🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kỹ Năng Tổ Chức Các Hoạt Động Công Tác Thanh Thiếu Niên Ebooks Nhóm Zalo HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương TRẦN THANH LÂM Phó Chủ tịch Hội đồng Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM MINH TUẤN Thành viên NGUYỄN HOÀI ANH PHẠM THỊ THINH NGUYỄN ĐỨC TÀI TỐNG VĂN THANH 4 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Chỉ bằng hình ảnh mùa Xuân và cuộc đời, Người đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc bồi dưỡng thế hệ trẻ, bởi thanh thiếu niên chính là tương lai của xã hội, của đất nước. Thanh thiếu niên Việt Nam chiếm số đông trong dân số cả nước, có mặt ở tất cả các địa bàn, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước. Họ đang trong độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình, là lực lượng có tiềm năng to lớn, đã và đang giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước hiện nay và tương lai. Vì vậy, giáo dục và rèn luyện thanh thiếu niên được Đảng, Nhà nước ta đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Nhằm giới thiệu những kiến thức, kỹ năng cơ bản về công tác thanh thiếu niên cho cán bộ Đoàn, Hội, Đội, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với 5 Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản cuốn sách Kỹ năng tổ chức các hoạt động công tác thanh thiếu niên do TS. Phạm Đình Nghiệp, TS. Lê Văn Cầu biên soạn. Cuốn sách cung cấp cho bạn đọc, đặc biệt là cán bộ phụ trách công tác thanh thiếu niên, những kiến thức và kỹ năng thiết yếu, hữu dụng trong triển khai thực hiện công tác thanh thiếu niên như kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng nói trước công chúng, kỹ năng tổ chức các hoạt động gắn kết thanh thiếu niên... Đặc biệt, cuốn sách có những hướng dẫn rất cụ thể về công tác xã hội đối với những thanh thiếu niên có hoàn cảnh đặc biệt (đội giáo dục đồng đẳng); giới thiệu những kinh nghiệm rút ra từ các phong trào thanh niên đã và đang được triển khai có hiệu quả từ cấp cơ sở đến trung ương... Có thể nói, từ việc hệ thống và cung cấp các kiến thức, kỹ năng công tác thanh thiếu niên, cuốn sách giúp bạn đọc, đặc biệt là cán bộ Đoàn, Hội, Đội rèn luyện năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành, tổ chức hoạt động thanh thiếu niên chuyên nghiệp ở các cấp, các ngành trong xã hội. Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 10 năm 2022 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6 LỜI NÓI ĐẦU Để đáp ứng yêu cầu của công tác thanh thiếu niên trong những điều kiện mới, mỗi cán bộ Đoàn, Hội, Đội phải vững vàng ở cả ba vai trò: vừa là người bạn chí tình của tuổi trẻ, vừa là người đồng chí thân thiết, lại vừa là người thủ lĩnh của họ. Vì vậy, bên cạnh việc trau dồi bản lĩnh chính trị trên cơ sở nắm vững phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ nhất thiết phải thông thạo nghiệp vụ công tác Đoàn, Hội, Đội, rèn luyện cho mình phương pháp công tác khoa học và đặc biệt là nắm vững những kỹ năng công tác thanh thiếu niên. Với câu hỏi “Kỹ năng là gì?” thì câu trả lời ngắn gọn nhất là: “Kỹ năng chính là tổng hợp các thao tác đã được quy trình hóa”. Mỗi cán bộ công tác thanh thiếu niên phải rèn luyện để thành thạo ba kỹ năng cơ bản: kỹ năng nói, kỹ năng viết và kỹ năng tổ chức các hoạt động trong thanh thiếu niên. Cuốn sách Kỹ năng tổ chức các hoạt động công tác thanh thiếu niên hữu ích đối với các 7 cán bộ Đoàn, Hội, Đội khi giúp các bạn tiếp cận những kỹ năng cụ thể: kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nói trước công chúng, kỹ năng tổ chức mít tinh, lễ hội, hội trại, hội thao, hội thi, hội diễn, kỹ năng tổ chức trò chơi, kỹ năng tổ chức các phong trào thanh niên..., đồng thời cuốn sách cũng giới thiệu các phong trào hành động cách mạng: “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”, “Thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương”, các chương trình đồng hành với thanh niên: “Đồng hành với thanh niên trong học tập”, “Đồng hành với thanh niên khởi nghiệp, lập nghiệp”, “Đồng hành với thanh niên rèn luyện và phát triển kỹ năng trong cuộc sống, nâng cao thể chất, đời sống văn hóa tinh thần”. Trong quá trình biên soạn cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định, chúng tôi mong nhận được các ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Xin chân thành cảm ơn! NHÓM TÁC GIẢ 8 KỸ NĂNG LẬP KẾ HOẠCH 1. Khái niệm kế hoạch - Theo nghĩa rộng: Kế hoạch là toàn bộ những điều vạch ra một cách có hệ thống về những công việc dự định làm trong một thời gian nhất định, với mục tiêu, cách thức, trình tự, thời gian tiến hành. Kế hoạch hóa là làm cho phát triển một cách có kế hoạch. - Theo nghĩa hẹp: Kế hoạch là bản xác định mục tiêu của công việc, là phương án tổ chức công việc của cơ quan, đơn vị. 2. Các loại kế hoạch - Kế hoạch chiến lược: Là kế hoạch xác định những mục tiêu cơ bản và cách thức tối ưu để đạt được những mục tiêu đó, mang tính lâu dài, tổng quát. Ví dụ: kế hoạch xây dựng và phát triển giao thông đô thị, kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội vùng núi phía Bắc... - Kế hoạch nghiệp vụ: Là kế hoạch nhằm gia tăng hiệu quả hoạt động của cơ quan (về việc gì, ai thực hiện, khi nào hoàn thành, cách thực hiện 9 như thế nào). Ví dụ: kế hoạch sản xuất, kế hoạch hoạt động công đoàn... - Kế hoạch chỉ đạo: Là kế hoạch quy định một số phương châm chung, các trọng điểm cần chú ý chỉ đạo giải quyết, thường là kế hoạch cấp trên hướng dẫn cho cấp dưới thực hiện một công việc, một hoạt động. Ví dụ: kế hoạch chỉ đạo Đại hội Đoàn các cấp, kế hoạch tổ chức học tập Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc... 3. Lập kế hoạch và tác dụng của lập kế hoạch - Lập kế hoạch là đưa ra quyết định về thực hiện và đánh giá trước khi thực hiện, đồng thời là căn cứ để kiểm tra, giám sát và đánh giá. - Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên và cơ bản nhất trong công tác quản lý, điều hành. - Lập kế hoạch giúp thực hiện mục tiêu một cách nhất quán, gắn kết các hoạt động một cách có tổ chức, hạn chế hoạt động trùng lặp, sử dụng có hiệu quả nhân lực, vật lực, tài lực. Lập kế hoạch tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng giữa mọi người để cùng nhau thực hiện. - Nhờ có lập kế hoạch mà biết được: sẽ làm gì, làm ở đâu, khi nào, do ai thực hiện và kết quả mong muốn của hoạt động đó là gì. Làm việc có kế hoạch giúp chúng ta chủ động trong công việc và lựa chọn được phương án tốt nhất. - Lập kế hoạch giúp định rõ từng bước thực hiện và tạo điều kiện thuận lợi để giám sát, đánh giá, điều khiển các hoạt động. 10 4. Các yếu tố bảo đảm lập kế hoạch có hiệu quả - Tính cụ thể: Có mục đích, mục tiêu rõ ràng, xuất phát từ yêu cầu công việc và nhu cầu, nguyện vọng của thanh thiếu niên. - Tính thiết thực: Giải quyết được những vấn đề cấp bách đặt ra, không những về hiệu quả công việc mà cả về hiệu quả giáo dục. - Tính kịp thời: Tính thời điểm, tính thời sự... - Tính phù hợp: Kế hoạch đặt ra phù hợp với năng lực cán bộ, mục tiêu hoạt động. - Tính thống nhất giữa các biện pháp: Không đối lập nhau mà thống nhất từ nội dung, biện pháp đến thời gian thực hiện. - Tính khả thi: Có khả năng thực hiện được. 5. Lập kế hoạch phải trả lời được các câu hỏi - Làm cái gì? - Quy mô như thế nào? - Bằng các nguồn lực nào? - Làm ở đâu? - Bao giờ làm? - Ai làm? - Kết quả sẽ ra sao? - Nhằm đạt mục tiêu gì? 6. Phương pháp lập một kế hoạch tổ chức hoạt động Bước 1: Thu thập thông tin, dữ liệu, đưa ra những nhận định ban đầu và xác định các căn cứ để xây dựng kế hoạch: 11 - Chủ trương, nghị quyết của cấp ủy đảng, đoàn cấp trên - Tình hình, đặc điểm, nhiệm vụ của địa phương, đơn vị - Nhu cầu, nguyện vọng của đoàn viên thanh niên - Trình độ cán bộ đoàn viên thanh niên - Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật - Điều kiện kinh phí cho hoạt động - Quy mô hoạt động, tính chất công việc. Các phương pháp thu thập thông tin: - Lấy thông tin trực tiếp (đối thoại, phỏng vấn, tọa đàm) - Thông qua điều tra, khảo sát - Thông qua các văn bản, báo cáo, hướng dẫn, tài liệu của Đoàn... - Thông qua phương tiện thông tin đại chúng. Bước 2: Họp, tổ chức thảo luận, thống nhất ý kiến. Lấy ý kiến của những người có liên quan, xin ý kiến lãnh đạo cấp ủy đảng, đoàn cấp trên. Xác định mục tiêu, các phương án hành động. Thông qua bản kế hoạch dự thảo (nếu cần thiết). Bước 3: Thông qua kế hoạch chính thức. Kết cấu một bản kế hoạch tổ chức hoạt động gồm: - Mục đích, yêu cầu - Thành phần, đối tượng - Thời gian, địa điểm - Nội dung, hình thức hoạt động 12 - Biện pháp tổ chức thực hiện. Bước 4: Tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch. - Tổ chức triển khai: Thông qua hội nghị, tập huấn, tập dượt... - Tổ chức thực hiện: Phân công nhiệm vụ, chỉ đạo điểm... - Kiểm tra, đôn đốc, động viên, khích lệ... - Phát hiện, điều chỉnh và xử lý các tình huống phát sinh. Bước 5: Đánh giá, tổng kết, đề xuất, kiến nghị. - Tổng kết tổng thể hoặc từng giai đoạn - Khen thưởng, kỷ luật - Kiến nghị và đề xuất kế hoạch mới tiếp theo. 7. Nội dung cơ bản của một kế hoạch tổ chức hoạt động - Xác định mục tiêu, yêu cầu (bao gồm các chỉ số để đánh giá được) - Xác định nội dung và phương thức hoạt động (những hoạt động chính để đạt được mục tiêu) - Địa điểm, thời gian thực hiện và hoàn thành - Những điều kiện cơ bản để thực hiện (con người, tài chính, trang thiết bị) - Người chịu trách nhiệm (có sự phân công cụ thể, thích hợp với yêu cầu công việc) - Kết quả dự kiến cần phải đạt (các chỉ số đầu ra cụ thể của từng hoạt động). 