🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kinh Tế - Xã Hội Vùng Nông Thôn Huyện Gia Lâm - Hà Nội Trên Tiến Trình Đổi Mới Ebooks Nhóm Zalo V IỆN KHO A H Ọ C Xà HỘI V IỆT NAM VIỆN SỬ HỌC TS. Trần Thị Tường Vân Kinh tế - Xã hội i i i f p m L D jjj - ] J à j J u l JJ ứổj jJJL/J N H À X U ẤT BÁN K H O A H Ọ C XẢ H Ộ I K IM I T Ế - X à I l ộ l VÙNG NÔNG THÔN HU Y ỆN G lÀ LÂM - HÀ IMỘI VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM VIỆN SỬ HỌC TS. TRẦN THỊ TƯỜNG VÂN KINH TÊ - Xà HỘI VÙNG NÔNG THÔN HUYỆN Glà LÂM - HÀ NỘI TRÊN TIẾN TRÌNH Đổl MỚI NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC Xà HỘI HÀ NỘI - 2008 MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TAT 9 LỜI NÓI ĐẨU 11 Chương 1 KHÁI QUÁT ĐIỂU KIỆN T ự NHIÊN, TÌNH HÌNH KINH TẾ - XẢ HỘI VÙNG NÔNG THÔN GIA LÂM TRƯỚC NĂM 1981 17 I. Điều kiện tự nhiên vùng nông thôn Gia Lâm 17 1. Vài nét về sự thay đổi địa lý hành chính 17 2. Vi trí địa lý, địa hình, đất đai 21 3. Khí hậu, thuỷ văn - môi trường - sinh thái 27 II. Vài nét đặc điểm kinh tê - xã hội vùng nông thôn Gia Lâm 30 1. Đặc điểm kin h tế 30 2. Đặc diêm xã hội 50 5 III. Khái q u át tình hình kinh tế - xã hội vùng nông thôn Gia Lâm trước năm 1981 1. Tình hình kinh tế nông thôn Gia Lảm trước năm 1981 2. Tỉnh hình xã hội nông thôn Gia Lảm trước năm 1981 Chương 2 CHUYÊN BIẾN Cơ BẢN VỂ KINH TÊ VÙNG NÔNG THÔN HUYỆN GIA LÂM TỪ NĂM 1981 ĐẾN NĂM 2003 I. Kinh tế nông thôn Gia Lâm giai đoạn 1981 - 4/1988 1. Bối cảnh đôi mới kin h tế nông nghiệp, nông thôn 2. Sự chuyển biến bước đầu của quan hệ sản xuảt, lực lượng sản xu ấ t và cơ cấu kin h tề nông thôn Gia Lảm II. Kinh tế nông thôn Gia Lâm giai đoạn 4/1988 - 2003 1. Chủ trương, chính sách đổi mới toàn diện nông nghiệp, nông thôn 2. Sự chuyển biến của quan hệ sản xu ấ t ở nông thôn Gia Lảm 3. Sự chuyển biến của lực lượng sản xu ấ t ỏ nông thôn Gia Lăm 63 63 90 112 112 112 124 144 144 157 167 4. Sự chuyên dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Gia Lâm giai doan 4/1988 - 2003 4.1. Sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp 4.2. Sự chuyển dịch của ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 4.3. Sự chuyển dịch của ngành thương mại - dịch vụ - du lịch Chương 3 CHUYỂN BIÊN Cơ BẢN VỀ MẶT Xà HỘI ở VÙNG NÔNG THÔN GIA LÂM TỪ 1981 - 2003 I. Từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị - xã hội cơ sở II. Sự chuyển biến trong cơ cấu lao động - việc làm 1. Vê cơ cấu lao động, nghê nghiệp 2. Về vấn đề tạo việc làm cho người lao động III. Ảnh hưởng của quá trìn h đô thị hoá - công nghiệp hoá nông thôn Gia Lâm rv. Sự chuyển biến của đời sông vật chât - văn hoá - tinh th ần 1. Thành tựu vê xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, táng hộ giàu 188 189 226 252 272 273 302 303 312 324 338 338 7 2. Vê xây dựng nông thôn mới và tình hình y tế, giáo dục ở nông thôn Gia Lảm V. Chuyển biến vể tư duy, nhận thức, tâm lý, tính cách của người nông dân KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 348 379 392 410 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Công nghiệp hoá - hiện đại hoá Chù nghĩa xã hội Dân sô' - kế hoạch hoá gia đình Đô thị hoá - hiện đại hoá Hợp tác hoá Hợp tác hoá nông nghiệp Hợp tác hoá - tập thể hoá Hợp tác xã Hợp tác xã m ua bán Hợp tác xã nông nghiệp Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp Hội đồng nhân dân Khu công nghiệp Khoa học kỹ th u ật Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn C N H - HĐH CNXH D S - KHHGĐ ĐTH - HĐH HTH HTHNN HTH - TTH HTX HTXMB HTXNN HTXSXNN HĐND KCN KHKT NHNN&PTNT 9 Ngân hàng phục vụ ngưòi nghèo NHPVNN Rau an toàn RAT Trung học cơ sở THCS Trung học phổ thông THPT Trách nhiệm hữu hạn TNHH u ỷ ban hành chính UBHC Uỷ ban nhân dân UBND Xã hội chủ nghĩa XHCN Xoá đói giảm nghèo XĐGN 10 LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam là một nưốc nông nghiệp. Cho đến nay vẫn còn hơn 70% dân sô" sinh sống tại nông thôn. Trải qua các thời kỳ cách mạng, trong nhận thức cũng như trong thực tiễn, Đảng ta luôn coi nông nghiệp, nông dân và nông thôn là những vấn đề chiến lược quan trọng, là khâu then chốt và là cơ sở xuất phát của quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Gia Lâm là một huyện thuộc loại lớn của ngoại thành Hà Nội. Hiện nay, mặc dù là huyện có tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh nhất ngoại thành, nhưng nhìn đại thể, khu vực nông thôn vẫn chiếm phần lớn đất đai của Gia Lâm (gần 90% diện tích đất tự nhiên), và dân cư chủ yếu vẫn sống bằng nghề nông (khoảng 68% dân số). Giống như tấ t cả các nơi khác trên miền Bắc, nông thôn Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội, cũng đã trải qua những biến đổi sâu sắc dưới tác động của đường lốỉ hợp 11 tác hoá nông nghiệp do Đảng và Nhà nước chủ trương và tiến hành trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, với những thành công và những th ấ t bại trong quá trình từng bưóc đi vào con đường làm ăn tập thể. Cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp theo một sự chỉ đạo thông nhất đối vối tấ t cả mọi vùng đã làm cho Gia Lâm khó thể hiện và phát huy được một cách rõ rệt đặc điểm và ưu th ế của một vùng nông thôn ven đô, gần vối những cơ sở công nghiệp lón. Từ thập kỷ 80 của th ế kỷ XX đến nay, vối chủ trương, đường lối đổi mới toàn diện đất nưốc của Đảng, Chính phủ, nông nghiệp, nông thôn nước ta có nhiều 'tổi thay rõ nét, đạt nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt. Cũng như nông thôn cả nưốc, từ đầu những năm 80, n h ất là từ những năm cuối thê kỷ XX, vùng nông thôn Gia Lâm đã có dấu hiệu của sắc th ái mới. Yếu tố ven đô b ắt đầu phát huy thê m ạnh của nó. Tính năng động của người dân b ắt nhịp được những đổi thay về chính sách kinh tế - xã hội, đã tạo nên những chuyển biến tích cực về tìn h hình kinh tế - xã hội trên vùng nông thôn Gia Lâm, vai trò tự chủ của kinh tế hộ được phát huy; và đặc biệt người ta nhận thấy yếu tổ’ đô thị đang xâm nhập vào đời sông của từng làng xã, từng gia đình nông dân. Đến nay, nông thôn Gia Lâm đã thực sự thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, để bước vào một giai đoạn phát triển mói, giai đoạn đẩy m ạnh công 12 nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, nhằm mục tiêu xây dựng nền kinh tê phát triển toàn diện, bền vững, vối một xã hội ổn định, giàu đẹp, tiến bộ, văn minh, hiện đại. Tiếp tục trên con đường đổi mới, nông nghiệp, nông thôn nưóc ta nói chung, Gia Lâm - Hà Nội nói riêng, ngoài những cơ hội mới, hiện đang đối m ặt những thách thức mối trong quá trình tiến lên theo con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, việc nhìn lại giai đoạn đầu tiên trên tiến trình đổi mới nông thôn, để rú t ra những bài học kinh nghiệm, tìm ra cách đi thích hợp cho mỗi hộ gia đình, mỗi thôn xóm, cho toàn bộ vùng nông thôn Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội, là một yêu cầu bức thiết. Chúng tôi hy vọng cuôn sách K in h t ế - x ã h ộ i v ù n g n ô n g th ô n h u yện Gia L ả m - H à N ội trê n tiến tr ìn h đôi m ới phần nào giúp bạn đọc trả lời các câu hỏi đó. Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi sẽ là vùng nông thôn (gồm 31 xã) của huyện ven đô Gia Lâm - Hà Nội; trong thòi gian từ năm 1981 - là năm Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 100/BBT, đưa đến một sô' đổi mới trong nông nghiệp, nông thôn; đến hết năm 2003, khi quận mối Long Biên chính thức thành lập, trên cơ sở cắt chuyển 3 thị trấn và 10 xã của Gia Lâm. Vùng nông thôn Gia Lâm còn lại 21 đơn vị hành chính cấp cơ sỏ. Thời gian trước năm 1981 cũng được nghiên cứu, với mục đích đánh giá một cách khái quát những 13 nét cơ bản nhất thực trạng nông thôn Gia Lâm ỏ thời điểm bắt đầu đổi mối, nhằm làm rõ hơn quá trìn h biên đổi dưới tác động của những chính sách mới. Mục đích, nội dung nghiên cứu: Đây là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thông về các mặt kinh tê - xã hội của vùng nông thôn Gia Lâm thời kỳ đầu trong tiến trình đổi mới (từ năm 1981 đến năm 2003) dưới góc độ lịch sử. Trên cơ sở hệ thống, giám định, phân tích, tổng hợp một khối lượng tài liệu rất phong phú, đa dạng, kết hợp vối những đợt khảo sát thực tế, chúng tôi mong muôn dựng lên bức tranh về những biến đổi, thăng trầm của kinh tế - xã hội ở vùng nông thôn Gia Lâm - Hà Nội theo từng giai đoạn phát triển. Bên cạnh đó, chúng tôi còn đề cập đến bối cảnh đổi mới kinh tế nông nghiệp, nông thôn; tập trung tìm hiểu và phân tích những nguyên nhân đưa đến sự biến đổi của từng vấn đề, từng m ặt cũng như sự biến đổi chung của kinh tế - xã hội Gia Lâm - Hà Nội, nhằm phát huy những nhân tô" tích cực, đồng thời hạn chế, khắc phục những m ặt tiêu cực. Bưốc đầu khái quát những quy luật vận động kinh tế - xã hội của nông thôn, chỉ ra những khó khăn, thách thức trên con đường phát triển, rú t ra một sô bài học kinh nghiệm, tìm biện pháp đổi mối nhanh nông thôn Gia Lâm theo hưống CNH - HĐH. nhăm khai thác và phát huy tôt nh ất sức m ạnh nguồn lực nội sinh. Cùng với các công trình khác, chúng tôi mong muốn 14 cuôn sách sẽ là cơ sở thực tiễn để góp thêm căn cứ khoa học cho các cơ quan hoạch định các chủ trương chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn nước ta nói chung, Gia Lâm - Hà Nội nói riêng trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Trong quá trình hoàn thành công trình này, tác giả đã nhận được những chỉ dẫn khoa học tận tình của PGS.TS. Đinh Thị Thu Cúc, TS. Trần Hữu Đính, PGS. Cao Văn Lượng cũng như những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học; sự giúp đỡ, động viên về chuyên môn, vật chất và tinh thần của Ban Lãnh đạo Viện Sử học: Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện sử học - PGS.TS. Trần Đức Cưòng, Viện trưởng Viện Sử học - PGS.TS. Nguyễn Văn Nhật, Phó Viện trưởng - Trưởng phòng Quản lý khoa học và Đào tạo Viện Sử học - TS. Nguyễn Ngọc Mão, Thư viện Viện Sử học, Phòng Nghiên cứu Lịch sử hiện đại Việt Nam, Phòng Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Phòng Hành chính cùng các phòng, ban khác của Viện Sử học. Nhân đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới tấ t cả những sự giúp đỡ quý báu đó. Chúng tôi xin gửi lời cám ơn tối Phòng Lưu trữ Thành ủy Hà Nội, Ưỷ ban nhân dân và Huyện uỷ huyện Gia Lâm, u ỷ ban nhân dân và nhân dân các xã Bát Tràng, Đa Tốn, Ninh Hiệp, Kiêu Kỵ, Văn Đức, Cự Khối... đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp tư liệu trong những chuyến tôi đi khảo sát, nghiên cứu thực tê tại địa phương. 15 Cuối cùng, xin cảm ơn tấ t cả những người thản yêu trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp thân thiết đã hết lòng động viên tôi dành thời gian, tâm sức đê hoàn thành công trình này. Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2007 T ác giả 16 Chương 1 KHÁI QUÁT ĐIỂU KIỆN T ự NHIÊN TỈNH HÌNH KINH TẾ - Xà HỘI VÙNG NÓNG THÔN GIA LÂM TRƯỚC NẢM 1981 I. ĐIỂU KIỆN Tự NHIÊN VỪNG NÔNG THÔN GIA LÂM 1. V ài n é t vể sự th a y đổi đ ịa lý h à n h ch ín h Địa danh Gia Lâm xuất hiện từ đời Lý. Do những biến động của lịch sử, phạm vi, tên gọi hành chính cũng như các đơn vị hành chính thuộc Gia Lâm thay đổi nhiều lần. Theo ghi chép của Quốc sử quán triều Nguyễn trong sách Đại Nam N hất thông chí: Đời Lý (1010 - 1225) gọi tên là quận Gia Lâm; sau đôi thành huyện. Thời thuộc Minh (1417 - 1427) Gia Lâm thuộc phủ Bắc Giang; đời Lê Quang Thuận (1460 - 1497) thuộc phủ T huận An (sau đổi là Thuận Thành, có 78 xã); đòi Gia Long (1802 - 1819) không thay đổi. Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832) Gia Lâm tách làm phân phủ thống hạt. Thòi Tự Đức (1848 - 1883) Gia Lâm gồm 10 tổng (đó là các tổng Cổ Biện, Kim Sơn, Đặng Xá, Gia Thuỵ, Cự Linh Đông Dư, Đa Tôn, Nghĩa Trai, Như Kinh, Lạc Đạo) vối 88 xã, thôn. Thời Pháp thuộc, Gia Lâm có 7 tổng (Cổ Biện, Kim Sơn, Đặng Xá, Gia Thuỵ, Cự Linh, Đông Dư, Đa Tốn), không còn các tổng: Như Kinh, Lạc Đạo, N ghĩa Trai; với 55 xã, thôn. Thời kỳ này Gia Lâm thuộc về tỉnh Bắc Ninh. Tháng 11 - 1948, theo sắc lệnh số 263 - SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Gia Lâm được tách khỏi Bắc Ninh, nhập vào tỉnh Hưng Yên. Một năm sau, tháng 11 - 1949 Gia Lâm lại được trả về Bắc Ninh (Sắc lệnh số’ 127 - SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 7 - 11 - 1949). Sau ngày hoà bình lập lại (1954), một phần huyện Gia Lâm được sáp nhập vào nội thàn h H à Nội với cái tên là quận 8, một trong số tám quận của Hà Nội. Ngày 10 - 4 - 1961, Quốc hội khoá 2, kỳ họp thứ 2 phê chuẩn Nghị quyêt của Chính phủ về việc mở rộng thành phô Hà Nội, huyện Gia Lâm chính thức được thành lập và trở thành 1 trong 4 huyện ngoại thành Hà Nội từ ngày 31 - 5 - 1961 trên cơ sở một số xã của 6 quận, huyện thuộc 3 tỉnh, thành: Quận 8 (Hà Nội), huyện Gia Lâm, Từ Sơn, Tiên Du, T huận T hành (tỉnh Bắc Ninh), huyện Văn Giang (tỉnh Hưng Yên) (theo Quyết định số 78 CP của HĐCP). Gia Lâm thời gian này gồm 2 thị trấn và 31 xã, đó là thị trấn Gia Lâm, thị trấn Yên Viên và các xã Chiến Thắng, Cự Khối, Dương Hà, Đại Hưng 18 Đình Xuyên. Đức Thắng. Giang Biên. Hồng Tiên. Kim Lan, Ngọc Thụy, Ninh Hiệp. Long Biên, Phúc Lợi. Phù Đổng, Quang Minh. Quang Trung I, Quang Trung II, Quyết Chiến, Quyết Thăng, Quyết Tiến. Tân Hưng, Thừa Thiên, Thượng Thanh, Thạch Bàn, Tiên Phong, Tiến Bộ, Toàn Thắng, Trung Thành, Trung Hưng, Vân Dục, Việt Hưng. Trong những năm 1964 - 1965, một sô xã dần chuyên về tên truyền thông, thân thuộc, có ý nghĩa lịch sử - văn hoá - nhân văn, đó là Quang Minh lây lại tên Bát Tràng; Thừa Thiên (Đông Dư), Hồng Tiến (Bồ Để); Trung T hành (Cổ Bi); Chiến Thắng (Dương Quang); Đức Thắng (Dương Xá); Đại Hưng (Đa Tốn); Quyết Tiến (Đặng Xá); Tiến Bộ (Gia Thuỵ); Phúc Lợi (Hội Xá); Tân Hưng (Kiêu Kỵ); Quyết Thắng (Kim Sơn); Toàn T hắng (Lệ Chi); Quyết Chiến (Phú Thị); Quang Trung I (Trâu Quỳ); Quang Trung II (Yên Thường); Tiền Phong (Yên Viên); Trung Hưng (Trung Mầu)... Từ đó cho đến tháng 12 năm 2003. tổ chức hành chính cấp cơ sở vùng nông thôn Gia Lâm ổn định với 31 xã, với các địa danh: Bát Tràng, Bồ Đề, cổ Bi, Cự Khỏi, Dương Hà, Dương Quang, Dương Xá, Đa Tôn, Đặng Xá, Đình Xuyên, Đông Dư, Gia Thuỵ, Giang Biên, Hội Xá. Kiêu Kỵ, Kim Lan, Kim Sơn, Lệ Chi, Long Biên, Ngọc Thuỵ. Ninh Hiệp. Phù Đông. Phú Thị. Thạch Bàn, Thượng Thanh, T râu Quỳ, Trung Mẩu, Văn Đức. Việt Hững, Yên Thường, Yên Viên. Trong 31 xã của Gia Lâm, các xã có diện tích tự 19 nhiên lốn nhất là: Phù Đống: 1.090 ha. Ngọc Thuỵ: S80 ha. Lệ Chi: 870 ha và những xã có diện tích nho nhất: Bát Tràng: 180 ha. Đình Xuyên: 240 ha, Dương Hà. Yên Viên, Kim Lan từ 2Õ0 - 260 ha. Xã có nhiều thôn nh ất là Đặng Xá: 9 thôn, Dương Quang: 8 thôn, Kiêu Kỵ: 7 thôn. Xã ít thôn nhất là: Bát Tràng, Cự Khối. Đình Xuyên có 2 thôn, Kim Lan chỉ có 1 thôn, các xã còn lại có từ 3 - 6 thôn. Địa giới hành chính của Gia Lâm đã ôn định trong hơn ba mươi năm; cho đến ngày 6 - 11 - 2003, Chính phủ ra Nghị định số 132/2003/NĐ - CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Gia Lâm đê thành lập quận Long Biên và huyện Gia Lâm mới. Quận Long Biên được thành lập toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số 10 xã thuộc nông thôn Gia Lâm (Thượng Thanh, Ngọc Thuỵ, Gia Thuỵ, Giang Biên, Việt Hưng, Hội Xá, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối), và các thị trấn Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng. Huyện Gia Lâm từ năm 2004 còn lại 10.844,66 ha diện tích tự nhiên và 190.194 nhân khẩu, có 22 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã: Bát Tràng, c ổ Bi. Dương Hà. Dương Quang, Dương Xá. Đa Tôn, Đặng Xá, Đình Xuyên, Đông Dư. Kiêu Kỵ, Lệ Chi, Ninh Hiệp, Kim Lan, Kim Sơn, Phú Thị, Phù Đổng, T râu Quỳ, Trung Mầu. Văn Đức, Yên Thường. Yên Viên, và thị trấn Yên Viên. Vị trí huyện lỵ Gia Lâm cũng thay đôi nhiêu lần: thế kỷ XVIII đặt ờ Đặng Xá. sau sang Phú Thị. Xăm 180° lại chuyển về đặt tại Ái Mộ (thị trấn Gia Lâm). Từ năm 20 1961 cho đến nay (kê cả khi Gia Lâm thành lập huyện mới), huyện lỵ Gia Lâm được đặt tại xã Trâu Quỳ, cách Hà Nội 15 km, cạnh quốc lộ số 5 và đây cũng là vị trí trung tâm huyện. 2. Vị tr í đ ịa lý, đ ịa h ìn h và đ ấ t đai Gia Lâm là một huyện ven đô, nằm ở cửa ngõ đông - bắc thủ đô Hà Nội, thuộc trung tâm đồng bằng vùng châu thổ sông Hồng. Gia Lâm giáp các quận nội thành: Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm và huyện Thanh Trì vê phía tây - nam; giáp huyện Đông Anh về phía tây - bắc; giáp các huyện Tiên Sơn, Thuận Thành (tỉnh Bắc Ninh) vê phía đông - bắc và huyện Mỹ Văn, Châu Giang (tỉnh Hưng Yên) về phía đông - nam. Địa bàn Gia Lâm là nơi gặp gỡ của các đầu mối giao thông đường bộ (kể cả đường sắt), đường thuỷ, đường hàng không tạo thuận tiện cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá - xã hội giữa các vùng trong huyện, hoặc với các vùng khác nhau của đất nưốc. v ể đường bộ: Gia Lâm có các đường giao thông chính mang ý nghĩa chiến lược về quân sự, kinh tê - xã hội: Quốc lộ 5 tách khỏi quốc lộ 1A ở xã Gia Thuỵ, chạy về hướng đông (qua đất Gia Lâm 12 km, tới Dương Xá là hết địa phận huyện) nôi Hà Nội - Gia Lâm vối cảng biển Hải Phòng. Cũng từ Dương Xá có một con đường từ quốc lộ 5 chạy vòng về phía sông Đuống đê tới các huyện phía nam tỉnh Bắc Ninh là Thuận Thành và Gia Lương (nay là Lường Tài và Gia Bình) (đường 182). 21 Quốc lộ 1A - con đưòng huyết mạch xuyên suốt chiều dài đất nước, chạy trên đất Gia Lâm từ xã Yên Thường vào Hà Nội là 14 km; Quốc lộ 1B từ Yên Thường đi Bắc Ninh (27 km), Bắc Giang (48 km) và Lạng Sơn (150 km) đến sát biên giới Trung Quốc. Từ quốc lộ 1B còn có lối rẽ đi Đông Anh. Từ Đông Anh, quốc lộ 3 nối Gia Lâm với các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng; theo quốc lộ 2 lên Vĩnh Yên, Tuyên Quang, Hà Giang địa đầu Tổ quốc. Gia Lâm có hệ thông đường liên huyện (76,5 km), đó là các tuyến: 179, 181, Chợ Mới - Phô" Bò, Đức Giang - đê Thượng Thanh, tuyến đê tả sông Hồng, hữu và tả sông Đuống; tuyến đê liên xã (57,9 km), tương đối hoàn chỉnh, phân bố đều đến các xã trong huyện, cảng nội địa Gia Thuỵ (thuộc xã Gia Thuỵ, trên quốc lộ số 5) là nơi tập trung, giao dịch, vận chuyển hàng hoá mây tre đan xuất khẩu cùng các hàng hoá nông sản khác của địa phương. v ể đ ư ờ n g th u ỷ : huyện Gia Lâm nằm giữa hai sông lón là sông Hồng (chảy theo hướng nam, qua địa phận Gia Lâm 18,7 km, b ắt đầu từ xã Ngọc Thuỵ, tối Bồ Để, Long Biên, Cự Khôi, Đông Dư, Bát Tràng, Kim Lan cuối cùng là Văn Đức) và sông Đuống - chi lưu của sông Hồng (chảy qua địa phận Gia Lâm 18,3 km; bắt đầu từ Ngọc Thuỵ, uốn lượn theo hướng tây - đông qua các xã Thượng Thanh, Dương Hà, Giang Biên, Hội Xá, cổ Bi. Đặng Xá, Phù Đổng, tối Trung Mầu, Lệ Chi là sang địa phận huyện T huận Thành tỉnh Bắc Ninh). Những sông 22 này không chỉ thường xuyên bồi đắp phù sa, tạo nên những vùng đất bãi màu mỡ của các xã: Ngọc Thuỵ, Bồ Đề, Long Biên, Cự Khôi, Đông Dư, Kim Lan, Văn Đức, Thượng Thanh, Giang Biên, Dương Hà, Hội Xá, cổ Bi, Đặng Xá, Phù Đổng, Trung Mầu, Lệ Chi mà còn cùng công trình đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải (khởi công năm 1958, nối với sông Hồng từ địa phận xã Bát Tràng) và sông nhỏ c ầ u Bây bắt nguồn từ đầm Lệ M ật (xã Việt Hưng) qua Giang Biên, Hội Xá, Thạch Bàn, Đa Tôn, Kiêu Kỵ. Những sông đó tạo nên mạng lưối giao thông đường thuỷ quan trọng cho địa phương, cản g Bát Tràng trên bờ sông Hồng là địa điểm tập kết nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất của làng nghề và trung chuyển hàng gôm sứ đến mọi miền, cản g này, vào thập kỷ 70 của thê kỷ XX củng là bến đỗ cho những chuyến tàu thuỷ, chuyên chỏ hành khách, hàng hoá, ngày ngày xuôi ngược Hà Nội - Hưng Yên - Thái Bình. Hệ thống sông ngòi của Gia Lâm, cùng vối các kênh, mương, cống... được xây dựng trong thời kỳ hợp tác hoá, đã góp phần hình thành nên một hệ thống thuỷ nông tương đốì hoàn chỉnh, cung cấp nưốc để tưới và tiêu nước khi úng, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và dân sinh. v ể đư ờ n g sắt: từ Hà Nội qua địa bàn Gia Lâm còn có 3 tuyến đường sắt: 1. Hà Nội qua ga Gia Lâm đi Đông Anh - Vĩnh Yên - Việt Trì - Yên Bái - Lào Cai (296 km). Từ ga Đông Anh còn có lốĩ rẽ lên Thái Nguyên (75 km). 23 2. Hà Nội - Gia Lâm qua ga Yên Viên đi Bắc Ninh - Bắc Giang - Đồng Đăng (Lạng Sơn): 163 km. 3. Hà Nội - Gia Lâm qua ga Phú Thị (nằm trên đất Dương Xá) đi Hải Dương - Hải Phòng (102 km). Những tuyến đưòng này cùng với đường bộ, đường sông vừa đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của địa phương, tạo thuận tiện cho sự đi lại tối khắp miền đất nước, vừa góp phần củng cô" an ninh, quốc phòng cho thủ đô. Các cầu lớn: cầu Long Biên, cầu Đuống và bên phà Khuyên Lương nối Gia Lâm vối khu vực nội thành và các tỉnh phía Bắc chẳng những tạo nên sự đi lại thuận lợi, thông suốt mà còn là một trong những điềi’ kiện tác động mạnh đến quá trình đô thị hoá những làng xóm dọc hành lang các trục đường số 1 và số 5. G a h à n g k h ô n g G ia L âm được Pháp xây dựng (khánh thành ngày 4 - 6 - 1936), là một trong những ga được trang bị hoàn hảo nhất và là cảng hàng không lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ. Từ khi sân bay Gia Lâm được khai thác và sử dụng với chức năng là một sân bay dân dụng (với các tuyến bay Gia Lâm - Cát Bi (Hải Phòng), Gia Lâm - Điện Biên - Lai Châu), trên thực tế đã phát huy vai trò, tác động tích cực đến tình hình kinh tế - xã hội của huyện. Kết cấu hạ tầng cơ sở vùng xung quanh sân bay không ngừng được đầu tư, mở rộng, làng xóm quanh khu vực sân bay biến đổi từng ngày. Từ tháng 8 - 1989, các hoạt động dân dụng này đã chấm dứt, sân bay Gia Lâm chỉ còn chức năng của một sân bay quân sự. Tuy vậy, sự tồn tại và phát triển của ga 24 hàng không vẫn có tác dụng đến sự tăng trưởng của kinh tế địa phương. Như vậy, huyện Gia Lâm có hệ thống giao thông thuận tiện nhất trong 5 huyện ngoại thành. Đây là lợi thê không nhỏ tạo điều kiện để Gia Lâm phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội. Gia Lâm có tổng diện tích đất tự nhiên là 17.570 ha (năm 1980), trong đó diện tích vùng nông thôn chiếm khoảng 15.977 ha (trong đó đất nông nghiệp trên 9.000 ha). Đặc điểm thổ nhưỡng của Gia Lâm là đất phù sa sông Hồng có độ phì nhiêu cao, thích hợp cho nhiều loại cây trồng. Đ ất canh tác ở đây gồm hai loại chính: 1. Vùng trong đê là đất phù sa sông Hồng cổ, không được bồi hàng năm, (chiếm 3/4 diện tích đất nông nghiệp), đây là sản phẩm lao động của con người nhiều hơn là của tự nhiên. Với thành phần cơ giới trung bình, phản ứng đất từ trung bình đến kiểm yếu, nên đất vẫn giữ được màu nâu tươi. Đặc tính của đất giàu lân và kali, ít chua, thích hợp cho trồng lúa, cây ăn quả, cây dược liệu và một sô' loại cây công nghiệp (đay, đậu tương, lạc...)- 2. Vùng đất bãi nằm phía ngoài đê, dọc theo sông Hồng và sông Đuống (chiếm 1/4 diện tích đất nông nghiệp) là loại đất phù sa sông Hồng được bồi hàng năm. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, thuộc loại cát pha khá màu mỡ, thích hợp khi trồng các loại rau, màu (ngô. 25 khoai lang...), các cây công nghiệp ngắn ngày (dâu tàm. lạc, đậu tương, đay, m ía...) hoặc trồng cỏ đe phát triển chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò, ngựa...)- Trong 9 xã nằm dọc sông Hồng thì có xã Kim Lan, Văn Đức, Bát Tràng hoàn toàn nằm ngoài đê, các xã còn lại (Ngọc Thuỵ, Bồ Đề, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối, Đông Dư) có diện tích cả ngoài đê và trong đê. Gia Lâm có hơn 50 km đê (chiếm khoảng 1/3 chiều dài đê Hà Nội). Đê cao từ 15 - 18 m. M ặt đê làm đường giao thông, mái đê rộng tạo thành những bãi cỏ tự nhiên, có thể kết hợp chăn th ả đại gia súc. Hệ thông đê điều của huyện Gia Lâm được ông cha ta xây dựng từ xa xưa, được các th ế hệ nối tiếp củng cố, bồi đắp, tạo điểu kiện cơ bản cho nông nghiệp phát triển. Nhưng sự hình thành quá sớm của hệ thống đê sông Hồng đã chặn đứng quá trìn h thàn h tạo tự nhiên của châu thô sông Hồng và của miền đất Gia Lâm nói riêng, để lại không ít hậu quả phải giải quyết. Đó là, đồng đất của Gia Lâm thuộc vùng trong đê, địa hình cao thấp không đểu (kể cả trong một xã) (có khoảng 1.500 ha đất trũng) dẫn đến việc trong cùng một vùng, cùng thời điểm nơi thì bị hạn hán, nơi thì bị ngập úng. Tuy nhiên, địa hình toàn huyện nghiêng theo hướng tây bắc - đông nam , nên tạo th u ận lợi cho việc xây dựng các công trìn h thuỷ lợi giữ nước, dẫn nước, đặc biệt là các công trình tưới tiêu tự chảy phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. 