🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kiến Thức Và Kỹ Năng Dành Cho Cán Bộ Dân Vận Cấp Cơ Sở Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH Biên tập nội dung: ThS. HOÀNG THỊ THU HƯỜNG TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ NGUYỄN MAI THẢO NHUNG Trình bày bìa: NGUYỄN MẠNH HÙNG Chế bản vi tính: PHẠM THU HÀ Đọc sách mẫu: THẢO NHUNG BÍCH LIỄU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2266-2021/CXBIPH/9-23/CTQG. Số quyết định xuất bản: 421-QĐ/NXBCTQG, ngày 29/6/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 7 năm 2021. Mã ISBN: 978-604-57-6894-5. Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam L−¬ng Träng Thµnh KiÕn thøc vµ kü n¨ng dµnh cho c¸n bé d©n vËn cÊp c¬ së / Ch.b.: L−¬ng Träng Thµnh, §ç Ph−¬ng Anh, Lª §×nh T−. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2021. - 280tr. ; 21cm ISBN 9786045765210 1. C«ng t¸c d©n vËn 2. C¸n bé c¬ së 3. LÝ luËn 4. KÜ n¨ng 324.2597075 - dc23 CTF0535p-CIP ĐỒNG CHỦ BIÊN TS. Lương Trọng Thành ThS. Đỗ Phương Anh ThS. Lê Đình Tư TẬP THỂ TÁC GIẢ TS. Lương Trọng Thành TS. Thịnh Văn Khoa ThS. Nguyễn Lam ThS. Đỗ Phương Anh ThS. Nguyễn Ngọc Thắng GVC. Đào Thị Kim Thanh ThS. Phạm Thị Hoài Thu ThS. Nguyễn Thị Hạnh GVC. Mai Thị Viện ThS. Nguyễn Thị Kiều Trang ThS. Lê Thị Hương ThS. Dương Thị Hằng ThS. Lê Đình Tư Lê Văn Trung Nguyễn Xuân Hải LỜI NHÀ XUẤT BẢN Dân vận và công tác dân vận là tư tưởng lớn, nét đặc sắc có ý nghĩa quan trọng trên con đường hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đặt vấn đề dân vận, công tác dân vận ở tầm chiến lược, quốc sách, đồng thời chú trọng tới phương pháp, cách thức thực hiện hết sức thiết thực cụ thể, chu đáo, tỉ mỉ. Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vì vậy, công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, mà trực tiếp nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận cấp cơ sở. Trong những năm qua, về cơ bản các cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên cấp cơ sở đã nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò của công tác dân vận. Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận cấp cơ sở đã kế thừa, phát huy truyền thống của các thế hệ đi trước, thường xuyên được bổ sung, tăng cường cả về số lượng và chất lượng; có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm, hiểu đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có khả năng tuyên truyền, vận động, gần gũi, gắn bó và quan tâm tìm hiểu, lắng nghe, nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động được đổi mới, sử dụng có hiệu quả các 5 phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội theo hướng thiết thực, với cách làm sáng tạo, hướng đến củng cố niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước, tạo sự đồng thuận cao. Song, dù có nhiều cố gắng vẫn còn không ít tình trạng cán bộ, công chức làm công tác dân vận nhưng quan liêu, xa dân, chưa thật sự tôn trọng, cầu thị, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của người dân, nhất là thiếu kỹ năng tuyên truyền, thuyết phục, xử lý những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn còn lúng túng, bị động, thiếu nhất quán, để kéo dài... dẫn đến công tác vận động nhân dân còn nhiều hạn chế. Nhằm cung cấp thêm tài liệu nghiên cứu cho cán bộ làm công tác dân vận nói chung, tài liệu giảng dạy cho học viên Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa nói riêng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Kiến thức và kỹ năng dành cho cán bộ dân vận cấp cơ sở do tập thể cán bộ, giảng viên Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa biên soạn. Cuốn sách trình bày một số vấn đề lý luận về công tác dân vận như: tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, công tác dân vận của chính quyền cơ sở,... và một số kỹ năng dân vận cơ bản dành cho cán bộ cấp cơ sở như: kỹ năng giao tiếp trong công tác dân vận; kỹ năng thu thập, xử lý thông tin của cán bộ làm công tác dân vận ở cơ sở; kỹ năng quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết; kỹ năng tư vấn, hỗ trợ pháp lý cho nhân dân; kỹ năng tuyên truyền, thuyết phục;... Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình biên soạn, biên tập, xuất bản, song nội dung cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến góp ý của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 3 năm 2021 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 Phần thứ nhất MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN 7 8 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN I- DÂN VÀ DÂN VẬN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1. Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân là sự kế thừa và phát triển sáng tạo tinh hoa dân tộc nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin, về quần chúng nhân dân. Là nhà cách mạng chuyên nghiệp, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”1. Theo Hồ Chí Minh, thắng lợi của cách mạng không chỉ cần công nông là gốc mà phải có “bầu bạn của công nông” và “cả dân chúng”. Ngay từ những văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (tháng 02/1930), Hồ Chí Minh đã cho rằng bầu bạn của công nông bao gồm: tiểu tư sản, trí thức, thanh niên, học sinh, binh lính, trung địa chủ, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc và các cá nhân yêu nước. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.283. 9 Trong bài Kính cáo đồng bào (năm 1941), khái niệm dân chúng được mở rộng hơn gồm: Công nhân, nông dân, các bậc phụ huynh, các hiển nhân chiến sĩ, thương gia, phú hào yêu nước, công chức, tiểu thương1. Có thể khẳng định, “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm tất cả những ai nhận mình là con dân nước Việt, con Lạc, cháu Hồng, con Rồng, cháu Tiên không phân biệt vùng, miền dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo sang hèn, giàu nghèo. Trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền núi tại Plâycu tháng 4/1946, Hồ Chí Minh nói rõ quan điểm của mình về dân: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Lai hay Êđê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”2. Những năm 50 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”3. 2. Dân vận trong tư tưởng Hồ Chí Minh 2.1. Khái niệm dân vận Trong hoạt động lý luận, rất nhiều lần Hồ Chí Minh đề cập đến công tác dân vận. Qua đó, Người làm rõ quan niệm của mình về dân vận. Trong tác phẩm Dân vận, khái _______________ 1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.229-231. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.249. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.264. 10 niệm dân vận đã được Hồ Chí Minh trình bày một cách ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu và mang tính khái quát rất cao: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”1. Quan niệm của Hồ Chí Minh nêu rõ ba vấn đề về dân vận: Thứ nhất, công tác dân vận nhằm huy động tất cả lực lượng của mỗi người dân vào sự nghiệp xây dựng hình ảnh và bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng của mỗi người được tạo nên bởi nhiều nhân tố: đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực, sức lực và trí tuệ, tinh thần và vật chất. Hồ Chí Minh đòi hỏi công tác dân vận không chỉ dừng lại ở việc vận động, tuyên truyền giáo dục chung chung, mà phải đi sâu tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của từng người dân. Chỉ có như vậy mới động viên, phát huy được tính tích cực, sáng tạo của mỗi người, biến tiềm năng, khả năng của họ trở thành hiện thực. Có thể coi đây là chiều sâu của công tác dân vận. Phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải phát huy đến mức cao nhất nhân tố con người, nguồn lực con người. Đó là con người có lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc và dân tộc, phát triển về trí tuệ, thể chất và có đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232. 11 Thứ hai, công tác dân vận phải huy động lực lượng của tất cả mọi người, “không để sót một người dân nào”. Chỉ có như vậy mới có thể xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đánh thắng hai đế quốc to lớn là Pháp và Mỹ, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có thể coi đây là bề rộng của công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thứ ba, dân vận là vận động quần chúng nhân dân làm cách mạng, “Đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”1. Theo Hồ Chí Minh, dân vận là vận động toàn dân và mỗi người đem đức và tài, sức lực và của cải, để thực hành những việc nên làm từ xây dựng, giữ gìn, bảo vệ thôn, bản, phum, sóc đến kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quan điểm “không để sót một người dân nào” do Hồ Chí Minh nêu lên vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải tập hợp được tất cả mọi người Việt Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài trong Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. 2.2. Vị trí, vai trò của công tác dân vận Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng sức mạnh của quần chúng chỉ có thể lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, giải phóng dân tộc, giải phóng chính mình khi được tổ chức, dẫn dắt bởi một Đảng tiền phong. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.81. 12 Ý thức sâu sắc được điều đó nên vấn đề dân vận, vận động quần chúng tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, chấn hưng đất nước được Hồ Chí Minh đặt ra từ rất sớm. Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã đặt cho mình nhiệm vụ trọng tâm là vận động dân chúng. Năm 1923 trong Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp, Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề cơ bản của công tác dân vận: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”1. Tiếp đó, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người chỉ rõ: cách mạng trước hết cần có Đảng, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là: “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”2. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, công tác dân vận được Hồ Chí Minh đặt ra một cách thường xuyên, cấp bách hơn. Có thể nói, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận dân vận đạt tới đỉnh cao thể hiện qua tác phẩm Dân vận do Người viết ngày 15/10/1949. Tác phẩm chỉ có 600 chữ nhưng hàm chứa rất nhiều ý nghĩa và nội dung truyền tải, biểu cảm đầy đủ, sâu sắc tư tưởng và triết lý Hồ Chí Minh và Dân vận trở thành tác phẩm kinh điển về vận động quần chúng. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.209. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289. 