13 Lập bảng kế hoạch với các nội dung cơ bản sau: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Ghi chú: Cột 1: Số thứ tự Cột 2: Nội dung công việc Cột 3: Thời gian tiến hành Cột 4: Địa điểm tiến hành Cột 5: Người phụ trách Cột 6: Đơn vị phối kết hợp Cột 7: Kinh phí, cơ sở vật chất Cột 8: Hiệu quả cần đạt được Cột 9: Ghi chú 14 KỸ NĂNG GIAO TIẾP ỨNG XỬ Trong cuộc sống, giao tiếp hằng ngày, con người luôn phải ứng phó với biết bao tình huống, có lúc đơn giản, dễ dàng xử lý, có lúc phức tạp, khó xử. Xã hội càng văn minh thì nhu cầu trong giao tiếp của con người càng cao. Ngày nay, việc ứng xử một cách thông minh, khôn khéo, tế nhị, kịp thời, có hiệu quả, đạt tới mức độ nghệ thuật còn được coi là bí quyết thành công trong cuộc đời, trong công việc. I. NGUYÊN TẮC ỨNG XỬ 1. Hãy tiếp cận con người ở góc độ không ai có thể hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu Không có ai là người hoàn toàn xấu. Khi đánh giá con người cụ thể, chúng ta thường bị cái nhìn chủ quan, định kiến che lấp, ít khi tách ra được, dù chỉ là tương đối, những ưu điểm, nhược điểm của họ và lại càng không xác định được giới hạn, hoàn cảnh, diễn biến tác động, hình thành nên những ưu điểm và nhược điểm đó. Con người cũng dễ bị chi phối bởi quy luật 15 cảm xúc “yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Kết quả là dễ mắc sai lầm trong giao tiếp. Do vậy nguyên tắc đầu tiên trong nghệ thuật ứng xử là hãy tiếp cận con người ở góc độ không ai có thể hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu. Với nguyên tắc này, mỗi người có thể tự tìm cho mình một cách ứng xử phù hợp, tạm chia thành các bước sau: - Bước 1: Hãy thừa nhận (chấp nhận). - Bước 2: Biết lắng nghe ý kiến, tìm ra chỗ mạnh, chỗ yếu của người đối diện. Thấy cái mạnh, lợi thế của bản thân (cái bản thân có mà người khác không có). - Bước 3: Tạo ra sự đồng cảm, gây niềm tin (hiểu biết lẫn nhau, gây sự tin tưởng). - Bước 4: Tìm điểm chung, mỗi bên đều thấy được cái lợi, cái vui và cách cộng tác, tương lai của sự cộng tác đó. - Bước 5: Tạo dư luận ủng hộ, xây dựng mối quan hệ thân tình. 2. Xem xét mọi điều, tính đến mọi khả năng với nhiều phương án Nếu trong mỗi con người đều có những giá trị dương (+) (những đức tính tốt, những mặt mạnh, những ưu điểm...) và có cả những giá trị âm (-) (những tính xấu, những mặt yếu, những khuyết điểm...) thì với người này có thể tới 90 (+), có 10 (-) hoặc ở người khác có thể đạt 99 (+) chỉ có 1 (-). 16 Vấn đề là cần biết nhìn ra “dấu cộng” trong cả khối “dấu trừ” và phát hiện kịp thời “dấu trừ” ngay khi nó chỉ là một chấm nhỏ rất mờ nhạt trong cả khối “dấu cộng” để có thể dự đoán được tác động có hại của “dấu trừ”. Điều quan trọng hơn trong phép ứng xử là tìm ra những chất xúc tác để kích thích phản ứng đổi dấu tích cực xảy ra theo hướng 1 (+) trở thành n (+) và n (-) giảm xuống còn 1 (-). 3. Nắm bắt nghệ thuật theo nhu cầu Điều khó nhất trong giao tiếp và ứng xử là đối tượng thờ ơ, không có nhu cầu. Bạn sẽ ứng xử như thế nào khi đối tượng không muốn nói chuyện, không muốn nghe bạn can ngăn, không muốn hợp tác với bạn...? - Hãy gợi trí tò mò hoặc cho họ thấy cái lợi, cái vui mà bạn đang có, còn người ấy đang thiếu, đang cần. - Chỉ cho họ, bằng cách nào đó, thấy tia hy vọng vào kết quả, gây thiện cảm, tạo sự tin tưởng. - Giao trách nhiệm một cách công khai, tạo ra tình huống chỉ có tiến chứ không có lùi, ràng buộc bằng những sợi dây vô hình về quan hệ nào đó đã được hình thành. - Gây niềm say mê, tìm được ý nghĩa trong cuộc sống, công việc đang tiến hành. - Củng cố niềm tin, thuyết phục về một kết cục tốt đẹp. 17 - Phải tạo ra sự an toàn, biết cách chống đỡ dư luận, tạo dư luận mới ủng hộ. - Tính đến nhiều phương án, chọn phương án hợp với mình nhất, có thể tạo ra những vấp ngã nhỏ để luyện tập bản lĩnh, chủ động đề phòng tính tự kiêu. Trong những trường hợp cụ thể đòi hỏi mọi người phải biết ứng biến và điều quan trọng hơn là hãy tìm cho được cách thức đi tới thành công riêng của mình. II. MỘT SỐ CÁCH ỨNG XỬ 1. Thủ thuật “ném đá thăm đường” Nếu muốn làm quen, bắt chuyện, có lẽ trước tiên bạn nên bắt đầu bằng một hứng thú chung. Chẳng hạn có thể từ một bức tranh, một bản nhạc, một ca khúc mới được nhiều người yêu thích, hay một bộ phim mới, một quyển sách mới, một xu hướng thời trang mới... là những điều đối phương biết rõ và có phản ứng tích cực, hoặc có thể từ một điểm chung nào đó về học tập, việc làm... Bắt đầu từ những câu chuyện không quan trọng lắm để làm mất đi sự căng thẳng và ngăn cách giữa hai người và qua đó bạn có thể hiểu thêm về người mà bạn muốn làm quen (những sở thích, thói quen, cá tính...). Bạn có thể thực hiện theo các bước sau đây: a. Giai đoạn trước khi giao tiếp: - Xác định mục đích, làm quen đối tượng và gây ấn tượng tốt. 18 - Đánh giá đối tượng, hoàn cảnh: + Sở thích, thói quen, cá tính. + Thời gian, không gian cuộc gặp. + Có hay không có người giới thiệu. - Lựa chọn phương án ứng xử: + Tìm cớ làm quen hợp lý, tế nhị. + Ngôn ngữ, cử chỉ dễ cảm mến. + Văn phong gần gũi, không quá trịnh trọng nhưng cũng không suồng sã. + Tính trước những tình huống bất ngờ có thể xảy ra để ứng xử nhanh. b. Giai đoạn giao tiếp: Nên: - Phá bầu không khí xa lạ, căng thẳng bằng việc hỏi han hoặc những câu nói đùa. - Tìm chủ đề chung, ít chạm đến quan điểm cá nhân. - Nói ít về mình. Chú ý quan sát cử chỉ, điệu bộ, nét mặt của đối phương. - Giới hạn cuộc giao tiếp trong phạm vi vừa đủ, dừng đúng lúc. - Nêu ra những câu hỏi thăm dò, chủ động gợi chuyện. - Tự tin. Không nên: - Vội vã đi vào vấn đề chính. - Đặt những câu hỏi liên quan nhiều đến cá nhân. - Nói nhiều về mình, dốc bầu tâm sự, nói thẳng về mình khi đối phương đặt những câu hỏi thăm dò. 19 - Chuyện lan man, kéo dài cuộc giao tiếp. - Khích bác hoặc công kích nói xấu một ai đó. - Rụt rè, lảng tránh, ấp úng. 2. Đối đáp mềm mỏng, ý nghĩa sâu xa Dân gian có câu: Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Đối với những ý kiến phê bình, phản đối của đối phương, bạn không nên đáp lại bằng những lời nói hằn học, nặng nề mà tùy trường hợp dùng lời nói nhẹ nhàng nhưng chứa đựng những ý nghĩa sâu xa. 3. Chuyển bại thành thắng Trong cuộc sống đời thường nhiều khi bạn bị đẩy vào tình huống bất lợi, có nguy cơ thất bại, lúc đó phải bình tĩnh, dự liệu những hậu quả xấu nhất có thể xảy ra (chuẩn bị tâm thế sẵn sàng chấp nhận). Tìm xem có cách gì để hạn chế ở mức thấp nhất những tác hại (ví dụ: Điều gì đã đẩy ta vào tình thế bất lợi? Có cách nào tạo được cách “hoãn binh”? Điều này có vẻ ít liên quan, nhưng nếu được “địch thủ” sẵn sàng chấp nhận thì chính điều ít liên quan đó có thể làm thay đổi tình thế...). 20 4. Dùng sự hài hước “Khi bạn nổi cáu, ta hãy đùa lại một câu” (La Fontaine). Hài hước là một nhân tố cực kỳ quan trọng trong ngôn ngữ giao tiếp. Đó là “chiếc van an toàn” cho mọi cuộc xung đột, là chìa khóa để mở “cánh cửa lòng”. Lời đối đáp khôn ngoan, thông minh, dùng ngôn ngữ hài hước để phê phán thường mang lại hiệu quả lớn. Bởi thế khi kể một câu chuyện cười hoặc một lời đối đáp có nội dung, cách nói hài hước thường làm cho không khí vui nhộn, điều tiết được tình cảm, nhắc khéo người khác mà không làm họ bực mình. Tất nhiên cũng không nên lạm dụng nó. Quy luật phổ biến của truyện hài hước là mở đầu, dẫn dắt và hình thành làm cho người nghe nghi vấn. Người kể nên có ngữ điệu bình thường, sau đó tăng thêm tình tiết nghi hoặc và giải quyết bất ngờ. 5. Đi thẳng vào vấn đề khi cần thiết Trong cuộc sống có trường hợp không thể quanh co, bóng gió, tế nhị mà phải bày tỏ quan điểm, thái độ của mình một cách thẳng thắn, kiên quyết. Lúc đó phải diễn đạt thẳng vào nội dung chính của vấn đề để biểu hiện ý chí và lòng tin ở bản thân. Đối với những vấn đề then chốt không nên tỏ ra quá cân nhắc, đắn đo làm cho người nghe cảm thấy thiếu tin tưởng, do dự. 21 Tất nhiên nếu giao tiếp bằng cách này cần phải suy nghĩ, cân nhắc thật kỹ càng. 6. Nói ẩn ý bằng ngụ ngôn Trong giao tiếp, khi cảm thấy khó thuyết phục người khác bằng lý lẽ trực tiếp hoặc cảm thấy dễ bị phản ứng, không tiện nói thẳng ra thì có thể dùng phương pháp ẩn ý bằng ngụ ngôn. Tức là chọn những câu chuyện ngụ ngôn có nội dung ẩn ý bên trong phù hợp với mục đích khuyên răn, thuyết phục của mình để kể cho đối phương nghe. Cái lợi của phương pháp này là người nghe phải suy nghĩ mới hiểu hết cái ẩn ý bên trong đó. Bản thân câu chuyện sẽ đưa ra những lời khuyên sâu sắc chứ không phải người kể chuyện, do đó đối phương không có lý do để nổi khùng, tự ái hoặc mặc cảm. Tuy nhiên, để dùng phương pháp này có hiệu quả, người dùng phương pháp này phải biết lựa chọn câu chuyện phù hợp với trình độ người nghe, nếu người nghe không hiểu sẽ không có tác dụng. 7. Phản bác khéo những yêu cầu vô lý của người khác Nhiều trường hợp bạn gặp những người khăng khăng đưa ra những đòi hỏi vô lý không thể thực hiện được. Trong những tình huống đó bạn không nên bác bỏ thẳng thừng vì sẽ chạm lòng tự ái hoặc thậm chí người không được thỏa mãn sẽ tiếp tục 22 quấy rối và cách đó cũng chưa làm cho đối phương tự nhận thấy được những đòi hỏi của họ là vô lý. Vậy ta sẽ xử lý thế nào trong trường hợp đó? Tốt nhất là trước tiên thừa nhận, sau đó khéo léo chỉ ra sự vô lý hoặc điều không thể thực hiện được. Cũng có thể cảnh tỉnh người đó bằng việc chỉ ra những điều bất lợi, sự nguy hiểm nếu người đó cứ giữ nguyên ý kiến, nhắm mắt hành động. Chú ý ngôn ngữ không nên gay gắt nhưng tỏ ra cương quyết. 8. Thừa nhận trước để chuyển hướng sau Khi bạn không đồng ý với ý kiến của cấp trên, người lớn tuổi, cha mẹ... thì bạn sẽ xử sự như thế nào? Việc thuyết phục để những đối tượng này nghe theo mình, chấp nhận ý kiến của mình cũng đòi hỏi phải có nghệ thuật. Bạn không nên phản đối và phê phán mà hãy tiếp thu ý kiến của họ, biểu thị thái độ đồng cảm ở mức độ nào đó để có thể làm giảm bớt sự cứng nhắc ở họ, khiến họ bằng lòng nghe ý kiến của bạn. Phải nắm vững nguyên tắc không được tỏ thái độ ngang hàng để sau đó dùng lời mà làm chuyển hướng, thay đổi cách nhìn nhận của đối phương, khiến họ bằng lòng tiếp thu ý kiến của bạn. 9. Cần bạn đồng minh Khi tranh luận trước nhiều người, để thể hiện và bảo vệ quan điểm, bạn nên chú ý đầy đủ đến 23 thái độ của những người xung quanh, cần động viên được nhiều người nghe và ủng hộ quan điểm của mình. Nếu người nghe ủng hộ, đồng tình với quan điểm mà bạn đang trình bày, sẽ tạo thành một sức mạnh to lớn, một sức ép tinh thần làm đối phương không phản kích lại được. Chẳng hạn khi đang xếp hàng có người chen ngang, bạn lợi dụng thái độ của số đông mọi người xung quanh để yêu cầu người đó ra khỏi hàng hoặc đồng ý xếp hàng là hợp lý nhất. 10. Không nhượng bộ khi mình có lý trong tranh luận Trong quan hệ giữa người với người, tranh luận là một điều hết sức bình thường và không thể tránh được. Không có tranh luận, điều phải, trái không được phân định. Không thể coi tranh luận là một thói xấu mà hạn chế nó. Song, tranh luận có thể dẫn đến sự không thoải mái hoặc đôi khi xung đột. Tranh luận có phương pháp sẽ đem lại kết quả tốt là điều chúng ta cần chú ý học hỏi. Một là, khi tranh luận nên có thái độ thật công bằng, không làm tổn thương đến lòng tự ái của đối phương. Sự phê phán, bình phẩm người khác không nên đi quá giới hạn, nếu không có thể làm tăng thêm mâu thuẫn vốn có. Hai là, giọng nói phải mềm mỏng, thật lòng. Trong tranh luận phải tỏ ra tôn trọng lẫn nhau, 24 làm sao cho người cùng tranh luận tin rằng tranh luận thật sự có ích. Trong tranh luận nhiều khi người thắng không hẳn là người nhiều lý lẽ biết hùng biện, mà có thể là người có thái độ đúng mực và chân thực nhất. Ba là, tranh luận phải có mục đích rõ ràng. Tranh luận nên xoay quanh những điều đang cần giải quyết. 