🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kỹ Năng Truyền Miệng Dành Cho Người Có Uy Tín Vùng Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Và Miền Núi
Ebooks
Nhóm Zalo
KỸ NĂNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG DÀNH CHO NGƯỜI CÓ UY TÍN VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
PGS.TS. PHẠM VĂN LINH
Phó Chủ tịch Hội đồng
PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI
TS. NGUYỄN AN TIÊM
NGUYỄN VŨ THANH HẢO
CHU TUẤN THANH
(Chủ biên)
KỸ NĂNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG DÀNH CHO NGƯỜI CÓ UY TÍN VÙNG ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA DÂN TỘC
Hà Nội - 2016
Biên soạn:
CHU TUẤN THANH NGUYỄN MINH CHÂU HÀ ANH
“... Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại...”1.
“... Công tác tuyên truyền phải cụ thể, thiết thực. Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì? Tuyên truyền cách thế nào?...”2.
“... phải biết cách nói. Nói thì phải giản đơn, rõ ràng, thiết thực. Phải có đầu, có đuôi, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được...”3.
“... phải nói thiết thực rõ ràng để đồng bào dễ nghe, dễ hiểu và làm được tốt...”4.
Hồ Chí Minh
__________
1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 191; t.14, tr. 159; t.5, tr. 191; t.14, tr.166.
5
6
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Người có uy tín trong cộng đồng các dân tộc thiểu số có vai trò, vị trí quan trọng trong đời sống xã hội của bà con dân tộc thiểu số ở địa phương. Bằng uy tín và ảnh hưởng của mình, người có uy tín thực sự là cầu nối quan trọng của cấp ủy, chính quyền các cấp trong công tác tuyên truyền, vận động bà con dân tộc thiểu số chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có nhiều đóng góp thiết thực trong các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh
tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa, góp phần quan trọng trong xây dựng và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ môi trường sinh
thái ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tuyên truyền miệng và hoạt động của người có uy tín trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là một trong những kênh thông tin quan trọng nhằm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước;
7
thông tin kịp thời, có định hướng các vấn đề thời sự quan trọng, phức tạp, nhạy cảm được dư luận xã hội quan tâm. Nhờ có sự giao tiếp trực tiếp giữa người tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền nên tuyên truyền viên sẽ giải thích cho quần chúng, nhân dân
hiểu rõ và hiểu đúng được bản chất vấn đề, vụ việc, sự kiện diễn ra, trên cơ sở đó định hướng dư luận, góp phần tạo nên sự thống nhất về nhận thức và hành động trong tổ chức đảng, chính quyền; sự đồng thuận trong quần chúng nhân dân.
Để người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong công tác truyên truyền, vận động quần chúng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản cuốn sách “Kỹ năng tuyên truyền miệng dành cho người có uy tín vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” nhằm cung cấp những thông tin, kiến thức cơ bản, cần thiết về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số kỹ năng tuyên truyền, vận động quần chúng thông qua tuyên truyền miệng.
Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 4 năm 2016
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT8
Phần I
NGƯỜI CÓ UY TÍN TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
I. NGƯỜI CÓ UY TÍN
TRONG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống, kề vai sát cánh với nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Các dân tộc thiểu số nước ta cư trú xen kẽ trên
địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Đồng bào các dân tộc nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam thống nhất. Ở mỗi giai đoạn lịch sử của tiến trình phát triển, trong cộng đồng các dân tộc thiểu số đều xuất hiện những người mà uy tín và sức ảnh hưởng của họ đã vượt ra ngoài khuôn khổ
9
của một gia đình, một dòng họ và lan tỏa mạnh mẽ đến toàn thể cộng đồng, xã hội; tiếng nói và hành động của họ đóng vai trò đại diện, dẫn dắt, định hướng văn hóa ứng xử của cả cộng đồng.
Trong xã hội tự quản truyền thống, ở từng dân tộc, từng nhóm dân tộc đều có những người được cộng đồng suy tôn là người có uy tín. Họ là các già làng, các trưởng bản, trưởng các dòng họ, các chức sắc tôn giáo và cả những vị sư sãi, những người hành nghề tín ngưỡng. Dưới cách nhìn của đồng bào, đây là những người thông minh, quyết đoán, có tài ăn nói, giao tiếp; biết chăm lo đến sự
sinh tồn của cộng đồng; có mối quan hệ rộng rãi, có uy tín, xứng đáng để được giao trọng trách “thủ lĩnh” điều hành những hoạt động trong cộng đồng. Họ là người giàu kinh nghiệm sống; am hiểu luật tục của ông bà, tổ tiên để lại; biết duy trì phong tục tập quán; có khả năng giải quyết các mối quan hệ trong cộng đồng và với các cộng đồng khác. Ở thời kỳ mà những thiết chế xã hội còn sơ khai, quản lý xã hội còn mang tính tự quản thì họ là những người có tiếng nói quan trọng trong những công việc trọng đại liên quan đến sinh tử, vận mệnh của cộng đồng như lập bản mới, rời làng, xử kiện. Đã có những người trong số họ nổi tiếng cả một vùng nhưng nhìn chung tầm ảnh hưởng của những người này chủ yếu tác động đến cư dân trong cùng bộ tộc.
10
Trong công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc đã xuất hiện những người con ưu tú của các dân tộc thiểu số mà uy tín, sự đóng góp và tầm ảnh hưởng của họ đã vượt ra ngoài phạm vi bộ tộc, phạm vi vùng và có sức lan tỏa, tác động đến đồng bào các dân tộc trong cả nước. Đó là những tấm gương yêu nước, một lòng theo Đảng, theo cách mạng: Hoàng Văn Thụ (dân tộc Tày), Hoàng Đình Giong (dân tộc Tày), N’Trang Lơng (dân tộc Mnông), anh hùng Núp (dân tộc Ba Na)... Họ mãi mãi là những tấm gương sáng giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau, là niềm tự hào của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước, những già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, các chức sắc tôn giáo tiến bộ vẫn là những người ít nhiều có sự ảnh hưởng trong đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, những lão thành cách mạng, những cán bộ, đảng viên có đức có tài, những trí thức tiêu biểu, văn nghệ sĩ, nhà giáo, thầy thuốc giỏi, doanh nhân, nghệ nhân, những cán bộ lãnh đạo các cấp có uy tín đã nghỉ hưu..., có nhiều đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội và giữ gìn an ninh, trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cũng giành được sự tin tưởng, mến phục của đồng bào. Điều đáng
11
nói là trong giai đoạn hiện nay, cách nhìn nhận, suy tôn những người có uy tín trong cộng đồng nói chung và trong đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng cũng đã được bổ sung những nội dung, yêu cầu mới xuất phát từ nhận thức xã hội về vai trò và vị trí của người có uy tín trong bối cảnh xã hội hiện đại.
Theo chính sách, pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành và qua thực tiễn thực hiện công tác phát huy vai trò người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, có thể
khái quát chung: Người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng cao có thể là người cao tuổi hoặc trẻ tuổi; là trí thức hoặc là người thành đạt trong lao động sản xuất, kinh doanh, trong hoạt động xã hội; hoặc những người hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là những người:
- Có vị trí xã hội hoặc có kiến thức nhất định về một hay nhiều lĩnh vực; có điều kiện kinh tế ổn định; có cách ứng xử, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình, cộng đồng và xã hội; được cộng đồng dân cư nơi sinh sống tín nhiệm một cách tự
nguyện;
- Có mối liên hệ chặt chẽ và ảnh hưởng nhất định đến cộng đồng dân cư ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, được đồng bào dân tộc thiểu số tin tưởng để bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, tranh thủ ý kiến giải quyết các vấn đề trong cuộc sống;
12
- Có khả năng tác động, chi phối, tập hợp đồng bào dân tộc thiểu số ở những phạm vi nhất định bằng lời nói, qua hành động hoặc bằng những quy ước của phong tục tập quán;
- Là chỗ dựa quan trọng của cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và giữ gìn khối đoàn kết toàn dân.
II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CÓ UY TÍN TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
Vị trí, vai trò của người có uy tín trong đồng bào các dân tộc thiểu số được tạo nên bởi những giá trị xã hội, tinh thần mà cá nhân người có uy tín có được trong quá trình sống và làm việc hoặc bởi những quy ước của phong tục, tập quán dân tộc, được cộng đồng suy tôn, chấp thuận và làm theo vì lợi ích và sự tồn tại của cộng đồng.
Trong xã hội tự quản truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số, người có uy tín (các trưởng bản, trưởng dòng họ, chức sắc tôn giáo, người hành nghề tín ngưỡng...) có vị trí và vai trò quan trọng không thể thiếu đối với đời sống của tộc người. Trên những bình diện khác nhau, họ đều
13
có vai trò nhất định trong thiết chế quản lý và sự vận hành của xã hội đó bởi trình độ tổ chức, tư duy và những quy ước của phong tục, tập quán dân tộc. Ở một khía cạnh nào đó, họ là biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của một cộng đồng dân cư,
quyết định sự sinh tồn của một tộc người. Trong cách mạng giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc, các giá trị và vai trò của người có uy tín trong xã hội truyền thống vẫn được phát huy, bên cạnh đó là sự xuất hiện những nhân tố của thời kỳ mới (yêu nước, đấu tranh để giải phóng dân tộc, giải phóng con người) khiến vị thế xã hội và vai trò của người có uy tín được cộng đồng nhìn nhận, nâng lên một tầm cao mới đối với sự phát triển không chỉ của cộng đồng tộc người mà còn đối với quốc gia. Trong thời kỳ này, những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ là những già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, chức sắc tôn giáo..., giàu kinh nghiệm trong việc xử lý những vấn đề của cộng đồng, làng bản mà còn là những người có nhiều đóng góp vào sự nghiệp giành lại chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, giải phóng con người khỏi ách áp bức, nô lệ. Ở Tây Nguyên, anh hùng Núp với tinh thần “không sợ Pháp”, quyết tâm “bắn Pháp chảy máu” đã trở thành biểu tượng của lòng yêu nước, của ý chí cách mạng, có sức thuyết phục và tác động lớn đến tinh thần cách mạng của đồng bào các dân tộc
14
thiểu số. Uy tín của ông đã vượt ra khỏi phạm vi của tộc người Ba Na, của vùng đất Tây Nguyên xa xôi, lan tỏa trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số về ý chí gan góc, không sợ kẻ thù xâm lược, một lòng tin theo con đường của Đảng, của Bác Hồ.
Phát huy vai trò của người có uy tín trong quản lý thiết chế xã hội làng, bản đã trở thành phong tục tốt đẹp, là nét văn hóa truyền thống riêng có ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, người có uy tín trong đồng bào luôn là trung tâm đoàn kết, là nhân tố có ý nghĩa quan trọng trong công tác vận động quần chúng, biết nói để dân tin, biết làm để dân hiểu.
