🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kỹ Năng, Nghiệp Vụ Dành Cho Công Chức Văn Phòng - Thống Kê Cấp Xã
Ebooks
Nhóm Zalo
KỸ NĂNG
TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT DÀNH CHO CÁN BỘ CƠ SỞ
Héi ®ång chØ ®¹o xuÊt b¶n
Chñ tÞch Héi ®ång
pgs.TS. NguyÔn ThÕ kû
Phã Chñ tÞch Héi ®ång
TS. HOµNG PHONG Hµ
Thµnh viªn
trÇn quèc d©n
TS. NguyÔn §øC TµI
TS. NGUYÔN AN TI£M
NguyÔn Vò Thanh H¶o
TS. ĐỖ XUÂN LÂN
KỸ NĂNG
TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT DÀNH CHO CÁN BỘ CƠ SỞ
NHÀ XUẤT BẢN
CHÍNH TRỊ QUÓC GIA
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA DÂN TỘC
CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác cán bộ, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo lại cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Để thực hiện tốt bổn phận và trách nhiệm này, một mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ phải học hiểu lý luận, chính sách, tình hình trong nước và trên thế giới, để giáo dục cho quần chúng; phải học hiểu nghề nghiệp chuyên môn mà Đảng và Chính phủ giao cho mình phụ
trách; đảng viên và cán bộ phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, phải kính dân, trọng dân, việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Mặt khác, mỗi cán bộ, chính quyền và đoàn thể phải luôn luôn gần gũi Nhân dân, ra sức nghe ngóng và hiểu biết Nhân dân, học hỏi Nhân dân, lãnh đạo Nhân dân bằng cách tuyên truyền, giải thích, cổ động, giáo dục, tổ chức Nhân dân, dựa vào Nhân dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của Nhân dân.
Ngày 20-6-2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, lần đầu tiên
5
quyền được thông tin về pháp luật của công dân được ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Theo đó, công dân có quyền được thông tin về pháp luật và có trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật. Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền được thông tin về pháp luật. Về mặt chính sách, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị, trong đó, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân là phải tích cực tìm hiểu, học tập pháp luật; tham gia các khóa học, lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về pháp luật; gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật. Đồng thời, phải chủ động, tích cực kết hợp thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động chuyên môn, thực thi nhiệm vụ và hỗ trợ, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan đến lĩnh vực công tác.
Cuốn sách Kỹ năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật dành cho cán bộ cơ sở do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phối hợp với Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc do TS. Đỗ Xuân Lân biên soạn sẽ
cung cấp những nhận thức cơ bản về vị trí, vai trò và trách nhiệm của cán bộ, công chức cấp xã; về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cùng những kỹ năng cơ bản giúp cán bộ, công chức cấp xã có điều kiện
tham gia tích cực và chủ động hơn trong công tác này. Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 8 năm 2015
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT
6
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ TUYÊN TRUYỀN,
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT DÀNH CHO CÁN BỘ CƠ SỞ
A. QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
1. Theo quy định của pháp luật, những người nào là cán bộ xã, phường, thị trấn?
Theo điểm 3 Điều 4; khoản 2 Điều 61 Luật cán bộ, công chức năm 2008, cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội, bao gồm các chức vụ sau đây:
- Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy.
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. - Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân. - Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
7
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. - Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (đối với cấp xã có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam).
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
2. Người nào là công chức cấp xã?
Theo điểm 3 Điều 4; khoản 3 Điều 61 Luật cán bộ, công chức năm 2008, công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm các chức danh sau đây:
- Trưởng Công an.
- Chỉ huy trưởng Quân sự.
- Văn phòng - thống kê.
- Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã). - Tài chính - kế toán.
- Tư pháp - hộ tịch.
- Văn hóa - xã hội.
3. Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật?
Cán bộ, công chức cấp xã có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.
8
Cán bộ, công chức cấp xã là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước, đoàn thể với Nhân dân, là người trực tiếp được giao thực thi công tác dân vận, là tấm gương để mọi người noi theo. Lúc sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Đảng viên và cán bộ nhất định phải làm cho quần chúng thấm nhuần tư tưởng cách mạng. Nhất định phải theo nhu cầu của quần chúng mà xây dựng những tổ
chức cách mạng hợp với trình độ của quần chúng. Nhất định phải làm gương mẫu trong mọi công việc... Nhất định phải vào sâu trong quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ quần chúng, làm cho quần chúng mến Đảng, tin Đảng, ra sức ủng hộ Đảng và tự giác tự nguyện chịu Đảng lãnh đạo”1.
Cán bộ, công chức cấp xã là người đưa chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệ, nghị quyết của các đoàn thể đến với Nhân dân; đồng thời, phát hiện những vướng mắc, bất cập trong các chủ trương, chính sách, các quy định của pháp luật và những vấn đề mới phát sinh và nắm bắt đầy đủ tâm tư, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân để báo cáo lại cho Nhà nước, cho Đảng và đoàn thể mà mình là thành viên biết nhằm điều chỉnh chính sách, quy định cho phù hợp. Sinh thời, Bác Hồ từng khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng,
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.8, tr.278.
9
của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ
là công việc gốc của Đảng”1.
Cán bộ, công chức cấp xã là những người trực tiếp tiếp nhận, thụ lý và giải quyết các công việc liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở cơ sở. Hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức cấp xã có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nên chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phản ánh mức độ phục vụ của Nhà nước đối với xã hội. Nhấn mạnh vai trò này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ quyết định mọi việc... Công việc thành hay là bại một phần lớn là do nơi tư tưởng đạo đức, thái độ và lề lối làm việc...”2.
4. Pháp luật quy định như thế nào về chức trách của công chức cấp xã?
Theo Điều 1 Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30-10-2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn (sau đây,
_______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.309; t.7, tr.415.
10
gọi tắt là Thông tư số 06/2012/TT-BNV) thì công chức cấp xã làm công tác chuyên môn thuộc biên chế của Ủy ban nhân dân cấp xã, có trách nhiệm tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác được phân công và thực hiện các nhiệm vụ
khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao. Nhấn mạnh trách nhiệm của cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức cấp xã nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nhiệm vụ của Chính quyền ta và Đoàn thể ta là phụng sự nhân dân. Nghĩa là làm đày tớ cho dân... Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh. Lại phải hiểu và làm cho dân hiểu: Lợi ích tạm thời và lợi ích riêng, phải phục tòng lợi ích lâu dài và lợi ích chung. Lợi ích địa phương phải phục tòng lợi ích toàn quốc, toàn dân tộc. Muốn làm được như vậy, thì mỗi cán bộ chính quyền và đoàn thể cần phải: - Luôn luôn gần gũi Nhân dân.
- Ra sức nghe ngóng và hiểu biết Nhân dân. - Học hỏi Nhân dân.
- Lãnh đạo Nhân dân bằng cách tuyên truyền, giải thích, cổ động, giáo dục, tổ chức Nhân dân, dựa vào Nhân dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của Nhân dân”1.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.432.
11
5. Pháp luật quy định như thế nào về tiêu chuẩn đối với công chức cấp xã?
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05-12-2011 của Chính phủ về công chức xã, phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là Nghị định số 112/2011/NĐ-CP) thì công chức cấp xã phải có đủ các tiêu chuẩn chung sau đây:
- Hiểu biết về lý luận chính trị, nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
- Có năng lực tổ chức vận động Nhân dân ở địa phương thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
- Có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm, có đủ năng lực và sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao;
- Am hiểu và tôn trọng phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư trên địa bàn công tác. Đối với công chức Chỉ huy trưởng Quân sự cấp xã và Trưởng Công an xã: ngoài những tiêu chuẩn nêu trên còn phải có khả năng phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực lượng khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thực hiện một số nhiệm vụ phòng thủ dân sự; giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhân dân, tài sản của Nhà nước.
12
Khoản 1 Điều 2 Thông tư số 06/2012/TT-BNV quy định về tiêu chuẩn cụ thể của công chức cấp xã như sau:
- Độ tuổi: Đủ 18 tuổi trở lên.
- Trình độ văn hóa: Tốt nghiệp trung học phổ thông.
- Trình độ chuyên môn: Tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp trở lên của ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của chức danh công chức được đảm nhiệm.
- Trình độ tin học: Có chứng chỉ tin học văn phòng trình độ A trở lên.
- Tiếng dân tộc thiểu số: Ở địa bàn công tác phải sử dụng tiếng dân tộc thiểu số trong hoạt động công vụ thì phải biết thành thạo tiếng dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn công tác đó; nếu khi tuyển dụng mà chưa biết tiếng dân tộc thiểu số thì sau khi tuyển dụng phải hoàn thành lớp học tiếng dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn công tác được phân công.
- Sau khi được tuyển dụng phải hoàn thành lớp đào tạo, bồi dưỡng quản lý hành chính nhà nước và lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo chương trình đối với chức danh công chức cấp xã hiện đảm nhiệm.
Khoản 2, khoản 3 Điều 2 Thông tư số 06/2012/ TT-BNV quy định về tiêu chuẩn đặc thù của công chức cấp xã như sau:
- Tiêu chuẩn đối với chức danh Chỉ huy trưởng 13
Quân sự cấp xã và Trưởng Công an xã thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành đối với các chức danh này. Trong trường hợp pháp luật chuyên ngành không quy định thì thực hiện theo tiêu chuẩn cụ thể đối với công chức cấp xã nêu trên.
- Căn cứ vào tiêu chuẩn của công chức cấp xã và điều kiện thực tế của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được xem xét, quyết định:
+ Giảm một cấp về trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn đối với công chức làm việc tại xã đã được cơ quan có thẩm quyền công nhận thuộc khu vực miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; đồng thời xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa công chức cấp xã theo quy định;
+ Ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh công chức cấp xã;
+ Thời gian để công chức cấp xã mới được tuyển dụng phải hoàn thành lớp học tiếng dân tộc thiểu số; lớp đào tạo, bồi dưỡng quản lý hành chính nhà nước và lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo quy định.
6. Quyền, nghĩa vụ chung của cán bộ, công chức cấp xã được quy định như thế nào?
Điều 62 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy
14
định, cán bộ, công chức cấp xã có các nghĩa vụ, quyền chung sau đây:
- Thực hiện các nghĩa vụ, quyền theo quy định tại Luật cán bộ, công chức năm 2008, quy định khác của pháp luật có liên quan, điều lệ của tổ chức mà mình là thành viên.
- Cán bộ, công chức cấp xã khi giữ chức vụ được hưởng lương và chế độ bảo hiểm; khi thôi giữ chức vụ, nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật được xem xét chuyển thành công chức, trong trường hợp này, được miễn chế độ tập sự và hưởng chế độ, chính sách liên tục; nếu không được chuyển thành công chức mà chưa đủ điều kiện nghỉ hưu thì thôi hưởng lương và thực hiện đóng bảo hiểm tự nguyện theo quy định của pháp luật; trường hợp là cán bộ, công chức được điều động, luân chuyển, biệt phái thì cơ quan có thẩm quyền bố trí công tác phù hợp hoặc giải quyết chế độ theo quy định của pháp luật.
7. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức cấp xã đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân được quy định như thế nào?
Theo Điều 8 Luật cán bộ, công chức năm 2008, đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân, cán bộ, công chức cấp xã có các nghĩa vụ sau đây:
- Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia.
15
- Tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân.
- Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân. - Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
8. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức cấp xã trong thi hành công vụ được quy định như thế nào?
Theo Điều 9 Luật cán bộ, công chức năm 2008, trong thi hành công vụ, cán bộ, công chức cấp xã có các nghĩa vụ sau đây:
- Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.
- Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao.
- Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì
16
phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
9. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức cấp xã là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được quy định như thế nào?
Điều 10 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định, ngoài việc thực hiện quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật cán bộ, công chức năm 2008 thì cán bộ, công chức cấp xã là người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị còn có các nghĩa vụ sau đây: - Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức.
- Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật 17
về dân chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch,
cửa quyền, gây phiền hà cho công dân. - Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức.
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
10. Quyền được bảo đảm các điều kiện thi hành công vụ của cán bộ, công chức cấp xã được quy định như thế nào?
Theo Điều 11 Luật cán bộ, công chức năm 2008, trong thi hành công vụ, cán bộ, công chức cấp xã có quyền được bảo đảm các điều kiện sau đây:
- Được giao quyền tương xứng với nhiệm vụ. - Được bảo đảm trang thiết bị và các điều kiện làm việc khác theo quy định của pháp luật. - Được cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ.
- Được pháp luật bảo vệ khi thi hành công vụ.
11. Quyền của cán bộ, công chức cấp xã về tiền lương và các chế độ liên quan đến tiền lương được quy định như thế nào?
Về tiền lương và các chế độ liên quan đến
18
tiền lương, Điều 12 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định, cán bộ, công chức cấp xã được Nhà nước bảo đảm các quyền sau đây:
- Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
Cán bộ, công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc trong các ngành, nghề có môi trường độc hại, nguy hiểm được hưởng phụ
cấp và chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.
- Được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.
12. Quyền của cán bộ, công chức cấp xã về nghỉ ngơi được quy định như thế nào?
Điều 13 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định, cán bộ, công chức được nghỉ hằng năm, nghỉ lễ, nghỉ để giải quyết việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động.
Trường hợp do yêu cầu nhiệm vụ, cán bộ, công chức không sử dụng hoặc sử dụng không hết số ngày nghỉ hằng năm thì ngoài tiền lương còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng tiền lương cho những ngày không nghỉ.
19
13. Pháp luật quy định như thế nào về các quyền khác của cán bộ, công chức cấp xã?
Điều 14 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định về các quyền khác của cán bộ, công chức cấp xã như sau:
Cán bộ, công chức cấp xã được bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội; được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở, phương tiện đi lại, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật; nếu bị thương hoặc hy sinh trong khi thi hành công vụ thì được xem xét hưởng chế độ, chính sách như thương binh hoặc được xem xét để công nhận là liệt sĩ và các quyền khác theo quy định của pháp luật.
14. Đạo đức và văn hóa giao tiếp của cán bộ, công chức cấp xã được quy định như thế nào?
- Về đạo đức, Điều 15 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định, cán bộ, công chức cấp xã phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ.
- Về văn hóa giao tiếp ở công sở, Điều 16 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: + Trong giao tiếp ở công sở, cán bộ, công chức
20
phải có thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc. + Phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công bằng, vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá; thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ.
+ Khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức phải mang phù hiệu hoặc thẻ công chức; có tác phong lịch sự; giữ gìn uy tín, danh dự cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng nghiệp.
- Về văn hóa giao tiếp với Nhân dân, Điều 17 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: + Phải gần gũi với Nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc. + Không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho Nhân dân khi thi hành công vụ.
15. Những việc nào cán bộ, công chức cấp xã không được làm?
Cán bộ, công chức cấp xã không được làm những việc sau đây:
- Những việc không được làm liên quan đến đạo đức công vụ (Điều 18 Luật cán bộ, công chức năm 2008):
+ Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình công.
21
+ Sử dụng tài sản của Nhà nước và của Nhân dân trái pháp luật.
+ Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi. + Phân biệt đối xử dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình thức. - Những việc không được làm liên quan đến bí mật nhà nước (Điều 19 Luật cán bộ, công chức năm 2008):
+ Không được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước dưới mọi hình thức.
+ Cán bộ, công chức làm việc ở ngành, nghề có liên quan đến bí mật nhà nước thì trong thời hạn ít nhất là 05 năm, kể từ khi có quyết định nghỉ hưu, thôi việc, không được làm công việc có liên quan đến ngành, nghề mà trước đây mình đã đảm nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài.
- Những việc không được làm khác (Điều 20 Luật cán bộ, công chức năm 2008):
Cán bộ, công chức không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền, ví dụ:
22
Điều 37 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2007, 20121 quy định những việc cán bộ, công chức, viên chức không được làm như sau:
- Cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong khi giải quyết công việc.
- Thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư
và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Làm tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài về các công việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác,
_______________
1. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29-11-2005 là Luật số 55/2005/QH11; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2007 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 04-8-2007 là Luật số 01/2007/QH12: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2012
đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 23-11-2012 là Luật số 27/2012/QH13.
23
những công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc mình tham gia giải quyết.
- Kinh doanh trong lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý sau khi thôi giữ chức vụ trong một thời hạn nhất định theo quy định của Chính phủ.
- Sử dụng trái phép thông tin, tài liệu của cơ quan, tổ chức, đơn vị vì vụ lợi.
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ hoặc chồng của những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước.
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc giao dịch, mua bán vật tư, hàng hoá, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan không được để vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con kinh doanh trong phạm vi do mình quản lý trực tiếp.
- Cán bộ, công chức, viên chức là thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng và những cán bộ quản lý khác trong doanh nghiệp của Nhà nước không được ký kết
24
hợp đồng với doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột; cho phép doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột tham dự các gói thầu của doanh nghiệp mình; bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong doanh nghiệp hoặc giao dịch, mua bán vật tư, hàng hóa, ký kết hợp đồng cho doanh nghiệp.
- Quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 37 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012 cũng được áp dụng đối với các đối tượng sau đây:
+ Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân;
+ Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân.
B. QUY ĐỊNH CHUNG VỀ TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là gì?
Tuyên truyền pháp luật là việc công bố, giới thiệu rộng rãi nội dung của pháp luật để mọi
25
người biết; động viên, thuyết phục để mọi người tin tưởng và thực hiện đúng pháp luật1. Phổ biến pháp luật có hai nghĩa: Nghĩa hẹp là giới thiệu tinh thần văn bản pháp luật cho đối tượng của nó; nghĩa rộng là truyền bá pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trên cả nước2. Giáo dục pháp luật là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành3. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất: Là truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật, giúp cho đối tượng tác động hiểu, tin tưởng và hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành.
_______________
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Cẩm nang công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (Dành cho cán bộ quản lý, báo cáo viên, cán bộ phụ trách công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ngành giáo dục), Hà Nội, 2007, tr.2.
2. Dự án VIE/98/001 “Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam - giai đoạn II”: Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật (kỷ yếu dự án), Hà Nội, 2002, tr.7.
3. Bộ Tư pháp: Nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1998, tr.9.
26
Nghĩa thứ hai: Là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho việc thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (xây dựng chương trình, kế hoạch; triển khai chương trình, kế hoạch thông qua việc áp dụng các hình thức, biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch)1.
2. Mục đích của tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là gì?
Trước hết, thông qua tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm truyền tải, cung cấp những thông tin, những nội dung và các quy định của pháp luật đến với các cơ quan, tổ chức, cá nhân, giúp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu biết, nắm bắt kịp thời về các quy định của pháp luật mà không phải mất nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Đó là phương tiện hỗ trợ tích cực việc hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức hiểu biết pháp luật.
Thứ hai, qua tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân hình thành lòng tin vào pháp luật, có thái độ, tình cảm pháp luật đúng đắn; hình thành động cơ của hành _______________
1. Bộ Tư pháp: Nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã, Sđd, tr.9.
27
vi hợp pháp - hành vi tích cực pháp luật. Từ đó, mỗi người hình thành thói quen tuân theo những quy định của pháp luật (kiềm chế không thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm đoán); thói quen thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý và sử dụng các quyền và nghĩa vụ pháp lý trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của chủ thể khác và toàn xã hội; thói quen áp dụng pháp luật để vận dụng thành thạo các tri thức hiểu biết pháp luật trong thực tiễn cuộc sống.
Thứ ba, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để mỗi chủ thể nhận thức đầy đủ bổn phận và trách nhiệm của mình đối với Nhà nước và xã hội, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật; tích cực và chủ động tham gia vào đời sống chính trị - kinh tế - văn hóa, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
3. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò gì trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa?
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện (bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, đồng bộ, toàn diện, tính phù hợp và khả thi, tính hiệu quả, ngôn ngữ và kỹ thuật xây dựng pháp luật, chứa đựng các giá trị dân chủ, nhân đạo, công bằng, vì mọi người; các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội phải
28
được tôn trọng và bảo đảm thực hiện). Nhà nước tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa (các chủ thể có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất, bình đẳng). Trước những yêu cầu đó, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
Trước hết, đây là cách thức, biện pháp cơ bản, có hiệu lực, hiệu quả nhất để đưa chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực và kiểm nghiệm tính đúng đắn trong thực tiễn. Từ
thực tiễn triển khai, tổ chức thực hiện thể chế, chính sách, quy định pháp luật để từ đó, phát hiện những vấn đề còn vướng mắc, bất cập, những vấn đề mới phát sinh hoặc không còn phù hợp để kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp.
Tiếp đến, công tác này thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, thể hiện bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, là phương thức đề cao trách nhiệm của cơ
quan, người có thẩm quyền trong việc tổ chức thực thi thể chế, chính sách, đưa chính sách, pháp luật đến với Nhân dân; tạo điều kiện để Nhân dân tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát
29
việc thực hiện thể chế, chính sách, pháp luật trong thực tiễn.
Đặc biệt, đây cũng là phương thức để giúp người dân nâng cao ý thức pháp luật, bồi dưỡng năng lực làm chủ để tham gia vào đời sống pháp luật; tham gia xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giải quyết công việc chung của cộng đồng; phòng ngừa hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
4. Phổ biến, giáo dục pháp luật dựa trên những nguyên tắc nào?
Điều 5 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 quy định, việc phổ biến, giáo dục pháp luật phải dựa trên các nguyên tắc sau:
- Chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực. - Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm.
- Đa dạng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi, trình độ của đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật và truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc.
- Gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hằng ngày của người dân.
30
- Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội.
5. Pháp luật quy định như thế nào về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật?
Điều 10 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 quy định, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm:
- Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành.
- Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế.
- Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật.
6. Theo quy định của pháp luật, có những hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật nào?
Theo Điều 11 Luật phổ biến, giáo dục pháp 31
luật năm 2012, có những hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật như sau:
- Họp báo, thông cáo báo chí.
- Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật.
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư.
- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật.
- Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở.
- Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở.
- Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân.
- Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác phù hợp với từng đối tượng cụ thể mà các cơ
32
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đem lại hiệu quả.
7. Theo quy định của pháp luật, có những kỹ năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nào?
Tùy từng hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cụ thể mà áp dụng các kỹ năng cần thiết như sau:
- Nhóm các kỹ năng xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý nhà nước về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Nhóm các kỹ năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật của các tổ chức hành nghề luật sư, các tổ chức trợ giúp pháp lý, các trung tâm tư vấn pháp luật; qua hoạt động của các cá nhân đủ điều kiện hành nghề luật như luật sư, tư vấn viên pháp luật, trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên tư
vấn pháp luật và cộng tác viên trợ giúp pháp lý hoặc các tư vấn khác.