11. Thuyết phục bằng hành động “Mọi lý thuyết đều màu xám Chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi”. (Goethe) Trong giao tiếp, khi cảm thấy khó thuyết phục người khác nghe ý kiến của mình bằng lời nói, bạn có thể dùng hành động để thuyết phục. Thuyết phục bằng hành động thường đạt hiệu quả lớn. Thông qua việc làm, hành động cụ thể, bạn có thể làm cho đối phương thay đổi cách nghĩ, tình cảm, thái độ, chấp nhận ý kiến của bạn. Bạn là một cán bộ phong trào thanh niên. Bạn muốn tổ chức các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao thanh niên nhưng các cấp lãnh đạo ở địa phương chưa tin tưởng vào khả năng của bạn, chưa tạo điều kiện mọi mặt để bạn làm việc. Bạn đừng nản chí và cũng đừng dùng lời nói để thuyết phục. Hãy cố gắng thực hiện một vài việc làm cụ thể có hiệu quả. Từ sự thành công đã đạt được, tận dụng thời điểm hợp lý, bạn có thể thuyết phục 25 các cấp lãnh đạo. Như vậy, mục đích và kết quả hoạt động đạt được và mối quan hệ ảnh hưởng của bạn phát triển tốt hơn. Khi vận dụng phương pháp này bạn cần lưu ý: - Mục đích hoạt động phải rõ ràng, không vụ lợi. - Có kế hoạch hành động chi tiết, tính đến các điều kiện cần và đủ bảo đảm cho sự thành công, bước đầu tiên cố gắng tránh thất bại. - Tạo dư luận ủng hộ để tăng tính thuyết phục. - Làm thử để chứng minh, rút kinh nghiệm. - Tạo quan hệ gần gũi, tin cậy. III. NHỮNG ĐIỀU NÊN TRÁNH TRONG GIAO TIẾP ỨNG XỬ 1. Nói nửa chừng rồi dừng lại hoặc cướp lời người đang nói, làm nhiễu thứ tự hoặc luồng suy nghĩ của người đó. 2. Không nói rõ và giải thích đầy đủ làm người nghe thấy đề tài nói chuyện của bạn khó hiểu. Không nên đưa những trọng tâm, những khái quát làm người tiếp chuyện khó theo dõi mạch chuyện. 3. Nói sai đề tài, không quan tâm đến điều mình nói. 4. Nói thao thao bất tuyệt, không ngừng nêu các câu hỏi làm người tiếp chuyện có cảm giác mình yêu cầu nhiều quá. 26 5. Không trả lời thẳng vào câu hỏi mà người khác nêu ra, quanh co, dài dòng, gây nên cảm giác mình không trung thực. 6. Tự cho rằng mọi điều mình đều biết cả. 7. Làm ra vẻ hiểu biết sâu rộng. 8. Phát triển câu chuyện không tập trung vào chủ đề chính làm cho người tiếp chuyện cảm thấy nhàm chán. 9. Ngắt bỏ hứng thú nói chuyện của người khác để ép người đó phải chuyển sang nói về đề tài mà bạn thích. 10. Thì thầm với một vài người trong đám đông. 11. Dùng ngôn ngữ quá bóng bảy. 12. Chêm những câu tiếng nước ngoài trong câu nói của mình một cách tùy tiện. 13. Đột ngột cao giọng. 14. Dùng những lời quá suồng sã so với mức độ mối quan hệ. 15. Dùng những từ đệm không cần thiết. 16. Nói với giọng khích bác, chạm vào lòng tự ái của người khác. 27 KỸ NĂNG NÓI TRƯỚC CÔNG CHÚNG Cán bộ Đoàn, Hội, Đội thường phải nói trước công chúng, nhất là công chúng trẻ tuổi. Một câu hỏi đặt ra là có thể rèn luyện kỹ năng nói trước công chúng được không? Câu trả lời là có. Rèn luyện kỹ năng để biết nói trước công chúng là điều hoàn toàn có thể thực hiện được, đối với bất kỳ một cán bộ hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội nào, trong đó có đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội, Đội. Nói trước công chúng có nhiều dạng, cấp độ khác nhau: - Phát biểu trong một cuộc họp ban chấp hành, họp chi đoàn thường kỳ. - Trình bày một bản tham luận trong hội nghị, hội thảo, đại hội. - Tuyên truyền, phổ biến một chủ trương công tác của Đoàn, Hội, Đội đến đông đảo thanh thiếu niên. - Lên lớp giảng bài, điều khiển thảo luận. Sau đây là những thao tác cơ bản nhất trong toàn bộ quy trình 10 bước về kỹ năng nói trước công chúng. 28 1. Trau dồi sự tự tin Nói một cách dễ hiểu là bạn phải có cách rèn luyện kỹ năng để khi đứng trước công chúng không bị mất tinh thần, “đỡ run”. Đây là bước khởi đầu quan trọng nhất bởi lẽ nếu mất tinh thần thì bài nói dù có chuẩn bị công phu đến mấy vẫn có thể thất bại. Có những lời khuyên sau đây về việc trau dồi sự tự tin: - Ai cũng có những năng lực, sở trường riêng của mình, vấn đề là ở chỗ biết khai thác đúng lúc, đúng chỗ, biết tìm cơ hội để thể hiện. - Nên gần gũi những người thiện chí, tốt bụng, có tinh thần xây dựng và cần cảnh giác với những kẻ hay gièm pha, khích bác. - Bản thân mình luôn hướng tới chân, thiện, mỹ (cái đúng, cái tốt, cái đẹp) trong suốt quá trình chuẩn bị và cả khi đang nói chuyện trước công chúng; luôn nghĩ tốt về mọi người, nói tốt cho mọi người và làm những điều thiện đối với mọi người. - Công chúng về cơ bản là dễ tính. Khi nghe ta nói, họ chỉ quan tâm đến việc tiếp nhận tri thức mới, thông tin mới nên sẵn sàng bỏ qua những sơ suất nhỏ trong cách diễn đạt... - Đừng sợ thất bại, kể cả những người nói giỏi, diễn thuyết nổi tiếng cũng có khi không thành công. Hơn nữa từ sự vấp váp cũng có thể rút ra những bài học bổ ích. - Cần nhớ rằng: dư luận cũng có khi sai và chân lý không phải bao giờ cũng thuộc về số đông. 29 2. Tâm đắc với chủ đề đã lựa chọn Nói trước công chúng, kể cả phát biểu 5 phút trong cuộc họp cũng vẫn phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc này: Nói về một vấn đề mà bản thân mình không tâm đắc, mà chưa thuyết phục được chính mình, thì cũng khó lòng có thể thuyết phục được người khác. Vậy tiêu chuẩn của một chủ đề được gọi là tâm đắc là gì? Đó là khi thỏa mãn những điều kiện sau đây: - Đâu: Vấn đề đó xuất hiện ở đâu, có phải xảy ra tại đơn vị, cơ quan, tổ chức mình không? - Đúng: Chủ đề đó có đúng là vấn đề của đơn vị, cơ quan mình không, bởi lẽ có khi, đó chỉ là những vấn đề được bàn theo cách đánh tiếng, phao tin đồn nhảm... Có phải là vấn đề mà những người nghe đang quan tâm không? - Đáng: Nhiều vấn đề đó có đáng đưa ra bàn bạc trước công chúng không? - Đủ: Đã hội đủ các điều kiện để đưa vấn đề ra nói trước tập thể hay chưa? Có đủ nhân chứng, vật chứng chưa?... Cũng cần lưu ý thêm rằng, người nghe đã sẵn sàng chưa, có hào hứng với vấn đề mình định nói không? Đồng thời phải suy xét kỹ về mức độ lợi hại khi mình nêu vấn đề đó ra trước công chúng. 3. Tiếp cận để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, nắm bắt được nhu cầu của đối tượng Đây là một công đoạn hết sức quan trọng không thể bỏ qua, bởi lẽ nếu không hiểu được 30 người nghe đang cần gì, đang muốn gì thì dễ dẫn đến tình trạng nói dông dài. Muốn vậy cần biết những người nghe mình nói là ai, là thanh niên nông thôn hay thanh niên thành thị, thanh niên công nhân, thanh niên sinh viên hay học sinh phổ thông trung học, là người Kinh hay dân tộc thiểu số, có theo tôn giáo nào không?... Hiểu được đối tượng, chúng ta sẽ xác định được những vấn đề cần nói sát với cuộc sống của họ, đồng cảm với họ, cùng họ đi tìm những giải pháp cụ thể, khả thi cho những vấn đề mà họ còn đang băn khoăn, thắc mắc, lúng túng... 4. Thiết lập bố cục bài nói một cách mạch lạc, lôgíc và hệ thống Dù bạn chỉ phát biểu ý kiến khoảng 5 phút trong cuộc họp thì cũng cần lưu ý đến công đoạn này. Phải xác định rõ mình trình bày vấn đề thành mấy ý, ý sau là sự tiếp tục hợp lôgíc của ý trước, tránh lộn xộn, lý giải trùng lặp. Thời gian phát biểu càng dài (tham luận trong hội nghị, hội thảo hay giảng bài trong lớp tập huấn, quán triệt chủ trương, nghị quyết của cấp trên...) thì càng cần lưu ý tới bố cục của bài nói sao cho khúc chiết, mạch lạc, hệ thống. Một bài nói, dù ngắn, nhìn chung có ba phần: mở đầu, thân bài và kết luận. Tuy nhiên phải hết sức lưu ý: đừng bao giờ coi thường đoạn mở đầu, bởi lẽ dân gian đã có câu “vạn sự khởi đầu nan” 31 nhưng “đầu xuôi thì đuôi lọt”. Có nhiều cách mở đầu: nhấn mạnh vào chủ đề mình định nói, có thể tự giới thiệu về mình nếu những người nghe mình mới gặp họ lần đầu, có thể bằng một câu chuyện vui liên quan đến chủ đề. Mở đầu hấp dẫn, thuyết phục, thu hút sự chú ý của mọi người là đã thành công được 50%. Đoạn kết thúc cũng cần hết sức chú ý. Có nhiều cách kết thúc vấn đề: tóm tắt lại những ý chính, gợi ý những vấn đề để người nghe tiếp tục suy nghĩ, tìm hiểu thêm,... Tuy nhiên cách kết thúc có hiệu quả hơn cả là “đóng nhưng vẫn mở”, là “đóng cánh này mở cánh khác”, hướng người nghe tới hành động. 5. Thu thập thông tin, tư liệu, số liệu xung quanh chủ đề định trình bày Có được bố cục của bài nói một cách mạch lạc, lôgíc, hệ thống là rất quan trọng, tuy nhiên đó mới chỉ là bộ khung, chúng ta cần “đắp thêm da thêm thịt” thì bài nói của chúng ta mới có sức sống, mới đủ sức thuyết phục. “Thịt da” ấy chính là thông tin mới, tư liệu mới và những số liệu. Vấn đề là cách thu thập thông tin, tư liệu, số liệu thế nào cho bài nói có sức thuyết phục, hấp dẫn người nghe. Trước hết, “hãy làm cho những con số trở thành biết nói”. Đừng tham lam nêu ra quá nhiều con số làm người nghe không kịp tiếp thu, nghe “ù cả tai”. Phải biết chắt lọc, biết 32 dừng lại để phân tích ý nghĩa từng con số. Chẳng hạn, nêu thông tin mức tăng dân số bình quân ở Việt Nam năm qua là 2%. Không phân tích gì thêm thì thông tin “trôi đi” và thính giả quên rất nhanh, nên cần đi sâu diễn giải, ví dụ: “Chúng ta hãy cùng làm một phép tính đơn giản: dân số Việt Nam hiện nay là 76 triệu người, nhân với 2% sẽ thành gần 1,6 triệu người. Điều đó có nghĩa là cứ mỗi năm số dân Việt Nam tăng thêm bằng số dân của tỉnh lớn như Thái Bình, Thanh Hóa hoặc ba lần số dân của tỉnh Yên Bái. Và cứ mỗi năm diện tích đất canh tác sẽ phải thu hẹp vì cần có chỗ ở thêm cho gần 1,6 triệu người. Vậy cứ đà này thì sẽ phải có những cuộc di dân sang các “hành tinh” khác!”