🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kỹ Năng Nghiệp Vụ Công Tác Văn Hoá - Xã Hội Ở Xã, Phường, Thị Trấn
Ebooks
Nhóm Zalo
KỸ NĂNG NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC
VĂN HÓA - XÃ HỘI
Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng
PGS.TS. PHẠM VĂN LINH
Phó Chủ tịch Hội đồng
PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI
TS. NGUYỄN AN TIÊM
NGUYỄN VŨ THANH HẢO
CHỦ BIÊN
TS. VŨ ĐĂNG MINH
ThS. NGUYỄN THẾ VỊNH
BIÊN SOẠN
PGS.TS. NGUYỄN VĂN THỦ NGƯT.TS. VŨ THANH XUÂN TS. TẠ QUANG TUẤN
TS. LƯƠNG VĂN TUẤN
TS. NGÔ XUÂN LỰC
ThS. ĐỖ THÁI HUY
ThS. VĂN THỊ HOÀN
ThS. NGUYỄN THỊ TRANG THU ThS. HUỲNH THỊ KIM DUNG ThS. ĐÀO XUÂN THÁI
ThS. PHẠM TUẤN DOANH ThS. NGUYỄN THU HUYỀN ThS. ĐỖ VĂN PHONG
ThS. ĐẶNG THỊ MAI HƯƠNG CN. NGUYỄN THỊ NGỌC MAI
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Từ khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 2-2-2008 về "Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên", Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chế độ làm việc và chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Để kịp thời cung cấp tài liệu và giải đáp một số vấn đề cụ thể về quản lý nhà nước và kỹ
năng làm việc đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn làm công tác văn hóa - xã hội, giúp cho đội ngũ cán bộ này có thêm tài liệu tự học tập, rèn luyện, nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách: Kỹ năng nghiệp vụ công tác văn hóa - xã hội ở xã, phường, thị trấn.
Cuốn sách do các tác giả là các chuyên gia, nhà khoa học của Bộ Nội vụ, Học viện Hành chính Quốc gia, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức (Bộ Nội vụ), Viện Quản lý và Kinh doanh quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo
dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ, Học viện Phụ nữ
5
Việt Nam và Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong (Hà Nội) tổ chức biên soạn.
Trên cơ sở nội dung tài liệu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và để phù hợp với tủ sách xã, phường, thị trấn, các tác giả đã rút gọn nội dung, hệ thống hóa, giải đáp một số quy định về quản lý nhà nước và kỹ
năng làm việc của công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở xã, phường, thị trấn dưới dạng các chuyên đề. Đặc biệt, cuốn sách đã cập nhật nội dung các văn bản quy phạm pháp luật mới nhất như: Hiến pháp năm 2013, Luật lao động năm 2012, Luật việc làm năm 2013, Bộ luật dân sự năm 2015, Bộ luật hình sự năm 20151, Luật bảo vệ môi trường năm 2015, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015...
Hy vọng cuốn sách sẽ là tài liệu bổ ích, người bạn đồng hành thân thiết đối với công chức làm công tác văn hóa - xã hội và đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở xã, phường, thị trấn hiện nay.
Tháng 9 năm 2016
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
_____________
1. Bộ luật này lùi hiệu lực thi hành theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29-6-2016 của Quốc hội.
6
Phần thứ nhất
CÔNG TÁC VĂN HÓA, GIA ĐÌNH, THỂ DỤC, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
7
8
Chuyên đề 1
KỸ NĂNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC VĂN HÓA - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
I- KHÁI QUÁT VỀ KỸ NĂNG
1. Kỹ năng là gì?
- Là khả năng (điều kiện) để có thể đảm nhận/ thực hiện một hoạt động: kỹ năng phẫu thuật... - Là khả năng (trình độ) làm tốt một công việc: kỹ năng làm bài thi...
- Là cách thức tiến hành một công việc cụ thể (bí quyết/phương pháp): phá bom/mìn... Theo cách hiểu của phương Tây thì nghĩa chung nhất của kỹ năng là sự “hiểu biết”, là “cách thức thực hiện” để “làm tốt” hay “thành công” một công việc nào đó.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì kỹ năng là “giai đoạn trung gian giữa tri thức và kỹ xảo trong quá trình nắm vững một phương thức hành động...”1. _____________
1. Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2002, t. 2, tr. 549.
9
Tóm lại, kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức trong một lĩnh vực nào đó, giúp chúng ta làm tốt một công việc nào đó trong thực tế. Kỹ năng bao gồm kiến thức lý thuyết và khả năng thực hành (kỹ xảo).
2. Kỹ năng hành chính
Kỹ năng hành chính có nội dung rộng hơn, phức tạp hơn nhiều so với các loại kỹ năng khác. Kỹ năng hành chính thể hiện trên các mặt cụ thể sau đây:
- Kỹ năng lãnh đạo, cai trị (của các nhà hành chính, quan chức cấp cao...): Ví dụ kỹ năng hành chính của một vị bộ trưởng bao gồm: khả năng hiểu biết; khả năng vận dụng đường lối, chính sách, pháp luật chung vào chiến lược phát triển ngành; khả năng tổ chức, chỉ đạo, điều hành bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ, kế hoạch có hiệu lực và hiệu quả cao nhất.
- Kỹ năng tổ chức và quản lý nhân sự (công tác cán bộ) gồm: Kỹ năng tuyển dụng; kỹ năng phân tích công việc; kỹ năng đánh giá, vấn đề tâm lý, quan hệ công tác và quan hệ xã hội...
- Kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ ngành, lĩnh vực (kiến thức khoa học, lý thuyết và thực hành nói chung và cho từng lĩnh vực). Ví dụ: Kỹ năng hành chính kinh tế; hành chính hải quan, hành chính thuế vụ; hành chính văn phòng, kỹ năng soạn thảo văn bản...
10
Kỹ năng hành chính thể hiện cụ thể qua hoạt động ở công sở bao gồm:
- Kỹ năng kế hoạch hóa, tổ chức, sắp xếp, điều chỉnh, phối hợp giải quyết công việc.
- Kỹ năng tổ chức bộ máy, sắp xếp nhân sự. - Kỹ năng bố trí và sử dụng các phương tiện, thiết bị làm việc trong cơ quan.
- Kỹ năng xây dựng văn bản, tổ chức bảo quản hồ sơ và sử dụng văn bản trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Kỹ năng giao tiếp với cấp trên, cấp dưới, các nhân viên, các tổ chức nhà nước, các tổ chức và đoàn thể nhân dân, với công dân...
- Kỹ năng thuyết trình, đối thoại với công chúng. - Kỹ năng tổ chức các cuộc họp theo mục tiêu của công việc đặt ra,...
Tóm lại, kỹ năng hành chính là thuật ngữ dùng để chỉ “khả năng của một người vận dụng kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực hành chính để có thể điều hành tốt công việc của cơ quan dựa trên cơ sở thành thục các kỹ thuật hành chính, nghiệp vụ hành chính kết hợp với công nghệ hiện đại nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức”1.
Kỹ năng hành chính hình thành qua hai con đường tích lũy kinh nghiệm thực tế và đào tạo. _____________
1. Thuật ngữ hành chính, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2009, tr.193.
11
Kỹ năng chỉ có thể có được và thành công qua quá trình đào tạo và rèn luyện của cá nhân.
3. Một số chính sách xã hội chủ yếu cần có kỹ năng để thực hiện
- Giáo dục và đào tạo.
- Dân số.
- Lao động - việc làm.
- Bảo trợ xã hội.
- Phòng, chống tệ nạn xã hội.
- Tôn giáo.
- Dân tộc.
- Các chính sách khác...
Ví dụ:
- Về dân số: tuyên truyền thường xuyên, rộng rãi và vận động sâu, triệt để.
- Đối với vấn đề tệ nạn xã hội: tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong nhân dân. Phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành cùng làm. Kiểm tra, kiểm soát, xử lý kịp thời, đúng đắn, thái độ phải dứt khoát, không thỏa hiệp.
II- QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA
1. Chủ thể quản lý
- Nhà nước nắm quyền quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa.
12
- Quản lý nhà nước được tổ chức theo ngành và theo lãnh thổ.
Theo đó, quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn xã, phường, thị trấn là trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã), trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã với sự tham mưu, giúp việc của công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã.
2. Đối tượng quản lý
- Quản lý các giá trị văn hóa: sản phẩm văn hóa vật chất và tinh thần, vật thể và phi vật thể của cộng đồng.
- Quản lý các sinh hoạt văn hóa cộng đồng: ngày tết, ngày hội truyền thống, lễ cưới, lễ tang,... - Quản lý các hoạt động tuyên truyền giáo dục cộng đồng.
3. Mục tiêu quản lý
- Bảo đảm thực hiện đúng pháp luật.
- Giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cộng đồng.
- Xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, góp phần phát triển con người toàn diện, xây dựng khối đoàn kết cộng đồng, làm động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
4. Nội dung quản lý
- Bảo tồn, bảo tàng:
13
+ Xác định các giá trị văn hóa truyền thống: công trình kiến trúc, nhạc cụ, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, bài dân ca, bài hát, tiếng nói, chữ viết,...
+ Thực hiện các biện pháp để bảo vệ, bảo quản. + Tiến hành các hoạt động quảng bá, tuyên truyền, phát huy giá trị.
