🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kiên Giang di tích và danh thắng
Ebooks
Nhóm Zalo
LIÊN H IẸ P C Á C HỌI VĂN HỌC N G H Ệ T H U Ậ T V IỆ T NAM HỤI VĂN HỤC N(;HỆ t h u ậ t c á c I)ÂN T ộ c t h ié u s ó v iệ t na m
ĐOÀN THANH NÔ
Sưu tầm, giới thiệu
KIÊN GIANG
DI TÍCH VÀ DANH THẮNG NHÀ XUẤT BÁN HỘI NHÀ VĂN
ĐÈ ÁN BAO TÒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
TÁC PHÁM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
CÁC DÂN TỘC THIÉU SÓ VIỆT NAM
Cố vấn Ban Chỉ đạo: Nhà thơ Hữu Thinh Chu tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam
BAN CHỈ Đ Ạ O
1. Nhà văn Tùng Điển (Trần Quang Điển) Trướng ban 2. Nhà nghiên cứu. TS. Đoàn Thanh Nô Phó Trướng ban
3. TS. Trịnh Thị Thủy
4. Nhạc sĩ Nông Quốc Bình
5. GS.TS. Nguyễn Xuân Kính 6. PGS.TS. Lâm Bá Nam
1. ThS. Vũ Công Hội
8. ThS. Phạm Văn Trường
9. ThS. Nguyễn Nguyên
10. ThS. Nguyễn Ngọc Bích
Giám đốc
Phó Trướng ban
ủy viên kiêm Giám đốc ủy viên
ủy viên
Uy viên
Uy viên
ủy viên
ủy viên
Nhạc sĩ Nông Quốc Bình
LỜI GIỚI THIỆU
9
y ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam là tố chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, thành viên của Mặt trận Tố quốc Việt Nam, mái nhà chung cua các Hội Văn học nghệ thuật cả nước. Liên hiệp gồm 74 tố chức thành viên với trên 45.000 hội viên là văn nghệ sĩ thuộc các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương và các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó có Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam.
Trải qua gần 25 năm hình thành và phát triển, đến nay Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam đã có hơn một nghìn hội viên, trone đó gần 600 hội viên là người dân tộc thiếu số hoạt động tại 34 tố chức cơ sờ và các chi hội, tinh thành hội trong cá nước. Trong giai đoạn từ năm 1999 đến nay, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đã có hàng nghìn công trình, tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiếu số Việt Nam được sưu tầm, nghiên cứu, biên dịch, sáng tạo.
7
Bộ sách này là một phần cua Đe án "Báo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam”, với mục tiêu là thực hiện chính sách dân tộc cùa Đàng, Nhà nước nhàm báo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam; quảng bá di sản văn hóa các dân tộc thiêu sô Việt Nam với bạn bè thế giới; góp phần xây dụng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bàn sắc dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đấy tiến trình đấy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bô sung nguồn tài liệu phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu, trao đổi, giao lưu và phát triển văn hóa giữa các tộc người, nhân dân trong và ngoài nước, với cộng đồng quốc tế.
Bộ sách là kết quả từ kho tài liệu hàng nghìn công trình, tác phẩm đã được nghiên cứu, sưu tầm, biên dịch, sáng tạo qua nhiều thế hệ tác giả, nghệ nhân, hội viên của Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện bộ sách, Ban Chi đạo mong nhận được góp ý của quý bạn đọc gần xa.
TM. BAN CHÌ ĐẠO
TRƯỞNG BAN
Nhà vãn Tùng Điển
Phó Chú tịch Thường trực
Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam 8
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
LỜI NÓI ĐẦU
Di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng
cảnh chính là những tài sản vô giá trong kho tàng văn hóa lâu đời của dân tộc. Nó không chi là những món quà của thiên nhiên ban tặng cho con người mà còn là kết quả, là chứng tích của quá trình lao động và chiến đấu không mệt mỏi trong quá khứ của cha ông ta.
Kiên Giang là một trong những tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long nằm ở phía Tây Nam của Tổ quốc, giáp với Campuchia và Thái Lan. Tỉnh có diện tích vào khoảng 6.248km2 đất liền và 63.290km2 mặt biển với bờ biển dài hơn 200km và hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ; có 13 huyện thị; dân số hơn 1.400.000 người bao gồm người Kinh, người Hoa, người Khmer với những nét văn hóa độc đáo, tài nguyên thiên nhiên và nhân văn đa dạng, phong phú... Tỉnh có rất nhiều di tích lịch sử và danh lam thang cảnh quan trọng. Theo thong kê của ngành vàn hóa, toàn tinh Kiên Giang có khoảng
9
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
100 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó có 19 di tích cấp quốc gia được phân bố ớ khấp các huyện, thị trong tinh mà tập trung nhất là ớ Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc, u Minh Thượng...
Trong mồi di tích và danh thắng đều ẩn chứa chiều sâu thấm mỹ, chiều sâu lịch sử của dân tộc, nó còn chứa đựng tình cam, ý chí, trí tuệ và tâm linh bất diệt của nhân dân Việt Nam trong quá trình xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Đó là hồn thiêng sông núi và là tiềm năng nhân văn phong phú cần được khai thác và phát huy. Vì vậy, việc nghiên cứu, giới thiệu vấn đề này đê mọi người cùng cảm nhận, cùng góp phần bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc là việc làm rất cần thiết và rất có ý nghĩa.
Tiếp theo những công trình tìm hiểu, nghiên cứu về Kiên Giang đã được công bố (xem phần danh mục tài liệu tham khảo cuối sách), tác giả biên soạn cuốn) Kiên Giang - Di tích và Danh thắng này với nguyện vọng được cung cấp cho cho bạn đọc gần xa muốn tìmi hiểu về Kiên Giang một số kiến thức bô ích và lí thú
Cuốn sách tập trung đề cập một số đặc điềm chính của các di tích, danh thắng, ghi dấu những sự kiện và ahâm vật tiêu biêu của tỉnh và được trình bày theo từng huyện thị đế tiện phục vụ cho nhu cầu tham quan, tìm hiểu.,
10
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
nghiên cứu của quý bạn đọc. Tác gia rất mong cuốn sách sẽ được sự đồng cảm và đón nhận cua độc giả.
Trong quá trinh biên soạn, tác giả đã tham khảo, sư dụng nhiều tư liệu, tài liệu từ những tác phâm, công trình nghiên cứu, bài viết đã được công bố và một số tài liệu có liên quan của các bạn đồng nghiệp, đồng (hời cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu đọc sửa, hiệu chình và góp ý kiến như ông Bùi Văn Thạnh - Nguyên Giám đốc Sớ Văn hóa, Thế thao và Du lịch Kiên Giang; ông Trương Văn Nhu - Giám đốc Sở Văn hóa, Thế thao và Du lịch Kiên Giang; nhà nghiên cứu Trương Thanh Hùng - ủ y viên Ban chấp hành Trung ương Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam... Tuy vậy, việc sưu tầm, biên soạn khó tránh khởi thiếu sót. Tác giả rất mong quý vị độc sẽ cho ý kiến đóng góp để cuốn sách được phong phú, đầy đủ và chuẩn xác hơn.
Chúng tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Kiên Giang, Hội Văn nghệ Kiên Giang, cảm ơn các nhà nghiên cứu đã góp ý, tạo điều kiện để cuốn sách sớm được ra mắt bạn đọc.
Tác giã
Đoàn Thanh Nô
11
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG 12
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THANG
Chưong I
KHÁI LƯỢC LỊCH s ử - VĂN HÓA KIÊN GIANG
1. Đặc điểm tự nhiên
Như chúng ta biết, Kiên Giang là dãy đất tận cùng ở phía tây nam Tổ quốc, phía đông và đông nam giáp các tỉnh: An Giang, Hậu Giang, phía nam giáp tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, phía tây giáp Vịnh Thái Lan, phía bắc giáp vương quốc Campuchia.