. Tiếp đến, sưu tầm những câu chuyện đời thường liên quan đến chủ đề định trình bày nhưng không phải chuyện tầm phào, chuyện làm quà mà là “những bức tranh nhỏ nhưng lại soi sáng ý nghĩa lớn”. Chẳng hạn, chi đoàn lớp 12 của một trường trung học phổ thông tổ chức hướng nghiệp chọn nghề cho các đoàn viên. Khi đó cần xác định tiêu chí để chọn nghề. Ví dụ sau đây sẽ rất có ích: Một bạn có sức học trung bình nhưng khi một bạn khác trong lớp hỏng xe máy, bạn ấy có thể tự tin sử dụng bộ đồ phụ tùng sửa một lúc khiến xe máy lại chạy bình thường. Thế là bạn ấy có năng khiếu về kỹ thuật. Chi đoàn nên giúp bạn ấy hiểu rõ hơn về năng lực, sở trường 33 của mình và gợi ý bạn thi vào các trường cao đẳng kỹ thuật hay trung cấp kỹ thuật. 6. Tập luyện trí nhớ Nói trước công chúng không nên quá phụ thuộc vào tài liệu viết sẵn, nhất là đối với công chúng trẻ tuổi. Do vậy cần nhớ những gì cần phải trình bày. Có nhiều cách để rèn luyện trí nhớ: - Tuổi còn trẻ có thể nhớ máy móc, như cách học ngoại ngữ, nhưng những người đã lớn tuổi, khi số nơron thần kinh ngày càng giảm đi theo năm tháng thì phải có phương pháp khác. - Suy nghĩ thấu đáo, lật đi lật lại vấn đề sẽ nhớ được rất lâu. - Dùng sơ đồ, bảng biểu, cách so sánh để nhớ. - Nhớ bằng cách công thức hóa, ví dụ công thức 5 chữ M trong việc định hướng cho giới trẻ bước vào cuộc sống (Man: người, nghĩa là phấn đấu rèn luyện để trở thành người chân chính; Machine: máy móc, nghĩa là hướng lớp trẻ tiếp cận khoa học kỹ thuật trong thời đại mới; Manager: nhà quản lý, nghĩa là cần giáo dục cho lớp trẻ tự tổ chức cuộc sống của mình, theo tinh thần tự lập, tự tin, tự trọng, tự giác, tự bảo vệ, tự khẳng định mình; Money: tiền, nghĩa là hướng cho lớp trẻ biết kiếm tiền một cách hợp pháp, biết tiêu tiền một cách hợp lý; Marketing: tiếp thị, nghĩa là cần tạo một môi trường xã hội thuận lợi để lớp trẻ tăng cường 34 giao tiếp xã hội, có thể nhanh chóng thích nghi trong cơ chế thị trường). - “Quên đi để mà nhớ”. Trước khi lên diễn đàn, ta có thể tạm quên đi những điều không quan trọng, những gì là thứ yếu, mà chỉ tập trung nhớ bố cục của bài nói, nhớ những ý chính, những điều cần trình bày sẽ quay trở lại trong trí nhớ của chúng ta. 7. Tu từ, chọn ngữ, chỉnh văn chương Nói trước công chúng, biết cách diễn đạt từ ngữ văn chương là rất quan trọng. Đôi khi bài nói bị giảm hiệu quả chỉ vì chúng ta bấn từ, bí từ, diễn đạt tối nghĩa. Chúng ta hiểu vấn đề mà không biết cách làm cho người khác hiểu ý của mình thì bài nói cũng thất bại. Vậy có cách gì để tu từ, chọn ngữ, chỉnh văn chương? Sau đây là một vài lời khuyên rất bổ ích: - Tu từ: Mỗi chúng ta hãy lưu ý đến những từ thường gặp trong khi nói trước công chúng và tìm trong từ điển, sách báo những từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa. Ví dụ từ “khó khăn”, chúng ta có các từ đồng nghĩa sau đây: gian nan, trở ngại, trở lực, chướng ngại, vật cản, thách thức, sự thách đố, nguy cơ... Có được vốn từ ấy trong tay, chúng ta diễn đạt sẽ linh hoạt hơn. - Chọn ngữ: Trong bộ sưu tập của chúng ta về mỗi vấn đề nên có những câu thành ngữ, tục ngữ, ngạn ngữ, ca dao, dân ca tương ứng. Vì đã được trải nghiệm theo thời gian, từ đời này qua đời khác, thế hệ này qua thế hệ khác nên chúng có sức sống 35 mãnh liệt và có ý nghĩa như là chân lý vĩnh hằng. Sử dụng chúng, ta sẽ yên tâm hơn. Chẳng hạn về sự học xưa và nay ta có hàng loạt những câu “chắc như đinh đóng cột”: Tiên học lễ, hậu học văn; Nhất tự vi sư bán tự vi sư; Học thầy không tày học bạn; Đi một ngày đàng học một sàng khôn; Học ăn, học nói, học gói, học mở; Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy... Lời nói của các vĩ nhân, các lãnh tụ được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ cũng rất có hiệu quả. Ví dụ: “Học, học nữa, học mãi” (Lênin) hay “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”1. - Chỉnh văn chương: Lưu ý rằng văn nói khác với văn viết. Văn viết cần phải tuân thủ chặt chẽ theo quy tắc, theo niêm luật, có đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, tính ngữ... Còn văn nói thì phóng khoáng, thoáng đạt hơn. Ta phải tận dụng lợi thế này khi nói trước công chúng. Kinh nghiệm cho thấy ai nói theo bài viết sẵn sẽ rất khó thuyết phục người nghe. Còn ai nói theo ý hiểu của mình lại dễ hấp dẫn thính giả. 8. Tạo lập cho mình một phong cách riêng khi nói trước công chúng Phong cách là tổng thể tư thế, tác phong, cách ăn mặc, giọng nói, ánh mắt, nụ cười, cách đi lại, ____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.3, tr.413. 36 cách vung tay, kết hợp nói với ghi giảng, cách bao quát công chúng, thăm dò thái độ của họ. Chúng ta đã từng nghe nhiều người nói (nghe thầy cô giảng bài, nghe cán bộ Đoàn cấp trên phổ biến nghị quyết, nghe các diễn giả nói chuyện...) và thấy được một điều hiển nhiên: mỗi người một vẻ, không ai giống ai. Đó chính là phong cách riêng của từng người. Điều cần lưu ý ở đây là phải tuân thủ nghiêm ngặt phương châm: “Học tập người khác là rất tốt nhưng đừng bắt chước ai cả”. Theo dõi một số hội thi, đêm liên hoan văn nghệ, chúng ta thấy xuất hiện quá nhiều những cái bóng mờ nhạt của những người dẫn chương trình nổi tiếng. Đôi khi càng cố gắng bắt chước người khác sẽ càng trở nên lố lăng, kệch cỡm. Hãy cố gắng làm cho mình trở thành chính mình, càng không giống ai càng tốt. Cũng như vậy, đôi khi đối với giọng nói, cách vung tay, cách đi lại, cách gây cười khôi hài,... yêu cầu cao nhất là phải hết sức tự nhiên, tránh khiên cưỡng, gò ép. 9. Tìm ra những thủ pháp cần thiết khi trình bày vấn đề Đối với bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào, con người cũng đều có thể tiếp cận, phát hiện những thủ pháp (nghệ thuật, những tiểu xảo cần thiết), nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của mình. Nói trước công chúng cũng có những 37 thủ pháp làm tăng hiệu quả, tăng sức thuyết phục, tăng sự hấp dẫn của bài nói. Cùng một nội dung như nhau nhưng có người nói “kiến ở trong lỗ cũng phải bò ra”, trái lại có người nói như ru ngủ - ấy là do thủ pháp. Về mặt tâm lý, người nói bao giờ cũng chủ động hơn người nghe, do vậy có lúc cần sử dụng những “đòn tấn công dồn dập” làm cho người nghe không kịp suy nghĩ, mà chỉ biết “nuốt” từng lời của người nói, thậm chí bị cuốn hút, như bị thôi miên vậy. Ấy là thủ pháp đối với công chúng trẻ tuổi, những thủ pháp công thức hóa, sơ đồ hóa đôi khi rất có hiệu quả. 10. Tổng hợp 9 công đoạn, 9 bước nêu trên Đây là khâu then chốt không thể bỏ qua vì với cùng một vấn đề ta có thể nói cho nhiều đối tượng khác nhau. Do vậy cần phải xem xét, điều chỉnh lại các bước nêu trên, không bỏ sót một khâu nào, bước nào. Phương châm ở đây là “liệu cơm gắp mắm”, “tùy cơ ứng biến”. Cùng một vấn đề mình chuẩn bị nói trong 5 giờ nhưng thời gian chỉ cho phép 2 giờ, làm sao đây? Giải pháp duy nhất là ta phải điều chỉnh lại nội dung, thậm chí cả bố cục thông tin, tư liệu, dẫn chứng minh họa, cả từ ngữ văn chương, cả tư thế, tác phong. Chuẩn bị tốt công đoạn này trước khi bước lên diễn đàn, ta nắm chắc thành công trong tay. 38 KỸ NĂNG TRUYỀN THÔNG VÀ TIẾP THỊ XÃ HỘI I. KHÁI NIỆM TRUYỀN THÔNG Đã và đang có nhiều định nghĩa khác nhau về truyền thông. Trong bối cảnh phát triển của công nghệ thông tin ở quy mô toàn cầu, phá vỡ các giới hạn không gian và thời gian, lĩnh vực truyền thông (nhìn từ góc độ tuyên truyền - vận động xã hội) chắc chắn có nhiều thay đổi. Tổng hợp các định nghĩa và các khái niệm khác nhau, coi trọng mối liên hệ nội tại giữa truyền thông và vận động xã hội, chúng ta đưa ra khái niệm sau: Truyền thông là một quá trình diễn ra các hoạt động và chia sẻ thông tin nhằm làm thay đổi nhận thức, cung cấp kiến thức, kỹ năng để ngày càng có nhiều người biết, hiểu, chấp nhận và có những hành động tự nguyện, thực hiện những mục đích, những công việc được xác định nhằm thay đổi hành vi, biến đổi thực trạng, đạt tới những tiến bộ xã hội. 39 1. Truyền thông được hiểu như một tiến trình Truyền thông không phải là một hành động đơn giản, riêng lẻ, một chiều, mà là một việc diễn ra liên tục trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Chúng ta luôn luôn tiếp nhận những thông tin từ bên ngoài (âm thanh, màu sắc, mùi, cảm giác...) và luôn luôn phải tự lý giải những thông tin ấy. Khái niệm “tiến trình” đề cập một loạt những tương tác giữa các yếu tố khiến cho kết quả cuối cùng khác hẳn yếu tố ban đầu. Những thành tố ban đầu bị biến thể nhưng không bị tiêu diệt hay mất đi. Và mỗi lần có tương tác thì có sự biến đổi và yếu tố này ảnh hưởng đến yếu tố kia. Truyền thông không chỉ là vài lời nói hay hành động, mà ngay lời nói của chúng ta hôm nay cũng chịu ảnh hưởng của quá khứ và tác động đến tương lai. Truyền thông như một tiến trình có nghĩa là có nhiều yếu tố tác động lẫn nhau trong quá trình truyền thông. Truyền thông xảy ra liên tục và diễn biến liên tục. 2. Các yếu tố trong truyền thông Có ít nhất 8 yếu tố sau đây: - Nguồn phát tin. - Nguồn nhận tin. - Các giác quan cảm nhận. - Các yếu tố chứa đựng thông điệp. - Thông điệp. 40 - Sự đáp ứng. - Sự phản hồi. - Hoàn cảnh (địa điểm và thời gian diễn ra quá trình truyền thông). Những điều lưu ý về các yếu tố trong truyền thông: a. Nguồn: Nguồn truyền thông là chủ thể phát ra tín hiệu, có thể là người hoặc vật, ví dụ một cuốn sách. Bạn đọc sách, người nhận chính là bạn. Bạn nhìn thấy cuốn sách, chữ và hình trong đó. Tay bạn cầm cuốn sách. Những dây thần kinh và cơ ở mắt và tay bạn chuyển hình ảnh và cảm giác về não (đó là giác quan cảm nhận). Trao đổi giữa hai người thì mỗi bên đều vừa là nguồn phát vừa là nguồn nhận (tin). Họ không chỉ là người nói và người nghe vì tất cả các giác quan (không chỉ ngôn từ) tham gia vào động tác truyền thông. Ta hiểu một người đối diện không chỉ qua lời nói, diện mạo, cử chỉ mà ngay cả nước hoa (truyền thông không lời). b. Thông điệp và những yếu tố chứa đựng thông điệp Thông điệp (nội dung muốn được truyền đạt) là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình truyền thông. Điều này không đơn giản, bởi việc nói một đằng, hiểu một nẻo là điều thường xảy ra khi truyền thông kém hiệu quả. 41 Thông điệp muốn truyền đạt nhưng ý tưởng, cảm xúc vẫn nằm “trong đầu” của người phát tin. Khi phát thì người phát tin phải dùng ngôn từ, cử động nghĩa là nội dung ấy phải được mã hóa. Tùy hoàn cảnh, khả năng, trình độ, năng lực truyền đạt của từng người phát tin mà nội dung ấy được mã hóa khác nhau. Ví dụ, em bé đau bụng chỉ biết khóc, còn người lớn sẽ mô tả được