huyện Chu Diên, mà sông A Lao theo sách Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư lại thuộc huyện Đa Cẩm, châu Thượng Hồng (nay là huyện Cẩm Giàng), điều đó chứng tỏ, huyện Chu Diên bấy giờ ở vào miền Hải Dương ngày nay. Hơn nữa, khi chép về sự kiện tù trưởng Triệu Túc quê ở Chu Diên, sách Đại Việt sử ký toàn thư có chú thích về “huyện Chu Diên thời Lương, thời Tùy, nay là phần đất tỉnh Hải Dương, huyện trị có thể ở vào khoảng huyện Phả Lại”5. Các tác giả Bùi Quang Triệu và Trọng Huân trong bài viết “Cúc Bồ - Quê hương - Nơi dựng nghiệp của Khúc Thừa Dụ” in trong sách Ninh Giang quê hương, đều cho biết, Hồng Châu xưa với tên gọi là Hồng lộ xuất hiện vào thời Lý, Trần, “bao gồm phần đất của các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và Hải Phòng”6. Sau khi Đinh Bộ Lĩnh hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế, lập ra triều Đinh (968), trong việc quản lý đất nước, vua Đinh Tiên Hoàng 1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.203; Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.210-211. 2. Các sử gia triều Nguyễn (thế kỷ XIX) đã có ý kiến về việc này khi chua rằng, “theo Thanh nhất thống chí, trấn Hải Môn ở cách 15 dặm về phía tây huyện Bác Bạch thuộc châu Uất Lâm bây giờ, xưa kia là đường đi vào đất An Nam. Cao Biền luyện tập quân lính ở đó, và từ đấy tiến quân lấy lại An Nam. Có người bảo Hải Môn trấn ở Hải Dương, đó là nhận lầm chữ Hải Môn là nơi cửa biển (hải môn) mà Ngô Quyền trồng cọc để đánh Hoằng Tháo” (Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.198). 3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.207. Sách này có chú thích: “Hồng Châu: tên đất xưa, đời Lê là hai phủ Thượng Hồng và Hạ Hồng, nay là hai phủ Bình Giang và Ninh Giang, đều thuộc tỉnh Hải Dương”. 4. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, tr.108. 5. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.179. 6. Khúc Thừa Dụ và họ Khúc trong lịch sử dân tộc, Bảo tàng tỉnh Hải Dương, 1999, tr.118. 27 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) cũng có một số điều chỉnh. Riêng về mặt tổ chức hành chính, năm 974, vua Đinh Tiên Hoàng chia cả nước làm 10 đạo và tổ chức quân đội tương ứng với 10 đạo đó. Việc chia đặt 10 đạo của vua Đinh Tiên Hoàng được sử cũ ghi nhận, tuy nhiên, về địa giới, danh xưng cụ thể của 10 đạo ra sao thì hiện nay chưa xác định được rõ ràng. Vì vậy, vùng đất Hải Dương dưới thời Đinh được gọi tên thế nào hiện nay vẫn chưa có tư liệu khẳng định chắc chắn. Dưới triều Tiền Lê (980 - 1009), mùa xuân tháng Ba năm Nhâm Dần (tháng 4/1002), Lê Đại Hành đã cho đổi lại 10 đạo làm lộ, phủ, châu1. Sử cũ cũng không cho biết cương vực, diện mạo của các lộ, phủ, châu thời Tiền Lê ra sao. Tuy nhiên, dựa vào ghi chép của Phan Huy Chú, có thể đất Hải Dương thời Tiền Lê được gọi là Hồng Châu hoặc Hồng lộ. Các bộ chính sử khi ghi chép về thời Đinh và Tiền Lê, còn thấy chép về địa danh Trà Hương2 (945), Nam Sách Giang (vào các năm 945, 980)3, chùa Sách Giang (987)... Các địa danh này đều thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay. 1. Xem Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.230. 2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.214 chú thích: “Trà Hương, tức huyện Kim Thành, xưa gọi là Trà Hương, đều thuộc tỉnh Hải Dương”. Sau này, địa danh Trà Hương còn được Đại Việt sử ký toàn thư chép đến trong sự kiện năm 1284, khi “20 vạn quân các xứ Bàng Hà, Na Ngạn, Vân Trà, Yên Sinh, Long Nhỡn đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của Hưng Đạo Vương để chống quân Nguyên” (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.51); sự kiện năm 1344 khi “người huyện Trà Hương là bọn Ngô Bệ họp tập nhiều người ở núi Yên Phụ khởi lên làm giặc cướp. Nhà vua sai quân đi bắt, bọn Ngô Bệ liền trốn tránh, tan rã” (Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.595; Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.129). 3. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: - Năm 945, “lúc trước, Tiền Ngô Vương bệnh nặng, có di chúc giao cho Tam Kha giúp rập cho con. Khi Vương mất, Tam Kha cướp ngôi. Con trưởng của Ngô Vương là Xương Ngập sợ, chạy về Nam Sách Giang, trú ngụ ở nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương” (t.I, tr.205). - Tháng Bảy năm Canh Thìn (980), “bấy giờ, Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cự Lạng làm đại tướng quân” (t.I, tr.217). Chú thích về địa danh Nam Sách Giang, sách An Nam chí lược có chép, đây là tên một lộ dưới thời Lý, còn sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, t.1, tr.214 chép: “Nam Sách Giang, nay là phủ Nam Sách thuộc tỉnh Hải Dương”. Trong khoảng thời gian sinh sống tại Nam Sách Giang, Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập đã lấy vợ và sinh ra Ngô Xương Xí (sau này trở thành một trong 12 sứ quân “chiếm cứ các quận ấp để tự giữ” ở Bình Kiều), vì sách Đại Việt sử ký toàn thư (t.I, tr.208) có đoạn chép: “Họ Ngô, tên húy là Xương Xí, khi Thiên Sách Vương lánh nạn, lấy vợ ở Nam Sách Giang sinh ra, là cháu gọi Nam Tấn Vương bằng chú”. 28 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... 2. Hải Dương thời họ Khúc, họ Dương và triều Ngô xây dựng nền tự chủ (905 - 965) Tháng Tư năm Ất Sửu (tháng 5/905), Độc Cô Tổn được cử sang Giao Châu làm Tiết độ sứ, nhưng vì mâu thuẫn nội bộ bị biếm chức rồi sau đó bị giết chết. Nhân cơ hội chính quyền đô hộ nhà Đường ở Giao Châu không còn người đứng đầu, Khúc Thừa Dụ được sự ủng hộ của dân chúng đã nổi dậy đánh chiếm thành Đại La, lật đổ chính quyền đô hộ, tự xưng là Tiết độ sứ. Sự kiện này mở ra thời kỳ độc lập lâu dài của dân tộc sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Đây cũng là một dấu mốc quan trọng thể hiện vai trò và vị thế vùng đất Hải Dương trong lịch sử dân tộc. a) Họ Khúc và đất Hồng Châu (Ninh Giang - Hải Dương) Họ Khúc là một dòng họ lớn lâu đời ở Hồng Châu (tức Hải Dương ngày nay). Khúc Thừa Dụ vốn là một hào trưởng có nhiều thế lực và uy tín trong vùng. Tuy là một quý tộc giàu có, nhưng ông lại có cuộc sống rất gần gũi và yêu thương dân chúng. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn viết về ông như sau: “Thừa Dụ tính khoan hòa hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ”1. - Ghi chép về Khúc Thừa Dụ trong các bộ sử: Công cuộc xây dựng nền tự chủ của dân tộc ở thế kỷ X được mở đầu với việc Khúc Thừa Dụ giành quyền Tiết độ sứ từ tay chính quyền đô hộ nhà Đường và được con cháu họ Khúc tiếp tục truyền nhau xây dựng, giữ gìn qua các đời Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ. Tuy nhiên, ghi chép về họ Khúc trong các bộ sử Việt Nam thời quân chủ khá sơ lược, như trong Việt sử lược2 (Tác giả khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV), An Nam chí lược (Lê Tắc), Đại Việt sử ký toàn thư 1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.218. 2. Theo Trần Quốc Vượng: “Việt sử lược là bộ sách soạn đời Trần... Bộ sách này ở nước ta cũng thất truyền. Đến đời Càn Long nhà Thanh (1736 - 1795), bộ sách này mới được đem in ra, nói là theo bản của tuần phủ Sơn Đông thu nhặt được đem dâng lên vua... theo Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu thì bộ sách này nguyên đề là Đại Việt sử lược. Đại Việt là quốc hiệu nước ta thời Lý - Trần... Chắc là người Thanh khi in sách này đã bỏ bớt chữ Đại đi (dẫn theo Tác giả khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV: Việt sử lược (Trần Quốc Vượng dịch và chú thích), Nxb. Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Huế, 2005, tr.5-7). 29 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê), Đại Việt sử ký tiền biên, Việt sử tiêu án (Ngô Thì Sĩ), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Quốc sử quán triều Nguyễn), Việt sử cương mục tiết yếu, Sử học bị khảo (Đặng Xuân Bảng)... Những ghi chép này cũng còn những chỗ dị biệt, chưa hoàn toàn thống nhất: Việt sử lược là một trong những bộ sử thành văn xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Sử học Việt Nam. Việt sử lược gồm 3 quyển ghi chép sơ lược về lịch sử Việt Nam từ những sự thay đổi trong nước buổi đầu hình thành đến năm 1226, khi vua Lý Huệ Tông qua đời. Phần ghi chép về họ Khúc trong sách này nằm ở quyển I. Tuy nhiên, trong Việt sử lược không nhắc đến Khúc Thừa Dụ, mà chỉ nhắc đến Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ. Tác giả cho là việc giành chính quyền của họ Khúc được bắt đầu bằng Khúc Hạo với sự kiện “Khúc Hạo. Năm đầu niên hiệu Khai Bình nhà Lương (907), làm Tiết độ sứ thay Tổn”. Sau khi Khúc Hạo qua đời thì em trai ông (?) là Khúc Toàn Mỹ “thay Hạo làm Tiết độ sứ”. Sau đó, “năm đầu hiệu Trường Hưng đời Minh Tông nhà Hậu Đường (930), chúa Nam Hán là Lưu Nghiễm sai bọn tướng Lương Khắc Chân tới đánh châu ta, bắt Tiết độ sứ Khúc Toàn Mỹ, lấy tướng là Nguyễn (Lý) Tiến sang thay”1. Như vậy, theo Việt sử lược thì họ Khúc nắm quyền điều hành đất nước từ năm 907 đến năm 930 với 2 đời làm Tiết độ sứ là Khúc Hạo và Khúc Toàn Mỹ. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê cũng chú ý ghi chép về chính quyền họ Khúc ở thế kỷ X, tuy nhiên, những ghi chép này cũng chưa được đầy đủ. Đại Việt sử ký toàn thư chưa có phần biên chép về Khúc Thừa Dụ, mà chỉ quan tâm Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ. Những thông tin về họ Khúc được chép từ năm 907 đến năm 923 với một số đoạn như sau: “Đinh Mão [907]... người Giao Châu là Khúc Hạo chiếm giữ châu trị, xưng là Tiết độ sứ... Đinh Sửu [917],... Khúc Hạo sai con là Thừa Mỹ làm Hoan hảo sứ sang Quảng Châu để thăm dò tình hình [Nam Hán] hư thực thế nào. Hạo chết, Khúc Thừa Mỹ lên thay... Kỷ Mão [919]... Khúc Thừa Mỹ sai sứ sang nhà Lương xin được lĩnh tiết việt, nhà Lương trao cho... Quý Mùi [923]... Mùa thu, tháng 7, vua Hán sai kiêu tướng là Lý Khắc Chính đem 1. Tác giả khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV: Việt sử lược, Sđd, tr.37. Trong cuốn sách này, Khúc Thừa Mỹ được gọi là Khúc Toàn Mỹ. 30 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... quân sang đánh Giao Châu, bắt được Tiết độ sứ là [Khúc] Thừa Mỹ đem về”1. Như vậy, giữa Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư đã có những sự khác nhau khi viết về họ Khúc: Việt sử lược cho là họ Khúc nắm quyền tiết độ sứ trong 23 năm (907 - 930) với hai đời tiết độ sứ là hai anh em. Trong Đại Việt sử ký toàn thư ghi là hai cha con Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ thay nhau làm Tiết độ sứ trong 16 năm (907 - 923). Sách An Nam chí lược do Lê Tắc, gia thần của Trần Ích Tắc sống lưu vong ở Trung Quốc biên soạn đầu thế kỷ XIV cũng là cuốn sử có niên đại khá sớm viết về lịch sử Việt Nam, nhưng cũng chỉ chép sơ sài vài dòng nói đến Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ: “Khúc Hạo: Chiếm cứ Giao Chỉ. Lúc ấy, Lưu Ẩn chiếm cứ Phiên Ngung, Ẩn chết, con là Lưu Nghiễm kế lập, xưng quốc hiệu là Nam Hán. Khúc Hạo khiến con là Thừa Mỹ qua làm Khuyến hảo sứ, đến Quảng Châu để dò xét thực hư. Hạo chết, Thừa Mỹ kế ngôi cha; năm Kỷ Mão, niên hiệu Trinh Minh nhà Lương năm đầu (915), khiến sứ tiến cống, cầu lãnh tiết việt, nhà Lương nhân trao cho. Lưu Nghiễm cả giận, tháng Chín năm Đại Hữu thứ 3 (930) đời Ngụy Hán, khiến tướng mạnh là Lương Khắc Chính đem binh đến đánh, bắt Thừa Mỹ đem về. Khắc Chính lưu giữ Giao Chỉ, sau bị Dương Đình Nghệ đuổi”2. Trong ba bộ sử có niên đại khá sớm đều chưa thấy nhắc đến Khúc Thừa Dụ với tư cách là người đầu tiên giành quyền tự chủ cho dân tộc. Đến khoảng thế kỷ XVIII, XIX có thêm nhiều bộ sử do nhà nước hoặc tư nhân biên soạn ghi chép thêm về Khúc Thừa Dụ và họ Khúc như: Đại Việt sử ký tiền biên, Việt sử tiêu án (Ngô Thì Sĩ), Kiến văn tiểu lục (Lê Quý Đôn), Việt sử cương mục tiết yếu (Đặng Xuân Bảng), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Quốc sử quán triều Nguyễn). Trong đó có những sách chép khá đầy đủ về việc họ Khúc gắn bó với quê hương và lịch sử dân tộc, nhưng cũng có sách chỉ sơ lược biên chép vài dòng, thậm chí có những thông tin được ghi chép chưa xác thực. 1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.201-202. 2. Lê Tắc: An Nam chí lược, Nxb. Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2002, tr.224-225. 31 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Việt sử tiêu án và Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ được biên soạn cuối thế kỷ XVIII là những bộ sử tư nhân sớm ghi chép đầy đủ về Khúc Thừa Dụ và công cuộc giành quyền tự chủ cho dân tộc của họ Khúc ở thế kỷ X. Cả hai tác phẩm này đều xác nhận Khúc Thừa Dụ là người Việt đầu tiên giành quyền Tiết độ sứ Giao Châu từ chính quyền đô hộ phương Bắc ở đầu thế kỷ X. Sách Việt sử tiêu án chép: “Họ Khúc là người Hồng Châu, là họ to nối đời, tiên tổ là Thừa Dụ, tính khoan hòa, yêu người, được nhiều người quy phục, khi Tăng Cổn bỏ phủ thành, Thừa Dụ tự xưng Tiết độ sứ, xin với triều đình Đường, vua Đường nhân thế nhận cho làm chức ấy... Họ Khúc truyền 3 đời, cộng 51 năm”1. Sách Đại Việt sử ký tiền biên cho biết thêm chi tiết: Khúc Thừa Hựu (Thừa Dụ) làm Tiết độ sứ từ năm Ất Sửu (905), đến năm Bính Dần (906) được vua Đường gia phong chức Đồng bình chương sự. Năm 905 cũng được Ngô Thì Sĩ lấy làm mốc kết thúc thời kỳ nội thuộc Tùy Đường kéo dài 304 năm (từ năm 601). 51 năm cầm quyền của họ Khúc được ông tính từ năm Canh Tý (880)2 đến hết năm Canh Dần (930)3. Trong các tác phẩm của Lê Quý Đôn không có cuốn sử nào viết về lịch sử thế kỷ X, tuy nhiên, trong một số khảo cứu của mình, Lê Quý Đôn có đôi lần nhắc đến quê hương và thân thế của Khúc Thừa Dụ với một vài điểm khác Ngô Thì Sĩ. Sách Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn có khẳng định ba đời họ Khúc cầm quyền là: Thừa Dụ tức là Khúc Tiên chúa, Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ đều là con cháu4. Về quê hương họ Khúc ở đất Hồng Châu, Lê Quý Đôn có quan điểm hơi khác khi ông viết trong Kiến văn tiểu lục: “Xã Lỗ Xá, huyện Cẩm Giàng, có đền thờ Khúc Tiên chúa. Tương truyền Tiết độ sứ họ Khúc quê quán ở đây. Nay trong xã nhiều người mang tên là họ Khúc”5. Quan điểm này cũng được các sử thần trong Quốc sử quán triều Nguyễn thể hiện 1. Ngô Thì Sĩ: Việt sử tiêu án (Hội Việt Nam nghiên cứu liên lạc văn hóa Á châu dịch), Nxb. Văn Sử, 1991, tr.77-78. 2. Có lẽ sách chú nhầm năm Canh Tý 880 thành năm 820. 3. Xem Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr.135-138. 4. Dẫn theo Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.218. 5. Lê Quý Đôn toàn tập, Tập II - Kiến văn tiểu lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.444. 32 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... trong sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: “Đền Khúc Tiên chúa: ở xã Lỗ Xá, huyện Cẩm Giàng”1. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn dưới triều vua Tự Đức ở giữa thế kỷ XIX là bộ sách lớn, có nội dung biên soạn dài nhất về thời gian so với các bộ sử trước đó, với 5 quyển tiền biên viết về lịch sử từ thời Hùng Vương đến năm Đinh Sửu (967) và 47 quyển chính biên chép các sự kiện từ khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi đến năm Kỷ Dậu (1789). Khi viết về họ Khúc, sách này cũng đồng tình về quê hương họ Khúc ở đất Hồng Châu, Khúc Thừa Dụ chính là người giành quyền Tiết độ sứ đầu tiên vào năm Ất Sửu (905); ba đời họ Khúc nối quyền Tiết độ sứ từ năm Ất Sửu (905) đến năm Quý Mùi (923) thì kết thúc với việc Khúc Thừa Mỹ bị Lý Khắc Chính bắt về Nam Hán2. Đến cuối thế kỷ XIX và những thập niên đầu thế kỷ XX, những sự kiện liên quan đến họ Khúc còn được ghi chép qua một số bộ sử tư nhân như: Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Đại Nam dật sử - Sử ta so với sử Tàu của Nguyễn Văn Tố. Tuy có một số nội dung chưa thống nhất, nhưng các cuốn sử trên đều khẳng định sự tồn tại, vai trò của Khúc Thừa Dụ và họ Khúc trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ X. Như vậy, qua ghi chép của một số bộ sử của nhà nước cũng như tư nhân đã cho thấy: sự kiện họ Khúc lên nắm quyền điều hành vùng đất Giao Châu với vai trò là những Tiết độ sứ người Việt đầu tiên từ năm Ất Sửu (905) đã mở ra con đường tự chủ vươn lên giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt sau khi trải qua hơn 1.000 năm liên tục đấu tranh dưới ách áp bức, bóc lột của phong kiến phương Bắc. Trong các ghi chép về Khúc Thừa Dụ và họ Khúc còn một số điểm chưa thống nhất như: Họ Khúc nắm quyền tổng cộng bao nhiêu năm? Thời điểm họ chấm dứt vai trò lịch sử là năm Quý Mùi (923) hay năm Canh Dần (930)? Tên tuổi của các nhân vật cũng có những biên chép khác nhau như Tiên chúa Khúc Thừa Dụ có khi được viết là Khúc Thừa Hựu; Khúc Hạo hay Khúc Thừa Hiệu; 1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1997, t.III, tr.425. 2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.217-219. 33 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Khúc Thừa Mỹ hay Khúc Toàn Mỹ... Và đặc biệt là vấn đề quê hương họ Khúc ở khu vực nào trên đất Hồng Châu: ở Cúc Bồ hay ở Lỗ Xá? - Cúc Bồ, Ninh Giang, Hải Dương - Vấn đề quê hương họ Khúc: Sự kiện họ Khúc lãnh đạo nhân dân đứng lên giành quyền tự chủ cho dân tộc vào đầu thế kỷ X (năm Ất Sửu, 905) là một mốc bản lề của lịch sử dân tộc, đặt nền móng cho kỷ nguyên độc lập lâu dài và phát triển hưng thịnh của quốc gia Đại Việt. Nhiều nguồn sử liệu khẳng định rằng: họ Khúc là dòng họ lớn ở Hồng Châu (tức vùng đất Hải Dương, Hải Phòng và một phần đất Hưng Yên, Quảng Ninh ngày nay). Mặc dù vậy, vấn đề quê hương họ Khúc là nơi nào trên đất Hồng Châu rộng lớn thì các thư tịch cổ còn những biên chép chưa thống nhất. Cụ thể, có hai luồng ý kiến khác nhau về quê hương họ Khúc như trên đã dẫn: ý kiến thứ nhất cho là Khúc Thừa Dụ quê ở làng Cúc Bồ (nay thuộc xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương); ý kiến thứ hai cho là đất khởi nghiệp của họ Khúc ở Lỗ Xá (nay thuộc thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên). Trong các bộ chính sử của nước ta hoặc các bộ sử tư nhân thời quân chủ (như đã dẫn ở trên) ít nhiều có biên chép và đánh giá cao về sự kiện Khúc Thừa Dụ giành quyền Tiết độ sứ và việc kế tục chức vụ này của Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ đã nâng tầm ý thức dân tộc Việt Nam, tạo động lực cho công cuộc giành và giữ độc lập dân tộc của các thế hệ sau này. Tuy nhiên, trong các thư tịch Hán Nôm của địa phương như: Hải Dương phong vật chí, Hải Đông chí lược, Hải Dương địa dư hay Hải Dương tỉnh địa chí đều không thấy nhắc đến những sự kiện đáng tự hào này của địa phương. Điểm qua các sách địa chí cổ ở Hải Dương chỉ thấy có sách Hải Dương địa dư1 có một dòng viết với nội dung: “Đền Khúc tiên sinh ở xã Lỗ Xá, huyện Cẩm Giàng”2. Thực chất tác giả cũng thừa nhận nội dung này được dẫn từ sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn. Như vậy, vấn đề xác định quê hương họ Khúc không thể chỉ căn cứ trên những tư liệu thành văn, mà cần có sự kết hợp giữa nhiều nguồn tư liệu, với nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau mới có thể đưa ra kết luận chính xác. 1. Sách Hải Dương địa dư do Tổng đốc Hải Dương Phan Tam Tỉnh biên soạn cuối thế kỷ XIX, theo yêu cầu của Quốc sử quán triều Nguyễn. 2. Đinh Khắc Thuân (Chủ biên): Địa phương chí tỉnh Hải Dương qua tư liệu Hán Nôm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009, tr.328. 34 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Khảo sát tư liệu thực địa về hai địa danh làng Cúc Bồ và Lỗ Xá cho thấy kết quả như sau: Làng Cúc Bồ xưa kia thuộc tổng Can Trì, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương1. Ngày nay, làng Cúc Bồ thuộc xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Làng Cúc Bồ hiện nay có 9 dòng họ cùng sinh sống, gồm: Bùi, Nguyễn, Hoàng, Phạm, Phan, Trần, Tăng, Đặng, Đoàn. Trong đó, họ Bùi có tới 25 họ khác nhau, họ Nguyễn có 7 họ khác nhau. Hiện nay, dân làng Cúc Bồ không còn ai mang họ Khúc. Qua khảo sát tại ngôi đình mới của Cúc Bồ (xây lại năm 1990) cho thấy, ở đây có tấm bia Thạch Quán bi (Bia quán đá), được dựng vào năm Gia Long thứ 18 (1819) và một cây hương đá Kim Liên thiền tự có niên đại Tự Đức thứ 7 (1854)2. Trên cây hương đá có khắc bài minh và kèm theo là những dòng khắc tên của một số tín chủ thuộc các thôn An Cúc, Bồ Dương và Cúc Thôn góp tiền, ruộng vào việc dựng chùa. Trong hai tư liệu này đều không có ai mang họ Khúc mà chỉ có các họ Phan, Hoàng, Tăng, Trần, Nguyễn, Bùi và một số dòng họ khác ở các làng xã xung quanh3. Tuy nhiên, trong bản khai lý lịch thần tích, thần sắc đình làng Cúc Bồ do Lý trưởng Bùi Văn Ruẩn, khai vào năm 19384: làng Cúc Bồ thờ vị nhân thần là Dương Trinh Hiển, là thuộc tướng của Thái úy Lý Thường Kiệt, đã từng tham gia bình Chiêm, phạt Tống. Khi ngài tử trận, người vợ ở nhà liền đắm mình xuống sông Cúc (đoạn sông Luộc chảy qua Cúc Bồ còn có tên là sông Cúc) tuẫn tiết. Từ đó, vua phong cho ngài là Dương Trinh Hiển bảo quốc cứu dân, và phong cho phu nhân ngài là Thiên cực Đoan lượng Cẩn tiết Hiền minh cùng thờ trong đình làng5. 1. Xem Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (Dương Thị The - Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981, tr.27-28. 2. Cây hương này trước kia được dựng ở chùa, nay dân làng mang về dựng trước cửa đình. 3. Trong Kỷ yếu Khúc Thừa Dụ và họ Khúc trong lịch sử dân tộc, Bảo tàng tỉnh Hải Dương, 1999, tr.15, tác giả Tăng Bá Hoành nghiên cứu nội dung hai văn bia tại làng Bồ Dương có niên đại thế kỷ XVII thấy có xuất hiện người họ Khúc trên văn bia. 4. Tài liệu chép tay, lưu tại Viện Thông tin Khoa học xã hội, ký hiệu TT-TS. FQ4018/IX, tr.23. 5. Xem Viện Thông tin Khoa học xã hội: Thư mục thần tích, thần sắc, Hà Nội, 1996, tr.500. 35 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Trên hai cột trụ trước cửa đình của làng Cúc Bồ có câu đối viết: Vị Nam thiên, tranh tự do quyền, tinh vãn Khâm Châu oanh khí tại Chỉ Bắc địa, thệ tòng nhất chí, nguyệt huống Cúc Thủy nộ đào sinh. Tạm dịch: Vì trời Nam, tranh lấy quyền tự do, đã hy sinh ở Khâm Châu nhưng khí phách vẫn còn đó Chỉ đất Bắc, một lòng nhất chí theo chồng nên đã gieo mình xuống dòng sông Cúc để tỏ ý thủy chung. Nội dung câu đối này viết về hai vị thần Dương Trinh Hiển và Thiên cực Đoan lượng là thành hoàng của làng Cúc Bồ, như trong thần tích mà Lý trưởng Bùi Văn Ruẩn đã khai. Hậu cung của ngôi đình có treo bức đại tự “Nhị vị đại vương” (trên bức đại tự không khắc ghi niên đại) và câu đối xưa ở đình viết: Tuệ tâm quảng đại đồng thiên địa Hạo miếu túc ung tự cổ kim. Câu đối này được tác giả Khúc Thừa Đại dịch là: “Lòng dân rộng lớn cùng trời đất/Miếu Hạo yên hòa xưa tới nay”1. Cùng với câu đối, bức đại tự chữ Hán “Nhị vị đại vương” cũng có ý kiến cho là nói về Khúc Thừa Dụ và Khúc Hạo (vì Khúc Thừa Mỹ bị bắt về Trung Quốc nên không được thờ)2. Những suy luận về chữ “Hạo miếu” và bức đại tự “Nhị vị đại vương” có thể chỉ là suy đoán của một tác giả họ Khúc nhằm tôn vinh tổ tiên. Tuy nhiên, tại làng Cúc Bồ vẫn còn nhiều dấu tích khẳng định đây chính là quê hương và là nơi khởi nghiệp của cha con họ Khúc. Tại đình Cúc Bồ ngày nay có hai bức cuốn thư. Bức thứ nhất treo ở gian giữa, chữ Hán viết theo lối bán thảo, còn đầu đề được viết theo lối chữ triện, khắc năm Canh Thìn, niên đại Bảo Đại thứ 15 (1940). Nội dung bức cuốn thư thứ nhất: “Tổ linh thiêng biến hóa trên đời. Muôn phúc lớn phải có lòng tôn quý. Lòng nhân từ lớn lao. Trí tuệ thần thông quảng đại mênh mông. 1. Căn cứ vào từ “Hạo miếu” mà Khúc Thừa Đại cho là câu đối này ca ngợi công lao của Khúc Hạo! Vấn đề này, theo chúng tôi cần phải tiếp tục nghiên cứu. Dẫn theo Khúc Thừa Đại - Khúc Lễ: “Một số di sản văn hóa họ Khúc ở Việt Nam”, in trong Khúc Thừa Dụ và họ Khúc trong lịch sử dân tộc, Tlđd, tr.132-133. 2. Xem Bùi Quang Triệu: “Cúc Bồ - Quê hương - Nơi dựng nghiệp của Khúc Thừa Dụ”, in trong Khúc Thừa Dụ và họ Khúc trong lịch sử dân tộc, Tlđd, tr.119. 36 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Đạo nhân sâu nặng, xưa nay vẫn tích tụ sự trong sáng, ngàn thu mãi mãi lưu truyền”. Bức cuốn thư này ghi chung chung về công lao của tổ tiên mà chưa xác định rõ vị tổ được thờ là ai. Bức cuốn thư thứ hai, được chép lại từ bản chính trong Gia phả họ Khúc ở thôn An Bài, xã An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Để tri ân thủy tổ dòng họ ở quê gốc Cúc Bồ, Ban Liên lạc họ Khúc đã cho khắc lại thành một bức cuốn thư và treo tại đình Cúc Bồ vào năm 1996, do Khúc tộc Từ Lâm, An Bài cung tiến. Trong Gia phả họ Khúc có ghi bài Mật truyền như sau: Tam tiên cơ tự chủ Vạn cổ Khúc linh từ Cúc Bồ lưu hiển tích Hồng hạt thử thiên thư. (Khúc tộc mật truyền thư) Thừa sao gia phả, Quốc Tử Giám, Giám sinh hội tôn Khúc Văn Đường kính thư. Khải Định bát niên, cửu nguyệt, sơ lục nhật, gian hữu tăng nhuận. Tạm dịch: Ba chúa dựng nền tự chủ Muôn thuở nơi thờ họ Khúc thiêng Làng Cúc Bồ còn lưu dấu tích Đất Hồng Châu đã ghi trong sách trời. (Bài thơ mật truyền của họ Khúc) Sao lại gia phả là ông Giám sinh Khúc Văn Đường. Ngày mùng 6, tháng Chín, đời vua Khải Định năm thứ 8 (1923) (đã được nhuận sắc lại). Như vậy, nội dung Gia phả họ Khúc - Khúc tộc mật truyền thư được sao lại vào năm Khải Định thứ 8 (1923) cũng xác định quê gốc họ Khúc là ở làng Cúc Bồ. Tháng 7/1999, nhân dân Cúc Bồ đã tình cờ phát hiện được một số hiện vật gạch và ngói ở khu vực trước cửa đình. Theo đó, Bảo tàng tỉnh Hải Dương đã tiến hành khai quật, địa điểm cách đình Cúc Bồ khoảng 200m về phía nam, cạnh chân đê sông Luộc. Qua hai lớp đào, hiện vật thu được phần lớn là gạch ngói và mảnh gốm, bên cạnh đó còn có gỗ và xác thực vật như thân cau, thân dừa. Các hiện vật bằng gỗ được phân bố đều theo không gian và theo phương thẳng đứng, đầu tiếp giáp với đất được làm nhọn. Đặc biệt hơn, có một số hiện vật 37 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) là mảnh ngói (có thể là đầu ngói ống), trên di vật có khắc in chữ Hán1. Bảo tàng tỉnh Hải Dương kết luận: “Nơi khai quật là một ngôi mộ cổ xây dựng theo kiểu Hán, trên mộ có am thờ, lợp ngói ống, đầu các viên ngói đều có chữ”. Đây là vật liệu dùng trang trí diềm mái của kiến trúc. Từ những tư liệu thực địa này kết hợp với ghi chép trong chính sử càng củng cố thêm ý kiến cho là: quê hương Khúc Thừa Dụ và họ Khúc chính là ở làng Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương ngày nay2. Về ý kiến cho là họ Khúc quê ở làng Lỗ Xá (nay thuộc thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên), đình Lỗ Xá chính là nơi thờ Tiên chúa Khúc Thừa Dụ: Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (Thuộc các tỉnh từ Nghệ - Tĩnh trở ra), Lỗ Xá xưa thuộc tổng Vương Xá, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay thuộc phường Nhân Hòa, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Làng Lỗ Xá có 4 xóm: Lo, Đông, Đạc và Tó; có các dòng họ: Chu, Nguyễn, Đào, Đặng, Vũ, Lê, Hoàng, Trương, Trịnh, Khúc, Lỗ. Khảo sát đình Lỗ Xá cho thấy: Trong hậu cung của đình có thờ các bài vị: bài vị ở giữa là vua Lý Nhân Tông (thờ chính), còn hai bên là thờ Nguyên phi Ỷ Lan và tướng quân Lý Thường Kiệt (phối thờ). Nội dung bản thần tích trong đình nói về thân thế vua Lý Nhân Tông và công cuộc kháng chiến chống quân Tống (1075 - 1077) cùng những đóng góp của nhân dân địa phương ở các thôn An Tập, An Tháp, Lỗ Xá và Nguyễn Xá trong việc chống giặc ngoại xâm. Sau khi thắng giặc trở về, tới trang An Tập, vua Lý mở yến tiệc mừng chiến thắng. Trong không khí hân hoan, các bô lão nơi đây nói: Nhờ ơn đức của vua, nhân dân được thanh bình, nên muốn lập đền thờ vua. Nhân Tông đồng ý và nói ta có một vương mẫu và một nội thần nên muốn cùng được thờ chung. Kể từ đây, 1. Xem Tăng Bá Hoành: “Kết quả khai quật tại khu di tích Khúc Thừa Dụ, thôn Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương”, in trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2000, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr.335-336: đọc hai chữ Hán đó là “Khúc am”. Trong khi ý kiến của tác giả Nguyễn Minh Tường trong bài viết “Làng Cúc Bồ quê hương của Khúc Thừa Dụ”, tạp chí Xưa & Nay, số 143, tháng 7/2003, tr.23-26 đọc là “Khúc miếu”. 