- Nhóm các kỹ năng tuyên truyền miệng về pháp luật (thông qua mở các lớp tập huấn pháp luật; nói chuyện chuyên đề về pháp luật; lồng ghép việc tuyên truyền pháp luật trong một buổi
33
họp hoặc trong một buổi sinh hoạt cộng đồng; tuyên truyền miệng cá biệt...).
- Nhóm kỹ năng liên quan đến thành lập, tổ chức và duy trì sinh hoạt câu lạc bộ.
- Nhóm kỹ năng trong quá trình đàm phán, hòa giải các tranh chấp, xung đột.
- Nhóm kỹ năng liên quan đến biên soạn tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng, khai thác và quản lý tủ sách pháp luật ở cơ sở; xây dựng quy ước, hương ước, v.v..
8. Những hành vi nào bị cấm trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật?
Theo Điều 9 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, những hành vi sau đây bị cấm:
- Truyền đạt sai lệch, phê phán nội dung pháp luật được phổ biến; không cung cấp thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu có nội dung sai sự thật, trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Lợi dụng phổ biến, giáo dục pháp luật để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền chính sách thù địch, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
34
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. - Cản trở việc thực hiện quyền được thông tin, tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Lợi dụng việc thực hiện quyền được thông tin, tìm hiểu, học tập pháp luật để gây cản trở đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gây mất trật tự, an toàn xã hội.
35
II. MỘT SỐ KỸ NĂNG TUYỀN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT DÀNH CHO CÁN BỘ CƠ SỞ
A. TRONG HOẠT ĐỘNG
TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
1. Trong hoạt động tuyên truyền miệng, cán bộ, công chức cấp xã cần có những kỹ năng gì?
Trong hoạt động tuyên truyền miệng, cán bộ, công chức cấp xã cần chú ý đến các kỹ năng cơ bản sau đây1:
- Gây thiện cảm ban đầu cho người nghe. - Tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng trong khi nói. - Bảo đảm các nguyên tắc sư phạm trong tuyên truyền miệng.
- Sử dụng phương pháp thuyết phục trong tuyên truyền miệng.
_______________
1. Bộ Tư pháp, Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật: Nghiệp vụ tổ chức một số hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr.13-26.
36
2. Kỹ năng gây thiện cảm ban đầu cho người nghe được hiểu như thế nào?
Để gây thiện cảm ban đầu cho người nghe là việc rất quan trọng. Thiện cảm ban đầu thể hiện ở nhân thân, tâm thế và biểu hiện của người nói khi bước lên bục tuyên truyền. Danh tiếng, phẩm chất đạo đức, học hàm, học vị, chức vụ của người nói là nguồn thiện cảm ban đầu cho người nghe; kích thích người nghe háo hức chờ đón buổi tuyên truyền. Thiện cảm ban đầu tạo ra sự hứng thú, say mê của người nghe, củng cố được niềm tin về vấn đề đang tuyên truyền. Thiện cảm ban đầu còn được tạo ra bởi khung cảnh của hội trường, khung cảnh của diễn đàn, dáng vẻ bề ngoài, trang phục, nét mặt, cử chỉ, phong thái, lời giao tiếp ban đầu cũng như cách đặt vấn đề cần nói của người tuyên truyền miệng.
Để thực hiện tốt kỹ năng này, người tuyên truyền miệng cần phải luôn vui vẻ, hồ hởi, bao quát hội trường, có lời chào mừng, chúc tụng, có câu mở đầu dí dỏm, hài hước, công bố thời gian, chương trình làm việc rõ ràng, thoải mái... Cần lưu ý rằng, thiện cảm ban đầu chủ yếu là ở cách đặt vấn đề đầu tiên của người nói. Trong những phút đầu tiên của bài giới thiệu, người nói phải nêu được khoảng từ 3, 4 vấn đề chủ yếu mà người nghe cần tìm hiểu nhất. (Ví dụ, khi tuyên truyền cho đối tượng là cán bộ, đảng viên về những nội dung cơ bản của Hiến pháp thì cần phải làm rõ
37
các vấn đề như: Hiến pháp là gì? Tại sao phải có Hiến pháp? Hiến pháp có vị trí, vai trò như thế nào trong hệ thống pháp luật và đời sống xã hội? Những nội dung chủ yếu của Hiến pháp là gì? Cán bộ, đảng viên có nghĩa vụ và trách nhiệm gì trong thi hành Hiến pháp...). Việc nêu các vấn đề
đó còn tùy thuộc ở khả năng thuyết trình của người nói. Người tuyên truyền có thể bắt đầu từ một câu chuyện, tình huống pháp luật cụ thể được các phương tiện thông tin đại chúng đề cập nhiều trong thời gian qua hoặc có thể bắt đầu từ một bộ phim khá phổ biến hoặc cũng có thể bằng các tình huống xảy ra gần địa bàn nơi tổ chức tuyên truyền, v.v..
3. Thế nào là kỹ năng tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng trong khi nói?
Nghệ thuật tuyên truyền là tạo nên sự hấp dẫn, gây ấn tượng bằng giọng nói, điệu bộ, ngôn ngữ. Giọng nói phải rõ ràng, mạch lạc, nhưng truyền cảm. Hết sức tránh lối nói đều đều. Giọng nói, âm lượng phải thay đổi theo nội dung và nhấn mạnh vào những điểm quan trọng, cần phải chú ý. Động tác, cử chỉ cần phải phù hợp với nội dung và giọng nói để nâng cao hiệu quả tuyên truyền miệng. Sắc thái có tác dụng truyền cảm rất lớn. Vẻ mặt của người nói cần thay đổi theo diễn biến của nội dung. Khi nói, cần chú ý nhìn vào một nhóm người ngồi dưới, thỉnh thoảng người nói cần
38
thay đổi vị trí nhìn để tạo sự chú ý của cử tọa. Người nói cần đưa ra số liệu, sự kiện để minh họa, đặt câu hỏi để tăng thêm sự chú ý của người nghe.
Người nói cũng cần phát huy vai trò thông tin, truyền cảm của ngôn ngữ bằng cách sử dụng chính xác, đúng mực thuật ngữ pháp lý, thuật ngữ chuyên ngành và ngôn ngữ phổ thông. Người nói có thể kết hợp, lồng ghép, sử dụng hợp lý, chính xác ý tứ, ngôn từ trong kinh điển, thơ văn, ca dao, dân ca... vào buổi tuyên truyền pháp luật hoặc kết hợp giữa luận giải vấn đề với kể các câu chuyện cụ thể phù hợp với chủ đề để tăng tính hấp dẫn, lôi cuốn, thuyết phục đối với người nghe.
4. Kỹ năng bảo đảm các nguyên tắc sư phạm trong tuyên truyền miệng được hiểu như thế nào?
Trong quá trình tuyên truyền miệng, người nói cần tôn trọng các nguyên tắc sư phạm. Từ bố cục bài nói, diễn đạt các đoạn văn, liên kết giữa các đoạn văn đến cách nói đều phải rõ ràng, mạch lạc, lôgíc. Người nghe cần được dẫn dắt từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ gần đến xa (phương pháp diễn dịch) hoặc từ xa đến gần (phương pháp quy nạp); và tùy từng vấn đề mà dùng lý luận soi sáng cho thực tiễn hoặc từ thực tiễn rồi đi sâu vào lý luận. Tuy nhiên dù phân tích, diễn giải rộng hay hẹp, mục đích cuối cùng là để người nghe hiểu rõ hơn, sâu sắc và toàn diện hơn về những vấn đề
39
cần tuyên truyền, bảo đảm bám sát chủ đề, phù hợp với nhu cầu, tính chất, đặc điểm của đối tượng tuyên truyền.
Trong công tác tuyên truyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở người cán bộ: "Tuyên truyền không cần phải nói tràng giang đại hải. Mà nói ngắn gọn, nói những vấn đề thiết thực, chắc chắn làm được, để cho mọi người hiểu rõ và quyết tâm làm bằng được. Cố nhiên không phải làm một ngày, một buổi mà phải làm từng bước, làm bước nào chắc chắn bước ấy"1. "Sau khi đã phổ biến, ta phải theo dõi, giúp đỡ quần chúng học tập và áp dụng cho tốt. Nếu chỉ phổ biến rồi bỏ mặc quần chúng, không quan tâm theo dõi họ thực hiện được hay là không, kết quả tốt hay là xấu, như vậy là thiếu tinh thần trách nhiệm"2.
5. Kỹ năng sử dụng phương pháp thuyết phục trong tuyên truyền miệng được hiểu như thế nào?
Tuyên truyền miệng về pháp luật chủ yếu dùng phương pháp thuyết phục với ba bộ phận cấu thành là chứng minh, giải thích và phân tích:
- Chứng minh là cách thuyết phục chủ yếu dựa vào các dẫn chứng xác thực, khách quan để làm sáng tỏ và xác nhận tính đúng đắn của vấn đề.
_______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.169; 97.
40
Các dẫn chứng đưa ra gồm: số liệu, sự kiện, hiện tượng, nhân chứng, danh ngôn, kinh điển... Để có sức thuyết phục, các dẫn chứng được đưa ra phải chính xác, tiêu biểu, toàn diện và sát hợp với vấn đề nêu ra, sát với nhu cầu cần tìm hiểu của đối tượng tham dự.
- Giải thích là việc dùng lý lẽ để giảng giải giúp người nghe hiểu rõ và hiểu đúng bản chất của vấn đề. Lập luận trong khi giải thích phải chặt chẽ, chính xác, mạch lạc, khúc triết, không ngụy biện.
- Phân tích là diễn giải, đánh giá vấn đề nhằm tìm được đặc điểm, bản chất; điểm mạnh, điểm yếu; điểm tốt, điểm xấu; sự phù hợp, không phù hợp... của vấn đề. Việc phân tích phải dựa trên cơ
sở khoa học, không được cường điệu mặt này hay hạ thấp mặt kia. Sau khi phân tích phải có kết luận, đánh giá, hướng người nghe vào định hướng tư duy đúng đắn, không làm cho người nghe hoài nghi, dao động, hoang mang.
6. Để tiến hành buổi tuyên truyền miệng về pháp luật đạt hiệu quả cao, người tuyên truyền cần tiến hành chuẩn bị những hoạt động gì?
Để có một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật đạt hiệu quả cao, người tuyên truyền cần thực hiện tốt công tác chuẩn bị, cụ thể là:
- Nắm vững đối tượng truyên truyền: Người nói cần nắm vững đối tượng tuyên truyền qua các
41
yếu tố về số lượng; thành phần (trí thức, công nhân, nông dân, học sinh, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi, phụ lão...); trình độ văn hoá; tình hình thực hiện pháp luật ở cơ sở; ý thức thực hiện pháp luật và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của đối tượng.
Người tuyên truyền có thể nắm vững đối tượng bằng phương pháp trực tiếp (tự điều tra, tìm hiểu, gặp gỡ, quan sát...) hoặc bằng phương pháp gián tiếp (qua tài liệu, sách báo, báo cáo tổng kết, trao đổi với người tổ chức buổi tuyên truyền...). Ngoài ra, cần có thông tin đầy đủ từ phía cơ quan tổ chức tuyên truyền về thành phần tham dự; chú ý những thay đổi có thể diễn ra về thành phần người nghe.