triệu chứng đau để bác sĩ điều trị. Tín hiệu phát ra chỉ là biểu tượng của điều mà người phát tin thật sự muốn phát. Thông điệp nhận được: Đó là điều người nhận nghe thấy, nhìn thấy, sờ thấy và giải mã. Tiếp nhận, nhận thức là lý giải tạo ra một ý nghĩa cho điều gì nhận được từ giác quan. Nghe một tiếng động, bộ não của chúng ta phải giải mã ngay, đó là âm nhạc, tiếng bát đĩa rơi hay lời nói du dương, có khi là âm thanh lạ mà chúng ta chưa thể giải thích ngay được. Do sự khác biệt về tính cách, khả năng, kinh nghiệm, trình độ của người phát hay người nhận, nên thông điệp muốn phát ra và thông điệp nhận được có sự khác biệt là tất yếu. Nhiều khi người nhận tự hiểu những điều mà người phát không hề nói. Yếu tố chứa đựng thông điệp, ngoài lời nói và chữ viết còn có nhiều yếu tố diễn đạt mà một người thật sự muốn nói. Đó là cử chỉ, nụ cười, ánh mắt, đồ vật, cách sử dụng không gian và thời gian. 42 Nếu không nhạy bén, chúng ta không thể thẩm định ý tưởng của người đối thoại. c. Đáp ứng và phản hồi Trong câu chuyện của hai người, người nghe luôn luôn đáp ứng lại. Sự đáp ứng này có thể bộc lộ hay thầm kín. Phản hồi là người phát lý giải sự đáp ứng đó. Cách lý giải này không thể luôn chính xác, vì mới là suy nghĩ chủ quan nên khó trọn vẹn và có thể gây hiểu lầm. d. Hoàn cảnh Là bối cảnh diễn ra quá trình truyền thông. Bối cảnh bao gồm hai khía cạnh là vật chất và xã hội. - Khía cạnh vật chất: Bao gồm địa điểm, kích thước phòng, bàn ghế, số người hiện diện, cách bố trí chỗ ngồi, có bị che khuất không (ví dụ cột, bảng...), khí hậu, ánh sáng, tiếng ồn, màu sắc tường, thời lượng giao tiếp... - Khía cạnh xã hội: Khía cạnh tâm lý xã hội xuất phát từ nội tâm các đối tượng, sẽ ảnh hưởng nhiều hơn trong cách họ tiếp nhận vấn đề và tự lý giải ý nghĩa. Các khía cạnh xã hội bao gồm mục đích truyền thông, vai trò liên hệ giữa đôi bên. Các yếu tố này ảnh hưởng tới những gì được nói ra, thái độ tiếp nhận điều đó. Trong giao tiếp, người ta lựa chọn cách phát biểu mà phần lớn dựa vào việc phán đoán phản ứng 43 của người kia. Ví dụ, một nhân viên gặp thủ trưởng của mình ở ngoài đường, anh tự nhủ: “Mình sẽ không chào ông ấy trước, vì hằng ngày ông ấy chẳng quan tâm gì đến cấp dưới”. Ngụ ý rằng nếu thủ trưởng không chào lại thì anh ta sẽ mất mặt. Từ đó ta thấy các mối quan hệ xã hội có ảnh hưởng đến cách giao tiếp. Ở ví dụ trên, nếu trong công tác hai người có dịp trở thành quen biết nhau, chắc nhân viên sẵn sàng chào thủ trưởng của mình trước. II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHẬN THỨC VÀ CÁCH LÝ GIẢI MỘT THÔNG ĐIỆP 1. Nhận thức là tiến trình tiếp nhận các yếu tố kích thích từ bên ngoài, còn lý giải là cách chúng ta tổ chức các yếu tố ấy thành một tổng thể có ý nghĩa Trong cùng một hoàn cảnh, hai cá nhân có thể nhận thức một biến cố xảy ra rất khác nhau. Ví dụ, hai người chứng kiến một tai nạn có thể tường thuật lại không giống nhau. Nhận thức là một quá trình mà ta học tập thông qua kinh nghiệm. Mỗi người thông qua hoàn cảnh khác nhau sẽ có nhận thức của riêng mình. Cùng nghe một bài hát, người này không có phản ứng gì đặc biệt, 44 còn người kia lại lắng nghe vì đã biết tác giả của bài hát đó. Kỳ vọng hay điều ta mong chờ sẽ ảnh hưởng đến nhận thức. 2. Cảm xúc ảnh hưởng đến nhận thức Bạn đang buồn hay đang vui sẽ khiến bạn cảm nhận lời nói của người đối thoại khác nhau. Nếu bạn đang có mặc cảm tội lỗi, một câu nói vô thưởng vô phạt có thể bị xem như một lời trách móc. Trong Truyện Kiều có câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” là sự lý giải lôgíc cho sự liên hệ chặt chẽ giữa cảm xúc và nhận thức. 3. Ảnh hưởng của ngôn ngữ Sức mạnh của quảng cáo cho ta thấy rõ điều này. Các nhà sản xuất chọn những từ thật “kêu” cho sản phẩm của mình. Khi chuẩn bị một bài nói chuyện, ta nên chọn kỹ các từ có tính thuyết phục cao đối với người nghe. 4. Ảnh hưởng của sự tập trung Trong cuộc sống hằng ngày có hàng triệu âm thanh, màu sắc, hình ảnh tác động. Ta không thể quan tâm đến tất cả mà chúng ta phải chọn lựa... Sự tập trung là một quá trình sinh lý, một cố gắng thích nghi của chúng ta với đối tượng. Có thể sự tập trung nhằm vào một điểm trung tâm: bạn đang nói chuyện khi cả hai đang băng qua đường. Bạn lắng nghe người kia, đồng thời một cách 45 gián tiếp bạn cũng quan tâm đến xe cộ xung quanh để tránh tai nạn. Có khi ta để ý các yếu tố xung quanh mà quên điểm tập trung. Ví dụ, đang nghe một người báo cáo nhưng ta bị cuốn hút bởi khung cảnh phòng họp, cách ăn mặc của người xung quanh. Thông tin đạt hiệu quả là biết chuyển từ cái chỉ cần quan tâm gián tiếp đến điểm đang tập trung. 5. Ảnh hưởng của hoàn cảnh Ví dụ chúng ta đứng sát một thân cây (chừng 1m) ta chỉ thấy vỏ cây xù xì. Đứng cách đó chừng 10m ta nhận ra đó là một cái cây. Có người khi chụp hình xa xa thấy đẹp, chụp gần thì không đẹp hoặc ngược lại. Những điều đó gọi là viễn cảnh vật chất. Viễn cảnh tâm lý hay bối cảnh: Ví dụ, trong một xã hội nghèo, thì một cá nhân ở một phòng 16m2 có nhà tắm, nhà bếp, nước, điện là sang, nhưng đối với một người ở xã hội phát triển thì đó lại là nghèo. Nói chung kinh nghiệm, nền giáo dục, hệ thống giá trị ảnh hưởng đến cách nhìn và đánh giá sự việc. 6. Điều kiện thể chất Người mù không đọc được, người điếc không nghe được; khi mệt ta không tập trung tư tưởng được, không thấy, không nghe người khác nói được... là 46 ví dụ về điều kiện thể chất ảnh hưởng đến nhận thức. III. CÁC DẠNG TRUYỀN THÔNG 1. Khi nào có các yếu tố “kích thích” và động tác đáp ứng lý giải yếu tố là khi đó có truyền thông. Ví dụ, bạn sực nhớ là quên làm bài cho ngày mai, bạn quyết định chiều nay không đi chơi mà ở nhà làm bài. Bạn tự nói chuyện với bạn - đó là truyền thông nội tâm. Dạng truyền thông này diễn ra suốt đời bạn. 2. Truyền thông giữa cá nhân với cá nhân diễn ra giữa hai người hay nhiều hơn. Yếu tố quan trọng là mặt giáp mặt và cả hai đều là nguồn phát và nguồn nhận. 3. Truyền thông trước công chúng. Từ phía phát chỉ một hay vài người, từ phía nhận thì rất đông. Ví dụ một buổi diễn thuyết, một buổi học. 4. Truyền thông đại chúng là truyền thông công chúng được khuếch đại qua phương tiện kỹ thuật hiện đại. Ví dụ như báo viết, phát thanh, truyền hình là các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong truyền thông đại chúng, người nghe chỉ có một hình thức đáp ứng và phản hồi không phải là bằng lời nói. Họ có thể ưa thích, vỗ tay hay tỏ ra mệt mỏi qua tư thế ngồi, ngáp, ngủ gục... hay 47 tắt vô tuyến, radio, nhưng họ không được phát biểu hay rất ít. Các dạng truyền thông này có sức tác động rất khác nhau. Truyền thông đại chúng mang thông tin đối với số đông và nhanh chóng. Nhưng thông tin không làm thay đổi được thái độ và hành vi. Muốn vận động cá nhân thay đổi hành vi, phải có sự tương tác mặt đối mặt, nhất là trong nhóm nhỏ. Các dạng truyền thông này bổ sung cho nhau. Ví dụ: Sau khi nghe giảng, học sinh được xem phim, được thầy hướng dẫn thảo luận nhóm rồi cùng thực hành, hiệu quả sẽ nâng lên rõ rệt so với cách học truyền thống (nghe, ghi, ôn bài, trả bài). IV. NGÔN NGỮ TRUYỀN THÔNG Trong xã hội loài người, phương tiện truyền thông giao tiếp chủ yếu là lời nói, chữ viết. Vào tiệm ăn ta gọi phở thì người phục vụ đem ra bát phở. Muốn truyền đạt một đạo luật, chính sách, chủ trương tới người dân thì các cấp chính quyền sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng trong xã hội ngày càng hiện đại, tổ chức ngày càng tinh vi, người ta ý thức được rằng để truyền thông thật sự có hiệu quả không phải là chuyện dễ. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta chứng kiến bao sự hiểu lầm qua lời nói, bao nhiêu buổi 48 họp “ông nói gà, bà nói vịt”. Có những thuyết trình viên thật “văn hay, chữ tốt”, thao thao bất tuyệt, nhưng chúng ta lại không hiểu thật sự họ muốn nói gì. Ngược lại có những nhà khoa học trình bày những vấn đề phức tạp mà lại giản dị, dễ hiểu đến bất ngờ. Diễn đạt trước tiên phản ánh khả năng tư duy và cũng phản ánh khả năng sử dụng ngôn từ. Ở đây chúng ta nên lưu tâm đến một số “bẫy” ngôn từ. Ngôn từ là con dao hai lưỡi. Thông thường nó diễn đạt tâm tư, ước muốn của chúng ta. Tuy nhiên nó cũng làm động tác ngược lại. Như nhà văn Pháp Stendhal viết trong tiểu thuyết “Đỏ và đen”: “Thượng đế ban cho con người lời nói để che giấu tư tưởng của mình”. Thật vậy, con người có thể dùng lời nói để đánh lạc hướng đối phương. Đó là cố ý. Khó khăn hơn nhiều khi vô tình lời nói làm rối thêm vấn đề hoặc nghe trình bày một vấn đề gì đó mà càng nghe càng thấy khó hiểu. Cho nên một triết gia đã nói: Ngôn ngữ giống như tấm gương, khi nó không giúp ta thấy rõ sự vật thì nó làm cho tối đi. V. PHƯƠNG PHÁP TIẾP THỊ XÃ HỘI 1. Đặt vấn đề Sự phát triển của thông tin, các phương tiện và các kênh truyền tải thông tin dẫn đến cạnh tranh thông tin, chọn kênh của đối tượng truyền thông. 49 Quyền được lựa chọn của đối tượng truyền thông (người nghe, người xem, người sử dụng...) dẫn đến cạnh tranh thông tin (gần như cạnh tranh kinh tế). Dưới một góc nhìn nhất định, thông tin có giá trị kinh tế, được đánh giá như những sản phẩm được lưu hành trên “thị trường thông tin”. Mục tiêu cuối cùng của các tổ chức và hoạt động kinh tế là tiêu thụ sản phẩm, bán được hàng hóa. Trong khi đó, mục tiêu của các tổ chức và các hoạt động xã hội là đạt tới những mục tiêu xã hội đã định trước. Với mục tiêu kinh tế là càng nhiều người mua hàng thì sự kinh doanh càng thành công; với mục tiêu xã hội là càng nhiều người biết, hiểu, tự nguyện tham gia thực hiện, giải quyết vấn đề xã hội thì các mục tiêu xã hội càng mau chóng đạt được. Trong nhiều mối quan tâm của đối tượng truyền thông, cần phải làm cho đối tượng truyền thông lựa chọn và thực hiện các mục tiêu do người làm công tác xã hội đưa ra. Mối quan hệ giữa nguồn truyền thông và đối tượng truyền thông dưới góc độ tiếp thị là: trao đổi thông tin tự nguyện, không ép buộc, không áp đặt, không ban phát từ trên xuống. 