2. Gần đây (trong năm 2019), các nhà khảo cổ học thuộc Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã trở lại khảo sát địa bàn Cúc Bồ và tiến hành khai quật một số địa điểm. Nhận xét sơ bộ của nhóm khai quật cho rằng phần lớn hiện vật thu được đều có niên đại sau thế kỷ X. Mảnh ngói mà các tác giả trước đó đọc là Khúc am hay Khúc miếu cần được giám định chính xác tự dạng. 38 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... việc thờ tự được bắt đầu và thành hoàng của Lỗ Xá là vua Lý Nhân Tông cùng Nguyên phi Ỷ Lan và tướng quân Lý Thường Kiệt. Hiện nay, trong đình còn lưu giữ một sắc phong thời vua Lê Hiển Tông, năm Cảnh Hưng thứ 40 (1779), phong cho Phật ân Lý Thái tử Hiếu đế đã có công giúp nước, giúp dân. Việc phụng thờ Lý Nhân Tông, Nguyên phi Ỷ Lan và Thái úy Lý Thường Kiệt cũng có ở các thôn An Tháp và Nguyễn Xá. Tại đình thôn An Tháp còn tấm bia có tên Tam đình phụng sự bi minh (Bia ghi việc thờ tự của ba đình - đình các thôn An Tháp, Nguyễn Xá và Lỗ Xá), có niên đại Gia Long thứ 15 (1816). Nội dung của văn bia cho biết ba đình và 27 giáp thuộc ba thôn đều cùng thờ phụng chung thành hoàng. Vị thánh được thờ ở đây là vua triều Lý, được phong thượng đẳng tôn thần, bên cạnh đó còn thờ phối hai vị là Nguyên phi Ỷ Lan và Thái úy Lý Thường Kiệt. Trên cơ sở đình thôn An Tháp là nơi thờ chính nên được phép tô tượng của thành hoàng (thực tế tại đình An Tháp ngày nay vẫn còn tượng vua Lý Nhân Tông), khác với hai đình còn lại chỉ là thờ bài vị. Đối với hai đình Nguyễn Xá và Lỗ Xá, văn bia ghi việc tế tự đều phải tuân theo và đến đình An Tháp để thỉnh lễ. Cụ thể, trong văn bia ghi 5 điều khoản buộc hai thôn Nguyễn Xá và Lỗ Xá phải tuân thủ, trong khi đó các lệ này đình An Tháp không phải thực hiện. Các lệ như: lễ cầu vũ, công việc tu sửa nơi thờ tự, việc đắp tượng... thì Nguyễn Xá và Lỗ Xá phải có những khoản đóng góp nhất định. Ví như việc đắp tượng, đình Nguyễn Xá phải góp 1 quan và 2 trăm đồng tiền cổ, còn Lỗ Xá thì góp 1 quan tiền cổ. Như vậy, việc thờ cúng thành hoàng ở Lỗ Xá là thờ vua Lý Nhân Tông chứ không phải Khúc Tiên chúa. Qua những tư liệu trên cho thấy, quê gốc của họ Khúc có thể là ở làng Cúc Bồ, không phải làng Lỗ Xá. Trong quá trình sinh sống, những người họ Khúc có thể vì lý do này hay lý do khác mà họ phải rời quê đi lập nghiệp ở nơi khác, nhưng điều đó cũng không làm thay đổi thực tế lịch sử về quê hương họ Khúc. Hiện nay, giới sử học cũng khá đồng nhất quan điểm về quê hương họ Khúc là làng Cúc Bồ: Sách Lịch sử Việt Nam, Tập 2: Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV do Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam biên soạn, xuất bản năm 2013 (tái bản năm 2017) viết: “Khúc Thừa Dụ là người đứng đầu họ Khúc - một dòng họ lớn ở Hồng Châu (nay là làng Cúc Bồ, huyện Ninh Giang, 39 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) tỉnh Hải Dương)”1. Sách Lịch sử Việt Nam, Tập 1 do GS. Phan Huy Lê chủ biên cũng xác định: “Khúc Thừa Dụ là người đứng đầu một dòng họ lớn lâu đời ở Hồng Châu (Cúc Bồ, Ninh Giang, Hải Dương)”2; nhiều sách giáo trình, chuyên khảo, tham khảo khác cũng viết tương tự về quê hương họ Khúc. - Khúc Thừa Dụ xây dựng chính quyền tự chủ; chính sách cải cách của Khúc Hạo: Mặc dù chỉ xưng là Tiết độ sứ, về danh nghĩa đây là một chức quan thay mặt nhà Đường cai trị nhân dân Giao Châu, nhưng thực chất Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ của người Việt, tách khỏi ảnh hưởng sâu đậm của những chính sách cai trị thâm độc của người Hán. Sau khi giành chính quyền, Khúc Thừa Dụ đã cho người sang báo tin, triều đình nhà Đường buộc phải công nhận Khúc Thừa Dụ là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ. Đầu năm 906, vua Đường tiếp tục gia phong cho Khúc Thừa Dụ tước Đồng Bình chương sự. Sách Tư trị thông giám chép: “Tháng Giêng năm Thiên Hựu thứ ba (906), nhà Đường gia phong cho Thừa Dụ chức Đồng Bình chương sự”3. Việc nhà Đường công nhận chính quyền và phong tước cho Khúc Thừa Dụ đã ghi một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc: lần đầu tiên sau hơn 1.000 năm đấu tranh chống Bắc thuộc, một chính quyền của người Việt được công nhận bởi triều đình phong kiến Trung Hoa. Sự kiện này đã tạo ra thời cơ mới cho việc xây dựng chính quyền tự chủ, tiến tới giành lại hoàn toàn độc lập dân tộc trong thế kỷ X. Thời cơ đó thể hiện trước hết là việc Khúc Thừa Dụ có quyền xây dựng chính quyền, cắt đặt các chức quan người Việt dưới quyền để cùng nhau quản lý đất nước thay cho những chính sách hà khắc trước đây của chính quyền đô hộ Trung Hoa. Ngay sau khi nắm quyền, Khúc Thừa Dụ đã phong cho con trai cả là Khúc Hạo làm Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền Tri lưu hậu, chỉ huy quân đội và là người sẽ thay thế ông nắm quyền Tiết độ sứ. 1. Trần Thị Vinh (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 2: Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017, tr.32. 2. Phan Huy Lê (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2012, t.1, tr.450. 3. Dẫn theo Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.218. 40 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta đến đây đã giành được thắng lợi về căn bản. Khúc Thừa Dụ vừa là người có công thúc đẩy, vừa là người đặt nền móng vững chắc cho cuộc đấu tranh tiến tới độc lập hoàn toàn. Năm Đinh Mão (907), Khúc Thừa Dụ qua đời, con trai ông là Khúc Hạo nối nghiệp, tiếp tục đóng trị sở ở La Thành (Hà Nội). Lúc này ở Trung Quốc, nhà Đường đã hoàn toàn sụp đổ. Đất nước Trung Quốc rơi vào bối cảnh loạn lạc, các thế lực phong kiến nổi dậy khắp nơi tranh đoạt quyền lực dẫn đến cục diện “Ngũ đại thập quốc” (năm đời mười nước). Trong bối cảnh ấy, nhà Hậu Lương (907 - 923) thay nhà Đường công nhận Khúc Hạo làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ. Khúc Hạo thay cha nắm quyền Tiết độ sứ, tiếp tục sự nghiệp của Khúc Thừa Dụ, tiến hành canh tân đất nước. Ông đã cho thực hiện một loạt chính sách cải cách về kinh tế, chính trị, xã hội. Đây là cuộc cải cách lớn đầu tiên trong lịch sử đất nước. Những chính sách này đã đưa đất nước vào một quỹ đạo phát triển mới, không còn lệ thuộc vào chính quyền đô hộ ngoại bang. + Về mặt chính trị - hành chính: Khúc Hạo đã chia lại các khu vực hành chính, thay toàn bộ các châu, huyện do nhà Đường cắt đặt trước đây thành những đơn vị hành chính mới, gồm có: lộ, phủ, châu và xã1. Khúc Hạo cũng cho đổi đơn vị hương mà nhà Đường đã đặt trước kia thành giáp. Sách An Nam chí [nguyên] của Cao Hùng Trưng có ghi: “Giữa niên hiệu Khai Bình (907 - 910) nhà Lương, Tiết độ Khúc Hạo lại đổi hương làm giáp, đặt thêm 150 giáp, cộng với số đã có từ trước tất cả là 314 giáp...”2. Để quản lý đơn vị cấp cơ sở là giáp và xã, Khúc Hạo cho đặt ra các chức quan để trông nom việc thu thuế và bắt lính. Mỗi giáp đều đặt chức quản giáp (giáp trưởng) và phó tri giáp. Ở xã đặt chức lệnh trưởng và tá lệnh trưởng3. Việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính và cắt đặt chế độ quan chức tại cấp cơ sở của Khúc Hạo đánh dấu một bước tiến quan trọng và mang ý nghĩa 1, 3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.218. 2. Cao Hùng Trưng: An Nam chí nguyên (bản dịch của Hoa Bằng), bản in của Viện Viễn Đông Bác Cổ, Hà Nội, 1932, q.1, tr.81. 41 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) sâu sắc đối với xã hội nước ta lúc bấy giờ. Một mặt cho thấy sự độc lập của chính quyền họ Khúc, không phụ thuộc vào những mệnh lệnh của chính quyền phong kiến phương Bắc, mặt khác chứng tỏ chính quyền họ Khúc đã có khả năng kiểm soát tới tận làng xã, đơn vị nhỏ nhất mà chính quyền đô hộ trước đó không thể làm được. + Về kinh tế - xã hội: Khúc Hạo thực hiện chính sách thuế khóa, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu... cho “bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ họ tên, quê quán, giao cho giáp trưởng trông coi”1. Cùng với việc lập sổ hộ khẩu, kê khai họ tên, quê quán của nhân đinh, ông còn cho sửa lại chế độ điền tô và phú dịch. Những cải cách trên đây của họ Khúc mang ý nghĩa lớn, mở ra bước phát triển mới cho xã hội sau một thời gian dài bị phụ thuộc và đặc biệt cuộc cải cách đó đã đặt cơ sở cho các triều đại quân chủ sau này có điều kiện tiếp tục thúc đẩy lên một tầm cao mới. Đường lối “Khoan - Giản - An - Lạc” hợp lòng dân, phù hợp với xã hội đương thời đã đưa những cải cách của ông đến thành công như sử sách từng ca ngợi: “Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui...”2. Khúc Hạo được coi là nhà cải cách đầu tiên của nước ta. Đánh giá về những việc làm của Khúc Thừa Dụ và Khúc Hạo, sử thần Ngô Thì Sĩ đã viết: “Thừa Dụ tính khoan hòa, yêu quý người, được mọi người suy tôn mến phục. Tăng Cổn thời Đường bỏ phủ thành chạy, Thừa Dụ tự xưng Tiết độ sứ, xin mệnh triều đình. Vua Đường nhân đó trao cho chức ấy. Hạo dựa vào cơ nghiệp cũ, giữ La Thành xưng là tiết độ, chia đặt các xứ, lộ, phủ, châu, xã; đặt chức lệnh trưởng chánh và tá, chia thuế ruộng, trừ bỏ việc phu phen, lại làm sổ hộ, ghi họ tên quê quán do giáp trưởng đốc suất làm việc ấy. Chính sự rộng rãi giản dị, dân được yên ổn”3. Năm 917, Khúc Hạo qua đời, con trai là Khúc Thừa Mỹ thay cha làm Tiết độ sứ. 1, 2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.218. 3. Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, tr.138. Trong đoạn này, Ngô Thì Sĩ nhầm Độc Cô Tổn với Tăng Cổn. Sử liệu cho biết, năm 880, quân ở phủ Đô hộ làm loạn, Tiết độ sứ Tăng Cổn bỏ chạy khỏi thành. Họ Khúc giành quyền tự chủ khi viên Tiết độ sứ cuối cùng ở Giao Châu là Độc Cô Tổn bị biếm truất (907). 42 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Khúc Thừa Mỹ là người kế vị thứ ba của chính quyền tự chủ họ Khúc. Khúc Thừa Mỹ từng được cử đi sứ sang Trung Quốc. Khi Khúc Hạo mất, ông trở về nước kế vị chức An Nam đô hộ Tiết độ sứ. b) Nhà Nam Hán xâm lược Giao Châu Năm 930, vua Nam Hán nhân cớ Khúc Thừa Mỹ thần phục nhà Hậu Lương và có ý chống lại Nam Hán, đã sai Lương Khắc Trinh và Lý Thủ Dung1 đem quân sang đánh Giao Châu. Cuộc tấn công diễn ra ồ ạt, bất ngờ, trong khi đó, Khúc Thừa Mỹ còn chưa kịp chuẩn bị đầy đủ mọi mặt nên nhanh chóng thất bại. Khúc Thừa Mỹ bị Lương Khắc Trinh bắt đem về Quảng Châu. Nước ta lại bị rơi vào tay nhà Nam Hán. Sau khi chiếm được Giao Châu, Lương Khắc Trinh đã đưa quân tiến xuống vùng Ái Châu, Hoan Châu, rồi tấn công xuống nước Chiêm Thành, cướp nhiều của cải đem về. Sau đó, triều đình Nam Hán đã cử thêm Lý Tiến2 sang và cùng với Lương Khắc Trinh ở lại coi giữ thành Đại La. Thất bại của cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán dưới thời Khúc Thừa Mỹ là dấu mốc kết thúc sứ mệnh lịch sử của chính quyền họ Khúc được dựng lên từ năm Ất Sửu (905) dưới thời Khúc Thừa Dụ. Sử thần Lê Tung đã nhận xét về sự nghiệp đấu tranh giành quyền tự chủ của họ Khúc đầu thế kỷ X như sau: “Khúc Tiên chúa [Thừa Dụ] mấy đời là hào tộc, mạnh sáng trí lược, nhân nhà Đường mất, lòng người yêu mến, suy tôn làm chúa, dựng đô La Thành, dân yên nước trị, công đức truyền mãi, nhưng hưởng tuổi không dài. Khúc Trung chúa [Hạo] nối cơ nghiệp trước, khoan hòa có phong thái của ông nội, trù hoạch quyết thắng, ngoài ý mọi người, chống chọi các nước Bắc triều, là bậc chúa hiền của nước Việt, định ra hộ tịch và chức quản giáp, chế độ mới lập ít nhiều, nửa chừng thì mất. Đến đời Hậu chúa [Thừa Mỹ] nhằm can qua, nặng phú dịch, trăm họ oán trách rồi bị Nam Hán đánh diệt”3. Tuy đã tái lập được ách đô hộ trên đất nước ta, nhưng thực tế chính quyền đô hộ Nam Hán mới chỉ thiết lập bộ máy cai trị của chúng ở Đại La và những 1. Sách Đại Việt sử ký toàn thư và sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chỉ chép là Lý Khắc Chính. 2. Xem Tác giả khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV: Việt sử lược, Sđd, tr.39. 3. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.1, tr.121. 43 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) vùng phụ cận, chứ không thể kiểm soát được tất cả những hương, giáp do người Việt quản lý trong gần suốt 30 năm kể từ khi họ Khúc giành quyền tự chủ. Trước tình hình đó, vua Nam Hán đã khuyên quan lại được cử sang nước ta rằng: “Dân Giao Chỉ hay làm loạn, chỉ có thể ràng buộc (kimi) mà thôi”1. Đúng như sự lo lắng của triều đình Nam Hán, tại các địa phương, nhiều hào trưởng và tướng lĩnh của họ Khúc, vẫn còn duy trì được lực lượng riêng của mình và nắm quyền quản lý nhiều vùng đất rộng lớn mà chính quyền đô hộ nhà Nam Hán không thể nào với tay tới được: vùng đất Đường Lâm (thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội ngày nay) thuộc quyền nắm giữ của họ Ngô; vùng đất Phong Châu (thuộc Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc ngày nay) thuộc quyền nắm giữ của họ Kiều; vùng đất Cổ Pháp (thuộc Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay) thuộc quyền nắm giữ của họ Lý; vùng đất Hoa Lư (thuộc Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay) thuộc quyền nắm giữ của họ Đinh; vùng đất Bối Lý (thuộc huyện Đông Sơn, Thanh Hóa ngày nay) thuộc quyền nắm giữ của họ Lê... Đặc biệt là vùng đất Dương Xá (thuộc thành phố Thanh Hóa ngày nay) do họ Dương - một dòng họ lớn có thế lực ở Thanh Hóa nắm giữ. c) Dương Đình Nghệ khôi phục quyền tự chủ Dương Đình Nghệ là nha tướng của Khúc Hạo, quê ông ở làng Ràng (còn gọi là Dương Xá, nay thuộc thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Làng Ràng nằm ở phía hữu ngạn sông Mã, là một làng cổ của vùng đồng bằng Thanh Hóa. Qua nhiều đời sinh cơ lập nghiệp trên miền đất trù phú ở vùng trung tâm đồng bằng sông Mã thuộc châu Ái, họ Dương đã trở thành một dòng họ lớn mạnh hàng đầu của vùng châu Ái và có uy tín, ảnh hưởng sâu rộng khắp vùng. Trong công cuộc đấu tranh giành lại quyền tự chủ của họ Khúc, người đứng đầu dòng họ Dương là Dương Đình Nghệ đã đóng góp nhiều công sức và trở thành một bộ tướng tin cẩn của chính quyền họ Khúc. Sách Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ chép về Dương Đình Nghệ: “... trước làm tướng cho họ Khúc, đến khi Lý Khắc Chính bắt được Thừa Mỹ, lập cách báo thù cho Khúc, 1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.202; Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.220. 44 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... bèn đặt ra trường đánh vật chiêu tập các hào kiệt, lấy đại nghĩa khuyến khích họ, đồng mưu với nhau đánh đuổi tướng Hán là Lý Khắc Chính”1. Sau khi quân Nam Hán xâm lược nước ta lần thứ nhất, tại vùng châu Ái, Dương Đình Nghệ đã chuẩn bị lực lượng để khôi phục lại sự nghiệp của họ Khúc. Nhiều thư tịch cổ đều chép Dương Đình Nghệ nuôi 3.000 con nuôi (hay 3.000 tráng sĩ) để mưu khôi phục giang sơn. Tất cả những người “con nuôi” này đều mang họ Dương. Đây thực chất là những gia nô, những thuộc hạ thân tín và khi có chiến tranh họ trở thành quân đội riêng của dòng họ Dương. Trong đền thờ Dương Đình Nghệ ở làng Ràng trước đây có câu đối: Dưỡng tam thiên nghĩa tử dĩ phục thù, hằng hằng sinh khí; Chưởng bát vạn hùng sự nhi xuất chiến, lẫm lẫm oai thanh. Dịch nghĩa: Nuôi ba vạn con nuôi để phục thù, khí mạnh không cùng, Cầm tám vạn quân hùng mà ra trận, uy danh lừng lẫy2. Thế và uy của họ Dương lúc ấy đã làm cho chính quyền đô hộ ở Đại La phải lo ngại. Viên quan coi giữ Giao Châu lúc ấy là Lý Tiến cũng biết rất rõ việc Dương Đình Nghệ “nuôi con nuôi” trong nhà là có ý định lấy lại Giao Châu nên sai chạy ngựa báo cho vua Nam Hán. Sau một thời gian chuẩn bị lực lượng, tháng Ba năm Tân Mão (931), từ Ái Châu, Dương Đình Nghệ đã cử Ngô Quyền, Đinh Công Trứ, Kiều Công Tiễn đem binh tiến ra Giao Châu, bao vây và tiến công thành Đại La (Hà Nội). Lý Tiến không chống cự nổi đành phải cố thủ trong thành để chờ xin viện binh. Từ bên kia biên giới, vua Nam Hán vội vã sai Thừa chỉ Trần Bảo (Trình Bảo) đem quân sang Giao Châu cứu viện. Viện quân của Nam Hán chưa đến nơi, thành Đại La đã bị hạ, quân trong thành tan vỡ, tướng Lý Khắc Chính bị giết chết. Thứ sử Lý Tiến cùng đám tàn binh thoát vây tìm đường trốn về nước. Trần Bảo đem quân tiếp viện đến vây Đình Nghệ ở thành Đại La. Đình Nghệ dẫn quân ra ngoài thành chiến đấu, chém chết Trần Bảo, khiến quân tiếp viện Nam Hán nhanh chóng tan vỡ3. Chính quyền đô hộ của nhà Nam Hán thiết lập ở Giao Châu chưa đầy một năm đã bị nhân dân ta lật đổ. 1. Ngô Thì Sĩ: Việt sử tiêu án, Sđd, tr.78. 2. Xem Nguyễn Danh Phiệt (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Tập 2 - Thế kỷ X - đầu thế kỷ XV, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, tr.24. 3. Xem Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.202-203. 