Neu đi bằng phương tiện máy bay loại nhẹ ngắm nhìn từ độ cao vài trăm mét, sẽ thấy toàn bộ địa hình cua Kiên Giang tương đối bàng phang, có hướng thấp din từ đông bắc xuống tây nam giống như bức tranh thủy mặc với muôn hình kỳ thú. Phía đông bắc có độ cao trung bình từ 0,8 - l,2m, xuống tây nam độ cao trang bình từ 0,2 - 0,4m, riêng bán đảo Cà Mau (tiuộc các huyện An Biên, An Minh, u Minh Thượng, Vĩnh Thuận) có độ cao từ 0,2 - 0,4m, một số nơi có
13
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẦNG
độ cao Om. Đặc điêm địa hình này cùng với chế độ thuy triều biên Tây đã chi phối khá lớn đến kha năng tiêu thoát úng về mùa mưa của vùng, đồng thời vùng này cũng bị ảnh hướng bới nước mặn. nhất là các tháng cuối mùa khô. Vùng hai đảo Phú Quốc, Kiên Hái địa hình có nhiều đồi núi rất thích hợp cho loại hình du lịch leo núi.
Điều kiện khí hậu cua Kiên Giang cũng có nhiều thuận lợi, ít xảy ra thiên tai, ánh sáng nhiệt lượng dồi dào, không khí trong lành, thuận lợi cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi sinh trưởng, tạo nên một môi trường sinh thái đa dạng rất tốt cho du khách tham quan nghi dưỡng dài ngày.
v ề dân số và lao động, tính đến ngày 1/4/1999 toàn tính có 1.494.400 nguời, nam là 736.600 ngirời, nữ là 757.800 người, chú yếu thuộc ba dân tộc: Kinh (84,9%), Khmer (12,1%) và Hoa (3%). Dân số nông thôn là 1.122.700 người (năm 1996), chiếm 79% tổng số dân. Chính cơ cấu dân số, dân tộc này đã tạo ra sự phong phú về phong tục tập quán, tín ngưỡng, về sắc thái văn hóa đậm chất biển đảo núi đồi Kiên Giang.
về tài nguyên nước, nguồn nước ngầm trong phạm vi toàn tinh có bảy phức hệ chứa nước, trong đó chỉ có một phức hệ Pleistonxen (QI-III) là đối tượng trực tiếp cung cấp nước cho sinh hoạt.
14
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THANG
Vẻ tài nguyên đât, tông diện tích đất tự nhiên là 617.625ha (đất liền 254.276ha, hái đảo 62.975ha) chiếm 15,6% diện tích đất đồng bang sông Cứu Long. Đât đai phù hợp cho việc phát triến nông nghiệp. Năm 2006. tông diện tích đất nông nghiệp của tinh là 318.44ha, chiếm 51,6% diện tích đất tự nhiên, trong đó đất lúa là 248.299ha chiếm 77,97% diện tích đất nông nghiệp. Đất lâm nghiệp chiếm 33,4% diện tích tự nhiên (trong đó diện tích đã có rừng là 82,178ha, đất chưa có rừng là 124,232ha); đất chuyên dùng chiếm 5,3%, đất thố cư chiếm 1.2%. Kiên Giang có quỳ đất chưa sử dụng là 52.100ha chiếm 8,4%. Đây cũng là điều kiện tốt cho các nhà đầu tư.
Tài nguyên rừng, gỗ của Kiên Giang không nhiều, trữ lượng cũng không lớn so với các tỉnh miền Đông Nam bộ, nhưng có ý nghĩa to lớn đối với việc phòng hộ và bảo vệ môi trường với hai rừng quốc gia là u Minh Thượng và Phú Quốc. Đây là hai khu rùng nguyên sinh đưực bảo tồn đa dạng sinh thái, rất có giá trị cho những ai muốn khám phá thế giới động thực vật, và tham gia loại hình du lịch thám hiểm sinh động (Phần này sẽ giới thiệu cụ thể trong chương viết về Phú Quốc - Kiên Hải).
về thủy sản, Kiên Giang là tinh có nguồn lợi thuy sản đa dạng và phong phú, bao gồm tôm, cá các
15
KIÊN GIA N G - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
loại thuộc đặc sản nội địa và ven biên. Đó là những sản vật tự nhiên tạo nên sắc thái ẩm thực độc đáo của địa phương.
Tài nguyên khoáng sản của Kiên Giang tuy không nhiều, nhưng trừ lượng khá. Đây là tình duy nhất ở đồng bằng sông Cửu Long có nguồn đá vôi tương đối nhiều, không chi có giá trị về mặt sán xuất vật liệu xây dựng, mà núi, hệ thống núi đá vôi còn tạo ra những hang động và những danh lam thắng cảnh vừa có ý nghĩa lịch sử, vừa có sức hấp dẫn đối với khách tham quan du lịch thích khám phá hang động, chinh phục núi cao. Đá xây dựng có trữ lượng khoảng vài chục triệu mét khối. Đá granite, trữ lượng ước khoảng 10 triệu mét khối. Ở Phú Quốc còn có mỏ huyền, ở Hà Tiên có thạch anh để làm đồ ưang sức mỹ nghệ độc đáo có một không hai. Cát làm thủy tinh trữ lượng khoảng 3 triệu mét khối, thành phần chù yếu là thạch anh (trung bình từ 98 - 99% SÌ02). Than bùn trữ lượng ước khoảng 150 triệu tấn, than bùn có thể sử dụng trong
nhiều lĩnh vục như làm chất đốt, phân bón... 2. Tên đơn vị hành chính qua các thời kỳ
Nghiên cứu vấn đề này chúng ta sẽ bị cuốn hút bời sự thay đổi về tên gọi đơn vị hành chính của Kiêm Giang qua các thời kỳ:
16
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
Trước thời kỳ Mạc Cưu, người Bồ Đào Nha gọi Hà Tiên là Carol, người Hoa gọi Cancao (Cản Khâu).
Khi Mạc Cửu thần phục chứa Nguyễn và được phong làm Tổng binh (1708 - 1736) gọi là Hà Tiên (cách gọi chính thức của nhà Nguyễn), còn trong dân gian người Khmer gọi là Peam, người Hoa gọi là Phương Thcmh, người Việt gọi là Hà Tiên. Đen thời Mạc Thiên Tích (1736 - 1777) Hà Tiên là trấn - trấn Hà Tiên. Năm 1788 Hà Tiên thuộc trấn Vĩnh Thanh.
Năm 1836 gọi là tinh Hà Tiên với địa bàn rất rộng bao gồm ca tinh Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau hiện nay, khi ấy đã lập xong địa bạ vào mùng 3 tháng 6 năm Minh Mạng thứ 17. Năm 1867 thực dân Pháp chia tỉnh Hà Tiên chia làm ba hạt gồm hạt Hà Tiên, hạt Rạch Giá và hạt Bạc Liêu. Năm 1900 gọi là tỉnh. Từ năm 1945, đối với chính quyền kháng chiến, tỉnh Kiên Giang ngày nay là hai tỉnh Rạch Giá và Hà Tiên, đến năm 1950, tỉnh Hà Tiên sáp nhập vào tỉnh Long Châu Hậu thành tỉnh Long Châu Hà. Năm 1951, tỉnh Rạch Giá bị phân chia để nhập vào các tỉnh cần Thơ, Bạc Liêu. Sau ngày đình chiến đến ngày 22 tháng 10 năm 1956, hai tinh Rạch Giá, Hà Tiên được sáp nhập thành tỉnh Kiên Giang thuộc chế độ Việt Nam Cộng hòa
17
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
(Ngô Đình Diệm). Đối với chính quyền cách mạng cũng sáp nhập Hà Tiên vào Rạch Giá nhưng vẫn gọi là tỉnh Rạch Giá. Từ năm 1975 đến nay (2003) tinh Kiên Giang vẫn giữ nguyên tên, địa phận và ranh giới cũ, chỉ có lập thêm và đối tên một số huyện, thị như thị xã Rạch Giá trơ thành thành phố Rạch Giá, huyện Hà Tiên được tách ra thành thị xã Hà Tiên và huyện Kiên Lương, huyện Châu Thành (Châu Thành B cũ), huyện Hòn Đất (Châu Thành A cũ), huyện Kiên Hai, huyện An Minh (phân chia từ An Biên cũ) và huyện Kiên Lương (từ Hà Tiên cũ). Mới đây thành lập thêm huyện Ư Minh từ các huyện An Minh, An Biên, một phần cùa huyện Vĩnh Thuận; tách một số xã cua huyện Kiêm Lương, thành lập huyện Giang Thành.
