🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kinh Thánh (Bản Dịch Mới) Ebooks Nhóm Zalo PHẦN KINH THÁNH TIẾNG HÊ-BƠ-RƠ Sáng Xuất Lê Dân Phục Giô-suê Quan Ru 1 Sa 2 Sa 1 Vua 2 Vua 1 Sử 2 Sử Ê-xơ-ra Nê Ê-xơ-tê Truyền Nhã Gióp Thi Châm Ê-sai Giê Ai Ê-xê Đa Ô-sê Giô-ên A-mốt Áp Giô-na Mi Na Ha-ba Xô Ha-gai Xa Mal PHẦN KINH THÁNH TIẾNG HY LẠP Mat Mác Lu Giăng Công Rô 1 Cô 2 Cô Ga Ê-phê Phi-líp Cô 1 Tê 2 Tê 1 Ti 2 Ti Tít Phi-lê Hê Gia 1 Phi 2 Phi 1 Giăng 2 Giăng 3 Giăng Giu Khải Trang tựa/Trang nhà xuất bản Kinh Thánh—Bản dịch Thế Giới Mới Dịch theo Kinh Thánh—Bản dịch Thế Giới Mới hiệu đính 2013 (Anh ngữ) “Chúa Tối Thượng Giê-hô-va [יהוה, YHWH] phán như vầy: ‘... Kìa! Ta tạo dựng trời mới và đất mới; những điều trước kia sẽ không được gợi lên trong trí, cũng không được khơi lại trong lòng’”.—Ê-sai 65:13, 17; cũng xem 2 Phi-e-rơ 3:13. © 2017 WATCH TOWER BIBLE AND TRACT SOCIETY OF PENNSYLVANIA 100 Watchtower Drive Patterson, NY 12563-9204 U.S.A. Kinh Thánh—Bản dịch Thế Giới Mới NHÀ XUẤT BẢN WATCHTOWER BIBLE AND TRACT SOCIETY OF NEW YORK, INC. Wallkill, New York, U.S.A. Có trọn bộ hay một phần trong hơn 130 ngôn ngữ. Để xem danh sách các ngôn ngữ, xin truy cập www.jw.org/vi. Tổng số phát hành của Bản dịch Thế Giới Mới (tất cả các phiên bản): 217.844.067 bản In năm 2016 Ấn phẩm này không dùng để bán, nhưng được phát hành nhằm đẩy mạnh công việc dạy dỗ Kinh Thánh của Nhân Chứng Giê-hô-va trên khắp thế giới. New World Translation of the Holy Scriptures Vietnamese (nwt-VT) Made in the United States of America In tại Hoa Kỳ 900 Red Mills Road Wallkill, NY 12589-3223 U.S.A. Giới thiệu về Lời Đức Chúa Trời Kinh Thánh chứa đựng thông điệp hay lời của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta ngày nay. Kinh Thánh cho thấy làm thế nào để có đời sống thành công và được Đức Chúa Trời chấp nhận. Sách này cũng giải đáp những câu hỏi sau: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Đức Chúa Trời là ai? Làm thế nào bạn có thể biết về Đức Chúa Trời? Ai là tác giả của Kinh Thánh? Kinh Thánh có chính xác về khoa học không? Kinh Thánh chứa đựng thông điệp nào? Kinh Thánh tiên tri điều gì về Đấng Mê-si? Kinh Thánh báo trước điều gì về thời kỳ của chúng ta? Đức Chúa Trời có gây ra đau khổ không? Tại sao con người chịu đau khổ? Kinh Thánh hứa điều gì về tương lai? Điều gì xảy ra khi một người qua đời? 12 13 14 15 16 17 18 19 20 Có hy vọng nào cho người đã khuất? Kinh Thánh nói gì về việc làm? Làm sao bạn có thể quản lý tài sản của mình? Làm sao bạn có thể tìm được hạnh phúc? Làm thế nào bạn có thể đối phó với nỗi lo lắng? Kinh Thánh mang lại lợi ích nào cho gia đình bạn? Làm thế nào bạn có thể đến gần Đức Chúa Trời? Các sách trong Kinh Thánh có nội dung gì? Làm sao để nhận lợi ích tối đa khi đọc Kinh Thánh? CÁCH TÌM CÂU KINH THÁNH Kinh Thánh gồm 66 sách nhỏ, được chia thành hai phần: phần Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng A-ram (“Cựu ước”); phần Kinh Thánh tiếng Hy Lạp (“Tân ước”). Đa số các sách chia thành những chương và câu. Khi câu Kinh Thánh được trích dẫn, số đầu sau tên sách là chương và số tiếp theo là câu. Ví dụ, Sáng thế 1:1 có nghĩa là Sáng thế chương 1, câu 1. CÂU HỎI 1 Đức Chúa Trời là ai? “Nguyện mọi người biết rằng chỉ mình ngài, danh là Giê-hô va, là Đấng Tối Cao trên khắp trái đất”. Thi thiên 83:18 “Hãy biết rằng Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời. Ngài là đấng dựng nên chúng ta, chúng ta thuộc về ngài”. Thi thiên 100:3 “Ta là Đức Giê-hô-va. Ấy là danh ta; ta không trao vinh quang ta cho ai khác, hoặc nhường sự ngợi khen ta cho tượng khắc”. Ê-sai 42:8 “Ai kêu cầu danh Đức Giê-hô va thì sẽ được cứu”. Rô-ma 10:13 “Hiển nhiên, ngôi nhà nào cũng có người dựng nên, còn đấng dựng nên muôn vật chính là Đức Chúa Trời”. Hê-bơ-rơ 3:4 “Hãy ngước mắt lên trời xem! Ai đã tạo các vật ấy? Chính là đấng đem đạo quân chúng ra theo số và gọi hết thảy theo tên. Vì sức ngài vô biên, quyền năng ngài đáng sợ nên không vật nào thiếu”. Ê-sai 40:26 CÂU HỎI 2 Làm thế nào bạn có thể biết về Đức Chúa Trời? “Sách Luật pháp này đừng xa miệng con, con phải đọc nhẩm nó ngày lẫn đêm để cẩn thận vâng giữ mọi điều được viết trong sách; nhờ đó, con sẽ thành công trong đường lối mình và khôn ngoan trong các hành động mình”. Giô-suê 1:8 “Họ tiếp tục đọc lớn tiếng những lời trong sách, từ Luật pháp của Đức Chúa Trời, rồi giải thích rõ ràng và cắt nghĩa những lời ấy; như thế họ giúp dân chúng hiểu những gì vừa đọc”. Nê-hê-mi 8:8 “Hạnh phúc cho người không bước theo mưu kẻ gian ác... Nhưng niềm vui thích người ở nơi luật pháp Đức Giê-hô-va, ngày đêm người đọc nhẩm luật pháp ngài... Mọi việc người làm đều sẽ thành công”. Thi thiên 1:1-3 “Phi-líp chạy bên cạnh xe đó và nghe viên quan đọc lớn tiếng sách của nhà tiên tri Ê-sai thì hỏi: ‘Ông có hiểu những điều mình đọc không?’. Ông trả lời: ‘Làm sao tôi hiểu được nếu không có người chỉ dẫn?’” Công vụ 8:30, 31 “Đức Chúa Trời là vô hình, nhưng từ lúc thế gian được dựng nên, khi xem xét những vật ngài tạo ra thì người ta có thể thấy rõ các đặc tính của ngài, tức quyền năng muôn đời và cương vị Chúa Trời; bởi thế, họ không thể bào chữa cho mình”. Rô-ma 1:20 “Hãy suy ngẫm và miệt mài với những điều ấy, hầu cho mọi người có thể thấy rõ sự tiến bộ của con”. 1 Ti-mô-thê 4:15 “Hãy quan tâm đến nhau để khuyến giục nhau biểu lộ tình yêu thương và làm việc lành, chớ bỏ việc nhóm họp với nhau”. Hê-bơ-rơ 10:24, 25 “Nếu ai trong anh em thiếu sự khôn ngoan thì hãy tiếp tục cầu xin Đức Chúa Trời, vì ngài rộng rãi ban cho mọi người mà không trách mắng gì; và người ấy sẽ được ban sự khôn ngoan”. Gia-cơ 1:5 CÂU HỎI 3 Ai là tác giả của Kinh Thánh? “Môi-se ghi lại mọi lời của Đức Giê-hô-va”. Xuất Ai Cập 24:4 “Đa-ni-ên mơ thấy một giấc chiêm bao và các khải tượng hiện ra trong đầu ông khi nằm trên giường. Đa-ni-ên ghi lại giấc chiêm bao; ông ghi lại toàn bộ những điều đó”. Đa-ni-ên 7:1 “Khi tiếp nhận lời Đức Chúa Trời mà anh em nghe nơi chúng tôi, anh em đã chấp nhận đó là lời của Đức Chúa Trời, chứ không phải lời của con người, vì đó thật là lời ngài”. 1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13 “Cả Kinh Thánh đều được Đức Chúa Trời soi dẫn, hữu ích cho việc dạy dỗ”. 2 Ti-mô-thê 3:16 “Không hề có lời tiên tri nào ra bởi ý muốn của loài người, nhưng người ta nói những điều đến từ Đức Chúa Trời khi được thần khí thánh thúc đẩy”. 2 Phi-e-rơ 1:21 CÂU HỎI 4 Kinh Thánh có chính xác về khoa học không? “Ngài trải bầu trời phương bắc trên vùng trống, treo trái đất lơ lửng trong khoảng không”. Gióp 26:7 “Sông suối đều chảy ra biển, nhưng biển chẳng hề đầy. Chúng chảy từ đâu thì trở về đó, để rồi lại chảy tiếp”. Truyền đạo 1:7 “Có một đấng ngự trên vòng trái đất”. Ê-sai 40:22 CÂU HỎI 5 Kinh Thánh chứa đựng thông điệp nào? “Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ. Người sẽ giày đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ cắn gót chân người”. Sáng thế 3:15 “Nhờ dòng dõi con mà mọi dân tộc trên đất sẽ đạt được ân phước cho mình, vì con đã nghe lời ta”. Sáng thế 22:18 “Xin Nước Cha được đến, ý Cha được thực hiện ở dưới đất cũng như trên trời”. Ma-thi-ơ 6:10 “Về phần Đức Chúa Trời, đấng ban sự bình an, không lâu nữa ngài sẽ giày đạp Sa-tan dưới chân anh em”. Rô-ma 16:20 “Khi muôn vật đã phục mình, chính Con cũng sẽ phục đấng đã khiến muôn vật phải phục mình, hầu cho Đức Chúa Trời là mọi sự cho mọi người”. 1 Cô-rinh-tô 15:28 “Áp-ra-ham và dòng dõi của ông đã nhận các lời hứa... [Dòng dõi] là Đấng Ki-tô. Ngoài ra, nếu thuộc về Đấng Ki-tô, anh em thật sự là dòng dõi của Áp-ra-ham”. Ga-la-ti 3:16, 29 “Nước của thế gian nay trở thành Nước của Chúa chúng ta và Đấng Ki-tô của ngài, ngài sẽ trị vì muôn đời bất tận”. Khải huyền 11:15 “Vậy, con rồng lớn ấy bị quăng xuống; đó là con rắn xưa kia, gọi là Ác Quỷ và Sa-tan, là kẻ lừa gạt toàn thể dân cư trên đất; hắn bị quăng xuống trái đất, các thiên sứ của hắn cũng bị quăng xuống cùng với hắn”. Khải huyền 12:9 “Thiên sứ ấy bắt con rồng, tức con rắn xưa kia, là Ác Quỷ và Sa tan, rồi xiềng hắn lại trong 1.000 năm”. Khải huyền 20:2 CÂU HỎI 6 Kinh Thánh tiên tri điều gì về Đấng Mê-si? LỜI TIÊN TRI “Về phần ngươi, hỡi Bết-lê-hem Ép-ra-ta,... từ nơi ngươi sẽ ra cho ta một vị sẽ cai trị Y-sơ-ra-ên”. Mi-chê 5:2 ỨNG NGHIỆM “Sau khi Chúa Giê-su sinh ra ở thành Bết-lê-hem thuộc xứ Giu đê vào thời vua Hê-rốt, kìa, có các nhà chiêm tinh từ Đông Phương đi đến Giê-ru-sa-lem”. Ma-thi-ơ 2:1 LỜI TIÊN TRI “Các áo của con, chúng đem chia nhau; y phục của con, chúng bắt thăm lấy”. Thi thiên 22:18 ỨNG NGHIỆM “Khi đã đóng đinh Chúa Giê-su trên cây cột, quân lính lấy các áo ngoài của ngài và chia làm bốn... Nhưng [áo trong] không có đường may mà được dệt nguyên từ trên xuống dưới. Vì thế họ nói với nhau: ‘Chúng ta đừng xé nó, nhưng hãy bắt thăm để xem ai sẽ được’”. Giăng 19:23, 24 LỜI TIÊN TRI “Mọi xương cốt người, ngài gìn giữ cả, dẫu cho một cái cũng không bị gãy”. Thi thiên 34:20 ỨNG NGHIỆM “Khi đến chỗ Chúa Giê-su, họ thấy ngài đã chết nên không đánh gãy chân ngài”. Giăng 19:33 LỜI TIÊN TRI “Người bị đâm chính vì sai phạm chúng con”. Ê-sai 53:5 ỨNG NGHIỆM “Một tên lính lấy giáo đâm vào sườn ngài, máu và nước liền chảy ra”. Giăng 19:34 LỜI TIÊN TRI “Họ bèn trả tiền công cho tôi là 30 miếng bạc”. Xa-cha-ri 11:12, 13 ỨNG NGHIỆM “Sau đó, một trong 12 sứ đồ gọi là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt đến gặp các trưởng tế và hỏi: ‘Các ông sẽ cho tôi gì để tôi nộp người cho các ông?’