Với uy tín và ảnh hưởng của mình, người có uy tín thực sự:
- Là cầu nối quan trọng giữa cấp ủy Đảng, chính quyền với nhân dân; là lực lượng quan trọng trong tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương trong các lĩnh vực của đời sống xã hội;
- Là lực lượng nòng cốt, tiên phong, gương mẫu trong việc chấp hành chính sách, pháp luật; trong lao động sản xuất và phát triển kinh tế; trong thực hiện các phong trào, các cuộc vận động thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh - quốc phòng của địa phương.
15
Thông qua lời nói, việc làm, người có uy tín có khả năng dẫn dắt, định hướng dư luận, tác động tích cực đến các tầng lớp nhân dân, trở thành chỗ dựa tin cậy của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương;
- Là “cánh tay nối dài” giúp chính quyền địa phương và lực lượng an ninh, quốc phòng nắm bắt kịp thời tình hình để đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội; phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động, góp phần giữ gìn an ninh - trật tự, tạo môi trường xã hội ổn định, lành mạnh, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước tại địa phương;
- Là nhân tố quan trọng góp phần duy trì, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bài trừ hủ tục, xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần lành mạnh, tiến bộ trong cộng đồng.
- Là trung tâm xây dựng đoàn kết trong cộng đồng dân cư; đoàn kết các dân tộc, tôn giáo góp phần xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
vững mạnh;
- Là chỗ dựa tinh thần để đồng bào bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, tranh thủ ý kiến giải quyết các vấn đề của bản thân, gia đình và xã hội; là đầu mối tiếp xúc, nắm bắt, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đồng bào tới cấp ủy, chính quyền địa phương;
16
phản biện, đóng góp ý kiến thiết thực cho chương trình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng ở địa phương.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số là lực lượng quần chúng đặc biệt, có vị trí, vai trò quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến nhiều hoạt động trong đời sống xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số. Sự
đóng góp của người có uy tín trong cộng đồng dân cư có vai trò hết sức quan trọng đối với việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
17
Phần II
NGƯỜI CÓ UY TÍN VỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, VẬN ĐỘNG
QUẦN CHÚNG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
I. MỘT SỐ NÉT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI, AN NINH - TRẬT TỰ Ở VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Về vị trí địa lý, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta được chia thành 7 vùng, với những đặc điểm chính về tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội, dân cư, tộc người như sau:
- Vùng miền núi Đông Bắc, gồm các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Vĩnh Phúc. Đây là nơi cư trú của hơn 30 nhóm dân tộc thiểu số, chủ yếu là Tày, Nùng, Dao, Mông. Văn hóa và ngôn ngữ Tày, Nùng có
18
ảnh hưởng lớn đối với văn hóa vùng này. Hạ tầng cơ sở kinh tế chậm phát triển, nhiều xã vùng cao Cao Bằng, Bắc Kạn chưa có điện lưới; giao thông đi lại khó khăn. Tỷ lệ người không biết nói, không biết đọc chữ phổ thông còn cao. Thiết chế văn hóa cơ sở phục vụ sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân còn rất hạn chế. Giữa các dân tộc có sự
chênh lệch lớn về trình độ phát triển. Hoạt động truyền đạo Tin Lành trái phép ở một số nơi vẫn còn tồn tại...
- Vùng Tây Bắc, gồm các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái. Đây là nơi cư trú của gần 30 nhóm dân tộc thiểu số với số đông là người các dân tộc Mường, Thái, Mông, Dao. Văn hóa Thái, Mường, Mông có ảnh hưởng lớn trong vùng. Điều kiện giao thương không thuận lợi, trình độ phát triển giữa các dân tộc còn chênh lệch lớn nên vùng Tây Bắc hiện nay có tốc độ phát triển kinh tế chậm so với cả nước và nhiều vùng đồng bào dân tộc, miền núi; hạ tầng cơ sở, đời sống văn hóa và việc tiếp cận các dịch vụ xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế. Tình trạng đốt rừng làm nương rẫy, du canh du cư, tỷ lệ tăng dân số còn cao, những tập tục lạc hậu trong tang ma, cưới xin vẫn còn tồn tại; việc theo đạo Tin Lành, Vàng Chứ trái phép tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định ở vùng Tây Bắc. Đáng lưu ý là tệ nạn xã
19
hội đang có nguy cơ phát triển nhanh, đặc biệt tệ nạn ma túy. Việc thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở một số địa bàn chưa tốt, có sai phạm, tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng gây mất đoàn kết giữa các dân tộc. Giáo dục đào tạo đang bộc lộ những yếu kém, bất cập. Tỷ lệ huy động trẻ em dân tộc thiểu số đi học còn thấp và không đồng đều giữa các dân tộc. Tỷ lệ học sinh bỏ học, lưu ban khá cao ở cấp trung học cơ sở. Việc đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. Số cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng chiếm tỷ lệ thấp.
- Vùng Bắc Trung Bộ, gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế; là địa bàn cư trú của các nhóm dân tộc thiểu số: Thái, Mường, Mông, Dao, Thổ, Khơmú, Bru - Vân Kiều, Tàôi, Lào, Chứt, Ơđu... Đây cũng là khu vực có địa hình và khí hậu phức tạp, chiều ngang hẹp, dãy núi thấp dần từ tây sang đông, hằng năm chịu ảnh hưởng lớn của bão lụt và gió Lào... Vùng miền núi Bắc Trung Bộ có nhiều cửa khẩu quốc gia và quốc tế với Lào và các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, vùng Bắc Trung Bộ hiện là vùng phát triển chậm về kinh tế - xã hội, một số dân tộc thiểu số còn gặp khó khăn lớn, tỷ lệ hộ
nghèo khá cao.
20
- Vùng duyên hải Nam Trung Bộ, gồm các tỉnh, thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, có khoảng 12 nhóm dân tộc thiểu số cư trú xen kẽ với nhau, đó là các dân tộc Hrê, Raglai, Xtiêng, Bru - Vân Kiều, Cơtu, Tàôi, Gié Triêng và Chăm. Điều kiện địa hình và khí hậu vùng này khá phức tạp, điều kiện phát triển giữa các dân tộc có khoảng cách chênh lệch lớn. Hiện nay, tốc độ phát triển kinh tế còn chậm, tỷ lệ hộ nghèo còn cao.
- Vùng Tây Nguyên, gồm các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng; có các nhóm dân tộc thiểu số cùng sinh sống xen kẽ với nhau như: Giarai, Êđê, Bana, Cơho, Xơđăng, Mnông, Tày, Nùng, Thái, Mạ, Mường, Dao,... Văn hóa tộc người vùng Tây Nguyên rất đa dạng. Tây Nguyên có vị trí địa lý kinh tế quan trọng đối với cả nước nhưng là địa bàn nhạy cảm và phức tạp về an ninh chính trị.
Hiện nay, về phương diện kinh tế - xã hội, Tây Nguyên vẫn là một vùng nghèo, chậm phát triển so với nhiều vùng trong cả nước.
Ở vùng sâu, vùng xa, trình độ học vấn của đồng bào thấp, tỷ lệ người không biết chữ phổ thông còn nhiều; kiến thức về pháp luật, sản xuất, đời sống, văn hóa, xã hội, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường... còn hạn chế; tập quán
21
sản xuất và tiêu dùng lạc hậu; chất lượng giáo dục thấp so với mặt bằng chung; công tác đào tạo, dạy nghề cho con em đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe ở vùng sâu, vùng xa còn hạn chế; hệ thống thiết chế văn hoá - thông tin ở xã, buôn làng, thiếu đồng bộ.
- Vùng Đông Nam Bộ, gồm các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh. Vùng này có các dân tộc thiểu số Xtiêng, Khmer, Chơro, Chăm, Mạ... Về kinh tế - xã hội, đây là vùng có tốc độ phát triển nhanh trong những năm gần đây nhưng giữa các dân tộc còn có sự chênh lệch lớn về điều kiện phát triển.
- Vùng Tây Nam Bộ (còn gọi đồng bằng sông Cửu Long), bao gồm 12 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc trung ương: An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long. Các tỉnh miền Tây Nam Bộ là một bộ phận của châu thổ sông Mê Kông, có diện tích 39.734km2, có vị trí nằm liền kề với vùng Đông Nam Bộ, phía Tây Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là biển Đông.
Đồng bào các dân tộc vùng Tây Nam Bộ (chủ yếu là đồng bào Khmer, Hoa, Chăm) sống xen kẽ
22
gần gũi nhau, có truyền thống đoàn kết từ lâu đời. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, trình độ phát triển về kinh tế, văn hóa - xã hội khá cao. Một trong những đặc điểm cơ bản là cả 3 dân tộc Khmer, Hoa, Chăm vùng Tây Nam Bộ đều có mối quan hệ với nhân dân các nước láng giềng về văn hóa, tiếng nói, chữ viết, tôn giáo. Mối quan hệ đó, xét về mặt khách quan đã và đang góp phần rất lớn trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giá trị tốt đẹp của tôn giáo trong đồng bào Khmer, Hoa, Chăm, song cũng tiềm ẩn những yếu tố phức tạp cần được quan tâm.
*
* *
Điểm qua một số nét về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội các vùng đồng bào dân tộc thiểu số cho thấy, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện còn tồn tại những bất cập:
- Trừ người Hoa, người Khmer và người Chăm sống ở đồng bằng, các nhóm dân tộc còn lại chủ yếu sinh sống ở vùng miền núi xa xôi, chịu những bất lợi về kinh tế, văn hóa - xã hội ở những mức độ khác nhau.
- Hiện nay, nhìn chung đời sống kinh tế - xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số còn thấp, lạc hậu, khoảng cách chênh lệch còn lớn so với các vùng, miền khác trong cả nước; kết cấu hạ tầng
23
kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập. Chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực đạt thấp, còn tình trạng người dân tộc thiểu số trong độ tuổi đi học chưa biết đọc, biết viết chữ phổ thông; đa số người trong độ tuổi lao động chưa được đào tạo nghề; đội ngũ cán bộ y tế cơ sở và trang thiết bị y tế vừa thiếu, vừa yếu, chất lượng dịch vụ y tế thấp. Tình trạng du canh, du cư, di dân tự do, chặt phá rừng ở nhiều nơi diễn biến phức tạp.
- Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ cơ sở, cán bộ người dân tộc thiểu số ở một số địa phương chưa đáp ứng yêu cầu.
- Tình hình an ninh chính trị còn tiểm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Tội phạm và tệ nạn xã hội như ma túy, buôn bán hàng lậu, vượt biên trái phép, lợi dụng tôn giáo để gieo rắc mê tín dị đoan... còn tồn tại ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số gây ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng dân cư và trật tự, an toàn xã hội.
Những khó khăn, yếu kém còn tồn tại trên các mặt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là vấn đề đất đai, các dự án thủy điện, khai thác tài nguyên làm ô nhiễm môi trường... gây nhiều bức xúc, phản ứng trong đồng bào dân tộc thiểu số ở
một số nơi được các thế lực thù địch và bọn phản động lưu vong ở nước ngoài thổi phồng, biến thành những mâu thuẫn tranh chấp, khiếu kiện có liên quan đến dân tộc để kích động chia rẽ
24
đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Những hạn chế của đội ngũ cán bộ ở cơ sở trong triển khai các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở một số địa bàn chưa tốt, có sai phạm; những yếu kém trong công tác vận động quần chúng cũng là những điểm yếu để địch lợi dụng tấn công làm xói mòn lòng tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước. Đây chính là những nguy cơ tiềm ẩn đe dọa sự ổn định và phát triển của các vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta.