26 Riêng vùng bãi, hàng năm chịu sự chi phối của mực nưốc sông Hồng, sông Đuống, đất đai không ổn định, bị biến đổi do sự bồi đắp hoặc xói lở bởi hướng dòng chảy của các sông. Sự bồi tụ phù sa chỉ chiếm 60% diện tích đất đai, còn lại là bồi tụ cát đã ảnh hưởng xấu đến việc canh tác. Tuy có nguồn nước cận kề nhưng việc xây dựng công trình tưối nưóc rấ t khó khăn, tốn kém vì chủ yếu là đất cát, hút nưóc nhanh, dễ sụt lở. 3. K hí h ậ u , th u ỷ v ăn - m ôi trư ờ n g - sin h th á i Gia Lâm nằm trong tiểu vùng khí hậu Hà Nội, thuộc vùng khí hậu Á nhiệt đới, có độ nóng, độ ẩm và lượng mưa cao, vối hai mùa rõ rệt: Mùa lạnh tập trung vào các tháng: 12, 1 - 2, thòi tiết thường rét, khô do ít mưa (lượng mưa bình quân từ 10 - 30 mm). Mùa này thường xuất hiện sương giá, sương muối rất hại cho việc gieo trồng cây vụ đông cũng như gây ảnh hưởng không tốt đến nguồn sức kéo chủ yếu ở nông thôn (trâu, bò hay bị chết rét hoặc chân bị sưng cưốc không lội cày ruộng được). Thêm vào đó là những kỳ mưa phùn kéo dài, tròi âm u, tạo môi trường thuận lợi cho các loại sâu hại phát triển mạnh; Mùa nóng tập trung vào các tháng 6 - 7 - 8 - 9. Thời tiết các tháng này thường nắng nóng (nhiệt độ dao động từ 25° c đến 35° c, có thời gian lên tới 38 - 40°C). Do nằm trong khu vực hoạt động của bão nhiệt đối, Gia Lâm, Hà Nội cũng như vùng châu thổ sông Hồng là nơi có mùa bão đến sớm nhất, từ tháng 6 đến tháng 10, nhiều nh ất là tháng 8, sau đó là tháng 7 và tháng 9; lượng mưa trung bình thời gian này khoảng 500 - 600mm, 27 đột xuất có đợt mưa to, kéo dài 1 - 2 ngày liền, với lượng mưa khoảng 200 - 300 mm, làm úng cục bộ, gây nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Cũng do nằm trong vùng khí hậu Á nhiệt đới, nên địa phương có giờ nắng trong năm khá cao, trung bình khoảng 1.644 giờ trong năm, tổng nhiệt độ khoảng 8.500° c, độ ẩm trung bình 83%, giúp cây trồng có điểu kiện quang hợp, đảm bảo cho sự sinh trưởng và phát dục tốt. Có môi trường nhiệt độ thuận lợi, gia súc mắn đẻ, chóng đến tuổi trưởng thành, bò lợn có thể sinh sản quanh năm. Các sông, ngòi chảy ngang dọc qua huyện ngoài việc cung cấp nguồn nưốc tưới cho cây trồng thu ận lợi, còn có tác dụng làm cho khí hậu trong vùng ôn hoà, rấ t tốt cho trồng trọt, chăn nuôi và còn là tiềm năng rấ t lớn trong việc đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản. Hàng năm, sông Hồng và sông Đuống vào mùa lũ thường gây ngập lụt vùng bãi khoảng 1, 2 tháng. Điều này đã làm tích tụ một lốp phù sa dày, màu mõ (độ PH trung bình là 7,0; lượng đạm (N) là 14 g/m3; lượng mùn từ 2,76 - 3,48 g/m3) trên bề m ặt châu thổ, cung cấp đất đai phì nhiêu để trồng hoa mầu. Ngoài ra, đất đai vùng trong đê cũng thường xuyên được bồi bổ do tưới nước phù sa qua các kênh dẫn. Tuy nhiên, sông Hồng là con sông khá hung dữ, lòng sông rộng, độ dốc của sông lại lớn, tạo nên sự thay đổi cường độ dòng chảy vô cùng nhanh vào m ùa lũ. Do 28 lượng mưa từ vùng đầu nguồn thường lón nên khi đổ xuông vùng hạ lưu làm nước các con sông này lên rất nhanh trong một vài ngày nhưng khi rú t lại chậm, có khi đên hàng tháng. Điển hình, vào năm 1971, lưu lượng dòng chảy vào tháng 8 lên tới 22.200 m 3/giây, gây vỡ đê Công Thôn, 7 xã, 1 thị trấn khu Bắc Đuấng, 35 HTX của 14 xã vùng bãi thuộc huyện Gia Lâm bị n ểập> gây thiệt hại nghiêm trọng. Trên 2000 ha lúa và hoa m àu bị m ất trắng, hàng ngàn nhà ở, kho tàng, phòng học bị nước cuốn trôi và sập đổ, nhiều gia súc gia cầm bị chết. Trong các năm 1956 - 1975, tại trạm thuỷ văn Hà Nội, ngưòi ta đã thống kê được lưu lượng nước cao nhất (lấy giá trị trung bình) của sông Hồng lên đến 11.500 m3/giây và lưu lượng thấp nhất là 580 m3/giây. Sông Đuông là một nhánh của sông Hồng, dòng chảy hiền hoà hơn, lưu lượng nưốc cao nhất chỉ là 4.200 m3/giây, thấp nhất: 85 m3/giây, vào mùa mưa lũ sông Đuống đỡ gây thiệt hại hơn sông Hồng. Mức nưốc cao n h ất trong năm của 2 con sông Hồng, sông Đuống thường rơi vào tháng 7 - 8, trung bình ở mức 11 m ét (m) (sông Hồng), 10,85 m (sống Đuống), tạo nên những trận lụt định kỳ hàng năm, mỗi năm liền 2 - 3 đợt (kéo dài từ 2 - 3 tháng), gây thiệt hại lớn về nhà cửa, hoa màu; ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ, sinh hoạt, thậm chí cả tính mạng của nhân dân sông ở vùng ngoài đê. Thời gian này, những xóm làng ven sông Hồng, sông Đuống trông giống những ốc đảo nhô lên 29 giữa mênh mông sóng nưốc. Việc đi lại của nhân dân th ật cực kỳ khó khăn, vất vả (các làng ngoài bãi thường phải di chuyển bằng thuyền thúng, nhà nào cũng có một chiếc thuyền cất trên xà nhà dành sử dụng cho mùa lũ). Nhân dân sông vùng trong đê thời gian này cũng không yên ổn làm ăn, thấp thỏm lo xảy ra sự cố sạt lở đê bao. Vào mùa khô, mực nước của 2 con sông chính lại rất thấp (tập trung vào tháng 3 - 4): ở sông Hồng, trung bình mức thấp nhất của các năm từ 1957 - 1975 là 2,2 m, còn sông Đuống cao hơn một chút, đạt 2,68 m, mực nưỏc giữa hai mùa lũ và mùa nưốc kiệt chênh lệch nhau rất lớn, từ 8 m đến 9 m. Do sông ít nước làm khó khăn cho việc dẫn nước vào ruộng, dễ gây hạn hán cục bộ và thêm tôn kém trong công tác thuỷ nông. Nhìn chung, ngoài một vài khó khăn, điều kiện tự nhiên của Gia Lâm có nhiều thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp (cả trồng trọt và chăn nuôi). Nguồn nước tưới dồi dào, có chất lượng; đất đai tốt, m àu mỡ, chế độ khí hậu, thuỷ văn, môi trường - sinh thái phù hợp cho việc thâm canh, tăng vụ, xen canh, luân canh và hình thành một cơ cấu cây trồng, vật nuôi đa dạng. II. VÀI NÉT ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ ■ Xà HỘI VÙNG NÔNG THÔN GIA LÂM 1. Đ ặc đ iể m k in h tế Kinh tế nông thôn là một trong hai khu vực kinh tế 30 đặc trưng của nền kinh tê quốc dân (cùng vối khu vực kinh tê thành thị). Kinh tê nông thôn bao gồm các ngành: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nông thôn và các hoạt động thương mại - dịch vụ hoạt động trên địa bàn nông thôn. Các ngành kinh tê này có quan hệ hữu cơ vói nhau theo những tỷ lệ nhất định về số lượng và liên quan chặt chẽ vối nhau về m ặt chất lượng. Vùng nông thôn huyện Gia Lâm ngoài 2 ngành kinh tế chủ đạo là nông nghiệp và công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, trên địa bàn còn tồn tại ngành thương mại - dịch vụ cùng nhiều ngành nghề phụ. N ông n g h iệ p là một ngành kinh tế trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân. sả n xuất nông nghiệp không những cung cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu nuôi sống xã hội, tạo nền tảng cho các ngành, các hoạt động kinh tế khác phát triển mà còn góp phần quan trọng đưa nền kinh tế nồng thôn duy trì và phát triển bền vững. Trong nền kinh tế nông thôn Gia Lâm, mặc dù các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ có điều kiện phát triển, nhìn chung vẫn dựa vào nông nghiệp làm nền tảng. Ngành nông nghiệp của Gia Lâm có các nghề chính là trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Nông dân Gia Lâm có truyền thống và kinh nghiệm trong việc thâm canh các loại cây lương thực: lúa, ngô, khoai; cây công nghiệp: đậu tương, lạc, dâu tằm, đay... và đặc biệt là các loại rau. Do có chất đất phù hợp, lại có 31 bàn tay cần mẫn của con người, kết hợp với kinh nghiệm của ông cha truyền lại, rau xanh của Gia Lâm không chỉ phong phú về chủng loại mà còn trở thành đặc sản nổi tiếng trong vùng. Mỗi thứ rau quả đặc biệt đó lại găn chặt vối tên đất, tên làng: dưa cải bẹ, rau thơm các loại Đông Dư, cải Sủi, cải ngồng Văn Đức, hành tỏi làng Ngô... Đất đai, khí hậu của Gia Lâm còn phù hợp cho nhiều loại hoa, cây cảnh, cây ăn quả như nhãn, vải thiều, táo, ổi, lê, hồng xiêm, chuối, bưởi, khế ngọt... Cùng vối trồng trọt, chăn nuôi là một trong 2 ngành sản xuất chính của nền nông nghiệp truyền thông. Đây là nguồn cung cấp thực phẩm có giá trị cao hàng ngày cho con người; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thực phẩm ; cung cấp phân bón và sức kéo cho ngành trồng trọt; là nguồn hàng xuất khẩu đóng góp quan trọng cho kinh tế địa phương. Nông dân Gia Lâm thường nuôi đại gia súc chủ yếu làm sức kéo, đó là trâu, bò kể cả ngựa (xã N inh Hiệp, Yên Thường, Phù Đổng...); các loại gia súc khác: lợn và gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng...) được nuôi làm thực phẩm. Riêng làng Lệ M ật có nghề nuôi, b ắ t rắ n truyền thông. Ngoài ra, do đây là vùng đ ất phù hợp để hoa trá i có cả 4 mùa, nên nghề nuôi ong cũng có điểu kiện tồn tại, p h át triển. Gia Lâm có hơn 400 ha ao, hồ, đầm (tập trung ở các xã Bồ Đề, Long Biên, Yên Thường, Việt Hưng, Đa Tốn, Đông Dư...) dùng nuôi trồng các loại thuỷ sản (thả cá, trồng sen, thả rau muống...). N hân dân địa phương còn 32 tận dụng các thùng đấu, sông chảy qua địa phận huyện để nuôi thả, khai thác thuỷ sản. Không có rừng tự nhiên, Gia Lâm chỉ có rừng nhân tạo được trồng phân tán trên các trục giao thông, các vùng đất trống hoặc xung quanh các di tích lịch sử - văn hoá với mục đích tạo vẻ đẹp cho cảnh quan nông thôn. C ông n g h iệp - T iểu th ủ công n g h iệp trên địa bàn nông thôn Gia Lâm có 2 bộ phận chính: 1. Một bộ phận công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tuy tồn tại trên địa bàn nông thôn nhưng độc lập phát triển, không gắn bó vối nông nghiệp, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hoàn toàn chuyển từ nơi khác đến. Ngưòi lao động tại khu vực này phần lớn được tập hợp trong các hợp tác xã th ủ công nghiệp. Đó là làng nghề gôm sứ Bát Tràng, sản xuất đồ gỗ Thượng Thanh, dát vàng quỳ Kiêu Kỵ... 2. Một bộ phận công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có quan hệ chặt chẽ vối nông nghiệp. Phần lớn lúc đầu đây chỉ là những ngành nghê' phụ tồn tại trong các hộ tiểu nông, chủ yếu được tiến hành trong những lúc nông nhàn. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế, các ngành nghề phụ ngày một chuyên môn hoá, dần tách khỏi nông nghiệp, trở thành nghề chính nhưng vẫn phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp. Nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất ngành nghề hầu hết có tại chỗ, hoặc chỉ một phần được cung cấp tại chỗ còn lại phải chuyển từ nơi khác đến. Đó là các làng nghề Ninh Hiệp, Việt 33 Hưng, Đa Tốn, Đình Xuyên, Dương Xá, Yên Viên... ỏ đây, người lao động vừa là nông dân vừa là thợ thủ công. Gia Lâm có n h iể u n g h ề th ủ cô n g cổ tru y ề n nổi tiếng. Đó là các nghề: gốm sứ ở Bát Tràng; chế biến nông sản dược liệu ở Ninh Hiệp; nghề dát vàng quỳ, may giả da ở Kiêu Kỵ; nghề chăn tằm , ươm tơ ở Lệ Chi, Dương Xá, Phù Đổng; nghề xe dây đay ở 0 Cách; nghề làm quạt (cả quạt thóc) làng Vo ( xã Hội Xá)... Ngoài ra, hầu hết các xã ở Gia Lâm đều có nhiều loại ngành nghề khác nhau. Ví dụ, làng Lệ M ật (xã Việt Hưng) có nghề bắt rắn; các xã còn lại có nhiều kinh nghiệm trong các nghề nể, mộc, đan tre nan, sản xuất đồ gỗ, sản xuất gạch ngói, dệt thảm , thêu ren, may mặc, chế biến thực phẩm, buôn bán, chạy chợ ... Đặc biệt, một số làng còn nổi tiếng trong các nghề chế biến thực phẩm mà tên của làng được truyền tụng gắn với đặc sản họ làm ra như: Đậu tương (xã Dương Xá), tương sủ i (xã Phú Thị); bánh tráng Bồ Đề; chợ Bún (xã Đa Tôn) ... Các ngành nghề này phần lớn được gắn kết vối hoạt động sản xuất nông nghiệp trong các vùng nông thôn. Nó không chỉ góp phần tận dụng nguyên liệu là sản phấm, phụ phẩm nông nghiệp tại chỗ, mà còn có tác dụng quan trọng giải quyêt việc làm trong những tháng nông nhàn, tăng thêm thu nhập cho gia đình nông dân. Các ngành nghề cổ truyền thường được tổ chức, hoạt động trong các làng nghề truyền thống. Ở Gia Lâm có 2 loại làng nghề truyền thống: 34 1. Loại làng nghê truyền thống chỉ có một nghê thủ công duy nhất, tách hoàn toàn khỏi sản xuất nông nghiệp, hoạt động độc lập lại gắn kết chặt chẽ vói nghề buôn bán - dịch vụ (đại diện là làng nghề truyền thống chuyên sản xuất gôm sứ Bát Tràng). 2. Loại làng nghề truyền thống có nhiều nghề thủ công; có nghề lại gắn kết với sản xuất nông nghiệp; có nghề lại tách khỏi nông nghiệp (đại diện là nghề chê biến, sản xuất nông sản, dược liệu, nghề may mặc của Ninh Hiệp; nghê dát vàng quỳ, nghề may da của Kiêu Kỵ; nghề trồng dâu chăn tằm, ươm tơ của Lệ Chi). Ở Gia Lâm có 3 làng nghề truyền thống tồn tại từ lâu đời và rấ t nổi tiếng là Ninh Hiệp, Bát Tràng, Kiêu Kỵ. Sau đây là vài nét về các làng nghê đó: 1.1. L à n g n g h ề tru y ề n th ố n g N in h H iệp, đã có lịch sử hơn 1.000 năm. Ninh Hiệp có tên gọi cũ là Phù Ninh, tên nôm là làng N ành, nằm ở vị trí địa lý rất thu ận lợi, cách trung tâm Hà Nội về phía đông - bắc khoảng 18 km. Dưới triều Lê Thánh Tông (1460 - 1497), Phù Ninh là một xã lớn gồm 1 thôn: thôn Tô' và 5 giáp: Ninh Thượng, N hân Hậu, Đính Thượng, Đính Hạ, Nội Ninh. Đến triều Mạc, vào năm 1571, Phù Ninh bị tách th àn h 4 xã. Các giáp Ninh Thượng, N hân Hậu, Đính Thượng thàn h xã Phù Ninh với 3 thôn mối: Thượng, Trung, Hạ; giáp Đính Hạ thành xã Ninh Giang; thôn Tố thành xã Hiệp Phù; giáp Nội Ninh thàn h xã Ninh Xuyên. Năm 1946, ba xã Phù Ninh, Ninh Giang, Hiệp Phù được hợp n h ất lại thành xã Liên 35 Hiệp, đến năm 1955 đổi tên là Ninh Hiệp. Ninh Hiệp được chia làm 9 xóm1. Cũng như hầu hết các làng xã khác ở đồng bằng Bắc Bộ, Ninh Hiệp vốn là một làng nông nghiệp. Nhưng từ lâu Ninh Hiệp lại nổi tiếng vối những hoạt động phi nông nghiệp rấ t đa dạng. Ngoài nghề nông (trồng: lúa, dược liệu; chăn nuôi: trâu, bò, lợn, ngựa, gia cầm) thì các nghề: may da, dệt lụa, may mặc; nghề buôn bán (trong đó nổi tiếng là buôn vải, dược liệu, nông sản); nghề thu mua, chế biến nông, lâm sản và nghề chế biến thuốc nam ... đã trở thành nghề truyền thống của Ninh Hiệp. Dệt vải lụa là một nghề th ủ công đã có m ặt lâu đời ở Ninh Hiệp, chủ yếu phổ biến ở các thôn Thượng, Trung, Hạ. Sản phẩm có lụa, đũi, sồi (từ tơ tằm) và vải (từ sợi bông). Không có nguồn nguyên liệu tại chỗ - do người dân ỏ đây không có tập quán trồng bông trồng dâu, và đất sản xuất cũng thiếu, nên nguyên liệu cung cấp cho nghề dệt ở Phù Ninh được mua từ nơi khác. Tơ tằm được mua từ Đình Bảng, Chợ Giàu; sợi bông m ua ở chợ Giàu và Hà Nội... Nhu cầu về tơ, sợi đã làm xuất hiện một số người chuyên buôn sợi, tơ từ nơi khác về làng. Cho đến đầu thê kỷ x x ? nghề dệt vải ở nơi đây vẫn còn rấ t nhộn nhịp và hình thức tổ chức sản xuất dừng lại ở phạm vi 1. Dương Duy Bằng: ‘Tiểu thủ công nghiệp ở Ninh Hiệp (Lịch sử và hiện tại)’. Làng ở vùng châu thô sông Hồng: vấn đề còn bò ngỏ. Papin P-.Tessierr 0. chủ biên. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, tr.554. 36 gia đình, cá thể. Vào những năm 1930 - 1940, do nguồn nguyên liệu khan hiếm và đắt đỏ, nghề dệt ở Phù Ninh dần suy tàn. Bên cạnh nghề dệt, nghê' chế biến thuốc nam cũng là một nghề truyền thông của Ninh Hiệp. Cũng như nghề dệt, nghề chê biến thuốc nam được truyền từ nơi khác đên. Nghề chê biến thuốc nam chủ yếu tập trung ở Ninh Giang cũ (nay là xóm 8). Ở nghề chê biến dược liệu, các kỹ th u ật sản xuất thuốc nam, thuốc bắc, sao tẩm thuốc, bốc thuốc thì người dân Ninh Hiệp không chỉ có tay nghề cao mà còn có những bí quyết riêng mang tính cha truyền, con nối và thường được thực hiện theo quy trình khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ. Nghê chê biến thuốc nam là nghề riêng của người dân xóm 8. Những người dân làm nghề này tự tổ chức khai thác dược liệu ỏ các tỉnh phía Bắc, chế biến thành thuốc cái đê bán cho các ông lang và các cửa hiệu chuyên buôn bán dược liệu ỏ Hà Nội. Bên cạnh việc chê biến thuốc nam, Ninh Hiệp còn có thêm nghề chê biến hạt sen, long nhãn. Với kỹ thuật chê biến cao cộng với sự tháo vát, năng động trên thương trường là những lý do chủ yêu khiến nghề chê biến dược liệu, nông sản tại địa phương được duy trì và ngày càng phát triển. Khác vối nghề dệt và chê biến thuốic nam, nghề làm đồ dùng bằng da, không phải là nghề cô truyền của Ninh Hiệp. Nghê' da của Ninh Hiệp xuất hiện muộn hơn nhiều. Khoảng đầu th ế kỷ XX, thông qua việc truyền nghề từ những người vốn là binh lính phục vụ trong các 37 cõng binh xương, chuyên sán xuãt đô dùng băng da cua quân đội Pháp. Người có công truyền nghê da cho dân làng là Thạch Văn Ngũ. Vào những năm đầu th ế kỷ XX, Thạch Văn Ngũ đi lính và được điều vào làm trong một công binh xưởng sản xuất đồ dùng bằng da cho quân đội Pháp. Học được nghề da, ông ròi quân ngũ về quê, nhưng lúc đó nghề da chưa thích hợp phát triển ở Ninh Hiệp. Sau đó, vào năm 1910, ông ra phố Hà Trung mở cửa hiệu làm hàng da, đặt tên là hiệu Ninh Ký. Sau, có một số’ người trong làng ra học nghề, mang về làng tự làm hoặc hưống dẫn cho con cháu làm, nộp sản phẩm cho các chủ hiệu ở phô Hà Trung - Hà Nội. Dần dần, nghề da có chỗ đứng ở Ninh Hiệp, chủ yếu tập trung ỏ Phù Ninh. Sau hòa bình (1954), những người thợ da ỏ Hà Nội tản cư trở về, các hiệu làm đồ da trở lại hoạt động và đi vào làm ăn tập thể. Nhưng người thợ da ở Ninh Hiệp tiếp tục nhận gia công nhỏ lẻ cho một số cửa hiệu ở Hà Nội. Phô' Hà Trung - Hà Nội trở thành phô’ da của người Ninh Hiệp. 1.2. L à n g n g h ê tru y ên th ố n g K iêu Kỵ, nổi tiếng về dát vàng quỳ và làm đồ da. Làng Kiêu Kỵ thuộc xã Kiêu Kỵ. Xã Kiêu Kỵ gồm có 7 thôn: Kiêu Kỵ (tên nôm là Cầu Cậy), Báo Đáp, Chu Xá, Hoàng Xá, Gia Cốic, Trung Dương, Xuân Thuỵ. Kiêu Kỵ là làng Việt cổ, từng có hai nghê thủ công truyền thống lâu đời: nghề dát vàng quỳ và làm mực nho bằng keo da trâu. Nghề làm mực nho bị mai một theo sự m ất dần vị trí của chữ Hán. 38 Nghề dát vàng quỳ có lịch sử khoảng bốn trăm năm. Đây là một nghề rất tinh xảo. Chỉ có những bàn tay nghệ nhân tài năng mới có thể dùng búa tay để dát mỏng (từ chuyên môn gọi là “nong”) 1 chỉ vàng, chia thành 1.520 lá vàng mỏng tanh (mỏng đến mức khẽ thở cũng bay), có tổng diện tích hơn 2m2 để dùng trong công nghệ khảm tranh sơn mài; sơn son, thếp vàng các tượng phật, các bức hoành phi câu đối hoặc các đồ tế khí trong đình, chùa, cung điện vua chúa tạo nên sắc màu lóng lánh, rực rỡ không bao giờ phai. Công nghệ làm vàng quỳ: gồm búa, đe, kìm kéo chuyên dụng. Vàng mười, bạc thật, còn gọi là bạc nõn, được nấu trong niêu đất, đủ độ thì đem ra dát mỏng thành dòng. Dòng này được đưa vào giã, trại trên giấy ngọc khấu phết thứ keo làm từ da trâu và khói nhựa thông để tăng độ bền, dẻo. Đe làm ra những quỳ vàng, quỳ bạc mỏng mảnh ấy, người thợ phải trải qua 28 công đoạn mà mỗi công đoạn đều đòi hỏi sự cầu kỳ, cẩn trọng và phải có bí quyết riêng từng nhà. Một trong những khâu quan trọng nhất là khi nấu keo, canh sao cho đúng "giấc", đủ thời gian và đúng thời tiết thì mực keo mối tốt; đến khi đánh quỳ mới cho sản phẩm sáng, bền, mượt mà. Có thể coi, làng Kiêu Kỵ là làng truyền thống duy nhất trong cả nưốc, tồn tại nghề dát vàng quỳ mang nhiều tính bí truyền này. Gần trăm năm lại đây, Kiêu Kỵ có thêm nghê thuộc da- sau này phát triển thêm nghề làm đồ da phục vụ dân dụng và để xuất khẩu. 39 Trong các làng nghé truyền thống ở Ninh Hiệp và Kiêu Kỵ, ta thấy ngưòi thợ thủ công đồng thời là một nông dân. Ngưòi thợ thủ công tuy làm nghề th ủ công là chính, nhưng họ vẫn canh tác trên m ảnh đất của mình, bởi vì những sản phẩm của đồng rộng chính là nguôn lương thực, thực phẩm nuôi sống họ và gia đình họ. 1.3. L à n g n g h ề tru y ền th ố n g B á t T ràng, thuộc xã Bát Tràng, là một làng cổ, rất độc đáo về kiến trúc, đường làng, ngõ xóm, được thành lập cách ngày nay gần chục thê kỷ. Quá trình thành lập làng Bát Tràng liên quan đến sự tụ cư và chuyển cư diễn ra trong một thòi gian khá dài. Tương truyền, khoảng thê kỷ XI, sau khi vua Lê Thái Tổ rời đô về Thăng Long đã cuôn theo một "dòng chảy" thợ thủ công ở vùng Bạch Bát (huyện Yên Mô - tỉnh Ninh Bình ngày nay) về kinh kỳ. Khi đi thuyền ngược dòng sông Hồng, họ phát hiện ra hàng chục gò đất sét trắng, rấ t thích hợp để sản xuất gốm sứ chất lượng cao, liền dừng lại lập làng, với tên gọi ban đầu là phưòng Bạch Thổ. Tên gọi hành chính của Bát Tràng nhiều lần thay đổi. Từ phường Bạch Thổ đổi thành phường Bát Tràng; nửa sau th ế kỷ XIV tên gọi xã Bát đã xuất hiện như một đơn vị hành chính; thời Lê sơ, xã Bát Tràng chính thức là tên gọi. Đầu th ế kỷ XIX, làng B át Tràng là một xã thuộc tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ T huận An, trấn Kinh Bắc. Cách mạng tháng Tám thành công (1945), Bát Tràng là một xã độc lập. Năm 1948, làng hợp với hai làng Kim Quan và Giang Cao, thành xã 40 Quang Minh (huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh). Ngày 9-4-1957, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra Nghị định số 301/NĐ - CQTT chia xã Quang Minh thành 2 xã: Xã Quang Minh gồm 2 thôn Bát Tràng và Giang Cao (vẫn thuộc tỉnh Bắc Ninh); Xã Kim Lan: có 1 thôn Kim Quan. Năm 1965 xã Quang Minh được đổi tên thành xã Bát Tràng (thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội). Làng nghề truyền thống Bát Tràng nằm ở phía tây nam huyện Gia Lâm, ở ngoài đê, ven bờ sông Hồng, cách trung tâm thủ đô 15 km. Đây là một vị trí tạo nhiều lợi thê về bến bãi, giao thông, thị trường cho nghề truyền thống địa phương tồn tại, phát triển, lan toả. Đất đai chật hẹp, đường ngõ ngoắt ngoéo, nhà gạch san sát nên người dân Bát Tràng phải tận dụng từng tấc đất để vừa làm nhà ở, vừa dựng lò sản xuất. T ruyền thống sản xuất và kinh doanh gốm sứ Bát T ràng được hình thàn h và phát triển đồng thời với sự hình thàn h làng Bát Tràng; vì thế, nếp sông người dân B át T ràng m ang dấu ấn nghề nghiệp khá đậm nét. Nghề gôm p h át đạt đã tạo điều kiện cho buôn bán ph át triển. Đồ gôm Bát Tràng được sản xuất theo dây chuyển thủ công, thể hiện rõ rệt tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thê hệ. Vối đôi bàn tay khéo léo, tài hoa, sự nhạy cảm và óc thẩm mỹ cao, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đất, lửa, men và tâm hồn, người thợ gôm Bát Tràng đã điều khiển hòn đất biến hóa như trong huyền thoại. Bên những chiếc bát đàn và những 41 đồ gốm gia dụng truyền thống, bình dị của người dân quê: đĩa, chậu, âu, thạp, ang, khay trà, ấm, chén, bình, lọ, chóe, hũ người thợ Bát Tràng còn làm được những đồ gốm đạt trình độ tinh xảo. Đó là những chiếc lọ lộc bình, bình vôi, những chân đèn dầu lạc, đồ thò, đồ trang trí... có hình rồng đắp nổi, hoặc được trang trí nổi hay khắc chìm nhiều loại hoa văn trang trí, minh văn hay đủ bộ tứ long ly quy phượng cầu kỳ... được phủ các dòng men lam, men xanh rêu, men nâu, men trắng ngà độc đáo, hay men rạn vô cùng quý giá ... Vì thế, sản phẩm gốm Bát Tràng từ xưa đã là m ặt hàng được nhiều nước ưa chuộng về vẻ đẹp hài hòa, độc đáo của hình dáng, màu men, nét vẽ. Trong th ế kỷ XV - XVI, do chính sách cởi mở đối với công thương nghiệp của triều Lê và triều Mạc, làng gốm Bát Tràng trở nên phát đạt. Sản phẩm gốm Bát Tràng phong phú hơn về chủng loại, màu men và được lưu thông rộng rãi. Cũng thời gian này Bát T ràng đã trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng, cung cấp đồ sứ cho cả nước và đồ công phẩm cho nhà Minh. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, soạn đầu thê kỷ XV cho biết, trong số đồ cống nạp vua chúa phương Bắc: Bát Tràng cung ứng đồ cống Trung Quốc là 70 bộ b át đĩa. Trong thời gian từ năm 1597 đến năm 1683, nhiều nghệ nhân gôm lỗi lạc của N hật Bản đã học tập làm theo gốm “Kô Chi” (Giao Chỉ), nh ất là các m ẫu lọ lộc bình, b át vẽ “chuồn chuồn” của Bát Tràng. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam còn lưu giữ những cây đèn và lư 42 hương có niên hiệu đòi Mạc, thuộc dòng gốm men lam và men rạn của nhiều nghệ nhân làng Bát Tràng như Nguyễn Phong Lai, Bùi Nghĩa, Hoàng Ngưu, Bùi Huệ, Bùi Thị Đỗ, Đỗ Xuân Vi... Ngoài dòng gôm men vẽ lam phủ men trắng, từ đầu thê kỷ XVII, Bát Tràng đã chế tạo được gốm men rạn rấ t đẹp. Cây đèn có niên hiệu Hoằng Định (1601 - 1619), được chê tạo thành hai phần rồi khốp lại, cao 75 cm, được trang trí nổi nhiều hoa văn như hoa dây, lá lật, lông công, lá đề (trong mỗi lá đề lại có một chữ vạn), và đủ bộ tứ linh. Phần dưới có khắc dòng chữ Hán, cho biết người làm ra sản phẩm này là Đỗ Phủ, người Bát Tràng. Vối cây đèn độc đáo này, có cơ sở khẳng định rằng, vào thê kỷ XVII, Bát Tràng đã chê ra được đồ gôm men rạn. Mà phải, sau một th ế kỷ, vào nửa đầu th ế kỷ XVIII, ở Trung Quốc, việc phát minh ra men rạn được quy công cho Đường Anh, vị quản thủ lò gốm ở trấn cản h Đức (tỉnh Giang Tây). Chính nhò những bàn tay tài hoa của thợ gốm Bát Tràng, biết bao sản phẩm gốm đã trở thành món lợi lớn của các thương nhân N hật Bản, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Trung Quốc, Anh, Pháp ... Vói kinh nghiệm chế ngự ngọn lửa từ lò ếch - kiểu lò cổ nhất, phát triển lên lò đàn (thê kỷ XIX) rồi lò bầu (1930), thợ gôm Bát Tràng đã nung được những sản phẩm gốm lốn và các dòng men chất lượng cao. Lò hộp xuất hiện từ những năm 80 của th ế kỷ XX có kết cấu đơn giản, chi phí thấp, nhiên liệu dùng chủ yếu là than 43 cám, nhiệt độ khi đốt lò đạt tối 1250 độ c, tạo ra sán phẩm chất lượng cao hơn. Nghề gốm sứ Bát Tràng thời trưốc được đào tạo và truyền nghề ngay trong từng gia đình, kiểu cha truyền con nối, từ đòi này sang đời khác. Chính các nghệ nhân là những người dạy nghề, truyền nghề trực tiếp cho các thành viên trong gia đình hoặc dòng họ. Từ khi phong trào hợp tác hóa được đẩy mạnh, phương thức dạy nghề và truyền nghề có nhiều thay đổi. Đổi tượng được truyền nghê đã mở rộng hơn và phương thức dạy nghề ngày càng đa dạng, phong phú vối nhiều hình thức đào tạo từ hộ gia đình, tư nhân, địa phương (huyện, xã) và Nhà nưóc. Do đặc thù của nghề, đòi hỏi nhiều nhân công làm các công đoạn, như vận chuyển nguyên liệu, múc lọc đất, phơi đất, vò nhào đất, nặn, in, tiện, vẽ, tráng men, nắm than, chồng lò, đốt lò, dỡ hàng, vận chuyển hàng... nên nghề gốm sứ luôn luôn thu h ú t một lực lượng lao động lớn với các loại lao động có trình độ khác nhau. Riêng ở làng nghề truyền thông Bát Tràng do đặc thù không có đất canh tác, nên chỉ có những người thợ thủ công chuyên nghiệp. Không có thợ thủ công kiêm nông dân như Ninh Hiệp và Kiêu Kỵ. * * Vùng nông thôn Gia Lâm còn có truyền thống và điểu kiện cho thương mại - dịch vụ - du lịch phát triển. Nằm trên vùng đất có vị trí địa lý - nhân văn thuận lợi, trung 44 tâm giao lưu buôn bán của cửa ngõ đông - bắc Thủ đô, lại có hệ thống chợ rất phong phú với 15 chợ lón (trung bình 2 xã chung một chợ lón) cùng nhiều chợ nhỏ của thôn hoặc liên thôn. Đặc biệt có một số chợ nổi tiếng, có từ lâu đòi như chợ Ninh Hiệp, chợ Việt Hưng, chợ Ghềnh, chợ Bún, chợ Cậy, chợ Keo, chợ sủi, chợ Thạch Bàn, chợ Phù Đổng, chợ Sài Đồng, chợ Trâu Quỳ, chợ Yên Viên, chợ Bát Tràng... Ngày trưốc, các chợ lớn thường họp theo phiên, tuỳ chợ mà mỗi phiên cách nhau khoảng 4 đến 6 ngày, v ề tổng thể, thường được sắp xếp sao mỗi chợ họp theo một thời gian hợp lý và những làng gần nhau sẽ không tổ chức họp chợ cùng một ngày, để trong một vùng ngày nào cũng có chợ họp. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, các chợ lớn ngày nào cũng họp, tuy đúng phiên thì chợ tấp nập hơn, hàng hoá các nơi đổ về cũng phong phú hơn. Ngoài một số chợ là đầu mối bán buôn nổi tiếng một vùng như chợ vải, chợ dược liệu Ninh Hiệp, chợ Việt Hưng... còn phần lớn các chợ nhằm tiêu th ụ các sản phẩm hàng hoá của địa phương cũng như của các huyện lân cận. Ngoài ra, hệ thống giao dịch thuận lợi giữa các chợ trong huyện vối nhau; với nội thành hoặc vối những chợ lốn của các tỉnh bạn (chợ Văn Giang, chợ Bắc Ninh...) cùng vối nhu cầu tiêu dùng thực phẩm hàng ngày rất lớn của người dân đô thị đã tạo điểu kiện cho việc tiêu thụ hàng nông sản tươi sống, thúc đẩy ngành thương nghiệp - dịch vụ Gia Lâm ngày một phát triển. Một sô' xã của Gia Lâm còn có truyền thống theo 45 nghề buôn bán, còn được gọi là “làng buôn”. Ví dụ: Ninh Hiệp từ thời Lý đã có chợ Nành nổi tiếng là trung tâm lưu thông vải của cả vùng. Cùng với nghề buôn bán vải, buôn bán dược liệu, nông sản cũng thành một nghề truyền thông. Làng Bát Tràng, sử sách kê lại, ngoài nghề sản xuất, buôn bán gôm sứ, làm gạch là chủ yếu, người dân trong làng còn có thêm nghề buôn bè, buôn bán cau khô và nước mắm. Do có truyền thông thương mại mà ngưòi dân các làng này có điều kiện đi đó đây, giao tiếp rộng, nên con người hoạt b át và năng động. Làng Phù Đổng xưa kia có nghề chuyên đi buôn thuyền dọc sông Đuống, sông Hồng, hoạt động buôn bán trong làng khá phát triển và cùng vói Bát Tràng, Phù Đổng trở thành một trong nhũng trung tâm kinh tế của một vùng rộng lốn phía đông kinh đô Thăng Long. Chử Đồng Tử, người làng Chử Xá, hiện vẫn được nhiều làng dọc sông Hồng thờ, coi như ông tổ của nghề buôn. Gia Lâm còn có điều kiện đ ể phát triển du lịch. Trên đất Gia Lâm không những có nhiều làng cổ, có những làng tồn tại hàng ngàn năm như làng Phù Đổng, làng Bát Tràng, làng Chử Xá, làng Trung Mầu, làng Lệ Mật, làng Sủi còn có nhiều làng cổ và cũng là làng nghề tồn tại hàng năm sáu trăm năm như làng Kiêu Kỵ... Các làng cổ, làng nghê' truyền thông, ngoài sự độc đáo về kiên trúc nhà ở, đường làng, ngõ xóm, thì các làng: Bát Tràng, Nành, Chử Xá, Phù Đổng... còn mang các giá trị lịch sử - văn hoá - nhân văn nổi tiếng, được lưu truyền qua nhiều thê hệ - đó là những câu ca dao ca ngợi nghề 46 gạch Bát Tràng, sự tích Thánh Gióng, những câu chuyện truyền thuyết lãng mạn về Tiên Dung - CHử Đồng Tử..., luôn tạo sự hấp dẫn riêng. Ruộng đất luôn là một loại hình tư liệu sản xuất quan trọng của kinh tê nông nghiệp và càng quan trọng hơn ở nước ta xưa nay. Nhìn chung ở mọi thòi đại, có nhiều hình thức sở hữu ruộng đất, nhưng tựu chung có ba loại chính: sở hữu tư nhân; sở hữu cộng đồng làng xã hay tập thể; và sở hữu Nhà nưốc. Như hầu hết nhiều địa phương khác ở vùng châu thổ sông Hồng, cho đến trước cải cách ruộng đất (năm 1956), ở Gia Lâm tồn tại 3 chế độ sỏ hữu ruộng đất chính: sở hữu của cộng đồng làng xã (còn gọi là công điền, công thổ), sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân. Mặc dù có những sai lầm nghiêm trọng, nhưng cải cách ruộng đất ở miền Bắc nói chung, ngoại thành Hà Nội nói riêng đã xóa bỏ hình thức sở hữu ruộng đất của thực dân, phong kiến, đem lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân lao động. Như vậy, ruộng đất, một tư liệu sản xuất quan trọng của kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đã có chủ nhân thực sự; và người nông dân là người chủ sở hữu đồng thời là người trực tiếp sản xuất. Như vậy, thời gian này, ở Gia Lâm, ngoài phần ruộng đất công thuộc quyền sở hữu toàn dân, sô ruộng đất còn lại chủ yếu thuộc sở hữu tư nhân. Trong thòi kỳ tiến hành hợp tác hoá (1960 - 1981) Gia Lâm có khoảng 80% đất nông nghiệp thuộc sở hữu tập thể. Ngoài ra, đất năm phần trăm mà HTX dành cho hộ gia đình xã 47 viên làm kinh tẽ phụ và gân 20% đất nông nghiệp cúa sô hộ nông dân chưa vào HTX vẫn thuộc quyển sở hữu tư nhân. Ruộng đất của Gia Lâm có quy mô bình quân cho một hộ nông nghiệp rất thấp, chưa đến 0,2 ha/hộ, lại phân tán, m anh mún. Diện tích đất nông nghiệp phân bố không đều giữa các xã. Các xã có diện tích đất nông nghiệp nhiều (từ 600 đến 800 ha): Phù Đổng, Ngọc Thuỵ, Yên Thường, Lệ Chi, Long Biên, Đa Tốn. Các xã ít diện tích đất nông nghiệp (dưới 300 ha): Bát Tràng, Đình Xuyên, Kim Lan, Yên Viên, Bồ Đề, Gia Thuỵ, Giang Biên, Dương Hà. Đặc biệt, xã Bát Tràng, ngoài đất thổ cư, có 145 ha đất nông nghiệp thuộc thôn Giang Cao, còn làng Bát Tràng thì hầu như không có ha đất nào dành cho sản xuất nông nghiệp. Xã Kim Lan và Văn Đức hoàn toàn nằm ngoài đê sông Hồng, nên chỉ có một loại đất bãi. Gia Lâm là một huyện có quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá được diễn ra từ khá sớm, nhưng tốc độ, quy mô phát triển không đáng kể. Ngay từ khi thành phố Hà Nội được mở rộng lần thứ n h ất (1961), trong 3 thị trấn của các huyện ngoại thành thì Gia Lâm đã có 2 thị trấn là Yên Viên và Gia Lâm. Trong những năm 60 - 70 th ế kỷ XX, 3 cụm công nghiệp kiểu cũ: 0 Cách, Yên Viên, Đức Giang lần lượt hình thành. Do được xây dựng khi chưa có sự quy hoạch chung của toàn thành phô" nên cơ sở hạ tầng của các cụm công nghiệp này phát triển không đồng bộ, lạc hậu, 48 không có phương án xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, hiệu quả kinh tê thấp. Đặc biệt, do thiếu cơ chê quản lý hành chính Nhà nưốc của chính quyền địa phương nên khu tập thể, nhà trẻ, bệnh xá, cơ sở dịch vụ xây dựng xen kẽ nhà máy, xí nghiệp làm ảnh hưởng xấu cảnh quan, môi trường. Ở vùng nông thôn Gia Lâm còn có hơn một trăm đơn vị, trường học, cơ quan kinh tế của Trung ương và Hà Nội đặt tại địa bàn, xen giữa khu dân cư. Những cơ sở có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế nông thôn Gia Lâm, là: Trại tằm giống của Trung ương (chuyển về Gia Lâm năm 1955); Xí nghiệp chê biến các sản phẩm tơ lụa Gia Lâm; Nhà máy diêm Thống Nhất; Nhà máy gỗ dán Cầu Đuông (thành lập năm 1957); Nông trường chăn nuôi bò sữa Trung ương đóng tại xã Phù Đổng, được xây dựng từ năm 1963, sau này là Trung tâm sữa và giông bò Hà Nội; Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội (thành lập năm 1956); Viện Nghiên cứu Rau Quả; Trại giống cây ăn quả (7,lha) - mô hình chuyển giao công nghệ do Trung ương Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh lập tại Thạch Bàn từ năm 1972; Trại giông Yên Khê của Công ty giống cây trồng Hà Nội; một sô" công ty may: May 10, May Đức Giang... Những hoạt động của các cơ sở này góp phần thúc đẩy chuyển giao tiến bộ kỹ th u ật và công nghệ khoa học mối trong sản xuất nông nghiệp của địa phương; cung cấp giông, cây con. Chẳng hạn, trại giông Yên Khê chủ yếu sản xuất giống lúa nguyên chủng, trồng khoai tây giống cho vụ 49 đông, chọn lọc các giống lạc, đậu tương và giỏi thiệu phương pháp nuôi trồng mới. Một số cơ sở khác còn góp phần bao tiêu sản phẩm cho nông dân trong huyện và tiếp nhận một số lao động trong vùng. 2. Đ ặc đ iể m xã hội ở nông thôn Gia Lâm, củng như nông thôn vùng châu thổ sông Hồng, từ thời phong kiến cho đến ngày nay, xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở, gồm có nhiều làng - thôn (nhiều nhất: 9 làng, ít nhất: 1 - 2 làng); trong làng có nhiều xóm. Nhưng cũng có xã, thôn lại là xóm, như xã Ninh Hiệp không có làng mà chỉ có 9 xóm. Làng là đơn vị tụ cư của người nông dân, vối không gian sinh tồn gồm: khu cư trú, ruộng đất sản xuất hoặc làm nghề và cả khu vực tự nhiên để cộng đồng sử dụng như sông, ao, hồ, đầm, đường sá... Cư dân trong làng là thành viên của một cộng đồng gắn bó với nhau bằng mối quan hệ: gia đình và dòng họ (là những thực thể xã hội hình thành trên cơ sở huyết thống); láng giềng (chung xóm, ngõ); nghề nghiệp (hội, phường); tín ngưỡng; phong tục tập quán ... Phần lớn làng của Gia Lâm, đặc biệt là các làng nghê truyền thống, do đặc điểm vị trí địa lý, kinh tê - nhân văn, không thuộc loại hình làng khép kín, bất biến, như đa sô' làng thuộc Bắc Bộ, mà thuộc loại hình làng “mở”. Về m ặt văn hoá, mỗi làng - với tư cách một chủ thể tương đôi độc lập - được đặc trưng bởi ngôi đình. Đình nằm trong một quần thể cơ sở phụng tự: đình, chùa, 50 đền, miếu, văn chỉ; tuỳ từng làng có thể có hoặc không có chùa; có làng có thêm văn chỉ, ngoài việc thờ Khống tử, có nơi sử dụng Văn chỉ làm trường học, là nơi Hội Tư văn bàn việc học hành, biểu dương người thành đạt, bình thơ (Bát Tràng, Phú Thị...)- Đình là ngôi nhà công cộng của cộng đồng làng xã Việt Nam. Nơi đây có 3 chức năng: hành chính, tôn giáo và văn hóa. về chức năng hành chính, đình là chỗ để họp bàn các "việc làng", để xử kiện, phạt vạ theo những quy ước của làng, v ề chức năng tôn giáo, đình là nơi thờ thần của làng - vị thần khai sinh và bảo vệ làng, thường là một vị nhưng cũng có khi nhiều vị, được gọi là "Thành hoàng làng", v ề chức năng văn hóa, đình là nơi biểu diễn các kịch hát, như h át chèo hay h át cửa đình, là nơi tiến hành các lễ hội, trò chơi. Thực ra các chức năng trên không bao giờ được tách bạch mà đan xen hòa quyện với nhau. Gia Lâm là mảnh đất sản sinh ra những người con mà tên tuổi và tài năng được lưu truyền trong sử sách: Phù Đổng quê hương của người anh hùng thần thoại Thánh Gióng; Chử Đồng Tử, nhân vật huyền thoại, có vị trí đặc biệt trong tín ngưỡng Việt Nam, quê làng Chử Xá, xã Văn Đức; Nguyên phi Ỷ Lan, quê ỏ làng Dương Xá, từ một cô gái chăn tằm, năm 1063 trở thành cung phi của vua Lý T hánh Tông và 9 năm sau trở thành Thái hậu. Ỷ Lan phu nhân từng có công trong việc khuyến khích nghề nông, mở mang đạo Phật, được dân tin yêu, cảm phục; Lý Thường Kiệt (1019 - 1105), quê làng An Xá, là ngưòi có công lốn đổi vối đất nước. Danh 51 sĩ Cao Bá Quát (1809 - 1854), nổi dậy chống triều đình và bị đàn áp (1854 - 1855), quê làng Phú Thị ... Gia Lâm còn là mảnh đất văn hiến với nhiều di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Vối hơn 200 di tích và danh thắng về lịch sử - văn hóa nằm trên đất Gia Lâm, chỉ tính từ năm 1962 đến năm 1996 đã có 87 di tích lịch sử - văn hóa được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận xếp hạng là di tích văn hóa - lịch sử quốc gia. Sau đây là một số cụm di tích, danh thắng tiêu biếu: 2.1. C ụm d i tíc h lịch sử - vă n hóa - d a n h th ắ n g P h ù Đ ổng th iê n vương th u ộ c là n g P h ù Đông, xã P h ù Đ ông Nơi đây gắn liền với truyền thuyết về vị anh hùng dân tộc có công đánh giặc An, thời Hùng Vương thứ 6: Thánh Gióng. Thánh Gióng được liệt vào hàng "Tứ bất tử" cùng vối Mẫu Liễu Hạnh, thần Tản Viên và Chử Đồng Tử. Làng Phù Đổng nằm trong xã Phù Đổng. Xã có 4 làng: Phù Đổng, Phù Dực, Đổng Viên, Đổng Xuyên. Di tích trong làng có liên quan đến T hánh Gióng gồm đền thò Thánh Gióng (còn có tên là đền Thượng và đển Phù Đổng - Đền còn giữ được 25 sắc phong của các triều vua), chùa Kiến Sơ (là ngôi chùa rấ t cổ - nằm bên phải đền Gióng), đền Mẫu (nơi thờ mẹ Gióng), miếu Ban (nơi sinh ra Thánh Gióng), giá Ngự cùng những nơi thờ tướng lĩnh của T hánh Gióng. Thánh Gióng được thờ từ đời vua Hùng, nhưng đến đầu th ế kỷ XI (đời Lý) thì được trở thành hội lốn của cả nưốc. Từ đó, hàng năm, 52 Hội Gióng diễn ra từ mồng 6 đến 12 tháng tư âm lịch hăng năm (ngày mồng 9 là chính hội), vối những trò diễn hết sức độc đáo và thú vị như hát Ải Lao; trò diễn lại sự tích đánh giặc Ân - Thánh Gióng bay về trời ... Hội Gióng được coi là long trọng, công phu nhất trong các lễ hội cổ truyền Việt Nam. Để ôn lại sự tích Thánh Gióng đánh giặc An, dân làng đã huy động vào cuộc diễn trận hàng trăm người tham gia và phục vụ lễ hội, cùng với nhiều trò vui dân gian, đấu vật, cò người, hát chèo, h át quan họ... Không những vậy, phong cảnh nơi đây rất hữu tình với ao Rối, nhà Thủy tạ. Vì vậy, vào dịp chính hội thường có hàng vạn người các địa phương xa, gần đến dự lễ. 2.2. C ụm d i tíc h lịc h s ử vă n h ó a th u ộ c xã N in h H iệp Làng Nành (Ninh Hiệp) vốn là quê Mẹ của Ngọc Hân công chúa cùng nhiều danh thần, danh tướng khác. Hiện tại làng còn giữ được 20 di tích lịch sử văn hóa lốn nhỏ, 6 trong số đó được công nhận là di tích cấp quốc gia. Riêng chùa Pháp Vân, còn gọi là chùa Nành, thuộc hệ thống "tứ pháp" gồm các chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Tương truyền, chùa Pháp Vân được xây dựng thòi Lý (1010 - 1225), nằm ở trung tâm làng. Mỗi di tích, di vật của chùa gắn liền vói những huyền thoại, đã ăn sâu vào th ế giới tâm linh, tình cảm của dân làng Nành. Sự tích Đức Phật cao siêu ở Ân Độ tối đây, trở thành Đức P hật làng gần gũi, giúp dân làng chông hạn, dạy dân làng cách làm đậu phụ, làm tương, 53 cách chê biến giò, chả. Chùa Pháp Vân là một di tích lịch sử văn hóa độc đáo. Ngoài Bảo tháp, điện thờ chính, chùa có 2 dãy 50 gian chạy song song, đối diện nhau qua điện thờ chính. Chùa có kiến trúc độc đáo với gác chuông và gác khánh nhô lên ở một mái, tượng trưng cho âm dương hòa hợp, dân làng thịnh vượng. Chùa có nhiều hoành phi, câu đối, đồ thờ khoảng 100 tượng, có pho Tuyết Sơn linh thiêng, 18 vị La Hán mỗi vị một vẻ sinh động. Hội chùa Nành (từ mồng 1 đến mồng 6 tháng 2 âm lịch hàng năm), có tục "giảng báng" khuyên 10 điều thiện và chạy đàn cầu kinh quanh cây phướn lớn giữa sân chùa. Ngoài ra, còn có đền Hà - một ngôi đền cổ được xây dựng từ năm 1658, thờ Lữ Gia - vị tể tướng nhà Triệu cùng một khối lượng di vật phong phú mang những nét đặc trưng và nghệ th u ật kiến trúc điêu khắc trên gỗ, đá cua th ế kỷ XVII - XIX 2.3. C ụm d i tích c h ù a - đ ìn h - đ ền th ô n K iêu Ky^ x ã K iêu Kỵ Cụm chùa - đình - đền thôn Kiêu Kỵ mang đậm nét nghệ th u ật th ế kỷ XVIII - XIX. Làng cổ Kiêu Kỵ (tên nôm là Cầu Cậy - vốn là thái ấp vua T rần ban cho tướng Nguyễn Chế Nghĩa, thưởng công do đã giúp nưốc đánh bại quân xâm lược) có hai nghề th ủ công truyền thông: nghê' dát vàng quỳ khá độc đáo và nghề làm mực nho bằng keo da trâu. Sau Kiêu Kỵ phát triển thêm nghề may da. Ông tổ nghề dát vàng quỳ được dân làng tôn làm thành hoàng. Ngày hội tế tổ vào ngày 11 đến 12 54 tháng giêng và 16, 17 tháng tám âm lịch hàng năm. Nhừng ngày này, dân làm nghề dát vàng trong cả nước cùng về dự lễ. 2.4. Chùa L ảm Du (thuộc thôn Lảm Du, xã B ồ Đề) Nơi đây là một địa danh lịch sử nổi tiếng, từng là bản doanh của nghĩa quân Lê Lợi chuẩn bị đánh thành Đông Quan hồi th ế kỷ XV. Ngày nay chùa Lâm Du là một trong số ít chùa có quy mô lớn tại ngoại thành còn được bảo tồn khá nguyên vẹn, từ kết cấu kiến trúc truyền thống, các mảng chạm, đến các pho tượng mang nét chạm khắc từ thòi Lê Trung Hưng. Chùa xây dựng tại một vị trí thuận tiện, bên bờ sông Hồng, ngay lối rẽ đầu cầu Chương Dương. Do có cả đường sông, đường bộ nên rất thuận tiện để người dân đi lại thăm viếng. 