Do giới hạn của cuốn sách, chúng tôi không có điều kiện trình bày sâu hơn về vấn đề này, nhưng việc ủm hiêu cội nguồn các địa danh này luôn là sự hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu cũng như khách tham quan.
3. Lịch sử nhân văn
Trấn Hà Tiên xưa (1708) - tỉnh Kiên Giang ngày nay - là nơi hội tụ của cộng đồng các dân tộc Việt, Khmer. Hoa đến đây làm ăn sinh sống, khai phá m a mang bờ cõi. Lịch sử của vùng đất giàu và đẹp này đã
18
KIÊN CiIANG - DI TÍCH VÀ DANH THÄNG
<:hi lại công lao cua các thế hệ tiền nhân người Việt, r.gười Khmer, người Hoa, trong đó có các nhân vật ciến hình như Mạc Cưu, Mạc Thiên Tích... Các vị đã têp nối bước chân những người đi trước, đóng góp tiêt bao công sức vào việc khai phá, kiến tạo sự phồn tiịnh cùa trấn Hà Tiên.
Từ xa xưa, cộng đồng người Việt đã có mặt ớ đây, tên cạnh có người Khmer, rồi người Hoa di cư đến... họ đã góp phần quan trọng ghi dấu ấn của mình trong Ich sử khai mở và kiến tạo đất nước "từ Nam Quan
ỏến Hà Tiên Đặc biệt, những di chỉ khảo cổ tìm được ỏ Kiên Giang nằm trong di sản văn hóa Óc Eo tại các da danh như Đá Nôi, Nền Chùa (ở huyện Hòn Đất), Cạnh Đền (huyện Vĩnh Thuận), Giồng Đá, Mốp Găng... là những cứ liệu khoa học quý giá minh chứng cho sự hội tụ văn hóa và các hoạt động làm nên nét đa cạng phong phú trong đời sống sinh hoạt vật chất và tnh thần của các dân tộc trên địa bàn Kiên Giang.
Triều đình nhà Nguyễn cũng có công rất lớn tiong việc mớ mang bờ cõi. Các vị đã đốc thúc việc khai hoang, lập àp, lập đồn điền... hình thành những ti điểm dân cư, thiết lập chính quyền, để lại những dấu ấi đầu tiên cua Nhà nước phong kiến Việt Nam ở
19
KIÊN GIA N G - DI TÍCH VÀ DANH TH Á N G
vùng này. Trong đó, nôi trội hơn ca là những chính sách thúc đấy các hoạt động kinh tế: phát triên nghề nông, nghề biển; mớ mang giao thông đường thuy, đào kinh Thoại Hà nối bờ tây sông Hậu với Rạch Giá. đào kinh Vĩnh Te nối liền Châu Đốc với Hà Tiên...; xây dụng các tụ điểm thương mại, giao lưu buôn bán với bên ngoài thông qua cảng Hà Tiên.
Trong lịch sứ đấu tranh chống ngoại xâm cua vùng đất này, người anh hùng dân tộc Nguyễn Truns Trực được nhân dân các dân tộc ơ Kiên Giang suy tôm là ông Soái - người lãnh tụ tài ba của cuộc khơi nghĩa chống thực dân Pháp ngay từ những ngày đầu chúng đặt chân đến đánh chiếm nơi đây. Ngoài ra, đất Kiên Giang cũng là nơi sinh ra những danh nhân mà tên tuôii đã làm rạng rỡ quê hương như Trần Chánh Chiếu, Huỳnh Mần Đạt, Nguyền Thần Hiển, Đông Hồ, Trần Bạch Đăng...
Trong suốt quá trình lịch sử từ thời sơ khai cho đến khi phồn thịnh, vẻ vang và oanh liệt nhất là giai đoạn mà quân và dân Kiên Giang dưới sự lãnh đạo của Đang Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là Đáng bộ tinh Kiên Giang đã tiến hành cuộc kháng chiến và giành thắng lợi trước hai kè xâm lược hung hãn của thời đại
20
KIÊN GIA NG DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
la thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trong suốt 30 năm từ năm 1945 đến 1975. Chặng đường lịch sư này với những chiến tích, chiến công lừng lẫy, đã ghi lại dấu ấn về những nhân vật, những địa danh nôi tiếng, mà mồi khi nhẳc đến thì không chỉ người dân Kiên Giang mà nhân dân ca nước rất đỗi tự hào, khâm phục. Đó là ring u Minh Thượng, căn cứ địa cách mạng của Xứ ủy Nam kỳ, liên Tính ủy, địa bàn đóng quân của lực lirợng vũ trang Quân khu 9, cùa nhiều tổ chức cách mạng Nam bộ... Đó là những địa danh Cây Bàng, Ngã Tư Công Sự, Kinh Xáng xẻo Rô, Lộ Lục Phi... Đó là Hòn Đất với hình ảnh hy sinh cao đẹp đã đi vào sử sich cùa người nữ chiến sĩ cách mạng Phan Thị Ràng (chị Sứ), nữ anh hùng lực lượng vũ trang Mai Thị Hồng Hạnh ở huyện Giồng Riềng... Hay đó là con đường vận chuyển chiến lược 1C, đoạn cuối của đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ, con đường chi viện, tếp tế quân lương từ hậu phương miền Bắc cho mặt tTận miền Nam. Đây thực sự là những trang vàng trong pho sử Kiên Giang. Nhân dân cả nước đánh giá cao rhừng chặng đường lịch sử vẻ vang mà Kiên Giang đã tĩải qua, Đảng và Nhà nước đã tặng thướng danh hiệu Ánh hùng lực lượng vũ trang cho Đảng bộ và quân tân Kiên Giang, cho 10/13 đơn vị cấp huyện/thị xã và
21
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
34/111 đơn vị Cấp xã/phường; phong tặng gần 500 bà mẹ Việt Nam anh hùng; 27 cá nhân và 37.315 cán bộ chiến sĩ được tặng Huân chương kháng chiến.
Tất cả đều là những tài sản vô giá mà nhân dân Kiên Giang đã kiến tạo được trong lịch sứ, nó luôn được trân trọng và giữ gìn như một phần không the thiếu trong hành trang bước vào tương lai mới của địa phương.
KIÊN GIANG DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
Chưong II
MỘT SỐ DI TÍCH LỊCH s ử - VĂN HÓA TẠI THÀNH PHÓ RẠCH GIÁ
VÀ HUYÊN CHÂU THÀNH •
Rạch Giá là tỉnh lỵ, là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh Kiên Giang. Nơi đây ngoài các di tích lịch sử - văn hóa nối tiếng, còn có khu thể thao đạt chuẩn quốc gia và rất nhiều khu vực vui chơi giải trí hấp dẫn. Ngày nay. thành phố biến này khá nhộn nhịp với nhiều hoạt động kinh tế, văn hóa và du lịch, đây thực sự là điểm dừng chân, nghỉ ngơi lí tưởng của du khách tước khi đến với Hà Tiên, Phú Quốc và các địa danh khác của Kiên Giang.
1. Bảo tàng Kiên Giang
Đây vốn là nhà từ đường cồ lớn và đẹp nhất còn lai ớ thành phố Rạch Giá. Ngôi nhà nằm trong một khu dinh cơ lớn. có bờ rào song sắt cao 2m báo vệ. Nhiều nhà to nho ngang dọc để làm nhà ngù, nhà kho, rhà bếp.
23
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
Kiến trúc ngôi nhà rất cố kính và đẹp. Bên ngoài như một ngôi nhà Tây sang trọng, nhưng bên trong lại thiết kế theo kiểu nhà Việt Nam cổ truyền. Hoa văn phong phú, chạm trố cầu kì, đường nét sắc sao. Đồ đạc bang gỗ quý kham xà cừ. Tất cả tạo cho ngôi nhà vè đẹp lộng lẫy mang giá trị nghệ thuật cao, nghệ thuật kiến trúc truyền thống của Việt Nam.
Dựa vào vị trí và sự thuận lợi của ngôi nhà, di tích này đã được dùng làm nhà trưng bày cho Báo tàng tỉnh. Bao tàng gồm ba phần chính: Kiên Giang đất nước con người; di chỉ khảo cố của nền văn hóa Óc Eo trên địa bàn Kiên Giang; giới thiệu lịch sử phát triển cùa Kiên Giang từ khi Mạc Cửu khai dụng Hà Tiên (giữa thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII) đến nay.