- Nắm vững vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh, đó là các vấn đề về kỹ thuật nghiệp vụ chuyên ngành, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các tài liệu lý luận, giáo khoa, các tài liệu của nước ngoài trong lĩnh vực đó.
Để nắm vững vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh, đòi hỏi người nói ngoài trình độ chuyên môn tốt cần phải có quá trình tích lũy, sưu tầm với một ý thức trách nhiệm và lòng say mê với nghề nghiệp.
- Nắm vững nội dung văn bản, cụ thể là: Hiểu rõ bản chất pháp lý của vấn đề được văn bản điều chỉnh, sự cần thiết phải ban hành văn bản; hiểu rõ đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của
42
văn bản; hiểu rõ ý nghĩa của các quy phạm, đặc biệt là ý nghĩa về mặt quản lý nhà nước, về tác dụng điều chỉnh của từng quy phạm cụ thể; nghiên cứu các văn bản hướng dẫn thi hành, tài liệu hướng dẫn tuyên truyền và hệ thống văn bản điều chỉnh lĩnh vực đó.
Muốn vậy, người nói cần nắm được những thông tin liên quan đến văn bản từ giai đoạn soạn thảo, lấy ý kiến đến khi ban hành (tờ trình về dự án luật, các báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia xây dựng luật...). Như vậy, người nói phải nắm được một cách toàn diện không những nội dung văn bản mà còn cả những vấn đề có liên quan đến việc ra đời và triển khai văn bản đó (cụ thể cần nắm vững tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của việc ban hành các văn bản đó thông qua các nghị quyết của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội hoặc trực tiếp hơn là qua tờ trình về việc ban hành văn bản, qua các bài báo, bình luận khoa học về văn bản; so sánh những điểm mới, sửa đổi, bổ sung và cơ
sở của việc ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung đó). Ngoài ra, trong quá trình tuyên truyền, người nói cũng cần giới thiệu có chọn lọc ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động thực tiễn liên quan đến văn bản đó.
- Sưu tầm tài liệu dẫn chứng, minh họa: Đây là nội dung rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến chất lượng, độ sâu và sức thuyết phục của buổi tuyên truyền. Tài liệu, dẫn chứng minh họa có
43
tính chính thức, độ tin cậy cao, có thể được sưu tầm trên Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam... hoặc các tạp chí chuyên ngành; các công trình khoa học đã được công bố; bài viết trên các báo, đặc san khoa học; số liệu, dẫn chứng trên các trang thông tin điện tử (trang web) cần được lựa chọn phù hợp. Khi sưu tầm tài liệu, người tuyên truyền cần chú ý đến tính chất, yêu cầu của tài liệu đó, tuyệt đối tránh sử dụng các tài liệu, dẫn chứng minh họa từ các văn bản thuộc diện bảo mật của Đảng và Nhà nước; số liệu, dẫn chứng đã cũ không còn phù hợp với hiện tại.
- Chuẩn bị đề cương: Đề cương tuyên truyền miệng (bao gồm đề cương sơ bộ và đề cương chi tiết) cần đầy đủ về nội dung, thích hợp với đối tượng, chặt chẽ về bố cục, sắc sảo về lập luận. Khi chuẩn bị đề cương cần chú ý những yêu cầu sau:
+ Đề cương không phải là một bài viết hoàn chỉnh, cụ thể, mà là tài liệu nêu lên các trọng tâm cần tập trung tuyên truyền, phổ biến. Trên cơ sở đó, người nói phân tích cụ thể, mở rộng những vấn đề nêu trong đề cương. Đề cương tuyên truyền có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo việc tổ chức triển khai tuyên truyền văn bản pháp luật cho phù hợp với từng loại đối tượng, trên từng địa bàn.
+ Cần lựa chọn vấn đề cốt lõi của văn bản, có liên hệ với hệ thống pháp luật để làm rõ mối quan hệ của văn bản với hệ thống pháp luật, giải quyết
44
thỏa đáng vấn đề xung đột giữa các quy định của pháp luật (nếu có).
+ Để thu hút người nghe và tạo điều kiện cho người nghe hiểu văn bản có tính hệ thống, toàn bộ các phần trong đề cương phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau như một câu chuyện (ví dụ: nêu yêu cầu, nhiệm vụ của văn bản; cơ chế quản lý như thế nào; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể ra sao; chế tài áp dụng đối với người vi phạm thế nào...) để sao cho đạt được yêu cầu, nhiệm vụ cần tuyên truyền.
7. Các hoạt động nào được thực hiện trong một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật?
Một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật thường có các hoạt động chủ yếu sau đây: - Vào đề: Là phần giới thiệu vấn đề, định hướng tư duy, khơi gợi nhu cầu của đối tượng, thiết lập quan hệ giữa người nói với người nghe. Với tuyên truyền miệng về pháp luật, cách vào đề có hiệu quả thường là gợi ra nhu cầu tìm hiểu ý nghĩa, sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật. Trước khi bắt đầu phần này, người nói cần có những lời chào mừng, chúc tụng đối với người nghe để gây thiện cảm và không khí gần gũi. Trong phần vào đề, người nói phải nêu được khoảng từ 3, 4 vấn đề chủ yếu mà người nghe cần tìm hiểu nhất để tạo sự chú ý, sức hấp dẫn cho người nghe. Việc nêu các vấn đề đó còn tùy thuộc ở
45
khả năng diễn thuyết của người tuyên truyền. Người nói có thể bắt đầu từ một câu chuyện pháp luật được các phương tiện thông tin đại chúng nói đến nhiều thời gian qua; có thể bằng các tình huống xảy ra gần địa bàn nơi tổ chức tuyên truyền hoặc một câu chuyện có liên quan mà tình cờ
người nói biết được qua trao đổi trước buổi tuyên truyền với một số người nghe...
Trong một số trường hợp, người tuyên truyền cũng có thể nêu vấn đề và hỏi xem tại địa bàn hoặc trong từng hoàn cảnh cụ thể người nghe đã gặp những tình huống, sự kiện nào có liên quan đến chủ đề định tuyên truyền, để có điều kiện phân tích, diễn giải, đối chiếu làm rõ ở phần sau.
- Nội dung cần tuyên truyền: Là phần chủ yếu của buổi tuyên truyền, làm cho đối tượng hiểu, nắm được nội dung, chuyển biến nhận thức, nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng. Đặc biệt là phải nêu được những điểm mới, thời sự, gắn liền với các quyền và lợi ích hợp pháp của người nghe để người nghe chú ý; khi tuyên truyền không được sao chép, đọc nguyên văn văn bản để tránh sự nhàm chán. Khi giảng cần phân tích, giải thích và nêu ý nghĩa của văn bản pháp luật đó. Viết, đọc một đoạn nào đó trong văn bản chỉ có tính chất dẫn chứng, minh họa những gì mà người nói đã phân tích, dẫn chứng ở trước.
Trong tuyên truyền văn bản phải chú ý tới hai điều, đó là: Lựa chọn cách trình bày phù hợp với
46
đối tượng và nêu được vấn đề cơ bản, cốt lõi, trọng tâm để người nghe thâu tóm được tinh thần văn bản. Sử dụng hợp lý kênh ngôn ngữ (nói) và kênh phi ngôn ngữ (cử chỉ, động tác).
Đối tượng tuyên truyền miệng rất phong phú, nhưng có thể chia thành bốn loại: cán bộ quản lý; cán bộ nghiên cứu, xây dựng văn bản; cán bộ tuyên truyền; những người phải chấp hành pháp luật (cán bộ, Nhân dân). Trên cơ sở sự phân loại đó, người nói có thể xác định được mục đích, yêu cầu, nội dung trọng tâm, phương pháp trình bày cho phù hợp với từng đối tượng, cụ thể là:
+ Với cán bộ quản lý: Người nói cần xác định người nghe là cán bộ quản lý ở cấp nào để có thể có phương pháp trình bày thiên về khái quát hoặc diễn giải; thiên về lý luận hoặc thực tiễn. (Ví dụ: Đối với người nghe là cán bộ quản lý cấp tỉnh thì người nói có thể trình bày vấn đề thiên về khái quát có kết hợp phân tích, diễn giải; nhưng nếu người nghe là cán bộ cấp xã thì người nói cần phải sử dụng phương pháp suy diễn, phân tích cụ thể
về thực tiễn rồi sau đó khái quát thành những đánh giá, lý luận). Người nói cần làm rõ những quy định về quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, cán bộ nhà nước; nội dung quản lý nhà nước; các hình thức vi phạm và mức độ xử lý; thẩm quyền xử lý; tổ chức thi hành văn bản, v.v..
47
+ Với cán bộ nghiên cứu, xây dựng văn bản: Phương pháp khái quát thường đạt hiệu quả tuyên truyền cao vì đối tượng này có trình độ, thường quan tâm đến những quan điểm, những vấn đề lý luận chứa đựng trong văn bản. Ngoài ra người nói cần làm rõ: Văn bản đã đáp ứng được những nhu cầu, đòi hỏi thực tiễn nào, những gì còn hạn chế, chưa đáp ứng được; những gì đã thống nhất, những gì tồn tại; các ý kiến khác nhau về những nội dung của văn bản trước khi được ban hành; các văn bản được ban hành tiếp theo và văn bản để cụ thể hóa văn bản này; vị trí của văn bản này trong hệ thống các văn bản thuộc lĩnh vực văn bản điều chỉnh...
+ Với cán bộ tuyên truyền (bao gồm: báo cáo viên, tuyên truyền viên, phóng viên, biên tập viên các báo, đài...): Có thể dùng phương pháp khái quát hoặc diễn giải tùy thuộc vào hình thức văn bản, nhưng cần tập trung nhấn mạnh những nội dung để phục vụ cho công tác tuyên truyền của cán bộ tuyên truyền như: bản chất, ý nghĩa pháp lý của vấn đề; sự cần thiết, mục đích của việc ban hành văn bản; những số liệu, tài liệu cần viện dẫn, đối chiếu, so sánh; các vấn đề chủ yếu cần tập trung tuyên truyền, phổ biến.
+ Với những người phải chấp hành pháp luật: Sử dụng phương pháp diễn giải là phù hợp. Cần nêu bản chất, ý nghĩa của vấn đề; mục đích, sự cần thiết phải ban hành văn bản; ý nghĩa của các
48
quy phạm liên quan đến từng đối tượng thi hành trong văn bản. Người tuyên truyền cần tập trung phân tích quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ xã hội được văn bản điều chỉnh, cơ chế thực hiện quyền khiếu nại, khởi kiện; thời hiệu khiếu nại, khởi kiện...
- Phần kết luận: Trong phần này, người nói sau khi đã phân tích, diễn giải cần phải tóm tắt lại những nội dung chính của buổi tuyên truyền miệng và những vấn đề cần lưu ý, những việc phải làm sau buổi tuyên truyền. Tuy nhiên, với mỗi một đối tượng khác nhau sẽ có cách thức tóm tắt khác nhau, căn cứ vào nhu cầu, lĩnh vực công tác của đối tượng.