45 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Như vậy, một lần nữa nền độc lập dân tộc lại được khôi phục sau chưa đầy một năm bị mất vào tay nhà Nam Hán. Dương Đình Nghệ thực sự là một người có công lớn kế tục sự nghiệp của họ Khúc đánh đuổi giặc ngoại xâm, đưa cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta phát triển thêm một bước mới. Chiến thắng của Dương Đình Nghệ trong cuộc kháng chiến chống Nam Hán lần thứ nhất (931) là chiến thắng chống ngoại xâm đầu tiên của nhân dân ta ở giai đoạn lịch sử này, mở màn cho hàng loạt cuộc kháng chiến kiên cường, đầy sáng tạo sau này của dân tộc. Chiến thắng của Dương Đình Nghệ chứng tỏ ý chí độc lập của nhân dân ta đã trưởng thành, ý thức dân tộc đã được nêu cao. Nhân dân ta kiên quyết bảo vệ những thành quả đấu tranh của thế hệ đi trước, kiên quyết bảo vệ nền độc lập của đất nước. Sau khi đánh đuổi quân Nam Hán, đất nước được giải phóng, Dương Đình Nghệ lên nắm chính quyền và xưng là Tiết độ sứ1, quản lãnh công việc Giao Châu và đóng đô ở Đại La. Tại đây ông củng cố chính quyền tự chủ tiếp nối sự nghiệp của họ Khúc trước đó trong công cuộc tái thiết đất nước. d) Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán Công cuộc tái thiết đất nước dưới sự lãnh đạo của Dương Đình Nghệ đang tiến triển tốt đẹp thì tháng Ba năm Đinh Dậu (tháng 4/937), Dương Đình Nghệ bị nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn ám hại2 để đoạt chức Tiết độ sứ và cầu viện nhà Nam Hán trước khi Ngô Quyền đưa quân từ Ái Châu ra Đại La đánh Kiều Công Tiễn. Cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của quân Nam Hán đã nhanh chóng bị quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của người thủ lĩnh tài ba Ngô Quyền đập tan trong chiến thắng Bạch Đằng lịch sử cuối năm Mậu Tuất (938). Mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền xưng vương, bỏ chức tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc. Việc xưng vương hiệu này như một sự tuyên bố về quyền độc lập dân tộc, hoàn toàn phủ nhận quyền thống trị của phong kiến phương Bắc. 1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.221. 2. Xem Việt sử lược, Sđd, tr.40; Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.203; Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.221. 46 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Khi lên ngôi, Ngô Quyền đã chọn Cổ Loa làm kinh đô, “lập Dương thị làm Hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục”1. Với việc sáng lập vương triều Ngô và xây dựng bộ máy nhà nước, Ngô Quyền đã hoàn toàn chấm dứt thời Bắc thuộc, mở ra một kỷ nguyên mới, độc lập, tự chủ lâu dài cho đất nước. e) Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập với Hải Dương Ngô Xương Ngập là con trưởng của Ngô Quyền. Ông sinh năm nào chưa rõ, tuy nhiên, sử sách đã ghi công ông trong nhiều sự kiện quan trọng. Năm Mậu Tuất (938), trong trận đánh thành Đại La, tiêu diệt Kiều Công Tiễn, Ngô Xương Ngập cùng với cậu là Dương Tam Kha làm tiên phong. Trong chiến thắng Bạch Đằng cuối năm Mậu Tuất (938), Ngô Xương Ngập cũng là tướng tiên phong chỉ huy một cánh quân. Sau khi đất nước độc lập, Ngô Quyền xây dựng chính quyền quản lý đất nước, Ngô Xương Ngập được vua cha giao cho sứ mệnh cai quản vùng đất trọng yếu khu vực Đông Bắc Tổ quốc. Trong thời gian trấn giữ vùng đất Hải Đông (thuộc Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương ngày nay), Ngô Xương Ngập đã gây dựng được nhiều mối quan hệ và được nhân dân trong vùng tin yêu, quý mến. Năm Giáp Thìn (944), Ngô Quyền qua đời, trước lúc lâm chung, vua đã có di mệnh cho em vợ là Dương Tam Kha giúp đỡ cho Ngô Xương Ngập lên ngôi trị vì đất nước. Tuy nhiên, Dương Tam Kha đã nhân cơ hội đó mà giành lấy ngôi vua, tự xưng là Bình vương. Trong bối cảnh đó, Ngô Xương Ngập sợ hãi nên đã bỏ trốn khỏi kinh đô Cổ Loa về ẩn náu tại nhà Phạm Lệnh Công (Phạm Chiêm) ở vùng Trà Hương (nay thuộc huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Sự kiện này được sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại như sau: “Lúc trước, Tiền Ngô Vương bệnh nặng, có di chúc cho Tam Kha giúp rập cho con. Khi Vương mất, Tam Kha cướp ngôi. Con trưởng của Ngô Vương là Xương Ngập sợ, chạy về Nam Sách Giang, trú ngụ ở nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương”2. Sau khi Xương Ngập bỏ trốn, Tam Kha đã lấy người con thứ hai của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi. Tuy nhiên, ông vẫn không từ bỏ ý đồ truy lùng bằng được Xương Ngập. Tam Kha đã ba lần sai các tướng là Đỗ Cảnh Thạc, Dương Cát Lợi đem quân đến nhà Phạm Lệnh Công đòi bắt Xương Ngập nhưng không thành. 1, 2. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.204, 205. 47 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Năm Canh Tuất (950), nhân cơ hội được Tam Kha cử làm tướng đi đánh dẹp hai thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình1, khi đến đất Từ Liêm, Xương Văn bất ngờ đem quân quay lại đánh úp Tam Kha, giành lại ngôi và giáng Bình vương Dương Tam Kha xuống là Chương Dương công, ban cho thực ấp ở Chương Dương2. Năm Tân Hợi (951), Ngô Xương Văn cho người về Trà Hương đón anh trai là Xương Ngập lên kinh đô cùng trị vì đất nước. Xương Ngập xưng là Thiên Sách vương, Xương Văn là Nam Tấn vương. Năm Giáp Dần (954), Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập mất, Nam Tấn vương một mình trị quốc đến năm Ất Sửu (965) thì qua đời trong một lần đi đánh dẹp hai thôn Đường, Nguyễn. Cuộc đời Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập khi chưa trở lại Cổ Loa có nhiều gắn bó với vùng đất Xứ Đông. Điều này còn lưu dấu ở những truyện kể và tư liệu dân gian trong vùng. Thiên Sách vương còn được thờ tại một số nơi như đền Quan Hàm, xã An Trì, huyện An Dương, phủ Kinh Môn (nay là đình An Trì, phường Hùng Vương, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng); đền Lương Xâm (nay thuộc phường An Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng). Nội dung bản Tiền Ngô Vương thiên tử ngọc phả lưu tại đền Lương Xâm có ý ca ngợi Ngô Xương Ngập khi cho ông là người nghĩ ra mưu kế đóng cọc ngầm trên sông Bạch Đằng để phá đội thuyền chiến của quân Nam Hán. Ngọc phả viết: khi Ngô Quyền “nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo với các tướng rằng: “Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, mang quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe tin Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, chí khí đã bị mất rồi. Ta lấy sức còn khỏe để địch với sức đang yếu, tất sẽ phá được địch”. Nói đến đây bỗng ở trong ban bộ có một người dâng lời, thưa rằng: “Quân địch có lợi thế ở chiến hạm, ta chưa chuẩn bị trước thì thắng thua chưa biết thế nào. Xin vương cho trồng cọc ở hai bên cửa biển, khi nước thủy triều dâng lên, sai người lấy thuyền nhẹ giao chiến với quân địch, giả dạng thua chạy để mà đánh, tất quân của Hoằng Tháo tự tan như ngói vỡ!”. Vương cho là đúng, mới đưa mắt nhìn người nói, hóa ra là con trưởng Xương Ngập”3. 1. Có thể là hai thôn Đường Lâm và Nam Nguyễn ở vùng Ba Vì, Sơn Tây, Hà Nội ngày nay. 2. Nay thuộc xã Chương Dương, huyện Thường Tín, Hà Nội. 3. Dẫn theo https://ngotoc.vn/Hoat-dong-dong-ho/hoi-dong-ngo-toc-vn-lam-viec tai-hai-phong-367.html, truy cập ngày 20/3/2019. 48 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Bản ngọc phả có phần ca ngợi, đề cao tầm ảnh hưởng của Ngô Xương Ngập khi cho ông là người đưa ra ý kiến về việc đóng cọc ngầm trên sông Bạch Đằng, nhưng trên thực tế đây là kết quả nghiên cứu thủy triều và nghệ thuật quân sự của Ngô Quyền. Tuy nhiên, vai trò tướng tiên phong của Ngô Xương Ngập dưới sự chỉ huy của Ngô Quyền trong trận chiến Bạch Đằng là không thể phủ nhận. Tư liệu dân gian tại làng Thụy Trà (xã Nam Trung, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) còn cho biết: Trong thời gian Ngô Xương Ngập trốn ở nhà Phạm Lệnh Công, do nhiều lần bị truy lùng nên Phạm Lệnh Công đã phải đưa Xương Ngập trốn vào trong rừng núi. Nơi ẩn náu có tên là núi Côn, cây cối rậm rạp trải rộng bốn phía. Tương truyền, một lần quân của Dương Tam Kha lùng tìm nhưng không được mới phóng hỏa hun khói mù mịt để Ngô Xương Ngập phải ra hàng, thế nhưng mưu kế này thất bại. Từ chuyện đó mà núi Côn còn có tên là núi Hun1 (Hun Sơn). Cũng trong thời gian này, Ngô Xương Ngập nhận được sự chăm sóc tận tình của con gái Phạm Lệnh Công là Phạm Thị Uy Duyên, người con gái xinh đẹp, đức hạnh. Dần dần, tình cảm của vị Thái tử sa cơ với người con gái đất Hồng Châu đã nảy nở, ngày càng quyến luyến, sâu đậm. Biết con gái có tình cảm sâu đậm với Ngô Xương Ngập, Phạm Lệnh Công vui mừng tán thành, vun vén cho tình cảm của họ, ông đã đồng ý gả con gái cho Thái tử và chọn ngày lành tháng tốt tổ chức hôn lễ. Sau này, Ngô Xương Ngập lên ngôi xưng là Thiên Sách vương, lập Phạm Thị Uy Duyên làm Thị Tùng phu nhân. Bà sinh ra Ngô Xương Xí. Như vậy, Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập tuy không sinh ra trên đất Hải Dương, nhưng cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn bó mật thiết với vùng đất này: từ việc tham gia trận thủy chiến Bạch Đằng, làm quan trấn giữ vùng đất Đông Bắc (trong đó có Hải Dương) đến khi lánh nạn và lấy vợ, sinh con đều trên đất Hải Dương. 1. Có ý kiến cho rằng: Tư liệu dân gian tại thôn Tiên Sơn, phường Cộng Hòa, thành phố Chí Linh cho biết chùa Côn Sơn còn có tên là chùa Hun bởi vào thời kỳ loạn 12 sứ quân, Phạm Bạch Hổ (tức Phạm Phòng Át) từng giao chiến, phóng hỏa núi rừng Côn Sơn... Theo đó, tên chùa không liên quan tới việc Dương Tam Kha truy bắt Ngô Xương Ngập. 49 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) 3. Hải Dương thời kỳ 12 sứ quân (965 - 967) a) Cục diện 12 sứ quân Ngay từ năm Giáp Thìn (944), sau khi Ngô Quyền mất, nhiều biến loạn chính trị diễn ra trong triều đình Cổ Loa đã làm cho nhà nước trung ương suy yếu, không còn khả năng khống chế được các hào trưởng địa phương. Các lực lượng này nhân cơ hội đó đã nổi dậy. Năm Ất Sửu (965), Nam Tấn vương Ngô Xương Văn tử trận, chính thức cho thấy chính quyền trung ương nhà Ngô không còn đủ uy tín và sức mạnh để cai quản đất nước. Trong bối cảnh đó hình thành nên 12 thế lực chiếm giữ các vùng khác nhau đưa đất nước đến “cục diện 12 sứ quân”1. 1. Về danh hiệu “sứ quân”: đây không phải là một danh xưng mà các thủ lĩnh cát cứ tự xưng khi nổi dậy. Danh xưng này chỉ được chép lại trong một số thư tịch cổ ở Việt Nam như sách Việt sử lược ghi là “Thập nhị sứ quân”, Đại Việt sử ký toàn thư ghi là “Ngô sứ quân (phụ: các sứ quân)”. Vậy sứ quân nghĩa là gì? Sách Từ nguyên và Từ hải giải thích về sứ quân: 1) Từ dùng để chỉ viên quan đứng đầu châu quận; 2) Tiếng xưng hô tôn kính đối với những viên quan lại mang theo sứ mệnh của triều đình. Như vậy, danh hiệu sứ quân bao gồm nội dung về chức tước, uy quyền của người thuộc hàng ngũ quan tước. Mười hai sứ quân bao gồm: 1. Ngô Xương Xí: là con của Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập, chiếm giữ vùng đất Bình Kiều (nay thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa). 2. Trần Lãm (xưng là Trần Minh Công): chiếm giữ vùng đất Bố Hải Khẩu (nay thuộc tỉnh Thái Bình). 3. Nguyễn Khoan (xưng là Nguyễn Thái Bình) - là anh của Nguyễn Thủ Tiệp và Nguyễn Siêu: chiếm giữ vùng Tam Đái (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc). 4. Nguyễn Thủ Tiệp (xưng là Nguyễn Lệnh Công): chiếm giữ vùng đất Tiên Du (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). 5. Nguyễn Siêu (xưng là Nguyễn Hữu Công): chiếm giữ vùng đất Phù Liệt (nay thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội). 6. Lý Khuê (xưng là Lý Lãng Công): chiếm giữ vùng đất Siêu Loại (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). 7. Lã Đường (xưng là Lã Tá Công): chiếm giữ vùng đất Tế Giang (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). 8. Phạm Bạch Hổ (xưng là Phạm Phòng Át): chiếm giữ vùng đất Đằng Châu (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). 9. Kiều Công Hãn (xưng là Kiều Tam Chế): chiếm giữ vùng đất Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). 10. Kiều Thuận (xưng là Kiều Lệnh Công): chiếm giữ vùng đất Cẩm Khê (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). 11. Đỗ Cảnh Thạc (xưng là Đỗ Cảnh Công): chiếm giữ vùng đất Đỗ Động Giang (nay thuộc huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội). 12. Ngô Nhật Khánh (xưng là Ngô Lãm Công): chiếm giữ vùng đất Đường Lâm (nay thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội). 50 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Thực tế, ở nước ta, khi nổi dậy các thủ lĩnh cũng không tự xưng mình là “sứ quân” mà chỉ dùng chữ “công” để ghép vào danh xưng của mình như: Ngô Nhật Khánh xưng là Ngô Lãm Công, Đỗ Cảnh Thạc xưng là Đỗ Cảnh Công, Lý Khuê xưng là Lý Lãng Công... Danh hiệu “sứ quân” là do các sử gia đời sau tham khảo thư tịch Trung Quốc để gán vào. Dựa trên những đặc điểm của các sứ quân, hiện nay, các nhà sử học cho rằng: Các sứ quân là các “thủ lĩnh địa phương”, họ đều thuộc dòng dõi con cháu hoặc tướng lĩnh cũ của nhà Ngô, nhiều người là anh em ruột thịt, họ có cả thế lực quân sự và kinh tế ở địa phương. Sau khi triều đình Cổ Loa sụp đổ, các sứ quân được dân chúng trong vùng đất họ chiếm giữ suy tôn, quy phục, đóng góp sức người, sức của để xây dựng lực lượng cho họ, đồng thời họ có trách nhiệm bảo vệ an ninh và quyền lợi cho cả vùng. Theo cách hiểu trên thì các sứ quân chỉ xuất hiện duy nhất trong lịch sử Việt Nam ở thế kỷ X. b) Phạm Bạch Hổ, một trong 12 sứ quân, trấn giữ Hải Đông Phạm Bạch Hổ sinh tại vùng Đằng Châu (nay thuộc phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên). Theo một số tư liệu thì thân phụ của Phạm Bạch Hổ chính là Phạm Lệnh Công. Tương truyền, Phạm Lệnh Công có thời gian đi buôn bán ở bến Lảnh thuộc Đằng Châu rồi lấy vợ sinh ra Bạch Hổ tại nơi này1. Như vậy, quê gốc của Phạm Bạch Hổ là vùng Nam Sách, Hải Dương ngày nay. Ngay từ nhỏ, Phạm Bạch Hổ đã nổi tiếng hiếu học, có tư chất thông minh, tính tình nóng nảy và cương trực. Năm Đinh Hợi (927), khi mới 18 tuổi, Phạm Bạch Hổ đã là hào trưởng vùng Đằng Châu, tầm ảnh hưởng của ông còn lan cả ra một số vùng lân cận thuộc Hồng Châu. Năm Tân Mão (931), Dương Đình Nghệ từ Ái Châu kéo ra đánh đuổi quân Nam Hán xâm lược, Phạm Bạch Hổ đã gia nhập và trở thành một bộ tướng của Dương Đình Nghệ. Sau khi Dương Đình Nghệ bị sát hại, ông lại đem binh mã của mình gia nhập lực lượng của Ngô Quyền. Dưới quyền lãnh đạo của Ngô Quyền, Phạm Bạch Hổ trở thành một viên tướng tài ba, dũng mãnh. Ông là một trong những người góp công lớn trong chiến thắng Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938). Sau khi đánh thắng quân Nam Hán 1. Một số tài liệu ghi năm sinh, năm mất của Phạm Bạch Hổ là 910 - 972, cũng có tài liệu ghi năm sinh, năm mất của ông là 902 - 983. 