- Thông tin cổ động:
+ Củng cố hệ thống thông tin: truyền thanh, bảng tin, tranh cổ động, điểm bưu điện văn hóa. + Tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền: thường xuyên đưa tin, tổ chức đọc báo, nói chuyện thời sự, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. + Nắm tình hình tư tưởng để có biện pháp giáo dục, uốn nắn.
- Xây dựng nếp sống:
+ Hương ước.
+ Gia đình văn hóa.
+ Thôn, bản văn hóa.
+ Tổ chức lễ, tết.
- Quản lý dịch vụ văn hóa:
+ Băng tiếng, đĩa hình.
+ Karaoke.
+ Điểm du lịch.
+ Điểm vui chơi giải trí.
+ Nhà văn hóa.
+ Thư viện.
- Quản lý hoạt động văn hóa:
+ Biểu diễn văn nghệ.
14
+ Lễ hội truyền thống.
+ Sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
III- QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC
1. Chủ thể quản lý
- Chủ thể quản lý: Nhà nước (Chính phủ, mà trực tiếp là Bộ Giáo dục và Đào tạo) thực hiện quyền quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo trên phạm vi cả nước.
- Ở cấp xã: theo phạm vi lãnh thổ, quản lý nhà nước về giáo dục trên địa bàn xã là trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, với sự tham mưu, giúp việc của công chức làm công tác văn hóa - xã hội.
2. Phạm vi quản lý
- Quản lý công tác phổ cập giáo dục trên địa bàn xã.
- Quản lý các nguồn kinh phí giáo dục ở xã theo quy định.
- Quản lý giáo viên, cô nuôi dạy trẻ.
- Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục. - Quản lý công tác giáo dục cộng đồng.
3. Nội dung quản lý
- Tổ chức cho trẻ em và người lớn học bổ túc văn hóa, tham gia chương trình phổ cập giáo dục.
15
- Thực hiện quy hoạch, kế hoạch ngân sách giáo dục tiểu học trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục.
- Đầu mối phối hợp liên ngành trong quản lý giáo dục ở địa phương.
- Quan tâm, chăm lo đội ngũ giáo viên và cô nuôi dạy trẻ.
- Tham gia quản lý, chỉ đạo giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề.
- Cử đại diện tham gia Hội đồng giáo dục ở cấp xã và thành lập Ban Bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em.
IV- QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ Y TẾ
1. Quan điểm
- Sức khỏe là vốn quý, là yếu tố quan trọng của năng lực con người.
- Chăm sóc sức khỏe là việc làm cần thiết, góp phần tích cực vào việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực cộng đồng, quốc gia.
- Nhà nước chủ trương phấn đấu để mọi người đều được chăm sóc sức khỏe, phòng bệnh hơn chữa bệnh.
2. Mục tiêu
- Giảm tỷ lệ mắc bệnh.
- Nâng cao thể lực, tuổi thọ.
16
- Khắc phục cơ bản các bệnh về nhiễm trùng, ký sinh trùng.
- Phát triển các dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu.
- Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe.
3. Chính sách y tế
- Chính sách về bảo hiểm xã hội.
- Chính sách về thuốc.
- Kế hoạch hành động về dinh dưỡng.
- Các chương trình: mạng lưới y tế cơ sở, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, mở rộng dịch vụ khám chữa bệnh, phòng chống nhiễm khuẩn, chống sốt rét, vệ sinh môi trường, bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động y tế.
4. Nội dung quản lý
- Thực hiện các quy định của pháp luật về y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
- Đầu tư cho hoạt động y tế và chăm sóc sức khỏe: tăng ngân sách, tiết kiệm chi tiêu, đa dạng hóa các loại hình chăm sóc y tế, huy động các nguồn kinh phí cho phát triển y tế xã.
- Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ y tế xã.
- Thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động y tế trên địa bàn.
17
V- QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO
1. Vấn đề tôn giáo
a) Bản chất của tôn giáo
- Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan, nhưng sự phản ánh đó không trung thực, không đúng đắn.
- Tôn giáo phản ánh hiện thực khách quan một cách sai lệch, hư ảo và huyền bí.
- Tôn giáo phản ánh sự bất lực của con người trước các thế lực tự nhiên và xã hội.
- Tôn giáo hướng con người đến niềm hy vọng hão huyền, niềm vui hư ảo, niềm tin mù quáng. - Tôn giáo ru ngủ con người, làm tiêu tan nghị lực và làm nhụt ý chí con người. “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
b) Nguồn gốc của tôn giáo
- Nguồn gốc nhận thức: “điều gì mà con người chưa giải thích được bằng khoa học thì ở đó tôn giáo sẽ thay thế”.
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội: khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém, con người bất lực trước tự nhiên, thêm vào đó là sự bóc lột, đàn áp xã hội, nên họ tìm đến tôn giáo để quên đi, để
thấy cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Nguồn gốc tâm lý: do sợ hãi và bất lực, con người lệ thuộc, nhờ cậy lực lượng siêu nhiên như một sự xoa dịu tâm hồn.
18
c) Đặc điểm của tôn giáo
- Tính lịch sử: ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vận động tùy theo tình hình thực tế xã hội, được truyền bá trong các thời kỳ lịch sử.
- Tính quần chúng: phản ánh trình độ, tâm lý, nguyện vọng của đại đa số con người, hướng thiện: hòa bình, công bằng, nhân ái, đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận công chúng.
- Tính chính trị: giai cấp thống trị sử dụng tôn giáo làm công cụ phục vụ lợi ích chính trị.
d) Tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, đan xen, về cơ bản là dung hợp, hòa đồng, không có xung đột, gắn với tín ngưỡng dân gian.
Có các tôn giáo lớn: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Tin lành, Cao Đài, Hòa Hảo... Khoảng 20 triệu tín đồ, đa số là người lao động, chủ yếu là nông dân.
đ) Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tôn giáo
- Đảng và Nhà nước xác định: tôn giáo là vấn đề chiến lược, quan trọng của sự nghiệp cách mạng; tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
- Đảng và Nhà nước chủ trương: thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
19
một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo theo luật định.
- Thực hiện đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào không theo tôn giáo và đồng bào theo tôn giáo.
- Nghiêm cấm lợi dụng tôn giáo để hoạt động trái với chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây chia rẽ nhân dân, mất trật tự, an ninh, an toàn xã hội.
- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, chủ yếu là vận động, giác ngộ quần chúng.
e) Chính sách của Nhà nước về tôn giáo
- Thực hiện quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
- Vận động đồng bào các tôn giáo thực hiện đoàn kết toàn dân tộc.
- Vận động thực hiện “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống nhân dân.
- Hướng các chức sắc tôn giáo vào các hoạt động đúng pháp luật, thể hiện trách nhiệm của tôn giáo đối với xã hội, quốc gia, dân tộc.
- Đề cao cảnh giác, kịp thời ngăn chặn và chống lại các âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng.
- Các quan hệ quốc tế và đối ngoại về tôn giáo phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
20
2. Quản lý nhà nước về tôn giáo
a) Quản lý nhà nước về tôn giáo ở cấp xã
Nhà nước giữ quyền quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo (thực hành lễ nghi tôn giáo, truyền bá giáo lý tôn giáo, hoạt động phục vụ cho hoạt động tôn giáo) và các tổ chức tôn giáo.
Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn xã là trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã với sự tham mưu, giúp việc của công chức làm công tác văn hóa - xã hội.
Nhiệm vụ của công tác quản lý nhà nước về tôn giáo là:
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và tổ chức thực hiện pháp luật về tôn giáo.
- Kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về tôn giáo trong phạm vi thẩm quyền.
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo trong phạm vi thẩm quyền.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý tôn giáo.
- Phối hợp với các cấp, các ngành trong quản lý tôn giáo.
b) Mục tiêu quản lý
- Bảo đảm hoạt động tôn giáo đúng pháp luật. - Hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của các tôn giáo.
21
- Đóng góp vào sự phát triển và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
c) Nguyên tắc quản lý
- Hợp pháp: đúng pháp luật (Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan).
- Thống nhất và đồng bộ: Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyền chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể để cùng triển khai thực hiện, bảo đảm thống nhất về
quan điểm, mục tiêu và đồng bộ về giải pháp thực hiện.
- Dân ủng hộ: Việc làm của chính quyền phải được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ. - Hợp lý: Sử dụng hợp lý các phương pháp: thuyết phục, hòa giải, kinh tế, hành chính.
d) Nội dung quản lý
- Quản lý việc đăng ký hoạt động của các tổ chức tôn giáo cơ sở (ban hộ tự/ban quản trị chùa của đạo Phật, giáo xứ của Công giáo, chi hội của đạo Tin lành, họ đạo của đạo Cao Đài, ban trị sự của đạo Hòa Hảo,...).
- Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền xem xét cho phép tổ chức tôn giáo cơ sở thực hiện chương trình hoạt động tôn giáo hằng năm mà tổ chức đó đã đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 8-11-2012 của Chính phủ quy định chi tiết
22
và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
- Về sửa chữa, cải tạo công trình tôn giáo: Muốn sửa chữa hoặc cải tạo nhỏ các công trình tôn giáo (tức là không thay đổi kiến trúc hoặc kết cấu chịu lực và an toàn) thì tổ chức tôn giáo cơ sở
phải thông báo cho Ủy ban nhân dân xã trước khi tiến hành, không phải xin phép.