2.5. C hùa Keo (th u ộ c xã K im Sơn) Được xây dựng từ th ế kỷ VI, khi đạo Phật mới du nhập vào nước ta. Chùa cách thành cô Luy Lâu khoảng 4 km, thò bà Keo tức bà Pháp Vân là một trong tứ đại P hật pháp thòi cổ ở Việt Nam. Đặc biệt, tượng Bà Keo thò tại chùa là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật, thuộc th ế kỷ XVIII. 2.6. C hùa B à T ấ m (thuộc xã D ương Xá) Chùa còn có tên là Linh Nhân Từ phúc, được khởi công xây dựng từ đời Lý (thê kỷ XI) và chùa Bà Tấm cũng tiêu biểu cho nghệ th u ật điêu khắc thời Lý. Nơi đây thờ Ỷ Lan phu nhân, tên th ật là Lê Thị Yến, vợ vua 55 Lý Thánh Tông (1056 - 1072). Bà là người có công xây dựng chùa; Dương Xá cũng là quê hương của Bà. 2.7. Đ ìn h - Đ ền - M iếu ■ V ăn c h ỉ là n g B á t T ràng Như mọi làng quê Việt Nam, làng Bát Tràng có một quần thể cơ sở phụng tự như Đình - Đền - Miếu - Văn chỉ khá khang trang, tồn tại cho đến nay. Đình Bát Tràng được xây dựng từ lâu đời. Tới niên hiệu Bảo Thái, đời vua Lê Dụ Tông (1720), đình được trùng tu trên nền ngôi đình cũ. Lần trùng tu cuối vào năm 1992 - 1993, xây lại cổng đình và làm lại nhà tiền tế, do đình cũ bị tàn phá do chiến tranh, thiên tai lụt lội. Năm 2006 - 2007 dân làng đóng góp công của xây lại đình theo kiến trúc truyền thống, bề thế, to đẹp. Đình B át Tràng xưa được xây dựng trên một khu đất cao có kiến trúc chữ nhị: hậu cung có 3 gian; tòa Đại bái năm gian hai dĩ. Đình thờ sáu vị thàn h hoàng là Lưu Thiên tử Đại vương (tức Hán Cao tổ Lưu bang), Lữ T hánh m ẫu (tức Lữ Hậu, vợ của Lưu Bang), cai Minh tự Đại vương, Hỗ quốc Đại vương (Lữ Gia), Phan Đại tưóng Đại vương (Phan Chính Nghị) và Bạch Mã Thượng đẳng thần. Trải qua bao biến động lịch sử, tuy bị m ất m át nhiều, đình vẫn giữ được nhiều hiện vật có niên đại từ th ế kỷ XVII, XVIII được tạo tác rấ t công phu như b át bửu, hương án, biển gỗ, ngai thờ, án văn, chuông đồng, kiệu b át cống, hoành phi, câu đối và 6 pho tượng cổ. Hiện nay, đình Bát Tràng còn giữ được 44 đạo sắc của các 56 triều Lê, Tây Sơn và Nguyễn phong cho các thành hoàng, trong đó có sáu đạo sắc niên hiệu Quang Trung (1788 - 1792), năm đạo sắc niên hiệu cản h Thịnh (1793 - 1801), năm đạo sắc niên hiệu Bảo Hưng (1801 - 1802)1. Văn chỉ được dựng phía sau đình, vào khoảng th ế kỷ XIII, kiến trúc chữ Nhị, mỗi tòa 5 gian; hậu cung thờ đức Khổng Tử cùng 72 bậc hiển triết khác là học trò của Ngài; trên tam quan có 3 chữ “Ngưỡng di cao” (Trông lên vời vợi), Văn chỉ có một tấm bia dựng trên lưng rùa không khắc chữ. Sau khi trạng nguyên Giáp Hải mất, Văn chỉ được mở rộng để thờ ông cùng những danh nhân khoa bảng của làng. Xưa kia Văn chỉ được sử dụng làm trường học; ngoài ra Văn chỉ còn là nơi Hội tư văn bàn việc học hành, biểu dương người thành đạt, bình thơ và đặc biệt là đọc tên 364 vị tiên nho, tiên hiền của làng được thêu trên hai bức trưống bằng vóc. Chùa Kim Trúc (hay chùa Bảo Minh), có 74 cột vuông đều làm bằng đá, mỗi bê' 20 cm, cao khoảng 1,8 mét. Bốn m ặt cột đều được đục chạm các câu đối chữ nổi, ca ngợi đạo Phật, răn dạy con người hướng thiện, tránh xa điều ác. Trong chùa còn có quả chuông quý: Bảo Minh tự chung, đúc năm Ât Mão, niên hiệu cản h 1. Theo Nguyễn Minh Tường. Làng Bát Tràng trong Các làng khoa bảng Thăng Long - Hà Nội. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.227. 57 Thịnh (1795). Bài Minh do Tiến sĩ Lê Hoàn Hiển (tức Lé Danh Hiển) soạn, ghi danh những người tham gia đóng góp đúc chuông, trong đó có các dòng họ Lê, Trần, Phạm, Nguyễn, Vũ, Phùng, Đỗ, Hà, Vương... * * * Chất văn hiến nổi trội ở Gia Lâm là truyền thống hiếu học và khuyên học. Thời phong kiến, trong 321 tiến sĩ của Hà Nội, Gia Lâm có 42 tiến sĩ, trong đó có 1 trạng nguyên, 1 thám hoa, 4 hoàng giáp, 34 tam giáp, 2 phó bảng. Các làng có nhiều tiến sĩ: Phú Thị 10 người, Bát Tràng 8 người, Kim Sơn 5 người. Làng Phú Thi được coi là làng khoa bảng tiêu biểu (tức là làng có từ 10 người trở lên đỗ tiến sĩ), trong sô" 5 làng khoa bảng của Hà Nội (Hạ Yên Quyết, Tả T hanh Oai, Nguyệt Áng, Đông Ngạc, Phú Thị) và 21 làng khoa bảng của cả nước. Tại Phú Thị có 4 vị tiến sĩ làm Thượng thư (Nguyễn Huy Nhuận (1678 - 1758), đỗ tiến sĩ năm 1703 lần lượt làm Thượng thư bộ Công, bộ Lễ bộ Hộ, cao n h ất là Tham tụng (tể tướng); Đoàn Quang Dung (1681 - 1791), đỗ Tiến sĩ năm 1710, làm quan Lễ bộ Thượng thư, tước Phụ Quận công; Cao Dương Trạc (1681 - ?) làm bồi tụng, Thượng thư bộ Hộ, tưóc Lâm Quận Công, thời Chúa Trịnh; Trịnh Bá Tưống (1691 - 1740), sau khi đỗ Tiến sĩ làm quan đến Tham tụng, Hình bộ Thượng thư, Thụ Quận công. Khi m ất ông được tặng Lễ bộ Thượng Thư); các tiến sĩ khác ỏ Bát Tràng, Phú Thị còn giữ các chức trách khác nhau trong chính quyền các cấp. 58 Trên đất Gia Lâm còn có những dòng họ có nhiều người đỗ đạt, có học vị cao, không chỉ là niềm tự hào của riêng dòng họ mà còn trở thành niềm tự hào của quê hương Gia Lâm. Các tiến sĩ của Bát Tràng thuộc 5 dòng họ: Dòng họ Lê của Bát Tràng có ba người: Lê Hoàn Viện, đỗ Tiến sĩ năm 1715 khi 27 tuổi, có tên tại bia Văn Miếu (Hà Nội), giữ chức vụ cao trong triều, được xếp hàng đại phu; Lê Hoàn Hạo, đỗ Tiến sĩ năm 1727 đời Lê Dụ Tông lúc 29 tuổi, có tên tại bia Văn Miếu (Hà Nội), làm quan đến chức đại phu và được phong tặng Ngự sử; Lê Danh Hiển, đỗ Tiến sĩ năm 1785 khi 29 tuổi, làm quan đến chức Đại phu, tưốc Hầu (hai người là anh em ruột). Họ Nguyễn có 2 người - hai anh em ruột: Nguyễn Đăng Liên, đỗ Tiến sĩ năm 1706 ở tuổi 31, đời Lê Dụ Tông, có tên tại bia Văn Miếu (Hà Nội), giữ chức vụ cao trong triều Hậu Lê, tước Bá; Nguyễn Đăng cẩm đỗ Tiến sĩ năm 1718 khi 41 tuổi, giữ chức tri huyện, làm quan đến chức Thừa chỉ Viện hàn lâm. Họ Vương, Trần, Vũ, mỗi họ có một người đỗ Tiến sĩ, đó là Vương Thừa Trung, đỗ Tiến sĩ năm 1589, làm quan đến chức Thượng Thư, tưốc Hầu; T rần Thiện Thuật, đỗ Tiến sĩ năm 1683, niên hiệu Chính Hoà, khi 25 tuổi, có tên tại bia Văn Miếu (Hà Nội), giữ chức vụ cao trong triều Hậu Lê; Vũ Văn Tuấn, đỗ Tiến sĩ năm 1843 khi 38 tuổi, có tên tại Văn Miếu (Huế), làm quan đến chức Đại Phu và từng được cử đi sứ Trung Quốc. Dòng họ Nguyễn Huy ở thôn Phú Thị, xã Phú Thị, một dòng họ 3 đòi có 5 người đỗ đạt cao hoặc trong một 59 nhà có 3 ngưòi đỗ tiến sĩ, nổi danh trong cả nước như: Nguyễn Huy N huận (1678 - 1758), Tiến sĩ năm 1703; Nguyễn Huy Mãn (1688 - 1740), Tiến sĩ năm 1721; Nguyễn Huy T huật (1690 - 1772), Tiến sĩ năm 1733; Nguyễn Huy Dận (1708 - 1780), Tiến sĩ năm 1748; Nguyễn Huy Cận (1729 - 1790), Tiến sĩ năm 1760. ỏ Gia Lâm truyền thống giáo dục và khoa cử không bị đứt gãy mà tiếp tục được kế thừa, phát huy. Với truyền thống hiếu học, nhiều thuần phong, mỹ tục đã hình thành, đó là"tinh thần “tôn sư trọng đạo”, kết “hội đồng môn”, lập “hội khuyên học” ... Các xóm làng ở Thăng Long - Hà Nội, những đơn vị tụ cư hàng ngàn năm xưa, đã có những lệ làng của mình từ rấ t sốm. Mới đầu, lệ làng được truyền miệng, sau do cuộc sống và các mốỉ quan hệ ngày một phát triển, những quy ưốc, lệ làng nảy sinh thêm nhiều và ngày càng phức tạp, đòi hỏi được ghi chép, văn bản hóa các lệ làng thành Hương ước. Như vậy, Hương ước ra đời vừa là kết quả, vừa là yêu cầu nội tại của sự phát triển xã hội của các tụ điểm dân cư sản xuất nông nghiệp - các làng - ở một trình độ phát triển nào đó. Nó là sự kê tục và hoàn chỉnh các quy ước truyền miệng của nhiều nhóm cư dân nhỏ có cùng chung quan hệ về huyết thông, về sinh tồn, về tư liệu sản xuất ... trên một địa bàn cư trú nh ất định. Hương ước thàn h văn luôn bảo đảm hai yếu tô": phép nưốc và lệ làng. Hương ước do dân làng thảo ra bao gồm những quy định về thiết chê và tô chức xóm làng, các quan hệ cá nhân và cộng đồng? 60 những điều luật về dân sự và hình thành đến những chi tiết nhỏ nhất của đòi sông xóm làng, tồn tại song song, bổ sung việc giải quyết cụ thể và không chống đôi với luật pháp Nhà nưốc. Vì vậy, “Hương ưốc là công cụ quản lý nông thôn hữu hiệu được xã hội chấp nhận”1. Cũng như các địa phương khác ở Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng, trong lịch sử, các làng ở Gia Lâm đều có Hương ước riêng cho làng mình. Nhưng hiện tại, chỉ còn vài làng còn giữ được Hương ước cổ, như làng Bát Tràng, làng Cự Khối.... Hương ưốc cũng là một nét quan trọng của văn hoá nông thôn Gia Lâm, bởi qua nghiên cứu Hương ước, ngoài việc có thể hiểu rõ thiết chế tổ chức và quản lý làng xã Hà Nội xưa, việc cấp công điền, bảo vệ sản xuất nông nghiệp, những quy ưốc bảo vệ an ninh làng xã; Hương ước còn cho ta biết được những quy ưốc nếp sống văn hóa, sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo của người Gia Lâm - Hà Nội đầu th ế ky XX. Gia Lâm (cùng vối Đông Anh) là một trong hai huyện lớn và đông dân nh ất trong các huyện ngoại thành Hà Nội. Tính đến tháng 12 - 1981, trong tổng sô' 228.300 dân toàn huyện thì có khoảng 210.000 người sống ở vùng nông thôn, chiếm tỷ lệ hơn 90%; toàn huyện có 130.000 người (56,9%) thuộc hộ nông nghiệp và 98.300 người (43,1%) thuộc hộ phi nông nghiệp; sô" 1. Nguyễn Thế Long. Hà Nội qua hương ước xưa. Nxb Hà Nội, Hà Nội, 2000, tr.17. 61 người trong độ tuổi lao động là 104.600 người, trong đó có 52.600 lao động nam và 52.000 lao động nữ. Tuyệt đại đa sô cư dân Gia Lâm là dân tộc Kinh (99%)l. Dân sô" đông nhưng phân bố không đều giữa các vùng; những xã thuộc “vùng xa” như Lệ Chi, Văn Đức, Dương Quang, Thượng Thanh, Yên Thường, Trung Mầu, Hội Xá, Cổ Bi... Là những xã thuần nông, m ật độ dân số trung bình thấp hơn nhiều những xã cận đô, nơi có công nghiệp, tiểu th ủ công nghiệp nông thôn và thương mại, dịch vụ phát triển. Đặc biệt các xã Ninh Hiệp, Bát Tràng, T râu Quỳ đúng với nghĩa “đ ất chật, người đông”, “tấc đất tấc vàng”, m ật độ dân số cao n h ất trong 31 xã trong huyện (m ật độ dân sô' của Niiih Hiệp khoảng 1.820 người/km2, cao gấp đôi m ật độ dân sô" vùng châu thổ sông Hồng cùng thời điểm; m ật độ dân số ở Bát Tràng: 1.600 người/ km 2). Cơ cấu dân cư ở nông thôn Gia Lâm thời điểm trước năm 1981 tương đối thuần nh ất với hơn 60% là thành phần nông dân tập thể (gồm nông dân và gia đình họ) và bộ phận làm ăn cá thể, không vào HTX. Phần còn lại thuộc hộ phi nông nghiệp (hộ làm ăn tập thể, cá thể, nhiều người là công nhân viên chức nghỉ hưu, m ất sức lao động, là bộ đội xuất ngũ ...)• M ang đặc điểm của cư dân vùng ven đô, sông trong môi trường “làng mở”, lại ỏ vị trí giao thông thu ận tiện, 1. Chi cục Thông kê Hà Nội. 20 năm xây dựng và phát triển kinh tế văn hoá thủ đô. Nxb Thông kê, Hà Nội, 1976, tr. 27 - 29. 62 có điều kiện giao tiếp cộng đồng rộng, tầm nhìn thoáng, người Gia Lâm có bản tính năng động, có óc cầu thị, nhanh thích nghi vói cái mới, cái tiến bộ. Đặc biệt, trong một số’ làng nghề truyền thống (như Bát Tràng, Kiêu Kỵ, Ninh Hiệp) hoặc những làng giáp ranh nội thành và thị trấn lốn (Bồ Để, Long Biên, Gia Thuỵ, Yên Viên, Phú Thị, Trâu Quỳ, Dương Xá) người dân biểu hiện tính cách (tâm lý, nếp sinh hoạt, cách nghĩ...) của cư dân đô thị một cách khá rõ nét. Trình độ dân trí của người dân Gia Lâm cũng có điều kiện phát triển hơn nhiều vùng nông thôn khác. Có thể nói, nơi đây có môi trường thuận lợi và tụ hội nhiều điểu kiện để người nông dân tiếp thu các tri thức kinh tế, văn hoá, xã hội củng như áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ th u ật trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. III. KHÁI QUÁT TÌN H HÌNH KINH TẾ - Xà HỘI VÙNG NÔNG TH Ô N GIA LÂM TRƯỚC NĂM 1981 1. T ìn h h ìn h k in h tế nôn g th ô n G ia L âm trư ớ c n ăm 1981 Hoà bình lập lại (năm 1954), nhân dân miền Bắc tập trung vào xây dựng kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, đồng thời tiếp tục tiến hành cải cách ruộng đất và thực hiện công cuộc xây dựng CNXH, làm cơ sở vững m ạnh cho cuộc đấu tran h thống nh ất nưóc nhà. Ở tầm quản lý vĩ mô về kinh tế - xã hội, Nhà nước Việt Nam D ân chủ Cộng hoà đã lần lượt ban hành một 63 hệ thông thể chế, chính sách nhằm mục đích đưa đất nưốc vượt qua thử thách ban đầu. Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 14 (khoá II), họp tháng 11 - 1958, đê ra nhiệm vụ cơ bản của kê hoạch 3 năm (1958 - 1960), trong đó có nhiệm vụ quan trọng là: ra sức cải tạo nông nghiệp, th ủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, khâu chính là đẩy mạnh HTH nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cô" thành phần kinh tê quốc doanh. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, trên cơ sở phân tích tình hình, đặc điểm Hà Nội, Hội nghị Đảng bộ Thành phô" họp tháng 4 - 1959, quyết định nhiệm vụ công tác và các chỉ tiêu kê hoạch năm 1959. Thực hiện Nghị quyết Đảng bộ, trong những năm 1958 - 1960, kinh tế - xã hội H à Nội từng bưốc được khôi phục và phát triển; việc cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh cơ bản đã hoàn thành; bưốc đầu xây dựng công nghiệp quốc doanh và tiến hành HTH thủ công nghiệp. Tháng 9 - 1961, tại Hội nghị (mở rộng), Thành uỷ Hà Nội đã xác định chủ trương, phương hướng phát triển sản xuất nông nghiệp ngoại thành: ra sức củng cố, phát triển HTXNN, tích cực xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nông nghiệp, lấy phát triển sản xuất thực phẩm là chính (đặc biệt chú ý chăn nuôi) đồng thời coi trọng sản xuất lương thực, nhằm xây dựng ngoại thành thành vành đai 64 thực phẩm của thành phô 1. Đây cũng là phương hưóng, nhiệm vụ phát triển sản xuất nông nghiệp ngoại thành và Gia Lâm suốt 2 thập kỷ 60 - 70 của thê kỷ XX. Đến cuối năm 1960, Gia Lâm căn bản hoàn thành phong trào HTHNN với 98% số hộ nông dân vào HTX bậc thấp (ỏ miền Bắc tỷ lệ là 85,8% và ngoại thành Hà Nội là 86,1%). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện HTH, Gia Lâm cũng mắc phải khuyết điểm phổ biến giông các huyện ngoại thành cũng như các địa phương khác trên miền Bắc: đó là tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí về phương pháp, hình thức, bước đi; đó là “bệnh” chuộng thành tích, có nơi có lúc còn mang tính cưỡng bức, ép buộc “bắt” phải vào HTX, nếu không là vi phạm ý thức chính trị. Những nguyên tắc cơ bản mà Đảng, Nhà nước đề ra từ đầu khi vận động nông dân vào HTX là “tự nguyện”, “dân chủ”, “đi từng bước vững chắc”, dần dần bị các cấp chính quyền từ huyện tới xã, thôn coi nhẹ và hầu như lãng quên. Hậu quả là: ngay cuối năm 1960 - năm phong trào HTH phát triển nhất, đã có tới 3.040 hộ xin ra HTX2. Gia Lâm cũng là một trong những huyện đi đầu đưa 1. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. Lịch sử Đảng bộ Thành p h ố Hà Nội (1954 - 1975). Nxb Hà Nội, 1995, tr. 121. 2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Gia Lâm (1961). Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Huyện uỷ Gia Lâm trong 3 năm 1958 ■ 1960. 65 HTX bậc thấp lên bậc cao. Năm 1965, Gia Lâm hợp n h ất 59 HTX nhỏ thành 25 HTX lớn, đưa số HTX bậc cao lên 127 HTX trên tổng sô" 149 HTX của toàn huyện (bảng 1.1). B ảng 1.1: T ìn h h ìn h hợp tá c h o á n ô n g n g h iệp v ù n g n ô n g th ô n G ia L âm (1965 - 1975) 1965 1966 1967 1968 1969 1970 1971 1972 1973 1974 1975 Tống*óHTX 149 113 112 105 95 103 106 109 109 109 109 Hộ -Tổngsó 24.865 25.164 24.910 24.919 25.168 24.865 24.960 25.480 25.837 25.673 25.896 -HTX 24.499 24.216 24.422 24.476 24 752 24.710 24.714 25.234 25.531 25.586 25.572 Nhản khẩu. - Tổng số 117.529 115.957 113.534 115.917 114.204 114.863 116.605 119.682 120.807 121669 123159 •HTX 111.370 111.400 111.430 113.250 113.111 114.335 116.077 119.154 119.874 119.552 122405 Tỳlệ%HTH -Hộ 94.5 96,2 98.6 98.2 98,3 99.4 99.0 93.0 98.8 99.7 98.8 -Ngưỡi 94,8 96.1 98.1 97,7 99,0 99.5 99,5 99.6 99.2 98.3 99.4 Quy môHTX -150 hộ- 31 17 49 45 29 37 39 40 40 15 37 -151 - 300 hộ 118 89 37 35 35 39 40 43 43 41 43 301 hộ - - 7 26 25 31 27 27 26 26 53 29 Diện tlch HTX - Dưới 100 ha 81 83 57 66 74 77 79 79 79 68 ■ 100-200 ha 28 21 30 16 23 23 24 24 24 32 - Trèn 200 ha 4 8 18 13 6 6 6 6 6 9 Nguồn: Chi cục Thống kê Hà Nội (1976), tr. 316, 321. Sự phát triển ồ ạ t HTX bậc cao trong khi cơ sở vật chất - kỹ th u ậ t phát triển chưa tương xứng, tạo nên mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ của lực lượng sản 66 xuất với quan hệ sản xuất, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tê của Gia Lâm. Lao động trong các HTX nông nghiệp được tổ chức theo các đội, tổ sản xuất. Các đội chuyên có tính chất cô định, người ta hay gọi là các đội sản xuất cơ bản. Ngoài ra còn có hình thức tổ chức các tổ, đội, có tính chất tạm thòi không cô" định, do nhu cầu công việc đặt ra, trong những thời gian nhất định. Riêng đội thuỷ lợi được tổ chức trong một số hợp tác xã, bắt đầu từ năm 1962 có nhiệm vụ chuyên làm nghĩa vụ dân công tập thể của HTX khi có yêu cầu, có thể được điểu động đi phục vụ cho việc xây dựng các công trình thuỷ lợi của Nhà nưốc, giúp đỡ các tỉnh miền núi làm công tác thuỷ lợi ... Quy mô các tổ, đội sản xuất phụ thuộc vào quy mô của HTX, trình độ trang bị vật chất - kỹ thu ật và trình độ cán bộ quản lý HTX. Một cán bộ quản lý giỏi thì các tổ, đội sản xuất được tổ chức hợp lý, đảm bảo công việc phù hợp với mỗi xã viên và ngược lại việc tổ chức các tổ, đội sản xuất không hợp lý sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của HTX. Theo Báo cáo của Ban Chấp hành Huyện uỷ Gia Lâm: năm 1965 trong số HTX hiện có, sơ bộ phân loại: 59,4% HTX khá; 35,3% HTX trung bình, 5,3% HTX yếu kém ... Có 27 HTX bị xã viên nghi Ban Q uản trị có sự tham ô, 7 HTX chưa khoá sổ (chưa quyết toán), cơ sở v ật chất, kỹ th u ậ t của nhiều HTX còn yếu, năng lực lao động thấp, tham ô lãng phí, nh ất là lãng phí còn phổ biến. 67 Trong thập kỷ 70 của thê kỷ XX, ở miền Bắc, nét nổi bật trong phong trào HTHNN là cuộc vận động tổ chức lại sản xuất, phân công lại lao động theo hướng tập trung, chuyên môn hoá và cơ khí hoá cao nhằm đi lên sản xuất lớn XHCN. Cũng do nhận thức giản đơn và quan niệm sai lầm về “sản xuất lớn”, đến cuối năm 1976 Gia Lâm có 51% xã (16/31 xã) tiến hành tổ chức lại sản xuất với quy mô HTX toàn xã theo các loại hình và quy mô khác nhau. Đến cuối những năm 70, các HTX quy mô thôn tiếp tục sá t nhập ồ ạt: từ 109 HTX của năm 1975, cuối năm 1976 còn 86 HTX và đến năm 1980 chỉ còn 31 HTX quy mô toàn xã. Có thể nói đây là sự vội vàng, đốt cháy giai đoạn, và thực tê đã để lại hậu quả khá nặng nề cho nền kinh tê - xã hội của Gia Lâm lúc bấy giờ. Các HTX quy mô lớn tuy có vốn lớn, cơ sở vật chất - kỹ th u ậ t khá, lao động dồi dào, nhưng trong quá trình hợp n h ất những tiềm lực đó đều bị tổn thất, hoặc xáo trộn. Cán bộ năng lực vốn đã yếu, trở nên lúng túng trong quản lý HTX và điểu hành sản xuất trong điều kiện mối. HTX lốn n h ất thì có tới 7 - 9 thôn gộp lại, ít n h ất có 1 - 2 thôn, số lượng hộ dân đông hơn và phức tạp hơn, vì th ế cán bộ không đủ khả năng nắm vững tới thôn, nên càng khó quản lý. Với quy mô lớn hơn, tính chất tập thể hoá của HTX cũng cao hơn. Trong những HTX bậc cao, những tư liệu sản xuất chủ yếu: ruộng đất, trâu bò cày kéo, công cụ sản xuất... trước kia là cô phần đóng góp, giai đoạn này 68 được tập thể hoá hoàn toàn; một số tư liệu sản xuất nhỏ và một sô" ngành nghề mang tính dịch vụ đời sống, quy mô nhỏ cũng bị tập thể hoá, các HTX nông nghiệp đã trở thành các HTX tổng hợp. Về cơ cấu tổ chức: trong các HTXNN lao động được tổ chức theo các đội, tổ sản xuất. Các đội chuyên có tính chất cố định, còn gọi là đội sản xuất cơ bản. Ngoài ra còn có hình thức tổ chức các tổ, đội có tính chất tạm thời, không cố định, do nhu cầu công việc đặt ra, trong những thời gian nhất định. Quy mô các tổ, đội sản xuất phụ thuộc vào quy mô của HTX, trình độ trang bị vật chất - kỹ th u ật và trình độ quản lý HTX. Thực tế ở Gia Lâm, trong từng HTX, việc tổ chức, phân công lao động được thực hiện theo hình thức chuyên môn hoá các khâu. Lao động trong HTX được chia ra các nhóm: lao động trồng trọt, lao động chăn nuôi, lao động ngành nghề. Lao động trồng trọt được tổ chức 2 loại đội: đội sản xuất cơ bản và đội chuyên (giống, làm đất, thuỷ nông, bảo vệ thực vật, chuyên nuôi trâu bò cày kéo, chuyên trồng trọt trong đội chăn nuôi). Các đội chuyên áp dụng hình thức khoán việc. Ngưòi xã viên chỉ cần biết thực hiện công việc được khoán, thụ động nhận điểm được chia. Họ không quan tâm đến công việc khác hoặc đến kết quả cuối cùng là năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi. Quan hệ giữa các đội chuyên vối nhau trong cùng một đội sản xuất cũng nảy sinh những mâu thuẫn về trách nhiệm và quyền lợi. Cán bộ kỹ th u ật và quản lý trong HTXNN ít về số lượng, thấp về chất lượng và không đồng bộ về ngành nghê. Năm 1964, toàn huyện Gia Lâm chỉ có 35 cán bộ trung cấp, 296 cán bộ sơ cấp. Đến năm 1970, ở 4 huyện ngoại thành Hà Nội, số cán bộ kỹ th u ật trong HTXNN chỉ có 2 cán bộ trình độ đại học, 706 trung học, 1.399 sơ học. Năm 1980, số cán bộ kỹ th u ật có tăng lên: có 8 cán bộ đại học, 2.280 trung học và 2.873 sơ học1. Tuy không có con số thống kê cụ thể riêng cho Gia Lâm, nhưng tình trạng vắng thiếu cán bộ kỷ th u ật nhất là cán bộ trình độ đại học và trung cấp là tình trạng chung của các huyện ngoại thành. Điều này làm hạn chế việc đưa nhanh tiến bộ kỹ thu ật vào sản xuất nông nghiệp và cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng sử dụng máy móc nông nghiệp trong HTX không đúng quy trình kỹ thuật, làm hư hỏng, gây lãng phí lớn. Tuy nhiên tồn tại một nghịch lý: nhìn tổng thể toàn huyện, đội ngũ cán bộ kỹ th u ậ t như vậy là ít ỏi, không đáp ứng được yêu cầu đón nhận sự chuyển giao, triển khai tiến bộ KHKT trong sản xuất nông nghiệp; nhưng trong một số HTX lại có tình trạng không sử dụng hết đội ngủ cán bộ kỹ th u ậ t trung sơ cấp đã được đào tạo, buộc họ phải bỏ nghề (như ỏ Đa Tốn, Đông Dư, Dương xá, Thạch Bàn...). Đê dần dần khắc phục tình trạng trình độ kỹ thu ật yếu kém và phương thức canh tác lạc hậu, việc cải tiến 1. Chi cục Thống kê Thành phố Hà Nội (1979). Thủ đô Hà Nội 25 năm xây dựng và chiến đấu. Nxb Thông kê, Hà Nội, tr.62. 70 công cụ sản xuất, giải phóng sức lao động đã được chính quyền địa phương các cấp quan tâm. Tuy nhiên, việc trang bị máy móc và công cụ cho lao động chưa đồng bộ cũng như phù hợp với điều kiện sản xuất thực tê từng vùng khác nhau, nơi nhiều quá mức cần thiết, nơi lại ít đã làm cho máy móc, công cụ mới kém phát huy tác dụng, hiệu suất sử dụng nói chung thấp. Thời gian này, Gia Lâm cũng được Nhà nước đầu tư cho các HTX thông qua các biện pháp giúp đỡ về tài chính (cho vay vốn ngắn hạn, dài hạn), cung cấp máy móc, công cụ, vật tư, đào tạo cán bộ... nên việc cung cấp vốn phục vụ nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ th u ật ban đầu cho các HTX của Gia Lâm bưốc đầu được đáp ứng. Việc cải tạo đồng ruộng, xây dựng, củng cô, quy hoạch hệ thống thuỷ lợi, bảo vệ đê kè, cải tạo đất, xây dựng đưòng giao thông nông thôn cũng được tiến hành. Tuy vậy, do nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho các ngành nghê nông nghiệp có khác nhau nên đã ảnh hưởng đến cơ cấu sản xuất nông nghiệp của toàn huyện. Ví dụ, năm 1970, nguồn vốn cố’ định của Nhà nước dành đầu tư cho ngành trồng trọt chiếm khoảng 67%, còn cho chăn nuôi hơn 14% và ngành nghề phụ khoảng 8%1. Nếu như, năm 1964 - 1965, nhờ sự giúp đỡ của các cơ quan, xí nghiệp đóng trên địa bàn huyện, Gia Lâm mối 1. Ban chỉ đạo điều tra tình hình quản lý HTXSXNN Thành phô' Hà Nội. Báo cáo kết quả điều tra tình hình quản lý ở 30 HTXSXNN ngoại thành Hà N ội, tháng 10 - 1972, Hà Nội, tr.31. 