13 Tháng 3/1947, dưới bút danh Tân Sinh, Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đời sống mới. Trong tác phẩm này, Hồ Chí Minh đặt vấn đề thực hành đời sống mới là đòi hỏi cấp bách của cuộc kháng chiến kiến quốc. Tuy vậy, việc thực hành đời sống mới đã gặp những lực cản, một trong số đó là nhiều cán bộ không biết làm dân vận, vi phạm các quyền công dân, điển hình là việc vận động nhân dân đi học chữ quốc ngữ để thúc đẩy phong trào. Một số nơi đã áp dụng các hình phạt, kể cả việc phạt tiền những ai không đi học, thậm chí có nơi còn lấy mực vẽ lên miệng những người qua đường không biết chữ. Hồ Chí Minh kết luận: “Như thế là “tếu”. Làm như vậy, chỉ được người ta oán ghét, chứ không ích gì”1. Đặc biệt tháng 10/1947, nghĩa là trước khi tác phẩm Dân vận ra đời, Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Trong tác phẩm này, Người nêu rõ, cần phải sửa ngay trong các tổ chức, cách làm dân vận, còn nhiều biểu hiện quan liêu, xa rời dân chúng, nhiều cán bộ áp đặt ý muốn chủ quan của mình đối với dân chúng. Hồ Chí Minh gọi đó là những người làm việc theo lối “khoét chân cho vừa giày”. Chân là quần chúng, giày là cách tổ chức, cách làm việc của cán bộ. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh còn nói tới một hạng người chỉ biết nói suông, chỉ biết cho ý kiến chỉ thị, không kịp thời nắm bắt các hoạt động, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của nhân dân. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.127. 14 Câu đầu tiên trong tác phẩm Dân vận, Hồ Chí Minh đã viết: “Vấn đề Dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại”1. Người viết: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”2. Từ đó, Hồ Chí Minh phê phán những cán bộ, đảng viên “khinh việc dân vận”. Người gọi đây là khuyết điểm to cần phải sửa chữa, khắc phục ngay. Thực tế cho thấy, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã dồn nhiều công sức, trí tuệ cho một công việc to lớn, hệ trọng là vận động, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh cho tự do, độc lập. II- NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN 1. Quy trình của công tác dân vận Theo Từ điển tiếng Việt, quy trình là trình tự phải tuân theo để tiến hành một công việc nào đó3. Mỗi lĩnh vực công tác đòi hỏi phải tuân theo một quy trình mamg tính đặc thù. Quy trình của công tác dân vận được Hồ Chí Minh chỉ ra như sau: “Trước nhất là phải tìm mọi _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232, 234. 3. Xem Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, 2005, tr.813. 15 cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình khen thưởng”1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, từ thực tiễn đổi mới công tác dân vận ở địa phương, Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) chính thức khẳng định quy trình công tác dân vận là: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”2. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quy trình của công tác dân vận gồm bốn bước sau: 1.1. Giải trình cho dân hiểu rõ quyền lợi và nhiệm vụ của dân (dân biết) Dân biết là khâu đầu tiên của quy trình dân vận và cũng là khâu đầu tiên thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Trong bài Dân vận, vấn đề đầu tiên mà Hồ Chí Minh _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.233. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, t.60, tr.215. 16 nhận thấy cần phải nhắc lại là: Nước ta là nước dân chủ. Dân là chủ, vì vậy họ phải biết được những điều mà người chủ cần biết. Theo Người, dân ta rất thông minh, “Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng”1. Do đó, Đảng, Nhà nước cần tin tưởng, cung cấp thông tin cho nhân dân, tránh tình trạng bưng bít, che giấu. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong điều kiện hiện nay, Điều 5 Pháp lệnh thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 quy định chính quyền địa phương có trách nhiệm thông tin kịp thời và công khai để nhân dân biết những công việc chính sau: - Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã. - Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã. - Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân. - Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.333. 17 - Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế. - Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã. - Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã. - Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007. - Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu. - Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện. - Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết. 18 1.2. Bàn bạc với dân, hỏi ý kiến kinh nghiệm của dân (dân bàn) Dân biết và dân bàn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người dân chỉ bàn những điều họ biết, không thể bàn những gì chưa biết hoặc không biết. Theo Hồ Chí Minh có hai cách làm việc với dân chúng: Thứ nhất, làm việc theo cách quan liêu. Nghĩa là cái gì cũng được mệnh lệnh, ép dân làm, đóng cửa mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào dân chúng, bắt dân chúng theo. Thứ hai, làm theo cách quần chúng: việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc, giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Muốn dân chúng thành thật bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải chịu khó, phải khéo khơi cho họ nói”1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tế cơ sở, Điều 11 Pháp lệnh thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 quy định: Nhân dân ở xã, thôn, làng, ấp, bản, bàn và quyết định trực tiếp những công việc chủ yếu sau: - Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp những nội dung quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh bằng một trong các hình thức sau đây: + Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.335. 19 + Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình. - Trường hợp tổ chức họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình thì việc biểu quyết được thực hiện bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín; hình thức biểu quyết do hội nghị quyết định; nếu số người tán thành chưa đạt quá 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố hoặc trong toàn cấp xã thì tổ chức lại cuộc họp. - Trường hợp không tổ chức lại được cuộc họp thì phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình. 1.3. Động viên và tổ chức toàn dân thi hành (dân làm) Sau khi dân đã biết, đã bàn đi đến thống nhất, Hồ Chí Minh chỉ rõ khâu tiếp theo của công tác dân vận là “cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành”1. Đây là khâu tổ chức phong trào quần chúng hành động dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước để thực hiện “những công việc nên làm” về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Vấn đề quan trọng đặt ra khi thực hiện “dân làm” là phân phối kết quả lao động, bảo đảm công bằng. Hồ Chí Minh căn dặn: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”2. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.233. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.224. 20 Dân biết, dân bàn và dân làm có quan hệ khăng khít với nhau. Chỉ khi dân được biết, được bàn bạc, dân chủ đi đến thống nhất thì làm mới đạt kết quả cao. Hồ Chí Minh phê phán những cán bộ không bàn bạc, không hỏi ý kiến dân, không để dân chúng phát biểu ý kiến, bắt dân chúng làm theo mệnh lệnh cá nhân. Vì vậy, dù việc đó có lợi cho dân chúng, họ cũng không làm đến nơi, đến chốn và dù “có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại”1. Để “dân làm” cần đề phòng hai khuynh hướng: - Buông lỏng lãnh đạo, quản lý để dân làm một cách tự phát. - Quan liêu, độc đoán, hạn chế thấp chỉ tiêu, tính độc lập, sáng tạo của dân. 1.4. Cùng với dân kiểm thảo rút kinh nghiệm phê bình khen thưởng (dân kiểm tra) Đây là khâu cuối cùng của quy trình dân vận. Theo Từ điển tiếng Việt, kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét2. Dân kiểm tra là dân xem xét những việc dân đã biết, đã bàn, đã làm, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách đối với nhân dân của cán bộ Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Hồ Chí Minh không chỉ đặt vấn đề Đảng, Nhà nước phải đặc biệt coi trọng việc kiểm tra đảng viên, cán bộ, _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.333. 2. Xem Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr.523. 21 công chức và quần chúng nhân dân, Người còn đòi hỏi nhân dân cần tích cực tham gia kiểm tra Đảng. Từ năm 1953, Hồ Chí Minh đã cho rằng trừ một số việc thật là nội bộ không đưa ra ngoài còn lại “Đảng có thể công khai triệt để”1. Khi khai hội, Đảng sẽ mời anh em ngoài, tham gia phát biểu phê bình. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Làm như vậy thì: - Một mặt trong Đảng kiểm tra đôn đốc; - Một mặt có anh em ngoài kiểm tra đôn đốc. Như thế đảng viên và cán bộ ngoài Đảng cùng được giáo dục”2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Điều 29 Pháp lệnh thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 quy định những việc nhân dân ở xã giám sát kiểm tra gồm có: - Nhân dân thực hiện việc giám sát thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Trình tự, thủ tục hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng được thực hiện theo quy định của pháp luật. - Nhân dân trực tiếp thực hiện việc giám sát thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.59. 22 cấp xã, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật. 2. Lực lượng phụ trách công tác dân vận 2.1. Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân phải phụ trách công tác dân vận Thực chất của công tác dân vận là xác lập mối quan hệ chặt chẽ giữa hệ thống chính trị (Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân) với dân. Để đạt được mục tiêu đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh...) đều phải phụ trách dân vận”1. Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ví như cái máy phát điện, các công việc trên ví như những ngọn đèn, máy mạnh thì đèn sáng”. Đảng “phụ trách dân vận” không chỉ thông qua việc đề ra chủ trương, đường lối dân vận, mà còn qua kiểm tra việc thực hiện công tác dân vận. Theo Hồ Chí Minh, những ưu điểm và khuyết điểm trong công tác dân vận đều quan hệ chặt chẽ với quá trình kiểm tra của Đảng. _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.233, 15. 23 Trong Thư gửi Hội nghị nông vận và dân vận toàn quốc, tháng 02/1953, Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng và Chính phủ đề ra chính sách ruộng đất đã lâu, nhưng đến nay chính sách ấy vẫn chưa được thực hiện triệt để, nông dân vẫn chưa có ruộng cày. Người nhấn mạnh: “Khuyết điểm ấy, một phần là do Trung ương đôn đốc, kiểm tra không chặt chẽ”1. Vấn đề cơ bản của các cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền nhà nước. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giành lại chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước kiểu mới xuất hiện đặt ra hàng loạt yêu cầu, trong đó công tác dân vận giữ vị trí cực kỳ quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của Nhà nước. Hồ Chí Minh khẳng định, nước ta là nước dân chủ, nước lấy dân làm gốc. Điều đó có nghĩa là dân vận là yêu cầu khách quan không thể thiếu, là thuộc tính của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Muốn duy trì chế độ dân chủ cộng hòa, Nhà nước phải đặc biệt coi trọng việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với nhân dân ở tất cả các cấp, trên mọi lĩnh vực của đời sống theo nguyên tắc dân là chủ, dân làm chủ. Ý thức sâu sắc “việc dân vận rất quan trọng” nên Hồ Chí Minh rất nghiêm khắc trước những thiếu sót, sai lầm trong công tác dân vận của chính quyền và cán bộ các cấp. Giữa năm 1950, sau khi nghe thanh tra báo cáo một số _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.42. 