- Các trường hợp sửa chữa, cải tạo khác thì phải xin phép.
- Về vấn đề quyên góp: khi quyên góp, cơ sở tôn giáo phải thông báo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã về mục đích, phạm vi, cách thức, thời gian và sử dụng tiền quyên góp. Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ giám sát việc thực hiện các nội dung đã thông báo.
- Quản lý việc sử dụng đất của cơ sở tôn giáo thực hiện theo Luật đất đai năm 2013. - Quản lý việc in ấn, xuất bản của các cơ sở tôn giáo thực hiện theo Luật xuất bản năm 2012, đặc biệt là những nội dung và hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản theo Điều 10 Luật xuất bản năm 2012.
đ) Xử lý tình huống
- Phát hiện sớm.
- Tìm hiểu nguyên nhân.
- Phương pháp thích hợp: thuyết phục, hòa giải, hành chính.
23
- Nắm pháp luật và làm đúng quy định. - Tiến hành dân chủ với thái độ thiện chí, mềm dẻo.
- Sử dụng sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, cử cán bộ có uy tín và năng lực thuyết phục.
VI- QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DÂN TỘC
1. Các dân tộc ở Việt Nam
Theo nghĩa rộng, dân tộc là một cộng đồng người ổn định, hợp thành nhân dân của một nước, có chủ quyền lãnh thổ, có ngôn ngữ chung, gắn bó với nhau về lợi ích chính trị, kinh tế, văn hóa và lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam. Theo nghĩa hẹp, dân tộc là tộc người: dân tộc Hmông, Kinh, Êđê,...
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 87%, các dân tộc khác chiếm 13%. Các dân tộc có truyền thống đoàn kết, sống đan xen. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng. Trình độ phát triển của các dân tộc không đều. Các dân tộc thiểu số chủ yếu sống ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa.
2. Quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc - Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, không phân biệt đối xử.
24
- Thực hiện đoàn kết toàn dân tộc, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, đóng góp cho các mục tiêu chung của đất nước.
- Ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc.
- Vấn đề dân tộc vừa là vấn đề lâu dài, vừa là vấn đề cấp bách. Công tác dân tộc là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị.
3. Chính sách dân tộc của Nhà nước
- Phát triển toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội tại các vùng dân tộc.
- Phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc. - Chăm lo giải quyết các vấn đề xã hội vùng dân tộc.
- Quan tâm đặc biệt đến các vùng dân tộc nghèo ở những địa bàn khó khăn.
4. Nội dung và nhiệm vụ quản lý nhà nước về dân tộc
a) Nội dung
- Xóa đói, giảm nghèo.
- Nâng cao mức sống (dạy nghề, tạo việc làm, phát triển trồng trọt, chăn nuôi).
- Giải quyết vấn đề: mê tín, bạo lực gia đình, tệ nạn xã hội.
- Di dân, định canh, định cư.
- Phát triển giao thông, công trình phúc lợi cộng đồng, điện, nước.
25
- Phát triển nguồn nhân lực (y tế, giáo dục, đào tạo cán bộ, công chức).
- Phát triển, bảo vệ rừng.
b) Nhiệm vụ
- Phổ biến, hướng dẫn, giải thích pháp luật. - Quản lý, giám sát, kiểm tra các nguồn vốn đầu tư.
- Kiến nghị bổ sung, sửa đổi chính sách. - Xây dựng, đề xuất các dự án phát triển. - Xử lý các vi phạm theo thẩm quyền.
26
Chuyên đề 2
CÔNG CHỨC LÀM CÔNG TÁC VĂN HÓA - XÃ HỘI Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
I- CÔNG CHỨC LÀM CÔNG TÁC
VĂN HÓA - XÃ HỘI Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30-10-2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn đã nêu rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và tiêu chuẩn đối với công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã như sau:
1. Chức trách, tiêu chuẩn cụ thể
Điều 1 Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30- 10-2012 của Bộ Nội vụ quy định:
Chức trách: Công chức xã, phường, thị trấn làm công tác chuyên môn thuộc biên chế của Ủy ban nhân dân cấp xã, có trách nhiệm tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác được
27
phân công và thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
Điều 2 Thông tư số 06/2012/TT-BNV quy định tiêu chuẩn cụ thể:
1. Công chức cấp xã phải có đủ các tiêu chuẩn chung quy định tại Điều 3 Nghị định số 112/2011/ NĐ-CP ngày 5-12-2011 của Chính phủ về công chức xã, phường, thị trấn và các tiêu chuẩn cụ
thể sau:
a) Độ tuổi: Đủ 18 tuổi trở lên.
b) Trình độ văn hóa: Tốt nghiệp trung học phổ thông.
c) Trình độ chuyên môn: Tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp trở lên của ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của chức danh công chức được đảm nhiệm.
d) Trình độ tin học: Có chứng chỉ tin học văn phòng trình độ A trở lên.
đ) Tiếng dân tộc thiểu số: Ở địa bàn công tác phải sử dụng tiếng dân tộc thiểu số trong hoạt động công vụ thì phải biết thành thạo tiếng dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn công tác đó; nếu khi tuyển dụng mà chưa biết tiếng dân tộc thiểu số thì sau khi tuyển dụng phải hoàn thành lớp học tiếng dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn công tác được phân công.
e) Sau khi được tuyển dụng phải hoàn thành lớp đào tạo, bồi dưỡng quản lý hành chính nhà
28
nước và lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo chương trình đối với chức danh công chức cấp xã hiện đảm nhiệm.
2. Tiêu chuẩn cụ thể đối với chức danh Chỉ huy trưởng Quân sự cấp xã và Trưởng Công an xã thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành đối với các chức danh này; trường hợp pháp luật chuyên ngành không quy định thì thực hiện theo khoản 1 Điều này.
3. Căn cứ vào tiêu chuẩn của công chức cấp xã quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này và căn cứ vào điều kiện thực tế của địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được xem xét, quyết định:
a) Giảm một cấp về trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn đối với công chức làm việc tại xã đã được cơ quan có thẩm quyền công nhận thuộc khu vực miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; đồng thời xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa công chức cấp xã theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
b) Ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh công chức cấp xã. c) Thời gian để công chức cấp xã mới được tuyển dụng phải hoàn thành lớp học tiếng dân tộc thiểu số; lớp đào tạo, bồi dưỡng quản lý hành chính nhà nước và lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận
29
chính trị theo quy định tại điểm đ, điểm e khoản 1 Điều này.
4. Tiêu chuẩn cụ thể của công chức cấp xã quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này là căn cứ để các địa phương thực hiện công tác quy hoạch, tạo nguồn, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, xếp lương, nâng bậc lương và thực hiện các chế độ, chính sách khác đối với công chức cấp xã.
2. Nhiệm vụ của công chức làm công tác văn hóa - xã hội
Điều 9 Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30- 10-2012 của Bộ Nội vụ quy định nhiệm vụ của công chức làm công tác văn hóa - xã hội như sau:
1. Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong các lĩnh vực: văn hóa, thể dục, thể thao, du lịch, thông tin, truyền thông, lao động, thương binh, xã hội, y tế, giáo dục theo quy định của pháp luật.
2. Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ sau: a) Tổ chức, theo dõi và báo cáo về các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, du lịch, y tế và giáo dục trên địa bàn; tổ chức thực hiện việc xây dựng đời sống văn hóa ở cộng đồng dân cư và xây dựng gia đình văn hóa trên địa bàn cấp xã. b) Thực hiện các nhiệm vụ thông tin, truyền thông về tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương.
30
c) Thống kê dân số, lao động, việc làm, ngành nghề trên địa bàn; theo dõi, tổng hợp, báo cáo về số lượng và tình hình biến động các đối tượng chính sách lao động, thương binh và xã hội; theo dõi, đôn đốc việc thực hiện và chi trả các chế độ đối với người hưởng chính sách xã hội và người có công; quản lý nghĩa trang liệt sĩ và các công trình ghi công liệt sĩ; thực hiện các hoạt động bảo trợ xã hội và chương trình xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn cấp xã.
d) Chủ trì, phối hợp với công chức khác và trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố xây dựng hương ước, quy ước ở thôn, tổ dân phố và thực hiện công tác giáo dục tại địa bàn cấp xã.
3. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành và do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
II- CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC LÀM CÔNG TÁC VĂN HÓA - XÃ HỘI Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
1. Chế độ tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã
Căn cứ theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22-10-2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ,
31
công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thì chế độ, chính sách đối với công chức làm công tác văn hóa - xã hội cấp xã được quy định như sau:
a) Chế độ tiền lương, phụ cấp
Công chức cấp xã nói chung và công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã nói riêng nếu tốt nghiệp trình độ đào tạo từ sơ cấp trở lên phù hợp với chuyên môn của chức danh đảm nhiệm, thực hiện xếp lương như công chức hành chính quy định tại Bảng lương số 2 (bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước), Bảng lương số 4 (bảng lương nhân viên thừa hành, phục vụ
trong các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước) ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14-12-2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, nếu chưa tốt nghiệp đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định thì được hưởng lương bằng 1,18 so với mức lương tối thiểu chung.
b) Chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế Cán bộ cấp xã quy định tại điểm a, điểm b, khoản 1, Điều 5 và công chức cấp xã quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, khoản 2, Điều 5; cán bộ, công chức cấp xã quy định tại khoản 3, Điều 5 của
32
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP trong thời gian đảm nhiệm chức vụ, chức danh thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc theo quy định của pháp luật.