. Họ thỏa thuận với hắn 30 miếng bạc”. Ma-thi-ơ 26:14, 15; 27:5 CÂU HỎI 7 Kinh Thánh báo trước điều gì về thời kỳ của chúng ta? “Dân này sẽ đánh dân kia và nước này tấn công nước nọ... Tất cả những điều đó là khởi đầu của sự khốn khổ”. Ma-thi-ơ 24:7, 8 “Nhiều kẻ tiên tri giả sẽ xuất hiện và lừa gạt nhiều người; và vì sự gian ác gia tăng nên lòng yêu thương của đa số người ta sẽ nguội lạnh dần”. Ma-thi-ơ 24:11, 12 “Khi anh em nghe tiếng ầm ĩ của chiến tranh và nghe tin tức về chiến tranh thì đừng hoảng sợ; những điều ấy phải xảy ra nhưng sự kết thúc chưa đến đâu”. Mác 13:7 “Sẽ có những trận động đất lớn, hết nơi này đến nơi khác có đói kém và dịch bệnh; sẽ có những cảnh tượng đáng sợ; và từ trời sẽ xuất hiện những dấu lạ lớn”. Lu-ca 21:11 “Những ngày sau cùng sẽ là một thời kỳ đặc biệt và rất khó đương đầu. Vì người ta chỉ biết yêu bản thân, ham tiền, khoe khoang, cao ngạo, phạm thượng, không vâng lời cha mẹ, vô ơn, bất trung, thiếu tình thương tự nhiên, cố chấp, vu khống, thiếu tự chủ, hung dữ, không yêu điều lành, phản bội, ương ngạnh, lên mặt kiêu ngạo, ham mê lạc thú thay vì yêu mến Đức Chúa Trời, bề ngoài có vẻ sùng kính nhưng lại không thể hiện trong đời sống”. 2 Ti-mô-thê 3:1-5 CÂU HỎI 8 Đức Chúa Trời có gây ra đau khổ không? “Đức Chúa Trời không bao giờ làm điều ác, Đấng Toàn Năng chẳng hề làm điều sai!” Gióp 34:10 “Khi gặp thử thách, chớ có ai nói: ‘Đức Chúa Trời thử thách tôi’. Vì Đức Chúa Trời không thể bị thử thách bởi điều ác nào, và chính ngài cũng không dùng điều ác để thử thách ai”. Gia-cơ 1:13 “Hãy trút hết mọi lo lắng cho ngài, vì ngài quan tâm đến anh em”. 1 Phi-e-rơ 5:7 “Đức Giê-hô-va không chậm trễ về lời hứa của ngài như một số người nghĩ, nhưng ngài kiên nhẫn với anh em vì chẳng muốn bất cứ ai bị hủy diệt mà muốn mọi người đều ăn năn”. 2 Phi-e-rơ 3:9 CÂU HỎI 9 Tại sao con người chịu đau khổ? “Không phải lúc nào người chạy nhanh cũng thắng cuộc, người hùng mạnh cũng thắng trận, người khôn ngoan cũng được miếng ăn, người thông minh cũng được giàu có, hay người có tri thức cũng thành công, vì thời thế và chuyện bất trắc xảy đến cho tất cả”. Truyền đạo 9:11 “Bởi một người mà tội lỗi vào thế gian và bởi tội lỗi mà có sự chết, nên sự chết trải trên mọi người vì hết thảy đều có tội”. Rô-ma 5:12 “Mục đích Con Đức Chúa Trời đến là để phá hủy công việc của Ác Quỷ”. 1 Giăng 3:8 “Cả thế gian nằm dưới quyền của Kẻ Ác”. 1 Giăng 5:19 CÂU HỎI 10 Kinh Thánh hứa điều gì về tương lai? “Người công chính sẽ hưởng trái đất và được sống trên đó mãi mãi”. Thi thiên 37:29 “Trái đất đứng vững muôn đời”. Truyền đạo 1:4 “Ngài sẽ nuốt sự chết đến muôn đời, Chúa Tối Thượng Giê-hô-va sẽ lau nước mắt trên mọi mặt”. Ê-sai 25:8 “Bấy giờ, mắt người mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông. Bấy giờ, người bị què sẽ nhảy như nai, lưỡi người câm cất tiếng reo mừng. Nước sẽ tuôn chảy trong hoang mạc, sông suối tuôn trào trong đồng bằng khô cằn”. Ê-sai 35:5, 6 “Ngài sẽ lau hết nước mắt trên mắt họ, sẽ không còn sự chết, than van, khóc lóc hay đau đớn nữa. Những điều trước kia nay đã qua rồi”. Khải huyền 21:4 “Dân ta sẽ xây nhà và được ở đó, trồng vườn nho và được ăn trái. Họ sẽ không xây để rồi người khác ở, không trồng để rồi người khác ăn. Tuổi dân ta sẽ như tuổi cây, và những người ta chọn sẽ hưởng trọn vẹn công việc tay mình”. Ê-sai 65:21, 22 CÂU HỎI 11 Điều gì xảy ra khi một người qua đời? “Hơi thở tắt đi, người trở về đất; vào chính ngày đó, tư tưởng biến tan”. Thi thiên 146:4 “Người sống biết mình sẽ chết, nhưng người chết chẳng biết chi hết... Việc gì tay con làm được, hãy làm hết sức mình, vì dưới mồ mả là nơi con đi đến, chẳng có việc làm, dự tính, tri thức hay sự khôn ngoan”. Truyền đạo 9:5, 10 “[Chúa Giê-su] nói thêm: ‘Anh bạn La-xa-rơ của chúng ta đã ngủ rồi, nhưng tôi sắp đến đó để đánh thức anh ấy’. Tuy nhiên, Chúa Giê-su nói về cái chết của La-xa-rơ. Nhưng họ tưởng ngài nói về giấc ngủ để nghỉ ngơi. Rồi Chúa Giê-su nói rõ với họ: ‘La-xa-rơ chết rồi’”. Giăng 11:11, 13, 14 CÂU HỎI 12 Có hy vọng nào cho người đã khuất? “Đừng kinh ngạc về điều đó, vì giờ sẽ đến, khi mọi người trong mồ tưởng niệm nghe tiếng ngài và ra khỏi”. Giăng 5:28, 29 “Sẽ có sự sống lại của người công chính và không công chính”. Công vụ 24:15 “Tôi thấy những người chết, cả lớn lẫn nhỏ, đứng trước ngai, và các cuộn sách được mở ra. Nhưng có một cuộn sách khác được mở ra, đó là cuộn sách sự sống. Những người chết được phán xét tùy theo việc làm của mình, dựa vào mọi điều viết trong các cuộn sách. Biển thả những người chết trong nó, sự chết và mồ mả cũng thả những người chết trong chúng, và mỗi người trong vòng họ được phán xét tùy theo việc làm của mình”. Khải huyền 20:12, 13 CÂU HỎI 13 Kinh Thánh nói gì về việc làm? “Con có thấy người khéo léo làm việc không? Người sẽ đứng trước mặt các vua, chứ chẳng đứng trước mặt dân thường”. Châm ngôn 22:29 “Kẻ trộm cắp đừng trộm cắp nữa; thay vì thế, hãy chịu khó nhọc, làm việc lương thiện bằng chính đôi tay mình, để có gì đó chia sẻ với người thiếu thốn”. Ê-phê-sô 4:28 “Ai ai cũng nên ăn uống và vui mừng về mọi việc khó nhọc của mình. Đó là món quà của Đức Chúa Trời”. Truyền đạo 3:13 CÂU HỎI 14 Làm sao bạn có thể quản lý tài sản của mình? “Kẻ yêu sự vui chơi sẽ trở nên nghèo khó; kẻ yêu rượu và dầu sẽ chẳng được giàu có”. Châm ngôn 21:17 “Người vay làm tôi người cho vay”. Châm ngôn 22:7 “Có ai trong anh em muốn xây một cái tháp mà trước hết không ngồi xuống tính phí tổn, xem mình có đủ để hoàn tất không? E rằng, khi đặt móng rồi mà không hoàn thành được thì mọi người nhìn thấy sẽ chê cười rằng: ‘Ông này khởi công xây cất mà không hoàn tất nổi’”. Lu-ca 14:28-30 “Khi họ đã ăn no, ngài bảo các môn đồ: ‘Hãy gom lại những miếng bánh thừa để khỏi lãng phí’”. Giăng 6:12 CÂU HỎI 15 Làm sao bạn có thể tìm được hạnh phúc? “Thà một món rau mà có tình yêu thương, còn hơn bò vỗ béo mà có lòng căm ghét”. Châm ngôn 15:17 “Ta, Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của con, đấng dạy dỗ con hầu con được ích, đấng hướng dẫn con trên đường phải đi”. Ê-sai 48:17 “Hạnh phúc cho những người ý thức về nhu cầu tâm linh của mình, vì Nước Trời thuộc về họ”. Ma-thi-ơ 5:3 “Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình”. Ma-thi-ơ 22:39 “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, hãy làm như vậy cho họ”. Lu-ca 6:31 “Hạnh phúc cho những người nghe và giữ lời Đức Chúa Trời!” Lu-ca 11:28 “Dù một người có dư dật thì của cải cũng không mang lại sự sống cho người ấy”. Lu-ca 12:15 “Vậy nên, có thức ăn, áo mặc thì phải thỏa lòng”. 1 Ti-mô-thê 6:8 “Cho thì hạnh phúc hơn nhận”. Công vụ 20:35 CÂU HỎI 16 Làm thế nào bạn có thể đối phó với nỗi lo lắng? “Hãy trút gánh nặng cho Đức Giê-hô-va, ngài sẽ nâng đỡ anh em. Ngài chẳng bao giờ để người công chính vấp ngã”. Thi thiên 55:22 “Kế hoạch người cần mẫn hẳn dẫn tới thành công, nhưng mọi kẻ hấp tấp ắt đi đến đói nghèo”. Châm ngôn 21:5 “Đừng sợ chi vì ta ở với con. Đừng lo gì vì ta là Đức Chúa Trời của con. Ta sẽ thêm sức cho con, phải, ta sẽ giúp đỡ; phải, ta sẽ giữ chặt con bằng tay hữu công chính của ta”. Ê-sai 41:10 “Có ai trong anh em lo lắng mà làm cho đời mình dài thêm một khắc không?” Ma-thi-ơ 6:27 “Chớ bao giờ lo lắng về ngày mai, vì ngày mai có điều lo lắng của ngày mai. Ngày nào có đủ nỗi khổ của ngày đó”. Ma-thi-ơ 6:34 “Nhận biết những điều quan trọng hơn”. Phi-líp 1:10 “Đừng lo lắng bất cứ điều gì, nhưng trong mọi việc, hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và tạ ơn mà trình lời thỉnh cầu của anh em cho Đức Chúa Trời; rồi sự bình an của Đức Chúa Trời, là điều vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ bảo vệ lòng và trí của anh em qua Đấng Ki-tô Giê-su”. Phi-líp 4:6, 7 CÂU HỎI 17 Kinh Thánh mang lại lợi ích nào cho gia đình bạn? NGƯỜI CHỒNG/NGƯỜI CHA “Cũng một thể ấy, chồng phải yêu vợ như chính thân mình. Ai yêu vợ là yêu chính mình, bởi không người nào ghét thân thể mình, nhưng nuôi nấng và yêu quý nó... Mỗi người phải yêu vợ như yêu chính mình”. Ê-phê-sô 5:28, 29, 33 “Hỡi những người làm cha, đừng làm cho con cái bực tức, nhưng hãy luôn dùng sự sửa phạt và khuyên bảo của Đức Giê-hô-va mà nuôi dạy chúng”. Ê-phê-sô 6:4 NGƯỜI VỢ “Vợ thì phải kính trọng chồng sâu xa”. Ê-phê-sô 5:33 “Hỡi người làm vợ, hãy vâng phục chồng mình, vì điều đó thích hợp với môn đồ của Chúa”. Cô-lô-se 3:18 CON CÁI “Hỡi những người làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo cách đẹp lòng Chúa, vì điều đó là công chính. ‘Hãy hiếu kính cha mẹ’ là điều răn đầu tiên có kèm theo một lời hứa: ‘Hầu cho mọi việc sẽ tốt đẹp với ngươi và ngươi được sống lâu trên đất’”. Ê-phê-sô 6:1-3 “Hỡi người làm con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì điều đó đẹp lòng Chúa”. Cô-lô-se 3:20 CÂU HỎI 18 Làm thế nào bạn có thể đến gần Đức Chúa Trời? “Lạy Đấng Nghe Lời Cầu Nguyện, mọi loại người sẽ đến cùng ngài”. Thi thiên 65:2 “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, đừng dựa vào sự hiểu biết của riêng mình. Trong mọi đường con, hãy nhận biết ngài thì ngài sẽ san bằng các lối con”. Châm ngôn 3:5, 6 “Để có được sự sống vĩnh cửu, họ cần phải tìm hiểu về Cha, là Đức Chúa Trời thật và duy nhất, cùng đấng mà Cha đã phái đến là Chúa Giê-su Ki-tô”. Giăng 17:3 “[Đức Chúa Trời] không ở xa mỗi người trong chúng ta”. Công vụ 17:27 “Tôi luôn cầu nguyện cho tình yêu thương của anh em ngày càng gia tăng cùng với sự hiểu biết chính xác và sự thông sáng trọn vẹn”. Phi-líp 1:9 “Nếu ai trong anh em thiếu sự khôn ngoan thì hãy tiếp tục cầu xin Đức Chúa Trời, vì ngài rộng rãi ban cho mọi người mà không trách mắng gì; và người ấy sẽ được ban sự khôn ngoan”. Gia-cơ 1:5 “Hãy đến gần Đức Chúa Trời thì ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi những người tội lỗi, hãy rửa sạch tay mình; hỡi những người lưỡng lự, hãy tẩy sạch lòng mình”. Gia-cơ 4:8 “Yêu thương Đức Chúa Trời nghĩa là vâng giữ các điều răn ngài; và điều răn của ngài chẳng hề nặng nề”. 1 Giăng 5:3 CÂU HỎI 19 Các sách trong Kinh Thánh có nội dung gì? PHẦN KINH THÁNH TIẾNG HÊ-BƠ-RƠ (“CỰU ƯỚC”) NGŨ THƯ (5 SÁCH): Sáng thế, Xuất Ai Cập, Lê-vi, Dân số, Phục truyền luật lệ Từ thời sáng tạo đến thời thành lập nước Y-sơ-ra-ên xưa SÁCH LỊCH SỬ (12 SÁCH): Giô-suê, Quan xét, Ru-tơ Dân Y-sơ-ra-ên vào Đất Hứa và những biến cố sau đó 1 và 2 Sa-mu-ên, 1 và 2 Các vua, 1 và 2 Sử ký Lịch sử của nước Y-sơ-ra-ên đến khi thành Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt Ê-xơ-ra, Nê-hê-mi, Ê-xơ-tê Lịch sử dân Do Thái sau khi trở về từ Ba-by-lôn, xứ lưu đày SÁCH THƠ CA (5 SÁCH): Gióp, Thi thiên, Châm ngôn, Truyền đạo, Nhã ca Bộ sưu tập thơ ca và những lời khôn ngoan SÁCH TIÊN TRI (17 SÁCH): Ê-sai, Giê-rê-mi, Ai ca, Ê-xê-chi-ên, Đa-ni-ên, Ô-sê, Giô-ên, A-mốt, Áp-đia, Giô-na, Mi-chê, Na-hum, Ha-ba-cúc, Xô-phô-ni, Ha-gai, Xa-cha-ri, Ma-la-chi Lời tiên tri, tức lời báo trước, liên quan đến dân Đức Chúa Trời PHẦN KINH THÁNH TIẾNG HY LẠP (“TÂN ƯỚC”) PHÚC ÂM (4 SÁCH): Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng Đời sống và thánh chức của Chúa Giê-su CÔNG VỤ CÁC SỨ ĐỒ (1 SÁCH): Lịch sử về sự khởi đầu hội thánh đạo Đấng Ki-tô và hoạt động truyền giáo LÁ THƯ (21 SÁCH): Rô-ma, 1 và 2 Cô-rinh-tô, Ga-la-ti, Ê-phê-sô, Phi-líp, Cô-lô-se, 1 và 2 Tê-sa-lô-ni-ca Các lá thư gửi đến nhiều hội thánh đạo Đấng Ki-tô 1 và 2 Ti-mô-thê, Tít, Phi-lê-môn Các lá thư gửi đến cá nhân tín đồ đạo Đấng Ki-tô Hê-bơ-rơ, Gia-cơ, 1 và 2 Phi-e-rơ, 1, 2, và 3 Giăng, Giu-đe Các lá thư gửi đến tín đồ đạo Đấng Ki-tô KHẢI HUYỀN (1 SÁCH): Một loạt khải tượng mang tính tiên tri mà sứ đồ Giăng nhận được CÂU HỎI 20 Làm sao để nhận lợi ích tối đa khi đọc Kinh Thánh? KHI ĐỌC KINH THÁNH, HÃY TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI SAU: Điều này cho tôi biết gì về Giê-hô-va Đức Chúa Trời? Phần này bổ sung cho thông điệp của Kinh Thánh như thế nào? Tôi có thể áp dụng các câu Kinh Thánh này thế nào trong đời sống? Làm sao tôi có thể dùng những câu này để giúp người khác? “Lời ngài là ngọn đèn cho chân con, ánh sáng cho đường lối con”. Thi thiên 119:105 LỜI MỞ ĐẦU Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời và ngài dùng sách này để liên lạc với tất cả chúng ta. Để biết về Tác Giả của Kinh Thánh, chúng ta cần tìm hiểu sách này (Giăng 17:3; 2 Ti-mô-thê 3:16). Qua những trang Kinh Thánh, Giê-hô-va Đức Chúa Trời tiết lộ ý định của ngài dành cho nhân loại và trái đất.—Sáng thế 3:15; Khải huyền 21:3, 4. Không sách nào khác ảnh hưởng đến đời sống con người nhiều như thế. Kinh Thánh khuyến khích chúng ta suy ngẫm về các đức tính của Đức Giê-hô-va, như tình yêu thương, sự thương xót và lòng trắc ẩn. Sách này mang đến niềm hy vọng giúp con người chịu đựng ngay cả những nỗi đau tột cùng. Kinh Thánh không ngừng phơi bày những thành phần của thế gian không phù hợp với ý định tuyệt hảo của Đức Chúa Trời.—Thi thiên 119:105; Hê-bơ-rơ 4:12; 1 Giăng 2:15- 17. Ban đầu Kinh Thánh được viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ, A-ram và Hy Lạp. Trọn bộ hoặc một phần của sách này đã được dịch trong khoảng 2.600 ngôn ngữ. Đây là sách được dịch và phát hành rộng rãi nhất trong lịch sử. Chúng ta không ngạc nhiên về điều đó. Lời tiên tri trong Kinh Thánh báo trước: “Tin mừng này về Nước Trời [thông điệp chính trong Kinh Thánh] sẽ được rao truyền khắp đất để làm chứng cho muôn dân, bấy giờ sự kết thúc sẽ đến”.—Ma-thi-ơ 24:14. Thông điệp Kinh Thánh vô cùng quan trọng, nên mục tiêu của chúng tôi là xuất bản một bản dịch không những trung thành với bản gốc mà còn rõ ràng và dễ đọc. Những Phụ lục như “Các nguyên tắc dịch Kinh Thánh”, “Đặc điểm của bản dịch này” và “Cách Kinh Thánh đến với chúng ta” sẽ xem xét những nguyên tắc dịch thuật được sử dụng, cũng như một số lời giải thích về đặc điểm của ấn bản này. Những người yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời và thờ phượng ngài mong có một bản Kinh Thánh chính xác và dễ hiểu (1 Ti-mô-thê 2:4). Nhằm đạt được mục tiêu ấy, ấn bản này được ra mắt trong tiếng Việt, phù hợp với ý định của chúng tôi là dịch Kinh Thánh—Bản dịch Thế Giới Mới ra càng nhiều ngôn ngữ càng tốt. Chúng tôi hy vọng và nguyện xin bản Kinh Thánh này sẽ mang lại lợi ích cho các độc giả thân mến đang nỗ lực ‘tìm kiếm Đức Chúa Trời và thật sự tìm được ngài’.—Công vụ 17:27. Ủy ban Phiên dịch Kinh Thánh Thế Giới Mới TÊN VÀ THỨ TỰ CỦA CÁC SÁCH PHẦN KINH THÁNH TIẾNG HÊ-BƠ-RƠ VÀ A-RAM SÁCH SƠ LƯỢC VIẾT TẮT Sáng thế Sơ lược Sa Xuất Ai Cập Sơ lược Xu Lê-vi Sơ lược Lê Dân số Sơ lược Dân Phục truyền luật lệ Sơ lược Phu Giô-suê Sơ lược Gs Quan xét Sơ lược Qu Ru-tơ Sơ lược Ru 1 Sa-mu-ên Sơ lược 1Sa 2 Sa-mu-ên Sơ lược 2Sa 1 Các vua Sơ lược 1V 2 Các vua Sơ lược 2V 1 Sử ký Sơ lược 1Sử 2 Sử ký Sơ lược 2Sử Ê-xơ-ra Sơ lược Êxr Nê-hê-mi Sơ lược Nê Ê-xơ-tê Sơ lược Êxt Gióp Sơ lược Gp Thi thiên Sơ lược Th Châm ngôn Sơ lược Ch Truyền đạo Sơ lược Tr Nhã ca Sơ lược Nhã Ê-sai Sơ lược Ês Giê-rê-mi Sơ lược Giê Ai ca Sơ lược Ai Ê-xê-chi-ên Sơ lược Êxê Đa-ni-ên Sơ lược Đa Ô-sê Sơ lược Ôsê Giô-ên Sơ lược Gê A-mốt Sơ lược Am Áp-đia Sơ lược Áp Giô-na Sơ lược Gn Mi-chê Sơ lược Mi Na-hum Sơ lược Na Ha-ba-cúc Sơ lược Hab Xô-phô-ni Sơ lược Xô Ha-gai Sơ lược Hag Xa-cha-ri Sơ lược Xa Ma-la-chi Sơ lược Mal PHẦN KINH THÁNH TIẾNG HY LẠP SÁCH SƠ LƯỢC VIẾT TẮT Ma-thi-ơ Sơ lược Mat Mác Sơ lược Mác Lu-ca Sơ lược Lu Giăng Sơ lược Gi Công vụ Sơ lược Cv Rô-ma Sơ lược Rô 1 Cô-rinh-tô Sơ lược 1Cô 2 Cô-rinh-tô Sơ lược 2Cô Ga-la-ti Sơ lược Ga Ê-phê-sô Sơ lược Êph Phi-líp Sơ lược Phl Cô-lô-se Sơ lược Cô 1 Tê-sa-lô-ni-ca Sơ lược 1Tê 2 Tê-sa-lô-ni-ca Sơ lược 2Tê 1 Ti-mô-thê Sơ lược 1Ti 2 Ti-mô-thê Sơ lược 2Ti Tít Sơ lược Tít Phi-lê-môn Sơ lược Phlm Hê-bơ-rơ Sơ lược Hê Gia-cơ Sơ lược Gia 1 Phi-e-rơ Sơ lược 1Ph 2 Phi-e-rơ Sơ lược 2Ph 1 Giăng Sơ lược 1Gi 2 Giăng Sơ lược 2Gi 3 Giăng Sơ lược 3Gi Giu-đe Sơ lược Giu Khải huyền Sơ lược Kh Danh mục các sách Bảng tra cứu từ ngữ Bảng chú giải thuật ngữ Phụ lục A Phụ lục B SÁNG THẾ SƠ LƯỢC NỘI DUNG 1 Sự sáng tạo trời và đất (1, 2) Sáu ngày chuẩn bị trái đất (3-31) Ngày 1: ánh sáng; ngày và đêm (3-5) Ngày 2: khoảng không (6-8) Ngày 3: đất cạn và cây cỏ (9-13) Ngày 4: các vì sáng trên trời (14-19) Ngày 5: cá và chim (20-23) Ngày 6: động vật trên cạn và con người (24-31) 2 Đức Chúa Trời nghỉ vào ngày thứ bảy (1-3) Giê-hô-va Đức Chúa Trời, Đấng Sáng Tạo của trời và đất (4) Người nam và người nữ trong vườn Ê-đen (5-25) Người nam được nắn nên từ bụi đất (7) Cây biết điều thiện và điều ác là cây cấm (15-17) Người nữ được tạo ra (18-25) 3 Nguồn gốc của tội lỗi (1-13) Lời nói dối đầu tiên (4, 5) Đức Giê-hô-va tuyên án những kẻ phản nghịch (14-24) Dòng dõi người nữ được báo trước (15) Bị đuổi khỏi vườn Ê-đen (23, 24) 4 Ca-in và A-bên (1-16) Con cháu của Ca-in (17-24) Sết và con trai là Ê-nót (25, 26) 5 Từ A-đam đến Nô-ê (1-32) A-đam sinh con trai và con gái (4) Hê-nóc đồng đi với Đức Chúa Trời (21-24) 6 Các con trai của Đức Chúa Trời lấy vợ trên đất (1-3) Người Nê-phi-lim ra đời (4) Sự xấu xa của con người làm Đức Giê-hô-va buồn rầu (5-8) Nô-ê được giao nhiệm vụ đóng tàu (9-16) Đức Chúa Trời phán về trận Đại Hồng Thủy (17-22) 7 Vào tàu (1-10) Trận Đại Hồng Thủy trên toàn cầu (11-24) 8 Nước lụt rút xuống (1-14) Thả bồ câu ra (8-12) Ra khỏi tàu (15-19) Lời Đức Chúa Trời hứa về trái đất (20-22) 9 Lời chỉ dẫn cho nhân loại (1-7) Luật về máu (4-6) Giao ước cầu vồng (8-17) Lời tiên tri về con cháu Nô-ê (18-29) 10 Danh sách các dân (1-32) Con cháu của Gia-phết (2-5) Con cháu của Cham (6-20) Nim-rốt chống lại Đức Giê-hô-va (8-12) Con cháu của Sem (21-31) 11 Tháp Ba-bên (1-4) Đức Giê-hô-va làm xáo trộn ngôn ngữ (5-9) Từ Sem đến Áp-ram (10-32) Gia đình Tha-rê (27) Áp-ram rời U-rơ (31) 12 Áp-ram rời Cha-ran đi Ca-na-an (1-9) Lời Đức Chúa Trời hứa với Áp-ram (7) Áp-ram và Sa-rai ở Ai Cập (10-20) 13 Áp-ram trở lại Ca-na-an (1-4) Áp-ram và Lót tách nhau ra (5-13) Đức Chúa Trời lặp lại lời hứa với Áp-ram (14-18) 14 Áp-ram giải cứu Lót (1-16) Mên-chi-xê-đéc chúc phước cho Áp-ram (17-24) 15 Giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ram (1-21) Báo trước về 400 năm bị hà hiếp (13) Đức Chúa Trời lặp lại lời hứa với Áp-ram (18-21) 16Ha-ga và Ích-ma-ên (1-16) 17 Áp-ra-ham sẽ trở thành cha của nhiều dân tộc (1-8) Áp-ram được đổi tên là Áp-ra-ham (5) Giao ước về phép cắt bì (9-14) Sa-rai được đổi tên là Sa-ra (15-17) Lời hứa về người con là Y-sác (18-27) 18 Ba thiên sứ đến gặp Áp-ra-ham (1-8) Sa-ra được hứa sẽ có con; bà cười (9-15) Áp-ra-ham nài xin về Sô-đôm (16-33) 19 Thiên sứ đến gặp Lót (1-11) Hối thúc Lót và gia đình đi (12-22) Sô-đôm và Gô-mô-rơ bị hủy diệt (23-29) Vợ Lót biến thành tượng muối (26) Lót và hai con gái (30-38) Nguồn gốc của Mô-áp và Am-môn (37, 38) 20Sa-ra được giải thoát khỏi A-bi-mê-léc (1-18) 21 Y-sác ra đời (1-7) Ích-ma-ên chế nhạo Y-sác (8, 9) Ha-ga và Ích-ma-ên bị đuổi (10-21) Giao ước của Áp-ra-ham và A-bi-mê-léc (22-34) 22 Áp-ra-ham được bảo phải dâng Y-sác (1-19) Ân phước nhờ dòng dõi Áp-ra-ham (15-18) Gia đình của Rê-bê-ca (20-24) 23Sa-ra qua đời; nơi chôn cất bà (1-20) 24 Tìm vợ cho Y-sác (1-58) Rê-bê-ca lên đường gặp Y-sác (59-67) 25 Áp-ra-ham tái hôn (1-6) Áp-ra-ham qua đời (7-11) Các con trai của Ích-ma-ên (12-18) Gia-cốp và Ê-sau ra đời (19-26) Ê-sau bán quyền trưởng nam (27-34) 26 Y-sác và Rê-bê-ca ở Ghê-ran (1-11) Đức Chúa Trời xác nhận lời hứa với Y-sác (3-5) Các vụ tranh giếng (12-25) Giao ước của Y-sác và A-bi-mê-léc (26-33) Hai vợ người Hếch của Ê-sau (34, 35) 27 Gia-cốp được lời chúc phước của Y-sác (1-29) Ê-sau xin lời chúc phước nhưng không hối lỗi (30-40) Ê-sau oán hận Gia-cốp (41-46) 28 Y-sác bảo Gia-cốp đi Pha-đan-a-ram (1-9) Gia-cốp thấy chiêm bao tại Bê-tên (10-22) Đức Chúa Trời xác nhận lời hứa với Gia-cốp (13-15) 29 Gia-cốp gặp Ra-chên (1-14) Gia-cốp yêu Ra-chên (15-20) Gia-cốp cưới Lê-a và Ra-chên (21-29) Bốn con trai Lê-a sinh cho Gia-cốp: Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa (30-35) 30 Bi-la sinh Đan và Nép-ta-li (1-8) Xinh-ba sinh Gát và A-se (9-13) Lê-a sinh Y-sa-ca và Xê-bu-lôn (14-21) Ra-chên sinh Giô-sép (22-24) Gia súc của Gia-cốp tăng lên (25-43) 31 Gia-cốp âm thầm trốn đi Ca-na-an (1-18) La-ban đuổi kịp Gia-cốp (19-35) Giao ước của Gia-cốp và La-ban (36-55) 32 Thiên sứ gặp Gia-cốp (1, 2) Gia-cốp chuẩn bị gặp Ê-sau (3-23) Gia-cốp vật lộn với thiên sứ (24-32) Gia-cốp được đổi tên là Y-sơ-ra-ên (28) 33 Gia-cốp gặp Ê-sau (1-16) Gia-cốp đi đến Si-chem (17-20) 34 Đi-na bị hãm hiếp (1-12) Các con trai Gia-cốp dùng mưu gian (13-31) 35 Gia-cốp trừ bỏ các tượng thần ngoại (1-4) Gia-cốp trở lại Bê-tên (5-15) Bên-gia-min ra đời; Ra-chên qua đời (16-20) Mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên (21-26) Y-sác qua đời (27-29) 36 Con cháu của Ê-sau (1-30) Các vua và thủ lĩnh của Ê-đôm (31-43) 37 Các giấc mơ của Giô-sép (1-11) Giô-sép và những người anh ghen ghét cậu (12-24) Giô-sép bị bán làm nô lệ (25-36) 38Giu-đa và Ta-ma (1-30) 39 Giô-sép ở nhà Phô-ti-pha (1-6) Giô-sép khước từ vợ Phô-ti-pha (7-20) Giô-sép ngồi tù (21-23) 40 Giô-sép giải mộng cho tù nhân (1-19) “Việc giải nghĩa thuộc về Đức Chúa Trời” (8) Tiệc sinh nhật của Pha-ra-ôn (20-23) 41 Giô-sép giải mộng cho Pha-ra-ôn (1-36) Giô-sép được Pha-ra-ôn tôn lên (37-46a) Giô-sép quản lý lương thực (46b-57) 42 Các anh Giô-sép đến Ai Cập (1-4) Giô-sép gặp các anh và thử họ (5-25) Các anh về lại với Gia-cốp (26-38) 43 Các anh Giô-sép đến Ai Cập lần hai, cùng Bên-gia-min (1-14) Giô-sép gặp lại các anh em (15-23) Giô-sép chiêu đãi các anh em (24-34) 44 Chén bạc của Giô-sép trong bao của Bên-gia-min (1-17) Giu-đa van xin về Bên-gia-min (18-34) 45 Giô-sép tiết lộ danh tính (1-15) Các anh em Giô-sép về đón Gia-cốp (16-28) 46 Gia-cốp và gia đình chuyển đến Ai Cập (1-7) Tên của những người chuyển đến Ai Cập (8-27) Giô-sép đón Gia-cốp tại Gô-sen (28-34) 47 Gia-cốp yết kiến Pha-ra-ôn (1-12) Giô-sép khéo quản lý lương thực (13-26) Y-sơ-ra-ên định cư ở Gô-sen (27-31) 48 Gia-cốp chúc phước cho hai con của Giô-sép (1-12) Ép-ra-im nhận lời chúc phước tốt hơn (13-22) 49 Lời tiên tri của Gia-cốp trước lúc lâm chung (1-28) Đấng Si-lô sẽ ra từ Giu-đa (10) Gia-cốp dặn bảo về việc chôn cất ông (29-32) Gia-cốp qua đời (33) 50 Giô-sép chôn cất Gia-cốp tại Ca-na-an (1-14) Giô-sép trấn an là ông đã tha thứ (15-21) Giô-sép lúc cuối đời đến khi chết (22-26) Giô-sép căn dặn về hài cốt mình (25) Sáng thế 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 SÁNG THẾ 1 : 1 - 31 SÁNG THẾ 1 Ban đầu Đức Chúa Trời tạo ra trời và đất. 2 Bấy giờ, đất không có hình dạng rõ rệt và trống không, sự tối tăm bao trùm mặt nước sâu, thần khí* của Đức Chúa Trời chuyển động qua lại trên mặt nước. 3 Đức Chúa Trời phán: “Hãy có ánh sáng”. Thế là có ánh sáng.4 Đức Chúa Trời thấy ánh sáng là tốt lành, và ngài bắt đầu phân cách sáng với tối.5 Đức Chúa Trời gọi sáng là Ngày, còn tối là Đêm. Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ nhất. 6 Đức Chúa Trời phán: “Hãy có một khoảng không giữa các khối nước, và hãy có sự phân cách giữa khối nước này với khối nước kia”.7 Đức Chúa Trời bèn làm nên khoảng không và phân cách khối nước ở dưới khoảng không với khối nước ở trên khoảng không. Thế là có như vậy.8 Đức Chúa Trời gọi khoảng không là Trời. Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ nhì. 9 Đức Chúa Trời phán: “Nước ở dưới trời hãy tụ lại một nơi, và phần cạn hãy lộ ra”. Thế là có như vậy.10 Đức Chúa Trời gọi phần cạn là Đất, còn phần nước tụ lại là Biển. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.11 Sau đó, Đức Chúa Trời phán: “Đất hãy mọc lên cỏ, cây có hạt, cây ăn trái tùy theo loài mà ra trái cùng hạt”. Thế là có như vậy.12 Đất bắt đầu sinh cỏ, cây có hạt và cây ra trái cùng hạt, tùy theo loài. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.13 Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ ba. 14 Đức Chúa Trời phán: “Hãy có các vì sáng trong khoảng không của trời để phân cách ngày với đêm; chúng sẽ làm dấu hiệu chỉ mùa, ngày và năm.15 Chúng sẽ là những vì sáng trong khoảng không của trời để chiếu sáng trái đất”. Thế là có như vậy.16 Đức Chúa Trời đặt* hai vì sáng lớn, vì lớn hơn cai trị ban ngày và vì nhỏ hơn cai trị ban đêm; ngài cũng đặt các vì sao.17 Vậy, Đức Chúa Trời đặt chúng trong khoảng không của trời để chiếu sáng trái đất18 và cai trị ban ngày cùng ban đêm, cũng như để phân cách sáng với tối. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.19 Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ tư. 20 Đức Chúa Trời phán: “Nước hãy có đầy tràn vật* sống; còn các loài vật biết bay hãy bay bên trên đất, trong khoảng không của trời”.21 Rồi Đức Chúa Trời dựng nên các tạo vật lớn dưới biển cùng mọi vật sống chuyển động nhung nhúc trong nước tùy theo loài và mọi tạo vật có cánh biết bay tùy theo loài. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.22 Đức Chúa Trời ban phước cho chúng mà phán rằng: “Hãy sinh sản và gia tăng nhiều cho đầy biển; các loài vật biết bay hãy gia tăng nhiều trên đất”.23 Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ năm. 24 Đức Chúa Trời phán: “Đất hãy sản sinh các vật* sống tùy theo loài, súc vật, loài vật bò trên đất* và động vật hoang dã tùy theo loài”. Thế là có như vậy. 25 Đức Chúa Trời làm ra động vật hoang dã tùy theo loài, súc vật tùy theo loài, và tất cả loài vật bò trên đất tùy theo loài. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. 26 Sau đó, Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta hãy làm nên con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để quản trị cá dưới biển, loài vật bay trên trời, súc vật và mọi loài vật bò trên đất, cùng cả đất”.27 Đức Chúa Trời bèn tạo ra con người theo hình ảnh ngài, ngài tạo ra con người theo hình ảnh Đức Chúa Trời; ngài tạo ra người nam và người nữ.28 Đức Chúa Trời cũng ban phước cho họ và phán: “Hãy sinh sản và gia tăng nhiều, làm cho đầy cả đất và quản trị nó; hãy quản trị cá dưới biển, loài vật bay trên trời cùng mọi sinh vật chuyển động trên đất”. 29 Đức Chúa Trời phán: “Này ta ban cho các con mọi cây cỏ có hạt trên khắp đất, cùng mọi cây ra trái có hạt. Chúng dùng làm thức ăn cho các con.30 Ta cũng ban hết thảy cây cỏ làm thức ăn cho mọi động vật hoang dã trên đất, cho mọi loài vật bay trên trời cùng mọi vật chuyển động trên đất, là vật có sự sống”. Thế là có như vậy. 31 Sau đó, Đức Chúa Trời thấy mọi vật ngài làm nên quả thật đều rất tốt lành! Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ sáu. ^ Sáng 1:2 Hay “lực đang hoạt động”. ^ Sáng 1:16 Ds: “làm”. ^ Sáng 1:20 Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ. ^ Sáng 1:24 Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ. ^ Sáng 1:24 Có lẽ gồm loài bò sát và những sinh vật không thuộc các loài được liệt kê trong câu. SÁNG THẾ 2 : 1 - 25 2 Như thế, trời đất cùng vạn vật trong đó* được hoàn tất.2 Đến ngày thứ bảy, Đức Chúa Trời đã hoàn tất công việc ngài làm, và bắt đầu từ ngày thứ bảy thì ngài nghỉ mọi công việc ngài làm.3 Đức Chúa Trời ban phước cho ngày thứ bảy và tuyên bố ngày ấy là ngày thánh, vì vào ngày ấy, ngài nghỉ mọi công việc sáng tạo; ngài đã tạo ra mọi thứ ngài dự định làm. 4 Đây là lịch sử của trời và đất vào thời chúng được sáng tạo, vào ngày mà Giê-hô-va* Đức Chúa Trời làm nên trời và đất. 5 Trên đất chưa có bụi rậm và cây cối nào khác mọc lên, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chưa làm mưa xuống trên đất và cũng chưa có con người để cày cấy đất đai.6 Tuy nhiên, có hơi nước từ dưới đất bốc lên, thấm đẫm khắp mặt đất. 7 Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy bụi đất nắn nên con người và hà hơi sống vào mũi, thì người trở thành một người* sống.8 Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũng trồng một khu vườn ở Ê-đen, về hướng đông, rồi đặt người mà ngài vừa nắn nên vào đó.9 Giê-hô-va Đức Chúa Trời làm đất mọc lên mọi loài cây đẹp mắt và ăn ngon, cũng như cây sự sống ở giữa vườn cùng cây biết điều thiện và điều ác. 10 Có một con sông ra từ Ê-đen để cung cấp nước cho vườn, và từ đó chia thành bốn nhánh.11 Tên nhánh thứ nhất là Bi-sôn, bao quanh cả vùng Ha-vi-la, là nơi có vàng.12 Vàng của vùng đó rất tốt. Ở đó cũng có nhựa thơm và hắc mã não.13 Tên nhánh thứ nhì là Ghi-hôn, bao quanh cả vùng Cút-sơ.14 Tên nhánh thứ ba là Hi-đê-ke,* chảy về hướng đông xứ A-si-ri. Nhánh thứ tư là Ơ-phơ-rát. 15 Giê-hô-va Đức Chúa Trời cho người đàn ông ở trong vườn Ê-đen để trồng trọt và chăm sóc vườn.16 Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũng truyền cho ông mệnh lệnh này: “Con được ăn thỏa thuê mọi cây trong vườn.17 Nhưng về cây biết điều thiện và điều ác, con không được phép ăn, vì vào ngày con ăn, chắc chắn con sẽ chết”. 18 Bấy giờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời nói: “Người đàn ông ở một mình mãi thì không tốt. Ta sẽ làm nên một người giúp đỡ, một người bổ trợ cho nó”.19 Lúc ấy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời đang lấy bụi đất nắn nên mọi động vật hoang dã, mọi loài vật bay trên trời. Ngài mang chúng đến cho người đàn ông để xem ông đặt tên gì cho từng con; hễ ông đặt cho mỗi con vật* sống tên nào thì đó là tên nó.20 Thế là người đàn ông đặt tên cho mọi súc vật, các loài vật bay trên trời và mọi động vật hoang dã. Tuy nhiên, về phần người đàn ông thì không có người giúp đỡ, bổ trợ cho mình.21 Vì thế, Giê-hô-va Đức Chúa Trời khiến người đàn ông ngủ mê, và trong khi ông ngủ, ngài lấy một xương sườn của ông rồi làm cho thịt chỗ đó liền lại.22 Giê-hô-va Đức Chúa Trời dựng nên một người nữ từ xương sườn mà ngài đã lấy nơi người đàn ông, rồi đem nàng đến cho ông. 23 Người đàn ông bèn nói: “Này đây, xương từ xương ta, Thịt từ thịt ta! Nàng sẽ được gọi là Người Nữ, Vì do nơi người nam mà ra”. 24 Vì vậy, người nam sẽ rời cha mẹ và gắn bó với vợ mình, hai người sẽ trở nên một.*25 Thời ấy, người đàn ông và vợ đều trần truồng nhưng không ngượng ngùng. ^ Sáng 2:1 Ds: “cùng cả đạo quân của chúng”. ^ Sáng 2:4 Lần đầu tiên xuất hiện danh riêng độc đáo của Đức Chúa Trời là יהוה) YHWH). Xem Phụ lục A4. ^ Sáng 2:7 Hê: neʹphesh, có nghĩa đen là “một tạo vật thở”. Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ. ^ Sáng 2:14 Hay “Ti-gơ-rơ”. ^ Sáng 2:19 Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ. ^ Sáng 2:24 Ds: “một thịt”. SÁNG THẾ 3 : 1 - 24 3 Trong tất cả các loài động vật hoang dã mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm nên, rắn là loài dè dặt nhất. Nó hỏi người nữ: “Có thật Đức Chúa Trời phán rằng các người không được phép ăn mọi cây trong vườn không?”.2 Người nữ đáp lời con rắn: “Chúng tôi được ăn trái của các cây trong vườn.3 Nhưng Đức Chúa Trời có dặn về trái của cây ở giữa vườn rằng: ‘Các con không được phép ăn, cũng không được phép đụng đến nó. Nếu làm thế, các con sẽ chết’”.4 Rắn bèn nói với người nữ: “Các người sẽ không chết đâu.5 Đức Chúa Trời biết rằng vào chính ngày các người ăn trái của cây ấy, mắt sẽ mở ra và các người sẽ giống như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác”. 6 Thế là người nữ thấy cây đó vừa có trái ăn ngon vừa trông rất thu hút, phải, nó thật đẹp mắt. Bà bèn hái trái và ăn. Rồi khi có chồng bên cạnh, bà đưa cho ông và ông cũng ăn nữa.7 Bấy giờ mắt hai người mở ra, họ nhận thấy mình trần truồng. Vì vậy, họ kết lá vả buộc quanh hông. 8 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi qua vườn vào lúc chiều gió mát, người đàn ông và vợ nghe tiếng ngài thì nấp giữa các cây trong vườn để tránh mặt Giê-hô va Đức Chúa Trời.9 Giê-hô-va Đức Chúa Trời gọi ông mãi: “Con đang ở đâu?”. 10 Cuối cùng ông thưa: “Con nghe tiếng ngài trong vườn, nhưng con sợ vì đang trần truồng, thế nên con nấp đi”.11 Ngài phán: “Ai bảo cho con biết rằng con trần truồng? Con có ăn trái của cây mà ta đã truyền lệnh không được ăn không?”.12 Người đàn ông thưa: “Người nữ mà ngài đặt bên con, chính nàng đã đưa con trái của cây ấy nên con ăn rồi”.13 Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn phán với người nữ: “Con đã làm gì vậy?”. Người nữ thưa: “Con rắn lừa con nên con ăn rồi”. 14 Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán với con rắn: “Vì đã làm thế, nên ngươi bị rủa sả trong mọi loài súc vật và động vật hoang dã. Ngươi sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất suốt đời.15 Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ. Người* sẽ giày đạp* đầu ngươi, còn ngươi sẽ cắn* gót chân người”. 16 Ngài phán với người nữ: “Ta sẽ tăng sự đau đớn của con trong kỳ thai nghén thêm bội phần, con sẽ sinh nở trong đau đớn. Chồng con sẽ là niềm khao khát của con, và chồng sẽ nắm quyền trên con”. 17 Về phần A-đam* thì ngài phán: “Vì con nghe theo lời vợ mà ăn trái của cây ta đã truyền lệnh rằng: ‘Con không được phép ăn’, nên đất bị rủa sả vì con. Suốt đời, con phải cực khổ mới có sản vật từ đất mà ăn.18 Đất sẽ mọc lên gai góc, và con phải ăn cây cỏ ngoài đồng.19 Con phải làm đổ mồ hôi trán mới có miếng ăn, cho đến khi con trở về đất, vì con từ đó mà ra. Con là bụi đất, con sẽ trở về bụi đất”. 20 Sau đó, A-đam đặt tên vợ là Ê-va* vì bà sẽ trở thành mẹ của nhân loại.* 21 Giê-hô-va Đức Chúa Trời làm áo dài bằng da thú để mặc cho A-đam cùng vợ ông.22 Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán: “Nay con người đã trở nên giống như chúng ta, biết điều thiện và điều ác. Bây giờ, để con người không thể giơ tay hái luôn cả trái của cây sự sống mà ăn và sống mãi mãi...”.23 Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn đuổi con người khỏi vườn Ê-đen để cày cấy đất, là nơi người từ đó mà ra.24 Ngài đuổi con người ra, rồi đặt ở phía đông vườn Ê-đen các chê-rúp với lưỡi gươm rực lửa xoay không ngừng để canh giữ con đường dẫn đến cây sự sống. ^ Sáng 3:15 Tức là dòng dõi người nữ. ^ Sáng 3:15 Hay “gây thương tích cho”. ^ Sáng 3:15 Hay “gây thương tích cho”. ^ Sáng 3:17 Nghĩa là “người trên đất; loài người; con người”. ^ Sáng 3:20 Nghĩa là “người sống”. ^ Sáng 3:20 Ds: “mọi người sống”. SÁNG THẾ 4 : 1 - 26 4 Bấy giờ, A-đam ăn ở với vợ là Ê-va, và bà có thai. Khi sinh Ca-in,* bà nói: “Tôi đã sinh ra một con trai nhờ sự giúp đỡ của Đức Giê-hô-va”.2 Bà lại sinh em trai của Ca-in là A-bên. A-bên trở thành người chăn bầy, còn Ca-in trở thành người canh tác đất đai. 3 Một thời gian sau, Ca-in đem một số sản vật từ đất dâng làm lễ vật cho Đức Giê-hô-va.4 Còn A-bên thì đem một số con cừu đầu lòng trong bầy mình, kể cả mỡ của chúng. Đức Giê-hô-va hài lòng về A-bên và lễ vật của ông,5 nhưng ngài không hài lòng về Ca-in và lễ vật của ông. Thế nên Ca-in tức giận và sầm nét mặt.6 Đức Giê-hô-va bèn phán với Ca-in: “Vì sao con giận và sầm nét mặt? 7 Nếu trở lại làm điều lành, lẽ nào con không được lại ơn sao? Nhưng nếu con không trở lại làm điều lành thì tội lỗi rình rập trước cửa và thèm khống chế con lắm, nhưng con phải chế ngự nó”. 8 Ca-in nói với A-bên, em mình: “Chúng ta hãy đi ra đồng”. Rồi khi ở ngoài đồng, Ca-in xông đến đánh A-bên, em mình, và giết đi.9 Sau đó, Đức Giê-hô-va hỏi Ca-in: “A-bên, em con, ở đâu?”. Ông trả lời: “Con không biết. Con là người giữ em con sao?”.10 Ngài phán: “Con đã làm gì? Nghe này! Máu của em con từ đất kêu thấu đến ta.11 Bây giờ con phải bị rủa sả là đi biệt xứ, rời khỏi đất đã hả miệng nuốt máu em con do tay con đổ ra.12 Khi con canh tác đất đai, nó sẽ chẳng cho con hoa lợi.