51 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) lần thứ hai, Ngô Quyền phong ông làm Châu mục Đằng Châu coi giữ vùng đất Hưng Yên, một phần Hải Dương và Thái Bình ngày nay1. Năm Ất Sửu (965), khi Nam Tấn vương mất, các hào kiệt cả nước cùng nổi lên cát cứ, Phạm Bạch Hổ đã trấn giữ vùng cửa biển sông Hồng, cửa ngõ quan trọng vào thành Đại La, cai quản một vùng đất đai rộng lớn, giúp nhân dân khai khẩn đất hoang, đất bồi để sản xuất nông nghiệp. Phạm Bạch Hổ là thủ lĩnh một trong 12 sứ quân cát cứ vùng Đằng Châu lúc bấy giờ. Những dấu tích ở Côn Sơn, Đông Triều cho thấy khu vực chiếm đóng của Phạm Bạch Hổ còn lan ra cả vùng Đông Bắc, tức khu vực Hải Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng ngày nay. Khi Đinh Bộ Lĩnh phất cờ tụ nghĩa, đánh dẹp 12 sứ quân, đầu năm Bính Dần (966), Phạm Bạch Hổ là sứ quân đầu tiên quy thuận và hợp tác với Đinh Bộ Lĩnh. Từ đó, Phạm Bạch Hổ cùng Đinh Bộ Lĩnh xông pha trận mạc đánh dẹp các sứ quân không đầu hàng và hoàn toàn loại bỏ 12 sứ quân. Năm Mậu Thìn (968), khi lên ngôi hoàng đế, Đinh Tiên Hoàng phong Phạm Bạch Hổ làm Thân vệ đại tướng quân2. Sau khi mất, Phạm Bạch Hổ được nhân dân nhiều nơi như: Hưng Yên, Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Thái Bình, Nam Định... tôn thờ. Các nơi thờ tập trung nhiều nhất ở khu vực đạo Hải Đông xưa, tức vùng Đông Bắc Việt Nam ngày nay, vốn gắn bó nhiều với cuộc đời và sự nghiệp của ông3. c) Thế lực hào trưởng Hải Dương giúp Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước Trong quá trình thu phục 12 sứ quân, thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ và tin theo của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong cả nước. Hải Dương là một trong những vùng đất có nhiều đóng góp trong công cuộc thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh. Trong số lực lượng 1. Có tài liệu dân gian cho là Phạm Bạch Hổ được phong chức Phòng Át tướng quân trấn giữ vùng Hải Đông bao gồm Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Ninh ngày nay. 2. Xem Lã Đăng Bật: Nhân vật lịch sử kinh đô Hoa Lư (968 - 1010), Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2016, tr.136-137. 3. Về ngày hóa của Phạm Bạch Hổ, truyền thuyết địa phương kể rằng: Tương truyền, vào ngày rằm tháng Một, có một đám mây vàng sà xuống dinh Bạch Hổ. Ông theo mây vàng mà bay đi vào ngày 16 tháng Một. Dân Đằng Châu nhớ ơn công đức, tôn ông là Vua Mây và xây miếu thờ ông gọi là Đền Mây. 52 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... ủng hộ Đinh Bộ Lĩnh, có nhiều hào trưởng ở Hải Dương được nhân dân các địa phương tôn thờ đến ngày nay: Phạm Hạp: Phạm Hạp là người Trà Hương (nay là thôn Thụy Trà, xã Nam Trung, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông sinh ra trong một gia đình dòng dõi thế gia: ông nội là Phạm Lệnh Công (Phạm Chiêm) từng giữ chức Đông giáp tướng quân thời Ngô Quyền và là người đã có công che chở, giúp đỡ Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập; cha là Phạm Man làm đến chức Tham chính đô đốc thời Nam Tấn vương1, em trai là Phạm Cự Lạng - một danh tướng thời Đinh - Lê. Phạm Hạp từ nhỏ đã tỏ rõ tư chất thông minh, có chí lớn, văn võ toàn tài. Ông thường cùng em trai là Phạm Cự Lạng đem tiền của chiêu dụ tướng sĩ, mua ngựa luyện quân. Khi Đinh Bộ Lĩnh dấy binh đánh dẹp 12 sứ quân, Phạm Hạp cùng em trai đem người, ngựa từ Trà Hương vào Hoa Lư phò Đinh Bộ Lĩnh2. Đinh Bộ Lĩnh đã thu nhận và đều phong hai anh em ông làm tướng tiên phong. Trong quá trình phò giúp Đinh Bộ Lĩnh, Phạm Hạp đã lập được nhiều công lớn3. Vì vậy, sau khi thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế, Đinh Tiên Hoàng đã phong cho ông làm Vệ úy4. Trong thời gian làm quan dưới triều Đinh, Phạm Hạp một lòng trung thành phò tá triều đình và cũng nhiều lần dẫn quân đi đánh dẹp những nơi bất ổn. Năm Kỷ Mão (979), Đinh Tiên Hoàng bị viên Chi hậu nội nhân Đỗ Thích sát hại, triều thần đưa Vệ vương Đinh Toàn lên nối ngôi khi mới 6 tuổi. Vua còn nhỏ, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn làm Nhiếp chính xưng là Phó vương. Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp là những đại thần triều Đinh cho là Lê Hoàn sẽ làm bất lợi cho Đinh Toàn nên cùng nhau dấy binh tiến đánh Lê Hoàn. Sự việc không thành, Đinh Điền bị giết chết tại trận, Nguyễn Bặc bị Lê Hoàn bắt, đóng cũi đưa về Hoa Lư xử tử. “Quân của Phạm Hạp mất 1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.III, tr.436-437. 2. Một số truyền thuyết cho biết số quân của Phạm Hạp và Phạm Cự Lạng gia nhập đội quân của Đinh Bộ Lĩnh lên đến 2.000 người. 3. Thần tích đình Hướng Nghĩa, xã Minh Thuận, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định cho rằng Phạm Hạp chính là người đánh bại và chém chết sứ quân Nguyễn Khoan ở Tam Đái. 4. Xem Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, tr.162. 53 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) tinh thần, chạy lên Bắc Giang; Lê Hoàn đem quân đuổi theo, bắt đưa về kinh đô, giết chết”1. Nhìn vào cuộc đời, sự nghiệp của Phạm Hạp cho thấy: ông là người kiên định ý chí, toàn tâm toàn ý phò giúp họ Đinh trong cả quá trình thống nhất đất nước và việc xây dựng chính quyền nhà nước quân chủ độc lập của nhà Đinh. Phạm Cự Lạng: Phạm Cự Lạng là em trai Phạm Hạp. Ông sinh ra, lớn lên, cùng học tập và luyện võ nghệ cùng anh trai mình. Khi đất nước gặp biến loạn, ông đã cùng với Phạm Hạp đem quân vào phò tá Đinh Bộ Lĩnh. Dưới triều Đinh, anh em họ Phạm ra sức giúp rập triều đình, lập nhiều công lớn. Phạm Hạp và Phạm Cự Lạng được Đinh Tiên Hoàng giao cho trấn giữ vùng cửa biển Đại Ác (tức cửa Đại Nha, nay thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định). Hai anh em ông đã hoàn thành xuất sắc công việc và được nhân dân tin yêu2. Tuy nhiên, sau biến cố năm Kỷ Mão (979), trong khi Phạm Hạp ra sức can ngăn, phản đối Lê Hoàn thì Phạm Cự Lạng lại là người ủng hộ Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế thay cho Đinh Toàn còn quá nhỏ chưa lo được việc nước. Sự việc trên đã dẫn đến hậu quả là Đinh Điền, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp đều bị Lê Hoàn trừ bỏ. Trong khi đó, Phạm Cự Lạng vẫn là một đại thần tin cẩn của Lê Hoàn. Dưới triều Tiền Lê, Phạm Cự Lạng tiếp tục lập được nhiều công lao to lớn. Ông đã góp mặt trong nhiều trận chiến đấu chống quân xâm lược Tống lần thứ nhất: từ trận Bạch Đằng (981) đến các trận Chi Lăng, Tây Kết và cả những cuộc hành quân đi đánh Chiêm Thành. Năm 986, ông được vua Lê Hoàn phong chức Thái úy3. Bên cạnh đóng góp của anh em Phạm Hạp, Phạm Cự Lạng, ở Hải Dương còn nhiều nhân vật có đóng góp cho công cuộc thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh. Những nhân vật này, sau khi qua đời họ đều được nhân dân tôn kính lập đền thờ và tôn làm thành hoàng làng. Thống kê trên địa bàn 1, 3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.245, 255. 2. Xem Đinh Thị Thùy Hiên - Đinh Thị Hải Đường: “Vài nét về Phạm Hạp và Phạm Cự Lạng”, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học: Vai trò của nhà nước Đại Cồ Việt trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2018, tr.441-458. 54 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... tỉnh Hải Dương hiện nay cho thấy: trong công cuộc thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh, vùng đất Hải Dương đã có tổng cộng 24 tướng lĩnh tham gia. Ở Hải Dương hiện nay cũng còn 23 di tích và cụm di tích thờ phụng Đinh Tiên Hoàng và các tướng lĩnh có quê Hải Dương hoặc có thời gian hoạt động trên đất Hải Dương. Bảng 1.1: Danh sách di tích thờ Đinh Tiên Hoàng và các vị tướng của ông trên địa bàn tỉnh Hải Dương STT Tên di tích Nhân vật được thờ Nơi thờ 1 Đình Bình An Hùng Lĩnh Tráng Trần Xã Tân Việt, huyện Bình Giang 2 Đình Chanh Trong Khang Công Xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang 3 Đình Bằng Trai Trình An Tể Xã Vĩnh Hồng, huyện Bình Giang 4 Đình Nhân Kiệt Đinh Điền Xã Hùng Thắng, huyện Bình Giang 5 Đình Bình Cách Trần Công tướng Xã Bình Xuyên, huyện Bình Giang 6 Đình Hồ Liễn Phạm Huyền Thông xã Vĩnh Hưng, huyện Bình Giang 7 Đình Đỗ Lâm Hạ Lý Trí Thắng Xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện 8 Đền Từ Ô Lý Uy (Oai), Lý Hồng Nương và Lý Võ Xã Tân Trào, huyện Thanh Miện 9 Đình Đỗ Lâm Thượng Lý Trí Thắng Xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện 10 Đình Bằng Bộ Cao Minh, hiệu là Viên Thông chiêu cảm Xã Cao Thắng, huyện Thanh Miện 11 Đình Thiệu Mỹ Đặng Chân, Trịnh Thị Khang và Đặng Trí Xã Vĩnh Lập, huyện Thanh Hà 12 Miếu Thánh Cả Đặng Châm, Trịnh Thị Khang, Đặng Trí Xã Thanh Bình, huyện Thanh Hà 13 Đền Từ Hạ (đền Thánh Cả) Đặng Châm, Đặng Trí Xã Thanh Bình, huyện Thanh Hà 14 Đình thôn Kỳ Tây Hoàng Uy Công, Hoàng Trung Công, Hoàng Chí Công Xã Cẩm Chế, huyện Thanh Hà 55 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) STT Tên di tích Nhân vật được thờ Nơi thờ 15 Đình Phương La Hoàng Uy Công, Hoàng Trung Công, Hoàng Chí Công Xã Cẩm Chế, huyện Thanh Hà 16 Đình Kim Đôi Thờ Pháp Vân, Pháp Lôi và Pháp Điện, là ba trong bốn vị thần của tục thờ Tứ pháp, một tín ngưỡng thờ siêu lực tự nhiên của người Việt cổ cầu mong mưa thuận, gió hòa trong sản xuất nông nghiệp Xã Cẩm Hoàng, huyện Cẩm Giàng 17 Đình Đông Quan Trung Liệt Đại vương, Viên Dương Đại vương, Thanh Độ Đại vương và Tả tướng Hoàng Tuy Công Đại vương Xã Tân Hưng, huyện Gia Lộc 18 Miếu An Cư Lộc Lê Viết Bao Xã Quang Minh, huyện Gia Lộc 19 Miếu Rồng Đào Ngọc Sâm Xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc 20 Miếu Phú Nội Đặng Sỹ Nghị, Đặng Sỹ Phan, Đặng Sỹ Lẫm Xã Bình Dân, huyện Kim Thành 21 Đình Ngọc Uyên Lê Viết Hưng, Lê Viết Quang Phường Ngọc Châu, thành phố Hải Dương 22 Đình Thụy Trà, chùa Thụy Trà, miếu Thụy Trà Phạm Công Hòa Xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách 23 Đình Dậu Trì Trần Minh Công Xã Hồng Thái, huyện Ninh Giang Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các hồ sơ di tích lưu tại Bảo tàng tỉnh Hải Dương và tư liệu điền dã của nhóm tác giả. 4. Hải Dương thời Đinh (968 - 980) và Tiền Lê (981 - 1009) a) Đinh Bộ Lĩnh xây dựng chính quyền tự chủ Năm Mậu Thìn (968), sau khi hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, lấy niên hiệu Thái Bình (970), đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng cho xây cung điện, quy định nghi thức triều đình, định phẩm hàm quan văn, quan võ. Vua phong cho Nguyễn Bặc là Định Quốc công, Đinh Điền là Ngoại giáp, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân. Một số tướng 56 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... lĩnh vùng Hải Dương cũng được nhà Đinh phong chức như: Phạm Hạp được phong Vệ úy, Phạm Bạch Hổ được phong Thân vệ đại tướng quân, Phạm Cự Lạng được Thái hậu Dương Vân Nga cử làm Đại tướng đem quân chống quân Tống xâm lược năm Canh Thìn (980); năm Bính Tuất (986), ông được vua Lê Đại Hành phong làm Thái úy. Về mặt pháp luật, nhà Đinh cho đặt vạc dầu lớn ở trước cửa sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, nhằm mục đích răn đe những người phạm pháp. Về ngoại giao, nhằm giữ hòa hiếu, tránh đụng độ với nhà Tống (Trung Quốc), năm Nhâm Thân (972), vua Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn sang triều cống cho nhà Tống. Vua Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó, Đại Cồ Việt giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Những việc làm trên cho thấy, đến thời Đinh Tiên Hoàng, nước Đại Cồ Việt đã là một quốc gia hoàn toàn độc lập, có bộ máy chính quyền riêng, quân đội, luật pháp và thiết chế tổ chức chính trị - xã hội riêng biệt, độc lập với chính quyền phong kiến Trung Quốc. b) Lê Hoàn lên ngôi, xây dựng nhà nước Tiền Lê Năm Kỷ Mão (979), vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị sát hại. Đinh Toàn lên ngôi khi tuổi còn quá nhỏ (6 tuổi), chưa đảm đương được việc nước, cho nên đã đẩy đất nước vào nguy cơ tồn vong trước âm mưu xâm lược của nhà Tống. Trước tình hình ấy, Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận, đi thẳng vào nội điện yêu cầu Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế trước khi xuất quân đánh giặc Tống xâm lược. Lê Hoàn lúc này là người duy nhất trong triều đình Hoa Lư hội đủ được uy tín và tài năng, tinh thần và lực lượng bảo vệ và gìn giữ nền độc lập dân tộc, nền thống nhất quốc gia trước cuộc tiến công xâm lược của nhà Tống. Dương Thái hậu “thấy mọi người vui lòng quy phục, bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế”1. Lê Hoàn lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thiên Phúc, giữ nguyên quốc hiệu Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư. Nhà Lê chính thức thành lập. Sử sách thường 1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.217. 57 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) gọi tên triều đại do Lê Hoàn lập là nhà Tiền Lê để phân biệt với nhà Hậu Lê sau này do Lê Lợi lập nên năm Mậu Thân (1428). Về tổ chức bộ máy nhà nước thời Tiền Lê: bộ máy chính quyền trung ương và hệ thống quan chế được tổ chức giống như đời Đường, Tống ở Trung Quốc. Thái sư đứng đầu triều, ở địa phương thì nhà Tiền Lê vẫn giữ chức Thứ sử. Năm Nhâm Dần (1002), nhà Tiền Lê đổi 10 đạo thời Đinh thành các đơn vị hành chính cấp lộ, phủ, châu. Lê Hoàn cũng phân phong cho các con đi trấn trị ở các địa phương. Ngoài ra, nhà Tiền Lê cũng có những quy định về binh chế, pháp chế. Hoạt động đối ngoại của triều Tiền Lê: Ngay sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đã tổ chức chỉ huy thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược với trận thắng Bạch Đằng lần thứ hai (năm Tân Tỵ, 981). Trong bang giao với nhà Tống, Lê Hoàn đã sử dụng chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo. Có lần sứ nhà Tống sang ban sắc phong của vua Tống, bắt vua phải quỳ nhận nhưng Lê Hoàn lấy cớ bị đau chân nên không quỳ. Sứ nhà Tống không làm gì được. Để tránh việc đón tiếp sứ giả phiền hà, tốn kém, Lê Hoàn còn đề nghị nước Tống từ lần sau hãy cử sứ giả đưa thư đến địa đầu biên giới và báo tin, triều đình Hoa Lư sẽ sai người lên tận nơi để nhận chiếu thư. Vua Tống cũng chấp thuận. Đối với Chiêm Thành ở phía Nam, từ lâu đã nhiều lần quấy phá nước ta. Năm Nhâm Ngọ (982), chúa Chiêm Thành còn bắt giữ sứ giả của Đại Cồ Việt. Lê Hoàn đã thể hiện thái độ cương quyết, đích thân thống lĩnh quân đội tấn công xuống phía Nam, đại phá được quân Chiêm Thành, giết chết quốc vương Chiêm Thành là Bê Mi Thuế, buộc Chiêm Thành phải cắt đất để bồi thường chiến phí cho Đại Cồ Việt. Sau chiến thắng này, biên giới của Đại Cồ Việt được mở rộng thêm. Nhà Tiền Lê thành lập đã tiếp nối các triều đại trước đó của đất nước ta giữ gìn được nền độc lập dân tộc và đạt được nhiều thành tựu lớn trong quản lý, điều hành và phát triển đất nước. Năm 1005, vua Lê Đại Hành băng hà. Lê Long Đĩnh lên ngôi nối nghiệp cha. Năm 1009, vua Lê Long Đĩnh qua đời, con trai Lê Cao Sạ còn bé, dưới sự sắp đặt của quan chi hậu Đào Cam Mộc, triều thần đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, sáng lập ra triều đại nhà Lý. 58 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... II- KINH TẾ 1. Kinh tế nông nghiệp Về cơ bản, kinh tế nông nghiệp Hải Dương thế kỷ X vẫn là nền nông nghiệp trồng lúa nước được kế thừa từ thời đại Hùng Vương kéo dài qua 10 thế kỷ của thời Bắc thuộc mà không có nhiều biến đổi. Trên thực tế, trong suốt thời gian đô hộ nước ta, các thế lực phong kiến phương Bắc hầu như chỉ chú ý đến vơ vét của cải, sản vật, các thứ quý lạ đem về nước. Các tư liệu lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc hầu như không thấy nhắc đến việc cải tiến kỹ thuật hay phương pháp canh tác sản xuất của nhân dân ta trong thời Bắc thuộc. Vì vậy, các hoạt động sản xuất nông nghiệp ở thế kỷ X có rất ít biến đổi so với các thế kỷ trước đó. Kỹ thuật canh tác về cơ bản vẫn là việc trồng cấy lúa dựa vào việc thủy triều lên xuống hay dựa vào nguồn nước từ hệ thống sông suối chằng chịt. Thư tịch cổ chưa thấy nhắc đến những hoạt động đắp đê trị thủy trong 10 thế kỷ đầu Công nguyên ở nước ta nói chung, cũng như ở Hải Dương. Ở thế kỷ X, Hải Dương được biết đến là một trong những trung tâm sản xuất nông nghiệp của cả nước. Đây là miền đồng bằng ven biển mà thổ nhưỡng theo như đánh giá của Nguyễn Trãi “ruộng thì vào hạng thượng thượng”1. Sự ổn định của kinh tế nông nghiệp Hải Dương không được phản ánh nhiều qua chính sử. Tuy nhiên, điều đó được chứng minh qua những tư liệu dân gian và tư liệu khảo cổ học. Về mặt sở hữu ruộng đất ở thế kỷ X có thể thấy sự tồn tại dai dẳng của các công xã nông thôn từ cuối thời nguyên thủy đến thời kỳ này là phổ biến ở Việt Nam nói chung. Sở hữu ruộng đất trong làng xã ở thế kỷ X là hình thức sở hữu công. Ruộng đất của các công xã do họ tự quản lý và phân chia cho nông dân cày cấy. Chính quyền phong kiến phương Bắc cũng như các chính quyền quá độ ở thế kỷ X hầu như chưa chạm tay được tới việc quản lý đất đai tại các công xã. Tuy nhiên, có thể ở thế kỷ X đã xuất hiện một số người có sở hữu tư nhân khá lớn là các hào trưởng địa phương. Ở Hải Dương thời kỳ này đã có những thế lực kinh tế mạnh như họ Khúc ở Ninh Giang, họ Phạm 1. Nguyễn Trãi: Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr.219. 