24 nơi ở Liên khu IV xảy ra tình trạng cán bộ “ép uổng, cưỡng bức bắt báo dân”, Người đã gửi thư tới đồng bào Liên khu. Trong thư, Người thành thật xin lỗi đồng bào và “thật thà tự phê bình khuyết điểm của tôi - là giáo dục và lựa chọn cán bộ chưa được chu đáo. Các cấp liên khu và tỉnh cũng phải chịu một phần trách nhiệm vì thiếu sót sự kiểm tra chặt chẽ các cán bộ cấp dưới”1. Đặc biệt, trên đầu bức thư Người còn viết: “Thư này phải đưa đọc tận các xã trong Liên khu, trước hết tại các xã đã xảy ra những việc ép uổng dân... Khi đọc khắp rồi, phải báo cáo dư luận của đồng bào thế nào”2. Trước những thiếu sót, khuyết điểm trong công tác dân vận của các cấp chính quyền trên cơ sở. Trong Thư gửi đồng bào Liên khu IV ngày 22/7/1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị về việc kiểm thảo để sửa đổi nền nếp vận động nhân dân theo thư Hồ Chủ tịch. Sự kiện trên đây cho thấy sự quan tâm sâu sắc của Hồ Chí Minh và Đảng ta đối với công tác dân vận nói chung, công tác dân vận của các cấp chính quyền nói riêng. Các đoàn thể nhân dân đóng vai trò quan trọng đối với công tác dân vận. Cùng với việc thành lập Đảng, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc thành lập các tổ chức đoàn thể nhân dân. Điều này thể hiện rõ từ năm 1941 khi Người về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.397, 396. 25 Năm 1941, Người thành lập Mặt trận Việt Minh, Người chỉ rõ: “Có mười chính sách bày ra Một là ích nước, hai là lợi dân”1. Mười chính sách của Việt Minh thực sự có sức lôi cuốn tất cả mọi người dân Việt Nam, không bỏ sót một người nào, tập hợp nhau lại dưới ngọn cờ đại nghĩa Hồ Chí Minh. Để phù hợp với hoàn cảnh thực tế, trong quá trình cách mạng, tổ chức và tên gọi các đoàn thể nhân dân có sự thay đổi, nhưng vị trí, vai trò của nó đối với cách mạng và công tác dân vận ngày càng được củng cố, tăng cường. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, như: Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, v.v.. Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ”2. Người cho rằng, trong công tác dân vận, một mặt cần có sự phân biệt giữa Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân; mặt khác phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức ấy. Người dạy: “Phát động quần chúng không phải như lửa rơm, đốt cháy bùng lên rồi tắt ngay”3. Đó là công việc rất quan trọng và rất phức tạp, cho nên phải _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.242. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.397. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.47. 26 chuẩn bị kỹ càng, phải có phương châm rõ ràng, kế hoạch đầy đủ, cách làm chắc chắn. Vì vậy, Đảng, chính quyền, Mặt trận phải cùng nhau bàn bạc kỹ lưỡng, phân công rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân chúng hiểu, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức, khuyến khích, động viên dân làm, theo dõi, giúp đỡ dân tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. 2.2. Cán bộ phụ trách công tác dân vận Theo Hồ Chí Minh, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”1, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”2, có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Do đó, thành công hay thất bại của dân vận xét đến cùng là do đội ngũ cán bộ làm công tác này quyết định. Hồ Chí Minh cho rằng, đội ngũ cán bộ cần có tính chuyên nghiệp cao. Người viết: “Vô luận ở quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tổ chức, tuyên truyền, công an v.v. cán bộ ở môn nào phải học cho thạo công việc ở trong môn ấy”3. Hồ Chí Minh đòi hỏi các cơ quan huấn luyện cán bộ “phải liên lạc mật thiết với các cơ quan tuyên truyền, dân vận, chính quyền. Huấn luyện cán bộ là cốt để cung cấp cán bộ cho các ngành công tác: Đoàn thể, Mặt trận Chính quyền, Quân đội. Các ngành công như là người tiêu thụ hàng”4. _______________ 1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.309, 280, 310. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.358. 27 Do đó, ngoài yêu cầu, tiêu chuẩn chung, tùy theo đặc điểm chuyên môn, nghề nghiệp, mỗi loại cán bộ có những yêu cầu, tiêu chuẩn riêng. Đối với cán bộ dân vận, trước hết Hồ Chí Minh đòi hỏi: “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”1. Người đặc biệt nhấn mạnh: “phải thật thà nhúng tay vào việc”2. Có nghĩa là người cán bộ dân vận phải cùng lao động, sản xuất, chiến đấu với dân. Khi đã thực sự cùng làm việc với nhân dân, người cán bộ không chỉ hòa mình vào dân, hiểu được niềm vui, nỗi buồn của dân, mà còn trực tiếp góp phần vào việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Một yêu cầu mang tính nguyên tắc đối với người phụ trách công tác dân vận là phải sâu sát thực tế, gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đi nhắc lại luận điểm công tác dân vận phải gắn chặt với dân chúng, lắng nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng, nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Ngược lại, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nghĩa là một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng”3. Những đòi hỏi về tiêu chuẩn và _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.233-234, 234. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.325. 28 phong cách của người phụ trách công tác dân vận do Hồ Chí Minh nêu lên, vẫn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của người cán bộ dân vận trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay. III- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI 1. Thực trạng công tác dân vận trong những năm đổi mới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng - Đại hội đổi mới xuất phát từ thực tiễn đất nước rút ra một số bài học, trong đó có bài học hàng đầu là: “Một, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”1. Nhận thức sâu sắc công tác vận động quần chúng là cực kỳ quan trọng và có ý nghĩa chiến lược, nên trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những nghị quyết, chỉ thị chuyên về công tác dân vận. Đó là Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VI về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân; Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.549. 29 khóa VI về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi; Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị khóa VIII về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới... Chủ trương, đường lối dân vận trong các nghị quyết, chỉ thị nói trên đã tạo nên những thành tựu nổi bật của công tác dân vận: - Thời gian qua, công tác dân vận của cả hệ thống chính trị được triển khai với nhiều nội dung và hình thức phong phú, thiết thực như: phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Xóa đói, giảm nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư”, “Thi đua làm kinh tế giỏi, làm giàu cho gia đình, cho đất nước”... đã góp phần đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Do nội dung hoạt động sát thực tế, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nên việc tập hợp quần chúng và các tổ chức của hệ thống dân vận tăng lên. - Sự phối hợp giữa Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân trong công tác dân vận được chú trọng và tăng cường. 30 - Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ phụ trách công tác dân vận ở các cấp, các ngành được củng cố, tăng cường, tính chuyên nghiệp được coi trọng. “... trong phạm vi toàn quốc 100% các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cán bộ dân vận đã được tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo”1. Tinh thần, trách nhiệm, tác phong công tác, lề lối làm việc của số đông cán bộ dân vận có chuyển biến theo hướng gắn bó với dân hơn. Tuy vậy, công tác dân vận thời gian qua vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót cần khắc phục: - Công tác chỉ đạo, lãnh đạo của hệ thống dân vận chưa thực sự đổi mới, bộ máy tổ chức và chất lượng cán bộ dân vận so với yêu cầu vẫn còn bất cập. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức làm công tác dân vận chưa sâu sát, gắn bó, gương mẫu trước nhân dân. - Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. - Một số địa phương, cơ sở xuất hiện những điểm nóng, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Một vài khu vực địa bàn như Tây Nguyên, Tây Bắc còn tiềm ẩn sự mất ổn định. _______________ 1. Tòng Thị Phóng: “Năm nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân vận”, tạp chí Dân vận, số 3-2005, tr.7. 31 2. Công tác dân vận trong những năm tới Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực trạng công tác dân vận trong thời gian qua, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân... Phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1, trong thời gian tới các cấp ủy đảng và cả hệ thống chính trị cần tập trung thực hiện những giải pháp sau: - Coi trọng, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. - Đổi mới toàn diện, đồng bộ hệ thống dân vận: từ tổ chức bộ máy đến công tác cán bộ, từ chế độ, chính sách đến lề lối, phong cách của người làm công tác dân vận. - Hướng mạnh, dồn sức cho cơ sở, tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc ở vùng dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo, trong đó Tây Nguyên là một trọng điểm. _______________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.49-50. 32 - Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận dân vận, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Tăng cường hơn nữa cuộc đấu tranh chống những lực lượng, những phần tử lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng gây bạo loạn chính trị, mất đoàn kết và trật tự an toàn xã hội. 33 CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ 1. Một số khái niệm 1.1. Khái niệm công tác dân vận Công tác dân vận có vai trò quan trọng trong mọi thời kỳ cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”1. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác dân vận là vận động nhân dân làm cách mạng. Toàn Đảng phải làm công tác dân vận, phụ trách công tác dân vận và chịu trách nhiệm cao nhất đối với công tác này, bởi Đảng có trọng trách lãnh đạo và cầm quyền. Người nhấn mạnh, công tác dân vận không phải là nhiệm vụ của riêng một cá nhân cán bộ, đảng viên hay tổ chức nào. Nghĩa là, mọi cấp chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, công chức, _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234. 