* Con sẽ là kẻ lang thang và lẩn trốn trên đất”.13 Ca-in nói với Đức Giê-hô-va: “Hình phạt của con nặng quá, không sao gánh nổi. 14 Giờ ngài đuổi con khỏi vùng đất này,* con sẽ bị che khuất khỏi mặt ngài; con sẽ là kẻ lang thang và lẩn trốn trên đất, ai gặp chắc sẽ giết con”.15 Đức Giê-hô va bèn phán với ông: “Vì vậy, ai giết Ca-in sẽ bị báo thù bảy lần”. Rồi Đức Giê-hô-va đặt ra một dấu cho Ca-in để ai gặp thì không giết ông. 16 Thế là Ca-in đi khỏi mặt Đức Giê-hô-va và đến cư ngụ ở xứ của Sự Lưu Đày,* phía đông vườn Ê-đen. 17 Sau đó, Ca-in ăn ở với vợ, bà có thai và sinh Hê-nóc. Ca-in xây cất một cái thành và đặt tên theo tên con trai mình là Hê-nóc.18 Về sau, Hê-nóc sinh Y-rát. Y-rát sinh Mê-hu-da-ên, Mê-hu-da-ên sinh Mê-tu-sa-ên, và Mê-tu-sa-ên sinh Lê méc. 19 Lê-méc lấy hai vợ. Người thứ nhất tên A-đa, người thứ nhì tên Xi-la.20 A đa sinh Gia-banh, là ông tổ của những người sống trong lều và chăn nuôi gia súc. 21 Em trai ông là Giu-banh, là ông tổ của mọi người chơi đàn hạc và thổi sáo. 22 Còn Xi-la sinh Tu-banh-ca-in, người rèn mọi loại dụng cụ bằng đồng và sắt. Chị gái của Tu-banh-ca-in là Na-a-ma.23 Lê-méc sáng tác các câu này cho hai vợ mình là A-đa và Xi-la: “Hãy nghe tiếng tôi, này vợ Lê-méc; Hãy lắng tai nghe lời tôi nói đây: Tôi giết một người vì một vết thương, Phải, một thanh niên, vì dám đánh tôi. 24 Ca-in mà được báo thù bảy lần Thì Lê-méc phải bảy mươi bảy lần”. 25 A-đam lại ăn ở với vợ và bà sinh một con trai. Bà đặt tên con là Sết,* vì bà nói: “Đức Chúa Trời đã sắp đặt một dòng dõi khác thế cho A-bên, vì Ca-in đã giết nó”.26 Sết sinh một con trai, đặt tên là Ê-nót. Thời đó, người ta đã bắt đầu kêu danh Đức Giê-hô-va. ^ Sáng 4:1 Nghĩa là “được sinh ra”. ^ Sáng 4:12 Ds: “sức của nó”. ^ Sáng 4:14 Ds: “khỏi mặt đất”. ^ Sáng 4:16 Hay “xứ Nốt”. ^ Sáng 4:25 Nghĩa là “sắp đặt; lập”. SÁNG THẾ 5 : 1 - 32 5 Đây là sách tường thuật về A-đam. Vào ngày Đức Chúa Trời tạo ra A-đam, ngài làm nên ông giống như Đức Chúa Trời.2 Ngài tạo ra người nam và người nữ. Vào ngày họ được tạo ra, ngài ban phước cho họ và gọi là Người.* 3 A-đam được 130 tuổi thì sinh một con trai giống như ông, theo hình ảnh của ông, và đặt tên là Sết.4 Sau khi sinh Sết, A-đam sống thêm 800 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.5 Vậy, A-đam hưởng thọ 930 tuổi, rồi qua đời. 6 Sết được 105 tuổi thì sinh Ê-nót.7 Sau khi sinh Ê-nót, Sết sống thêm 807 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.8 Vậy, Sết hưởng thọ 912 tuổi, rồi qua đời. 9 Ê-nót được 90 tuổi thì sinh Kê-nan.10 Sau khi sinh Kê-nan, Ê-nót sống thêm 815 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.11 Vậy, Ê-nót hưởng thọ 905 tuổi, rồi qua đời. 12 Kê-nan được 70 tuổi thì sinh Ma-ha-la-ên.13 Sau khi sinh Ma-ha-la-ên, Kê nan sống thêm 840 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.14 Vậy, Kê-nan hưởng thọ 910 tuổi, rồi qua đời. 15 Ma-ha-la-ên được 65 tuổi thì sinh Gia-rết.16 Sau khi sinh Gia-rết, Ma-ha la-ên sống thêm 830 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.17 Vậy, Ma-ha-la-ên hưởng thọ 895 tuổi, rồi qua đời. 18 Gia-rết được 162 tuổi thì sinh Hê-nóc.19 Sau khi sinh Hê-nóc, Gia-rết sống thêm 800 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.20 Vậy, Gia-rết hưởng thọ 962 tuổi, rồi qua đời. 21 Hê-nóc được 65 tuổi thì sinh Mê-tu-sê-la.22 Sau khi sinh Mê-tu-sê-la, Hê nóc tiếp tục đồng đi với Đức Chúa Trời thật* trong 300 năm. Ông sinh con trai và con gái.23 Vậy, Hê-nóc hưởng thọ 365 tuổi.24 Hê-nóc luôn đồng đi với Đức Chúa Trời thật.* Rồi người ta không còn thấy ông nữa, vì Đức Chúa Trời đã đưa ông đi. 25 Mê-tu-sê-la được 187 tuổi thì sinh Lê-méc.26 Sau khi sinh Lê-méc, Mê-tu sê-la sống thêm 782 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.27 Vậy, Mê-tu-sê-la hưởng thọ 969 tuổi, rồi qua đời. 28 Lê-méc được 182 tuổi thì sinh một con trai.29 Ông đặt tên con là Nô-ê* mà nói: “Đứa con này sẽ mang lại niềm an ủi khi chúng ta làm việc vất vả và tay làm lụng nhọc nhằn vì đất bị Đức Giê-hô-va rủa sả”.30 Sau khi sinh Nô-ê, Lê méc sống thêm 595 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.31 Vậy, Lê-méc hưởng thọ 777 tuổi, rồi qua đời. 32 Khi Nô-ê được 500 tuổi, ông sinh Sem, Cham và Gia-phết. ^ Sáng 5:2 Hay “A-đam; loài người”. ^ Sáng 5:22 Xem Bảng chú giải thuật ngữ. ^ Sáng 5:24 Xem Bảng chú giải thuật ngữ. ^ Sáng 5:29 Rất có thể ý nghĩa là “sự nghỉ ngơi; niềm an ủi”. SÁNG THẾ 6 : 1 - 22 6 Khi loài người bắt đầu gia tăng nhiều trên đất và sinh con gái,2 các con trai của Đức Chúa Trời* để ý thấy con gái loài người xinh đẹp. Thế là hễ thích ai thì họ đều lấy làm vợ.3 Đức Giê-hô-va phán: “Thần khí ta sẽ không chịu đựng loài người mãi, vì chúng chỉ là người phàm.* Vậy nên, thời gian của chúng sẽ là 120 năm”. 4 Thời đó và thời sau có người Nê-phi-lim* trên đất, vì các con trai của Đức Chúa Trời cứ ăn ở với con gái loài người, rồi những người nữ này sinh cho họ các con trai. Chúng là những kẻ hùng mạnh thời xưa, những kẻ nổi danh. 5 Thế nên, Đức Giê-hô-va thấy sự gian ác của loài người nhiều quá đỗi trên đất, mọi tư tưởng trong lòng họ lúc nào cũng chỉ hướng về điều xấu xa.6 Đức Giê-hô-va lấy làm tiếc* vì đã dựng nên con người trên đất và cảm thấy buồn rầu trong lòng.7 Vì vậy Đức Giê-hô-va phán: “Ta sẽ xóa sạch khỏi đất những người mà ta đã tạo ra, cả người lẫn súc vật, loài vật bò trên đất cùng loài vật bay trên trời, vì ta lấy làm tiếc là đã dựng nên chúng”.8 Nhưng Nô-ê được ơn trước mắt Đức Giê-hô-va. 9 Đây là lời tường thuật về Nô-ê. Nô-ê là người công chính. Ông sống trọn vẹn giữa những người cùng thời. Nô-ê đồng đi với Đức Chúa Trời thật.10 Với thời gian, Nô-ê sinh ba con trai là Sem, Cham và Gia-phết.11 Bấy giờ, trái đất đã trở nên bại hoại trước mắt Đức Chúa Trời và đầy dẫy sự hung bạo.12 Quả vậy, Đức Chúa Trời nhìn xuống trái đất, và kìa, nó đã bại hoại; cả loài xác thịt* đã làm bại hoại đường lối mình trên đất. 13 Sau đó, Đức Chúa Trời phán với Nô-ê: “Ta quyết định diệt cả loài xác thịt, vì do chúng mà trái đất đầy dẫy sự hung bạo. Vậy ta sẽ diệt chúng và tàn phá đất. 14 Con hãy đóng một chiếc tàu* bằng gỗ của cây cho nhựa. Hãy đóng thành từng gian rồi phủ nhựa đen* cả bên trong lẫn bên ngoài.15 Con phải làm như thế này: Chiều dài tàu 300 cu-bít, chiều rộng 50 cu-bít và chiều cao 30 cu-bít.*16 Con hãy làm một cửa sổ* cách nóc tàu một cu-bít để có ánh sáng vào tàu. Con phải làm cửa ra vào ở bên hông tàu, làm tầng dưới, tầng giữa và tầng trên. 17 Còn ta, ta sẽ giáng nước lụt trên đất để hủy diệt mọi loài xác thịt có hơi sống* dưới bầu trời. Mọi vật trên đất đều sẽ chết hết.18 Nay ta lập giao ước với con; con phải vào tàu, cả con và các con trai, vợ con và các con dâu.19 Hãy mang vào tàu mọi loài sinh vật, mỗi loài hai con, có đực có cái, để chúng được bảo tồn sự sống cùng với con;20 các loài vật biết bay tùy theo loài, súc vật tùy theo loài và mọi loài vật bò trên đất tùy theo loài, mỗi loài hai con sẽ đến với con mà vào tàu để được bảo tồn sự sống.21 Về phần con, con phải thâu trữ và mang theo mọi loại thức ăn để làm lương thực cho con và các loài vật”. 22 Nô-ê làm theo mọi điều Đức Chúa Trời đã phán dặn. Ông làm y như vậy. ^ Sáng 6:2 Thành ngữ tiếng Hê-bơ-rơ nói đến các thiên sứ. ^ Sáng 6:3 Ds: “loài xác thịt”. Cũng có thể là “vì chúng hành động theo xác thịt”. ^ Sáng 6:4 Có thể ý nghĩa là “kẻ hạ gục”, tức là kẻ làm người khác ngã. Xem mục “Người Nê-phi-lim” trong Bảng chú giải thuật ngữ. ^ Sáng 6:6 Hay “đau lòng”. ^ Sáng 6:12 Hay “loài người”. ^ Sáng 6:14 Ds: “rương”. Muốn nói đến chiếc tàu hình chữ nhật như cái rương, có lẽ có góc vuông và đáy phẳng. ^ Sáng 6:14 Hay “chất bi-tum”. ^ Sáng 6:15 Một cu-bít tương đương 44,5cm. Kích thước tàu là: chiều dài 133,5m, chiều rộng 22,3m và chiều cao 13,4m. ^ Sáng 6:16 Hê: tsoʹhar. Có người nghĩ đây là mái che có độ dốc một cu-bít thay vì là khoảng trống để lấy ánh sáng, hay cửa sổ. ^ Sáng 6:17 Hay “sinh khí”. SÁNG THẾ 7 : 1 - 24 7 Bấy giờ, Đức Giê-hô-va phán với Nô-ê: “Con và cả nhà con hãy vào tàu, vì ta nhận thấy con là người công chính giữa thế hệ này.2 Về mọi loài thú tinh sạch, con phải mang theo mỗi loài bảy con,* có đực có cái; về mọi loài thú không tinh sạch thì mỗi loài chỉ hai con, có đực có cái;3 còn về các loài vật bay trên trời thì bảy con,* có đực có cái, có trống có mái, để bảo tồn nòi giống của chúng trên đất.4 Chỉ bảy ngày nữa, ta sẽ làm mưa trên đất trong 40 ngày và 40 đêm, xóa sạch khỏi mặt đất mọi sinh vật ta đã làm nên”.5 Nô-ê làm theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã phán dặn. 6 Nô-ê được 600 tuổi khi trận nước lụt xảy ra trên đất.7 Nô-ê cùng các con trai, vợ mình và các con dâu vào tàu trước trận nước lụt.8 Mọi loài vật tinh sạch, mọi loài vật không tinh sạch, mọi loài vật biết bay cùng mọi loài vật chuyển động trên đất9 đều đến với Nô-ê mà vào tàu, theo từng cặp, có đực có cái, có trống có mái, y như Đức Chúa Trời đã phán dặn Nô-ê.10 Bảy ngày sau, nước lụt ập đến trên đất. 11 Vào năm thứ sáu trăm của đời Nô-ê, tháng thứ hai, ngày 17, hết thảy các nguồn nước trên trời vỡ tung và các cửa trên trời mở ra.12 Mưa trút xuống đất suốt 40 ngày và 40 đêm.13 Chính ngày đó, Nô-ê đã vào tàu cùng với các con trai là Sem, Cham và Gia-phết, vợ và ba con dâu.14 Họ đã vào tàu cùng với mọi động vật hoang dã tùy theo loài, mọi súc vật tùy theo loài, mọi loài vật bò trên đất tùy theo loài, mọi loài vật biết bay tùy theo loài, tức mọi loài chim và mọi loài có cánh.15 Chúng đã đến với Nô-ê mà vào tàu, theo từng cặp, tức là mọi loài xác thịt có hơi sống.