II. VỊ TRÍ, MỤC ĐÍCH
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG Ở VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Thực tiễn cho thấy công tác tuyên truyền, vận động quần chúng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với thành quả của cách mạng Việt Nam. Ngay sau khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác tuyên truyền, vận động, giác ngộ quần chúng, tập hợp các lực lượng yêu nước tham gia cách mạng bằng những hình thức thích hợp; nhờ đó đã phát huy khả năng to lớn của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh của cộng đồng dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước
25
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta trải rộng khắp cả nước, đặc biệt tập trung ở miền núi, vùng sâu, vùng xa và khu vực biên giới có nhiều cửa ngõ thông thương với các nước láng giềng như
Trung Quốc, Lào, Campuchia, giữ vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường sinh thái của cả nước; có tiềm năng, lợi thế về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy điện, khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu; là vùng căn cứ địa cách mạng. Sự xa xôi, cách trở về địa lý, trình độ dân trí thấp, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, những khó khăn về điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội... ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta đã dẫn đến sự phát triển không đồng đều, chênh lệch lớn trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội giữa các vùng; tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định, ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí gây trở ngại đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quá trình phát triển mối quan hệ giữa các dân tộc.
Xác định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, vận động quần chúng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ngày 20-10- 2015, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 49- CT/TW ngày 20-10-2015 về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào
26
dân tộc thiểu số. Chỉ thị đã chỉ rõ: “Trong những năm đổi mới vừa qua, cấp ủy, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân các cấp nghiêm túc thực hiện chủ trương của Đảng về công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đã tạo được chuyển biến tích cực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế. Việc quán triệt và triển khai thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng ở nhiều nơi chưa kịp thời, hiệu quả thấp; thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở nhiều nơi còn hình thức; giải quyết những bức xúc trong đồng bào còn chậm, chưa thỏa đáng. Chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng và các dân tộc ngày càng lớn. Một số “đạo lạ” xâm nhập ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và diễn biến ngày càng phức tạp...”. Đây là những vấn đề bức xúc đặt ra mà hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở cần tập trung giải quyết. Vì vậy, tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc thiểu số chấp hành và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực
27
phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo; xây dựng đời sống văn hóa tiến bộ, lành mạnh; bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đập tan mọi âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước của các thế lực thù địch và bọn phản động; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số là những nhiệm vụ chính trị hàng đầu của cấp ủy và chính quyền địa phương, trong đó có hoạt động của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Mục đích của công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số là làm cho đồng bào tiếp cận, hiểu đúng và tự giác thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; nhằm phát triển toàn diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở
vùng miền núi và dân tộc thiểu số.
III. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN, VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
CỦA NGƯỜI CÓ UY TÍN
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Hoạt động tuyên truyền, vận động quần chúng của người có uy tín cần tập trung những nội dung sau:
28
1. Tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị ở địa phương
Công tác thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với người dân ở cơ sở có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi đại đa số người dân hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Công tác này là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ chính trị quan trọng, vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, có nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có sự
nỗ lực, phối hợp của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước cùng các tổ chức, đoàn thể.
Một trong những nội dung quan trọng trong tuyên truyền, vận động đồng bào chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương là phải làm cho mọi người thấy rõ vai trò chủ thể, quyền và nghĩa vụ của mình đối với việc chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; nắm được yêu cầu, nội dung nhiệm vụ chính
29
trị của địa phương để từ đó tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, của chính quyền địa phương, tích cực lao động, sản xuất, cùng nhau xây dựng quê hương, đất nước ấm no, giàu mạnh; giúp bà con nắm được những chuẩn mực ứng xử trong đời sống xã hội theo quy định của pháp luật để thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ
của công dân, tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, các công việc xã hội. Đồng thời, bà con có được những kiến thức cần thiết để hạn chế thua thiệt, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân khi tham gia các quan hệ kinh tế, dân sự; nâng cao ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, góp phần từng bước đấu tranh, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, phòng, chống tham nhũng.
Bên cạnh đó, cần thông tin về những khó khăn, vướng mắc trong thực tế triển khai các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước và nhiệm vụ công tác của địa phương; qua đó để các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nắm được, cùng chung tay tìm giải pháp tháo gỡ. Đồng thời, phản ánh các sáng kiến, kinh nghiệm hay, các nhân tố tích cực, điển hình để nhân rộng.
Ngoài việc làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, sự nêu gương của người có uy tín sẽ góp phần rất lớn vào thành công của công tác tuyên
30
truyền, vận động. Cụ thể, trong phong trào xây dựng nông thôn mới, người dân dù được nghe cán bộ tuyên truyền, vận động, nhưng việc huy động sức dân mở đường giao thông nông thôn đạt hiệu quả cao hay không phụ thuộc rất lớn vào việc cán bộ tuyên truyền, vận động và gia đình của cán bộ
đó có gương mẫu làm trước không, hay chỉ nói cho xong trách nhiệm rồi thôi. Do vậy, người làm công tác tuyên truyền, vận động phải kết hợp giữa làm gương và tích cực tuyên truyền, vận động như lời Bác Hồ đã dạy: “... óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”1.
Bên cạnh đó, người có uy tín cần phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội của địa phương xây dựng kế hoạch để làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, vận động với những nội dung phù hợp, thiết thực, tập trung tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, của địa phương liên quan đến dân tộc, tôn giáo, nông nghiệp, nông dân, nông thôn, bảo vệ môi trường...; các quy định pháp luật về dân chủ ở cơ sở, trách nhiệm tham gia bảo vệ, giữ gìn an ninh, quốc phòng, biên giới, chủ quyền quốc gia, biển, đảo, tài nguyên, khoáng sản và các lĩnh vực pháp luật
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.6, tr. 233-234.
31
khác gắn liền với đời sống, sản xuất của người dân (trồng trọt, bảo vệ thực vật, chăn nuôi, thú y, bảo vệ và phát triển rừng, thủy sản, thủy lợi, đê điều, kinh tế hợp tác và phát triển nông nghiệp...; các quy định về bình đẳng giới, hôn nhân và gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình, buôn bán phụ nữ, trẻ em, ma túy, mại dâm và các quy định khác có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của phụ nữ nông thôn và phụ nữ dân tộc thiểu số...); tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về vai trò, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân trong triển khai thực hiện các phong trào và nhiệm vụ chính trị của địa phương... có như vậy mới tạo ra những chuyển biến về nhận thức và hành động của các tầng lớp nhân dân trong thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương.
2. Tuyên truyền, vận động đồng bào bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội (bảo vệ an ninh, trật tự), xây dựng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân là nhằm bảo đảm môi trường thuận lợi cho kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương phát triển bền vững; tạo lập môi trường sống yên ổn, vui vẻ, lành mạnh và hạnh phúc cho người dân, tạo “hàng rào an toàn”
32
trước những nguy cơ tấn công của các thế lực thù địch với Việt Nam, góp phần củng cố vị thế của nước ta với quốc tế. Đảng và Nhà nước luôn coi đây là một nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, là trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể trong hệ thống chính trị, trong đó có vai trò rất quan trọng của người có uy tín.
Để tuyên truyền, vận động đồng bào bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tham gia xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cơ sở, hoạt động của người có uy tín cần tập trung các nội dung sau:
- Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho đồng bào về trách nhiệm và nghĩa vụ công dân trong bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội;
- Tham gia và vận động quần chúng thực hiện các phong trào: “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Giữ gìn an ninh trật tự ở khu dân cư”; “Quần chúng tham gia tự bảo quản đường biên, cột mốc quốc gia và an ninh trật tự khu vực biên giới”; “Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân vững chắc”...; vận động các hộ gia đình có nương rẫy, rừng giáp biên tự quản cột mốc, đoạn biên giới ở trên phần đất của mình;
33
- Tham gia đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, tệ nạn xã hội trong cộng đồng dân cư; giáo dục, cảm hóa những người lầm lỗi quay trở về với cuộc sống lương thiện; cung cấp thông tin cho ngành chức năng và chính quyền địa phương để kịp thời xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật; phòng ngừa, phát hiện sớm tình hình, có kế hoạch đấu tranh vô hiệu hóa hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, kịp thời tham mưu cho các cấp chính quyền làm tốt công tác vận động quần chúng, giải quyết các vụ việc liên quan đến chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số;
- Tuyên truyền, vận động đồng bào nêu cao tinh thần cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” và các hoạt động tuyên truyền, lôi kéo đồng bào theo đạo trái pháp luật; cảnh giác với các loại tội phạm như buôn bán người, chiếm đoạt phụ nữ, bắt cóc trẻ em...; không tin, không nghe theo lời kẻ xấu xúi giục hòng thực hiện các âm mưu gây chia rẽ đoàn kết trong nhân dân, gây mất an ninh trật tự thôn, bản; không vượt biên trái phép; không di cư tự do; không tái trồng cây thuốc phiện, không buôn bán, không tàng trữ các chất ma túy, không tham gia và tiếp tay cho buôn lậu; không tàng trữ, không sử dụng trái phép các loại vũ khí; bảo vệ đường biên mốc
34
giới; chấp hành các quy định pháp luật về an ninh, quốc phòng;
- Tuyên truyền, phổ biến để đồng bào hiểu và chấp hành các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo, không để kẻ xấu lợi dụng gây rối trật tự an toàn xã hội;
- Tham gia cùng cơ quan chức năng và chính quyền địa phương giải quyết những vấn đề liên quan đến việc thực hiện các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với đồng bào, những vụ việc có liên quan đến an ninh trật tự, tranh chấp, khiếu kiện... trong nội bộ nhân dân; vận động nhân dân ký cam kết không vi phạm pháp luật, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở khu dân cư.
3. Tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực lao động sản xuất, ổn định đời sống, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập để thoát nghèo bền vững
Xóa đói, giảm nghèo, phát triển sản xuất, từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tạo sự chuyển biến toàn diện ở các vùng nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư là chủ
trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Để người nghèo, hộ nghèo ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tự vươn lên thoát nghèo
35
và cải thiện mức sống một cách bền vững, trong những năm qua Nhà nước đã ban hành và triển khai thực hiện các chính sách, chương trình, dự án: đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng (điện, đường, trường, trạm), hỗ trợ phát triển sản xuất, dạy nghề... Việc tập trung thực hiện các chính sách, chương trình hỗ trợ giảm nghèo đã tạo điều kiện để người nghèo tiếp cận tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nước sạch, nhà ở...); kết cấu hạ tầng của các huyện nghèo, xã nghèo được tăng cường; đời sống đồng bào ở vùng dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt; tiến bộ và công bằng xã hội đã và đang được thực hiện...
Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, số hộ đã thoát nghèo nhưng mức thu nhập nằm sát chuẩn nghèo còn lớn, tỷ lệ hộ tái nghèo hằng năm còn cao; đời sống người nghèo ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn.
Để làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho gia đình và cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế địa phương, người có uy tín cần làm tốt những nội dung công tác sau:
- Tự mình làm gương, động viên con cháu, vận động dòng họ, cộng đồng dân cư tận dụng tiềm năng, thế mạnh về lao động, đất đai và các
36
chính sách của Nhà nước về hỗ trợ trực tiếp, hỗ trợ phát triển sản xuất (hỗ trợ phát triển sản xuất đối với các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn (Chương trình 135); hỗ trợ sản xuất đối với huyện nghèo; hỗ trợ đất sản xuất cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; hỗ trợ hoạt động khuyến nông, khuyến ngư ở địa bàn khó khăn); hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất (hỗ trợ hộ
nghèo vay vốn lãi suất ưu đãi; hỗ trợ hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn vay vốn phát triển sản xuất; hỗ trợ các hộ nghèo trên địa bàn huyện nghèo vay ưu đãi lãi suất; hỗ trợ hộ cận nghèo vay ưu đãi lãi suất); hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm (hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số; hỗ trợ học nghề, tạo việc làm cho lao động nữ thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số; hỗ trợ
giải quyết việc làm cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng bằng sông Cửu Long; hỗ trợ xuất khẩu lao động ở huyện nghèo; hỗ trợ hộ nghèo thông qua giao khoán chăm sóc, bảo vệ rừng và trồng rừng; hỗ trợ bồi dưỡng, tập huấn và truyền nghề cho nông dân thuộc hộ nghèo); hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số tích cực lao động sản xuất;
37
- Tự mình làm gương, động viên con cháu, vận động dòng họ, cộng đồng dân cư thay đổi phương thức canh tác, không chặt phá rừng; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; cải tạo đất trống, đồi trọc; xây dựng hệ thống mương phai tưới tiêu; áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất để thâm canh tăng vụ, tăng diện tích cây trồng, phát triển chăn nuôi; khôi phục nghề thủ công truyền thống, mở thêm ngành nghề, dịch vụ
mới tạo việc làm để cải thiện, nâng cao thu nhập và mức sống;
- Bản thân và gia đình gương mẫu đi đầu trong phát triển kinh tế vườn đồi, vườn rừng, chăn nuôi gia súc, gia cầm, xây dựng các mô hình sản xuất, kinh doanh dịch vụ hiệu quả, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi để hướng dẫn và giúp đỡ bà con học tập, làm theo;
- Phối hợp với cán bộ khuyến nông, khuyến lâm thôn, bản hướng dẫn đồng bào thực hiện sản xuất, gieo trồng đúng thời vụ, bảo đảm thực hiện cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo quy hoạch chung của địa phương. Vận động đồng bào tham gia các khóa đào tạo nghề: trồng trọt; chăn nuôi gia súc, gia cầm; dệt thổ cẩm...;
- Tham gia và cùng các ban ngành chức năng, tổ chức đoàn thể ở thôn, bản vận động nhân dân tích cực thực hiện “Chương trình xây dựng nông thôn mới” và có những đóng góp thiết thực, có
38
hiệu quả cho việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật, làm đường giao thông nông thôn; chấp hành tốt chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng, xây dựng những công trình công cộng quan trọng; hiến đất, ủng hộ ngày công, tiền và vật chất để làm đường, xây dựng những công trình phục vụ dân sinh trên địa bàn; tích cực tham gia phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”.
4. Tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, tiến bộ; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Bản sắc văn hóa Việt Nam được xây dựng và hình thành trên nền tảng văn hóa của 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa độc đáo, đặc sắc rất riêng. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, xã hội và tàn dư của các chế độ cũ trong lịch sử nên trình độ phát triển giữa các dân tộc còn chênh lệch, xã hội của nhiều tộc người còn bị
chi phối sâu sắc bởi hệ thống tín ngưỡng, phong tục cổ truyền. Bên cạnh những yếu tố tích cực làm nên bản sắc văn hóa tộc người cần giữ gìn, phát huy thì phong tục, tập quán, luật tục, tâm lý, lối sống của các dân tộc cũng còn lưu giữ những yếu tố tiêu cực, lạc hậu ở các mức độ khác nhau, trở
thành vật cản đối với sự phát triển, tiến bộ khiến cho đời sống của đồng bào càng trở nên khó khăn.
39
Đời sống văn hóa ở cơ sở, mức hưởng thụ về văn hóa tinh thần còn chênh lệch lớn giữa vùng đồng bằng với các dân tộc cư trú ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Về xã hội, quản lý xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội nhằm ổn định đời sống, việc làm, thực hiện các chính sách xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội... cũng biểu hiện rõ nét sự
không đồng đều, thậm chí chênh lệch rất lớn giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc đa số cũng như giữa các dân tộc thiểu số với nhau. Ở một số tộc người, văn hóa truyền thống đang bị mai một, sự đồng hóa tự nhiên dẫn đến nguy cơ thu hẹp sự đa dạng thành phần dân tộc. Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, đối tượng am hiểu phong tục tập quán chủ yếu là người cao tuổi, ngày càng khuất bóng dần.
Các tệ nạn xã hội như nghiện hút, mê tín dị đoan; hủ tục... còn tồn tại ở nhiều vùng dân tộc thiểu số đã tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của người dân và cộng đồng dân cư ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, sự chi phối của phong tục, tập quán truyền thống và đặc điểm văn hóa tộc người đã tạo nên những khó khăn, tồn tại còn hiện hữu trong lĩnh vực văn hóa - xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của từng dân tộc và sự phát triển chung của cộng đồng, xã hội. Do vậy,
40
trong hoạt động tuyên truyền, vận động nhân dân, người có uy tín cần tập trung vào những nội dung sau:
∙ Đối với công tác xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư:
- Phối hợp với cấp ủy, ban tự quản vận động nhân dân thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, tự giác chấp hành các quy chế, hương ước, quy ước của thôn, bản, buôn, tổ dân phố, đặc biệt trong việc cưới hỏi, tang ma; xóa bỏ tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan ảnh hưởng đến sự phát triển của từng dân tộc và sự phát triển chung của cộng đồng (như ăn ở không vệ sinh, thả rông hoặc nuôi nhốt gia súc dưới gầm nhà, thách cưới, phạt vạ, tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống, không làm giấy khai sinh cho con, không đăng ký kết hôn, không khai tử khi chết, tin vào thầy cúng, thầy mo khi ốm đau, tổ chức ăn uống dài ngày khi có đám tang, đám cưới gây tốn kém...); giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ các di tích lịch sử - văn hóa, môi trường, cảnh quan nơi sinh sống; tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng: tham gia các lễ hội truyền thống, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng.
- Vận động con cháu trong gia đình, dòng họ, bản làng xây dựng gia đình “Năm không”
41
(không đói nghèo, không có người vi phạm pháp luật và mắc vào các tệ nạn xã hội, không có bạo lực gia đình, không sinh con thứ ba, không có trẻ suy dinh dưỡng và bỏ học), “Ba sạch” (sạch nhà, sạch ngõ, sạch bếp); thực hiện tốt công tác y tế, chăm sóc sức khỏe, phòng, chống bệnh dịch; công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình; chăm sóc, bảo vệ trẻ em; tham gia xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài; xây dựng, giữ vững và phát huy danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn, bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”, góp phần quan trọng trong việc
xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư. ∙ Đối với công tác xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện:
Gương mẫu thực hiện và vận động đồng bào tham gia các hoạt động lá lành đùm lá rách, xây dựng nhà tình nghĩa, xóa nhà tạm...
∙ Đối với công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc:
- Tuyên truyền, vận động đồng bào nâng cao ý thức gìn giữ tiếng nói, chữ viết, trang phục, nhà ở, ẩm thực truyền thống; các nhạc cụ dân tộc, các loại hình nghệ thuật dân gian, nghề thủ
công truyền thống; lễ hội, trò chơi dân gian; những phong tục, tập quán tốt đẹp trong đời sống sinh hoạt, sản xuất của dân tộc mình; tự hào và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong đời sống hằng ngày;
42
tham gia trình diễn, giới thiệu, giao lưu trong ngày hội văn hóa thể thao các dân tộc do địa phương và trung ương tổ chức.
- Tham gia và vận động nghệ nhân tổ chức phục dựng các loại hình nghệ thuật dân gian, các nghi lễ, lễ hội dân gian truyền thống; sưu tầm, truyền dạy các loại hình nghệ thuật dân gian, dạy chữ, dạy tiếng dân tộc; bảo tồn và phát triển nghề
thủ công truyền thống.
5. Tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh
Hệ thống chính trị cơ sở bao gồm: tổ chức đảng, tổ chức chính quyền (Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân), tổ chức mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở. Ba bộ phận này có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau và mỗi bộ
phận có vai trò, vị trí riêng được thể hiện trong cơ chế tổ chức và phương thức hoạt động của từng bộ phận. Hệ thống chính trị ở cơ sở đảm nhiệm vai trò tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò hết sức quan trọng, quyết định sự thành - bại của đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, coi việc đổi mới tổ chức và
43
hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong điều hành, quản lý xã hội, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân, bảo đảm an ninh trật tự, phát triển kinh tế - xã hội.
Thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh ở vùng dân tộc sẽ tăng cường nền tảng của Đảng và chính quyền, xây dựng và thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân từ cơ sở, củng cố niềm tin của đồng bào với cấp ủy Đảng, chính quyền. Nếu xem nhẹ việc củng cố hệ thống chính trị cơ sở sẽ dẫn tới những hậu quả không thể lường trước, đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số - một trọng điểm chiến lược mà các thế lực thù địch luôn có âm mưu lợi dụng để gây chia rẽ dân tộc, kích động ly khai - tự trị.
Sự tham gia của người có uy tín trong tuyên truyền, vận động đồng bào tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh thể hiện trên các mặt hoạt động sau:
∙ Tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Khơi dậy tinh thần đoàn kết, chủ động và tích cực tham gia của người dân đối với việc xây
44
dựng Đảng, xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn, tiêu cực ở cơ sở;
- Tham gia giám sát chính quyền trong việc thực hiện quy định về các nội dung công khai để dân biết; nội dung dân bàn và quyết định trực tiếp; nội dung dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định; các nội dung dân tham gia ý kiến trước khi cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
- Vận động nhân dân phát huy dân chủ, tham gia xây dựng và tự giác chấp hành hương ước, quy ước của thôn, bản, tổ dân phố khi cấp chính quyền cơ sở quyết định công nhận; dân chủ bàn bạc và quyết định trực tiếp việc thực hiện các công việc tự
quản không trái với quy định của pháp luật trong phát triển sản xuất, đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, bản, tổ dân phố...; tham gia ý kiến vào các dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương theo quy định.