34 viên chức, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đều phải có trách nhiệm, thường xuyên làm công tác dân vận. Công tác dân vận là toàn bộ hoạt động của Đảng nhằm vận động, thuyết phục, tập hợp, hướng dẫn mọi tầng lớp nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Thông qua công tác dân vận làm tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Trong điều kiện Đảng cầm quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội, mối liên hệ đó được thể hiện bằng đường lối, chính sách của Đảng và việc thực hiện đường lối, chính sách đó thông qua Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; thông qua các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội và tổ chức đảng. Mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân là một tất yếu khách quan để giành thắng lợi của cách mạng. Công tác dân vận không phải chỉ chú ý đến việc an dân mà quan trọng hơn là phải có giải pháp để phát huy sức mạnh của nhân dân. Không những phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, xây dựng đoàn kết và sự đồng thuận trong nhân dân mà còn phải chăm lo tìm các giải pháp động viên, bảo đảm quyền làm chủ, phát huy các tiềm năng, sức mạnh trí tuệ sáng tạo, sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, dựa vào dân để thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị. Tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy 35 sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân vận phải được phân công rõ trách nhiệm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị. Khi bàn tới công tác dân vận phải bàn tới đối tượng dân vận và ai làm công tác dân vận? Phân công trách nhiệm thế nào? Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã chỉ rõ: Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ, lực lượng vũ trang; trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu, nòng cốt. Từ đó, có thể hiểu: Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ, lực lượng vũ trang nhằm vận động, thuyết phục, tập hợp, hướng dẫn mọi tầng lớp nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối, nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. 1.2. Khái niệm chính quyền cơ sở Trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn là cấp cơ sở, cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở nước ta. Chính quyền cơ sở bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã). Hội đồng 36 nhân dân cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Ủy ban nhân dân ở cấp xã do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. 1.3. Công tác dân vận của chính quyền cơ sở Công tác dân vận của chính quyền cơ sở là việc cán bộ, công chức của chính quyền cơ sở vận động, thuyết phục, tập hợp, hướng dẫn nhân dân địa phương thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các văn bản pháp luật của chính quyền cùng cấp, đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân địa phương. 2. Sự cần thiết làm công tác dân vận của chính quyền cơ sở - Xuất phát từ vị trí, vai trò của chính quyền cơ sở trong hệ thống chính trị. Chính quyền nhà nước là một tổ chức của hệ thống chính trị của nước ta, có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội 37 chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, trong đó Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không chỉ có Đảng, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân làm công tác dân vận theo chức trách và nhiệm vụ của mình mà chính quyền nhà nước từ Trung ương đến cơ sở cũng phải làm công tác dân vận. Đảng lãnh đạo công tác dân vận chủ yếu bằng chủ trương, đường lối; nhưng có chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân vận chưa đủ mà còn phải có chính quyền đủ năng lực và biết cách làm dân vận mới có thể biến chủ trương, đường lối đó thành hiện thực. Thực tế, chính quyền nhà nước các cấp có đủ điều kiện để tổ chức, triển khai thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng về công tác dân vận. Vì vậy, trong toàn bộ hoạt động của mình, các cơ quan nhà nước phải làm công tác dân vận. Hơn nữa, chính quyền cơ sở là nơi trực tiếp triển khai, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp giải quyết công việc hằng ngày cho công dân, đồng thời cũng là nơi trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân địa phương. Trong quá trình hoạt động của chính quyền cơ sở, cán bộ, công chức phải vì nhân dân và lấy việc phục vụ38 nhân dân làm nhiệm vụ hàng đầu, giải quyết nhanh chóng mọi công việc có quan hệ trực tiếp đến đời sống nhân dân đảm bảo đúng chính sách, pháp luật. - Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhà nước ta thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân và của toàn dân tộc Việt Nam. Điều đó thể hiện ở chỗ bộ máy nhà nước ta do nhân dân lập ra để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Hoạt động của Nhà nước nhằm mang lại lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và dựa vào dân để thực hiện chức năng quản lý toàn diện tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Bản chất xã hội chủ nghĩa của Nhà nước tự nó quy định các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phải tôn trọng dân, hiểu dân, phải biết tuyên truyền, vận động dân ủng hộ chính quyền. Nghĩa là chính quyền nhà nước phải làm công tác dân vận, đó là nhu cầu tất yếu của chính quyền. Mặt khác, Điều 3 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; 39 thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Để thực hiện chức trách, nhiệm vụ trên, Nhà nước ta phải tiến hành công tác vận động quần chúng, trong đó có chính quyền cơ sở. Thông qua hoạt động của mình, chính quyền cơ sở thực hiện “chức năng kép”, vừa quản lý, điều hành xã hội theo pháp luật, vừa vận động nhân dân, kịp thời phát hiện những thiếu sót, bất cập trong chủ trương, chính sách để đề xuất bổ sung, sửa đổi. 3. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền cơ sở Điều 113 và Điều 114, Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng của chính quyền địa phương như sau: - Hội đồng nhân dân có hai chức năng là: quyết định các vấn đề của địa phương do luật định và chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân. - Ủy ban nhân dân có chức năng tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao. Theo quy định tại Điều 112 Hiến pháp năm 2013; các Điều 31, 59 và 66 Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019) sau đây gọi 40 là Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, chính quyền cấp xã có các nhiệm vụ, quyền hạn sau: - Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn cấp xã. - Quyết định những vấn đề của cấp xã trong phạm vi được phân quyền, phân cấp theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và quy định khác của pháp luật có liên quan. - Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền. - Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương cấp huyện về kết quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp xã. - Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn cấp xã. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ là cơ sở để xác định nội dung và phương thức công tác dân vận của chính quyền cơ sở. Công tác dân vận là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, của các cấp chính quyền nhưng nội dung và phương thức thực hiện dân vận của chính quyền cơ sở khác với các tổ chức khác và khác với chính quyền cấp trên. Dân vận là vận động tất cả mọi người dân nhưng không phải vận động chung chung mà phải gắn với nội dung cụ thể, không nằm ngoài chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định. 41 II- NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ 1. Nội dung công tác dân vận của chính quyền cơ sở * Trong lĩnh vực chính trị - Tổ chức vận động và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, thông qua các hoạt động bầu cử; đại diện nhân dân các dân tộc phải được tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Chính quyền cơ sở phải là nơi thể hiện được tiếng nói, tâm tư, nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân, thể hiện được khối đại đoàn kết toàn dân. - Tổ chức, triển khai, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của địa phương, đặc biệt quan tâm đến đồng bào dân tộc thiểu số. - Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện bảo đảm phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, trực tiếp bàn bạc và làm những công việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; kiểm tra, giám sát một cách có hiệu quả các hoạt động của cơ quan và tổ chức ở cơ sở. Xây dựng quy ước, hương ước phù hợp với phong tục, tập quán của địa phương. - Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, làm tốt công tác phát triển đảng ở cơ sở, đảm bảo mọi thôn, bản đều có đảng viên, xã có chi bộ hoặc đảng bộ cơ sở. 42 - Tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhằm thu hút, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, hoạt động phải gắn các phong trào thi đua yêu nước với việc khai thác những chương trình kinh tế - xã hội, thông qua đó, góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế của địa phương. * Trong lĩnh vực kinh tế - Thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội; chăm lo cho các đối tượng chính sách, đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, khu vực đặc biệt khó khăn. - Chú trọng phát triển kinh tế mũi nhọn, phù hợp với đặc điểm của địa phương; thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước; phối hợp với các cơ quan chức năng đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt ở vùng dân tộc; tổ chức thực hiện tốt công tác vận động định canh, định cư và phân bổ lại dân cư theo quy hoạch phát triển bền vững. - Chính quyền cơ sở cần khuyến khích trợ giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định hướng phát triển các ngành, nghề có thể khai thác và phát huy thế mạnh về lao động, vật tư tại chỗ cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Thực hiện chuyển giao kỹ thuật, công nghệ sản xuất, bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường cho người lao động. Một mặt khuyến khích làm giàu chính đáng, 43 mặt khác có biện pháp kiên quyết, kịp thời đối với những vi phạm trong sản xuất, kinh doanh làm tổn hại đến sản xuất, môi trường, sức khỏe... của nhân dân. Quản lý và phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, ưu tiên những khu vực, địa bàn mà điều kiện sản xuất khó khăn, những đối tượng gia đình chính sách. * Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội Đối với việc phát triển văn hóa, giáo dục, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, nhiệm vụ công tác dân vận của chính quyền cơ sở cần tập trung thực hiện một số nội dung sau: - Ưu tiên đầu tư kinh phí, tranh thủ sự trợ giúp của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn để xây dựng hạ tầng cơ sở phục vụ phát triển văn hóa, giáo dục. Thực hiện xã hội hóa giáo dục, khuyến khích và trợ giúp các hoạt động khuyến học, khuyến tài của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, gia đình, dòng họ trên địa bàn dân cư. Có các biện pháp giúp đỡ các đối tượng chính sách, các hộ gia đình nghèo, giúp mọi trẻ em trong độ tuổi đều được đến trường, mọi người dân có cơ hội được xóa mù chữ và phổ cập giáo dục. - Có các biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp ở địa phương. Thông qua các sinh hoạt văn hóa truyền thống giáo dục thế hệ trẻ tình yêu, lòng tự hào với quê hương, đất nước, từ đó định hướng lựa chọn ngành, nghề giúp xây dựng địa phương trong tương lai. Cùng với việc giữ gìn, phát huy văn hóa truyền thống cần quản lý chặt chẽ các hoạt động 44 văn hóa trên địa bàn, kiên quyết ngăn chặn các tệ nạn xã hội: xóa bỏ các tụ điểm buôn bán ma túy, sản xuất kinh doanh các sản phẩm văn hóa đồi trụy, nạn mê tín dị doan, tuyên truyền đạo trái phép, v.v.. - Tập trung giải quyết việc làm nâng cao thu nhập, thực hiện xóa đói, giảm nghèo cải thiện từng bước đời sống của đại bộ phận nhân dân ở cơ sở. Để giải quyết việc làm cần hướng trọng tâm chỉ đạo vào chuyển đổi cơ cấu sản xuất, tạo thêm các ngành, nghề mới, khôi phục và phát huy các nghề truyền thống, khuyến khích các mô hình sản xuất kinh doanh thu hút nhiều việc làm. Để xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả, chính quyền cơ sở cần chủ động phối hợp các đoàn thể, cùng các đoàn thể bàn cách giải quyết. Có thể giao một số dự án về xóa đói, giảm nghèo cho các đoàn thể đảm nhiệm, nhưng không được “khoán trắng” cho đoàn thể bởi khả năng và điều kiện xóa đói, giảm nghèo trước hết và chủ yếu thuộc về chính quyền. Vận động nhân dân tham gia xã hội hóa giáo dục, đẩy mạnh việc xóa mù chữ, phấn đấu đạt trình độ biết chữ, biết đọc, biết viết. Tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao kiến thức khoa học, kỹ thuật, chủ yếu là khuyến nông, khuyến lâm và cách làm ăn mới. - Vận động nhân dân thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, như “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”...; xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, bài trừ mê tín dị đoan, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. 