- Trả lời câu hỏi của người nghe: Người nói cần dành thời gian cần thiết để thảo luận, tạo cơ hội cho người nghe hỏi và trả lời các câu hỏi mà người nghe quan tâm, chưa hiểu rõ hoặc cần tìm hiểu thêm. Đây là phần người nói có thể đánh giá được mức độ hiểu bài của người nghe; là dịp để người nói trao đổi những kinh nghiệm, hiểu biết của mình cho người nghe. Trước khi kết thúc bài thuyết trình, người nói nên cung cấp cho người nghe số điện thoại hoặc địa chỉ cần liên lạc nếu còn vấn đề chưa rõ hoặc muốn tìm hiểu thêm sau buổi tuyên truyền.
Tóm lại, hiệu quả của tuyên truyền miệng về pháp luật phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan. Để đạt hiệu quả tuyên
49
truyền cao, người tuyên truyền cần phải dày công tích lũy kiến thức và kinh nghiệm sống, chuẩn bị kỹ đề cương cho sát với tính chất, đặc điểm của đối tượng, địa bàn; phải có nghệ thuật vượt qua hàng rào ngăn cách ban đầu về mặt tâm lý, gây thiện cảm, gây sự chú ý của người nghe từ khi bắt đầu buổi nói chuyện; phải biết tạo ra nhu cầu, kích thích, hấp dẫn, gây ấn tượng cho người nghe trong suốt buổi nói chuyện; biết kết luận đúng cách để khi kết thúc còn đọng lại những điều cần thiết cho người nghe tiếp tục suy nghĩ; phải biết tránh những lỗi thường mắc phải trong quá trình tuyên truyền và biết giải tỏa những bức xúc từ
phía người nghe.
8. Những lỗi nào thường gặp trong hoạt động tuyên truyền miệng về pháp luật và cách thức xử lý?
Trong thực tiễn tuyên truyền miệng pháp luật, vì nhiều lý do, có thể xảy ra những “trục trặc” ngoài ý muốn khi đang thực hiện buổi tuyên truyền miệng pháp luật. Những “trục trặc” thường gặp trong thực tế là:
- Nói lắp, nói nhịu: Đôi khi trong khi đang nói, vì căng thẳng hay mệt mỏi người nói có thể nói lắp, nói nhịu. Đây là hiện tượng vô thức xảy ra ngoài ý muốn. Khi xảy ra hiện tượng này, thường sẽ gây nên tiếng cười, ồn ào trong người nghe. Để
khắc phục hiện tượng này, người nói cần phải
50
bình tĩnh, không được mất tinh thần; lấy lại sự tập trung vào bài tuyên truyền. Người nói có thể kể một câu chuyện vui hoặc có câu nói hài hước để tạo nên không khí thoải mái, vui vẻ, sau đó khéo
léo dẫn dắt vào bài tuyên truyền.
- Lạc đề: Hiện tượng này xảy ra do người nói phân tích, diễn giải vấn đề quá rộng, dẫn đến những nội dung nói không có liên quan hoặc ít liên quan đến bài tuyên truyền. Trong trường hợp này, người nói không được mất bình tĩnh; sử dụng phương pháp quy nạp, từ những vấn đề đã phân tích, diễn giải rộng ở trên, khéo léo dẫn dắt người nghe đến những nội dung chính của bài tuyên truyền. Để kiểm soát được bài tuyên truyền của mình đúng trọng tâm, không lạc đề, đòi hỏi người nói phải chuẩn bị kỹ nội dung bài tuyên truyền, trong khi nói cần tập trung, luôn quan tâm theo dõi đến thái độ (phản ứng) của người nghe để điều chỉnh bài tuyên truyền hợp lý.
- Thừa giờ hoặc thiếu giờ: Tình huống này thường xảy ra đối với những tuyên truyền viên còn thiếu kinh nghiệm trong nghề. Đây là trường hợp thời gian dự kiến ban đầu của buổi tuyên truyền miệng vẫn còn nhưng tuyên truyền viên đã truyền đạt hết các nội dung văn bản pháp luật; hoặc đã hết giờ mà chưa truyền đạt hết nội dung. Nếu gặp phải trường hợp này, tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể mà cần phải nhanh nhạy chuyển sang hình thức khác có liên quan đến bài tuyên truyền.
51
Ví dụ như thời gian vẫn còn thì người tuyên truyền có thể tổ chức thảo luận về những nội dung của văn bản quy phạm pháp luật: tuyên truyền viên sẽ trực tiếp giải đáp những thắc mắc của người nghe; hoặc chuẩn bị sẵn những câu hỏi liên quan đến nội dung bài tuyên truyền để hỏi người nghe; hoặc tổ chức giao lưu, học hỏi kinh nghiệm về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật giữa người nói và người nghe, nhất là khi người nghe là những cán bộ tuyên truyền pháp luật, v.v..
Ngoài ra, cần xử lý các tình huống khác trong hội trường như: học viên ngủ gật, nghe điện thoại di động, mất điện, học viên nói chuyện riêng, v.v..
B. TRONG HOẠT ĐỘNG
CÂU LẠC BỘ PHÁP LUẬT
1. Câu lạc bộ là gì? Có những loại hình câu lạc bộ nào ở cơ sở?
Câu lạc bộ là một hình thức sinh hoạt cộng đồng, mang tính tự nguyện, tự quản nhằm thu hút, tập hợp mọi người tham gia thực hiện các hoạt động nhằm thỏa mãn các nhu cầu phát triển (vui chơi, giải trí, học tập, phát triển năng khiếu, tham gia các hoạt động xã hội...).
Ở cơ sở có nhiều loại hình câu lạc bộ, như: Câu lạc bộ nông dân với pháp luật, Câu lạc bộ phụ nữ
52
với pháp luật, Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, Câu lạc bộ thanh niên với pháp luật, Câu lạc bộ bóng bàn, Câu lạc bộ cầu lông, Câu lạc bộ dân số - kế hoạch hóa gia đình và nhiều loại hình câu lạc bộ khác gắn với nhu cầu của cộng đồng dân cư.
2. Chức năng của câu lạc bộ là gì?
Câu lạc bộ có các chức năng chủ yếu sau đây: - Chức năng vui chơi, giải trí: Là nơi thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giải trí, sáng tạo.
- Chức năng giao tiếp: Là môi trường để giao lưu, gặp gỡ thông qua các hình thức sinh hoạt khác nhau.
- Chức năng giáo dục: Là nơi giáo dục về các mặt đạo đức, văn hóa, lối sống, thẩm mỹ, cung cấp những tri thức hiểu biết nhất định.
- Chức năng phát triển kỹ năng: Là môi trường, điều kiện để người tham gia phát triển những năng khiếu, khả năng, cũng như hình thành các kỹ năng mới thông qua các hoạt động.
- Chức năng tạo môi trường cho thành viên tham gia vào các hoạt động xã hội: Là môi trường tạo điều kiện phát triển khả năng tham gia, cũng như thúc đẩy, tăng cường vai trò của thành viên đối với cộng đồng.
3. Nhiệm vụ của câu lạc bộ là gì?
Câu lạc bộ có các nhiệm vụ chính sau đây: 53
- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, cổ động. - Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, vui chơi, giải trí, thể dục thể thao, tham quan, dã ngoại, cắm trại...
- Tổ chức các cuộc thảo luận chuyên đề, diễn đàn, đối thoại...
- Tổ chức các hoạt động gặp gỡ, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm giữa các nhóm thành viên. - Tổ chức các hoạt động phát triển các kỹ năng cho thành viên.
- Tổ chức các hoạt động xã hội mang tính từ thiện, nhân đạo.
4. Câu lạc bộ pháp luật là gì?
Xét về bản chất, Câu lạc bộ pháp luật là một hình thức sinh hoạt cộng đồng dựa trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các thành viên, hội viên nhằm thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích, sở thích chính đáng của người dân tại cơ sở, gắn với thực thi pháp luật, với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của một nhóm đối tượng cụ thể theo định hướng, hướng dẫn hoạt động của cơ quan, tổ chức cấp trên.
5. Câu lạc bộ pháp luật có những đặc điểm gì?
Dựa trên mục đích thành lập, tổ chức và hoạt động, Câu lạc bộ pháp luật có các đặc điểm sau đây:
54
- Là tổ chức được thành lập và hoạt động dựa trên nguyên tắc tự giác, tự nguyện của các cá nhân thành viên với mục đích chủ yếu để có cơ hội được giao lưu, học hỏi, tìm hiểu pháp luật và nâng cao nhận thức pháp luật.
- Câu lạc bộ pháp luật có cơ cấu tổ chức bao gồm Ban Chủ nhiệm (nhóm nòng cốt) và các hội viên; hoạt động tuân thủ điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Hoạt động của câu lạc bộ được tổ chức định kỳ, thường xuyên dựa trên kế hoạch hoạt động hằng tháng, hằng quý, 6 tháng, năm do Ban Chủ nhiệm đề ra và được toàn thể thành viên nhất trí thông qua.
- Câu lạc bộ hoạt động thông qua các buổi sinh hoạt tập thể theo hình thức sinh hoạt phong phú, linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ và đối tượng.
- Số lượng thành viên câu lạc bộ không bị giới hạn, luôn được phát triển mở rộng nhằm thu hút đông đảo cán bộ, Nhân dân tham gia.
6. Vai trò của Câu lạc bộ pháp luật như thế nào?
Câu lạc bộ pháp luật có vai trò chủ yếu sau đây: - Là một hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả, phù hợp với mọi đối tượng và địa bàn dân cư khác nhau; có sức lan tỏa tích cực trong Nhân dân.
55
- Là nơi quy tụ, tập hợp đông đảo thành viên tham gia sinh hoạt nhằm giao lưu, học hỏi, tạo diễn đàn, sân chơi bổ ích và lành mạnh để cùng trao đổi, nắm bắt kiến thức pháp luật và vận dụng pháp luật. Vì thế, Câu lạc bộ pháp luật là hình thức đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào trong Nhân dân nhanh nhất, đến với nhiều người nhất.
Qua sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật, giúp người dân nâng cao hiểu biết pháp luật, hình thành ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật, đưa pháp luật dần trở thành thói quen trong ứng xử hằng ngày của Nhân dân, tạo cơ hội để mỗi thành viên trở thành tuyên truyền viên tích cực trong việc đưa pháp luật đến với Nhân dân, nhất là các thành viên trong gia đình.
- Thông qua hoạt động của câu lạc bộ góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, giúp các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể xã hội hoàn thành các nhiệm vụ chính trị được giao.
7. Kỹ năng chuẩn bị thành lập Câu lạc bộ pháp luật có nội dung gì?
Để việc thành lập Câu lạc bộ pháp luật đạt hiệu quả cao cần thực hiện tốt công tác chuẩn bị, cụ thể là:
56
Nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan đến loại hình câu lạc bộ dự kiến thành lập; khảo sát, nắm bắt nhu cầu tham gia sinh hoạt từ phía cộng đồng; khả năng thu hút, tập hợp những người có uy tín, có năng lực tham gia sinh hoạt phù hợp với tôn chỉ, mục đích hoạt động của câu lạc bộ dự kiến thành lập.
- Khảo sát, lựa chọn địa điểm nơi thành lập câu lạc bộ.
- Xây dựng kế hoạch thành lập câu lạc bộ (sự cần thiết phải thành lập; mục đích, ý nghĩa, địa điểm thành lập; đối tượng tham gia, cơ cấu tổ chức, địa điểm tổ chức sinh hoạt, nội dung, hình thức sinh hoạt; kinh phí bảo đảm sinh hoạt và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức cá nhân trong phối hợp chỉ đạo thành lập và duy trì sinh hoạt).