Trường hợp cán bộ, công chức cấp xã khi nghỉ việc đã hết tuổi lao động, có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, chưa nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần, có nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thì được đóng tiếp theo quy định tại Nghị định số 134/2015/NĐ-CP ngày 29-12-2015 của Chính phủ.
Ngoài các quy định về chế độ tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã nêu trên, đối với công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã, nếu đủ điều kiện thì được áp dụng thực hiện các chính sách theo quy định của pháp luật. Cụ thể như sau:
Một là, khoản 2, Điều 1 Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày 8-4-2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22-10-2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách
đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Hai là, khoản 1, Điều 1 và khoản 3, Điều 2 Nghị định số 76/2009/NĐ-CP ngày 15-9-2009 của
33
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14-12-2004 về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
Ba là, Nghị định số 14/2012/NĐ-CP ngày 7-3- 2012 của Chính phủ về sửa đổi Điều 7 Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14-12-2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang và Mục I Bảng phụ cấp chức vụ lãnh đạo (bầu cử, bổ nhiệm) trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước; cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP.
Bốn là, Nghị định số 17/2013/NĐ-CP ngày 19-2-2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14-12-2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
2. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã
Cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức phù hợp tiêu chuẩn chức danh hiện đang đảm nhiệm và theo quy hoạch cán bộ, công chức.
34
Hình thức đào tạo, bồi dưỡng công chức bao gồm: Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức; đào tạo, bồi dưỡng theo các chức danh lãnh đạo, quản lý. Nội dung, chương trình, thời gian đào tạo, bồi dưỡng công chức do Chính phủ quy định. Cán bộ, công chức cấp xã khi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng, được hưởng chế độ như sau: được cấp tài liệu học tập; được hỗ trợ một phần tiền ăn trong thời gian đi học tập trung; được hỗ trợ chi phí đi lại từ cơ quan đến nơi học tập.
35
Chuyên đề 3
CÔNG TÁC VĂN HÓA
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
I- CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1. Khái niệm văn hóa
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”1. Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ quát, đồng thời có tính đặc thù của mỗi cộng
_____________
1. Bộ Văn hóa - Thông tin và Thể thao: Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Hà Nội, 1992, tr.23.
36
đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa có tính khái quát này, trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa, chúng ta dễ bị hiểu một cách sai lạc: Quản lý văn hóa là quản lý các hoạt động sáng tạo và thu hẹp hơn nữa là quản lý sáng tác văn học nghệ thuật. Thực tế quản lý văn hóa không phải như vậy, quản lý văn hóa ở cấp xã lại càng không phải chỉ có thế.
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”1. Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu văn hóa cụ thể và đầy đủ hơn. Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết đều “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống”, những hoạt động sống đó trải qua thực tiễn và thời gian được lặp đi, lặp lại thành những thói quen, tập quán, chắt lọc thành những chuẩn mực, những giá trị vật chất và tinh thần được tích lũy, lưu truyền từ đời này qua đời khác thành kho tàng quý giá mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp lại mà thành di sản văn hóa của toàn nhân loại.
_____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458.
37
Ở một góc độ khác, người ta xem văn hóa như là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần, do con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực tiễn qua quá trình tương tác giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa là của con người, do con người sáng tạo và vì lợi ích của con người. Văn hóa được con người giữ gìn, sử dụng để phục vụ đời sống con người và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
2. Các khái niệm liên quan
Công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã cần biết các khái niệm sau:
- Di sản văn hóa phi vật thể: Là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ
truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và tri thức dân gian khác. - Di sản văn hóa vật thể: Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
38
- Di tích lịch sử - văn hóa: Là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Danh lam thắng cảnh: Là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.
- Di vật: Là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Cổ vật: Là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
- Bảo vật quốc gia: Là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm, tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.
II- QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã đề ra quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp
39
cơ bản cho việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
* Quan điểm:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
- Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
40
* Nhiệm vụ:
- Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. - Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. - Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa.
- Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa.
- Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
* Giải pháp:
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa. - Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa. Đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ làm
công tác văn hóa, Nghị quyết khẳng định: Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở... Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế... Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong các dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương.
41
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”1. “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””2.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển"3.
_____________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.78, 126.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.75-76.
42
2. Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6-5-2009 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định mục tiêu và nhiệm vụ phát triển văn hóa đến năm 2020 là:
* Mục tiêu:
Một là, hướng mọi hoạt động văn hóa vào xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, tuân thủ pháp luật, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội, làm cho văn hóa trở
thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; gắn kết mối quan hệ giữa văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa với vấn đề hình thành nhân cách.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc, vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc anh em, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, tập trung
43
xây dựng những giá trị văn hóa mới, đi đôi với việc mở rộng và chủ động trong giao lưu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời đại.
Ba là, giải phóng mạnh mẽ năng lực và tiềm năng sáng tạo của mọi người, phát huy cao độ tính sáng tạo của trí thức văn nghệ sĩ; đào tạo tài năng văn hóa, nghệ thuật; tạo cơ chế, chính sách và cơ sở vật chất để có nhiều sản phẩm văn hóa, nghệ thuật chất lượng cao xứng tầm với dân tộc và thời đại; nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về lý luận và thực tiễn việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Bốn là, tạo mọi điều kiện để nâng cao mức hưởng thụ và tham gia hoạt động, sáng tạo văn hóa của nhân dân; phấn đấu từng bước thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Năm là, đi đôi với việc tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con
44
người, đầu tư cho phát triển bền vững, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, làm cho văn hóa tham gia tích cực vào việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của đất nước.
* Nhiệm vụ:
- Xây dựng con người, lối sống văn hóa. - Xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa.
- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. - Bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số.
- Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật. - Tăng cường công tác thông tin đại chúng. - Tăng cường, chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hóa.
- Hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa.
Chiến lược phát triển văn hóa cũng đã chỉ rõ các nội dung liên quan đến các lĩnh vực hoạt động văn hóa: nghệ thuật biểu diễn; điện ảnh; mỹ thuật nhiếp ảnh và triển lãm; xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm; thư viện; bảo tàng, di tích và văn hóa phi vật thể; văn hóa cơ sở; nghiên cứu khoa học về văn hóa nghệ thuật; quyền tác giả và quyền liên quan.
Có thể thấy rằng, quan điểm mới của Đảng về vai trò của văn hóa là “sức mạnh nội sinh của
45
phát triển". Sức mạnh nội sinh ấy từ mọi nguồn lực của đất nước trong đó nguồn lực văn hóa là vô cùng quan trọng, là nền tảng bền vững cho sự phát triển.
III- CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
1. Chính sách vĩ mô của Nhà nước về phát triển văn hóa
Chính sách vĩ mô của Nhà nước về văn hóa được ghi trong Hiến pháp năm 2013, như sau: - Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển văn hóa Việt Nam: Dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa, phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.
- Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa; nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hóa phản động, đồi trụy, bài trừ mê tín, hủ tục.
- Văn học, nghệ thuật góp phần bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cao đẹp của người Việt Nam. Nhà nước đầu tư phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật; tạo điều kiện để nhân dân được thưởng thức những tác phẩm văn học, nghệ thuật
46
có giá trị; bảo trợ để phát triển các tài năng sáng tạo văn học, nghệ thuật. Nhà nước phát triển các hình thức đa dạng của hoạt động văn hóa, nghệ thuật; khuyến khích hoạt động nghệ thuật văn hóa, nghệ thuật quần chúng.
- Nhà nước và xã hội bảo tồn và phát triển các di sản văn hóa dân tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ và phát huy tác dụng của di tích lịch sử, cách mạng, di sản văn hóa, công trình nghệ thuật, danh lam, thắng cảnh. Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, công trình nghệ
thuật, danh lam, thắng cảnh.
Điều 60 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: - Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. - Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân.
47
2. Các chính sách cụ thể của Nhà nước về phát triển văn hóa
Chính sách của Nhà nước về văn hóa thể hiện trong các luật và các chương trình mục tiêu, chiến lược phát triển văn hóa.
- Các luật và pháp lệnh về văn hóa, như: + Luật sở hữu trí tuệ.
+ Luật di sản văn hóa.
+ Luật xuất bản.
+ Luật điện ảnh.
+ Luật quảng cáo.
+ Pháp lệnh thư viện.
- Các chương trình mục tiêu và cuộc vận động như:
+ Chương trình mục tiêu bảo tồn và tôn tạo di tích danh thắng.
+ Chương trình mục tiêu chấn hưng điện ảnh. + Chương trình mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
+ Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
+ Một số chương trình liên quan khác như: Chương trình 135; Chương trình xóa đói giảm nghèo; Chương trình xây dựng nông thôn mới...
Để giúp cán bộ, công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã thực thi chính sách của Nhà nước có hiệu quả trên địa bàn, xin được nêu mấy điểm khái quát sau:
48
- Tính nhất quán giữa chính sách của Nhà nước và quan điểm của Đảng thể hiện ở mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa là: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tính nhất quán ấy còn thể hiện ở đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn hóa đều nhằm thực hiện nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc là: Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, không ngừng phát triển văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa.