∙ Động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cơ sở; đóng góp ý kiến với tinh thần xây dựng đối với vai trò lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng, chính quyền.
45
∙ Tuyên truyền, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
∙ Vận động nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân trong bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; bầu chọn người có uy tín, già làng, trưởng bản, tổ trưởng tổ dân phố...
∙ Khuyến khích con cháu phấn đấu được đứng trong hàng ngũ của Đảng.
5 nội dung hoạt động tuyên truyền, vận động quần chúng của người có uy tín vùng đồng bào dân tộc thiểu số
1. Tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
2. Tuyên truyền, vận động đồng bào bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
3. Tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực lao động sản xuất, ổn định đời sống, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập để thoát nghèo bền vững.
4. Tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, tiến bộ; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
5. Tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.
46
IV. HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP TUYÊN TRUYỀN, VẬN ĐỘNG
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1. Các hình thức tuyên truyền, vận động quần chúng của người có uy tín
Ứng với mỗi nội dung tuyên truyền, vận động, người có uy tín có thể lựa chọn một trong những hình thức sau để tuyên truyền, vận động đồng bào:
- Tiếp xúc, gặp gỡ, đối thoại trực tiếp hoặc thông qua các cuộc họp thôn, bản, dân phố để thông tin, trao đổi, giải thích, thuyết phục, vận động quần chúng;
- Thông qua việc tham gia hòa giải các vụ việc, mâu thuẫn nảy sinh trên địa bàn để đối thoại, tuyên truyền, động viên, thuyết phục, giáo dục quần chúng;
- Làm gương, làm mẫu, hướng dẫn, thuyết phục quần chúng làm theo.
2. Nguyên tắc, phương pháp tuyên truyền, vận động đồng bào
∙ Nguyên tắc:
- Tôn trọng và phát huy dân chủ, quyền tự do tín ngưỡng; phong tục tập quán của đồng bào; - Khi giao tiếp phải thể hiện đầy đủ sự bình đẳng và quý trọng đối với đồng bào;
47
- Thái độ, tác phong, lối sống gần gũi, không cách biệt với đồng bào; có thái độ chân thành, hướng dẫn và giúp đỡ đồng bào.
∙ Phương pháp:
- Nắm bắt, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của đồng bào. Bằng năng lực, kinh nghiệm và sự hiểu biết của mình, người có uy tín tuyên truyền, vận động, hướng dẫn đồng bào phân định rõ hơn sự đúng - sai, phải - trái, hay - dở, tốt - xấu, lợi - hại, nên làm - không nên làm... trước những vấn đề mà bản thân các cá nhân và cộng đồng đã, đang và sẽ gặp phải hay đã trải qua;
- Dùng uy tín, sự hiểu biết của mình để truyền bá tinh thần, tư tưởng, quan điểm, thông tin, kiến thức cần thiết, phù hợp và có lợi để góp phần thúc đẩy cộng đồng phát triển theo hướng tiến bộ; dùng sự hiểu biết của mình để góp phần xác lập, định hướng, duy trì, bảo vệ những chuẩn mực, những phong tục, tập quán tốt đẹp, những cách làm hay, kinh nghiệm tốt để xây dựng thôn, buôn, bản, làng vững mạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Để làm được điều này, người có uy tín có thể nói, có thể viết, hoặc có thể làm gương/làm mẫu bằng những việc cụ
thể để giúp đồng bào nắm bắt được vấn đề một cách dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện (bởi lẽ, không phải tất cả những người hiểu biết đều giỏi nói hay giỏi viết, thay bằng nói, viết, làm một việc
48
tốt cụ thể cũng là cách để góp phần đấu tranh tiêu diệt cái xấu; làm một điều đúng cũng là cách chỉ cho người khác thấy những cái sai...);
- Với phương châm “chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc”, phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân” cộng với những lợi thế như
được cộng đồng dân cư mến phục, tin tưởng; biết tiếng địa phương, am hiểu phong tục, tập quán, đặc điểm tâm lý của từng dân tộc, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu và những khó khăn, hạn chế của mỗi gia đình, mỗi cá nhân trong cộng đồng, người có uy tín sẽ phát huy tốt vai trò của mình trong công tác tuyên truyền, vận động đồng bào.
V. TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI CÓ UY TÍN TRONG HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN, VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
Trong hoạt động tuyên truyền, vận động quần chúng, người có uy tín cần:
- Nhận thức đúng vị trí, vai trò, nêu cao tinh thần gương mẫu, vượt khó, nêu gương để quần chúng noi theo;
- Bám sát các định hướng chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền về tình hình, nhiệm vụ công tác
49
của địa phương và nội dung hoạt động của người có uy tín trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng;
- Nắm bắt những thông tin về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ở địa phương, trong nước và quốc tế; những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch; các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là chính sách và các quy định có liên quan đến dân tộc, tôn giáo, đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, dân chủ ở cơ sở; yêu cầu, mục đích, nội dung các cuộc vận động, các phong trào thi đua do Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội phát động; các kiến thức, kinh nghiệm về sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình, cách thức tổ chức cuộc sống văn minh... để từ đó có được những thông tin, hiểu biết cần thiết trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, luật pháp phục vụ cho hoạt động tuyên truyền, vận động đồng bào;
- Tích cực tham gia các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức; tham quan học tập kinh nghiệm do ban, ngành tổ chức. Nắm bắt mục đích, yêu cầu, nội dung, nghiệp vụ công tác tuyên truyền, vận động quần chúng thông qua tuyên truyền miệng, công tác hòa giải để phục vụ hoạt động tuyên truyền, vận động quần chúng.
50
Những việc người có uy tín cần làm để phát huy vai trò trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng
- Nhận thức đúng vị trí, vai trò của mình. Nêu cao tinh thần gương mẫu, vượt khó, nêu gương để quần chúng noi theo.
- Bám sát các định hướng chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền; nắm bắt thông tin, nâng cao kiến thức trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, luật pháp.
- Nắm bắt mục đích, yêu cầu, nội dung, nghiệp vụ công tác tuyên truyền, vận động quần chúng. - Áp dụng những cách thức, phương pháp tuyên truyền, vận động, hướng dẫn phù hợp với đối tượng tác động để giúp họ phân định rõ hơn sự đúng - sai, phải - trái, hay - dở, tốt - xấu, lợi - hại, nên làm - không nên làm.
51
Phần III
KỸ NĂNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG TRONG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
1. Khái niệm tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng là một hình thức đặc biệt của tuyên truyền, được tiến hành thông qua sự giao tiếp trực tiếp giữa người tuyên truyền với đối tượng tuyên truyền, chủ yếu bằng lời nói trực tiếp.
2. Những ưu thế đặc trưng của tuyên truyền miệng
- Là sự giao tiếp trực tiếp để cung cấp và trao đổi thông tin nên sử dụng được mọi ưu thế của giao tiếp trực tiếp. Có thể giải thích được những vấn đề mà vì một lý do nào đó không thể đưa công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng;
52
- Tuyên truyền miệng qua hình thức đối thoại giữa người nói với người nghe là một hình thức tuyên truyền dân chủ nhất, thực hiện được chức năng thông tin hai chiều, khắc phục tính áp đặt;
- Tuyên truyền miệng có thể sử dụng triệt để nhất ưu thế của ngôn ngữ nói và “kênh” phi ngôn ngữ; - Tuyên truyền miệng có điều kiện và nhiều khả năng tiến hành một cách thường xuyên và rộng rãi ở nhiều nơi, trong các điều kiện khác nhau;
3. Vai trò của tuyên truyền miệng trong công tác vận động quần chúng
Tuyên truyền miệng là một bộ phận của công tác tư tưởng, có vai trò rất quan trọng trong việc đưa chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trực tiếp đến cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng nhân dân, góp phần xây dựng, củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, tạo niềm tin và sự đồng thuận trong xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhờ có sự giao tiếp trực tiếp giữa người làm công tác tuyên truyền với quần chúng, nhân dân trong quá trình tuyên truyền nên tuyên truyền miệng có vai trò như là “sợi dây” nối liền giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân dân.
Mặt khác, trong điều kiện “bùng nổ” thông tin hiện nay, tuyên truyền miệng có vai trò giải thích cho quần chúng nhân dân hiểu rõ đâu là thông tin
53
chính thống và hiểu đúng bản chất của vấn đề, vụ việc, sự kiện diễn ra, trên cơ sở đó định hướng dư luận xã hội, góp phần tạo ra sự thống nhất về nhận thức và hành động trong tổ chức Đảng,
chính quyền, sự đồng thuận trong nhân dân. Tuyên truyền miệng chuyển tải được nhiều vấn đề quan trọng mà vì nhiều lý do, các phương tiện thông tin đại chúng khác không thực hiện được, góp phần tăng cường mối quan hệ trực tiếp, sinh động giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân, góp phần khắc phục tệ quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng.
4. Những nguyên tắc cơ bản của tuyên truyền miệng
Trong hoạt động tuyên truyền miệng cần bảo đảm những nguyên tắc cơ bản sau:
- Tính Đảng: là nguyên tắc cơ bản hàng đầu của công tác tuyên truyền miệng. Hoạt động tuyên truyền (bao gồm cả nội dung, hình thức) phải đúng với định hướng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Tính chiến đấu: là nguyên tắc của công tác tuyên truyền nói chung, cũng là ưu thế của tuyên truyền miệng nói riêng. Tuyên truyền miệng phải khẳng định và bảo vệ cái đúng, xây dựng những tư tưởng, tình cảm lành mạnh, uốn nắn những quan điểm, tư tưởng lệch lạc, đấu tranh
54
chống các luận điểm phản tuyên truyền, các biểu hiện tiêu cực.
- Tính quần chúng: Bác Hồ đã dạy: “Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe?”1, vì vậy, trong hoạt động tuyên truyền cần giải quyết hài hòa mối quan hệ
giữa nhiệm vụ tuyên truyền đặt ra và yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích của người nghe.
- Tính khoa học, chân thực, khách quan: đòi hỏi người tuyên truyền miệng phải nói đúng sự thật, không né tránh, không cực đoan, một chiều; phải làm cho người nghe hiểu rõ cơ sở khách quan, khoa học, với đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn để nâng cao sức thuyết phục, làm cho người nghe tin tưởng vào sự đúng đắn của vấn đề cần tuyên truyền.
5. Yêu cầu của công tác vận động quần chúng thông qua tuyên truyền miệng
- Công tác vận động quần chúng nhân dân thông qua tuyên truyền miệng cần phản ánh đúng thực trạng tình hình kinh tế - xã hội đất nước; tình hình trong Đảng và công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; không tô hồng thành tích, không giấu giếm khuyết điểm và hạn chế; không né tránh những vấn đề bức xúc, những
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 340.
55
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người dân. Tuy nhiên, không phải sự thật nào cũng nói. Tuyên truyền phải lấy thuyết phục, vận động làm cốt. Phê phán các luận điệu sai trái, thù địch cũng phải có lý có lẽ, có chứng cứ rõ ràng. Trong tuyên truyền, vận động quần chúng, người làm công tác tuyên truyền miệng không được giáo điều, xa rời thực tế.