- Vận động tham gia thành lập, xây dựng dự thảo điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động của câu lạc bộ; trình cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập và phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động câu lạc bộ. Đây là những điểm rất quan trọng để bảo đảm tính hợp pháp trong hoạt động của câu lạc bộ.
- Tổ chức lễ ra mắt câu lạc bộ.
Căn cứ vào quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan, tổ chức cấp trên, công chức chuyên môn cấp xã tham mưu, chuẩn bị dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của câu lạc bộ; dự
thảo quyết định của Ủy ban nhân dân xã phê 57
duyệt điều lệ và dự thảo quyết định thành lập câu lạc bộ; lập danh sách những người dự kiến bầu vào Ban Chủ nhiệm câu lạc bộ. Các biểu mẫu này sẽ do các cơ quan cấp trên cung cấp hoặc vận dụng theo hướng dẫn của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Công chức chuyên môn cấp xã căn cứ vào các biểu mẫu này cũng như điều lệ mẫu để xây dựng điều lệ hoạt động của câu lạc bộ tại địa phương mình cho phù hợp với thực tế địa phương.
Riêng danh sách người dự kiến bầu vào Ban Chủ nhiệm cần có sự lựa chọn cẩn thận; ưu tiên lựa chọn những người có nhiều kinh nghiệm, có khả năng tổ chức các hoạt động cộng đồng, có thể
thu hút, tập hợp, vận động Nhân dân tham gia. Thông thường, nên chọn công chức chuyên môn gắn liền với chức năng và hoạt động thường xuyên của câu lạc bộ làm Phó Chủ nhiệm để duy trì hoạt động thường xuyên của câu lạc bộ; duy trì mối quan hệ với cơ quan, tổ chức chuyên môn cấp trên, cũng như thường xuyên gắn với những vấn đề vướng mắc pháp luật của người dân ngay tại cộng đồng. Một thành viên Ban Chủ nhiệm có thể là đại diện các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh. Một thành viên khác là người có kiến thức pháp luật và có uy tín trong cộng đồng dân cư, am hiểu các phong tục, tập quán của đồng bào. Tùy trường hợp, điều kiện cần thiết mà bố trí sự tham gia của
58
đại diện chính quyền xã (cần lưu ý rằng, sự tham gia của lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã nhiều khi làm cho người tham gia sinh hoạt không dám phát biểu, nêu ý kiến về những vướng mắc, nhất là khi có liên quan đến quá trình giải quyết các công việc của người dân gắn với chính quyền). Để bảo đảm tinh gọn, hoạt động có chất lượng, hiệu quả, không nên lựa chọn quá nhiều người tham gia Ban Chủ nhiệm và cần có sự phân công công việc cụ thể cho từng thành viên Ban Chủ nhiệm. Việc tham gia Ban Chủ nhiệm là hoàn toàn tự nguyện, tự giác, trên cơ sở khuyến khích tính tích cực, tham gia vào các hoạt động cộng đồng, tránh tư tưởng tham gia Ban Chủ nhiệm để có được vị trí và được hưởng lợi từ sinh hoạt câu lạc bộ. Ngoài ra, cũng cần lựa chọn một số thành viên nòng cốt để duy trì các hoạt động văn hóa, văn nghệ, chia sẻ kinh nghiệm với tư cách là các hoạt động ngoại khóa trong quá trình tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ để nội dung sinh hoạt thêm phong phú, đa dạng.
8. Kỹ năng xây dựng kế hoạch sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật gồm những nội dung gì?
Ban Chủ nhiệm dự thảo kế hoạch sinh hoạt câu lạc bộ hằng tháng và hằng năm gửi công chức chuyên môn cấp xã góp ý (nếu cần thiết hoặc liên quan đến công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật trên địa bàn cấp xã). Trường hợp Ban Chủ
nhiệm có thành viên là công chức chuyên môn cấp 59
xã thì lấy người này là hạt nhân định hướng nội dung sinh hoạt câu lạc bộ. Ban Chủ nhiệm hoàn thiện dự thảo kế hoạch và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phê duyệt. Kế hoạch năm có các nội dung như: mục đích, yêu cầu; nội dung của kế hoạch (bao gồm: dự kiến tổng số buổi sinh hoạt, thời gian, địa điểm tổ chức sinh hoạt; phân công trách nhiệm cho thành viên Ban Chủ nhiệm chịu trách nhiệm chủ trì tổ chức sinh hoạt và chuẩn bị
nội dung); đồng thời, cần dự liệu các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện; giao trách nhiệm cụ thể cho các thành viên Ban Chủ nhiệm; đề xuất phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (Ủy ban nhân dân xã, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan) để bảo đảm cho kế hoạch năm được tổ chức thực hiện đầy đủ.
Kế hoạch sinh hoạt câu lạc bộ hằng tháng cần được xây dựng căn cứ vào kế hoạch sinh hoạt hằng năm đã được phê duyệt hoặc được câu lạc bộ thông qua. Thành viên Ban Chủ nhiệm được phân công chủ trì buổi sinh hoạt trong tháng nào phải lập kế hoạch sinh hoạt chi tiết trong tháng đó, rồi trình Ban Chủ nhiệm thông qua và tổ chức thực hiện. Kế hoạch sinh hoạt câu lạc bộ hằng tháng phải làm rõ: chủ đề, nội dung sinh hoạt; thời gian, địa điểm sinh hoạt; thành phần tham gia sinh hoạt (người dân tham dự sinh hoạt, dự kiến thành phần khách mời là đại diện chính quyền, tổ chức đoàn thể xã hội; đại diện cơ quan, tổ chức có liên
60
quan tham gia, nếu có); và tổ chức thực hiện (phân công cụ thể trách nhiệm chuẩn bị nội dung; ghi biên bản, lập danh sách người tham dự; liên hệ mời khách; liên hệ tập hợp Nhân dân; chuẩn bị
nước uống; tài liệu sinh hoạt...). Đặc biệt, cần lưu ý dự kiến tổng số kinh phí cần có để bảo đảm tổ chức sinh hoạt và nguồn kinh phí bảo đảm.
Để tránh hành chính hóa, cần xác định rõ, việc xây dựng kế hoạch là để bảo đảm tính chủ động cho hoạt động của câu lạc bộ hằng năm và hằng tháng, bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng giữa chuẩn bị nội dung và các điều kiện để tổ chức buổi sinh hoạt. Kế hoạch cần được điều chỉnh linh hoạt, bám sát nhu cầu của người dân, của thành viên, hội viên cũng như các vấn đề vướng mắc pháp luật nổi cộm đã và đang phát sinh tại các địa bàn dân cư, để việc sinh hoạt câu lạc bộ có tính thiết thực, gắn liền với đời sống pháp luật tại cộng đồng và thu hút được sự tham gia đông đảo của Nhân dân.
9. Kỹ năng lựa chọn chủ đề và nội dung sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật có nội dung gì?
Lựa chọn chủ đề và nội dung sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật là khâu quan trọng nhất, quyết định lý do tồn tại cũng như khả năng thu hút thành viên, hội viên và Nhân dân tham gia sinh hoạt. Từ
chủ đề đã được xác định, thành viên Ban Chủ nhiệm huy động tất cả các hình thức sinh hoạt
61
trong câu lạc bộ để buổi sinh hoạt thêm phong phú, hấp dẫn. Việc lựa chọn chủ đề sinh hoạt, nội dung đưa ra thảo luận phải phù hợp với khả năng, năng lực, sở trường của thành viên Ban Chủ
nhiệm được phân công chủ trì buổi thảo luận. Để bảo đảm chất lượng, thường thì mỗi đợt sinh hoạt chỉ nên lựa chọn từ 1 đến 2 chủ đề pháp luật liên quan đến các vấn đề xã hội đã và đang nảy sinh trong cộng đồng cần có giải pháp tháo gỡ, giải quyết hoặc có liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân (ví dụ như: về đền bù, giải phóng mặt bằng; chính sách đối với người tham gia kháng chiến, chính sách đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số; đăng ký kết hôn, khai sinh, khai tử; thừa kế, bồi thường thiệt hại; hợp đồng; vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình, phòng, chống mua bán người, phòng, chống các tệ nạn xã hội; các chủ đề liên quan đến xây dựng gia đình, xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, phòng chống dịch bệnh, ô nhiễm môi trường...) hoặc vấn đề pháp luật đang có nhiều nổi cộm tại địa phương trong thời gian qua (tranh chấp đất đai, vay mượn tài sản, vay vốn ngân hàng...).
Mỗi chủ đề sinh hoạt nên lựa chọn từ 1 - 2 tình huống pháp luật đã từng nảy sinh tại cộng đồng dân cư hoặc một địa phương khác nhưng lại đang được Nhân dân quan tâm tìm hiểu. Do tính chất sinh hoạt của Câu lạc bộ pháp luật và đặc thù đối
62
tượng tham gia nên cần lưu ý không lựa chọn các tình huống, vấn đề quá phức tạp; có nhiều cách hiểu, đánh giá khác nhau hoặc liên quan đến nhiều lĩnh vực; không liên quan đến lợi ích thiết thân, hằng ngày của Nhân dân. Tình huống cần gắn gọn, súc tích, rõ các tình tiết, sự kiện, dễ hiểu, dễ nhớ. Ngôn ngữ diễn đạt không nên quá mang tính chuyên môn, nên dùng các từ ngữ gần với đời sống hằng ngày của Nhân dân; nêu rõ vấn đề gợi ý thảo luận, câu hỏi đặt ra.
Để khuyến khích các thành viên tham dự sinh hoạt nêu ý kiến, thành viên Ban Chủ nhiệm chủ trì buổi thảo luận nên lựa chọn một đến hai người làm nòng cốt trong số người tham dự sinh hoạt qua hình thức diễn giảng, nói chuyện chuyên đề, gợi ý cho họ về câu trả lời liên quan đến từng tình huống. Sau đó đặt câu hỏi đề nghị Nhân dân thảo luận, nêu nhận xét về tính đúng, sai của câu trả lời. Qua đó, thành viên Ban Chủ nhiệm nêu ra ý kiến của riêng mình; chỉ rõ các quy định của pháp luật được áp dụng cho từng tình huống pháp lý để Nhân dân thay đổi cách nghĩ sai, hiểu đúng và tự giác thực hiện trong cuộc sống hằng ngày.
Thành viên Ban Chủ nhiệm được phân công chủ trì buổi thảo luận cần lưu ý, đối với mỗi chủ đề pháp luật được đưa ra sinh hoạt, cần lựa chọn một số quy định pháp luật (điều luật trong văn bản pháp luật cụ thể) để giới thiệu cho Nhân dân
63
hiểu. Cách tốt nhất là lựa chọn khoảng 10 điều luật quy định trực tiếp về một chủ đề pháp luật gắn thiết thân với người dân. Ngoài ra, cần chuẩn bị một số nội dung để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho Nhân dân hoặc các vấn đề cấp ủy, chính quyền địa phương cần quán triệt, phổ biến đến toàn thể Nhân dân.