- Mọi chính sách của Nhà nước về văn hóa đều được xây dựng trên cơ sở yêu cầu thực tiễn khách quan ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện mở cửa, hội nhập, xây dựng Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời có chú ý yếu tố phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền, yếu tố đa dân tộc, đa văn hóa... Bởi vậy, chính sách của Nhà nước về văn hóa có tính đồng bộ và tính pháp lý cao.
- Đối với công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã cần đặc biệt chú ý tính đồng bộ và
49
tính pháp lý của chính sách của Nhà nước về văn hóa, không được vượt thẩm quyền trong thực thi chính sách, tùy tiện vận dụng làm sai lệch chính sách của Nhà nước về văn hóa. Làm như vậy không những không đảm bảo tính pháp lý của các chính sách về văn hóa, mà còn ảnh hưởng xấu đến việc thực thi các chính sách khác của Nhà nước trên địa bàn.
IV- CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA
1. Quản lý nhà nước về văn hóa
Quản lý nhà nước về văn hóa là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và bộ máy của mình, nhằm phát triển văn hóa, điều chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực văn hóa và liên quan, với mục đích giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Quản lý nhà nước về văn hóa có các đặc điểm sau: Một là, chủ thể quản lý nhà nước về văn hóa là Nhà nước. Nhà nước Việt Nam được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến các địa phương, quyền
50
quản lý được phân cấp: Cấp trung ương, cấp tỉnh (tỉnh và các thành phố trực thuộc Trung ương), cấp huyện (huyện thuộc tỉnh, quận thuộc thành phố), cấp xã (xã thuộc huyện, phường thuộc quận). Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp nào thì cơ quan nhà nước cấp ấy là chủ thể quản lý. Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp xã thì Ủy ban nhân dân xã là chủ thể quản lý nhà nước. Công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn cấp xã.
Hai là, khách thể quản lý nhà nước về văn hóa là văn hóa và các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến lĩnh vực văn hóa. Văn hóa với tư cách là khách thể quản lý được hiểu theo nghĩa cụ thể là: Các hoạt động văn hóa (trong đó có các dịch vụ văn hóa, hoạt động sáng tạo...) và các giá trị văn hóa (cụ thể là các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể). Mặt khác, theo sự phân công trong hệ thống các cơ quan nhà nước các cấp, không phải toàn bộ hoạt động văn hóa hiểu theo nghĩa rộng đều do ngành văn hóa quản lý. Văn hóa giáo dục, khoa học công nghệ... do cơ quan giáo dục, khoa học công nghệ quản lý.
Ba là, mục đích quản lý nhà nước về văn hóa là giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn
51
hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, trong hoạt động quản lý nhà nước về
văn hóa ở từng cấp, từng địa phương, từng hoạt động thì mục đích quản lý nhà nước về văn hóa phải được xác định cụ thể sát với yêu cầu nhiệm vụ và hoàn cảnh của địa phương. Ví dụ quản lý nhà nước về Chương trình mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở thì cấp trung ương mục đích là gì; cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã là gì, phải được xác định một cách cụ thể. Có như vậy hoạt động quản lý mới hiệu quả.
Bốn là, cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về văn hóa là Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về văn hóa nói riêng có công cụ là hệ thống luật và các văn bản có tính pháp quy. Quản lý bằng pháp luật chứ không phải bằng ý chí của nhà quản lý.
Năm là, cách thức quản lý là “sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích” chứ không phải là việc làm có tính thời vụ, cũng không phải là sự thụ động của nhà quản lý, càng không phải là hoạt động đơn lẻ, tùy tiện của nhà quản lý.
Đối với người làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa phải luôn tự đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi: Ai là người quản lý? Quản lý ai và quản lý cái
52
gì? Quản lý vì cái gì? Trong tay mình đang có công cụ nào để quản lý? Ngoài 4 câu hỏi cơ bản trên, người quản lý có kinh nghiệm còn biết đặt một số câu hỏi có tính nghiệp vụ khác: Mình đã nắm chắc các công cụ đó chưa? (luật và các văn bản quy phạm pháp luật). Hoạt động quản lý đang diễn ra trong điều kiện, hoàn cảnh nào? Trách nhiệm và quyền hạn quản lý nhà nước của cấp mình đến đâu?... Người làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa dù ở cấp nào cũng cần trả lời các câu hỏi trên một cách thuần thục mới có thể thực thi nhiệm vụ quản lý có hiệu quả.
2. Quản lý văn hóa trong giai đoạn hiện nay
Quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường là một trong những lĩnh vực có rất nhiều vấn đề đặt ra. Việc xác định vấn đề nào là trọng tâm trong quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả quản lý. Cần quan tâm một số vấn đề sau trong quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay:
- Trong thực tiễn hoạt động nhiều năm qua, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, một vấn đề lớn đặt ra là: Phát triển văn hóa chưa đồng bộ với phát triển kinh tế dẫn đến nhiều hệ lụy về phát triển
53
xã hội, đồng thời làm cho phát triển kinh tế thiếu bền vững. Nguyên nhân chính của vấn đề đó là: Nhận thức chưa đầy đủ về văn hóa trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa.
- Đổi mới kinh tế đi trước một bước. Đó là sự sáng tạo trong hoàn cảnh cụ thể ở nước ta chỉ có thể đạt hiệu quả với điều kiện phải nhận thức đúng là: Kinh tế đi trước một bước để tiếp tục đổi mới văn hóa - xã hội đồng bộ cùng với phát triển kinh tế. “Đi trước một bước” không có nghĩa là đổi mới kinh tế xong mới đổi mới văn hóa, “hy sinh văn hóa” để phát triển kinh tế. Trên thực tế, nhiều nơi, nhiều lúc yếu tố văn hóa đã bị coi nhẹ
vì phát triển kinh tế. Nhìn tổng thể, đổi mới văn hóa chưa theo kịp đổi mới kinh tế.
- Vai trò quản lý nhà nước về văn hóa chưa được nhận thức đúng đắn. Trong xã hội có người cho rằng văn hóa là nhu cầu của con người, nó phát sinh, phát triển theo nhu cầu tự nhiên, hãy để nó phát triển theo quy luật vốn có của nó. Những người có quan niệm như vậy không nhiều, nhưng quan niệm ấy lại là cái cớ để tồn tại những lệch lạc trong nhìn nhận quản lý nhà nước về văn hóa: Quản lý hay không quản lý thì văn hóa cũng cứ phát triển theo đường đi của nó.
- Đổi mới nhận thức về quản lý nhà nước bất cập so với phát triển văn hóa. Các hoạt động văn
54
hóa ngày càng đa dạng, các dịch vụ văn hóa cũng phát triển khá mạnh, một mặt đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội, mặt khác cũng gây nhiều hệ lụy với những đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, gây tâm trạng bất an trong xã hội. Quản lý nhà nước không theo kịp sự phát triển, thêm vào đó tồn tại cách hiểu sai “quản lý đến đâu, phát triển đến đó” dẫn đến nhận thức lệch lạc, quy quản lý nhà nước vào một việc cho và không cho (sinh ra tệ xin - cho với bao hệ lụy đi kèm), dẫn đến cách quản lý hạn chế sự phát triển “không quản lý được thì cấm”!
Nói tóm lại, vấn đề nhận thức cho đúng quản lý nhà nước về văn hóa là gì, mục đích, ý nghĩa và cách thức quản lý ra sao, vẫn là những câu hỏi lớn đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề cần nghiên cứu, trao đổi, thảo luận làm sáng tỏ.
3. Đặc điểm về văn hóa khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc thiểu số
Ở khu vực trung du, miền núi, vùng cao, các dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn chung các dân tộc sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước trên thế giới. Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung du; còn các dân tộc thiểu số cư trú chủ yếu ở các vùng trung du, miền núi và vùng cao, một số dân tộc như Khơme, Hoa, một
55
số ít người Chăm sống ở đồng bằng. Các dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu vực riêng biệt mà sống xen kẽ với các dân tộc khác. Cách đây khoảng nửa thế kỷ, Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng, hầu hết cư dân vẫn là người tại chỗ, mỗi dân tộc đều có khu vực cư trú riêng, ranh giới giữa các tộc người, giữa các bản làng còn rõ ràng thì nay tình hình đã khác xa và xu hướng này còn tiếp tục gia tăng. Hiện nay, dân tộc Kinh cư trú ở Đắk Lắk chiếm tỷ lệ khá lớn. Cùng với người Kinh, các dân tộc thiểu số ở miền Bắc gần đây cũng di chuyển vào khu vực này (kể cả di chuyển theo kế hoạch và không theo kế hoạch) với số lượng khá lớn. Hiện nay, ở miền núi hầu như không có tỉnh, huyện nào chỉ có một dân tộc cư trú. Nhiều tỉnh có tới trên 20 dân tộc cư trú như
Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Lâm Ðồng... Phần lớn các huyện có từ 5 dân tộc trở lên cư trú. Nhiều xã, bản, buôn có tới 3 - 4 dân tộc cùng sinh sống.