2. Khái niệm tiếp thị xã hội và đặc điểm, tính chất Tiếp thị xã hội là một hình thức vận động truyền thông xã hội. 50 Từ quan điểm coi thông tin cần có sức cạnh tranh, là sản phẩm và có một số thuộc tính hàng hóa, tiếp thị xã hội chú trọng việc truyền thông thông qua các sản phẩm cụ thể và hệ thống dịch vụ xã hội. Xuất phát từ triết lý cơ bản: Người sử dụng thấy được giá trị của sản phẩm khi họ trả giá cho dù là rất rẻ. Khi họ đã bỏ tiền ra mua là để đáp ứng nhu cầu sử dụng, do vậy tránh được lãng phí; nếu được cho không, khả năng không sử dụng do nhiều lý do khác nhau sẽ nhiều hơn. Có thể hiểu khái niệm tiếp thị xã hội thông qua công thức: Tiếp thị xã hội = Kỹ thuật tiếp thị + mục tiêu xã hội. Tiếp thị là sự thiết kế, thực hiện và điều hành những chương trình hướng tới tăng cường khả năng tiếp nhận mang tính xã hội và khả năng thực hành những ý tưởng này trong các nhóm cộng đồng. Sự khác nhau giữa các nhóm sản phẩm mang tính phúc lợi xã hội và những sản phẩm thuần túy mang tính thương mại được so sánh trên những điểm sau: - Các sản phẩm xã hội khi đưa ra thường gây tranh luận nhiều hơn. - Các sản phẩm xã hội thường có mục đích toàn diện hơn các sản phẩm thương mại. 51 - Ích lợi do các sản phẩm xã hội mang lại thường ít thấy được ngay lập tức. - Các kênh tham gia truyền tải các sản phẩm xã hội thường khó vận dụng và điều hành hơn. - Đối tượng sử dụng các sản phẩm xã hội thường hạn chế về tiền bạc và vật chất. Sự đo đếm thành công của việc bán ra hay áp dụng được các sản phẩm xã hội thường khó khăn hơn các sản phẩm thương mại. 3. Những xu hướng lệch lạc cần tránh - Chỉ coi trọng tiếp thị mà xa rời các mục tiêu xã hội. - Coi trọng hình thức tiếp thị, chú trọng các hoạt động tiếp thị mà coi nhẹ việc cải tiến, đổi mới nội dung truyền thông - tuyên truyền, xa rời mục tiêu giáo dục truyền thống. Điều này cũng giống như việc chỉ quan tâm đến tiếp thị, quảng cáo sản phẩm mà không nâng cao chất lượng sản phẩm. Bản thân tính đúng đắn, hấp dẫn lành mạnh của nội dung cũng là phương pháp tiếp thị bền vững. 52 KỸ NĂNG CÔNG TÁC XÃ HỘI Trong khi tiếp cận và giúp đỡ thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn, nhân viên công tác xã hội cần phải kết hợp, sử dụng thật khéo léo các kỹ năng để thực hiện kế hoạch hành động đặt ra. Xin giới thiệu một số kỹ năng quan trọng, mà nhất thiết nhân viên công tác xã hội phải có. I. KỸ NĂNG GIAO TIẾP CƠ BẢN Nhu cầu cơ bản của thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn rất đa dạng, phong phú, song họ chỉ bộc lộ khi hành vi và thái độ của nhân viên công tác xã hội đối với họ tạo được sự tin tưởng. Do đó, nhân viên công tác xã hội cần chủ động thiết lập mối quan hệ thân tình thiện chí với họ để họ chấp nhận và dần dần thay đổi nhận thức, hành vi của mình theo hướng tiến bộ. Sau đây là một số nội dung chủ yếu của kỹ năng giao tiếp cơ bản: 1. Tạo ấn tượng ban đầu - Lần đầu tiên khi tiếp cận thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn bao giờ cũng gây ấn tượng 53 đặc biệt và ảnh hưởng đến các diễn biến sau đó. Nó là tiêu chí quan trọng để thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn thừa nhận, đánh giá nhân viên công tác xã hội. - Nhân viên công tác xã hội cần tự nhiên, tự tin, lời nói, giọng nói nhẹ nhàng, mạch lạc, ăn mặc gọn gàng... Cần cởi mở khi tiếp xúc với họ để tạo ấn tượng tích cực ban đầu. 2. Có sự hiểu biết về bản thân - Nhận thức về chính bản thân sẽ giúp cho nhân viên công tác xã hội cảm nhận rõ về cách nhìn nhận các vấn đề của thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn theo các mức độ: - Mức độ cá nhân: Tùy theo kinh nghiệm sống của từng người. - Mức độ văn hóa: Theo sự cảm thụ thế giới và ảnh hưởng của văn hóa đến bản thân. - Mức độ nghề nghiệp: Theo sự đào tạo chuyên nghiệp, hay nghiệp dư. Nhân viên công tác xã hội cần có cách nhìn nhận vấn đề theo cách riêng của mình. Cần thay đổi cách nhìn theo mức độ công việc: nhìn nhận khách quan, dẹp bỏ cái tôi, nhìn nhận bằng con mắt mới và nhìn vấn đề của thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn từ nhiều góc độ khác nhau... 3. Kỹ năng truyền thông - Nhân viên công tác xã hội là người phải biết truyền đạt rõ ràng các thông điệp bằng lời nói, 54 hoặc không lời; biết quan sát và cảm nhận ý nghĩa của các thông điệp phát ra từ đối tượng (thân chủ) và phải biết cách phản hồi để họ nhận thức vấn đề và bản thân rõ hơn. - Cách phản hồi: + Diễn đạt bằng lời tâm trạng của đối tượng. + Động viên đối tượng khai thác được sức mạnh và tiềm năng của chính bản thân mình. + Cung cấp thông tin dữ kiện cho đối tượng hơn chỉ là khuyên nhủ, đồng thời đề nghị giải pháp. + Trò chuyện theo hướng chuyển dần từ những nét chung tới những nét đặc thù của đối tượng. + Tìm hiểu sự im lặng của đối tượng khi tiếp cận. + Phải biết đặt câu hỏi cho phù hợp hoàn cảnh. + Chuyển dịch trọng tâm của sự căng thẳng khi giao tiếp. II. KỸ NĂNG LẮNG NGHE 1. Sự lắng nghe tích cực của nhân viên công tác xã hội thể hiện sự quan tâm đến đối tượng làm cho họ có cảm giác được tôn trọng, từ đó họ dễ thổ lộ những khúc mắc của bản thân. Nghe là một tiến trình sinh lý. Lắng nghe có hiệu quả khi tiếp cận đối tượng, nhân viên công tác xã hội cần chú ý: - Không chỉ nghe lời nói mà còn nghe tâm trạng đối tượng. 55 - Phản hồi hoặc khuyến khích đối tượng thổ lộ bằng những lời nói ngắn gọn, sát ý. - Chú ý đến những cử chỉ truyền thông không bằng lời: chăm chú lắng nghe và nhìn, nghiêng về đối tượng. - Hỏi thêm những câu hỏi cho rõ vấn đề, nhưng không nên hỏi nhiều quá. - Phản hồi điều mình cảm nhận được để biết chắc là điều đối tượng muốn nói đã được tiếp nhận. 2. Những trở ngại chính khi lắng nghe - Thói quen đề nghị nhiều hơn nghe. - Nghe nhưng không tập trung. - Sự dửng dưng: chán, mệt mỏi, không quan tâm. - Sự thiếu kiên nhẫn, mất bình tĩnh. - Những thành kiến tiêu cực: từ chối nghe những điều mình không thích. - Thiếu quan sát những hành vi, cử chỉ, giọng nói, sự cường điệu, nét mặt... - Những trở ngại khách quan: tiếng ồn, không khí ngột ngạt, thiếu ánh sáng... III. KỸ NĂNG TÌM HIỂU VẤN ĐỀ Đánh giá vấn đề là một bước rất quan trọng trong tiến trình giải quyết vấn đề cho thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn. Đánh giá đúng tính chất của vấn đề mà đối tượng thường quan tâm sẽ giúp nhân viên công tác xã hội chủ động 56 trong việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch hành động. Tiến trình khám phá vấn đề gồm 5 bước sau đây: - Bước 1: Chuẩn bị. + Trước khi gặp cần kiểm tra lại thông tin về đối tượng. + Xác định mục đích. + Chuẩn bị thái độ. + Vai trò của nhân viên công tác xã hội. + Cảm giác, suy nghĩ của mình về đối tượng mà mình sắp gặp. + Ổn định tư tưởng để tập trung vào công việc. - Bước 2: Xác định. Nhân viên công tác xã hội cần xác định thật chắc chắn vấn đề mà đối tượng thường quan tâm, nêu cụ thể cho từng trường hợp. - Bước 3: Đồng hóa. Nhân viên công tác xã hội khi tiếp cận với đối tượng phải trả lời được câu hỏi: “Nếu đối tượng là loại A thì ta sẽ phải phản ứng thế nào?”. Nhân viên công tác xã hội cần có sự đồng cảm với đối tượng mình sẽ gặp. - Bước 4: Tách rời. Nhân viên công tác xã hội cần tách ra khỏi đối tượng cụ thể để nhìn lại những bước mình làm, nhìn lại bằng lý trí, phân tích những diễn biến tâm lý, những phản ứng của đối tượng. - Bước 5: Cởi mở. 57 Nhân viên công tác xã hội tiếp cận trực tiếp với thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn cần phải cởi mở hoàn toàn để tiếp nhận thông tin từ phía họ. IV. KỸ NĂNG BIỆN HỘ 1. Biện hộ là một chức năng quan trọng của nhân viên công tác xã hội mà bản chất của nó là nhân viên công tác xã hội cần phải đứng về phía thân chủ (đối tượng), nhưng không làm tổn hại đến lợi ích chung của cộng đồng xã hội. Nhân viên công tác xã hội cần phải kết hợp khả năng vốn có của bản thân với cộng đồng để cùng giải quyết các vấn đề cơ bản của thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn. 2. Nhân viên công tác xã hội cần phải có những kỹ năng sau đây để biện hộ khi giúp thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn - Nắm bắt thông tin. - Thuyết phục, thương lượng. - Tiếp cận từ thấp đến cao. 3. Nhân viên công tác xã hội cần tránh - Xử lý vấn đề một cách cảm tính, thiếu tôn trọng thân chủ. - Tình trạng bế tắc khi tiếp cận với thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn. Tóm lại: Công tác xã hội ngày nay nhấn mạnh nhiều đến vai trò trọng yếu của thân chủ. Cần 58 phải nhớ đến “hệ sinh thái” gồm cá nhân, gia đình, xã hội, nền văn hóa và vận dụng thật tốt các kỹ năng để tiếp cận các vấn đề của thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn. V. NHỮNG TRỞ NGẠI TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI 1. Thiếu tập trung chú ý Có nhiều khía cạnh của vấn đề thiếu tập trung chú ý: - Các đối tượng làm việc riêng, nói chuyện riêng trong khi giao tiếp. Ví dụ: Nhân viên công tác xã hội đang tiếp xúc với một nhóm trẻ lang thang ở góc phố thì một em trong nhóm bày trò làm cả nhóm phá lên cười, làm gián đoạn giao lưu đang đến đỉnh cao. - Sự tác động cạnh tranh của các nguồn thông tin khác nhau tới giác quan của những người đang đối thoại (màu sắc, âm thanh, mùi vị, khí hậu, thời tiết...). Trong trường hợp này, người ta có xu hướng lựa chọn để tránh phải khổ sở vì quá tải thông tin. 2. Thông điệp nghèo nàn Đó có thể là những trường hợp sau: - Nói không rõ ý, thiếu chính xác trong việc sử dụng ngôn từ. Ví dụ, nhóm trẻ lang thang đường phố được tổ trưởng tổ công tác xã hội mời lên quán X 59 để dự “liên hoan gặp gỡ”. Các em náo nức đến rất đông, chắc mẩm sẽ được các anh chị trong nhóm công tác xã hội mời một bữa liên hoan rôm rả. Nhưng đến nơi mới biết chỉ là một cuộc gặp gỡ thông thường mang tính chất tham vấn và mỗi em chỉ được uống một cốc nhân trần. - Hiểu ý nhưng thiếu từ, vốn từ quá nghèo nàn không thể diễn đạt nổi ý của mình. Ví dụ: Thanh thiếu niên gặp hoàn cảnh khó khăn rất mặc cảm với những từ nặng nề như: phạm pháp, mại dâm, tội phạm, hư hỏng, hỗn láo... Nhân viên công tác xã hội nếu không thận trọng rất dễ mắc lỗi nói trên. Vì vậy, nên sử dụng cụm từ thanh thiếu niên làm trái pháp luật, bị lợi dụng tình dục, hư nhưng chưa chắc đã hỏng, mắc lỗi lầm, lầm đường lạc lối thay cho những từ “đao to búa lớn” như trên. 3. Tiếp nhận thông tin không đầy đủ Điều này xảy ra đối với người mới nghe một phần thông điệp đã vội rút ra những kết luận theo ý mình, không chịu nghe tiếp, dẫn đến hậu quả “ông nói gà, bà nói vịt”, “ông chẳng, bà chuộc”. Sau đây là một vài ví dụ: - Nhóm công tác xã hội có kế hoạch cứ 18 giờ các ngày thứ ba, thứ bảy hằng tuần tập trung tại công viên, cổng phụ để