Để sinh hoạt được phong phú hơn, cũng có thể lựa chọn một vài tiết mục văn hóa, văn nghệ (thơ, bài hát, tấu, hò vè...) xen kẽ trong quá trình sinh hoạt, tránh nhàm chán; nếu có sự tham gia sinh hoạt của đại diện chính quyền cơ sở, đại diện các tổ chức đoàn thể xã hội thì có thể lồng ghép, giới thiệu thêm về một số chủ trương, chính sách của cấp ủy, chính quyền địa phương, đoàn thể xã hội đối với Nhân dân để mọi người được biết, bố trí thời gian tham gia. Ban Chủ nhiệm cũng có thể
liên hệ với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước đề nghị cấp một số tài liệu, tờ gấp pháp luật để phát cho Nhân dân khi tham dự.
Trường hợp có sự tham gia của các nhà chuyên môn, đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan, thành viên Ban Chủ nhiệm cần bố trí sẵn bàn làm việc; chuẩn bị sẵn giấy bút để bảo đảm thuận tiện trong việc triển khai các hoạt động; thông báo rộng rãi để Nhân dân biết, nếu có nhu cầu tìm hiểu hoặc cần được tư vấn kỹ hơn thì có thể chuẩn bị trước những câu hỏi để nhà chuyên môn trả lời.
64
10. Kỹ năng lựa chọn địa điểm tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật có nội dung gì?
Địa điểm sinh hoạt nên lựa chọn là nơi có thể tổ chức được các hoạt động sinh hoạt cộng đồng, gần với địa bàn dân cư để tạo thuận lợi cho người dân dễ dàng tiếp cận; tham gia sinh hoạt. Có thể lựa chọn các địa điểm như nhà văn hóa thôn, xóm, bản, ấp; nhà trưởng bản; trường học; Trung tâm học tập cộng đồng hoặc bất kỳ địa điểm nào có thể sinh hoạt.
Địa điểm tổ chức sinh hoạt nên có không gian thoáng mát, tạo được không khí ấm cúng, tập trung để mọi người đều có thể cùng nhau thảo luận, trao đổi, phát biểu, nêu ý kiến và người khác có thể lắng nghe và phát biểu ý kiến. Để
thuận lợi cho người dân đến dự sinh hoạt, cần bố trí đầy đủ chỗ ngồi (bàn, ghế hoặc trải chiếu); bố trí chỗ ngồi hợp lý cho thành viên Ban Chủ nhiệm hoặc người thực hiện trợ giúp pháp lý, nhà
chuyên môn tham gia sinh hoạt và đại diện chính quyền cơ sở, các tổ chức đoàn thể xã hội cùng tham dự sinh hoạt (nếu có).
Địa điểm tổ chức sinh hoạt cần phù hợp với tính chất, đặc điểm của người dân; không nên lựa chọn các địa điểm mà người dân ngại đến hoặc không khí quá trang nghiêm, hành chính làm ảnh hưởng đến việc nêu ý kiến thảo luận, trao đổi của người tham dự.
65
11. Kỹ năng lựa chọn thời gian tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật được thể hiện như thế nào?
Cần lựa chọn thời gian tổ chức sinh hoạt một cách hợp lý để người dân có thể bố trí thời gian tham gia sinh hoạt. Thông thường, nên lựa chọn sinh hoạt vào thời điểm người dân có thời gian rảnh rỗi, có thể tham gia sinh hoạt, không làm ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh, lao động của Nhân dân. Tốt nhất là tổ chức sinh hoạt vào các buổi tối (nhưng không nên quá khuya) hoặc lồng ghép tổ chức trong các lễ hội sinh hoạt văn hóa truyền thống, các buổi gặp mặt, liên hoan văn hóa, văn nghệ với sự tham gia của nhiều người; lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của các tổ chức đoàn thể xã hội. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý tránh thời điểm mùa vụ vì sau khi làm việc về bà con thường rất mệt mỏi, muốn được nghỉ ngơi để tiếp tục công việc cho hôm sau. Thành viên Ban Chủ nhiệm được phân công chủ trì buổi thảo luận nên phối hợp chặt chẽ với trưởng bản của địa bàn dự kiến tổ chức sinh hoạt để nắm bắt chi tiết và cụ thể về vấn đề trên.
Để bảo đảm tính tập trung, tùy thuộc vào chủ đề, nội dung và vấn đề quan tâm, vướng mắc pháp luật của người tham gia sinh hoạt, thời gian mỗi buổi sinh hoạt có thể dài hay ngắn, trung bình nên từ 60 phút đến 90 phút/1 buổi. Tuy nhiên,
66
không nên quá 120 phút và không ít hơn 60 phút để bảo đảm chất lượng sinh hoạt, đủ thời gian để triển khai các nội dung cũng như thảo luận.
Việc phân bố thời gian để triển khai các hoạt động sinh hoạt cũng cần được bố trí một cách hợp lý. Thông thường, nên dành từ 5 đến 10 phút để giới thiệu về mục đích, ý nghĩa, chủ đề và nội dung của buổi sinh hoạt để mọi người tham dự được biết. Sau đó, dành thời gian khoảng 5 - 10 phút để giới thiệu sơ qua về những quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến chủ đề sinh hoạt; nêu từ hai đến ba tình huống pháp lý do thành viên Ban Chủ nhiệm được phân công chủ trì sinh hoạt chuẩn bị để người tham dự biết và đưa ra ý kiến thảo luận, trao đổi. Mỗi ý kiến phát biểu, nêu quan điểm về từng tình huống pháp lý phải thật ngắn gọn, súc tích, mỗi người, mỗi lần phát biểu không quá 5 phút; một người có thể phát biểu nhiều lần về nhiều vấn đề trong một buổi sinh hoạt. Tuy nhiên, để bảo đảm tính tập trung, mỗi tình huống, vấn đề pháp luật nên có từ 2 đến 3 ý kiến phát biểu; sau đó, người chủ trì buổi sinh hoạt hoặc người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia sinh hoạt cần đưa ra ý kiến kết luận về từng tình huống, trên cơ sở viện dẫn đầy đủ các quy định của pháp luật có liên quan; khẳng định rõ đúng, sai trong nhận thức pháp luật của từng người đã phát biểu dựa trên những quy định của pháp luật.
67
12. Kỹ năng dự kiến thành phần tham dự sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật có nội dung gì?
Do sinh hoạt câu lạc bộ mang tính cộng đồng rất cao, vì thế, cần khuyến khích thật nhiều người tham gia sinh hoạt; đồng thời, cũng cần có giải pháp để hạn chế tình trạng lợi dụng sinh hoạt câu lạc bộ để kích động, gây chia rẽ đoàn kết cộng đồng hoặc thực hiện các hành vi gây rối làm mất trật tự công cộng và các hành vi khác làm ảnh hưởng xấu đến đạo đức, thuần phong mỹ tục, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, ảnh hưởng tới đời sống của người dân.
Trong quá trình sinh hoạt, tùy từng chủ đề, nếu có thể, Ban Chủ nhiệm nên mời các nhà chuyên môn, những người am hiểu về chủ đề, nội dung sinh hoạt để tham gia sinh hoạt, định hướng nội dung sinh hoạt hoặc cung cấp thông tin, giải đáp những vướng mắc liên quan đến chủ
đề sinh hoạt.
13. Kỹ năng duy trì buổi sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật được thể hiện như thế nào?
Thành viên Ban Chủ nhiệm được phân công tổ chức, chủ trì buổi sinh hoạt có trách nhiệm lập kế hoạch sinh hoạt chi tiết (xác định rõ nội dung, thời gian, địa điểm, thành phần tham dự) và chuẩn bị các điều kiện để tổ chức sinh hoạt.
68
Tại buổi sinh hoạt, thành viên Ban Chủ nhiệm chủ trì có trách nhiệm điều hành, phân công người làm thư ký, lập danh sách người tham gia sinh hoạt và ghi biên bản; người chủ trì giới thiệu nội dung và người phụ trách giới thiệu, hướng dẫn từng nội dung, để người tham gia sinh hoạt chủ
động hoặc tự mình nêu tình huống pháp luật, vụ, việc vướng mắc pháp luật; duy trì việc phát biểu, trao đổi, thảo luận và kết luận về những nội dung đã được mọi người thống nhất. Thư ký có trách nhiệm ghi biên bản (biên bản thể hiện rõ thời gian, địa điểm, thành phần và nội dung sinh hoạt, những vướng mắc pháp luật được nêu ra, các vấn đề đã đặt ra được thảo luận đi đến thống nhất hoặc chưa thống nhất và những kiến nghị, đề xuất phát sinh cần phải chuyển lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Biên bản có chữ ký xác nhận của người chủ trì sinh hoạt và thư ký.
Quá trình sinh hoạt cần tạo điều kiện thuận lợi để nhiều người tham gia phát biểu, nêu ý kiến trao đổi, thảo luận. Nếu phát hiện có vướng mắc hoặc vụ, việc phức tạp mà người tham dự sinh hoạt chưa thể tự giải quyết được hoặc cần phải được tư vấn, hướng dẫn, giải thích chi tiết hơn thì người điều hành đề nghị thư ký ghi rõ nội dung vào biên bản. Nếu vụ, việc phức tạp hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác thì hướng dẫn họ tiếp cận với cơ quan, tổ chức đó để được giải quyết.
69
14. Quy trình một buổi sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật như thế nào?
Một buổi sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật cần thực hiện quy trình sau đây:
- Ban Chủ nhiệm câu lạc bộ đón tiếp, bố trí chỗ ngồi cho các thành viên, đại biểu (nếu có). - Giới thiệu đại biểu và các thành viên. - Giới thiệu chủ đề, nêu tóm tắt nội dung sinh hoạt.
- Nêu câu hỏi thảo luận hoặc các tình huống pháp luật tại địa bàn.
- Động viên mọi người hăng hái thảo luận, nêu quan điểm, ý kiến của mình.
- Kết luận từng phần thảo luận, đưa ra các thông điệp để mọi người nhận thức thống nhất. - Phối hợp các tiết mục văn nghệ, trò chơi... - Kết thúc buổi sinh hoạt, Chủ nhiệm câu lạc bộ cảm ơn mọi người và thông báo chủ đề, địa điểm, thời gian của buổi sinh hoạt lần sau (dựa trên kế hoạch năm đã xây dựng ban đầu).
15. Kỹ năng lập hồ sơ sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật có nội dung gì?
Hồ sơ sinh hoạt được lập và lưu tại Ban Chủ nhiệm: Hằng quý, hồ sơ sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật phải được gửi về công chức tư pháp - hộ tịch hoặc tổ chức có thẩm quyền để lưu trữ theo quy định phục vụ công tác quản lý, kiểm tra, theo dõi việc sinh hoạt. Hồ sơ sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật bao gồm:
70
- Dự kiến kế hoạch sinh hoạt hằng tháng của câu lạc bộ.
- Danh sách đối tượng tham dự sinh hoạt câu lạc bộ.
- Biên bản sinh hoạt của câu lạc bộ có dấu xác nhận số lượt sinh hoạt.
Thành viên Ban Chủ nhiệm được phân công cần lưu ý, một buổi sinh hoạt nên lựa chọn một người ghi biên bản. Người này phải biết chữ, có khả năng tốc ký, có tinh thần trách nhiệm, bảo đảm biên bản phản ánh trung thực, khách quan mọi diễn biến của quá trình sinh hoạt (có thể chuẩn bị mẫu biên bản từ trước, sau đó phần nội dung ghi toàn văn diễn biến của quá trình sinh hoạt).