Phần thứ nhất giới thiệu sản phấm của một số nghề truyền thống như: nghề làm đồ mỹ nghệ đồi mồi (Hà Tiên), nghề làm nước mắm (Phú Quốc), nghề làm nồi đất nung (Hòn Đất), nghề dệt chiếu (Tà Niên), nghề đan đồ tre (VTnh Thuận). Những nghề này cho đến nay vẫn đang phát triển ớ Kiên Giang, nổi bật là nghề trồng lúa nước và đánh bắt cá biển. Ngoài ra còn gần hai mươi tấm ảnh giới thiệu hầu hết các cánh đẹp của Kiên Giang như: sân chim u Minh. Hòn Tre - Kiên Hai. Dinh Cậu - Phú Quốc, Lăng Mạc Cun, Mũi Nai... Tuy phần trung bày còn sơ lược, nhưng vần nêu bật được nội dung “Vài nét về Kiên Giang”.
24
KIÊN GIANG DI TÍCH VÀ DANH THÃNG
Phần tiếp theo giới thiệu khá đầy đu về nền văn hóa Óc Eo như tập quán tín ngưỡng, sinh hoạt, sản xuất, cô sinh vật. kiến trúc... Hiện Báo tàng đang lưu giữ Linga và Yoni bằng đá nặng vài trăm kilogam, cao
l,2m, đây là cặp Linga và Yoni thuộc loại lớn nhât so vói những cặp khác trong những bao tàng ở miền Nam; hai bức tượng quý giá là thần u Ma cưỡi trâu (bằng đồng) và tượng Phật (bằng đá đã mất đầu).
Qua các hiện vật chúng ta có thế nhận thấy người cổ đã biết sư dụng nhiều vật dụng bằng đất nung, gốm, đá, gỗ và kim loại phục vụ cho đời sống sinh hoạt và sin xuất của mình. Đồng thời chúng ta cũng biết rằng người Phù Nam đã thiết lập một bộ máy hành chính, thông thương liên lạc, đã biết sử dụng các loại đá quý vàng, kim loại để làm đồ trang sức và chế tác khá tinh xảo. Bảo tàng Kiên Giang còn trưng bày hai chiếc sọ (một sọ phụ nữ khoảng 40 tuổi và một sọ trẻ con khoảng 8, 9 tuổi) cùng một số xương thú vật như trâu bò, mèo, cá sấu, chó - những mảnh xương này đã được xác định bằng phương pháp C14, chúng có niên đại từ thế kỷ I - VI trước Công nguyên. Nen văn hóa Óc Eo đang được tìm hiếu và gìn giữ thông qua việc bảo tồn những hiện vật đa dạng và quý hiếm.
Phần cuối, cũng là phần chính của Bảo tàng giới thiệu lịch sử hình thành và phát triển của Kiên Giang từ giữa thế kỷ XVIII đến Đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên Giang lần thứ VI (năm 1996).
25
KIÊN GIANG DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
Mạc Cửu và dòng họ Mạc được coi như là người đầu tiên khai phá và xây dựng đất Kiên Giang. Có chín sắc phong của vua Minh Mạng, Tự Đức, Thiệu Trị và quyên Mạc Thị gia pha được trưng bày ớ Bao tàng.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân Kiên Giang đã tiến hành các cuộc khởi nehĩa chống lại sự xâm lược của họ. Trong đó tiêu biểu là cuộc khơi nghĩa của người anh hùng Nguyên Trung Trực nô ra tại Rạch Giá. Manh ván thuyền và lưỡi kích của nghĩa quân Nguyền Trung Trực đã được giới thiệu tại đây. Ngoài ra Bao tàng còn trưng bày các loại vũ khí thô sơ và tự tạo, sa bàn, bản đồ, hình ảnh đế minh họa cho từng thời kỳ lịch sử cùa tinh Kiên Giang trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chổng Mỹ. Tiếp đó có một mảng nhỏ giới thiệu về cuộc chiến đấu của quân và dân Kiên Giang chống chế độ diệt chúng Pôn Pốt (1979).
Trung tâm cùa phần trung bày là “Một số thành tựu sau giai phóng và nhũng năm đổi mới” . Thành quả của các ngành công, nông, ngư nghiệp được thể hiện cụ thê băng các băng khen, huân chương, cờ, sản phâm. hình ảnh, biêu đồ. Ánh của các kỳ đại hội cũng được trang trọng giới thiệu.
Nhà trưng bày của Báo tàng giúp chúng ta hiêu rõ sự thăng trầm của lịch sử, sự đấu tranh anh dũng và lao động gian khổ của nhân dân để tạo nên một Kiên Giang giàu đẹp ngày nay.
26
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
2. Cống Tam Quan
Cưa ngõ vào thành phố Rạch Giá là một công trình kiến trúc đẹp, một biếu tượng cua Rạch Giá - cổng Tam Quan.
Công Tam Quan nằm trên đường Nguyền Trung Trực, cửa ngõ vào nội ô thành phố, là một công trình kiến trúc mang đậm nét văn hóa truyền thống Việt Nam. Cổng do ông Nguyễn Văn Vinh thiết kế mỹ thuật, thầy Ba Chất thi công năm 1959. Tam Quan gồm ba cửa: một cứa chính, hai cửa phụ hai bên; có bốn trụ; mái ba theo kiểu mái vòm cố truyền, trên mái trang trí hình cá hóa long. lân. Vật liệu xây dựng chù yếu bàng gạch, vôi, cát.
Cổng Tam Quan ở Rạch Giá đã tồn tại nửa thế ký nay như là một “cổng làng” cùa người Việt ở đây. Với dáng đứng sừng sững hiên ngang giữa nắng mưa bão táp, giữa những cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, cổng Tam Quan đã thể hiện nét văn hóa, thề hiện ý chí kiên cường, niềm tự hào của quê hương và luôn rộng mở đón chào bè bạn bốn phương đến với Rạch Giá - Kiên Giang.
3. Đình Nguyễn Trung Trực
Đình cách cửa biên Rạch Giá độ vài trăm mét. Bên cạnh đình có cây đa cổ thụ quanh năm bóng trùm mát rượi, cồng đình khang trang, nối bật với hai câu
27
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THANG
thơ của Huỳnh Mần Đạt ca ngợi chiến công hiên hách cùa người anh hùng:
Hóa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiêm bạt Kiên Giang klìâp quy thân.
Đình Nguyền Trung Trực đã trai qua nhiều thăng trầm của lịch sử. Ngày 27/10/1868, khi ông bị nhà cầm quyền thực dân Pháp hành hình, nhân dân làng Vĩnh Thanh Vân kè góp công, người góp cua dựng lên ngôi đình thờ ông băng cột gô, mái ngói đơn sơ. Đê che mắt nhà cầm quyền Pháp, đình không có bài vị ghi tên thật của ông (mà nhân dân chỉ ngầm bảo nhau: “Đình ông Nguyền”); truớc cổng ngụy trang bàng tấm bàng đề "Đình Nam Hái Đại Tướng Quân’' tức là đình thờ cá Ông.
Khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhân dân Rạch Giá thoát khỏi gông xiềng cua chế độ thực dân đã hân hoan kéo đến đình làm lề trụng thể tương nhớ ông. Cuối năm 1964, lợi dụng chiêu bài “quốc gia”, “dân tộc” của chính quyền Sài Gòn Việt Nam Cộng hòa, nhân dân Rạch Giá khởi công xây dụng lại ngôi đình này và khánh thành vào ngày 24/12/1970. Đình cất theo lối cồ truyền gồm có: đông lang, chính điện và tây lang, mái ngói âm dương.
Mái đầu đao có hình phụng hoàng cách điệu và hình sóng nước. Hai cột hiên đúc bằng xi măng có hai con rồng đầu cất lên ở chân cột. Dòng nước phun ra từ
28
KIF.N GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
niệng rồng chay xuống tạo thành hai bờ viền tam cấp. Trong chính điện thờ bài vị và chân dung Nguyễn Trung Trực. Hai bên bàn thờ là các giá binh khí. cờ, lọng và đồ thờ tạo nên vé trang nghiêm tôn kính.
Cũng cần nói qua một chút về cuộc đời và sự rghiệp cua người anh hùng yêu nước được nhân dân \ùng đồng bằng sông Cưu Long vô cùng tôn kính này.