*16 Mọi loài xác thịt đã vào tàu, có đực có cái, có trống có mái, y như lời Đức Chúa Trời phán dặn ông. Sau đó, Đức Giê-hô-va đóng cửa tàu lại. 17 Trận lụt kéo dài 40 ngày, nước ngày càng dâng cao và nâng chiếc tàu lên, nên tàu nổi cao bên trên mặt đất.18 Nước tràn ngập trên đất và tiếp tục dâng rất cao, còn chiếc tàu thì nổi trên mặt nước.19 Nước tràn trên đất nhiều đến nỗi ngập hết tất cả các ngọn núi cao dưới bầu trời.20 Nước dâng lên cao hơn các ngọn núi đến 15 cu-bít.* 21 Thế là mọi sinh vật chuyển động trên đất đều bị diệt, tức các loài vật biết bay, súc vật, động vật hoang dã, các loài vật nhỏ nhung nhúc và toàn thể loài người.22 Mọi loài vật trên cạn, có hơi sống* nơi mũi, đều chết hết.23 Đức Chúa Trời xóa sạch khỏi mặt đất mọi sinh vật, từ người cho đến thú vật, loài vật bò trên đất và các loài vật bay trên trời. Tất cả đều bị xóa sạch khỏi đất, chỉ Nô-ê cùng với người và loài vật ở trong tàu với ông được sống sót.24 Nước ngập khắp đất suốt 150 ngày. ^ Sáng 7:2 Cũng có thể là “bảy cặp”. ^ Sáng 7:3 Cũng có thể là “bảy cặp”. ^ Sáng 7:15 Hay “sinh khí”. ^ Sáng 7:20 Khoảng 6,5m. ^ Sáng 7:22 Hay “hơi của sinh khí”. SÁNG THẾ 8 : 1 - 22 8 Nhưng rồi Đức Chúa Trời nhớ đến Nô-ê cùng mọi động vật hoang dã và súc vật đang ở trong tàu với ông; Đức Chúa Trời khiến một ngọn gió thổi trên đất, và nước bắt đầu rút xuống.2 Các nguồn nước cùng các cửa trên trời đều đóng lại, và mưa ngừng rơi.3 Nước bắt đầu rút dần khỏi mặt đất. Sau 150 ngày, nước đã rút xuống nhiều.4 Vào tháng thứ bảy, ngày 17, chiếc tàu tấp trên rặng núi A-ra-rát.5 Nước cứ hạ dần cho đến tháng thứ mười. Vào tháng thứ mười, nhằm ngày mùng một, các đỉnh núi xuất hiện. 6 Sau 40 ngày, Nô-ê mở cửa sổ mà trước kia ông làm trên tàu7 và thả một con quạ ra. Nó cứ bay đi rồi lại bay về cho đến khi nước trên đất cạn bớt. 8 Sau đó, ông thả một con bồ câu ra để xem nước đã rút hết khỏi mặt đất chưa. 9 Bồ câu không tìm được chỗ đậu vì nước vẫn còn bao phủ khắp mặt đất, nó bèn bay về tàu với Nô-ê. Ông đưa tay ra đón và mang bồ câu vào tàu.10 Ông đợi thêm bảy ngày rồi lại thả bồ câu ra.11 Khi bồ câu trở về với Nô-ê lúc chiều tối, kìa, mỏ nó ngậm một lá ô-liu mới bẻ! Vậy ông biết nước đã rút khỏi mặt đất. 12 Ông đợi thêm bảy ngày nữa rồi thả bồ câu ra, nhưng lần này nó không bay về. 13 Đến năm thứ sáu trăm lẻ một, tháng thứ nhất, ngày mùng một, nước rút hết khỏi mặt đất; Nô-ê dỡ mái che tàu ra và thấy mặt đất đang khô dần.14 Đến tháng thứ hai, ngày 27, mặt đất đã khô hẳn. 15 Bấy giờ Đức Chúa Trời phán với Nô-ê:16 “Con, vợ con, các con trai và các con dâu hãy ra khỏi tàu.17 Hãy mang ra với con tất cả sinh vật thuộc mọi loài xác thịt, thuộc các loài vật biết bay, thú vật và mọi loài vật bò trên đất, để chúng tăng thêm gấp bội, sinh sản và gia tăng nhiều trên đất”. 18 Thế là Nô-ê cùng các con trai, vợ và các con dâu ra khỏi tàu.19 Mọi loài thú, mọi loài vật bò trên đất và mọi loài vật biết bay, mọi loài vật chuyển động trên đất, đều ra khỏi tàu theo từng nhóm.20 Rồi Nô-ê dựng một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, ông lấy một số con trong các loài thú tinh sạch và các loài vật tinh sạch biết bay để dâng làm lễ vật thiêu trên bàn thờ.21 Đức Giê-hô-va ngửi thấy một mùi thơm dễ chịu. Thế nên Đức Giê-hô-va nghĩ thầm trong lòng: “Ta sẽ không bao giờ vì con người mà rủa sả đất nữa, bởi lòng con người từ thuở nhỏ đã hướng về điều xấu xa; và ta sẽ không bao giờ hủy diệt mọi sinh vật như ta đã làm.22 Từ nay trở đi, đất sẽ không bao giờ ngừng có mùa gieo giống và thu hoạch, thời tiết lạnh và nóng, mùa hè và mùa đông, ngày và đêm”. SÁNG THẾ 9 : 1 - 29 9 Đức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê cùng các con ông và phán với họ: “Hãy sinh sản và gia tăng nhiều, làm cho đầy cả đất.2 Mọi loài thú trên đất cùng mọi loài vật bay trên trời, mọi loài vật chuyển động trên đất cùng mọi loài cá dưới biển sẽ tiếp tục sợ sệt và kinh hãi các con. Giờ đây, chúng được giao vào tay các con.*3 Mọi động vật có sự sống có thể dùng làm thức ăn cho các con. Ta ban mọi vật ấy như đã ban cây cỏ.4 Nhưng các con không được phép ăn thịt còn máu, tức là còn sự sống.*5 Ngoài ra, ta sẽ đòi phải đền máu của sinh mạng* các con. Ta sẽ đòi mỗi con vật đền lại, cũng đòi mỗi người đền lại sinh mạng anh em mình.6 Hễ ai làm đổ máu người thì sẽ bị người khác làm đổ máu lại, vì con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời.7 Về phần các con, hãy sinh sản và gia tăng nhiều, hãy nhân lên gấp bội trên đất và tăng thêm nhiều”. 8 Rồi Đức Chúa Trời phán với Nô-ê cùng các con trai ông:9 “Nay ta lập giao ước với các con và dòng dõi của các con,10 với mọi vật* sống ở cùng các con, loài chim, loài thú và tất cả sinh vật trên đất ở cùng các con, tất cả sinh vật từ tàu đi ra—mọi sinh vật trên đất.11 Quả vậy, ta lập giao ước với các con: Mọi loài xác thịt sẽ không bao giờ bị nước lụt diệt trừ nữa, trái đất sẽ không bao giờ bị nước lụt hủy hoại nữa”. 12 Đức Chúa Trời phán tiếp: “Đây là dấu hiệu của giao ước mà ta lập giữa ta với các con và mọi vật sống ở cùng các con, là giao ước cho mọi đời sau.13 Ta đặt cầu vồng của ta trên mây, và nó sẽ là dấu hiệu của giao ước giữa ta với trái đất.14 Khi nào ta kéo mây trên đất thì cầu vồng sẽ xuất hiện trên mây,15 và ta sẽ nhớ đến giao ước đã lập với các con cùng tất cả các vật sống thuộc mọi loài; nước sẽ không bao giờ dâng thành lụt để hủy diệt mọi loài xác thịt nữa.16 Cầu vồng sẽ xuất hiện trên mây, ta sẽ thấy nó và nhớ đến giao ước vĩnh cửu giữa Đức Chúa Trời với tất cả các vật sống thuộc mọi loài trên đất”. 17 Rồi Đức Chúa Trời lặp lại với Nô-ê: “Ấy là dấu hiệu của giao ước mà ta lập giữa ta với mọi loài xác thịt trên đất”. 18 Các con trai của Nô-ê đã ra khỏi tàu là Sem, Cham và Gia-phết. Cham là cha của Ca-na-an.19 Đó là ba con trai của Nô-ê, cả dân trên đất từ họ mà có và lan rộng khắp nơi. 20 Bấy giờ, Nô-ê khởi sự làm nghề nông và trồng một vườn nho.21 Khi uống rượu nho, ông bị say và nằm trần truồng giữa lều mình.22 Cham, là cha của Ca na-an, thấy cha mình trần truồng thì đi ra ngoài kể với hai anh mình.23 Sem và Gia-phết bèn lấy một tấm áo, choàng lên vai rồi đi lùi mà vào lều. Như vậy họ đã che sự trần truồng của cha mình, nhưng vì quay mặt đi nên họ không thấy cha mình trần truồng. 24 Sau đó, Nô-ê tỉnh rượu và biết được việc con trai út đã làm đối với mình. 25 Ông bèn nói: “Đáng rủa sả thay Ca-na-an. Nguyện nó làm nô lệ thấp hèn nhất cho anh em nó”. 26 Ông nói thêm: “Đáng ngợi khen thay Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Sem, Nguyện Ca-na-an làm nô lệ cho nó. 27 Nguyện Đức Chúa Trời ban đất rộng cho Gia-phết, Nguyện nó ở trong lều của Sem. Nguyện Ca-na-an cũng làm nô lệ cho nó”. 28 Sau trận Đại Hồng Thủy, Nô-ê sống thêm 350 năm nữa.29 Vậy, Nô-ê hưởng thọ 950 tuổi, rồi qua đời. ^ Sáng 9:2 Hay “chúng ở dưới quyền các con”. ^ Sáng 9:4 Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ. ^ Sáng 9:5 Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ. ^ Sáng 9:10 Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ. SÁNG THẾ 10 : 1 - 32 10 phết. Đây là lời tường thuật về các con trai của Nô-ê là Sem, Cham và Gia Sau trận Đại Hồng Thủy, họ sinh con cái.2 Các con trai của Gia-phết là Gô me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc và Ti-ra. 3 Các con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ri-phát và Tô-ga-ma. 4 Các con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim và Đô-đa-nim. 5 Từ những người ấy mà có dân lan rộng khắp các đảo, tùy theo ngôn ngữ, gia tộc và dân tộc của họ. 6 Các con trai của Cham là Cút-sơ, Mích-ra-im, Phút và Ca-na-an. 7 Các con trai của Cút-sơ là Sa-bê, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ê-ma và Sáp-tê-ca. Các con trai của Ra-ê-ma là Sê-ba và Đê-đan. 8 Cút-sơ sinh Nim-rốt. Nim-rốt trở thành kẻ hùng mạnh đầu tiên trên đất. 9 Ông là tay săn bắt hùng mạnh, chống lại Đức Giê-hô-va. Vì thế có câu nói: “Y như Nim-rốt, là tay săn bắt hùng mạnh, chống lại Đức Giê-hô-va”.10 Các thành đầu tiên của vương quốc ông là Ba-bên, Ê-rết, A-cát và Ca-ne, ở xứ Si-nê-a. 11 Từ xứ đó, ông đi đến A-si-ri và xây các thành Ni-ni-ve, Rê-hô-bốt-i, Ca-lách, 12 cũng như Rê-sen, nằm giữa Ni-ni-ve và Ca-lách: Ấy là thành phố lớn.