59 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) ở Nam Sách... Việc Ngô Quyền phân phong cho Ngô Xương Ngập đi coi giữ miền Hải Đông, Đinh Bộ Lĩnh phong cho Phạm Bạch Hổ ở Đằng Châu hay Lê Hoàn phong cho người con thứ chín của mình tên là Kính làm Trung Quốc Vương, đóng ở Càn Đà, huyện Mạt Liên (tức huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên ngày nay) đều kèm theo những quyền lợi về ruộng đất để đảm bảo cho cuộc sống và sự nghiệp của những tướng lĩnh được phân phong, tạo thành lực lượng có quyền sở hữu lớn về ruộng đất. Khúc Thừa Dụ thuộc dòng dõi hào trưởng ở Hồng Châu, nối đời là dòng họ lớn. Đầu thế kỷ X, Khúc Thừa Dụ nổi lên giành quyền Tiết độ sứ được sự ủng hộ, giúp đỡ của đông đảo nhân dân trong vùng cho thấy ắt hẳn ông phải là một người có tiềm lực kinh tế lớn mạnh “thực túc binh cường”. Tiềm lực đó trước hết đến từ những thành quả trong lao động sản xuất mà nông nghiệp là ngành sản xuất chính, quan trọng nhất theo như quan niệm phong kiến “dĩ nông vi bản”. Dưới thời Ngô, Đinh ở Hải Dương tiếp tục xuất hiện nhiều nhà hào phú khác như Phạm Chiêm, Phạm Bạch Hổ... Trong số này, Phạm Chiêm là một người có gia sản và thế lực mạnh ở miền Trà Hương. Ông làm quan dưới thời Ngô Quyền và được phân phong đất đai, trao cho quyền cai quản vùng đất Hải Dương. Đến đời cháu của Phạm Chiêm là Phạm Hạp và Phạm Cự Lạng vẫn giữ được vị thế của một hào trưởng lớn. Việc họ có đến 2.000 người được dẫn theo khi gia nhập lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh chứng tỏ họ Phạm phải có một địa bàn sản xuất nông nghiệp tương đối rộng mới sản xuất đủ số lương thực cung cấp cho số người trên và đội ngũ gia nhân. Trường hợp của Phạm Bạch Hổ đóng quân ở Đằng Châu (thuộc Hưng Yên ngày nay) và phát huy ảnh hưởng lan rộng ra vùng Hải Dương cũng cho thấy ông là một người có tiềm lực kinh tế mạnh. Nhìn chung về thế lực kinh tế của các hào trưởng cho thấy: “Họ chưa hẳn là địa chủ, không phải là chủ sở hữu ruộng đất được phong cấp, nhưng chắc chắn họ là những quý tộc đã có trong tay ruộng đất và sống bằng lao động thặng dư của người cày trên ruộng đất đó”1. 1. Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.115. 60 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Đối với sản xuất của các nông dân công xã: “Đại bộ phận cư dân vừa là thành viên, là đồng sở hữu ruộng đất công vừa là tá điền với tư cách là người lao động trên ruộng đất công nộp tô thuế cho cộng đồng giáp xã và nhà nước. Họ có thể đồng thời là chủ sở hữu nhỏ về ruộng đất, ít nhất là những mảnh sân, vườn, mảnh đất vỡ hoang được của họ”1. Hải Dương thế kỷ X là vùng đồng bằng ven biển với nhiều sông ngòi, kênh rạch chảy qua nên nghề đánh bắt cá ở đây cũng khá phát triển. Đánh cá là một nghề phụ truyền thống của cư dân Việt cổ. Nghề đánh bắt cá xuất hiện khá sớm ngay từ khi con người tràn xuống chinh phục các dải đất ven sông, suối. Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy cá là một thành phần thức ăn chính trong bữa ăn của người Việt. Từ các nguồn tư liệu trên cho thấy, từ thời Bắc thuộc đến thế kỷ X và những thế kỷ tiếp theo, vùng ven biển Hải Dương đã là những ngư trường cho ngư dân lấy nghề đánh bắt cá làm phương thức kiếm ăn chính. Bên cạnh nghề trồng lúa và đánh bắt cá, nông nghiệp Hải Dương còn một số nghề khác như khai thác lâm sản (chủ yếu là gỗ), chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng các loại cây ăn quả, thực phẩm. Do sự khan hiếm tư liệu phản ánh giai đoạn lịch sử từ thế kỷ X nên các hoạt động này cũng ít được đề cập trong các thư tịch cổ. Tuy nhiên, đến thế kỷ XV, khi biên soạn sách Dư địa chí, Nguyễn Trãi đã thống kê khá nhiều sản vật nông nghiệp Hải Dương như: gỗ thì có tùng, bách, liễu, hòe; cây trồng đặc sản có dừa, cau, cam; vật nuôi nổi tiếng có gà chọi... và người đi đánh cá cần phải cẩn thận với loài cá đuối có nọc độc có thể làm chết người2. Như vậy, kinh tế nông nghiệp Hải Dương giai đoạn 905 - 1009 là sự tiếp nối cơ cấu kinh tế của giai đoạn trước với nghề chính là trồng lúa nước, kết hợp với chăn nuôi và đánh bắt cá. Hải Dương thuộc vành đai nước lợ, sản vật trù phú, là nguồn sống quan trọng của cư dân xưa mà nay vẫn còn khai thác. Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của Hải Dương thời kỳ này cũng là cơ cấu kinh tế nông nghiệp phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đương thời. 1. Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Sđd, tr.115. 2. Xem Nguyễn Trãi: Toàn tập, Sđd, tr.219. 61 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) 2. Kinh tế công - thương nghiệp a) Thủ công nghiệp Thủ công nghiệp là một bộ phận kinh tế gắn liền với nông nghiệp. Trong xã hội Việt Nam thời Bắc thuộc và những thế kỷ đầu độc lập thường coi thủ công nghiệp là những “nghề phụ” của nông nghiệp. Thế kỷ X, nền kinh tế Hải Dương dần đi vào ổn định, trong đó một số nghề thủ công có bước phát triển hơn so với giai đoạn trước. Nghề mộc ở Hải Dương trong giai đoạn này có thể đã xuất hiện khá nhiều. Điều này được phản ánh trong công cuộc chuẩn bị cho các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỷ X: Trong hai trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo chống quân Nam Hán năm Mậu Tuất (938) và Lê Hoàn lãnh đạo chống quân xâm lược Tống năm Tân Tỵ (981) đều là những trận thủy chiến quan trọng, cần sử dụng nhiều thuyền chiến và có việc chế tạo cọc gỗ đầu bịt sắt đóng ngầm dưới lòng sông để tiêu diệt kẻ thù. Để đáp ứng nhu cầu này cần có những hoạt động tích cực, khẩn trương trong việc khai thác gỗ từ những khu rừng ở gần sông Bạch Đằng. Đây là công việc không chỉ dựa riêng vào binh lính mà cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của người dân trong việc tìm nơi đốn gỗ, lựa chọn được những cây gỗ có độ lớn vừa phải và chắc chắn. Đặc biệt là việc cưa, gọt cọc gỗ sao cho vừa nhọn, vừa có thể đóng xuống lòng sông một cách dễ dàng, thì phải nhờ đến những người thợ mộc lành nghề, có nhiều kinh nghiệm. Chính sử không nhắc đến, nhưng có thể những người thợ mộc ở quanh vùng cửa sông Bạch Đằng đã được huy động vào công việc chế tạo cọc gỗ. Cùng với công việc của những người thợ mộc thì các thợ rèn có thể cũng được huy động vào việc rèn sắt, đóng bịt lên phần mũi nhọn của cọc gỗ. Các hiện vật đồ sắt trong những di chỉ khảo cổ học đã cho thấy nghề rèn sắt ở Hải Dương cũng có bước phát triển ở thế kỷ X. Nghề sản xuất gốm và đóng gạch ngói được chứng minh qua kết quả khai quật khu di tích thờ Khúc Thừa Dụ (hiện nay) với một lượng lớn các hiện vật là gạch, ngói trang trí và cả những đồ gốm thu thập được. Ngoài ra, các ngành nghề thủ công khác vẫn tiếp tục phát triển phục vụ nhu cầu thường ngày của đời sống như trồng dâu nuôi tằm dệt vải, đan lát, chạm khắc đá... 62 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... b) Thương nghiệp Hoạt động buôn bán, trao đổi sản phẩm thời Bắc thuộc đã có sự mở rộng hơn so với thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc. Quan hệ tiền tệ đã được xác lập qua việc sử dụng những đồng tiền Trung Quốc trong buôn bán. Đến thế kỷ X, sau khi lên ngôi hoàng đế, Đinh Tiên Hoàng đặt niên hiệu Thái Bình và cho đúc tiền Thái Bình hưng bảo vừa để khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, vừa làm phương tiện lưu thông trong buôn bán hàng hóa. Thời Tiền Lê, năm Giáp Thân (984), Lê Đại Hành cũng cho đúc tiền Thiên Phúc để lưu hành1. Tiền đồng thời Đinh - Lê đến nay vẫn còn phát hiện trong các di tích khảo cổ học. Về hoạt động giao thương của nhân dân ở thế kỷ X vẫn còn tồn tại hình thức vật đổi vật ở những vùng nông thôn hẻo lánh. Trong khi tại những thành thị đã phổ biến việc dùng tiền để mua hàng. Đối với vùng đất Hải Dương, do có lợi thế nằm ở vùng đồng bằng ven biển với nhiều sông ngòi, nên rất thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, nhất là đường thủy. Đặc biệt, cửa sông Bạch Đằng chính là con đường huyết mạch cho giao thương đường thủy đi từ thành Đại La ra biển và tới các quốc gia láng giềng. Khi trị sở của chính quyền còn nằm ở Đại La thì hầu hết các phái đoàn buôn bán muốn tới đó đều phải đi qua tuyến đường sông Lục Đầu ở Hải Dương là nơi hợp lưu của sáu con sông quan trọng ở Bắc Bộ: sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy (sông Lâu Khê) và sông Thái Bình (sông Hàm Giang hay Phú Lương). Từ lợi thế về mặt kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và giao thông đường thủy đã tạo điều kiện cho thương nghiệp Hải Dương thế kỷ X có bước phát triển hơn so với giai đoạn trước đó. Ở Hải Dương đã dần xuất hiện tầng lớp người buôn bán, điển hình cho các thương nhân Hải Dương thế kỷ X chính là Phạm Lệnh Công. Tương truyền, ngay từ thời Ngô vương, ông đã tổ chức đoàn thương lái từ Trà Hương theo đường sông Phổ Đà2 đi đến Đằng Châu để buôn bán sản vật. Sự xuất hiện của những sản phẩm đồ đồng, đồ sắt có nguồn gốc từ các địa phương khác trong những di chỉ khảo cổ học ở Hải Dương đã chứng minh hoạt động giao lưu, buôn bán và trao đổi sản phẩm diễn ra tại đây. 1. Xem Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.222. 2. Sông Phổ Đà còn gọi là sông Đà Lỗ hay Đà Lũ, nay gọi là sông Luộc. 63 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Đặc biệt, những kết quả khai quật khảo cổ ở đảo Vân Đồn đã cho thấy, hoạt động ngoại thương ở Vân Đồn đã phát triển từ khá sớm chứ không phải đợi đến năm Kỷ Tỵ (1149), vua Lý Anh Tông cho lập trang Vân Đồn mới có sự phát triển. Khảo cổ học đã tìm thấy nhiều hiện vật với nhiều chất liệu khác nhau như đồ đồng, đồ sắt, đồ gốm, đồ trang sức... được người nước ngoài mang đến trao đổi tại Vân Đồn ngay từ thời Bắc thuộc và cả ở thế kỷ X. Đặc biệt, trong những hiện vật thu được thì có những loại tiền Trung Quốc có niên đại từ thế kỷ VIII đến đầu thế kỷ XI như: Khai Nguyên thông bảo (thời Đường Huyền Tông), Thiên Thánh nguyên bảo (thời Tống Nhân Tông)1. Những phát hiện này đã chứng minh ở Vân Đồn có hoạt động giao lưu, buôn bán quốc tế ở thế kỷ X và cả thời gian trước đó. III- DẤU ẤN VĂN HÓA Ở HẢI DƯƠNG TRONG THẾ KỶ X Về văn hóa, nhân dân Hải Dương cũng như nhân dân cả nước nói chung, có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với nước, tín ngưỡng đa thần, phồn thực đã có từ lâu đời. Đối với người Việt, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gần như trở thành một thứ tôn giáo, không gia đình nào không có bàn thờ tổ tiên trong nhà. Việc cúng giỗ tổ tiên có những quy định mang tính truyền thống, đời nọ nối tiếp đời kia. Việc cúng, thắp hương tổ tiên ngoài ngày giỗ, thường được thực hiện vào các dịp lễ tết như Tết Nguyên đán, Tết Thanh minh, Tết Đoan ngọ (mồng 5 tháng Năm), Tết Trung nguyên (rằm tháng Bảy), Tết Trung thu (rằm tháng Tám), Tết ông Công ông Táo (23 tháng Chạp), ngày sóc, ngày vọng hằng tháng... Ở vùng Cẩm Giàng, Bình Giang có tổ chức Tết Thanh minh và cũng là ngày giỗ họ vào mồng 3 tháng Ba hằng năm... Bên cạnh đó, Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo có mặt ở Việt Nam từ đầu Công nguyên, đã khá phát triển vào thế kỷ X. Thời điểm này, đội ngũ trí thức, tăng lữ là tầng lớp ưu tú của xã hội và là chỗ dựa tinh thần của nhà nước. Trong đội ngũ quan lại ở triều đình có các chức quan coi quản Phật giáo, Đạo giáo. 1. Xem Đỗ Văn Ninh: Thương cảng Vân Đồn, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2004, tr.150-151. 64 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Tuy Nho giáo đã được du nhập vào Việt Nam từ đầu Công nguyên, nhưng khoa cử chưa xuất hiện. Thế kỷ X, việc truyền dạy chữ Nho thường diễn ra trong các nhà chùa do các bậc cao tăng đảm nhiệm, dùng chữ Hán để chuyển tải Phật giáo, Đạo giáo. Có giáo dục chữ Nho nhưng chưa có khoa cử, có học chữ Nho nhưng không dung nạp, tiếp nhận tư tưởng Nho giáo mà tìm đến Phật giáo, Đạo giáo là thực chất bộ mặt đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đại Cồ Việt thế kỷ X. Có thể nói, đây là giai đoạn “tam giáo đồng nguyên”, cùng phát triển. Nhà sư Ngô Chân Lưu (tức Khuông Việt, sinh năm Quý Tỵ, 933, mất năm Tân Hợi, 1011) từng tu ở chùa Phật Đà, làng Cát Lỵ, huyện Thường Lạc1, (nay thuộc huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội), lúc nhỏ ông theo học Thiền với nhà sư Văn Phong ở chùa Khai Quốc, về sau ông tiếp tục mở rộng Phật học tại chùa Khai Quốc. Ông chính là người cho xây dựng chùa Động Ngọ (còn gọi là chùa Cập Nhất) thuộc thôn Cập Nhất, xã Tiền Tiến, huyện Thanh Hà. Theo dòng chữ khắc trên nóc chùa “Thái Bình nhị niên thừa Khuông Việt chỉ truyền hạ chiếu tạo tự. Đại Chính nguyên niên sắc tỷ kỳ ly tự Đào Chu trụ trì”, thì chùa do nhà sư Khuông Việt khởi dựng vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Năm Đại Chính nguyên niên (1530), sắc cho nhà sư Đào Chu trụ trì và trùng tu lại nhà chùa (nhà Tam bảo hiện nay). Việc xác định được niên đại xây dựng ngôi chùa Động Ngọ rất quan trọng, nó minh chứng cho sự tồn tại và phát triển của Phật giáo ở Hải Dương vào thế kỷ X. Hiện nay, chùa Động Ngọ nằm trên trục đường 190 - từ thành phố Hải Dương đi thị trấn Thanh Hà, cách thành phố Hải Dương về phía đông khoảng 7km. Thần tích tại đình Bằng Trai do Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng sao theo bản chính của Bộ Lễ vào năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740) cho biết: Vào thế kỷ X, tại vùng đất thuộc xã Hạ Phi, huyện Trường Tân, phủ Hạ Hồng, đạo Hải Dương có một người họ Trình, tên Hiển lấy vợ là người bản ấp họ Ngô, tên là Quế, tổ ba đời đều rất giỏi văn chương. 