gặp gỡ các em lang thang không nơi nương tựa. Nhưng một số thanh niên khi nghe nhóm trưởng phổ biến lại thiếu tập trung, nắm chưa hết tinh thần thông báo, do vậy 60 có người đến vào chiều thứ hai, một số khác lại đến cổng chính, một số khác lại đến sớm (17 giờ), và hậu quả thì đã rõ, trong bất kỳ trường hợp nào cũng đều ảnh hưởng đến công việc chung của cả nhóm. - Nhóm công tác xã hội trong thời gian hỗ trợ trẻ lang thang đường phố phát hiện một em có biểu hiện không vui, luôn thở dài, hỏi không nói, gọi không thưa, lãnh đạm với mọi người. Một thành viên trong nhóm vội kết luận em này đã sa vào nghiện hút, tiêm chích ma túy dù chưa tìm hiểu rõ tình hình của em này là: Ở nhà bố em đánh mẹ em bị thương nặng phải đi cấp cứu ở bệnh viện. Em rất muốn về giúp mẹ nhưng lại sợ bố đánh đuổi đi. 4. Trạng thái cực đoan của cảm xúc Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường gặp những hiện tượng do quá xúc động, cảm động mà không nói nên lời. Những trạng thái cực đoan của cảm xúc như quá giận, quá sợ hãi, quá thương cảm... đều không giúp chúng ta làm tốt công tác xã hội. Một cuộc thảo luận trong nhóm công tác xã hội sẽ không thể tiếp tục kiểm soát được khi nó trở thành cuộc cãi vã giữa những thành viên đang nổi nóng với nhau. Làm việc tiếp xúc với thanh niên có hoàn cảnh đặc biệt, chúng ta thường gặp những hoàn cảnh hết sức éo le, bất hạnh. Nếu không biết 61 cách kiềm chế, chúng ta rất dễ bị xúc động và ảnh hưởng tới quá trình giao tiếp, giúp đỡ, tham vấn... Làm công tác xã hội mà vô cảm, loại bỏ mọi cảm xúc là không thể có kết quả. Tuy nhiên, cũng không thể để tình cảm lấn át lý trí, nhất là trong quá trình giao tiếp, truyền thông tham vấn, giúp đỡ. 5. Thiếu tin cậy vào sự giúp đỡ của những thông điệp, cách lập luận, chưa thuyết phục được mình trước khi thuyết phục người khác Khi nhóm trưởng quyết định một cuộc gặp gỡ giao lưu các nhân viên công tác xã hội với trẻ em lang thang của một “Mái ấm tình thương” nào đó, nhưng cũng chưa rõ đến đó, bản thân mỗi thành viên sẽ phải làm gì, thì chắc chắn sẽ tạo ra một không khí tẻ nhạt, một tâm lý thụ động, chờ đợi của các thành viên. Và chắc chắn cuộc gặp gỡ sẽ khó suôn sẻ, khó gây ấn tượng với các em, nếu không nói đến những hậu quả tai hại hơn như “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. 6. Tác động của ngoại cảnh Chúng ta có thể nêu lên hàng loạt yếu tố của ngoại cảnh (hoàn cảnh bên ngoài) gây khó khăn, thậm chí cản trở quá trình giao tiếp, truyền thông: những âm thanh lộn xộn, tiếng ồn, ánh nắng chói chang hay trời âm u, không khí oi bức ngột ngạt, môi trường ô nhiễm... 62 Hiệu quả của quá trình giao tiếp, tham vấn không chỉ thông qua ngôn ngữ nói, mà còn qua ngôn ngữ viết, qua hình tượng..., phụ thuộc rất nhiều vào sự phối hợp giữa các giác quan: mắt, tai, mũi, da, lưỡi,... Do vậy, tác động tiêu cực của ngoại cảnh sẽ làm nhiễu loạn thông tin ở những mức độ khác nhau hoặc chi phối sự tập trung tư tưởng của đối tượng nhận tin và phát tin. 7. Thay đổi kế hoạch, dự định mà không báo trước Không đủ thời gian để tự điều chỉnh trước sự thay đổi bất ngờ sẽ làm cho người ta sửng sốt, tức giận, mất lòng tin... Do vậy, trong công tác xã hội rất nên tránh những sự thay đổi mà không được báo trước (thay đổi chương trình, kế hoạch, lịch làm việc...). Ví dụ: Các em lang thang đường phố theo kế hoạch đúng 19 giờ tối thứ bảy đã tập trung khá đông đủ tại một địa điểm hẹn thường xuyên. Tuy nhiên, các em chờ mãi mà không thấy nhóm nhân viên công tác xã hội hay các anh, chị phụ trách. Mãi một giờ sau mới có người đến báo rằng buổi gặp mặt sẽ hoãn đến tối chủ nhật. Việc làm đó gây tổn hại đến niềm tin của các em đối với các anh, chị phụ trách. Và hậu quả của nó sẽ còn kéo dài mãi đến những lần gặp gỡ giao lưu sau này. 63 8. Tác động của những khác biệt cá nhân - Những khác biệt về giới tính: Tiếp cận với các em gái lang thang, bị lợi dụng tình dục sẽ làm cho nam nhân viên gặp khó khăn hơn. - Khoảng cách giữa các thế hệ: Các nhân viên công tác xã hội phải nắm vững tâm lý các em có hoàn cảnh khó khăn, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của các em. - Sự thiếu tự tin làm cho nhân viên công tác xã hội lúng túng, vấp váp, từ đó giảm hiệu quả của quá trình giao tiếp, tham vấn. - Những ấn tượng xấu mà nhân viên công tác xã hội gây ra cho thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn sẽ là vật cản to lớn trong quá trình giao tiếp, tham vấn hỗ trợ các em. - Sự khác biệt về dân trí, học vấn: Các nhân viên công tác xã hội phải hiểu rất rõ trình độ học vấn của đối tượng, sử dụng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu đối với họ. - Sự khác biệt về tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc. - Sự khác biệt về năng lực cảm nhận và ngôn ngữ giữa các vùng, miền khác nhau. 9. Thiếu sự hồi tiếp Một trong những trở ngại trong quá trình giao tiếp, hỗ trợ thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn là thiếu sự hồi tiếp. Để đạt hiệu quả, phải có ai đó sẵn sàng nói và sẵn sàng nghe để đáp lại. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó sẽ dẫn tới sự 64 gián đoạn trong giao tiếp, tham vấn. Không thể để tình trạng người nói không có người nghe hay ngược lại mọi người sẵn sàng nghe nhưng người nói không đáp ứng được yêu cầu của thính giả. Trong công tác xã hội, điều đặc biệt quan trọng đối với nhân viên làm công tác này là việc sẵn sàng lắng nghe đối tượng phải trở thành một nguyên tắc, hơn nữa phải trở thành thói quen. 10. Tính đa dạng của dư luận xã hội, nhu cầu của đối tượng Do sở thích, nhu cầu, nguyện vọng của thanh thiếu niên có hoàn cảnh đặc biệt phong phú, đa dạng, nên không thể có một phương pháp chung tiếp cận, giao tiếp với mọi đối tượng. Tuy nhiên, để chiếm được sự tin cậy, cảm tình của họ cũng không phải là việc làm khó khăn. Trước hết cần phải thể hiện bằng hành động, hành vi cụ thể về sự quan tâm thật sự của mình, tạo những ấn tượng tốt ban đầu với họ. Hết sức tránh việc tra hỏi, xét nét, phán quyết theo ý chủ quan, “lên lớp”, rao giảng đạo đức, ra lệnh... đối với các đối tượng mà mình tiếp cận. 65 KỸ NĂNG TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG TỔNG HỢP 1. Vai trò, ý nghĩa của việc tổ chức các hoạt động tổng hợp - Thu hút, tập hợp, đoàn kết đông đảo thanh niên vào tổ chức, vào các phong trào và chương trình hành động cách mạng của Đoàn, Hội. - Đáp ứng được yêu cầu đa dạng và nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp thanh niên. - Thông qua các hoạt động tổng hợp tạo môi trường hoạt động thể chất, giáo dục truyền thống, kích thích tính tích cực chính trị - xã hội của đoàn viên, thanh niên trong việc tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. 2. Mục đích, yêu cầu của việc tổ chức các hoạt động tổng hợp - Căn cứ vào những thời điểm, địa bàn tổ chức, tính chất, ý nghĩa của ngày lễ hay sự kiện chính trị để xác định chủ đề của hoạt động tổng hợp. Từ chủ đề mà đặt ra các mục đích, yêu cầu của việc tổ chức các hoạt động tổng hợp cho phù hợp. 66 - Mục đích, yêu cầu của việc tổ chức các hoạt động tổng hợp phải tính đến hiệu quả giáo dục, hiệu quả kinh tế, hiệu quả xây dựng tổ chức Đoàn, Hội, tính hấp dẫn và uy tín của Đoàn, Hội đối với thanh niên. 3. Nội dung và hình thức các hoạt động tổng hợp Trên cơ sở mục đích, yêu cầu của việc tổ chức các hoạt động tổng hợp mà xác định các nội dung hoạt động. Căn cứ vào nhu cầu, nguyện vọng, khả năng của các đối tượng thanh thiếu niên, vào năng khiếu, trình độ, năng lực của cán bộ Đoàn và điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh phí mà xác định các loại hình hoạt động, quy mô thời gian cho phù hợp. Lựa chọn thực hiện một số nội dung hoạt động sau: - Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. - Các hoạt động nhân đạo từ thiện xã hội. - Các hoạt động giáo dục về Đảng, Đoàn, dân tộc, lãnh tụ... - Các hoạt động vui chơi giải trí. - Các hoạt động kỹ năng công tác thanh niên. Tùy tình hình cụ thể mà lựa chọn hình thức: cuộc thi, hội thi, tham quan dã ngoại, cắm trại, diễn đàn thanh niên, đối thoại, sinh hoạt chủ đề, mít tinh, nghe nói chuyện, giao lưu, dạ hội, hái hoa dân chủ, thăm hỏi, diễn tiểu phẩm, hài kịch, tấu... 67 Khi xác định nội dung hoạt động tổng hợp cần bảo đảm tính lôgíc, sự liên kết giữa các nội dung khác nhau, đồng thời lựa chọn các hình thức hấp dẫn lôi cuốn thanh thiếu niên, nhưng phải phù hợp với chủ đề của hoạt động tổng hợp. 4. Chuẩn bị cho việc tổ chức các hoạt động tổng hợp - Tìm hiểu, nghiên cứu chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, của Đoàn, nhiệm vụ chính trị của địa phương, của đơn vị để xác định sự cần thiết tổ chức hoạt động tổng hợp vào những thời điểm nào, ở đâu. - Điều tra, khảo sát, nắm vững tình hình thanh niên về trình độ, điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu, nguyện vọng, xu hướng phát triển và những khó khăn, yếu kém của thanh niên, từ đó xác định các nội dung và loại hình hoạt động phù hợp. - Thống nhất chủ trương và xây dựng kế hoạch tổng thể trong Ban Chấp hành Đoàn, xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy đảng, sự hỗ trợ và tạo điều kiện về mọi mặt của chính quyền và các đoàn thể, các ngành, các cấp trong địa bàn tổ chức hoạt động. - Thành lập ban tổ chức, phân công nhiệm vụ, tiến hành tập huấn, tập dượt các nội dung bảo đảm thống nhất và có hiệu quả. - Cần xây dựng chương trình chi tiết (kịch bản) thực hiện các nội dung hoạt động. Trước khi tiến hành, tùy thuộc vào tình hình chuẩn bị có thể 68 tổng duyệt hoặc kiểm tra kỹ các yêu cầu đặt ra để có biện pháp khắc phục, điều chỉnh những thiếu sót, yếu kém. - Phân công trách nhiệm cho ban tổ chức: Trưởng ban chịu trách nhiệm quán xuyến toàn bộ, điều hành chung; phó ban giúp việc cho trưởng ban, thành lập và điều hành các tiểu ban (bộ phận) nhằm thực hiện nội dung chương trình kế hoạch đã đề ra; các ủy viên phụ trách từng nội dung công việc cụ thể (yêu cầu, tiến độ thực hiện). Xây dựng phương án dự phòng cho tất cả các công việc. - Phân công trách nhiệm cho từng cơ sở Đoàn, đoàn viên, thanh niên tham gia chuẩn bị các nội dung hoạt động và các công việc tổ chức thực hiện chương trình. - Xây dựng kế hoạch kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho các hoạt động chung và riêng (trách nhiệm của ban tổ chức, của các đơn vị và thành viên tham gia). 