Nguyền Trung Trực (1838 - 1868) sinh ra ờ Bình Nhật, huyện Cìru An phu Tân An (nay thuộc xã Bình Đức. huyện Ben Lức, tỉnh Long An), tên thật của ông là Nguyền Văn Lịch. Xuất thân từ nghề chài lưới rồi vào linh thuộc hệ thống lính đồn điền của quan Kinh lược Nguyền Tri Phương. Khi người Pháp bất đầu xâm lược Nam Kỳ ông đã gia nhập lực lượng nghĩa quân dưới quyền chỉ huy của Trương Định vào năm 1861. Nguyền Trung Trực đã tùng giữ nhiều chức quan trong triều đinh Huế: Quyền Sung quân binh đạo, chi huy toán quân Long An; Quản cơ lãnh binh Bình Thuận; Thành thủ úy Hà Tiên. Sau đó trở thành thủ lĩnh của nghĩa cuân mang tên ông (sau khi Hà Tiên thất thù)1.
Với hai chiến công oanh liệt là đốt cháy tàu chiến Hy Vọng (Espérance) và đánh chiếm đồn Kiên Giang, Nguyễn Trung Trực trở thành “tướng lĩnh nông - ngư cân xuất sắc” trong lịch sử chống xâm lược của nhân cân Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX.
1 Theo nhiều tư liệu, Nguyễn Trung Trực là người quê Bình Định. 29
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
Chiến công trên sông Nhật Táo
Nhật Tảo (thuộc xã An Nhật Tân, huyện Tân Trụ, tinh Long An) nằm giữa Ben Lức và Bao Ngược trên sông Vàm Co Đông. Nơi đây, vào giữa thế ký XIX, Nguyền Trung Trực đã tô chức cuộc phục kích đốt cháy tàu Espérance (tàu Hy Vọng) làm cho Pháp kinh hồn.
Sau khi chiếm được Mỹ Tho, quân Pháp thường xuyên cho tàu chiến vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động trên sông, trong đó có chiếc tiểu pháo hạm Espérance. Đây là một tàu gồ có chồ được bọc đồng chạy bằng hơi nước, được trang bị đại bác cùng nhiều vù khí đa năng và được coi là một trong những tàu thuộc hàng bậc nhất của hái quân Pháp lúc hay giờ. Trưa ngày 10/12/1861, Nguyền Trung Trực dùng ghe mui lớn chớ nghĩa quân thả trôi theo dòng nước cháy chậm. Trên ghe có chờ đuốc và con cúi giá làm ghe buôn, cập vào tàu Espérance đế xin giấy phép chư chuyến. Sau khi đâm chết tên Phó chỉ huy tàu, ông cùng nghTa quân mang chất dẫn hóa ào lên dùng hởa công thiêu rụi chiếc tàu giặc, tiêu diệt 17 lính và 20 cộng sự người Việt. Lần đầu tiên trong lịch sử chống Pháp, chiến binh Việt Nam đã đốt cháy một tàu chiến của nước “Đại Pháp”. Chiến thắng này đã được triều Nguyễn ban thưởng và ghi chép lại trong sử sách. Còn với người Pháp, đây là “/nộí biến cố đau dim làm chơ người An Nam phan chan và gây xúc động sâu sắc trong lòng người Pháp”. Sau chiến công này, triều đìnhi
30
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THANG
nhà Nguyền đã gọi ông về thăng chức Quan cơ lãnh binh tinh Bình Thuận.
Trận đánh chiếm đồn Kiên Giang
Từ giữa năm 1862, chính quyền thực dân Pháp đã chiếm xong ba tinh miền Đông Nam Kỳ. Năm năm sau. triều đình nhà Nguyền cư phái đoàn đi yết kiến Na-pô lê-ông III, xin chuộc ba tinh đã mất nhưng nhà cầm quyền Pháp tráo trở và chiếm luôn ba tinh miền Tây (VTnh Long. Châu Đốc, Hà Tiên).
Giữa năm 1867, Nguyền Trung Trực lại trở về nhậm chức Thành thủ úy Hà Tiên vào giữa lúc Hà Tiên bị thất thù. Ồng không đầu hàng người Pháp, không cộng tác với họ mà về Hòn Chông xây dụng căn cứ nghĩa quân với khẩu hiệu “Dân chúng tự vệ”. Từ căn cứ này, ông mở rộng địa bàn hoạt động, tập hợp lực lượng ở cả Tà Niên, Thầy Quơn, Đông Yên, Tây Yên, Phú Quốc, Sân Chim, Núi Sập...
Lúc đó, chính quyền thực dân Pháp đã xây dựng một đồn lính tại Rạch Giá gồm có lính người Pháp và lính mã tà dưới sự chỉ huy của đồn trưởng Sớt-tơ (Sautexne). Đêm ngày 16/6/1868, nghĩa quân của Nguyền Trung Trực tấn công đồn Kiên Giang ở Rạch Giá bằng hai mũi: từ Hòn Chông tiến theo đường biển, từ Tà Niên tiến ra bằng đường bộ. Trong đồn có lính mã tà làm nội ứng nên trận đánh diễn ra chớp nhoáng. Nghĩa quân đã giết đồn trướng Sớt-tơ cùng năm võ
31
KIÊN GIANG DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
quan và 67 lính thuộc Pháp, thu trên 100 khấu súng và nhiều đạn dược. Trại lính mã tà cua người Pháp bốc cháy, nghĩa quân ông Nguyền hoàn toàn làm chủ. Trận đánh đã làm cho người Pháp hoang mang “Một biến co
bi thảm mà hậu quá cố thế làm ton thưong đến uy tín người Pháp ở Việt Nam”.
Hai ngày sau (18/6/1868), nhà cầm quyền Pháp biết tin đồn Kiên Giang thất thù, lập tức họ đưa lực lượng quân sự ở Vĩnh Long do trung tá Pháp cùng Huỳnh Văn Tấn (Đội Tấn), Đồ Hữu Phương (Tổng đốc Phương) và Trần Bá Lộc (là người Việt Nam nhung phán bội Tố quốc tiếp tay cho người Pháp đàn áp lại nhân dân yêu nước đe cầu vinh) đến đàn áp nghĩa quân. Nguyền Trung Trực bố trí trận địa dọc theo đường thúy từ hướng Núi Sập tới Tân Hội và Phi Thông ngày nay. Sau ba ngày chiến đấu với lực lượng không ngang sức, ngày 21/6/1868, Nguyền Trung Trực cùng nghĩa quân lui về Hòn Chông để bảo toàn lực lượng, rồi rút ra Phú Quôc. ơ đây, ông dự định hội quân với Quản Thứ. bàn cách quay về đánh chiếm Hà Tiên.
Ke hoạch chưa kịp thực hiện thì nhà cầm quyền Pháp điều thêm lực lượng do Huỳnh Văn Tấn (người Việt Nam phản bội Tổ quốc) vượt biển ra Phú Quốc bao vây. truy kích nghĩa quân. Sau một thời gian cầm cự và chống trả anh dũng ở Hàm Ninh, Cửa Cạn, cuối cùng, ngày 19/9/1868, Nguyễn Trung Trực đã sa vào tay giặc và ông được giải về Sài Gòn đế tra khảo, dụ dỗ
32
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
nhung không khuất phục được khí tiết của ông. Ngày 27/10/1868. nhà cầm quyền Pháp phai đưa ông về Kiên Giang và xư chém tại Rạch Giá. Trước lúc hi sinh, ông đã tuyên bố với nhà cầm quyền Pháp: “Bao giờ người
Tây nhô hết có nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Câu nói đó đã phản ánh khí phách hiên ngang bất khuất và quyết tâm chống ngoại xâm đến cùng cua ca dân tộc Việt Nam.
Ngày 6/12/1989, đình Nguyền Trung Trực đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia. Hằng năm đến ngày giỗ ông (28 tháng 8 âm lịch), hàng trăm ngàn người đại diện cho đồng bào Việt Nam khắp cả nước và kiều bào ở nước ngoài nô nức tập hợp về đây làm lễ dâng hương trong ba ngày liền để tướng nhớ đến người anh hùng dân tộc bất khuất trung kiên bằng tấm lòng tôn kính, ngưỡng mộ.