- Công tác vận động quần chúng thông qua tuyên truyền miệng cần phải thực hiện thông tin hai chiều, lắng nghe những băn khoăn, thắc mắc, bức xúc của người dân, những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người dân, tăng cường trao đổi, đối thoại thực sự với người dân, tránh lối tuyên truyền độc thoại (áp đặt từ trên xuống, chỉ
nói mà không nghe, chỉ truyền đạt mà không tiếp nhận, trao đổi, đối thoại). Kết quả vận động quần chúng của người làm công tác tuyên truyền miệng phải bao hàm đồng thời hai nội dung: (1) truyền đạt để dân hiểu, dân tin và dân thực hiện; (2) lắng nghe, tiếp nhận, trao đổi, đối thoại thực sự
với người dân. Bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa nói và nghe, trong đó nhấn mạnh yêu cầu tiếp nhận, trao đổi và đối thoại với người dân, không né tránh vấn đề, không đùn đẩy trách nhiệm; phản ánh kịp thời những tâm tư, nguyện vọng chính đáng, những vấn đề nảy sinh trong nhân dân đối với cơ quan Đảng, Nhà nước để xem xét, giải quyết
56
là trách nhiệm hàng đầu của người làm công tác tuyên truyền miệng hiện nay.
- Công tác tuyên truyền miệng, vận động quần chúng ở cơ sở cần phải kết hợp lồng ghép những nội dung tuyên truyền chính trị, tuyên truyền các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước với tuyên truyền những nội dung chuyên đề được nhân dân quan tâm, gắn thiết thực với đời sống hằng ngày của người dân (việc làm, thu nhập; thu hồi đất đai, giải tỏa mặt bằng, giá cả đền bù; khuyến nông, khuyến lâm; bảo vệ môi trường; vệ
sinh phòng bệnh; phòng, chống các tệ nạn xã hội...); kết hợp giữa thông tin, tuyên truyền miệng với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, lễ hội truyền thống và cách mạng, các sinh hoạt cộng đồng khác ở khu dân cư, tổ dân phố; thông qua đó để nâng cao trình độ dân trí, văn hóa và ý thức chính trị của người dân, giúp người dân chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có ý thức và trách nhiệm xây dựng, phát triển quê hương, đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Hình thức tuyên truyền phải phù hợp với đặc điểm nhận thức, tâm lý, tư tưởng, điều kiện sinh sống, làm việc, học tập của từng nhóm đối tượng tuyên truyền, vận động. Tăng cường phối hợp hoạt động thông tin, tuyên truyền, vận động quần chúng của đội ngũ những người làm công
57
tác tuyên truyền miệng với các hoạt động sinh hoạt định kỳ của các tổ chức cơ sở đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
- Những người làm công tác tuyên truyền miệng (báo cáo viên, tuyên truyền viên) phải có trình độ chuyên môn giỏi, lý luận sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kinh nghiệm sống phong phú để có đủ năng lực trao đổi, đối thoại, giải đáp có sức thuyết phục những băn khoăn, thắc mắc, bức xúc của người dân. Trong xây dựng đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên, cần chú ý sử dụng những người có kinh nghiệm, uy tín trong cộng đồng, những già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, những người thông thạo tiếng dân tộc (đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số)..., những người hiểu biết phong tục, tập quán, nắm bắt được đặc điểm tâm lý, diễn biến tư tưởng của từng nhóm đối tượng cần tuyên truyền, vận động.
6. Nhiệm vụ chủ yếu của tuyên truyền viên1 trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng
- Trực tiếp tuyên truyền, phổ biến những
__________
1. Theo Quy chế hoạt động báo cáo viên của Đảng được ban hành kèm theo Quyết định số 518-QĐ/BTGTW ngày 10-11-2011 của Ban Tuyên giáo Trung ương.
58
quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tình hình thời sự trong nước và thế giới; những nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đến cán bộ, đảng viên và nhân dân;
- Nắm tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân; định hướng tư tưởng và hướng dẫn dư luận xã hội, góp phần xây dựng, củng cố sự thống nhất tư tưởng, hành động trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội;
- Đối thoại với người nghe, kịp thời giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của cán bộ, đảng viên và nhân dân; đấu tranh phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch;
- Tuyên truyền các nội dung thông tin theo sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng, sự phân công của cấp ủy đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn cấp trên.
II. KỸ NĂNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
Trong hoạt động tuyên truyền miệng, có thể sử dụng báo cáo viên, tuyên truyền viên (trong đó người có uy tín là một lực lượng tuyên truyền quan trọng) với nhiều phương pháp để chuyển tải thông tin như: báo cáo, thuyết trình, nói chuyện, đối thoại, trò chuyện tâm tình... Mỗi phương pháp
59
tuyên truyền đều có những ưu thế và hạn chế nhất định. Tùy theo tình hình, đặc điểm đối tượng mà lựa chọn những phương pháp tuyên truyền phù hợp. Trong điều kiện mở rộng và phát huy dân chủ
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay với trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được nâng lên, cần tăng cường các phương pháp đối thoại và kết hợp hài hòa đối thoại với thông tin, phổ biến. Những phương pháp đối thoại như tọa đàm, trao đổi, thảo luận, tranh luận, hỏi - đáp... là những phương pháp rất phù hợp trong tình hình hiện nay.
Hiệu quả tuyên truyền miệng phụ thuộc trực tiếp vào kiến thức, trình độ nghiệp vụ, nghệ thuật tuyên truyền của người tuyên truyền. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền miệng, cần chú ý nắm vững một số kỹ năng sau:
1. Tìm hiểu tâm lý và đặc điểm đối tượng tuyên truyền
Đối tượng tuyên truyền miệng ở cơ sở rất đa dạng, có đặc điểm tâm lý, nghề nghiệp và điều kiện sống khác nhau và có nhu cầu, sự quan tâm đến các vấn đề khác nhau. Vì vậy, người nói cần tìm hiểu trình độ chính trị, văn hóa, tuổi tác, tâm tư nguyện vọng, suy nghĩ của đối tượng mình định tuyên truyền để nói cho sát, cho thích hợp. Am hiểu đặc điểm và tâm lý đối tượng tuyên
60
truyền là yêu cầu đầu tiên để tiến hành có hiệu quả công tác tuyên truyền miệng.
Muốn nắm được tâm lý, đặc điểm đối tượng tuyên truyền ở cơ sở cần nghiên cứu, tìm hiểu trước, thông qua thông báo, trao đổi từ các cơ quan, tổ chức, cán bộ chính quyền, đoàn thể ở cơ sở; tự tìm hiểu, tự điều tra qua tiếp xúc, quan sát trực tiếp, qua dư luận xã hội.
Khi nắm bắt được thái độ, đặc điểm của đối tượng, cần lựa chọn nội dung, phương pháp tuyên truyền cho phù hợp để đạt hiệu quả.
2. Lựa chọn nội dung và chất lượng thông tin
Nhu cầu nhận thức của con người rất phong phú, đa dạng, chỉ khi con người được đáp ứng nhu cầu, thỏa mãn những mong đợi, khát khao thì những nội dung thông tin mới được tiếp thu tích cực, tự giác. Vì vậy, lựa chọn nội dung tuyên truyền cần chú ý đến những yêu cầu thông tin của đối tượng tuyên truyền.
Khi trình bày các vấn đề, sự kiện, người tuyên truyền cần phân tích, khai thác các khía cạnh của bản chất sự kiện, tổng hợp, khái quát định hướng suy nghĩ và hành động, thỏa mãn nhu cầu nhận thức, trí tuệ và tình cảm của người nghe, để từ đó mà đạt được mục đích của tuyên truyền.
61
Chất lượng thông tin phụ thuộc vào mức độ “sâu” và mức độ “mới” của thông tin. Những thông tin được phân tích trên cơ sở khoa học và thực tiễn sâu sắc, chỉ rõ bản chất, quy luật, dự báo xu hướng phát triển sẽ giải đáp trúng những vướng mắc của người nghe. Đó là những thông tin có giá trị soi sáng về tư tưởng, hướng dẫn dư luận và hướng dẫn hành động.
Thông tin mới có giá trị rất quan trọng vì sẽ tạo nên khả năng thu hút sự chú ý của người nghe, gây được lòng tin trong công chúng, thuyết phục những người có quan điểm khác hoặc trái với quan điểm cần thuyết phục, vì vậy cần chú ý cập nhật thông tin và khai thác để tuyên truyền. Tuy nhiên, dù là các thông tin cũ nhưng nếu có sự phân tích sâu sắc, nhận xét, bình luận tinh tế, dự báo có cơ sở khoa học, liên hệ thực tiễn gần gũi, sống động, phương pháp trình bày hấp dẫn, lôi cuốn... cũng có thể được coi là mới với người nghe. Vì vậy, đổi mới cách trình bày phù hợp với đối tượng là yêu cầu quan trọng của tuyên truyền miệng.
3. Nắm vững yêu cầu và nội dung của vấn đề cần tuyên truyền, gắn với thực tiễn sinh động đang diễn ra
- Nắm vững yêu cầu và nội dung tuyên truyền, nhạy bén với thực tiễn cuộc sống là yêu cầu cốt lõi làm nên hiệu quả của hoạt động tuyên
62
truyền. Khi nắm vững nội dung và kết hợp với thực tiễn cuộc sống thì người nói sẽ có cách trình bày rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu, sinh động, thuyết phục người nghe.
- Để nắm vững những nội dung tuyên truyền, trước hết người tuyên truyền cần phải nghiên cứu kỹ chủ đề, nội dung mà mình định tuyên truyền. Đọc kỹ, ghi chép tài liệu liên quan đến chủ đề và nội dung tuyên truyền là rất cần thiết đối với người nói.
- Cần nắm bắt thực tiễn một cách nhạy bén, có hệ thống, cần bổ sung ngay khi tuyên truyền, làm cho người nghe tiếp cận ngay với những vấn đề thời sự chính trị đang diễn ra là vấn đề rất quan trọng đòi hỏi người nói phải rèn luyện.
4. Tôn trọng sự thực khách quan và biết cách thuyết phục người nghe
- Tôn trọng sự thực khách quan khi tuyên truyền, nghĩa là trong khi tuyên truyền, người tuyên truyền không nên cường điệu mặt này, hạ thấp mặt kia không đúng với sự thật, không làm cho người nghe bi quan hay chủ quan, càng không làm cho người nghe hoài nghi, thiếu tin tưởng. Người tuyên truyền không chỉ nói đúng, làm đúng mà còn kiên quyết bảo vệ cái đúng.
- Thuyết phục người nghe là một điều khó, người tuyên truyền muốn nói cho quần chúng
63
hiểu, tin và làm theo thì cần phải có phương pháp thuyết phục. Trước hết người tuyên truyền cần phải có nhiệt tình, phải có quan điểm, lập trường đúng đắn, phải có trình độ, kiến thức và chuẩn bị
chu đáo trước khi nói.