* 13 Những người sinh bởi Mích-ra-im là Lu-đim, A-na-mim, Lê-ha-bim, Náp tu-him,14 Phát-ru-xim, Cách-lu-him (tổ phụ của người Phi-li-tia) và Cáp-tô-rim. 15 Ca-na-an sinh con trai đầu lòng là Si-đôn, rồi đến Hếch;16 Ca-na-an cũng là tổ phụ của dân Giê-bu, A-mô-rít, Ghi-rê-ga-sít,17 Hê-vít, A-rê-kít, Si-nít, 18 A-vát, Xê-ma-rít và Ha-mát. Về sau, các gia tộc của dân Ca-na-an phân tán ra. 19 Vì thế, ranh giới lãnh thổ của dân Ca-na-an là từ Si-đôn đến Ghê-ran, gần Ga xa, và đến tận Sô-đôm, Gô-mô-rơ, Át-ma và Xê-bô-im, gần La-sa.20 Đó là con cháu của Cham, tùy theo gia tộc, ngôn ngữ, xứ sở và dân tộc. 21 Sem cũng sinh con cái, ông là tổ phụ của cả dòng Ê-be và là em trai của Gia-phết, người anh cả.*22 Các con trai của Sem là Ê-lam, A-su-rơ, A-bác-sát, Lút và A-ram. 23 Các con trai của A-ram là Út-xơ, Hu-lơ, Ghê-te và Mách. 24 A-bác-sát sinh Sê-lách, và Sê-lách sinh Ê-be. 25 Ê-be sinh hai con trai. Người này tên là Bê-léc,* vì vào thời ông dân trên đất bị chia rẽ,* còn người kia tên là Giốc-tan. 26 Giốc-tan sinh A-mô-đát, Sê-lép, Ha-xa-ma-vết, Giê-rách,27 Ha-đô-ram, U xan, Điệt-la,28 Ô-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba,29 Ô-phia, Ha-vi-la và Giô-báp; đó là tất cả con trai của Giốc-tan. 30 Nơi họ sống trải rộng từ Mê-sa đến Sê-pha-ra, là vùng núi ở Đông Phương. 31 Đó là con cháu của Sem, tùy theo gia tộc, ngôn ngữ, xứ sở và dân tộc. 32 Trên đây là những gia tộc của các con trai Nô-ê, tùy theo dòng họ và dân tộc. Từ họ mà các dân tộc lan rộng khắp đất sau trận Đại Hồng Thủy. ^ Sáng 10:12 Cũng có thể là “Chúng hợp nên thành phố lớn”. ^ Sáng 10:21 Cũng có thể là “và là anh trai của Gia-phết”. ^ Sáng 10:25 Nghĩa là “chia”. ^ Sáng 10:25 Ds: “trái đất bị phân chia”. SÁNG THẾ 11 : 1 - 32 11 Bấy giờ, khắp đất chỉ nói một thứ tiếng và dùng từ ngữ giống nhau.2 Khi người ta đi về phía đông thì phát hiện một đồng bằng ở xứ Si-nê-a và bắt đầu định cư ở đó.3 Rồi họ bảo nhau: “Nào! Chúng ta hãy làm gạch và nung trong lửa”. Thế là họ dùng gạch thay cho đá và lấy nhựa đen* làm vữa.4 Họ còn nói: “Nào! Chúng ta hãy xây cho mình một cái thành và một cái tháp có đỉnh cao đến tận trời, chúng ta hãy làm rạng danh mình để sau này không bị phân tán khắp mặt đất”. 5 Đức Giê-hô-va bèn ngự xuống để xem cái thành và cái tháp mà con người đang xây.6 Đức Giê-hô-va phán: “Kìa! Chúng chỉ có một dân, một thứ tiếng mà lại làm như thế đó. Từ nay, chẳng có việc gì chúng dự định mà không làm được. 7 Nào! Chúng ta hãy xuống làm xáo trộn ngôn ngữ của chúng để chúng không hiểu tiếng nói của nhau”.8 Vậy, từ nơi đó Đức Giê-hô-va phân tán họ ra khắp mặt đất, và cuối cùng họ bỏ công việc xây thành.9 Đó là lý do thành ấy được đặt tên là Ba-bên,* vì tại đó Đức Giê-hô-va làm xáo trộn ngôn ngữ của cả đất, và từ nơi đó Đức Giê-hô-va phân tán họ ra khắp mặt đất. 10 Đây là lời tường thuật về Sem. Hai năm sau trận Đại Hồng Thủy, khi Sem được 100 tuổi thì sinh A-bác-sát. 11 Sau khi sinh A-bác-sát, Sem sống thêm 500 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 12 A-bác-sát được 35 tuổi thì sinh Sê-lách.13 Sau khi sinh Sê-lách, A-bác-sát sống thêm 403 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 14 Sê-lách được 30 tuổi thì sinh Ê-be.15 Sau khi sinh Ê-be, Sê-lách sống thêm 403 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 16 Ê-be được 34 tuổi thì sinh Bê-léc.17 Sau khi sinh Bê-léc, Ê-be sống thêm 430 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 18 Bê-léc được 30 tuổi thì sinh Rê-hu.19 Sau khi sinh Rê-hu, Bê-léc sống thêm 209 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 20 Rê-hu được 32 tuổi thì sinh Sê-rúc.21 Sau khi sinh Sê-rúc, Rê-hu sống thêm 207 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 22 Sê-rúc được 30 tuổi thì sinh Na-cô.23 Sau khi sinh Na-cô, Sê-rúc sống thêm 200 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 24 Na-cô được 29 tuổi thì sinh Tha-rê.25 Sau khi sinh Tha-rê, Na-cô sống thêm 119 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 26 Tha-rê được 70 tuổi thì sinh Áp-ram, Na-cô và Cha-ran. 27 Đây là lời tường thuật về Tha-rê. Tha-rê sinh Áp-ram, Na-cô và Cha-ran; Cha-ran sinh Lót.28 Cha-ran qua đời tại nơi mình sinh ra, ở U-rơ của người Canh-đê, khi cha mình là Tha-rê vẫn còn sống.29 Áp-ram và Na-cô lấy vợ. Vợ Áp-ram tên là Sa-rai, còn vợ Na-cô tên là Minh-ca, con gái của Cha-ran. Cha-ran là cha của Minh-ca và Dích-ca.30 Sa-rai hiếm muộn, không có con. 31 Tha-rê dẫn Áp-ram con trai mình và Lót cháu nội mình, tức con trai của Cha-ran, cùng Sa-rai dâu mình, tức vợ của Áp-ram, ra khỏi U-rơ của người Canh-đê để đến xứ Ca-na-an. Nhưng khi đến Cha-ran, họ ở lại đó.32 Tha-rê hưởng thọ 205 tuổi rồi qua đời ở Cha-ran. ^ Sáng 11:3 Hay “chất bi-tum”. ^ Sáng 11:9 Nghĩa là “sự xáo trộn”. SÁNG THẾ 12 : 1 - 20 12 Đức Giê-hô-va phán với Áp-ram: “Hãy rời bỏ xứ sở, bà con và nhà cha con để đến xứ ta sẽ chỉ cho.2 Ta sẽ khiến con nên một dân lớn, ban phước cho con, làm con rạng danh, và con sẽ trở thành một ân phước.3 Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước con, rủa sả người nào cầu họa cho con, và nhờ con mà mọi dân tộc trên đất sẽ được phước”.* 4 Áp-ram ra đi y như Đức Giê-hô-va đã phán bảo, có Lót cùng đi với ông. Áp ram được 75 tuổi khi rời Cha-ran.5 Áp-ram đem theo Sa-rai vợ mình, Lót cháu trai mình, tất cả tài sản cùng các đầy tớ mà họ đã có ở Cha-ran và lên đường đi đến xứ Ca-na-an. Khi tới xứ Ca-na-an,6 Áp-ram đi tiếp đến tận Si-chem, gần các cây lớn của Mô-rê. Bấy giờ, dân Ca-na-an đang sống trong xứ.7 Đức Giê-hô-va hiện ra với Áp-ram và phán: “Ta sẽ ban xứ này cho dòng dõi con”. Tại đấy, ông bèn dựng một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, là đấng đã hiện ra với ông.8 Sau đó, Áp-ram chuyển đến vùng núi phía đông Bê-tên rồi dựng trại giữa Bê-tên và A-i (Bê-tên ở phía tây và A-i ở phía đông). Tại đấy, ông cũng dựng bàn thờ cho Đức Giê-hô-va và ngợi khen danh Đức Giê-hô-va.9 Rồi Áp-ram nhổ trại và đi tiếp về hướng Nê-ghép, đến đâu thì dựng trại ở đó. 10 Bấy giờ, trong xứ xảy ra một nạn đói. Áp-ram sang Ai Cập tạm trú vì nạn đói ấy rất trầm trọng.11 Khi sắp đến Ai Cập, ông nói với Sa-rai, vợ ông: “Xin mình nghe tôi, tôi biết mình là người có nhan sắc.12 Khi người Ai Cập thấy mình, hẳn họ sẽ nói: ‘Vợ ông ta đấy’. Họ sẽ giết tôi nhưng để mình sống.13 Vậy, xin mình xưng là em gái tôi để nhờ mình mà tôi được bình yên và bảo toàn mạng sống”. 14 Quả vậy, Áp-ram vừa đến Ai Cập thì người Ai Cập thấy ngay là bà rất đẹp. 15 Các quan của Pha-ra-ôn cũng nhìn thấy bà và ca tụng bà với Pha-ra-ôn, thế nên bà được đưa vào cung.16 Vì bà mà Pha-ra-ôn đối đãi tử tế với Áp-ram; ông được nhiều cừu, bò, lừa đực, lừa cái, lạc đà và tôi trai tớ gái.17 Nhưng Đức Giê hô-va giáng những tai vạ lớn trên Pha-ra-ôn và nhà ông vì cớ Sa-rai, vợ của Áp ram.18 Pha-ra-ôn bèn gọi Áp-ram đến và nói: “Ngươi đã làm gì với ta thế này? Sao không cho ta biết nàng là vợ ngươi?19 Sao ngươi nói: ‘Đó là em gái tôi’, để suýt nữa ta lấy nàng làm vợ? Vợ ngươi đây, hãy nhận lấy nàng và đi đi!”.20 Pha ra-ôn sai người hộ tống Áp-ram ra đi, cùng với vợ ông và tất cả những gì thuộc về ông. ^ Sáng 12:3 Hay “sẽ đạt được ân phước cho mình”. SÁNG THẾ 13 : 1 - 18 13 Áp-ram bèn rời khỏi Ai Cập và đi về hướng Nê-ghép, cùng với ông có vợ, tất cả những gì thuộc về ông và cả Lót.2 Áp-ram có rất nhiều gia súc và vàng bạc.3 Từ Nê-ghép, Áp-ram trở lại Bê-tên, đi đến đâu thì dựng trại ở đó, cho đến khi trở về nơi ông từng dựng trại giữa Bê-tên và A-i,4là nơi trước kia ông đã dựng bàn thờ. Tại đây, Áp-ram ngợi khen danh Đức Giê-hô-va. 5 Lót, người cùng đi với Áp-ram, cũng có cừu, bò và lều trại.6 Thế nên không đủ đất cho tất cả ở cùng một nơi; tài sản họ nhiều đến nỗi họ không sống chung được nữa.7 Vì vậy, giữa những người chăn gia súc của Áp-ram và những người chăn gia súc của Lót nảy sinh tranh cãi. (Bấy giờ dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít đang ở trong xứ).8 Áp-ram bèn nói với Lót: “Xin đừng để có chuyện tranh cãi giữa chú cháu mình, giữa những người chăn của chú và những người chăn của cháu, vì chúng ta là ruột thịt.*9 Chẳng phải cả xứ ở trước mặt cháu sao? Xin hãy tách nhau ra. Nếu cháu sang bên trái thì chú sẽ qua bên phải, nếu cháu sang bên phải thì chú sẽ qua bên trái”.10 Lót nhìn lên, thấy cả vùng sông Giô-đanh đến tận Xoa là một vùng có nhiều nước (lúc này Đức Giê-hô-va chưa hủy diệt Sô đôm và Gô-mô-rơ), vùng ấy tựa như vườn của Đức Giê-hô-va, giống như xứ Ai Cập.11 Thế là Lót chọn cả vùng sông Giô-đanh và dời trại sang phía đông. Vậy họ tách nhau ra.12 Áp-ram ở lại xứ Ca-na-an, còn Lót ở gần các thành của vùng sông Giô-đanh. Cuối cùng, Lót dựng trại gần Sô-đôm.13 Nhưng dân Sô-đôm là những kẻ gian ác, mắc tội nặng với Đức Giê-hô-va. 14 Sau khi Lót tách ra, Đức Giê-hô-va phán với Áp-ram: “Con hãy nhìn lên,* từ nơi con đang đứng hãy ngó về phía bắc và phía nam, phía đông và phía tây, 15 vì ta sẽ ban cho con và dòng dõi con cả xứ mà con thấy đó làm sản nghiệp lâu bền.16 Ta sẽ khiến dòng dõi con nhiều như bụi trên đất, ai đếm được bụi trên đất thì mới đếm được dòng dõi của con.17 Nào, hãy lên đường đi khắp chiều dài và chiều rộng của xứ, vì ta sẽ ban xứ ấy cho con”.18 Vậy Áp-ram tiếp tục sống