4. Chùa Tam Bảo
Theo trục lộ từ Rạch sỏi về thành phố Rạch Giá, qua cổng Tam Quan khoảng 500m ta thấy một tấm bảng đề “Sắc tứ Tam Bảo tự”, theo con đường Sư Thiện Ân là đến chùa Tam Bảo, ngôi chùa đã được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa.
Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX bà Dương Thị Oán (tức bà Hoặng) dựng chùa bàng mái tranh vách
33
KIÊN GIA NG DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
đất tại địa điềm này đê tu hành nên nhân ân còn gọi là chùa Bà Hoặng. Chăng bao lâu bà Hoặng qua đời. Trai qua năm tháng, chùa được sửa đi, cất lại nhiều lần và cùng đã có nhiều người trụ trì. Mãi đến năm 1913 nhà sư Thích Trí Thiền, nhân dân thường gọi là ông Đạo Đồng (tục danh Nguyền Vãn Đồng 1882 - 1943) về trụ trì chùa Tam Bao. Năm 1917, ông Đạo Đồng khởi công xây dựng lại chùa, một năm sau thì xây xong.
Chùa được xây dựng trên nen cao ráo, thoáng mát. Ngôi chánh điện chiều ngang 14,50m, chiều dọc 22m. có ba nếp nhà kiến trúc theo kiểu thượng lầu hạ hiên, bên trên chạm khăe long, lân. quy, phụng. Mặt trước chánh điện ở cao phía trên hàng hiên có ngọn tháp ba tầng tượng trung cho tháp Cứu Phấm Liên Hoa. Trên đinh tháp có vòng bánh xe luân hồi. Mái đầu đao hai bên có hình ngọn lửa và hoa sen cách điệu. Trước cứa điện là tượng Đức Ông cao khoáng 2m.
Trong chánh điện, phía trước có tượng ông Thiện, ông Ác ở hai bên. Đáng chú ý là bức tượng Phật Thích Ca ở điện thờ chánh, pho tượng cao khoảng 5m tạc theo phong cách chân dung, mặt vuông, mắt nhò không nổi cằm, áo gấp biên lá sen nhiều nếp, đây là phong cách tạc tượng đầu thế kỷ XIX. Các bàn thờ đều có bao lam, chạm phượng và rồng. Tất cá năm bao lam đều thếp vàng rực rỡ. Sau lưng chánh điện, ờ giữa là bàn thờ Ngọc Hoàng Thượng Đe, hai bàn thờ hai bên thờ Quan Thánh Đe và Sư Tổ Đạt Ma. Đối diện với bàn thờ Ngọc
34
KI ẺN GIA NG DI TÍCH VÀ DANH THẤNCi
Hoàng là bàn thờ Chuân Đe Phật Mầu cưỡi con không ước. Sau chánh điện là sân, có hồ sen với thúy đình tiờ Phật Quan Âm. Hai bên sân có đông lang, tây lang, ơ trong cùng là nhà thờ tổ, thờ các vị hòa thượng trụ trì c chùa đã viên tịch. Sân tnrớc tây lang, phía bên hông chính điện có ngôi tháp gọi là Tam Bảo tháp với khuôn viên khá rộng... Xung quanh chùa rợp bóng cây, trong \ườn có tháp và miếu thờ. Ngoài cùng là tường gạch bao quanh bốn phía.
Chùa Tam Bảo đã từng là cơ sở của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kỳ hoạt động bí mật. Tại cây nhiều hiện vật vần còn được lưu giữ như tờ Tiến Hỏa, một tạp chí tiến bộ thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương và các di vật, di tích về sự kiện tàng trữ \ũ khí chuấn bị cho khởi nghĩa Nam Kỳ.
Năm 1935, hòa thượng Nguyễn Văn Đồng về trụ tì chùa Tam Bảo. Ông là người có công lớn trong việc tiành lập Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học và Hội Kiêm tế Phật học Rạch Giá, là sáng lập viên tạp chí Tiến hóa của Phật giáo Rạch Giá. Năm 1938, Hòa tiượng Nguyễn Văn Đồng đã hiến toàn bộ tài sản và ten bạc của chùa Tam Bảo cho tờ tạp chí Tiến Hóa.
Hòa thượng Đồng được nhà sư Thiện Chiếu giác ngộ cách mạng từ nhũng năm còn ở Sài Gòn. Vào những
2 Trước năm 1965 ở trong sân có một ngôi mộ tháp cao 1 l,50m , SIU đó được phá đi đê đào hô sen.
35
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH TH Ả N G
năm 1939 - 1940, chùa Tam Báo là nơi nhiều cán bộ cách mạng lui tới, nhiều Đảng viên cộng san ơ tại chùa với hình thức tu hành hoặc làm công qua. Chùa còn là địa điếm họp bí mật cua Đang, là nơi làm lựu đạn, cất giấu vũ khí. Ngày 14/6/1941 Hòa thượng Đồng bị chính quyền thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Ngày 26/6/1943, ông hi sinh tại đây sau một cuộc đấu tranh băng tuyệt thực.
Chùa Tam Bảo là nơi đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sứ trong đó nôi bật nhât là hai sự kiện:
Chùa là nơi ra đòi tờ tạp chí Tiến Hóa
Sau năm 1935, hòa thượng Nguyễn văn Đồng từ Sài Gòn về Rạch Giá, sư Thiện Chiếu từ Sài Gòn xuống và sư Pháp Linh từ Sóc Trăng sang, ba người chu động vận động thành lập Hội Kiêm tế Phật học Rạch Giá và tạp chí Tiến Hóa, là tờ ngôn luận của Hội. Hội đã vận động bà La Thị Minh đê lôi kéo chồng bà là Chánh chu tỉnh Đufour vào Ban Danh dự cùa Hội, đồng thời nhờ ông Đỗ Kiết Triệu là Đốc phủ sứ vốn rất mộ đạo đúng ra làm đơn xin thành lập Hội. Hội Kiêm tế Phật học Rạch Giá đã được thành lập.
Từ năm 1938 đến 1939, tạp chí Tiến Hóa đã in đuợc 15 số. Đây là một tạp chí tuyên truyền chù nghĩa yêu nước, tư tưởng của chù nghĩa Mác - Lênin nhằm khơi dậy tinh thần chống Pháp.
36
KIÊN G IA N G - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
Chùa Tam Bao là cư sớ cách mạng của Đáng Cộng sản Đỏng Drnmg từ trước năm 1945 Trong thời kỳ Đảng Cộng sản còn hoạt động bí mật, thì chùa là nút giao liên của Tinh uy Rạch Giá. Nhiêu cuộc họp bí mật của Đang đã họp tại chùa. Chùa là nơi sản xuất vũ khí, chứa vũ khí từ rùng u Minh chuyển về chuẩn bị cho cuộc khởi nghTa Nam Kỳ. Đêm 14/6/1941, chùa Tam Bảo bị lính mật thám Sa Đéc và Sở mật thám Rạch Giá bao vây, vào chùa lục soát, bất người. Nhiều người đã chạy thoát, nhưng hòa thượng Đồng, thầy Thiện Ân, thầy giáo Tất và vài sư cô bị bắt. Bọn lính lục soát từ chánh điện, đến hậu đường \à các liêu phòng.
Khi xét nơi ở của thầy Thiện Ân, bọn lính đã tìm thấy nhiều vỏ lon sữa bò, chảo bể, cọ sơn, dầu hắc, những ống tre đựng tài liệu mật và truyền đom. Bọn họ ¿ánh đập, tra khảo thầy, nhưng thầy kiên quyết không khai. Những tên lính này đào được cái khạp đựng lựu (tạn, lấy ra 61 quả lựu đạn xếp lên bàn, rồi lại tra tấn và rói thầy treo lên nóc chùa.
Một lúc sau, thầy Thiện Ân lừa bọn chúng để họ ằạ thầy xuống và cởi trói để thầy chỉ những nơi còn vũ khí. Đi ngang qua chiếc bàn chứa lựu đạn, thầy xô nạnh cái bàn để cho lựu đạn nổ nhằm giết hết mấy tên ằnh này nhưng chỉ có một quả lựu đạn rơi xuống gạch \à nổ tung làm một tên lính mật thám bị thương. Chúng lii tiếp tục treo thầy lên đánh đập tra kháo.