- Cần rèn luyện phương pháp diễn đạt hấp dẫn, trình bày đơn giản, dễ hiểu, ngôn ngữ trong sáng... và đặc biệt là biết cách tạo ấn tượng với người nghe bằng các dẫn chứng cụ thể, thuyết phục, gắn với tâm lý người nghe. Cần tránh những buổi tuyên truyền sáo rỗng, nặng về lý luận suông, thiếu nội dung, nói dài, ba hoa. Khi trình bày phải chân thành, cởi mở và phải biết cách “đối thoại ngay trong độc thoại”, tạo sự chia sẻ, đồng cảm, khơi dậy tính chủ động, tính tích cực ở người nghe, giúp người nghe tự mình tìm đến chân lý, chuyển hóa thành niềm tin và hành động.
5. Chuẩn bị đề cương tuyên truyền
Muốn buổi tuyên truyền miệng đạt kết quả tốt, người tuyên truyền cần chuẩn bị đề cương cho buổi tuyên truyền. Đề cương tuyên truyền sẽ giúp người tuyên truyền chủ động trong khi nói và khi đối thoại với người nghe. Sự chuẩn bị chu đáo đề cương tuyên truyền sẽ đáp ứng được yêu cầu tuyên truyền và yêu cầu của người nghe, góp phần lớn vào thành công của buổi tuyên truyền. Đề cương tuyên truyền có thể là đề cương khái
64
quát hoặc đề cương chi tiết, thậm chí là một bài viết hoàn chỉnh, thường có những phần sau: - Mở đầu, có tính chất giới thiệu vấn đề và làm quen. Tuyên truyền viên cần tạo ra sự thân mật, gần gũi giữa người nói và người nghe; định hướng sự theo dõi, chú ý của người nghe vào nội dung tuyên truyền.
Phần này cần ngắn gọn, súc tích, tránh dài dòng, có thể bắt đầu buổi tuyên truyền bằng những lời nói có nội dung trực tiếp hoặc bắc cầu, tương phản, dẫn câu của lãnh tụ, danh nhân...
- Nội dung tuyên truyền, đây là phần quan trọng nhất của buổi tuyên truyền. Vì vậy, cần lựa chọn những vấn đề cốt lõi của nội dung tuyên truyền với đầy đủ những lý luận và dẫn chứng cụ
thể, sinh động, bảo đảm tính lôgích, chặt chẽ, hợp lý; thông tin phải bảo đảm sự chính xác, phong phú và bổ ích.
Với từng vấn đề, cần phải dùng các luận điểm, luận cứ, luận chứng, các ví dụ xác đáng, tiêu biểu, rõ ràng để giải thích và chứng minh. Tùy theo từng hình thức tuyên truyền miệng (báo cáo, thuyết trình, nói chuyện, đối thoại, trò chuyện tâm tình...) mà tuyên truyền viên sử dụng lý luận, dẫn chứng cho phù hợp với đối tượng.
Sau mỗi vấn đề cần tóm tắt, chốt lại những ý chính.
- Kết thúc, cần khái quát, chốt lại những điều đã trình bày, nhấn mạnh điểm chính, khêu gợi
65
suy nghĩ và cổ vũ hành động, định hướng tư tưởng để người nghe nâng cao niềm tin và xác định rõ trách nhiệm của mình.
Khi chuẩn bị đề cương cho buổi tuyên truyền phải chú ý tính chính xác về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, các thông tin cụ thể. Nội dung vấn đề cần tuyên truyền phải phù hợp, thiết thực với người nghe. Khi chuẩn bị nội dung cần dự kiến những vấn đề mà người nghe có thể
hỏi, chất vấn. Thông thường, các câu hỏi người nghe đưa ra sẽ chia thành hai loại là câu hỏi giải thích và câu hỏi phụ thêm, liên quan đến nội dung được đề cập. Để thu hút người nghe, nội dung giữa các phần trong bài nói phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau: từ yêu cầu, nhiệm vụ
đến giải pháp thực hiện...
6. Ngôn ngữ và phong cách truyền đạt trong tuyên truyền miệng
Một trong những kỹ năng đầu tiên trong nghệ thuật tuyên truyền miệng là phải biết lựa chọn ngôn ngữ, văn phong phát biểu miệng. Ngôn ngữ dùng trong tuyên truyền miệng là ngôn ngữ hội thoại, do vậy cần chuẩn xác về ngữ nghĩa, trong sáng, giản dị, dễ hiểu. Nên sử dụng những câu đơn giản, thường là câu đơn, không nên sử dụng câu phức. Những câu đơn, câu ngắn sẽ giúp người nghe tiếp thu thông tin một cách nhanh chóng,
66
dễ dàng và nhớ lượng thông tin lâu hơn. Theo các nghiên cứu, một câu dễ hiểu có từ 3 đến 10 từ trong một câu. Một câu khó hiểu sẽ có từ 20 đến 25 từ trong một câu. Một câu rất khó hiểu sẽ có hơn 35 từ trong một câu.
Khi truyền đạt, người nói phải chuyển những câu văn, phong cách khoa học của văn bản thành ngôn ngữ phổ thông; phát âm chính xác về âm thanh, tránh nói ngọng l, n, s, x...; biết xử lý tốt quan hệ ngữ đoạn, ngắt nghỉ đúng chỗ, tránh gây hiểu lầm trong câu nói, vì cùng một nội dung, nhưng ngắt nghỉ khác nhau sẽ dẫn tới hiểu theo những nội dung khác nhau. Âm lượng khi nói không nên quá to hoặc quá nhỏ, khi cần nhấn mạnh nên dùng ngữ điệu nhanh, chậm, ngừng nghỉ cho phù hợp.
Trong quá trình truyền đạt phải chân thành, cởi mở, biết cách đối thoại, tương tác theo hướng thông tin hai chiều, khơi gợi và hướng người nghe tập trung bằng cách nêu câu hỏi nhấn mạnh vào nội dung và chủ đề cần tuyên truyền. Luôn có thái độ cầu thị, tôn trọng, chú ý tiếp nhận câu hỏi của người nghe để trả lời rõ ràng, đúng và trúng yêu cầu. Những vấn đề chưa rõ hoặc chưa thể trả lời thì khéo léo đề nghị để trả lời riêng hoặc trả lời vào dịp khác. Không trả lời những vấn đề chưa nắm vững.
67
Cùng với ngôn ngữ, âm điệu giọng nói, các biểu hiện của nét mặt, nụ cười, ánh mắt, cử chỉ, trang phục... tạo nên phong cách của tuyên truyền viên, có tác dụng quan trọng, tạo nên thành công của buổi nói chuyện. Nói chuyện vui, nói chuyện buồn, thông báo việc quan trọng... phải có thái độ khác nhau. Thông qua những biểu hiện của người nói, người nghe hiểu được thái độ, tình cảm, niềm vui, nỗi buồn, sự xót xa, sự mỉa mai, phê phán, thái độ kiên quyết ủng hộ, niềm tin vào lẽ phải của người nói. Những biểu hiện ngoài lời nói của người tuyên truyền miệng được hình thành, ổn định, trở
thành phong cách riêng của mỗi người. Biểu cảm và phong cách cùng với lời nói làm cho nội dung tuyên truyền càng trở nên hấp dẫn hơn. Điều chủ yếu của việc thể hiện phong cách, biểu cảm là phải chân thực, không giả tạo, không gây ức chế cho người nghe.
7. Trình tự một buổi tuyên truyền miệng
Một buổi tuyên truyền miệng thông thường có các phần sau:
- Vào đề: Là phần giới thiệu vấn đề. Cách vào đề có hiệu quả thường là gợi ra nhu cầu tìm hiểu ý nghĩa, sự cần thiết của nội dung cần được tuyên truyền. Trong phần vào đề, người nói phải nêu được khoảng từ 3 đến 4 vấn đề chủ yếu mà người
68
nghe cần tìm hiểu nhất để tạo sự chú ý, sức hấp dẫn cho người nghe.
- Nội dung: Là phần chủ yếu của buổi tuyên truyền miệng. Để đối tượng hiểu, nắm được nội dung tuyên truyền, qua đó tạo sự chuyển biến về nhận thức, người nói cần có phương pháp trình bày phù hợp, nêu được vấn đề cốt lõi, trọng tâm, những điểm mới để người nghe chú ý. Khi tuyên truyền không được sao chép, đọc nguyên văn văn bản, tránh sự nhàm chán. Khi phân tích, giải thích cần đưa ra các tình huống cụ thể, thiết thực làm dẫn chứng, chứng minh sao cho dễ hiểu, dễ nhớ.
- Kết luận: Người nói điểm lại và tóm tắt những vấn đề cơ bản đã tuyên truyền. Tùy từng đối tượng mà nêu những vấn đề cần lưu ý đối với họ.
- Trả lời câu hỏi của người nghe: Người nói cần dành thời gian cần thiết trả lời các câu hỏi mà người nghe quan tâm hoặc chưa hiểu rõ đưa ra, qua đó đánh giá được mức độ tiếp thu của người nghe và đây cũng là dịp để người nói trao đổi những kinh nghiệm, hiểu biết của mình cho người nghe.
8. Một số giải pháp để nâng cao kỹ năng truyên truyền miệng đối với tuyên truyền viên
- Tuyên truyền miệng là một khoa học, liên quan đến khoa học sư phạm, tâm lý xã hội học,... vì vậy tuyên truyền viên phải rèn luyện năng lực nắm bắt và hiểu đối tượng; năng lực giao tiếp với
69
đối tượng; năng lực xử lý tài liệu phù hợp với đối tượng; năng lực sử dụng ngôn ngữ phù hợp với đối tượng.
Liên quan đến việc nâng cao năng lực nắm bắt và hiểu đối tượng là vấn đề phải nhận thức đúng các đối tượng đang quan tâm đến những vấn đề gì, đặc biệt là những vấn đề về lợi ích thiết thực.
Tư tưởng bao giờ cũng gắn với lợi ích. Do vậy, khi tuyên truyền phải biết đối tượng đang tán thành, ủng hộ cái gì, đang phản đối, thậm chí bất bình, phẫn nộ với cái gì.
Tất cả những vấn đề trên lại không cố định, luôn luôn thay đổi với sự biến động của thực tiễn. Do vậy người làm công tác tuyên truyền phải hết sức nhạy cảm với những vấn đề nảy sinh từ thực tế cuộc sống đặt ra.
- Khi tuyên truyền cần quán triệt sâu sắc sự phù hợp và thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời nói và việc làm.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời nói và việc làm là phương pháp tốt nhất để cảm hóa, thuyết phục, thu phục con tim, khối óc của đối tượng ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi. Cán bộ
không thể tuyên truyền, vận động được nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trong khi chính mình lại người hoang mang, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng hoặc cán bộ
không thể tuyên truyền, giáo dục được về đạo đức, 70
lối sống khi chính mình lại đang thoái hóa, biến chất, sa sút về phẩm chất, đạo đức và lối sống. - Để tuyên truyền miệng không chỉ là một khoa học mà phải trở thành nghệ thuật, đòi hỏi người tuyên truyền phải rèn luyện tố chất tâm lý để khắc phục sự sợ hãi khi nói, thuyết trình trước đám đông; cách biểu đạt, kỹ xảo biểu đạt ngôn ngữ nói để nắm được các kiến thức cơ bản về phát âm, ngôn ngữ hình thể, nói một cách trôi chảy; tố chất tư duy để ứng biến linh hoạt trong trao đổi, đối thoại với người nghe.