Ngoài ra, cũng cần nhờ trưởng bản, già làng, người có uy tín trong cộng đồng lập giúp danh sách các đối tượng tham dự sinh hoạt câu lạc bộ.
16. Một số chủ đề pháp luật nào có thể lựa chọn để đưa ra sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật?
Trong quá trình sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật, có thể lựa chọn một số chủ đề pháp luật sau đây:
- Về phòng chống bạo lực gia đình (các hành vi bạo lực gia đình bị nghiêm cấm; các biện pháp phòng chống bạo lực gia đình; các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân; quyền và nghĩa vụ của nạn nhân; các cơ sở trợ giúp nạn nhân; các biện pháp xử lý đối với hành vi bạo lực gia đình; trách nhiệm
71
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng chống bạo lực gia đình...).
- Về phòng chống mua bán người (các hành vi mua bán người bị nghiêm cấm; các biện pháp phòng chống mua bán người; các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân; quyền và nghĩa vụ của nạn nhân; các cơ sở trợ giúp nạn nhân; các biện pháp xử lý đối với hành vi mua bán người; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng chống mua bán người...).
- Về hôn nhân và gia đình (khi nào thì được pháp luật công nhận là vợ chồng; điều kiện kết hôn, kết hôn trái pháp luật và xử lý hậu quả; tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng, chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng trong định đoạt tài sản chung, tài sản riêng; con chung, con riêng; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng; ly hôn, chia tài sản khi ly hôn; tranh chấp việc nuôi con; vấn đề cấp dưỡng nuôi con; hậu quả pháp lý của ly hôn...).
- Về thừa kế (thời điểm mở thừa kế; ai là người được thừa kế, di sản; chia di sản; kỷ phần bắt buộc; thừa kế có di chúc và không có di chúc; xử lý các quyền và nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại; vấn đề quản lý, phân chia di sản, từ chối nhận di sản; thời hiệu khởi kiện chia thừa kế...). - Về tranh chấp quyền sở hữu, tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; vấn đề giao dịch dân sự vô
72
hiệu và xử lý hậu quả của giao dịch vô hiệu; đền bù, giải phóng mặt bằng; giấy phép xây dựng... - Về quản lý, khai thác và sử dụng chung cư; trách nhiệm của Ban quản lý, của các hộ dân; xử lý tranh chấp, mâu thuẫn liên quan đến sử dụng tài sản chung, tài sản riêng.
- Việc thực hiện các chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với người có công (Bà mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ, thương binh...); người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt; người già, người khuyết tật, trẻ em.
C. TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN
PHÁP LUẬT
1. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tư vấn pháp luật được hiểu như thế nào?
Theo Luật luật sư năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 20121, tư vấn pháp luật là một bộ phận cấu thành dịch vụ pháp lý của luật sư (Điều 4) và thuộc phạm vi hành nghề luật sư (khoản 3, Điều 22). _______________
1. Luật luật sư năm 2006 (Luật số 65/2006/QH11) của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29-6-2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2007, Luật này được sửa đổi, bổ sung bởi: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư năm 2012 (Luật số 20/2012/QH13) của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 20-11-2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2013.
73
Theo Điều 28 Luật luật sư năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012, tư vấn pháp luật là việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ; luật sư thực hiện tư
vấn pháp luật trong tất cả các lĩnh vực pháp luật. Khi thực hiện tư vấn pháp luật, Luật sư phải giúp khách hàng thực hiện đúng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Theo khoản 1 Điều 27 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006, tư vấn pháp luật là một hình thức trợ giúp pháp lý. Điều 28 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định, trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn viên pháp luật thực hiện tư vấn pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý bằng việc hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý. Theo Điều 18 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16-7-2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật1 (sau đây gọi là Nghị định số 77/2008/NĐ-CP _______________
1. Nghị định này được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02-02-2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về đăng ký giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn pháp luật, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-4-2012. Nghị định số 05/2012/NĐ-CP đã bị hết hiệu lực một phần bởi Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14-10-2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật luật sư (sau đây gọi tắt là Nghị định số 05/2012/NĐ-CP).
74
được sửa đổi, bổ sung), tư vấn pháp luật do tư vấn viên pháp luật; luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho Trung tâm tư vấn pháp luật; cộng tác viên tư vấn pháp luật của Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật thực hiện. Ngoài ra, trong một số luật chuyên ngành cũng quy định về việc tư vấn pháp luật do các tổ chức đoàn thể xã hội thực hiện để tư vấn cho hội viên, thành viên của tổ chức mình về các quy định pháp luật có liên quan.
Như vậy, từ góc độ lý luận và thực tiễn, có thể hiểu tư vấn pháp luật là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài xử sự phù hợp với pháp luật; trên cơ sở pháp luật, đưa ra ý kiến pháp lý, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc cụ thể, gắn với quyền và lợi ích của các chủ thể, qua đó, giúp cho cá nhân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hoạt động tư vấn pháp luật không chỉ bao gồm việc chuyển tải nội dung của một điều luật, một văn bản pháp luật hoặc cung cấp thông tin về những quy định pháp luật có liên quan mà còn là việc sử dụng kiến thức pháp luật và kinh nghiệm của các chuyên gia pháp luật vào những tình huống, sự kiện pháp lý cụ thể. Thông qua hoạt
75
động tư vấn pháp luật, người thực hiện tư vấn phải sử dụng lao động trí óc của mình để đưa ra một lời khuyên, giúp khách hàng có một hướng giải quyết đúng đắn1.
2. Tổ chức, cá nhân nào được thực hiện hoạt động tư vấn pháp luật?
Tổ chức thực hiện hoạt động tư vấn pháp luật phải là các tổ chức hành nghề luật hoặc được pháp luật cho phép thực hiện việc cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật, bao gồm các tổ chức hành nghề luật sư (Văn phòng luật sư, Công ty luật), các tổ chức trợ giúp pháp lý (Trung tâm trợ giúp pháp lý và mạng lưới Chi nhánh của Trung tâm), các Trung tâm tư vấn pháp luật, các Văn phòng tư vấn pháp luật thuộc các tổ chức đoàn thể xã hội, các cơ sở
nghiên cứu, đào tạo chuyên ngành luật. Cá nhân thực hiện tư vấn pháp luật, trợ giúp viên pháp lý, tư vấn viên pháp luật, cộng tác viên tư vấn pháp luật, cộng tác viên trợ giúp pháp lý... hoạt động trong các tổ chức trên. Đây là những tổ chức, cá nhân có đủ tư cách pháp lý, được pháp luật thừa nhận và cho phép thực hiện việc cung cấp dịch vụ
tư vấn pháp luật để phục vụ nhu cầu tư vấn của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Người thực hiện hoạt động tư vấn pháp luật _______________
1. http://www.moj.gov.vn/huongdannv/Lists/TaiLieu NghiepVu/View_Detail.aspx?ItemId=275.
76
không chỉ bị điều chỉnh, kiểm soát chặt chẽ bởi những quy tắc pháp luật mà còn chịu sự điều chỉnh, tác động và chi phối bởi các quy tắc nghề nghiệp. Mục tiêu là nhằm duy trì và bảo vệ đối tượng được tư vấn, làm cho họ tin tưởng vào sự công bằng, bình đẳng và sự tin cậy của hoạt động tư vấn. Từ đó yên tâm tiến hành công việc, nhất là công việc kinh doanh, đồng thời tin tưởng và tôn trọng pháp luật. Ngoài ra, thông qua điều chỉnh pháp luật chặt chẽ đối với hoạt động tư vấn pháp luật còn là biện pháp để duy trì, củng cố lòng tin của xã hội, giới kinh doanh, người dân, nhất là người nghèo, người dân tộc thiểu số và những đối tượng yếu thế khác trong xã hội đối với người thực hiện tư vấn pháp luật (bao gồm luật sư, tư vấn viên pháp luật, luật gia, trợ giúp viên pháp lý). Đặc biệt, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với những quan hệ xã hội phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột, các tranh chấp trong kinh doanh hết sức gay gắt thì người thực hiện tư vấn còn phải tuân thủ những quy tắc nghề nghiệp. Nhiều trường hợp, những quy tắc này còn có yêu cầu cao và chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ công chúng, những người tin tưởng trao các vụ việc của họ cho người tư vấn. Tư vấn pháp luật còn đòi hỏi tính chịu trách nhiệm cao, thậm chí người thực hiện việc tư vấn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất gây ra cho khách hàng
77
do lỗi của mình gây ra trong quá trình thực hiện việc tư vấn sai, có trách nhiệm phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bồi thường đó.
3. Cán bộ, công chức cấp xã có được tiến hành hoạt động tư vấn pháp luật hay không?
Theo pháp luật hiện hành, cán bộ, công chức cấp xã không được phép tiến hành các hoạt động tư vấn pháp luật nhân danh vị trí, chức trách mà mình đảm nhiệm. Tuy nhiên, trong trường hợp cán bộ, công chức cấp xã đủ tiêu chuẩn và được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận là Cộng tác viên tư
vấn pháp luật, Cộng tác viên trợ giúp pháp lý thì sẽ được thực hiện các hoạt động tư vấn pháp luật theo quy định của pháp luật (xem Điều 22 Nghị định
số 77/2008/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung). Ngoài ra, xuất phát từ vị trí của cán bộ, công chức cấp xã là người gắn bó trực tiếp và giải quyết công việc hằng ngày của người dân nên, mỗi cán bộ, công chức cũng cần nắm vững các kiến thức cơ bản và kỹ năng tư vấn pháp luật để giải thích, hướng dẫn việc thực hiện pháp luật cho người dân.
4. Tư vấn pháp luật được thực hiện bằng phương thức nào?
Phương thức tư vấn pháp luật rất đa dạng, bao gồm: Tư vấn trực tiếp bằng miệng, bằng văn bản,
78
qua thư tín hoặc; hướng dẫn, soạn thảo văn bản hoặc góp ý kiến vào đơn từ, văn bản liên quan đến quyền, nghĩa vụ của công dân; hướng dẫn những thủ tục cần thiết và cung cấp địa chỉ cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc hoặc cung cấp thông tin pháp lý, tạo điều kiện cho đối tượng tiếp cận được những quy định, văn bản pháp luật mà họ quan tâm, giúp nâng cao nhận thức và vận dụng đúng pháp luật. Phương thức tư vấn còn được thực hiện bằng việc đại diện hoặc trực tiếp tham gia các hoạt động thương lượng, ký kết, hòa giải trước cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật, mời cộng tác viên là luật sư, bào chữa viên nhân dân tham gia bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng trước Tòa án khi có yêu cầu của đối tượng có liên quan.
5. Hoạt động tư vấn pháp luật gồm những nội dung gì?
Nội dung hoạt động tư vấn pháp luật khá phong phú. Tại một số nước, ngoài hoạt động tư vấn trong lĩnh vực tư pháp để thực hiện chức năng biện hộ trong các vụ án dân sự, hình sự thì những hoạt động khác của luật sư được xếp vào loại hoạt động phi tư pháp. Hoạt động tư vấn chỉ là một nội dung của hoạt động phi tư pháp nhằm giúp cho khách hàng tránh khỏi việc phải đưa vụ việc kiện tụng ra Tòa án; chỉ cho thân chủ, khách hàng của họ những việc cần làm và không nên làm, lựa chọn phương
79