5. Tổ chức thực hiện Đây là bước quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của toàn bộ công việc. Trong quá trình thực hiện cần tuân thủ các kế hoạch đã đề ra và bám sát chương trình chi tiết (kịch bản), tuy nhiên tùy từng trường hợp và hoàn cảnh cụ thể mà cần hội ý để thống nhất có sự điều chỉnh hợp lý những vấn đề phát sinh, kiểm tra, giám sát chặt chẽ từng khâu từ khi bắt đầu cho đến lúc kết thúc, 69 đánh giá kết quả. Cần tôn trọng và phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo của mọi thành viên tham gia nhưng không nên tùy tiện đưa thêm vào chương trình những nội dung mới mà chưa có sự đồng ý của ban tổ chức. - Thường xuyên hội ý ban tổ chức nhằm nắm chắc tình hình, giải quyết từng bước có hiệu quả các khó khăn nảy sinh, cố gắng phát huy khả năng, năng khiếu của mọi thành viên, tạo điều kiện để những nội dung chính được thực hiện có hiệu quả. - Khai thác, sử dụng tối đa năng lực của các chuyên gia, các cộng tác viên và các thành viên tích cực trong quá trình thực hiện, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho đoàn viên thanh niên tham gia nhiệt tình sáng tạo và tự giác trong những hoạt động mà họ ưa thích. 6. Tổng kết, đánh giá kết quả - Đánh giá tổng thể việc thực hiện nội dung, chương trình, rút ra những kết luận về thành công, kết quả đạt được; về những hạn chế, yếu kém, sai sót trong quá trình chuẩn bị và tiến hành thực hiện; về những nguyên nhân chủ quan, khách quan và những kinh nghiệm rút ra qua các nội dung hoạt động từ khâu chuẩn bị cho đến khi kết thúc hoạt động. - Đánh giá kết quả tham gia của các thành viên ban tổ chức, các đơn vị, mọi đoàn viên thanh niên nhằm biểu dương những thành tích của các 70 cá nhân và tập thể, cổ vũ tính tích cực tham gia các hoạt động chính trị - xã hội của đoàn viên thanh niên, tạo sức mạnh xây dựng, củng cố tổ chức, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của tổ chức Đoàn trong thanh niên và trong xã hội. - Đánh giá kết quả sự phối hợp, liên kết giữa các tổ chức Đoàn, Hội, Đội với các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức kinh tế - xã hội nhằm giúp họ ngày càng hiểu và gắn bó với tổ chức Đoàn, Hội hơn. 71 KỸ NĂNG TỔ CHỨC HỘI NGHỊ, HỘI THI TRONG THANH NIÊN NÔNG THÔN A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG Thanh niên nông thôn là một đối tượng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số thanh niên Việt Nam. Các hoạt động của thanh niên nông thôn thường gắn liền với các hoạt động lao động sản xuất và các hoạt động vui chơi giải trí mang đậm tính truyền thống văn hóa và phong tục Việt Nam. 1. Phân loại hội thi có thể chia các nhóm hội thi trong thanh niên nông thôn theo 4 nhóm sau: - Nhóm các cuộc thi trình diễn kỹ năng hoạt động như: thi biểu diễn văn nghệ, thi đấu thể thao... Những cuộc thi này được tổ chức trong một chương trình hoạt động chào mừng, trong một chiến dịch hành động, hay trong cuộc liên hoan gặp mặt... - Nhóm các cuộc thi tìm hiểu tri thức như: thi tìm hiểu kỹ thuật nghề nông, thi tìm hiểu về Bác Hồ, thi tìm hiểu về dân số - kế hoạch hóa gia đình, thi tìm hiểu về môi trường... Những cuộc thi này được tổ chức trong chương trình kỷ niệm 72 các ngày lễ lớn; chương trình phổ biến chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, chương trình tuyên truyền phòng, chống các tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường... - Nhóm các cuộc thi trình diễn mẫu hình, mô hình sản phẩm như: thi sản phẩm và sản phẩm sáng tạo,... Những cuộc thi này được tổ chức trong các cuộc triển lãm, trong các phong trào thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, hoặc trong phong trào tuổi trẻ sáng tạo... - Nhóm các cuộc thi kết hợp 2 hoặc cả 3 loại cuộc thi trên như: thi thanh niên thanh lịch - giỏi nghề nông, thi thợ giỏi, thi bí thư chi đoàn giỏi, thi thanh niên khỏe đẹp... Những cuộc thi này có nội dung thi tổng hợp nên có thể áp dụng kết hợp nhiều chương trình hoạt động trong một cuộc thi. 2. Quy mô của cuộc thi, đối tượng tham gia cuộc thi, hình thức tổ chức cuộc thi. - Quy mô cuộc thi: Có thể tổ chức trong phạm vi chi đoàn, trong một xã, trong toàn huyện, toàn tỉnh hay toàn quốc. Có thể liên kết một số đơn vị thành một cụm để tổ chức cuộc thi. Có thể tổ chức cuộc thi theo một ngành chuyên môn. Một cuộc thi có thể tổ chức trong vài tiếng đồng hồ, hoặc có thể kéo dài một năm. - Đối tượng tham gia cuộc thi: Mọi đoàn viên thanh niên có đủ điều kiện, tiêu chuẩn quy định trong cuộc thi đều có thể tham gia. Những 73 đối tượng không phải là đoàn viên thanh niên cũng có thể được tham gia trong một số cuộc thi. - Hình thức tổ chức cuộc thi, gồm 2 loại: thi trực tiếp và thi gián tiếp. Thi trực tiếp là tại nơi quy định của ban tổ chức. Thi gián tiếp là người tham gia cuộc thi gửi bài viết hoặc sản phẩm, mô hình sáng tạo về nơi quy định cho ban tổ chức chấm mà không phải có mặt ở nơi thi. Ở cấp chi đoàn, Đoàn cơ sở chủ yếu tổ chức các cuộc thi trực tiếp. Thi gián tiếp thường là các cuộc thi do Đoàn cấp trên tổ chức. Mỗi cuộc thi có mục đích, yêu cầu, nội dung thi, quy mô, đối tượng tham gia và cách thức tổ chức thi khác nhau. Nhưng về quy trình tiến hành một cuộc thi cơ bản là giống nhau. Cụ thể gồm các bước như sau: Bước 1: Nêu chủ trương tổ chức cuộc thi, cụ thể: + Quyết định chủ trương tổ chức cuộc thi. + Quyết định chủ đề của cuộc thi. + Lập bộ phận dự thảo kế hoạch cuộc thi. Bước 2: Dự thảo kế hoạch cuộc thi, nội dung kế hoạch gồm các vấn đề: + Những căn cứ để tổ chức cuộc thi. + Mục đích, yêu cầu. + Nội dung thi. + Quy mô cuộc thi (không gian và thời gian). + Đối tượng tham gia cuộc thi. + Ban chỉ đạo cuộc thi (cơ cấu, số lượng thành viên, chức năng, nhiệm vụ). 74 + Ban tổ chức cuộc thi (cơ cấu, số lượng thành viên, chức năng, nhiệm vụ). + Quy chế và thang điểm chấm thi. + Danh hiệu và chỉ tiêu khen thưởng. + Tài liệu tuyên truyền phục vụ cuộc thi. + Thời gian, địa điểm tổ chức thi (hoặc chấm thi) và tổng kết cuộc thi. + Kinh phí cuộc thi (nguồn thu và phân bổ chi phí cho các hoạt động của cuộc thi). Bước 3: Thông qua, công bố kế hoạch cuộc thi và triển khai thực hiện các nội dung của kế hoạch cuộc thi. Bước 4: Theo dõi, chỉ đạo diễn biến của cuộc thi. Ban tổ chức và hội đồng chấm thi họp triển khai và thực hiện các nhiệm vụ của mình. Bước 5: Tổ chức thi, hoặc chấm thi (do ban tổ chức cuộc thi và hội đồng thi thực hiện), công bố kết quả cuộc thi. Bước 6: Tổng kết cuộc thi (Ban chỉ đạo cuộc thi đánh giá toàn bộ các mặt của cuộc thi, rút ra bài học kinh nghiệm, đề ra phương hướng mới và công khai tài chính cuộc thi). Để một cuộc thi thành công tốt đẹp nhất thiết phải trải qua 6 bước tiến hành trên. Những cuộc thi có quy mô nhỏ, thực hiện trong một thời gian ngắn thì việc thực hiện các bước tiến hành cuộc thi có thể đơn giản. Những cuộc thi có quy mô lớn, thực hiện trong một thời gian dài thì việc thực hiện các bước tiến hành của cuộc thi phải đầy đủ, 75 chặt chẽ và họp bàn kỹ lưỡng. Kết quả của cuộc thi phụ thuộc vào chất lượng của việc thực hiện các bước tiến hành cuộc thi. Các cuộc thi của Đoàn Thanh niên tổ chức bao giờ cũng gắn liền với nội dung, chủ đề của một phong trào thi đua do Đoàn Thanh niên phát động. Kết quả của cuộc thi thúc đẩy cao trào thi đua trên mỗi lĩnh vực hoạt động của phong trào thanh niên. Cuộc thi tạo không khí hoạt động sôi nổi, tích cực trong phong trào thanh niên và là động lực thúc đẩy phong trào thanh niên phát triển. Vì vậy, tổ chức các cuộc thi trong hoạt động của Đoàn Thanh niên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc củng cố, xây dựng tổ chức Đoàn cơ sở và chi đoàn. B. MỘT SỐ HỘI NGHỊ, HỘI THI TIÊU BIỂU TRONG CÔNG TÁC ĐOÀN THANH NIÊN Ở NÔNG THÔN I. HỘI NGHỊ THANH NIÊN TIÊN TIẾN 1. Hội nghị thanh niên tiên tiến (hoặc liên hoan thanh niên tiên tiến xuất sắc) là loại hình hoạt động đã phát triển từ khá lâu và mang tính chất giáo dục cao, thu hút đông đảo cán bộ đoàn viên thanh niên tham gia; Là sự tập hợp những điển hình trong phong trào thanh niên ở một lĩnh vực công tác; Là nơi các cá nhân điển hình 76 báo cáo thành tích, trao đổi kinh nghiệm công tác, bàn bạc để tìm ra các giải pháp mới. Hội nghị được chuẩn bị và tổ chức tốt sẽ có ý nghĩa khẳng định cái mới, khẳng định hướng đi của một phong trào. Có nhiều hình thức tổ chức hội nghị, song một hình thức đã được nhiều cơ sở thực hiện có hiệu quả, đó là xây dựng đề cương phỏng vấn: các điển hình thay vì đọc báo cáo trước hội nghị sẽ chuẩn bị trước bản báo cáo thành tích dưới dạng một hệ thống những câu hỏi và trả lời, thông qua đó làm cho mọi người thấy được rõ nét hơn chân dung điển hình, kinh nghiệm cũng như bí quyết thành công. Cách thể hiện nêu trên sẽ giúp người báo cáo trình bày rõ hơn nội dung cần thể hiện và người nghe tiếp nhận thông tin được nhiều hơn. 2. Điều kiện để xây dựng tốt đề cương phỏng vấn: Một là, hội nghị chọn ra được những điển hình tiêu biểu. Hai là, có một hoặc hai người dẫn chương trình vừa nắm chắc được vấn đề, vừa có khả năng khai thác được những nội dung cốt lõi của từng đối tượng. 3. Các bước tiến hành phỏng vấn - Bước 1: Người dẫn chương trình nghiên cứu kỹ báo cáo thành tích của từng cá nhân, lọc ra 77 những điểm mới, những kinh nghiệm hay cần được làm rõ hơn. - Bước 2: Người dẫn chương trình làm việc trực tiếp với từng cá nhân được chọn báo cáo, kiểm tra lại những nội dung báo cáo và làm rõ thêm vấn đề cần tìm hiểu. Trao đổi và thống nhất trước những vấn đề dự kiến sẽ hỏi tại hội nghị. - Bước 3: Trên cơ sở những nội dung đã chuẩn bị, người dẫn chương trình biên tập thành đề cương phỏng vấn. Thông thường một báo cáo điển hình được sắp xếp theo cấu trúc sau: Họ và tên: .....................................Tuổi:........... Đơn vị (nơi làm việc):....................................... Thành tích tóm tắt:.......................................... Các câu hỏi: Dự kiến cách kết thúc (có thể phối hợp với ban tổ chức). - Bước 4: Thể hiện trước hội nghị theo đề cương đã chuẩn bị sẵn. 4. Những điểm cần chú ý - Tạo sự gần gũi để giảm bớt tâm trạng lo lắng vì phần lớn người lao động giỏi thường ít nói và ngại báo cáo về mình. - Có thể xen kẽ một số câu hỏi về cuộc sống, khai thác những nội dung hóm hỉnh nhằm tạo không khí vui tươi cho hội nghị; tuy nhiên, 78