45 - Thực hiện tốt chế độ, chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước: chính sách đối với người có công với cách mạng, gia đình thương binh, liệt sĩ... * Trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng - Về quốc phòng - an ninh, nhiệm vụ dân vận của chính quyền là bảo đảm một môi trường xã hội trong đó mọi người dân có thể yên tâm làm ăn sinh sống, tạo thu nhập chính đáng cho mình và đóng góp vào sự nghiệp chung. Phải tạo môi trường trong đó tài sản, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của nhân dân được tôn trọng và bảo vệ. Mọi người dân có thể tự do làm bất cứ điều gì pháp luật không cấm, những việc làm tốt được ủng hộ và giúp đỡ, những hành vi sai trái phải bị lên án và xử lý. Công tác quốc phòng - an ninh có vị trí hết sức quan trọng, là cơ sở cho sự ổn định và phát triển bền vững. Chính quyền phải tạo được niềm tin và thế vững từ lòng dân. Chỉ có bằng vận động quần chúng, phát động sâu rộng phong trào bảo vệ an ninh - quốc phòng trong nhân dân, đề cao vai trò tự quản của các cộng đồng dân cư mới có thể bảo đảm duy trì an ninh trật tự thường xuyên ở cơ sở. - Tuyên truyền, giáo dục nhân dân nâng cao cảnh giác, đấu tranh chống mọi mưu đồ chia rẽ, tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng địa phương vững mạnh. - Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân giải quyết kịp thời các mâu thuẫn nảy sinh, không để diễn biến phức tạp, kéo dài. 46 * Trong lĩnh vực tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo - Với công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân, cần phải được nhận thức là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền. Vai trò của chính quyền cơ sở trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân đặc biệt quan trọng bởi cơ sở là nơi trực tiếp nảy sinh những vướng mắc trong đời sống nhân dân. Nếu được quan tâm giải quyết kịp thời có thể ngăn chặn hoặc giảm tối đa nguy cơ phát sinh các điểm nóng. Công tác dân vận trong lĩnh vực này đòi hỏi một mặt tuân thủ những quy định của pháp luật về chế độ tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân; mặt khác, phải đẩy mạnh hoạt động hòa giải ở cơ sở, đề cao trách nhiệm của các đoàn thể, các tổ chức xã hội, tổ chức tự quản của nhân dân. - Tổ chức tốt công tác tiếp công dân, phát huy vai trò của người đứng đầu các cấp chính quyền trong việc đối thoại với nhân dân, lắng nghe và giải quyết kịp thời những kiến nghị, bức xúc, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; tập trung rà soát, giải quyết dứt điểm đơn, thư khiếu nại, tố cáo, nhất là các vụ việc phức tạp, kéo dài, không để phát sinh “điểm nóng”. - Phối hợp, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng chính quyền vững mạnh. 47 - Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, đấu tranh chống các hành vi quan liêu, vô cảm, thiếu trách nhiệm, tham nhũng, lạm dụng quyền lực, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân của cán bộ, công chức; kịp thời sơ kết, rút kinh nghiệm. * Trong lĩnh vực thi hành Hiến pháp, pháp luật - Đối với việc thi hành Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của chính quyền cấp trên ở địa phương, mục tiêu công tác dân vận của chính quyền cơ sở cần hướng tới là làm cho mọi người dân tự giác nghiêm chỉnh chấp hành mọi quy định của pháp luật. Để có được sự tự giác không thể chỉ dùng các biện pháp hành chính mà cần phải tiến hành từng bước, kết hợp nhiều biện pháp. Điều quan trọng là phải làm cho dân có nhận thức đúng về pháp luật. Do trình độ hiểu biết nói chung của nhân dân ở cơ sở còn nhiều hạn chế, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong dân cần tiến hành bằng nhiều hình thức, tùy điều kiện cụ thể và khả năng nhận thức của nhân dân ở từng khu vực, địa bàn mà có cách tuyên truyền thích hợp. Cần huy động các lực lượng xã hội, nhất là các đoàn thể nhân dân, các tình nguyện viên ở cơ sở tham gia tuyên truyền, giải thích pháp luật cho nhân dân. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cần gắn liền với nêu gương người tốt, việc tốt của các cơ quan, cán bộ, công chức chính quyền trong việc thực hiện pháp luật. - Việc áp dụng biện pháp hành chính trong quản lý điều hành luôn rất cần thiết, tuy nhiên, bản thân các biện 48 pháp hành chính không có mục đích tự nó và không phải lúc nào cũng mang kết quả mong muốn đối với người quản lý. Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp việc áp dụng các biện pháp hành chính một cách cứng nhắc không những không mang lại kết quả mà còn làm cho tình hình phức tạp và nghiêm trọng thêm. Công tác dân vận của chính quyền trong thực thi pháp luật đòi hỏi người quản lý phải xuất phát từ thực tế, căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để có quyết định phù hợp. Đối với những người vi phạm do chưa hiểu biết pháp luật cần giải thích, thuyết phục để họ tự nhận thức sai phạm của mình, ngược lại với những trường hợp cố tình vi phạm cần xử lý kịp thời, nghiêm khắc. 2. Phương thức thực hiện công tác dân vận của chính quyền cơ sở - Chính quyền cơ sở là cơ quan thường xuyên, trực tiếp làm việc với người dân, do đó, công tác dân vận phải thực hiện bằng hành động cụ thể thường ngày của đội ngũ cán bộ, công chức. Vì thế, muốn cho công tác vận động, thuyết phục nhân dân có hiệu quả, nhất thiết mọi cán bộ, công chức phải gương mẫu, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các kiến nghị chính đáng của nhân dân; không nhũng nhiễu dân, có phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. - Chính quyền cơ sở làm công tác dân vận bằng sự chủ động phối hợp hoạt động giữa Hội đồng nhân dân, 49 Ủy ban nhân dân cấp xã với hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để thực hiện nhiệm vụ, chủ trương chung, đó là yêu cầu tất yếu khách quan bảo đảm vận hành thông suốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Sự phối hợp hoạt động giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng, hợp tác tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau và phải thực hiện bằng chương trình, kế hoạch có nội dung cụ thể, có quy chế chặt chẽ, có phân công trách nhiệm rõ ràng, có sơ kết đánh giá, bổ sung kịp thời; trong đó, chính quyền cơ sở phải đóng vai trò trung tâm, nòng cốt của các hoạt động phối hợp. Mặt khác, chính quyền cơ sở cần tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và kinh phí hoạt động cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Đồng thời, đề cao trách nhiệm, sự chủ động tích cực của Mặt trận và đoàn thể nhân dân trong tham gia thực hiện chương trình phối hợp, tham gia xây dựng chính quyền vững mạnh. Thực tiễn cho thấy, ở đâu chính quyền càng phối hợp chặt chẽ, đề cao trách nhiệm, tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân bao nhiêu thì hiệu quả công tác dân vận chính quyền càng tốt bấy nhiêu. - Chính quyền cơ sở làm công tác dân vận bằng việc sử dụng, phát huy hiệu quả công cụ thông tin, tuyên truyền văn hóa, nghệ thuật, đây là công cụ sắc bén và là lực lượng hùng hậu để tuyên truyền, vận động nhân dân. 50 Cần phát huy lợi thế của các phương tiện thông tin đại chúng; nội dung thông tin phải thiết thực, nói đúng, nói trúng vấn đề nhân dân quan tâm. Xây dựng và thực hiện tốt chế độ cung cấp thông tin, báo cáo; cơ chế tiếp xúc, đối thoại với nhân dân; chế độ đi cơ sở nắm tình hình và giải quyết những công việc liên quan đến đời sống nhân dân. III- CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ Một là, củng cố, xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, thật sự là chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để thực hiện tốt công tác dân vận, bản thân chính quyền phải thật sự trong sạch, vững mạnh, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn ở cơ sở. Củng cố, xây dựng chính quyền cơ sở phải nhằm nâng cao vai trò và năng lực mọi mặt của cả Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. - Đối với Hội đồng nhân dân: + Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương trong việc hoạch định chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các biện pháp phát triển văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh, ổn định đời sống nhân dân, xóa đói, giảm nghèo ở cơ sở. 51 + Nâng cao vai trò cơ quan đại diện của nhân dân giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân, cán bộ, công chức trong chấp hành và điều hành công việc. + Đề cao trách nhiệm của các đại biểu dân cử trong tiếp xúc cử tri, đại diện ý chí, nguyện vọng của cử tri trong tham gia xây dựng các nghị quyết của Hội đồng nhân dân về các vấn đề quan trọng ở địa phương, giám sát hoạt động của các Ủy ban nhân dân, cán bộ, công chức trong việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. - Đối với Ủy ban nhân dân xã: + Về tổ chức bộ máy và cán bộ, cần quan tâm xây dựng các quy chế hoạt động như quy chế tiếp dân, quy chế phối hợp làm việc với Mặt trận, đoàn thể. Quan tâm giáo dục cán bộ, công chức có tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân. Xây dựng tác phong công tác của cán bộ, công chức chính quyền theo hướng gần dân, tôn trọng dân, hết lòng phục vụ nhân dân. Tất cả cán bộ, công chức chính quyền cơ sở phải “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. + Thực hiện có hiệu quả yêu cầu cải cách hành chính nhà nước ở cơ sở. Nội dung thực hiện cải cách hành chính ở cơ sở cần tập trung vào: cải cách thủ tục hành chính; giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân; củng cố bộ máy tổ chức, xây dựng quy chế làm việc, từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức; xây dựng phong cách làm việc, đề cao trách nhiệm phục vụ của công chức đối với công dân. + Về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cần tiến hành nhanh chóng, dứt điểm, kịp thời. Phải bố trí những 52 cán bộ có năng lực, có thẩm quyền và có kinh nghiệm tiếp xúc với dân để giải quyết. Những vấn đề trong phạm vi thẩm quyền cấp trên thì phải chuyển đúng cơ quan có trách nhiệm và hướng dẫn người khiếu kiện đến địa chỉ cần giải quyết. Phải đặc biệt coi trọng công tác hòa giải ở cơ sở thông qua Ban thanh tra nhân dân, tổ hòa giải, những người có uy tín trong cộng đồng, dòng họ..., để vận động, hòa giải ngay từ thôn, làng, bản, ấp và khu dân cư. Hai là, mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng, bảo vệ chính quyền, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Biện pháp quan trọng nhất để mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở là xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, quy ước, hương ước ở thôn, làng, ấp, bản, khu dân cư. Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã chỉ rõ: “Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất”. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã là thể hiện trực tiếp quyền làm chủ của nhân dân trong mối quan hệ với chính quyền phải thực hiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Thực hiện tốt những quy định trong Quy chế không chỉ đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở, mà còn giúp nâng cao 53 hiệu quả quản lý của chính quyền, chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng và củng cố mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân. Việc mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng, bảo vệ chính quyền, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội còn đòi hỏi phải đề cao tính tự quản của các cộng đồng dân cư. Song song với việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chính quyền cơ sở cần hướng dẫn, giúp đỡ việc xây dựng các quy ước, hương ước tại các thôn, làng, ấp, bản, khu dân cư. Tiến hành thực sự dân chủ trong việc bầu trưởng thôn, xây dựng các tổ chức tự quản như: Ban an ninh, Ban hòa giải... Ngoài hướng dẫn về nghiệp vụ công việc, chính quyền cần có những trợ giúp nhất định về phương tiện, điều kiện và kinh phí hoạt động cho những tổ chức tự quản này. Ba là, nâng cao năng lực tuyên truyền, vận động, thuyết phục cho đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở. Tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân là khâu trọng yếu của công tác dân vận, hiệu quả tuyên truyền phụ thuộc vào phẩm chất cá nhân, thái độ, kỹ năng của cán bộ tuyên truyền. Trong tác phẩm Người tuyên truyền và cách tuyên truyền, Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ tuyên truyền phải suy nghĩ để hiểu rõ, nắm sâu về nội dung tuyên truyền, phải biết cách nói đơn giản, rõ ràng, thiết thực, có đầu, có cuối để ai cũng hiểu được, không nói dài quá một tiếng đồng hồ làm người nghe chán tai; phải lễ độ, xưng hô phù hợp, thái độ phải mềm mỏng, đúng mực. 54 Nếu không muốn công việc tuyên truyền thất bại thì người tuyên truyền “phải chịu khó, chịu khổ, khéo ở, siêng làm”, không được lầm tưởng “đi phớt qua địa phương, diễn thuyết một hai giờ mà có kết quả”. Quan trọng hơn, Bác luôn nhắc nhở, răn dạy cán bộ phải tu dưỡng, rèn luyện thái độ ứng xử với dân, đề cao tinh thần nêu gương và làm gương là cách gây dựng tốt nhất tình cảm trong dân, “sẽ giúp cho việc tuyên truyền kết quả lên gấp bội”. Đây là những bài học vô cùng quý giá, thấm thía từ đạo đức, phong cách dân vận Hồ Chí Minh để cán bộ dân vận soi vào, tự sửa mình và noi theo; quán triệt sâu rộng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và hành động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là của cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, người đứng đầu, đảng viên, cán bộ, công chức trong mối quan hệ với nhân dân. Thực hiện tốt quy định của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ dân vận của chính quyền. Nhiệm vụ công tác dân vận của chính quyền đã được quy định trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp quy của Nhà nước. Việc quán triệt và cụ thể hóa nhiệm vụ dân vận vào hoạt động quản lý, điều hành là nhiệm vụ thường xuyên của chính quyền các cấp, trong đó có chính quyền cơ sở. Trước mắt tập trung thực hiện tốt Kết luận số 114-KL/TW, ngày 14/7/2015 của Ban Chấp hành Trung ương về nâng cao hiệu quả công tác dân vận 55 của các cơ quan nhà nước các cấp; Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 16/5/2016 về tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới. Theo tinh thần của Chỉ thị số 16/CT-TTg, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phải chỉ đạo và có kế hoạch thường xuyên tuyên truyền và giáo dục nhận thức về công tác dân vận cho cán bộ, công chức chính quyền. Tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân đóng góp xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý nghiêm minh những hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân, xâm phạm quyền làm chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Bốn là, xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động của chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Cùng với sự phát triển xã hội, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng to lớn và có vị trí ngày càng quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của địa phương, đất nước. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia quản lý đất nước, quản lý xã hội. Phối hợp hoạt động của chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là yêu cầu khách quan phù hợp xu thế dân chủ và phát triển của xã hội. Việc phối hợp hoạt động của chính quyền với Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể không chỉ là đòi hỏi từ một phía mà xuất phát từ lợi ích của cả công tác quản lý và hoạt động 56 xã hội. Chính quyền cần sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể trong việc tuyên truyền giải thích pháp luật, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành chính sách, pháp luật. Mặt trận Tổ quốc ngày càng tham gia sâu hơn vào việc thực hiện có hiệu quả một số mặt công tác, chương trình, dự án, các cuộc vận động ở cơ sở như: công tác hòa giải, an ninh trật tự, dân số kế hoạch hóa, xóa đói, giảm nghèo, v.v.. Ngược lại, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cũng ngày càng yêu cầu chính quyền phối hợp tạo điều kiện cụ thể, thiết thực về môi trường pháp lý, điều kiện vật chất, tài chính..., để hoạt động. Quan hệ giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể là quan hệ phối hợp giúp đỡ lẫn nhau cùng thực hiện nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó. Đối với các tổ chức xã hội khác do quần chúng tự nguyện thành lập như các hội theo nghề nghiệp, theo sở thích... chính quyền cần quản lý và hướng dẫn hoạt động theo đúng pháp luật, đồng thời giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức đó hoạt động, đáp ứng nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhận thức đúng mối quan hệ phối hợp hoạt động như trên sẽ tránh được quan niệm sai lầm coi quan hệ phối hợp như là quan hệ ban phát, xin - cho hoặc biến đoàn thể thành bộ phận thụ động, lệ thuộc vào chính quyền. Phía lãnh đạo chính quyền cần phải xem việc giúp đỡ, tạo điều kiện cho đoàn thể hoạt động cũng chính là tạo thêm sức mạnh 57 của chính mình. Trong mối quan hệ phối hợp, chính quyền cần chủ động lắng nghe và đề xuất nội dung, phương thức và tổ chức thảo luận để đi đến quyết định một cách dân chủ. Việc phối hợp phải trên cơ sở phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng giữa các bên, tránh lợi dụng việc phối hợp để đùn đẩy trách nhiệm chăm lo đời sống quần chúng cho Mặt trận, đoàn thể. Năm là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan nhà nước (dân vận chính quyền); thực hiện quyết liệt và có hiệu quả hơn nữa cải cách thủ tục hành chính đi liền với xây dựng đạo đức, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức thực sự gần dân, trọng dân, học dân, có trách nhiệm với nhân dân. Cán bộ chính quyền cơ sở phải thường xuyên tiếp dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và đối thoại với nhân dân, tăng cường trách nhiệm giải trình. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm những cán bộ tham nhũng (kể cả tham nhũng vặt), cán bộ có biểu hiện tiêu cực, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm trong giải quyết công việc cho người dân; tạo điều kiện để người dân giám sát cán bộ, góp ý, đánh giá cán bộ cả ở nơi cư trú. Trong bài “Dân vận” đăng trên báo Sự thật số ra ngày 15/10/1949 với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, mà trước hết là việc phát huy vai trò thực hành dân vận của các cơ quan, cán bộ nhà nước. “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của 58 các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v.) đều phải phụ trách dân vận”1. Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh, công tác dân vận của chính quyền cơ sở có nhiều đổi mới, góp phần nâng cao sự hài lòng của người dân. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công tác dân vận của chính quyền cơ sở cần được đổi mới, nâng cao hiệu quả, phấn đấu thực hiện mục tiêu của Chính phủ về “Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, hiệu lực, hiệu quả, lấy kết quả phục vụ và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp là tiêu chí đánh giá”2. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.233. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.309. 59 XÂY DỰNG PHONG CÁCH CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁN BỘ Ở CƠ SỞ I- NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHONG CÁCH CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁN BỘ Ở CƠ SỞ 1. Một số khái niệm 1.1. Khái niệm phong cách Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “phong cách” được hiểu là: những lối, những cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự tạo nên cái riêng của một người hay một loại người nào đó1. Tác giả Đặng Xuân Kỳ trong cuốn Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh cho rằng: Phong cách là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nền nếp ổn định của một người hoặc một lớp người, được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết) tạo nên những giá trị, nét riêng biệt của chủ thể đó. Tác giả Bùi Đình Phong trong cuốn Đạo đức là cái gốc của người cách mạng đưa ra quan điểm: Phong cách _______________ 1. Xem Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr.782. 60 được hiểu là cái đặc sắc, độc đáo, riêng có của chủ thể; là sáng tạo thật sự tự nhiên, không giả tạo, đích thực là chân - thiện - mỹ; phong cách chính là con người, là văn hóa làm người, đạo làm người, trải nghiệm cả cuộc đời. Từ những nghiên cứu về khái niệm “phong cách”, có thể hiểu phong cách là những cung cách, cách thức hành xử của một người hay một nhóm người, được thể hiện nhất quán trong lao động, học tập, sinh hoạt, tạo nên cái riêng của họ, phân biệt họ với những người khác. 1.2. Khái niệm dân vận Theo nghĩa thông thường, dân vận là công tác vận động nhân dân của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở nước ta. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”1. Như vậy, có thể hiểu phong cách công tác dân vận của cán bộ ở cơ sở là cách thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động mọi người dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232. 61 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách công tác dân vận Phong cách dân vận Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn riêng, gắn liền với tư tưởng, đạo đức của Người. Đó là phong cách của một lãnh tụ vĩ đại, chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, có giá trị khoa học và lan tỏa sâu rộng. Phong cách dân vận Hồ Chí Minh phát triển từ tư duy đến sự biểu đạt bằng ngôn ngữ nói, viết và hành động cụ thể để vận động nhân dân (hay nói cách khác là dân vận) thực hiện thắng lợi công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trước hết, phong cách dân vận của Người được thể hiện ở tinh thần trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân. Phong cách này xuất phát từ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trọng dân là thương dân, vì nhân dân mà phục vụ và biết coi trọng sức mạnh vĩ đại của nhân dân. Theo Người, trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Dễ mười lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong1. Dân chúng đồng lòng việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên. Do đó, cán bộ ở cơ sở phải thể hiện tinh thần phụ trách trước nhân dân, _______________ 1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.280. 62 phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, hướng dẫn nhân dân, tổ chức thành lực lượng, thành phong trào cách mạng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Đồng thời có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Gần dân: Cán bộ ở cơ sở phải luôn gần dân, sát dân, tuyệt đối không được quan liêu, chỉ ngồi nghe điện thoại, nhận báo cáo rồi nhận định, phán xét chung chung. Muốn vận động quần chúng đạt hiệu quả cao phải gặp gỡ, tiếp xúc, lắng nghe dân nói; hiểu rõ những khúc mắc, nỗi băn khăn, lo lắng cũng như mong muốn, nguyện vọng của họ, từ đó tham mưu, đề xuất cho cấp ủy, chính quyền xây dựng, ban hành chính sách hợp lòng dân, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng quê hương. Hiểu dân: Cán bộ ở cơ sở phải nắm bắt kịp thời các thông tin từ quần chúng, phải biết nghe dân nói, phải hiểu được nguyện vọng chính đáng của dân và biết loại trừ những thông tin thiếu chân thực, không khách quan. Nghe được dân nói, nhưng đó là những thông tin khách quan, tránh tâm lý đám đông; đồng thời phải biểu thị thái độ vừa cầu thị vừa định hướng được quần chúng. Học dân: Sẵn sàng học hỏi nhân dân, người cán bộ không nên kiêu ngạo mà nên hiểu thấu. Mỗi người phải hiểu 63 rằng sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình chưa đủ. Vì vậy, người cán bộ ở cơ sở còn phải dùng kinh nghiệm của dân chúng để thêm cho kinh nghiệm của mình. Nhân dân là những người trí tuệ, thông minh, tài giỏi vì vậy, mỗi khẩu hiệu, công tác hay chính sách phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng. Không học hỏi dân chúng thì không lãnh đạo được dân chúng. Không học hỏi dân chúng mà lại dùng cách quan liêu, ra mệnh lệnh, thế là không phụ trách trước nhân dân, là đem hai chữ “mệnh lệnh” làm thành bức tường để tách rời Đảng và Chính phủ với nhân dân. Tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân: Vì nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Công tác dân vận không có nhân dân thì không thể thành công được. Có lòng tin vô tận đối với nhân dân, chăm lo tăng cường mối liên hệ với nhân dân, coi đó là nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Theo Hồ Chí Minh: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”1. Đảng cầm quyền phải biết dựa vào nhân dân thì việc gì, dù khó đến đâu cũng có thể làm được. Đảng đoàn kết được toàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng thì sức mạnh của nhân dân trở thành vô địch. Người khẳng định: “Chúng ta phải tin tưởng rằng sức mạnh của nhân dân đoàn kết đấu tranh là một sức mạnh tất thắng, một sức mạnh vô địch”2. Sức mạnh _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.19. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.305. 64 của nhân dân chính là sức mạnh của dân tộc, bao gồm cả truyền thống trí lực, tinh thần, ý chí, của cải vật lực. Đó là nhân tố quyết định sự phát triển quốc gia. Tính khoa học, thiết thực, cụ thể là nội dung cơ bản tạo nên phong cách dân vận Hồ Chí Minh, đó là “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”1. “Óc nghĩ”- thực chất là yếu tố trí tuệ. Vận động nhân dân mà không có trí tuệ chắc chắn không giải quyết được các mối quan hệ. Đặt “óc nghĩ” lên hàng đầu chính là Người đã khẳng định công tác dân vận là một khoa học về con người, một nghệ thuật về vận động con người. Những khi gặp vấn đề, phải suy tính kỹ lưỡng, chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều, chớ gặp sao làm vậy. Muốn quyết định đúng một vấn đề, trước hết phải điều tra, nghiên cứu rõ ràng. Có nắm chắc tình hình thì đề ra chính sách mới đúng. Vì thế, người làm công tác dân vận phải dày công suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình và vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn sinh động để vận động nhân dân có hiệu quả. Cùng với đó, Người yêu cầu phải “mắt trông, tai nghe, chân đi” để yêu cầu người làm công tác dân vận phải đi sâu, sát cơ sở, am hiểu thực tiễn, phải đến với nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nghe dân nói, nhưng không theo đuôi họ mà phải biểu thị được thái độ vừa cầu thị vừa định hướng, dẫn dắt, _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.233-234. 65 vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của địa phương. Phong cách dân vận Hồ Chí Minh là sự thống nhất biện chứng giữa nói và làm, cụ thể đó là “miệng nói, tay làm”, là phong cách quan trọng nhất hiện nay của người cán bộ ở cơ sở. Nói và làm thống nhất, đi liền với nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiêm khắc lên án bệnh “hữu danh vô thực”, bệnh hình thức. Người cán bộ dân vận “phải thật thà nhúng tay vào việc”1, phải làm việc một cách thật sự, cùng lao động, cùng chiến đấu, lăn vào cuộc sống hằng ngày của quần chúng, coi trọng hiệu quả công việc, lấy hiệu quả của công việc làm thước đo, mục đích của công tác dân vận. Nếu “chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” thì làm sao hiểu được dân, làm sao “vận” được dân, làm sao để dân có tự do, hạnh phúc thật sự. Miệng nói, tay làm, và làm có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân, là một nội dung đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Tự mình nêu gương là điểm đặc sắc trong phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự nêu gương có sức lan tỏa, thuyết phục, hướng dẫn rất lớn và lâu dài. Để nhân dân tin tưởng, noi theo, Người nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống; mọi lúc, mọi nơi, phải nêu gương để quần chúng noi theo, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói phải đi đôi với làm. Muốn hướng dẫn người khác làm, thì mình phải _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234. 66 làm mực thước, tiên phong gương mẫu cho người làm theo. Theo Người, nói chung thì các dân tộc phương Đông giàu tình cảm và đối với họ, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”1. Cho nên, cán bộ với tinh thần xung phong thi đua, nêu gương, làm mẫu từ lời nói đến hành động cho dân tin, dân phục, dân yêu, từ đó làm dấy lên phong trào thi đua trong nhân dân. Đó chính là biện pháp thiết thực nhất, có giá trị lan tỏa nhất, cách gây dựng tốt nhất tình cảm trong dân sẽ giúp cho việc tuyên truyền đạt kết quả gấp bội. 3. Giá trị của việc xây dựng phong cách công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Là cơ sở để cấp ủy, chính quyền chỉ đạo việc xây dựng phong cách công tác dân vận cho cán bộ ở cơ sở. Phong cách dân vận Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn riêng, gắn liền với tư tưởng, đạo đức của Người. Đó là phong cách của một vĩ nhân, lãnh tụ vĩ đại, chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, có giá trị khoa học và lan tỏa sâu rộng. Học tập và làm theo phong cách dân vận Hồ Chí Minh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác dân vận, định hướng xây dựng, rèn luyện phong cách dân vận của mỗi cán bộ nhằm phục vụ mục tiêu “Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.284. 67 - Là cơ sở để mỗi cán bộ dân vận rèn luyện, tu dưỡng phong cách, phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực chuyên môn. Giúp người cán bộ biết tôn trọng, lắng nghe nhân dân, có niềm tin với nhân dân, học cách thức xử lý mối quan hệ với quần chúng nhân dân; xây dựng phong cách làm việc khoa học, nắm việc, nắm tình hình cụ thể; làm việc có mục đích rõ ràng, thực tế. II- THỰC TRẠNG PHONG CÁCH CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁN BỘ Ở CƠ SỞ HIỆN NAY 1. Những kết quả đã đạt được Học tập tư tưởng, phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm gần đây đội ngũ cán bộ ở cơ sở đã thực hiện tốt phong cách dân vận của mình, đó là gắn bó, phát huy vai trò của nhân dân trong quá trình tham gia xây dựng chính quyền, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng, quan tâm đến quyền lợi của nhân dân, thật sự gần gũi, giúp đỡ, có trách nhiệm với quần chúng nhân dân, trọng dân, lắng nghe góp ý của nhân dân, khách quan, công bằng, nhiệt tình thực hiện nhiệm vụ công tác; làm việc khoa học, có chương trình, kế hoạch; đồng thời luôn đổi mới, sáng tạo nội dung, phương thức vận động quần chúng, phù hợp với điều kiện thực tiễn và tình hình địa phương; thực hiện tốt việc nêu gương, nói đi đôi với làm tạo được niềm tin ở quần chúng 68 nhân dân. Theo đó, công tác dân vận đã góp phần không nhỏ tạo nên sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội: chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện, kinh tế vĩ mô vẫn ổn định khá vững chắc; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên; xã hội cơ bản ổn định, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời đại mới có nhiều chuyển biến tích cực, hướng tới thực hiện thắng lợi “khát vọng thịnh vượng” trong giai đoạn mới. 2. Những tồn tại, hạn chế Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, công tác dân vận của đội ngũ cán bộ ở cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế: Việc tuyên truyền các quan điểm của Đảng giúp người dân hiểu rõ, hiểu đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những chính sách liên quan trực tiếp đến lợi ích thiết thực của người dân chưa được giải thích đầy đủ trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển và sự tham gia mạng xã hội ngày càng tăng của người dân; nội dung và phương thức tuyên truyền chưa thật sự chất lượng, cách diễn đạt chưa rõ ràng, chưa sinh động, chưa lồng ghép thực tiễn gắn với nội dung tuyên truyền; chưa đảm bảo tính thời sự; một bộ phận cán bộ chưa chú ý lắng nghe 69 ý kiến của nhân dân, công tác nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình nhân dân, đặc biệt là ở những địa bàn phức tạp, nhạy cảm chưa kịp thời, sâu sát, tham mưu chủ trương, giải pháp chưa sát hợp; một số nơi, nhân dân bị đối tượng xấu, tổ chức phản động, thù địch tuyên truyền, xuyên tạc, kích động, lôi kéo vào những hoạt động sai trái, vi phạm pháp luật; tác phong làm việc quan liêu, chưa thực sự gần dân; tinh thần, trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ còn nhiều yếu kém, đạo đức công vụ còn hạn chế, chưa thật sự quan tâm giải quyết nguyện vọng, bức xúc của người dân, chưa tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền làm chủ, còn thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, thậm chí còn làm phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp, gây ra oan sai đối với người dân; một số nơi công tác tiếp dân, đối thoại hiệu quả chưa cao, không rõ trách nhiệm người đứng đầu, để tình trạng khiếu kiện phức tạp, đông người kéo dài, không xử lý dứt điểm được. III- GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHONG CÁCH CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁN BỘ Ở CƠ SỞ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU, NHIỆM VỤ HIỆN NAY Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”1. Cốt lõi thành _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234. 