71 có 9 HTX dùng điện phục vụ sản xuất và 2 HTX có điện sinh hoạt, thì đến trước năm 1981, 80% thôn xóm đã có hệ thống điện, hầu hết các HTX trong huyện đểu sử dụng máy tuốt lúa, máy xay xát gạo, máy băm trộn và nghiên thức ăn gia súc. Huyện cũng trang bị 163 máy bơm dầu các loại cho những xã chưa có điện và các xã vùng bãi. 15 máy tưới, phun được trang bị cho các vùng sản xuất rau. H ầu hết các HTX đều xây dựng nhà kho, sân phơi, chuồng trại để chăn nuôi gia súc... tạo cơ sở vật chất cần thiết cho sản xuất nông nghiệp. Thực tế, tran g bị cơ sở vật chất, máy móc, kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp của Gia Lâm trong những năm 1960 - 1970 còn giản đơn, phần lốn chưa phát huy được tác dụng, chưa phục vụ những khâu sản xuất chủ yếu để thay thê sức lao động nặng nhọc của người lao động. Chính vì lao động th ủ công và nửa cơ giới vẫn là chủ yếu, công cụ cầm tay lại thiếu đến 30%, nên năng su ất lao động trong nông nghiệp tập thể còn rấ t thấp với giá trị ngày công chỉ đạt 0,59 đồng (1965) và 0,69 đồng (năm 1975) (tính theo thời giá lúc đó); lương thực bình quân 11,8 kg (năm 1965) và 12,9 kg (năm 1975) một lao động. Nhằm phục vụ cho bước đầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, năm 1974, huyện Gia Lâm đã liên kết với Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội tiến hành điều tra, xây dựng bản đồ nông hoá thổ nhưỡng để phân vùng chuyên môn hoá sản xuất, đó là: 1. Vùng chuyên canh rau: gồm 8 xã ven sông Hồng: 72 Bồ Đề, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối, Đông Dư, Bát Tràng, Kim Lan, Văn Đức; với diện tích 1.530 ha, gồm 986 ha đất bãi và 544 ha đất trong đồng. 2. Vùng chuyên canh cây công nghiệp kết hợp cây rau: gồm 5 xã khu vực Nam Đuống: Lệ Chi, Dương Quang, Kim Sơn, Phú Thị, Đặng Xá; với diện tích: 1.630 ha, gồm 362 ha đất bãi, 1.268 ha đất trong đồng. 3. Vùng chuyên canh cây lương thực: gồm 11 xã: Đa Tốn, Kiêu Kỵ, Dương Xá, T râu Quỳ, Dương Hà, Đình Xuyên, Trung Mầu, Phù Đổng, Ninh Hiệp, Yên Thường, Yên Viên; với diện tích 3.281 ha, trong đó bãi có 347,5 ha. 4. Vùng cây thức ăn gia súc: gồm 7 xã: Ngọc Thuỵ, Gia Thuỵ, Thượng Thanh, Hội Xá, Giang Biên, cổ Bi, Việt Hưng; vối diện tích 1.529 ha, gồm 315,5 ha đất bãi và 1.213, 5 ha đất trong đồng. Sự phân vùng sản xuất và xác định cơ cấu cây trồng chỉ là bưốc đầu. Sau này do thấy không phù hợp, huyện thực hiện phân vùng lại. Vấn đề cần nhất là phương hướng đầu tư cụ thể cho từng vùng thì địa phương vẫn còn lúng túng, không đề ra được những biện pháp cụ thể có tính khả thi, cho nên tác động đến sản xuất đạt hiệu quả kém. Vấn để tồn tại lốn n h ất trong thời gian từ 1960 - 1980 ở Gia Lâm (và cả vùng nông thôn ngoại thành) là còn để lãng phí khá lớn sức lao động, phương hưống 73 giải quyết lao động dư thừ a ở nông thôn chưa rõ ràng. Sự phân công trong nông nghiệp bưốc đầu có chuyển biến, nhưng còn chậm. Q ua báo cáo kết quả điều tra tìn h hình quản lý ở 30 HTXNN của ngoại th àn h Hà Nội (tiến hành từ tháng 4 - 1970) do Thường vụ Thành uỷ H à Nội chỉ đạo, ta thấy, trong gần 10 HTX đại diện cho huyện Gia Lâm được chọn điều tra thì riêng ngành trồng trọ t đã thừ a ra trên 30% sô" lao động. Tỷ su ấ t sử dụng sức lao động cho các HTX còn thấp. Bình quân sô" ngày công của 1 xã viên HTX đ ạt 210 ngày/năm và có chênh lệch giữa vùng rau và vùng lúa. Sô' thòi gian lao động có ích trong 1 ngày không cao, chỉ đ ạt khoảng 5 - 6 giờ/ngày. Việc phân bổ sức lao động trong các ngành nghề chưa hợp lý: năm 1968 - 1970, ngành trồng trọ t chiếm khoảng 80% sức lao động; ngành chăn nuôi: 3,5%; ngành nghề phụ: 5%; còn lại là lao động khác1. Trong khi lao động còn dư th ừ a mà ruộng đ ất canh tác của Gia Lâm vẫn để hoang hoá nhiều. Như ở HTX thôn Ngô (xã Thạch Bàn) có 1,5 ha; HTX Kim Sơn có 3,56 ha đ ất bỏ hoang hoá liền 3 năm ; HTX An Phú (Trâu Quỳ) cũng có nhiều diện tích bị bỏ hoang hoá 1, 2 vụ. Ngoài ra, phần lớn diện tích đ ất chỉ cấy, trồng m ột vụ. 1. Ban chỉ đạo điểu tra tình hình quản lý HTXSXNN Thành phố Hà Nội. Báo cáo kết quả điều tra tình hình quản lý ờ 30 H TXSXNN ngoại thành Hà Nội, tháng 10 - 1972, Hà Nội, tr. 23; 27. 74 B ảng 1.2: T ìn h h ìn h sả n x u ấ t lương th ự c ở v ù n g nôn g th ô n G ia L âm (1960 - 1980) Diện tlch Lúa Ngõ Khoai (không kề khoai tây) « I I f (ha) Náng (Uất Sin lượng (tấn) Diện tich (ha) Nảng suát Sàn lượng (lán) Diện tích (ha) Nỉng suỉt Sản lượng (lán) 1960 8.968 17.701 3.169 5.337 572 2.860 1964 10.833 25.016 2.620 4.511 794 3.283 1965 10.350 5 tán/ha 24.835 2.447 13 tẩn/ha 3.811 878 6.247 1968 7.640 5- 17.934 2.216 2.912 712 4.845 25.605 1970 9.254 5.12- 23 640 2.085 3.649 672 5.121 29.109 1972 8.437 22.763 1.739 2.847 374 2.554 26.506 1975 9.637 5.54- 26.938 1.319 17.4tán/ha 2.097 216 1.417 29.507 1978 10.100 28.000 1.916 3.296 124 572 31.500 1979 10.300 5,3tán/ha 28.100 1.518 17,2 - 1.982 57 298 30.200 1980 10.100 5.1 24.900 1.477 1.214 261 1.010 26.400 N guồn: C hi cục Thống kê H à N ội (1976) tr.348 - 353; (1982), tr. 75 - 83. Theo dõi trên bảng 1.2, có thể thấy, trước năm 1981, diện tích trồng lúa hàng năm tương đối ổn định (trên 10 ngàn ha), năng suất trung bình 5,2 tấn/ha/năm , đứng thứ 2 trong 4 huyện ngoại thành; cây ngô chưa được quan tâm nên diện tích giảm mạnh, đến năm 1980 sô" đất trồng ngô còn chưa đến 50% diện tích của năm 1960, năng suất thấp, chỉ đạt khoảng 17 tấn/ha. Các cây màu khác, đặc biệt là khoai không những diện tích giảm mà năng suất lại rấ t thấp; diện tích trồng khoai của năm 1980, chỉ bằng một nửa diện tích của năm 1960. Điều đó góp phần làm giá trị tổng sản lượng lương thực hàng 75 năm của huyện đạt thấp, không đảm bảo phân phô'i đủ định xuất lương thực cho nông dân cũng như việc thực hiện nghĩa vụ lương thực đối vối thành phố. sả n xuất màu giảm cũng là một trong những nguyên nhân đưa ngành chăn nuôi kém phát triển (vì đây là nguồn thức ăn chủ yếu cho chăn nuôi). Trong nhóm cây thực phẩm, các loại rau thông thường là rau muống, rau cải, bắp cải, ớt, tỏi... có xu hưóng tăng nhanh về diện tích và sản lượng, vì trồng các loại rau này không đòi hỏi phải có kỹ th u ật cao mà lại có thu nhập ổn định (năm 1970 các loại rau này chiếm tỷ trọng 81% về diện tích và 93% vể sản lượng). Các loại rau có hàm lượng dinh dưỡng cao như đậu... phát triển chậm, diện tích, năng suất, sản lượng giảm dần (xem bảng 1.3). B ản g 1.3: T ìn h h ìn h sả n x u ấ t r a u các loại v ù n g n ô n g th ô n G ia L âm (1969 - 1980) Rau các loai: 1969 1970 1971 1972 1973 1974 1975 1976 1977 1978 1979 1980 Diên tích [ha] 1328 1529 1846 1838 1 580 1.769 1.891 2.500 2.500 2 70C 2.800 3 100 lươnq (lấn) Khoai tây: 16.655 21.574 28.175 26.985 20.557 26.812 25.668 39.200 20.800 21.500 24.400 32-300 Oiên tích (ha) 98 96 158 79 93 67 54 103 83 181 213 330 Sản lưong (lán) Đậu quả các loai 681 885 1.318 549 646 484 384 923 497 1338 1.122 3 955 Dièn tích (ha) 697 489 554 523 428 421 Sản lưạng 251 139 122 111 99 115 (lấn) Nguồn: Chi cục Thống kê Hà Nội (1976), tr.364 - 366; (1982), tr.85 - 87. 76 Nhóm cây công nghiệp gồm đay, dâu tằm, vừng, đậu tương, mía, lạc bưốc đầu được các HTX chú ý phát triển. Tuy vậy, các loại cây công nghiệp chủ lực là đay, dâu tằm lại giảm dần về diện tích, đưa đến sản lượng giảm sú t (mặc dù năng suất có loại tăng). Tông diện tích cây công nghiệp năm 1980 so với năm 1975 giảm 240 ha. Chẳng hạn: về cây đay, năm 1963 toàn huyện trồng được 1.675,8 ha, sản lượng 1.668 tấn, nhưng năm 1975 giảm xuống còn 873 ha vối sản lượng 1.390 tấn. Đặc biệt năm 1979 diện tích trồng đay chỉ còn 360 ha và tổng sản lượng chỉ còn 327 tấn. Về trồng dâu để nuôi tằm, năm 1963 có 135,5 ha, đến năm 1975 chỉ còn 97 ha và những năm 1978 - 1980 cây dâu tằm biến mất. Nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm toàn diện của nhóm cây công nghiệp là do chính sách giá cả cũng như việc cung cấp lương thực, vật tư của Nhà nưốc đốỉ lưu cho vùng cây công nghiệp không khuyến khích được người sản xuất. Phương hướng sản xuất cho vùng cây công nghiệp không ổn định, còn nhiều bất cập (xem bảng 1.4). B ả n g 1.4: T ìn h h ìn h sả n x u ấ t cây công n ghiệp ở v ù n g n ô n g th ô n G ia L âm (1975 - 1981) Tồng Thuốc lá Vừng Đổ tương Đay Dáu tầm Mla L c diên tích cây còng nghiêp Dién tích (ha) Sàn lượng (tan) Diện tích (ha) Sàn lượng (tan) Diện tich (ha) Sán lượng (tấn) Diện tích (ha) Sán lượng (tẳn) Diện tích (ha) Sàn lượng (tần) Diện tích (ha) Sàn lượng (tan) Diên tích (ha) Sản lượng (tan) 1.360 157 49 96 36 873 1.390 97 1.212 9 161 108 81 77 Tòng Thuốc lá Vừng Đồ tương Đay Dảu tằm Mfa Lac dièn tlch cảy cõng nghièp Diện tích (ha) Sản lượng (tan) Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Diện tích (ha) Sán lượng (tan) Diện tích (ha) Sản ượng (tan) Diện tlch (ha) Sản lượng (tan) Diên tích (ha) Sàn ượng (tan) Diện tích (ha) Sán lượng (tan) 1.360 151 46 153 54 862 1.215 70 879 10 210 111 90 1.200 74 23 187 57 798 671 35 476 111 57 1.010 146 29 181 45 538 807 147 99 740 70 17 203 50 360 327 5 100 83 1.120 13 4 142 39 169 80 642 642 7 88 9 292 135 99 1.360 212 51,6 354 283 641 844 6 78 2 28 141 93 N guồn: C hi cục T hống kê H à N ội (1982), tr.88 - 83. Trong những năm 1960 - 1970, tình hình chăn nuôi ở Gia Lâm phát triển kém, chưa tương xứng vối trồng trọt, chưa trở thành ngành sản xuất chính theo phương hướng đề ra trong các nghị quyết của T hành uỷ. Vật nuôi chủ yếu vẫn là các loại gia súc, gia cầm truyền thông: lợn, trâu bò, gà, vịt, cá các loại, theo lối quảng canh; hầu hết là giống địa phương, năng suất thấp, tăng trưởng chậm (xem bảng 1.5). B ản g 1.5: T ìn h h ìn h c h ă n n u ô i ở v ù n g n ô n g th ô n G ia L âm (1965 -1981) Trâu (con) Bò (con) Lơn (con) Tổng số HTX Hộ gia đinh Tồng số HTX Hộ gia đình Tổng só HTX Hộ gia dinh 2.017 4.404 26.591 1965 2.455 4.411 33.479 5.722 27.757 1970 2.882 2.831 51 3.153 2.717 436 32.044 5.764 26.280 1975 3.206 3.122 84 3.228 1.747 1.481 43.467 11.503 31 964 1976 3.250 3.300 48.400 9.900 38 500 78 Trâu (con) Bò (con) Lơn (con) Tổng só HTX Hộ gia dinh Tổng số HTX Hộ gia dinh Tổng số HTX Hộ gia đình 1977 3200 3.300 33.200 4 700 28.500 1978 2.900 3.400 35.800 5.600 30.200 1979 3.300 3.600 39.100 6.400 32.700 1980 3.200 3.600 34.700 2.600 32.100 1981 3.200 4.400 35.500 2.400 33.100 Nguồn: Chi cục Thống kê Hà Nội (1976), tr.380 - 390; (1982), tr.93 - 95. Trong các vật nuôi chủ yếu để cung cấp sức kéo cho nông thôn (trâu, bò) và cung cấp thực phẩm cho nội thành (lợn), nói chung sô" lượng lên, xuống th ất thường, không đảm bảo chỉ tiêu, kế hoạch hàng năm. Các loại trâu, bò thì chăn nuôi của tập thể là chính. Bình quân sô" đầu lợn trên 1 ha gieo trồng đạt: 2 con/ha/năm 1970; 2,7 con/ha/năm 1975; 2 con/ha/năm 1978 (kém bình quân của ngoại thành). Trọng lượng bình quân đầu lợn xuất chuồng thấp, năm 1970 đạt trung bình 32 kg/con (kém bình quân của ngoại thành: đạt trên 40 kg/con). Riêng sô" đầu lợn tập thể ngày một giảm mạnh còn chăn nuôi lợn của hộ gia đình ngược lại càng phát triển. Điều này phản ánh thực tế về sự chuyển biến trong nhận thức của chính quyền: giảm bớt tập thể hoá công việc chăn nuôi (kém hiệu quả), và đê cho các hộ gia đình được tự do chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm. Các loại gia cầm, từ năm 1960 - 1977, mỗi năm Gia Lâm nuôi được khoảng trên 200 nghìn con, từ năm 1970 79 trở đi, chủ yếu là do các hộ gia đình chăn thả, không thấy có sô liệu thống kê của HTX. ở Gia Lâm, sản xuất nông nghiệp chủ yếu theo 2 vụ: đông xuân và hè thu; vụ đông chưa được chú ý ph át triển. Thòi gian này, những biện pháp kỹ th u ật như xử lý giống, bình chọn cây trồng, vật nuôi bắt đầu được chú ý nên đã đạt được những thành quả nhất định. Ví dụ: đã cải tạo giống lúa có năng suất cao và ngắn ngày đưa vào 2 vụ chính để tăng thêm một vụ đông và vụ hè thu; giống lúa chiêm dài ngày năng suất thấp (1,4 - 1,8 tấn/ha/vụ), khó thích nghi vối thời tiết khắc nghiệt của mùa lạnh, dần được thay bằng giống lúa xuân ngắn ngày, cho năng suất cao (giông lúa Nông nghiệp 8 có thể đạt tới 3,8 tấn/ha/vụ). Vụ mùa có thêm giống Nông nghiệp 22, năng suất đạt từ 2,8 - 3,1 tấn/ha/vụ. Vì thế, vào năm 1965, lần đầu tiên năng suất lúa đạt 5 tấn/ha/năm (2 vụ). Từ đó cho đến năm 1980, năng suất lúa trung bình đạt 5,1 tấn/ha/năm (xem bảng 1.2). Như vậy, suốt cả thời gian dài (15 năm), năng su ất lúa của Gia Lâm tăng không đáng kể, dao động trên dưối 5 tấn/ha/năm . Tuy vậy, so vối năng suất trung bình cả nước (4,5 tấn/ha/năm 1980), năng suất lúa của Gia Lâm cao hơn, nhưng thấp hơn một sô" tỉnh ở miền Bắc như: Hải Hưng, Thái Bình (năng su ất lúa của Thái Bình và Hải Hưng đạt 5,4 tấn/ha /năm 1980). Giá trị ngày công lao động của nông dân rấ t thấp có xu hướng giảm dần cuốỉ những năm 60. Giá trị sản 80 phẩm 1 công lao động làm ra (chưa khấu trừ chi phí) năm 1960 là 2,1 đ, năm 1970 còn 1,50 đ. Thu nhập bình quân hàng tháng của 1 lao động quy thành tiền từ 33 đ/tháng năm 1977 lên 38 đ/tháng năm 1979 (theo thời giá lúc đó). Lương thực tự túc bình quân đầu người duy trì ở mức 1 3 -1 4 kg/người/tháng1. Như vậy, trước năm 1981, cơ cấu nông nghiệp Gia Lâm bước đầu có sự chuyển dịch, nhưng không đáng kể, chưa thoát khỏi tình trạng thuần nông; vẫn mang đậm tính tự cấp, tự túc, nghiêng về trồng trọt, tỷ suất chăn nuôi so vối trồng trọt rấ t thấp. Cụ thể, tỷ trọng ngành trồng trọt chiếm từ 65 - 73% giá trị tổng sản lượng nông nghiệp; chăn nuôi và nghề phụ chiếm từ 27 - 35% giá trị tổng sản lượng. Trong trồng trọt, cây lương thực chiếm từ 70 - 75% về diện tích và giá trị tổng sản lượng tương ứng. Trong nhóm cây lương thực, ngoài lúa ra còn có ngô, khoai lang ... Cây trồng, vật nuôi nghèo nàn, phát triển theo hướng độc canh cây lúa của nền nông nghiệp truyền thống, năng su ất và giá trị thương phẩm của các loại nông sản thấp, ít sinh lợi. Chăn nuôi chưa được chú ý. Các HTXNN phổ biến vẫn là dong công phóng điểm, tháo khoán, phá định mức, sản xuất nông nghiệp phát triển chậm. Kê hoạch cung cấp lương thực, thực phẩm thiết yếu cho Nhà nưốc hàng quý, hàng năm thành phô" giao cho huyện thường không đạt. 1. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Gia Lâm (1996). Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Gia Lảm. Tập 2 (1954 - 1975). Nxb Hà Nội, tr.83. 81