Tình trạng cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt có điều kiện để tăng cường hiểu biết lẫn nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau; mặt khác cần đề phòng trường hợp do chưa thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập quán nên xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn đến va chạm giữa những người
56
thuộc các dân tộc cùng sống trên một địa bàn. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao lưu kinh tế - văn hóa giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam, nữ thuộc các dân tộc khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà hợp giữa các dân tộc anh em.
Phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú ở vùng trung du, miền núi và vùng cao, chiếm 3/4 diện tích cả nước. Ðây là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn mà trước hết là tiềm lực về tài nguyên rừng và đất rừng. Không những thế, trung du, miền núi còn có vai trò đặc biệt quan trọng về môi trường sinh thái đối với cả
nước như điều hòa khí hậu, điều tiết nguồn nước, bảo vệ lớp đất màu trong mùa mưa lũ. Vị trí chiến lược quan trọng của khu vực trung du, miền núi đã được thực tế lịch sử khẳng định. Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền núi để xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Rừng núi đã từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ. Trong giai đoạn hiện nay, miền núi - biên giới là thành lũy vững chắc của Tổ quốc, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, chống âm
57
mưu xâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ, bảo vệ sự nghiệp hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở vùng biên giới, một số dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc của các nước láng giềng, nên khách quan có nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ở hai bên biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của Ðảng và Nhà nước ta không chỉ vì lợi ích của các dân tộc thiểu số mà còn vì lợi ích của cả nước, không chỉ là đối nội mà còn là đối ngoại, không chỉ về kinh tế - xã hội, mà cả về chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia.
Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Các dân tộc sống ở vùng thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Có những dân tộc thiểu số có đời sống kinh tế - xã hội còn thấp kém. Nhiều dân tộc cư trú trên địa bàn có điều kiện tự nhiên hết sức khó khăn, khắc nghiệt. Ðiều kiện canh tác nương rẫy không ổn định nên đời sống của đồng bào thường bấp bênh. Cuộc sống du canh, du cư thường dẫn tới đói nghèo, bệnh tật.
Khu vực trung du, miền núi vùng dân tộc thiểu số là khu vực địa - văn hóa, địa - kinh tế, địa - chính trị... có đặc điểm riêng, khác với khu
58
vực đồng bằng, ven biển, hải đảo. Trong quá trình sinh sống tại các khu vực địa lý khác nhau từ Bắc vào Nam, từ các khu vực rẻo cao, rẻo giữa, cao nguyên hay thung lũng, chân núi, đồng bằng, ven biển, châu thổ..., đồng bào các dân tộc đã sáng tạo ra nhiều giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể đặc sắc mang đậm dấu ấn gắn với các điều kiện tự
nhiên, vùng địa lý. Đó là những giá trị văn hóa do các cộng đồng dân tộc sáng tạo trong quá trình sinh tồn và phát triển giàu bản sắc riêng, tạo nên tính đa dạng trong tính thống nhất của văn hóa Việt Nam.
Cùng với nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền thống, lịch sử và niềm tự hào dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc là tất cả những giá trị
vật chất và tinh thần, bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, y phục, tâm lý, tình cảm, phong tục, tập quán, tín ngưỡng... được sáng tạo trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hóa mỗi dân tộc càng làm phong phú nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thống nhất trong đa dạng là nét riêng, độc đáo của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới phải hướng vào việc củng cố và tăng
59
cường sự thống nhất, nhân lên sức mạnh tinh thần chung của toàn dân tộc. Ðồng thời, phải khai thác và phát triển mọi sắc thái và giá trị văn hóa của các dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao và nhu cầu phát triển từng dân tộc.
Vấn đề đặt ra trong quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch trên địa bàn xã khu vực trung du, miền núi vùng dân tộc đối với công chức làm công tác văn hóa - xã hội cấp xã là rất lớn, phức tạp và khó khăn đòi hỏi người cán bộ không chỉ có trang bị và nâng cao kiến thức, kỹ năng quản lý mà còn phải có tình yêu quê hương, hiểu biết sâu sắc về quê hương bản quán, phong tục tập quán, bản sắc dân tộc và những xu thế biến đổi của thế giới, đất nước, địa phương đặc biệt là trên địa bàn xã trong phạm vi quản lý để kịp thời điều chỉnh những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch cho phù hợp và ngày càng phát triển, đáp ứng với nhu cầu ngày càng cao của nhân dân trên địa bàn xã.
60
Chuyên đề 4
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
I- XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ
1. Khái niệm xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là xây dựng và phát triển toàn diện đời sống của con người, của cộng đồng cả về vật chất, tinh thần và tạo điều kiện cho mọi người dân được tham gia hưởng thụ và sáng tạo văn hóa ngày càng tốt hơn. Ở đây, “đời sống” là toàn bộ các hoạt động trong một lĩnh vực nào đó, những điều kiện sinh hoạt, lối sống chung của một tập thể, một xã hội của con người.
Đời sống văn hóa bao hàm toàn bộ cách thức, hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển cho bản thân và cho xã hội trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Đời
61
sống văn hóa chính là đời sống của con người, nó được biểu hiện ra muôn hình, muôn vẻ trong lao động, trong ứng xử, giao tiếp, trong việc tạo dựng môi trường văn hóa xã hội lành mạnh, trong cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân, trong cách sống của một cộng đồng xã hội.
Do đó, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là tổng hợp những hoạt động của người dân, nhiều cơ quan, ban ngành, trước hết là của cơ quan, lực lượng làm công tác văn hóa nhằm tuyên truyền, giáo dục, quảng bá văn hóa, tổ chức các hoạt động văn hóa thiết thực, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu giao lưu, hưởng thụ, sáng tạo văn hóa tinh thần của nhân dân góp phần xây dựng nếp sống, môi trường văn hóa lành mạnh, tiến bộ trên từng cộng đồng dân cư.
Do thực trạng và điều kiện khách quan ở cơ sở hiện nay rất khác nhau, sự chênh lệch về đời sống văn hóa giữa cư dân thành thị với nông thôn, giữa các vùng nông thôn với nhau, giữa các dân tộc với nhau và giữa từng nhóm người khác nhau là điều không thể đơn giản, không phải một sớm, một chiều.
Sự chênh lệch về mức độ hưởng thụ văn hóa này không đồng nhất với sự khác nhau trong văn hóa đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa, đa dạng văn hóa. Bản sắc văn hóa cần phải giữ gìn; sự chênh lệch, thiếu công bằng về hưởng thụ văn
62
hóa cần phải khắc phục. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là phải từng bước nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, thu hẹp khoảng cách chênh lệch đó cùng với mở rộng giao lưu, hội nhập văn hóa giữa các cộng đồng, vùng miền, trong nước và quốc tế.
Thông thường hiểu "xây dựng" là làm nên từ không đến có, làm ra cái mới tiến bộ và có ích lợi cho sự phát triển. Có khi xây dựng là tiến hành đồng thời với việc phá bỏ đi cái cũ, cái lỗi thời để hình thành nên cái mới tốt đẹp và hoàn chỉnh hơn. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là tiến hành củng cố và phát huy những thành tựu văn hóa hiện có, nâng cao những giá trị tốt đẹp của tổ tiên truyền lại, từ đó tiếp tục xây dựng đời sống văn hóa tiến bộ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng đời sống văn hóa cũng có nghĩa đồng thời phải chống lại những mặt trái của văn hóa, được gọi là "phản văn hóa". Đó là những sản phẩm văn hóa có nội dung độc hại như hủ tục, tệ
nạn xã hội, mê tín dị đoan, tập quán lạc hậu, thói hư tật xấu trong ứng xử hằng ngày. Do đó, cần sự chủ động đấu tranh với mọi biểu hiện tiêu cực, thụ động trong tư tưởng văn hóa.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở có nghĩa rộng và nghĩa hẹp: Nghĩa rộng của nó là toàn bộ
63
cuộc sống kinh tế - xã hội trên một quê hương bản, làng, xóm, ấp, khu phố. Nghĩa hẹp là những tổ chức, hoạt động về văn hóa, thông tin... nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa thường xuyên của quần chúng, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là những nội dung công việc gắn với chức năng, nhiệm vụ công tác văn hóa - thông tin mà ngành văn hóa - thông tin quản lý, chỉ đạo hướng dẫn thực hiện.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở có hai chiều tác động là từ trên xuống và tại cơ sở tự chăm lo giải quyết (tự vận động). Nhà nước thông qua các chính sách và cơ quan văn hóa nhà nước phải tăng cường đưa về cho cơ sở, đưa đến tận người dân những giá trị tinh thần, những sản phẩm văn hóa cần thiết mà người dân được hưởng hoặc bản thân họ không thể làm ra được, đồng thời nhân dân từng địa phương, cơ sở phải tiếp nhận các giá trị và sản phẩm văn hóa như những món ăn tinh thần thiết yếu nhất. Mặt khác, cơ sở cũng phải cùng nhau gìn giữ, bảo vệ các giá trị truyền thống tốt đẹp bên cạnh việc sáng tạo, phát huy nội lực làm nên bộ mặt văn hóa mới, vun đắp nên nếp sống văn hóa lành mạnh ở từng vùng, từng khu dân cư, khu tập thể, đơn vị công tác, nơi lao động và sinh sống.