1. Có ý kiến cho rằng, huyện Thường Lạc nay thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Ở huyện này có di tích Am Các, được coi là một trong những nơi tu hành của Ngô Chân Lưu. Tuy nhiên, gần đây các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật ở di tích Am Các và cho biết di vật sớm nhất có từ thời Trần. 65 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Gặp buổi loạn lạc 12 sứ quân, vợ chồng lánh nạn về trang Bằng Trai, xã My Thự, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng hành lễ trai giới bái Phật và xin bản xã được trông nom chùa. Trong trang có nhà họ Nguyễn tên Đức tuy tuổi đã cao nhưng mãi chưa có con, Hiển cho hành lễ cúng Phật. Ít lâu sau, vợ của hai nhà Trình, Nguyễn đều có mang và đến ngày mùng 2 tháng Giêng năm Canh Tý (940) cùng sinh con. Thần tích làng Rồng (nay thuộc thôn Cao Duệ, xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc), vào thế kỷ X đã có chùa Liên Hoa. Khi ấy, có người tên là Đào Ngọc Hoàn quê ở châu Ái, đi chu du thiên hạ, đến trang Cao Duệ, dừng chân nghỉ lại, được người trong trang là Đỗ Thành gả con gái cho. Vừa lúc, nhà sư trụ trì chùa Liên Hoa viên tịch chưa có người thay thế. Mọi người trong trang ngỏ ý muốn mời Đào công đến ở và trông nom chùa1. Thời Tiền Lê, ngôi chùa Sách Giang gắn với sự kiện Thiền sư Pháp Thuận đón tiếp sứ nhà Tống là Lý Giác năm 987, “khi Giác đến chùa Sách Giang, vua sai pháp sư tên là Thuận giả làm người coi sông ra đón”. Sách Giang tự là tên chùa, gọi theo tên sông - sông Sách, theo Phan Huy Chú, đây là con sông chảy qua Nam Sách. Có lẽ bấy giờ, cũng như về thời Trần sau này, sông Sách là một đoạn sông Thương2. Một ngôi chùa khác cũng được dựng vào thời Tiền Lê, đó là chùa Kỳ Đà (nay thuộc khu dân cư Vũ Thượng, phường Ái Quốc, thành phố Hải Dương) - là bản trang sinh sống của gia đình họ Vũ (gồm cha Vũ Thành, mẹ Hoàng Thị Mậu và ba con trai Vũ Hoàng, Vũ Huệ, Vũ Động), có công giúp vua Lê Đại Hành đánh thắng quân Tống xâm lược3. Những dấu tích trên cho thấy, Phật giáo ở Nam Sách giang đã có sự xuất hiện của cả hai dòng chính, nếu “Phật giáo vùng Thanh Hà, Kim Thành theo thiền phái Vô Ngôn Thông (sơn môn Kiến Sơ), chịu ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa” thì “Phật giáo các huyện Nam Sách, Cẩm Giàng giáp các huyện Lương Tài, Gia Bình phía nam tỉnh Bắc Ninh theo thiền phái Tỳ ni đa lưu chi (sơn môn Dâu), chịu ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ”4. 1. Xem Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương: Hải Dương: Di tích và danh thắng, Sđd, t.II, tr.356. 2. Xem Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.224. 3. Xem Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương: Hải Dương: Di tích và danh thắng, Sđd, t.II. 4. Nguyễn Đại Đồng và Thích Quảng Pháp: Phật giáo Hải Dương - Những chặng đường, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2015, tr.15. 66 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Qua thần tích và thực tế cho thấy, Phật giáo đã có ảnh hưởng phần nào vào đời sống của người dân, dần dần tạo thành lề lối, thói quen. IV- KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGOẠI XÂM 1. Khúc Thừa Dụ chiếm phủ thành Đại La - Tống Bình, tự xưng Tiết độ sứ, làm chủ Giao Châu Cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X, triều đình nhà Đường đã suy yếu đến cực độ. Viên Tiết độ sứ cuối cùng mà nhà Đường cử sang cai trị nước ta là Độc Cô Tổn từ tháng Tư năm Ất Sửu (905) nhưng ngay sau đó bị giáng chức, phải chuyển ra đảo Hải Nam và bị giết vào khoảng tháng Sáu, tháng Bảy năm Ất Sửu (905). Sau khi Độc Cô Tổn, viên Tiết độ sứ ngoại tộc cuối cùng rời khỏi đất An Nam, chớp thời cơ chính quyền trung ương nhà Đường rệu rã, chính quyền đô hộ như rắn mất đầu, nhân dân Việt lại một lần nữa kiên quyết đứng dậy tự quyết định lấy vận mệnh của đất nước. Hào trưởng đất Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ, được dân chúng ủng hộ, đã phát động khởi nghĩa, tiến quân ra chiếm đóng phủ thành Đại La - Tống Bình (Hà Nội ngày nay), tự xưng là Tiết độ sứ. Về danh nghĩa, Tiết độ sứ vẫn là một chức quan cai trị của nhà Đường, nhưng trên thực tế, chính quyền của Khúc Thừa Dụ đã thực sự là một chính quyền tự chủ. Khúc Thừa Dụ đã kết thúc một cách cơ bản ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Để giữ vững chính quyền non trẻ vừa mới thành lập, ông đã cử phái bộ sang Trung Quốc thần phục, nhưng thực chất là “dùng nhu chế cương”. Vào tháng Giêng năm Bính Dần (906), nhà Đường gia phong chức Đồng bình chương sự1 cho quan Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ là Khúc Thừa Dụ. Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ “Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền Tri lưu hậu”, tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ. Về hình thức, Giao Châu vẫn thuộc nhà Đường, nhưng thực chất sự kiện Khúc Thừa Dụ tự xưng Tiết độ sứ đã đặt nền móng cho nền độc lập, tự chủ của nước ta sau 1.000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Ông đã được nhân dân tôn vinh là Khúc Tiên chúa. 1. Là một chức quan đứng vào hàng đầu triều, tương đương với Tể tướng. 67 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Năm Đinh Mão (907), Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo nối nghiệp cha, tiếp tục phát huy ý chí tự lập tự cường, chăm lo xây dựng chính quyền tự chủ. Hồng Châu là tên đất thời Lý - Trần, thời Đường là một phần đất huyện Chu Diên, thời Lê là hai phủ Thượng Hồng và Hạ Hồng, sau là đất Bình Giang, Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Trong sách Việt sử cương mục tiết yếu, Đặng Xuân Bảng viết: “An Nam dựng nước bắt đầu từ Khúc Thừa Dụ, mạnh lên thời Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền. [...] họ Khúc ba đời kế nối, hùng cứ một phương, lòng người yên ổn đã lâu; mà Dương Diên Nghệ đuổi Lý Tiến, chém Trần Bảo; Ngô Vương Quyền giết Hoằng Tháo, đuổi Lưu Cung, Nam Hán hai lần sang, hai lần thất bại, tuy chưa xưng đế, chưa nhận phong vương, nhưng thế nước đã dần dần vững mạnh không thể lấy được. Đinh Tiên Hoàng tiếp sau Ngô Vương Quyền, 12 sứ quân một trận dẹp yên, uy danh vạn thắng nổi khắp thiên hạ. Cho dù [nhà Tống] đem quân sang đánh, chưa chắc đã thôn tính được, lỡ ra sa lầy thì tổn thương không ít. Đó là lý do Tống Thái Tổ làm ngơ không hỏi đến vậy. Nếu không thế, An Nam thời Hán, Đường là đất nội địa, Tống Thái Tổ dẹp yên các nước, thế như chẻ tre, đánh xong Nam Hán là đến An Nam, sao đành chịu bỏ, để [An Nam] thành nước khác? Cho nên, xét việc xưng đế chế và nhận phong vương của Bắc triều, phải lấy Đinh Tiên Hoàng làm đầu, nhưng xét việc nối quốc thống, tiếp tục cơ nghiệp của Hồng Bàng, thì phải lấy Khúc Thừa Dụ làm trước”1. Nhằm tôn vinh công lao to lớn của Tiên chúa Khúc Thừa Dụ nói riêng và dòng họ Khúc trong lịch sử dân tộc nói chung, thực hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của nhân dân ta, tháng 9/2004, tỉnh Hải Dương đã đầu tư xây dựng Đền thờ Anh hùng dân tộc Khúc Thừa Dụ. Đền thờ đặt gần sông Luộc, mặt chính hướng về phía nam, thuộc địa phận thôn Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, nơi nổi danh bởi những người thợ mộc tài hoa. Tổng diện tích của công trình hơn 57.000m2, gồm các hạng mục chính như: đền chính, nhà tả vu, nhà hữu vu, hai giếng “mắt rồng”, sân lễ, sân hội, hai bức phù điêu, cổng vào. Những loại vật liệu quan trọng để làm công trình này đều rất quý, đó là: đá xanh, gỗ lim và đồng. 1. Đặng Xuân Bảng: Việt sử cương mục tiết yếu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr.56. 68 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... 2. Nhân dân Hải Dương với trận Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938) do Ngô Quyền lãnh đạo Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Quyền là con rể của Dương Đình Nghệ, làm tướng và đóng quân ở Trà Hương1 (nay thuộc xã Nam Trung, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ở đây, Ngô Quyền thấy Phạm Lệnh Công tướng mạo phi phàm, là người có tài, tinh thông chữ nghĩa nên kết tình anh em. Năm Đinh Dậu (937), Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn sát hại. Năm Mậu Tuất (938), Phạm Lệnh Công cùng Ngô Quyền đem quân ra đánh thành Đại La tiêu diệt kẻ phản bội. Do sợ bị tiêu diệt, Kiều Công Tiễn đã cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán lúc bấy giờ là Lưu Cung cho con trai là Hoằng Tháo kéo quân theo đường thủy sang giúp, thực chất là nhân cơ hội chiếm lấy Giao Châu. Trận Bạch Đằng cuối năm Mậu Tuất (938) do Ngô Quyền chỉ huy diễn ra ở vùng cửa sông Cấm, khi ấy là miền cửa biển Hồng Châu, còn gọi là cửa biển Bạch Đằng, một miền đất sông ngòi chằng chịt có lợi cho thủy chiến. Theo lệnh của Ngô Quyền, Phạm Lệnh Công cùng với quân sĩ đóng cọc gỗ bịt sắt nhọn xuống lòng sông Bạch Đằng và nhử quân địch vào trong. Khi thủy triều lên, quân Nam Hán thấy quân của ta chỉ có thuyền nhẹ, quân ít, tưởng có thể dễ thắng nên hùng hổ tiến vào. Đợi khi thủy triều xuống, quân Nam Hán bị mắc cạn, thuyền chiến của giặc bị đâm thủng gần hết. Quân ta đổ ra đánh, quân Nam Hán thua chạy, Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ. Trận Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938) do Ngô Quyền chỉ huy là một trong những trận thủy chiến hiển hách nhất trong lịch sử thủy quân Việt Nam. Sử thần Ngô Thì Sĩ nhận xét: “Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc phục lại quốc thống. Những chiến công vào các thời Đinh - Lê - Lý - Trần vẫn còn nhờ vào uy thanh lẫm liệt để lại ấy. Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến ngàn thu, há phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu?”2. Năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền xưng vương, Phạm Lệnh Công được Ngô Quyền trọng dụng và phong chức Đông giáp tướng quân, cấp đất cho ông ở 1. Tên gọi cũ của các thôn Thụy Trà (Thượng, Hạ). 2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.211. 69 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Trà Hương. Cuối đời, Ngô Quyền thấy Phạm Lệnh Công là người tin cậy nên đã viết một tờ di chiếu để lại dặn dò con, trong đó có nói rằng nếu gặp bất trắc thì trông cậy vào Phạm Lệnh Công. Sau khi Ngô Quyền mất (năm Giáp Thìn, 944), Dương Tam Kha là em vợ của Ngô Quyền đã giành ngôi nhà Ngô. Thời điểm này, Phạm Lệnh Công từ quan về quê. Ngô Xương Ngập khi bị mất ngôi vua đã nhớ lời cha dặn, tìm đến Phạm Lệnh Công nhờ che chở. Phạm Lệnh Công đã đưa Ngô Xương Ngập vào vùng núi Hun (Chí Linh) ẩn náu. Ba lần Dương Tam Kha sai Dương Cát Lợi về bắt Ngô Xương Ngập nhưng nhờ có Phạm Lệnh Công che chở, Ngô Xương Ngập đã thoát khỏi sự truy đuổi của Dương Tam Kha. Năm 951, Ngô Xương Văn giành được ngôi vua, cho người về làng Trà Hương đón anh trai Ngô Xương Ngập về cùng cai quản đất nước. Để tỏ lòng thành kính, sau khi Phạm Lệnh Công mất, nhà vua đã cho lập đền thờ tại quê nhà Trà Hương của ông; các đời vua sau đều phong sắc cho ông. Nhân dân đã suy tôn ông làm thành hoàng làng. Qua thời gian, ngôi đền thờ ông đã chìm trong sự biến thiên của lịch sử. Ngôi đình hiện tại được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 5 (1684), tu sửa khang trang năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743); song đến năm 1962, đình bị phá hủy hoàn toàn. Năm 1990, nhân dân công đức xây lại hai gian hậu cung, năm 1996 xây thêm ba gian đại bái, kết cấu kiểu chữ Đinh, chất liệu bằng bê tông, cốt thép, kèo cầu, hoành rui bằng gỗ tứ thiết, mái lợp ngói mũi hài truyền thống, đao bốn góc hình rồng mềm mại, bờ nóc chạm nổi hình lưỡng long chầu nguyệt. Hằng năm, vào ngày 11 và 12 tháng Giêng, nhân dân địa phương lại mở hội đình làng Thụy Trà để ôn lại công trạng của tướng quân Phạm Lệnh Công. Trong lễ hội có tổ chức tế lễ, rước sắc thành hoàng. Nét đặc sắc trong lễ hội đình Thụy Trà là kết thúc lễ hội có nghi thức đốt thuyền rồng mã. “Tục đốt thuyền rồng mã được các cụ từ xa xưa truyền lại để tưởng nhớ trận Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938), trong đó có công lao to lớn của võ tướng Phạm Lệnh Công. Tục lệ đốt thuyền rồng mã còn mang ý nghĩa đem lại sự ấm no tốt lành cho bà con trong năm mới”1. 1. Theo lời kể của cụ Nguyễn Thị Nhâm, người làng Thụy Trà, xã Nam Trung, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. 70 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... 3. Nhân dân Hải Dương với cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất năm Tân Tỵ (981) Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống dưới thời vua Lê Đại Hành năm Tân Tỵ (981) là một trong những chiến công hiển hách bậc nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Trận quyết chiến chiến lược xảy ra trên sông Bạch Đằng ngày Kỷ Mùi tháng Ba năm Tân Tỵ (ngày 28/4/981) do đích thân Lê Đại Hành chỉ huy đã đánh tan đội quân chủ lực của giặc Tống, giết tướng giặc Hầu Nhân Bảo tại trận, đánh bại ý chí xâm lược của giặc phương Bắc, khiến chúng phải bó giáo, cuốn cờ rút về nước. Sử sách của ta và Trung Quốc đều chép về trận quyết chiến chiến lược quan trọng này. Sách Việt sử lược, tác giả khuyết danh thời Trần thế kỷ XIV, chép: Năm Tân Tỵ, năm đầu hiệu Thiên Phúc, mùa xuân, tháng Ba (tháng 4/981), quân của Hầu Nhân Bảo đến Lãng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua (tức Lê Đại Hành) tự làm tướng đi chống Tống, sai người cắm cọc ngăn sông. Quân Tống lui giữ Ninh Giang. Vua sai trá hàng để dụ Nhân Bảo. Quân Tống thua, ta bắt chém được Nhân Bảo. Bọn Khâm Tộ nghe tin quân thua, liền rút lui1. Sách Tống sử (Giao Chỉ truyện) của Trung Quốc cũng chép về trận Bạch Đằng như sau: Thái Bình hưng quốc năm thứ sáu, tháng Ba, ngày Kỷ Mùi (ngày 28/4/981) Giao Châu hành doanh phá được 1.500 quân của Lê Hoàn ở sông Bạch Đằng... Đến khi Lưu Trừng đến thì Toàn Hưng cùng Lưu Trừng theo đường thủy đem quân đến thôn Đa La, nhưng nói không gặp giặc (tức quân chủ lực do Lê Đại Hành chỉ huy), lại trở về Hoa Bộ. Đến đây, Lê Hoàn giả vờ xin hàng để đánh lừa Nhân Bảo. Nhân Bảo liền bị giết chết. Những nghiên cứu gần đây cho biết địa điểm Đồng Dinh bên cạnh khu di tích Đền Cao2, chính là khu vực đóng đại bản doanh của vua Lê Đại Hành trong cuộc quyết chiến chiến lược trên sông Bạch Đằng xưa3. Trên thực địa 1. Xem Tác giả khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV: Việt sử lược, Sđd, tr.61. 