37
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
Cuối cùng bọn lính mật thám vơ vét hết tài san. bắt hết người trong chùa giải đi Sa Đéc rồi đi Sài Gòn. Tại Tòa đại hình Sài Gòn chúng kết án Trần Văn Thâu, Tám Lọ, Ninh (thợ bạc), Râu Lớn, Râu Nho, Phan Văn Báy, chị Hồng, chị Bé, chị Bưởi tù chung thân khô sai, ông Bay Cà 15 năm lù giam, hòa thượng Đồng 5 năm tù biệt xứ.
5. Đình Vĩnh Hòa
Đình Vĩnh Hòa của người Việt ơ Rạch Giá có kiến trúc theo kiểu đình chùa miền Bẳc.
Đình xây dựng lần đầu tiên vào năm nào chưa biết chính xác, ban đầu gọi là miếu Hội Đồng, về sau gọi là đình VTnh Hòa. Sách Đại Nam nhất thong chí của triều Nguyễn gọi đình VTnh Hòa là “Ngôi đền cố”. Bàn báo cáo của Giám đốc Sở Nội vụ với Thống đốc Nam Kỳ đề ngày 17/9/1867 cũng nói đình Vĩnh Hòa là “Ngôi đình cổ kính”.
Vì đình xây quá lâu, bị hư nát, nên năm 1883 được xây lại, giữ nguyên kiêu đình hai nóc trên vị trí cũ. Đình làm bằng gồ, tường gạch mái lợp ngói ống. Đầu thế kỷ XX đình lại hư dần, chỉ còn bốn cây đại trụ là nguyên lành. Năm 1925, các bậc kỳ lão trong làng rủ nhau làm lại, vẫn để nguyên hai nóc là tòa chánh và võ quy nhưng quay mặt về hướng đông (như ngày nay). Năm 1950, nhân dân đóng góp, xây thêm tòa võ ca, từ đó đình có ba nóc (tòa chánh, võ quy và võ ca).
38
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
Tòa chánh và võ quy làm băng cây căm xe và cây sơn đá (săn đá). Tòa võ ca làm toàn bằng cây săn đá. Năm 1958. đình được xây hàng rào xung quanh bằng xi măng cốt săt. Tòa chánh và võ quy thừ Thành Hoàng và cúng tế. Võ ca là nơi hát bội và tiếp khách. Đình không cao lấm, nhưng thoáng mát và giản dị. Trên nóc có đắp nôi bàng sành hình lường long tranh châu.
Cống đình xây theo kiểu Tam Quan, có hai tầng mái, có chữ đề "Đình Thần VTnh Hòa” và hai bên có càu đối bằng chữ Hán. Đình Vĩnh Hòa là ngôi đình cồ cứa tinh Kiên Giang, có hai giá trị lịch sử tiêu biểu:
- Là nơi sinh hoạt văn hóa cô truyên của người Việt.
- Là điểm hoạt động cách mạng của Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở Rạch Giá từ năm 1932. Năm 1932, chi bộ bí mật của Đảng Cộng sản được thành lập tại đây. Sụ kiện thành lập chi bộ Đảng và sự hoạt động cùa Đàng trước năm 1945, có sự đóng góp tích cực cùa ông Nguyễn Văn Thiệu.
Ông Thiệu quê An Giang, là con trai cụ Nguyễn Văn Khương, một nhà nho sớm có lòng yêu nước, chống Pháp. Năm 1928 - 1929, Nguyễn Văn Thiệu tham gia tổ chức “Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội” 0 Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp, năm 1931 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Khoảng năm 1931 - 1932, ông chuyển về sống tại Rạch Giá.
39
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
Từ năm 1932 - 1936 hoạt động cách mạng, lấy đình Vĩnh Hòa làm nơi liên lạc. Năm 1937, Nguyền Văn Thiệu bị thực dân Pháp bắt đày đi Côn Đảo. Năm
1945 ông ra tù, trớ về tiếp tục hoạt động cách mạng suốt hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông là tác giả các khánh thờ ờ đình Vĩnh Hòa, vì giỏi chữ Nho nên tham gia vào ban hưưng chức đình và được tín nhiệm cư viết, đọc vãn tế ơ đình. Năm 1932, Chi bộ Đáng Cộng san đã bí mật thành lập tại đình Vĩnh Hòa. Từ đó đình Vĩnh Hòa đã trở thành cơ sở hoạt động của chi bộ Đảng. Ông Nguyễn Văn Thiệu hằng ngày tới đình thắp hương, làm thợ mộc, viết văn tế, hoặc ngôi chơi với các cụ trong làng... đê bí mật trao đổi tin tức.
Sân đình có một cây đa lớn, cành lá sum suê, thân cây có một lồ kín. Lỗ kín này như một “thùng thư" trao đổi tài liệu của Đảng Cộng sản như công văn, giấy tờ, báo cáo... Những chiến sỹ giao liên dùng đến cây đa để trao đối rất nhiều tài liệu như Huỳnh Thị Sáng ở Tà Kiết, Dương Văn Xía ở Tắc Cậu, Chệt Lùn ở Tân Hội, anh Công ở Hòn Đất, Quế Khang ở Vĩnh Thanh Vân.
Từ đinh Vĩnh Hòa này phong trào cộng sản ngày càng phát triển sâu rộng trong tỉnh Kiên Giang.
6. Chùa Quan Đế
Chùa Quan Đế nằm ở trung tâm thành phố Rạch Giá. Xưa kia khu vực chùa là nơi hoang vu, chưa có tên
40
KIÊN CilANG - DI TÍCH VÁ DANH THÁNG
làng, tên xóm. Đen thế ky XVIII. người chạy loạn từ các nơi đến đây khai khẩn đất này đề lập nghiệp thì chùa mới được dựng, lúc đau chi là ngôi miếu với tên gọi là miếu Vĩnh Lạc, thuộc xã VTnh Lạc, huyện Kiên Giang, phu An Biên, tinh Hà Tiên.
Đến nãm 1927, miếu VTnh Lạc được xây thành chùa, đôi tên là chùa Quan Thánh, hiện nay nhân dân thường gọi là chùa Ông hoặc chùa Quan Đe, vì chùa thờ Quan Thánh Đế. Lúc mới đến người Hoa và người Minh Hương ớ nơi này khá đông. Theo truyên thông Trung Quốc, Quan Vân Trường là người quân tử chuẩn mực về đạo đức, nên rất được người dân Trung Quốc ngưỡng mộ, vì vậy họ xây dựng chùa đê thờ ông...
Chùa có kiến trúc tổng hợp thể hiện tính giao thoa văn hóa với các dân tộc đang sinh sống tại đây. Chùa dựng bằng gỗ căm xe, lợp ngói âm dương, tường làm bằng cát. sỏi, sạn với mủ cây ô dước giống như những kiến trúc cổ từ thế kỷ XVII ờ vùng Nam bộ. Chùa được trùng tu lần thứ ba vào năm 1981, có hệ thống chính điện hoàn chỉnh và nội thất được tô điểm độc đáo.
Chùa quay mặt về hướng bắc, kiến trúc khép kín, trước mặt là một sân rộng tráng xi măng, trên nóc chùa đắp những hình rồng uốn lượn. Chùa xây dựng theo lối chữ Tam. võ ca là phần gian trống, vách tường phía tả và phía hữu của chính điện có 12 bức bích họa miêu tả
41
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THANG
những trường đoạn theo cốt truyện Tam Quốc Chí (cua La Ọuán Trung), số bích họa còn lại miêu ta chim thú, phong cánh và các tích truyện Tàu khác. Đặc biệt trên mồi bức bích họa đều có điền thơ bằng chừ Hán viết theo lối “chữ thảo” rất bay bướm, tạo thêm nét sinh động và hoa mỹ cho mồi bức tranh. Màu vẽ các bức bích họa là một loại màu đặc biệt dù đã nhiều năm qua nó vần giữ được màu sắc và đường nét ban đầu. Bộ vì kèo cua chùa theo kiểu bộ vì kèo Huế biến the (một cột trốn ở giữa đỡ lấy bộ rường bên trên).