64
2. Quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
Đến nay vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã trở nên rất quen thuộc đối với người dân ở mọi miền đất nước. Đó cũng là mối quan tâm thường trực của những người làm công tác văn hóa nói chung, cán bộ văn hóa các địa phương, đặc biệt là ở các xã, phường.
Từ khi thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã chủ trương phát động trong cả nước phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
(1981 - 1985), có những nội dung, chỉ tiêu rõ ràng với sáu mặt công tác chuyên ngành theo chức năng, nhiệm vụ của Bộ được xác định là: thông tin cổ động, văn nghệ quần chúng, đọc sách báo và thư viện, nếp sống văn hóa, giáo dục truyền thống, hoạt động nhà văn hóa - câu lạc bộ.
Quan niệm về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở lúc đó cũng xác định phải chú trọng cả ba lĩnh vực là xây dựng và phát triển phong trào, tổ chức bộ máy ở cơ sở và xây dựng thiết chế văn hóa. Càng về sau khi cơ chế quản lý theo lối hành chính, bao cấp cũ dần bị phá vỡ, từ thực tiễn nảy sinh vấn đề tự chủ về kinh tế, đặc biệt là ở nông thôn, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở cũng như hoạt động văn hóa nói chung cần phải
65
thực hiện theo hướng xã hội hóa mà ban đầu ở nhiều địa phương, cơ sở đã thực hiện với cách gọi là “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Xác định là công tác rất quan trọng nên ngay từ đầu Bộ Văn hóa - Thông tin đã thành lập bộ phận thường trực (kiêm nhiệm) giúp việc cho lãnh đạo Bộ công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, do đích thân Bộ trưởng chỉ đạo. Khi công tác đã tương đối đi vào nền nếp và ngày càng thấy đây là công tác lâu dài nên cơ quan thường trực này được giao hẳn về Cục Văn hóa quần chúng (chuyên trách) theo dõi, tổng hợp. Đây là đầu mối phối hợp với các cơ quan liên quan trong và ngoài ngành, sau này là Cục Văn hóa - Thông tin cơ sở, hiện nay là Cục Văn hóa cơ sở (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) kiêm nhiệm cả trách nhiệm Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Có thể nói, từ khi có Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, hệ thống thiết chế văn hóa - thông tin ở cơ sở từng bước được phát triển, hoàn thiện. Theo thống kê của Bộ Văn hóa - Thông tin, đến năm 1999 đã có 833 thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở, trong đó có 76 trung tâm văn hóa - thông tin (nhà văn hóa thể thao) cấp quận, huyện, 597 đơn vị thông tin lưu động các cấp và 19.535 đội văn nghệ
66
quần chúng các loại. Nhờ có các cơ sở vật chất và phương tiện chuyên dùng được tạo dựng trong thời gian đó đã góp phần quyết định tới việc nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân ở
khắp mọi miền Tổ quốc.
Hàng loạt các văn bản quản lý nhà nước đã lần lượt ra đời, từ quy chế, thông tư, đến chỉ thị, nghị định, pháp lệnh... liên quan đến lĩnh vực văn hóa - thông tin cơ sở đã tạo hành lang pháp lý cần có cho các hoạt động văn hóa - thông tin đồng bộ
khắp cả nước, đảm bảo cho các hoạt động phong phú, đa dạng này được quản lý đúng hướng, góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Đội ngũ cán bộ văn hóa - thông tin cơ sở đã hình thành và phát triển lên rất nhiều. Cán bộ các cấp được đào tạo, có chức danh, tiêu chuẩn, có chế độ, chính sách để thực thi nhiệm vụ mà trước đó đặc biệt là ở xã, phường chưa hề có.
Các hoạt động bề nổi như: liên hoan thông tin lưu động, hội diễn văn nghệ quần chúng, lễ hội hoặc tổ chức các hoạt động văn hóa - nghệ thuật ở địa phương hay vùng miền... nở rộ, ngày càng sâu đậm bản sắc dân tộc với những khai thác, sáng tạo đáp ứng nhu cầu giao lưu, hội nhập của thời kỳ đổi mới của đất nước và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đến nay đã trải qua 35 năm (tính từ năm 1981),
67
từ những thập niên cuối của thế kỷ XX đến thập niên đầu của thế kỷ XXI. Đó là một hành trình phấn đấu bền bỉ, liên tục với bao thăng trầm, biến đổi, với những phấn khởi, tự hào... cùng những ưu điểm và nhược điểm tồn tại khó tránh khỏi như các hoạt động khác. Một trong những cái được nhất, đáng kể nhất, cũng là tâm điểm nhất của những người làm công tác văn hóa cơ sở
là xây dựng làng văn hóa. Phong trào này thực sự phát triển từ cơ sở mà lên, đi từ không đến có, bởi lúc đầu là tự phát, làm “chui” ở một số địa phương, chủ yếu là ở một số tỉnh khu vực đồng bằng Bắc Bộ như Nam Định, Hà Tây, Bắc Ninh, Thanh Hóa...
II- NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ
1. Xây dựng thiết chế văn hóa - thông tin ở cơ sở
Thời đại nào, chế độ nào cũng cần đến những thiết chế văn hóa - thông tin để chuyển tải văn hóa chính thống của Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân, đồng thời tổ chức hoạt động văn hóa phù hợp với yêu cầu tư tưởng, chuẩn mực đạo đức, lối sống, nếp sống của chế độ, thời đại đó.
Trong thực tiễn có nhiều thiết chế tín ngưỡng tôn giáo như: chùa, nhà thờ, đình, đền, miếu, phủ,
68
am, cốc... Nhà rông, nhà dài, nhà gươl là thiết chế văn hóa của nhiều tộc người ở Tây Nguyên. Các rạp chiếu phim, nhà văn hóa, phòng karaoke, điểm internet, sàn nhảy, nhà giáo dục cộng đồng, điểm bưu điện văn hóa xã... là thiết chế văn hóa mới. Còn có cả các cơ sở vui chơi giải trí, công viên nghỉ dưỡng, du lịch, trực tiếp hay gián tiếp cũng góp phần nâng cao đời sống văn hóa cho người dân hiện nay. Cả nước có gần 5 vạn di tích lịch sử
văn hóa, trong đó phần lớn là các thiết chế văn hóa truyền thống và tín ngưỡng.
Thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở được tạo dựng nên để phục vụ cho nhu cầu văn hóa tinh thần của người dân ở cơ sở. Cần phân biệt thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở là những thiết chế do ngành văn hóa - thông tin cơ sở quản lý (như: nhà văn hóa, nhà thông tin - triển lãm cụm panô, cụm cổ động, đội văn nghệ quần chúng,... không những chỉ có ở cơ sở mà còn ở các cấp trên cơ sở
như huyện, tỉnh...) với những thiết chế văn hóa - thông tin ở cơ sở (là những thiết chế văn hóa do cơ sở tạo ra và trực tiếp quản lý).
Như vậy, thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở là những cơ quan văn hóa - thông tin do ngành văn hóa - thông tin cơ sở quản lý, có chức năng thông tin và giáo dục văn hóa, có khi kiêm cả thể thao, vui chơi giải trí... đáp ứng nhu cầu của mọi người về hưởng thụ, sáng tạo và bảo lưu
69
những giá trị văn hóa. Nói cách khác, các thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở có chức năng giáo dục văn hóa ngoài nhà trường, nâng cao dân trí, góp phần phát triển dân sinh, dân chủ ở cơ sở. Cùng với các hoạt động đa dạng, đa năng, phong phú thiết chế đó còn là nơi hội tụ, gắn kết cộng đồng, góp phần điều chỉnh hài hòa các mối quan hệ ở địa bàn dân cư. Đó còn là niềm tự hào của cộng đồng.
Từ thực tiễn hoạt động văn hóa - thông tin ở cấp xã, ở các vùng miền trong cả nước, có thể nhận thức về thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở như sau:
- Thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở là những tổ chức và hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa - thông tin do chính quyền và nhân dân cơ sở tạo nên, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của cộng đồng nhằm xây dựng nền tảng chính trị, tư tưởng để
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường sự đoàn kết giữa Đảng, chính quyền, các đoàn thể và quần chúng, bảo đảm thực hiện quy chế dân chủ để cùng xây dựng và tổ chức thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, làm cho đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở là công cụ trực tiếp của cấp ủy, chính quyền trong lãnh
70
đạo quần chúng, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thiết chế này cung cấp những thông tin chính thống, tổ chức những hoạt động văn hóa lành mạnh mà cấp ủy, chính quyền định hướng, khuyến khích phát triển. Đây là kênh thông tin tuyên truyền sinh động bằng nhiều cách thức: thông tin trực tiếp tình hình nhân dân ở cơ sở đang thực hiện các nhiệm vụ cụ thể; tổ chức các hình thức tập hợp quần chúng để
truyền đạt sự chỉ đạo của Đảng, chính quyền nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội; giới thiệu các mô hình sản xuất hiệu quả, các kiến thức khoa học kỹ thuật, cách tổ chức đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa văn nghệ... thông qua các hình thức sinh hoạt cộng đồng tự
nguyện của nhân dân.
- Thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở là nơi thực hiện phúc lợi xã hội của nhân dân trong hưởng thụ văn hóa qua các hội thi, liên hoan, tập luyện, giao lưu, truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống... Đây cũng là nơi họp chi bộ, các đoàn thể: Hội Người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên; là nơi tổ chức các hoạt động khuyến học, tương thân tương ái; là nơi tụ hội vui chơi thể thao, dưỡng sinh, là nơi cất giữ các trang thiết bị, công cụ phục vụ hội họp, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ
quần chúng... Đồng thời, thiết chế văn hóa -
71
thông tin cơ sở cũng bắt nguồn từ nhu cầu gắn kết tình đồng chí, nghĩa đồng bào thể hiện trách nhiệm với cộng đồng trong ngôi nhà chung.
Việc xây dựng thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở ở xã, phường, thị trấn cần đảm bảo hội tụ các yếu tố sau:
- Có tổ chức bộ máy, cán bộ nghiệp vụ có phương pháp hoạt động.
- Có địa điểm, cơ sở vật chất, phương tiện trang thiết bị.
- Có thể chế, luật lệ (quy chế, kinh phí hoạt động, chế độ chính sách).
- Có đối tượng, nội dung, chương trình thường xuyên.
2. Các hoạt động văn hóa - thông tin ở cơ sở
Nhu cầu về văn hóa - thông tin của nhân dân rất phong phú, đa dạng. Vì vậy, các hoạt động văn hóa - thông tin cơ sở cũng rất phong phú, đa dạng. Có thể quy tụ hoạt động này thành một số loại hình cơ bản sau:
a) Hoạt động thông tin - tuyên truyền, cổ động
Nhiệm vụ chủ yếu của công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động là phổ biến rộng rãi trong công chúng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, động viên nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị của Trung ương và địa phương, nêu
72
gương người tốt, việc tốt, phê phán thói hư, tật xấu góp phần tạo dựng đời sống văn hóa mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở cơ sở.
Trong công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động có nhiều biện pháp, hình thức. Triển lãm là hình thức giáo dục trực quan sinh động mà sâu sắc thu hút đông đảo quần chúng. Các tổ, đội thông tin lưu động là lực lượng xung kích, luôn đem tiếng nói của Đảng, Nhà nước đến tận những bản, làng xa xôi, hẻo lánh, dùng hình thức văn nghệ nhỏ nhẹ để chuyển tải thông tin, kết hợp cổ
động trực quan với tuyên truyền miệng. Hoạt động thông tin cổ động đòi hỏi rất nhanh nhạy, kịp thời, tác động trực tiếp tới đối tượng nên có hiệu quả cao.
Ngày nay, nhờ ảnh hưởng của cách mạng khoa học và công nghệ đã xuất hiện các phương tiện truyền thông đại chúng được hiện đại hóa và thông tin mạng rộng khắp nên công tác thông tin cũng phát triển mạnh. Con người vì thế càng được tiếp cận và chịu tác động của cả thế giới năng động. Do đó, con người cũng dễ lúng túng trước sự
bùng nổ thông tin. Như vậy, công tác thông tin cổ động được tiếp thêm khả năng mới, vì thế cũng cần định hướng đúng để giúp cho con người lựa chọn và tiếp nhận thông tin thuận lợi, để có nhận thức và hành động đúng, thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân tốt.
73
b) Hoạt động câu lạc bộ, nhà văn hóa
Câu lạc bộ là một tổ chức xã hội tập hợp theo nguyên tắc tự nguyện của những người cùng sở thích hoặc cùng giới thuộc các lĩnh vực chính trị - xã hội - kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn học - nghệ thuật và các hoạt động vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, thể dục, thể thao khác. Loại câu lạc bộ này cũng thường được tổ chức tại các cơ quan văn hóa - giáo dục như: nhà văn hóa (cung), trung tâm văn hóa - thông tin thuộc hệ thống cơ quan nhà nước hoặc thuộc các ngành, giới như Quân đội, Công an, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ, Mặt trận...
Câu lạc bộ hoạt động theo tinh thần tự nguyện, tự quản (tự quản về tổ chức, tự quản về nội dung, tự quản về tài chính) theo đúng pháp luật của Nhà nước hiện hành.
c) Hoạt động thư viện, đọc sách báo
Sách báo là nguồn tri thức, là bạn tốt của mỗi người, góp phần trực tiếp vào việc nâng cao hiểu biết cho mọi đối tượng. Vì vậy, thư viện, phòng đọc thường xuyên chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động khai trí của các cơ quan văn hóa.
Muốn cho việc đọc sách báo được phổ biến rộng rãi trong công chúng thì người hướng dẫn phải biết lựa chọn, giới thiệu các loại sách, báo có tác dụng thiết thực đến đời sống. Phải chú ý tới nhu
74
cầu về sách, báo của bạn đọc, nhất là của thanh niên, thiếu nhi, của người cao tuổi, người khuyết tật... Hướng dẫn và thu hút lớp trẻ đọc sách, báo lành mạnh để nâng cao nhận thức, để tự hoàn thiện về nhân cách là nhiệm vụ quan trọng của công tác thư viện, tủ sách... thực hiện tốt chủ
trương phát triển văn hóa đọc và tổ chức tốt ngày Hội đọc sách và Bản quyền thế giới 2-4 hằng năm. Có rất nhiều cách đưa sách hay, sách tốt đến quần chúng theo tinh thần “sách đi tìm người”, “túi sách trên lưng”. Hoạt động luân chuyển sách của thư viện làm cho bạn đọc được tiếp cận nhiều với sách và vốn sách cũng được tăng lên.
d) Hoạt động giáo dục truyền thống
Để tiến hành công tác giáo dục truyền thống văn hóa - lịch sử và cách mạng, ngành văn hóa chủ trương xây dựng các nhà bảo tàng, phòng truyền thống, các địa chỉ đỏ ở những nơi cần thiết để góp phần giáo dục truyền thống. Ở các đơn vị
cơ sở có thể xây dựng phòng truyền thống hoặc góc truyền thống, nhà lưu niệm...
Các hoạt động có tính phong trào như: “Uống nước nhớ nguồn”, “Đi tìm địa chỉ đỏ”, “Đền ơn đáp nghĩa”, tổ chức các ngày hội truyền thống cũng có ý nghĩa giáo dục tốt. Việc công nhận và xây dựng các di tích lịch sử - văn hóa cũng nhằm để giáo dục văn hóa hiệu quả.
75
đ) Hoạt động văn nghệ quần chúng
Hoạt động văn nghệ quần chúng là dạng hoạt động rất hấp dẫn, phong phú, đa dạng, không thể thiếu ở cơ sở, thu hút đông đảo quần chúng ở mọi lứa tuổi tham gia. Hoạt động văn nghệ quần chúng là nhân tố quan trọng làm nên sức sống của một đơn vị văn hóa ở cơ sở. Hoạt động văn nghệ quần chúng bao gồm cả việc sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa - nghệ thuật, biểu diễn, lưu giữ và truyền bá những giá trị đó kể cả văn hóa - văn nghệ dân gian truyền thống.
Có rất nhiều thể loại văn nghệ quần chúng như ca, kịch, múa, thơ, nhạc, họa, múa rối, xiếc... và biểu diễn trên sân khấu hoặc ngoài trời để tự biểu hiện tài năng nghệ thuật của họ.
e) Hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa, môi trường văn hóa
Nếp sống là toàn bộ những ứng xử của con người, biểu hiện trong mối quan hệ đối với thiên nhiên, với xã hội và bản thân được lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống, trở thành thói quen, thành phong tục. Đó cũng là một hệ thống chuẩn mực xã hội được cộng đồng chấp nhận và tự
nguyện thực hiện. Phong tục, tập quán có những giá trị tốt đẹp cần bảo lưu và phát triển, có những hạn chế, lạc hậu cần khắc phục.
76
Xây dựng nếp sống là xây dựng nếp sống cá nhân, nếp sống gia đình và nếp sống xã hội. Vì vậy, các thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở và hoạt động của nó có tác dụng hình thành nếp sống văn hóa mới, khắc phục những tiêu cực, hạn chế của nếp sống cũ.
Hiện nay, gia đình cũng được coi là một dạng cơ sở đặc biệt để xây dựng nếp sống văn hóa. Từ lâu, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa. Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12-1-1998, Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 14/1998/CT-TTg ngày 28-3-1998 về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội cũng là để xây dựng nếp sống văn hóa mới, xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đấu tranh bài trừ các hủ tục, tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan.
g) Hoạt động thể dục, thể thao, vui chơi giải trí
Hoạt động thể dục, thể thao không chỉ nhằm mục đích tăng cường thể chất, mà còn rèn luyện nên những phẩm chất tinh thần như: ý chí bền bỉ, lòng dũng cảm, hoạt bát, thông minh và tinh thần tập thể, đồng đội, cũng như các hoạt động vui chơi khác, hoạt động thể dục, thể thao có tác dụng giải trí lớn.
77
Ở những nơi có điều kiện như có nhà văn hóa - thông tin, sân bãi... thì có thể kết hợp tổ chức thành các điểm vui chơi giải trí thường xuyên. Nơi chưa có điều kiện thì nên tổ chức hoạt động thể thao, thể dục, vui chơi, giải trí theo định kỳ
thì nên tại đơn vị cơ sở, hoặc ở các gia đình có điều kiện.
Thể dục, thể thao là một dạng hoạt động văn hóa thể chất rất cần ở cơ sở, đáp ứng các nhu cầu khác nhau của mọi lứa tuổi.
78