2. Xem Nguyễn Minh Tường: “Về vị trí đặt đại bản doanh của vua Lê Đại Hành trong trận Bạch Đằng năm 981”, tạp chí Xưa & Nay, số 76, tháng 6/2000, tr.9, 10, 23. 3. Từ năm 1987, trên báo Quân đội nhân dân, tác giả Tăng Bá Hoành đã có ý kiến về đại bản doanh An Lạc sau khi nghiên cứu về Thần tích Đền Cao thờ 5 anh em họ Vương đã theo Lê Hoàn đánh quân Tống. Sau này, vấn đề nghiên cứu về đại bản doanh của Lê Hoàn trong kháng chiến chống Tống mới được triển khai quy mô hơn. 71 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) “Đồng Dinh” là một cánh đồng bằng phẳng rộng chừng hơn 3ha. Đây là một điểm đóng quân khá lý tưởng, vì ba phía bắc, đông, nam đều có núi, có sông che chở, còn phía tây mở ra một hành lang rộng rãi, khiến cho “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ” (tiến có thể đánh, lui có thể giữ). Nơi mà vua Lê Đại Hành chọn để đóng đại bản doanh nói trên rõ ràng đáp ứng những điều kiện tối cần thiết của một nơi đóng quân mà các bộ binh thư cổ của phương Đông chỉ dẫn. Sách Tôn Tử binh pháp có viết: “Phàm bố trí quân đội phải chiếm lĩnh vùng núi non, cần chọn những nơi cao hướng về mặt trời, cần dựa lưng vào mỏm đá cao chứ không đối diện với mỏm đá cao. Đó là nguyên tắc đóng quân ở vùng núi”. Ngay trong thiên “Đồn trú” sách Binh thư yếu lược cũng viết: “Phàm đóng quân thì phải dùng nơi sau cao, trước thấp, trông ra hướng sáng, quay lưng hướng tối, nuôi sống ở đủ, nước lửa không lo, vận tải tiếp tế không trở ngại, tiến có thể đánh, lui có thể giữ...”. Nghiên cứu nơi đóng quân đại bản doanh của vua Lê Đại Hành, chúng ta thấy nó “dựa lưng vào mỏm núi cao” là các ngọn Bàn Cung, Thiên Bồng, Đầu Giông, Cổ Vu và “trông ra hướng sáng” là hướng nam, phía xa có dòng Nguyệt Giang trong xanh, thoáng đãng. Che chắn phía đông cho đại bản doanh là các ngọn núi như: Đồng Đò, Vọng Dứa, Đồng Ra và Cao Hiệu. Tất cả những núi non, gò đồi bao bọc ấy lại được dòng Nguyệt Giang và chi lưu của nó che chắn thêm, khiến cho đại bản doanh của vua Lê Đại Hành có khả năng án binh, giấu quân làm cho quân Tống không thể tìm thấy được. Điều đó giải thích câu văn được chép trong Tống sử vừa nói ở trên: “Toàn Hưng cùng Lưu Trừng theo đường thủy đem quân đến thôn Đa La, nhưng nói không gặp giặc” (tức chủ quân và đại bản doanh của quân ta). Đại bản doanh của Lê Đại Hành ở xã An Lạc, nếu đi theo đường thủy xuôi dòng Nguyệt Giang ra sông Kinh Thầy để đến Bạch Đằng ước chừng 30km1. Còn tính theo đường chim bay từ An Lạc đến Bạch Đằng chỉ khoảng trên 20km. Đây là địa bàn đặt sở chỉ huy, có thể nói khá đắc địa trong điều kiện của cuộc chiến tranh dưới thời Trung cổ, cả hai bên tham chiến đều sử dụng vũ khí và phương tiện vận chuyển còn thô sơ. 1. Tên gọi sông Kinh Thầy xuất hiện từ thế kỷ XIX, trước đây còn gọi là sông Cổ Châu. 72 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Đồng Dinh (như tên gọi của nó) không phải là một di tích tồn tại đơn nhất, độc lập. Nó được nằm trong một quần thể di tích lịch sử làm chứng cứ khẳng định thêm cho vị trí đại bản doanh của vua Lê Đại Hành. Phường An Lạc cùng với phường Tân Dân thuộc thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương có vinh dự lưu giữ và bảo tồn những chứng tích quý giá đó. Ở đây, những chứng tích liên quan tới đại bản doanh của vua Lê Đại Hành có thể chia làm hai loại: những địa danh lịch sử và các di tích đền, miếu, chùa... Về những địa danh lịch sử của phường An Lạc và phường Tân Dân, hiện nay còn khá nhiều tên gọi liên quan trực tiếp hoặc gợi lên những suy nghĩ về một địa bàn đóng sở chỉ huy khá lâu của một vị hoàng đế thân chinh đánh giặc. Đó là núi Cao Hiệu: núi sát với bến Vạn, bên dòng Nguyệt Giang đổ ra sông Kinh Thầy, tương truyền là nơi cắm cờ và vọng gác tiền tiêu. Đồng Dinh: là nơi đặt đại bản doanh của vua Lê Đại Hành. Nội Xưởng: tương truyền là nơi rèn, sửa vũ khí và phương tiện chiến đấu. Lò Văn: nơi một số viên quan từ hàn đi theo quân đội phụ trách việc văn thư làm việc. Bàn Cung: nơi tương truyền vua Lê Đại Hành họp bàn việc quân với các tướng lĩnh dưới quyền. Nền Bà Chúa: nơi ở của các vị nữ tướng. Núi Sơn Đụn: nơi tương truyền là kho quân lương của quân đội... Về các di tích đền, miếu, đình, chùa thì ở phường An Lạc có thể nói là khá nhiều như: đền Cao, đền Bến Tràng, đền Bến Cả, chùa Nguyệt, chùa Sơn Đụn... Có một điều đáng lưu ý là hầu hết các ngôi đền nói trên đều thờ các vị tướng tham gia cuộc kháng chiến chống Tống năm Tân Tỵ (981) do vua Lê Đại Hành lãnh đạo. Trong số các di tích lịch sử đó, đáng chú ý hơn cả là khu đền Cao. Đền Cao được xây dựng trên ngọn Thiên Bồng, có độ cao 47m so với mặt nước biển. Đền tọa lạc trên bãi đất bằng phẳng rộng ước chừng 5.414m2. Cảnh đền Cao trên núi Thiên Bồng luôn gợi cho du khách một cảm giác u tịch, thanh vắng. Phải chăng chính vì vậy, núi được đặt tên với ý nghĩa “cảnh bồng lai trên thiên giới”? Phủ kín quả núi và xung quanh đền Cao là 54 cây lim cổ, tuổi ước cũng vài trăm năm, càng tôn thêm vẻ tịch mịch của chốn danh thắng được mệnh danh là nơi tách khỏi bụi trần này. Bản ngọc phả hiện còn lưu giữ tại đền Cao do Nguyễn Bính soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và được vị Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền giữ chức Quản giám bách thần sao lại vào năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) 73 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) cho biết: Vị thần được thờ ở đây họ Vương, húy là Đức Minh. Cũng theo ngọc phả, trong cuộc kháng chiến chống Tống vào mùa xuân năm Tân Tỵ (981), vua Lê Đại Hành đã đem quân về lập đại bản doanh tại An Lạc. Bấy giờ, An Lạc còn có tên là Dược Đậu trang thuộc huyện Bàng Châu, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Ở Dược Đậu trang có 5 anh em họ Vương tham gia quân đội đánh giặc, cứu nước. Sau khi dẹp xong giặc Tống tàn bạo, người anh cả là Vương Đức Minh được phong làm Thiên Bồng Đại tướng quân đại vương, người thứ hai là Vương Đức Xuân làm Dực Thánh Dũng mãnh đại vương, người thứ ba là Vương Đức Hồng làm Anh Vũ Dũng lược đại vương, người em gái thứ tư là Vương Thị Đào làm Đào Hoa Trinh Thuận công chúa, và người thứ năm là Vương Thị Liệu làm Liễu Hoa Linh Ứng công chúa. Người anh cả là Vương Đức Minh được thờ tại đền Cao, còn các em trai, em gái của ông được thờ ở các đền như: đền Bến Tràng, đền Bến Cả, đền Cả... Trong đền còn treo 13 bộ câu đối gỗ sơn son thếp vàng, nội dung phần lớn nói lên tấm lòng ngưỡng mộ của khách thập phương đối với tướng Vương Đức Minh “sinh vi tướng, tử vi thần” được thờ ở đền. Các câu đối ở đền Cao ca ngợi khí thế hào hùng của quân đội thời Tiền Lê dưới sự chỉ huy của vua Lê Đại Hành và các danh tướng của ông. Theo tấm bia Thần tích bi ký lưu truyền vạn đại lập năm Tự Đức thứ 22 (1869) lưu tại chùa Văn Xá (nay thuộc phường Ái Quốc, thành phố Hải Dương) thì đình Văn Xá (cùng địa bàn) thờ ông Vũ Động, một trong ba anh em họ Vũ (Vũ Hoàng, Vũ Huệ và Vũ Động). Khi quân Tống xâm lược nước ta, vua Lê Đại Hành cho tổ chức kỳ thi chọn tướng sĩ, ba anh em họ Vũ đã đến dự tuyển và trúng tuyển, được vua ban áo theo màu sắc riêng. Vũ Hoàng được ban áo màu xanh, Vũ Huệ được ban áo màu vàng, còn Vũ Động được ban áo màu đỏ và cho cầm quân đánh giặc. Sau khi chiến thắng trở về, ba anh em được vua ban thưởng vàng bạc lụa là, cho phép 3 năm một lần được về thăm quê hương bản quán1. Ba anh em họ Vũ còn được thờ tại đình Vũ Xá (huyện Nam Sách). Theo thần tích tại đây, bảy người bản trang đi theo ba vị đánh giặc cũng được nhân dân thờ phụng2. 1, 2. Xem Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương: Hải Dương: Di tích và danh thắng, Sđd, t.II, tr.11, 39. 74 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Ngoài các di tích tại đại bản doanh của Lê Đại Hành, còn nhiều di tích thờ ông và các vị tướng của ông như: đền thờ vua Lê Đại Hành ở xã Liên Mạc, huyện Thanh Hà; đình Kiên Lao (xã Đại Đức, huyện Kim Thành) thờ hai tướng Đào Công Chiêu và Đào Công Hiển đều giúp vua Lê Đại Hành đánh quân Tống... Theo bản khai thần tích - thần sắc năm 1936 của làng Lai Cầu, xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc cho biết: Miếu Lai Cầu là nơi thờ bà Nguyễn Thị Dực, húy là Vàng Chinh, người từng có công đánh giặc Tống thế kỷ X. Nghe lời kêu gọi đánh giặc của vua Lê Đại Hành, Nguyễn Thị Dực đã cải trang thành nam nhi, triệu tập nghĩa quân, xin vua cho đi đánh giặc. Bà đã cầm quân và đánh thắng nhiều trận. Sau khi đánh thắng quân Tống, bà và các tướng quân được vua mời về triều khao thưởng. Trong buổi lễ, vua Lê biết bà là nữ nhi, đã không trách phạt còn rất cảm kích trước khí tiết của người phụ nữ nơi thôn dã, có lòng trung quân ái quốc. Vua ban thưởng và cho về quê thăm cha mẹ. Về quê một thời gian ngắn thì bà qua đời. Vua Lê Đại Hành rất thương tiếc, ban cho vàng bạc, tổ chức tang lễ, sắc cho dân làng lập miếu thờ và phong bà là Thành hoàng làng Lai Cầu để đời đời hương hỏa1. Theo thần phả tại đình Kiên Lao, xã Đại Đức, huyện Kim Thành, có hai người: Đào Công Chiêu và Đào Công Hiển cùng nhau kết bạn. Nghe theo chiếu truyền tìm người tài giỏi cứu nước, cứu dân của vua Lê Đại Hành, hai ông chiêu nạp binh sĩ ở trang Cổ Pháp (huyện Phụ Phong, phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam), rồi lên đường vào Hoa Lư yết kiến vua, được nhà vua phong làm Đại tướng quân. Vua Lê Đại Hành cử hai ông đem quân đi chặn các cửa biển phía đông nam. Hai ông đem quân thủy bộ rầm rầm tiến tới, đến địa phận trang Kiên Lao, quận Trà Hương thì trời xế chiều, hai ông cho quân lính hạ trại. Nhân dân Kiên Lao cũng xin góp sức lập phòng tuyến cùng binh sĩ. Sau, hai ông tham gia cùng đại quân do vua Lê Đại Hành thân chinh đánh giặc Tống và hy sinh. Vua phong cho Đào Công Chiêu là Hộ quốc cư sĩ linh ứng Đại vương, lại tặng phong Hộ quốc cư sĩ quý ban thông minh anh nghị cương đạo hùng tài vĩ lược Đại vương2. 1. Xem Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương: Hải Dương: Di tích và danh thắng, Sđd, t.II, tr.91. 2. Xem Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Hải Dương: Hải Dương: Di tích và danh thắng, Sđd, t.I, tr.224-225. 75 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Ông Phạm Ân, người trang Lâu Động (nay thuộc xã Quang Thành, thị xã Kinh Môn) là người có công giúp vua Lê Đại Hành kháng chiến chống Tống. Sau khi hạ đại bản doanh tại khu vực An Lạc (Chí Linh), vua Lê Đại Hành lấy khu vực thuộc xã Quang Thành ngày nay làm tiền tiêu của đại bản doanh1. Bản khai thần tích - thần sắc làng Nứa2 (nay thuộc xã Hồng Khê, huyện Bình Giang) cho biết: Đình Trinh Nữ là nơi thờ Hoằng Công Nguyễn Uy - một trong năm vị thánh Ngũ Lôi có công giúp vua Lê Đại Hành dẹp giặc Tống cuối thế kỷ X. Thần tích, bia ký và truyền thuyết lưu truyền trong nhân dân làng Rồng (nay thuộc thôn Cao Duệ, xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc) cho biết: Miếu Rồng thờ Đào Ngọc Sâm, người có công giúp Đinh Bộ Lĩnh chinh phục các sứ quân, thống nhất đất nước và giúp Lê Hoàn đánh giặc Tống3. Những chiếc cọc trong bãi cọc Kinh Môn đang được lưu giữ tại chùa Nhẫm Dương Nguồn: Trần Anh Dũng 1, 2, 3. Xem Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương: Hải Dương: Di tích và danh thắng, Sđd, t.II, tr.193-194, 305, 355-356. 76 Chương I: HẢI DƯƠNG thời họ Khúc, Ngô... Theo Trịnh Sinh1, năm 2014 và năm 2017, các nhà khảo cổ học đã phát hiện thêm bãi cọc Kinh Môn, tỉnh Hải Dương hé mở nhiều bí ẩn về lịch sử chống ngoại xâm của tổ tiên ta2. Bãi cọc này được nhân dân thôn Nghĩa Lộ, xã Hoành Sơn (nay thuộc thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) đào ao thả cá ở cánh đồng Cầu Thủ, đã phát hiện vào năm 2014 và được các nhà khảo cổ học khai quật cuối năm 2017. Những chiếc cọc này có chiều dài khoảng 3m, đường kính khoảng 30cm, được vát nhọn hai đầu, một đầu cắm xuống đất. Hiện, một số cọc còn để tạm ở chùa Nhẫm Dương gần nơi phát hiện, trước khi đem về Bảo tàng tỉnh Hải Dương. Con đường xâm lược và chống xâm lược từ biển vào Thăng Long Nguồn: Trịnh Sinh 1. Trịnh Sinh: “Hé lộ những bí ẩn từ bãi cọc Kinh Môn”, http://www.bienphong.com. vn/he-lo-nhung-bi-an-tu-bai-coc-kinh-mon/. 2. Có ý kiến cho rằng, bãi cọc này liên quan đến cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên thế kỷ XIII. Vấn đề này cần có thời gian xác minh, lý giải. 77 LỊCH SỬ TỈNH HẢI DƯƠNG Tập II (Từ năm 905 đến năm 1883) Trong lịch sử quân sự nước ta có nghệ thuật đánh giặc bằng cọc. Trong sách binh thư thời Nguyễn còn dạy cách làm cọc cắm xuống sông như sau: “Cơ giữ nước tất lấy sông lớn làm hiểm. Song có sông lớn mà không chuẩn bị thì giữ thế nào? Cho nên đóng cọc dưới lòng sông để ngăn bắt thuyền giặc, công hiệu gấp mười xích sắt chắn sông. Nên sai ba quân chuẩn bị cột gỗ độ 200 cái cũng được, đem đến cửa sông cắm xuống nước, xa gần so le, dài ngắn không đều, hình như răng chó cài nhau, để ngầm dưới mặt nước không để lộ ra. Thuyền giặc tiến đến thì tất bị cọc gỗ ngăn trở, dù thuyền nhẹ buồm căng gió tốt, ra sức mà chèo, cũng không đi được một bước”. Theo các nhà khoa học, mực nước sông lúc đỉnh và lúc thấp nhất của con nước chênh nhau lên tới 2,5 - 3,2m. Chỉ cần dụ địch vào lúc thủy triều lên cao nhất, khi thuyền to cũng vượt qua được cọc ngầm, thì lúc thủy triều xuống, tập trung quân thủy, bộ chặn giặc, phản công, giặc sẽ không còn đường rút, bãi cọc phơi ra, thuyền giặc bị đâm thủng, bị xô nghiêng, quân giặc hốt hoảng, lo sợ, quân ta dễ dàng tiêu diệt. Hơn 40 năm sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm Mậu Tuất (938), sông Bạch Đằng lại được vua Lê Đại Hành sai quân cắm cọc để ngăn quân Tống xâm lược. Tướng nhà Tống là Lưu Trừng kéo vào sông Bạch Đằng để tiến sâu vào đồng bằng Bắc Bộ theo con đường sông quen thuộc mà các nhà viết sử đặt tên là “con đường xâm lược” từ sông Bạch Đằng qua sông Kinh Thầy vào Lục Đầu Giang, sông Đuống để vào thành Đại La - Tống Bình, tức Hà Nội ngày nay. Như vậy, trận đại chiến tại Bạch Đằng năm Tân Tỵ (981) của vua Lê Đại Hành lại là một chiến công rực rỡ nữa của dân tộc Việt Nam, mà trong đó có sự đóng góp xứng đáng của quân và dân đất Hồng Châu. Những di tích liên quan tới vua Lê Đại Hành như: nơi đóng đại bản doanh và chiến tích của các tướng lĩnh xung quanh địa điểm tiêu diệt giặc tại các huyện, thành phố Thanh Hà, Kim Thành, Nam Sách, Chí Linh cùng ba huyện Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo (nay thuộc thành phố Hải Phòng) chứng tỏ sự đóng góp nhân tài, vật lực của nhân dân địa phương là rất lớn, trong đó Hải Dương là chiến địa có đủ ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa ở thời điểm diễn ra trận Bạch Đằng oanh liệt năm 9811. Đóng góp của nhân dân Hải Dương vào chiến trường là rất lớn và có ý nghĩa quyết định. 1. Xem Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương: Địa chí Hải Dương, Sđd, t.II, tr.37. 78