70 công trong công tác dân vận nằm ở người cán bộ ở cơ sở. Người từng nói: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”1, “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”2. Vì vậy, để công tác dân vận thành công hơn, cần quan tâm xây dựng phong cách công tác dân vận của đội ngũ cán bộ ở cơ sở với những nội dung sau: 1. Nhóm giải pháp đối với cấp ủy, lãnh đạo Cần quan tâm xây dựng và cụ thể hóa tiêu chuẩn, phong cách công tác dân vận của cán bộ ở cơ sở. Phải nhận thức rõ, đội ngũ cán bộ ở cơ sở là những người trực tiếp làm công tác dân vận. Do đó, cần tuân thủ những tiêu chuẩn chung trong chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII của Đảng đã quy định. Ngoài những tiêu chuẩn chung, cần xác định rõ tiêu chuẩn chính của đội ngũ cán bộ ở cơ sở là tham mưu cho cấp ủy đảng về công tác vận động quần chúng, nên trước hết phải lựa chọn người có nhận thức đúng về vai trò của công tác dân vận, tự nguyện, tâm huyết với công việc được giao, sống thật sự với cuộc sống và sinh hoạt hằng ngày của nhân dân. Bên cạnh đó, phải đưa cán bộ làm công tác dân vận vào rèn luyện, trưởng thành từ phong trào quần chúng, được nhân dân tín nhiệm, tin yêu. Bởi người cán bộ dân vận có _______________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.305, 313. 71 từ nhân dân mà ra, có lăn lộn “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói” với dân, có trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin, dân yêu... mới có “chiếc chìa khóa” đi vào lòng dân - nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận. Ðó cũng là một trong những yếu tố để thực hiện tốt việc “dân vận khéo”. “Dân vận khéo” thì việc gì cũng thành công, từ đó mà tích lũy cho mình được nhiều kinh nghiệm quý, giúp ích cho công tác dân vận của mình. Phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân vận toàn diện cả về chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị... đáp ứng đòi hỏi của yêu cầu, nhiệm vụ công tác dân vận trong tình hình mới theo đúng quan điểm của Ðảng, đó là kiên định với đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần tạo mọi điều kiện để cán bộ dân vận được học tập và tiếp thu các tri thức mới; có chính sách, cơ chế để cán bộ đi học nâng cao trình độ; có chế tài bắt buộc cán bộ phải tự học, tự bồi dưỡng thông qua hoạt động hằng ngày để không ngừng nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng công tác vận động nhân dân... 2. Nhóm giải pháp về phát huy tính tự tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng phong cách công tác dân vận của cán bộ ở cơ sở theo phong cách Hồ Chí Minh Thứ nhất, phải xây dựng phong cách quần chúng. Phải “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm 72 dân tin”. Có trọng dân thì người cán bộ mới thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ của nhân dân; mới đến với dân như người thầy, người chủ của mình. “Gần dân” là đòi hỏi khách quan của người cán bộ dân vận, phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, phải chịu khó đi cơ sở để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý. Đi cơ sở không phải theo kiểu “Nhiệt liệt chào mừng đồng chí về thăm và làm việc” mà phải nắm rõ tình hình mới tham mưu đúng, trúng cho cấp ủy đảng, chính quyền đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp với lòng dân và đưa ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho địa phương. Những người có phong cách gần dân sẽ tránh được căn bệnh quan liêu, hách dịch, mệnh lệnh. Muốn “học dân” thì người cán bộ phải thực sự biết lắng nghe, khiêm tốn, cầu thị. Chính nhân dân là những người sáng suốt, nhiều kinh nghiệm về đối nhân xử thế, sáng tạo trong cuộc sống, làm nên lịch sử. Cán bộ dân vận muốn thực sự đến với nhân dân, muốn trở thành người đày tớ của nhân dân thì phải có trách nhiệm với nhân dân, mọi việc đều vì hạnh phúc của nhân dân; “việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”1 như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.487. 73 Thứ hai, phải xây dựng được “hình ảnh” trong nhân dân. Muốn xây dựng được hình ảnh trong nhân dân, cán bộ phải có uy tín, giỏi tuyên truyền, thuyết phục. Uy tín là phẩm chất hàng đầu của người làm công tác dân vận. Để được nhân dân hiểu, tin tưởng và làm theo thì nhất định người cán bộ làm công tác dân vận phải có uy tín. Uy tín của người làm công tác dân vận, nhất là cán bộ ở cơ sở hằng ngày tiếp xúc, giải quyết công việc trực tiếp với nhân dân lại càng quan trọng. Đồng thời, giỏi tuyên truyền, thuyết phục cũng là phẩm chất không thể thiếu của cán bộ làm công tác dân vận. Cần thuyết phục bằng cả lời nói và việc làm, phải thống nhất trong nhận thức và hành động. Phải nâng cao khả năng dùng ngôn ngữ phù hợp với địa phương, vùng, miền, dân tộc; phải hiểu được ít nhiều ngôn ngữ địa phương mới có thể vận động, thuyết phục nhân dân có hiệu quả. Thứ ba, phải xây dựng chương trình hành động, kế hoạch cụ thể tự rèn luyện, tự học tập. Người cán bộ ở cơ sở muốn vững vàng về lý luận, cần chủ động, tích cực nghiên cứu chủ trương, quan điểm của Đảng, bám sát các đợt học tập lý luận chính trị, như học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh; nghiêm túc học tập và rèn luyện phong cách công tác dân vận thông qua trường lớp, thông qua thực tiễn. Công cuộc đổi mới luôn vận động, sự nghiệp 74 đổi mới ngày càng phát triển, yêu cầu của người dân, của cấp cơ sở đối với đội ngũ cán bộ ngày càng cao đòi hỏi người cán bộ ở cơ sở phải thường xuyên bồi dưỡng, cập nhật những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm mới về khoa học lãnh đạo quản lý, quản lý hành chính nhà nước... Thực tiễn luôn thay đổi, đặt ra những yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng và trước những tác động của nền kinh tế thị trường, nếu không tự tu dưỡng, rèn luyện phong cách của bản thân, người cán bộ ở cơ sở sẽ không thể đáp ứng yêu cầu của thời cuộc. Mặt khác, phải coi việc rèn luyện, xây dựng phong cách công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ thường xuyên, tự giác và bền bỉ suốt đời. Như vậy, dân vận là vận động, tạo sự đồng thuận, tham gia, đóng góp của nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đòi hỏi người cán bộ ở cơ sở phải không ngừng rèn luyện, xây dựng phong cách công tác dân vận theo yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 75 CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG, HỖ TRỢ NHÂN DÂN PHÁT TRIỂN KINH TẾ, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - Xà HỘI CẤP CƠ SỞ I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG, HỖ TRỢ NHÂN DÂN PHÁT TRIỂN KINH TẾ, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - Xà HỘI CẤP CƠ SỞ 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về công tác vận động, hỗ trợ nhân dân phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội 1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vấn đề phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và công tác vận động, hỗ trợ nhân dân phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường. Theo Người: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế... Tục ngữ ta có câu: Có 76 thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”1 và “Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta”2. Trước khi đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”3. Sản xuất, phát triển kinh tế nâng cao đời sống nhân dân phải luôn đi kèm với giữ gìn, bảo vệ môi trường, bởi: “Rừng vàng vì rừng... có rất nhiều gỗ và lâm sản có thể đổi lấy nhiều máy móc, hàng hóa... Núi bạc, vì núi non... có nhiều quặng có thể xây dựng công nghiệp để phát triển kinh tế”4 và “Nước cũng có thể làm lợi, nhưng cũng có thể làm hại, nhiều nước quá thì úng lụt, ít nước quá thì hạn hán...”5; “Nếu trời tốt thì thu hoạch nhiều, ngược lại nếu trời xấu thì thu hoạch sút kém”6. Ngay từ những năm đầu tiên của công cuộc kiến thiết đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Đảng ta phải làm nhiều chuyện: xây dựng nhà máy, xây dựng hợp tác xã; làm sao cho người nông dân, người công nhân ăn no, _______________ 1, 4, 5, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.470, 230, 283, 505. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.68. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.612. 77 mặc ấm; làm sao cho nước càng ngày càng mạnh, dân càng ngày càng giàu. Ngày nay làm cả việc chống trời nữa”1. “Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hòa với nhau để nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội”2 và “Chúng ta đang chuẩn bị xây dựng nông thôn mới. Việc đầu tiên của nông thôn mới là xây dựng nhà ở cho đàng hoàng. Muốn vậy, thì ngay từ bây giờ phải trồng cây nhiều và tốt để lấy gỗ... Cây ăn quả, cây làm củi, cây công nghiệp cũng là nguồn lợi to lớn. Cũng nên ra sức trồng cây để chống gió cát, bảo vệ ruộng, chống xói mòn...”3. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được”4. Phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, phải dựa vào lực lượng nhân dân, bởi “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”5. Công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của Đảng và của cả hệ thống chính trị; trong đó vai trò tham mưu, nòng cốt vận động, hỗ trợ nhân dân thuộc về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.272. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.283. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.446. 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.279. 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234. 78