- Chuẩn bị đề cương buổi nói chuyện một cách chu đáo, cẩn thận là công việc cực kỳ quan trọng góp phần quyết định cho sự thành công của buổi thuyết trình, nói chuyện. Đề cương được chuẩn bị
tốt sẽ giúp người nói tự tin, yên tâm, diễn đạt khúc chiết, tường tỏ nội dung cần tuyên truyền.
71
Phụ lục
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
CỦA NGƯỜI CÓ UY TÍN TRONG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
Ông “Dân vận” ở xã Quang Trung
Xã Quang Trung, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa có diện tích không rộng nhưng số dân của xã có hơn 8.000 nhân khẩu, với 82,6% là dân tộc Mường. Là địa bàn miền núi lại trong quá trình quy hoạch xây dựng đô thị vùng của tỉnh Thanh Hóa nên xã Quang Trung cũng như nhiều địa phương khác luôn pha tạp các loại tội phạm.
Trong quá trình phát triển, do sự giao thoa giữa các nền văn hóa và quá trình hội nhập nên những nét đẹp truyền thống, bản sắc văn hoá của người Mường đã có sự mai một. Mặt trái của cơ
chế thị trường đã và đang làm thay đổi, lệch lạc một bộ phận nhân dân, nhất là thanh, thiếu niên ham chơi đua đòi sa vào các tệ nạn xã hội như
72
mại dâm, ma túy, cờ bạc, rượu chè, dẫn đến vi phạm pháp luật. Trước tình trạng trên, ông Phạm Văn Nam, 53 tuổi, là người có uy tín trong cộng đồng và cũng là người dân tộc Mường từ nhận thức sâu sắc đã trăn trở tìm những giải pháp đấu tranh loại bỏ những tệ nạn xã hội ra khỏi cuộc sống của nhân dân tại khu dân cư.
Ông Nam cho biết, toàn xã Quang Trung có bảy đối tượng đi tù và cơ sở giáo dục về, sáu đối tượng nghiện ma túy; bốn đối tượng nghi nghiện; 11 đối tượng cờ bạc và một số gái mại dâm. Trước tình hình phức tạp như vậy, ông Nam đã chủ
động phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể, bàn bạc với trưởng làng tại khu dân cư để tổ chức các buổi tuyên truyền về tác hại của ma túy, mại dâm, cờ bạc...; trực tiếp gặp gỡ những đối tượng có tiền án, tiền sự, có nguy cơ
tái phạm để tìm hiểu, phân tích đúng - sai; gặp các trưởng họ, trưởng tộc của những đối tượng chậm tiến để tuyên truyền, động viên họ đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; vận động nhân dân không kỳ thị, xa lánh những đối tượng có tiền án, tiền sự, mắc các tệ nạn xã hội; tạo điều kiện để họ tái hòa nhập với cộng đồng, giúp họ bắt đầu lại cuộc sống mới. “Tôi tham gia tổ hòa giải ở thôn, tuyên truyền giải thích, vận động để nhân dân hiểu, tự giải quyết những vướng mắc, tranh chấp nhỏ; giúp họ cảm
73
thông, xích lại gần nhau và giữ được sự đoàn kết trong làng”, ông Nam cho hay.
Với sự nỗ lực của ông Nam và sự góp sức của cộng đồng dân cư, số đối tượng được tha tù và đi cơ sở giáo dục trở về đã tu chí làm ăn, không tái phạm, tái hòa nhập tốt với cộng đồng dân cư. Trong số sáu đối tượng nghiện ma túy đã đưa đi tập trung cai nghiện được hai người, tự cai nghiện ở nhà bốn người, số đối tượng nghi nghiện đến nay không thấy có biểu hiện sử dụng lại chất ma túy. Với số đối tượng cờ bạc, qua tuyên truyền giáo dục đến nay không tái phạm; số gái trước kia hành nghề mại dâm nay không còn. Bên cạnh đó, ông Nam đã cùng với các tổ chức đoàn thể và những người có uy tín, già làng, trưởng bản tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu về những giá trị văn hóa của dân tộc Mường cũng như của dân tộc Việt Nam nói chung.
Ngoài ra, ông còn vận động mọi người trong làng, khu dân cư hưởng ứng và tham gia phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư do Mặt trận Tổ quốc phát động. Vận động các già làng, trưởng họ, trưởng tộc và nhân dân trong thôn lưu giữ, ghi chép lại những bài thơ
những làn điệu, dân ca, hát giao duyên, hát ru,... của người Mường để lưu truyền những nét đẹp văn hoá, những lời răn dạy của cha ông, nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho các thế hệ con cháu trong làng.
74
Theo ông Nam, muốn đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội, bảo tồn bản sắc văn hoá của dân tộc thì cần huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc, phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, trưởng họ, những người có uy tín tại cộng đồng dân cư. Không mặc cảm, kỳ thị
với những người lầm lỗi, không coi họ lúc nào cũng là tội phạm, là tệ nạn, là những người bỏ đi. Phải luôn tin tưởng và có trách nhiệm cưu mang, gần gũi để cảm hóa, giáo dục họ, không xa lánh họ, tạo cho họ có cơ hội vượt lên chính bản thân mình, hoà nhập được với cộng đồng, giúp họ hoàn lương, ổn định cuộc sống. Cần hỗ trợ về vốn, kỹ thuật để giải quyết việc làm cho những người lầm lỗi sớm tái hòa nhập cộng đồng, có như vậy việc đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội mới có hiệu quả và bền vững.
(Theo Viết Tôn,
báo Tin tức điện tử, 07-02-2014)
Muốn dân làm theo,
mình phải làm trước
Dù đã về hưu mấy năm nhưng bà Đặng Thị Phúc, dân tộc Dao, 62 tuổi, nguyên Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Trì Quang, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai vẫn luôn là tấm gương đi đầu trong
75
các hoạt động phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới ở địa phương.
Bà Đặng Thị Phúc cho hay: “Cái thời tôi còn làm Chủ tịch Hội phụ nữ xã, đồng bào Dao ở Trì Quang còn sống trong hoàn cảnh khó khăn, kinh tế chậm phát triển, còn nhiều hủ tục lắm. Nhưng ngày nay đồng bào Dao ở Trì Quang đã đổi thay rất nhiều. Những thay đổi đó có được phần lớn là do thay đổi nhận thức của người dân.
Mình phải đổi nhận thức trước rồi những thứ khác mới khá lên được. Trước đây không có mấy chị em tham gia hội phụ nữ đâu, nhất là chị em người dân tộc. Ngày ấy, không quản nắng mưa, tôi cứ liên tục xuống từng thôn, bản vận động chị em, đến khi nào họ hiểu ra mới thôi”. Không phụ những vất vả của bà Phúc, từ đó đến nay, nhận thức của chị em đã được nâng lên rất nhiều, từ phát triển kinh tế cho đến thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
Thôn Làng Ẻn nơi bà Phúc cư trú có 67 hộ người Dao, có 76 chị em trong độ tuổi sinh đẻ (15 - 49) thì đã có 47 chị sau khi sinh con thứ 2 đã tự nguyện đình sản, có chị tự nguyện đình sản khi tuổi đời chưa đến 25, các cặp vợ chồng khác đăng ký thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại. Hiện nay trong các cặp vợ chồng có tuổi đời dưới 50 không có cặp nào sinh con thứ 3. Đây thực sự là kết quả đáng khâm phục ở một bản có 100% người dân tộc thiểu số sinh sống.
76
Hưởng ứng chương trình xây dựng nông thôn mới, nhận thấy rõ ý nghĩa và tác dụng to lớn của việc chung tay, góp sức xây dựng nông thôn mới, bà Phúc đã vận động bà con trong thôn hiến đất để làm đường giao thông, xây cầu. Bà Phúc cho biết: “Mới đầu, nhiều hộ cũng “suy nghĩ” lắm. Thế là tôi tiên phong hiến trước 500 m2 đất của nhà mình. Ban đầu là các đảng viên, các bậc cao niên rồi phong trào cứ thế lan rộng ra toàn thôn, “nhà nhà hiến đất, người người hiến đất” đã trở thành chuyện thường ngày”. Cuối cùng, cả thôn Làng Ẻn đã có 29 hộ dân tự nguyện hiến trên 14.000 m2 đất để làm đường giao thông nông thôn. Bà còn vận động được mỗi hộ dân góp 2 triệu đồng để làm đường qua cầu.
Thôn Làng Ẻn bây giờ, 12/67 hộ gia đình có nhà xây, các gia đình khác đều có nhà ở chắc chắn, nền láng xi măng sạch sẽ; trẻ em trong tuổi đều được đi học và hầu hết học xong chương trình phổ thông cơ sở, có gia đình đã cho con đi học cao đẳng, đại học. Có được kết quả đó một phần là nhờ những người uy tín gương mẫu như
bà Đặng Thị Phúc, luôn luôn là người tiên phong trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
(Theo Lê San,
báo Tin tức điện tử, 07-02-2014)
77
“Ông tuyên truyền” ở thôn K’leng
Sau 20 năm làm Bí thư xã Nhâm, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế, khi về nghỉ hưu, ông Hồ Văn Lô, dân tộc Tàôi vẫn tiếp tục góp sức mình ở vị trí Chủ tịch Hội người cao tuổi thôn K’leng.
Khi về hưu, ông Lô còn bận rộn hơn lúc đương chức. Ông trở thành người tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến người dân. Ông nói với con cháu mình: “Trong kháng chiến, chúng ta vừa chiến đấu, vừa làm ăn sản xuất được, tại sao trong thời bình, đất đai nhiều, được Nhà nước hỗ trợ, lại để mình nghèo. Chỉ có người lười lao động, thiếu hiểu biết mới thiếu cái ăn, thiếu cái mặc. Ai biết tiếp cận khoa học kỹ thuật vào sản xuất sẽ hết nghèo”.
Hiện nay, cuộc sống của đồng bào Tàôi ở xã Nhâm đã khá hơn trước. Nhiều hộ dân đã biết làm giàu nhờ trồng cà phê, keo và đào ao thả cá. 8/8 thôn của xã Nhâm đều có đường bê tông, 95% hộ dân đã có điện sinh hoạt. Xã Nhâm được huyện A Lưới chọn làm xã điểm xây dựng nông thôn mới, thôn K’leng cũng đã được công nhận là làng văn hóa.
Để làm gương thuyết phục bà con hưởng ứng tham gia xây dựng nông thôn mới, ông Lô đã tự nguyện hiến 500 m2 đất với hàng trăm cây quế. Ông chia sẻ: “Làm công tác tuyên truyền phải
78