Mồi đầu rường và kèo đều được chạm trố công phu. Từ xà tới mái có đấp nối cấn sành nhiều canh vật thiên nhiên sinh động. Tòa tam ca ba gian, ba cửa ra vào, bốn hàng cột làm bàng gồ quý lớn nhó, đường kính khác nhau có tô màu, màu sắc vàng đỏ rực rỡ. Từ xà ngang hợp bốn vì kèo thành hình tam giác. Các bài vị thờ trong chùa được viết bằng chừ Hán. Nóc làm theo kiếu hai mái giữa bốn cột cao, giàn chạm hàng thứ nhất trang trí phụng long chầu nguyệt xen kê với hoa lá, ở giữa hàng thứ hai có chạm lưỡng long chầu nguyệt, chen giữa hoa lá là cảnh bát tiên. Nét chạm các con rồng mang đậm phong cách nghệ thuật đời Nguyễn: thân nhỏ. vây lưng lớn, râu xoắn, râu ở cam có hình răng cưa, đao đuôi nheo, đuôi không xoắn, chi xoắn ớ lông đuôi. Nét chạm mô tả tùng hành động của các nhân vật theo cốt truyện với chín con rồng tạo thành lường vọng.
42
KIẺN CiIANG DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
Đứng từ ngoài nhìn vào chùa, trên mồi khung bao đều có hai câu đối, hoành phi. Phần chính điện cũng chạm trô như phẩn tam ca. Ngoài canh long, phụng còn nhiều cảnh chạm chim, thú, hoa lá và cảnh thiên nhiên cách điệu. Tượng Quan Vân Trường được tạc theo phong cách ta chân dung của nghệ thuật tạo hình đâu thế kỷ XX. Tượng cân đổi hài hòa, toát lên vé uy mãnh và trang nhã của một bậc chính nhân quân tử.
Hai bên kháng thờ Quan Thánh có hai bức tượng Châu Xương và Quan Bình đứng hầu. Ngoài ra còn có một con ngựa gồ có kích thước gần giống thật. Cả công trình kiến trúc và giàn chạm trổ phải mất nhiều năm mới hoàn thành.
Với những nét kiến trúc hết sức đặc sấc nêu trên, chùa Quan Đế trờ thành một di tích văn hóa quý giá của tỉnh Kiên Giang.
7. Chùa Láng Cát
Chùa Láng Cát là một ngôi chùa Khmer tọa lạc trên địa bàn phường VTnh Lạc, thành phố Rạch Giá được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận là Di tích Kiến trúc nghệ thuật Quốc gia. Chùa đã ghi dấu sự kiện hoạt động cách mạng của các sư sãi, Phật từ người Khmer cùng với các dân tộc khác sống trên vùng đẩt Kiên Giang.
Cổng chính của chùa quay mặt về hướng đông, có ba cửa: một cửa chính ở giữa và hai cửa ở hai bên đúc
43
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
băng xi măng, vôi, vữa và đá xanh vụn. Phía trên cứa chính có hàng chừ đắp nôi “Ranataransĩ”, có nghTa là “Hào quang của viên ngọc”, gọi tất là Ngọc Quang. Tên chùa găn liên với đạo lý của Phật là Tam Bao: Phật bao. Pháp bảo và Tăng bảo.
Khuôn viên chùa hình chữ nhật rộng 10.521rrr. (chiều dài 167rn, chiều rộng 63m), phía trái có một nhà trệt dùng làm liêu phòng, xây bàng gạch. Từ cổng vào. ở chính giữa là ngôi chánh điện, diện tích 177nr. Chùa được xây bằng gạch, lợp ngói tạo thành ba lớp, kiến trúc theo kiêu chùa Khmer truyền thống, bốn góc đều đăp đâu rông có sợi râu vươn lên cao, quanh các lớp mái đều trang trí hoa văn cánh sen.
Chánh điện có hành lang rộng 92nr, bao quanh là tường thấp với các trụ tròn chống đỡ, tường và trụ đều có đắp nối hoa văn và hình người. Chánh điện là một gian phòng rộng bài trí đơn giản, trên bàn thờ xây bằng gạch trang trí hình rồng và hoa lá. Giữa bàn thờ chính là tượng Thích Ca Mâu Ni cao 1,2m, đúc bằng xi măng tô sơn với tư thế ngồi thiền, bệ tượng cao l,6m cũng đúc bằng xi-măng, trang trí hoa văn và tô sơn nhiều màu. Các tượng khác trên bàn thờ đều bàng gồ son màu. Từ ngoài nhìn vào ở bên tay phải là tưọng Sonathera đã đắc đạo thành La Hán ở thế đứng. Bên trái là tượng Utterathera cao 2m đã đắc đạo thành La Hán cũng ớ tư thế đứng. Hai vị này là người gần gũi với đức Thích Ca Mâu Ni, bảo vệ Phật khi người thuyết pháp.
44
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
đồng thời thay Phật truyền bá giáo lý cho Phật tử phía Nam (hay Nam Tông). Phía trước tượng Phật lớn là tượng hai vị La Hán: bên phải là tượng Srĩputtahera (phiên âm là Xa-rây oắch-tắc-hê-rắc) là vị có phép thần thông biến hóa, bên phai là tượng Maggalanthera (phiên âm là Mô-tà-nen-hắc-rê-rắc) là vị Phật có đôi mắt nhìn xuyên vạn dặm gọi là thiên nhãn, ơ giữa là tượng Phật thu nhỏ cao 6()cm ơ tư thê ngôi thiên. Phía tay trái tượng Phật nhỏ là tượng Phật nhập Niết Bàn (tượng dài 50cm). Phía sau bồ đoàn Phật Thích Ca là tượng bà Meu-Koong-Hên-Trắc-Phô-Ni - người làm chứng cho Phật tổ đắc đạo. Bà là người chú quản lý đất của Phật. Mồi tượng được thờ ở chánh điện đều có một sự tích.
Phía bên trái cồng chùa đi vào có 11 tháp mộ và bên phải có 18 tháp mộ của các vị đại đức, chư tăng của chùa đã viên tịch kể từ đại đức trụ trì đầu tiên Rich Thi Chi. Phía sau chánh điện có ba nhà sa-la (tức giảng đường cùa chùa). Bên phải là sa-la tám căn, hai tầng đúc bằng xi măng, xây gạch. Sa-la này hiện nay vẫn dùng tầng dưới để dạy học cho các chư tăng, tầng trên là trụ sở của Hội Đoàn kết các sư sãi yêu nước tỉnh Kiên Giang. Ở đầu hồi phía đông lầu trên, cạnh cầu thang có một phòng nghi của Đại đức trụ trì.
Phường Vĩnh Lạc khi xưa là một vùng hẻo lánh ở ven biển, cỏ cây rậm rạp và thú rừng ẩn trú. số người từ nơi khác đến đây làm ăn chưa nhiều. Trong số ít đó có
45
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
người Khmer. Họ đã quần tụ với nhau đê làm ăn sinh song, bat ong lấy mật, đóng thuyền bè. đánh bắt cá và săn băt thú rừng lập nên một xóm. Hòa thượng Rich Thi Chi quy tụ đồng bào Phật tứ Khmer rồi cùng đồng bào lập một ngôi chùa trên một đống đất cát khô ở về phía đông nam chánh điện ngày nay.
Đàu tiên nên chùa chi được cât đơn sơ và làm bang gồ, lá. Chùa bị cháy và thú dừ phá hoại nên hòa thượng và các Phật tư Khmer chuyến đến địa điểm chùa ngày nay. Chùa đã được sửa chữa, tu tạo nhiều lần. Thời kỳ đại đức Danh Hao trụ trì (năm 1950 - I960) đã cho xây lại chánh điện, đúc tượng Phật và đối tên chùa là “Ang kor chum woong xa”. Năm 1963 tu bố chùa, xây Sa-la tám căn, đến năm 1967 thì hoàn thành. Tầng trên dùng làm trường sơ cấp Phật học, tầng dưới dạy chữ phố thông từ lớp I đến lớp 7 và có phòng ờ cho hiệu trưởng.
Chùa "Ang kor chum” xưa, qua “Ang kor chum woong xa” đèn “Ranataransì” (Láng Cát) ngày nay đã qua 31 đời các vị hòa thượng, đại đức trụ trì.
Văn phòng cùa Hội Đoàn kết su sãi yêu nước tính Kiên Giang hiện nay đang ở tại tầng trên của ngôi sa-Ia trong khu chùa Láng Cát. Các vị đại đức trụ trì của chùa là những người chân tu, chăm lo đoàn kết các Phật tử Khmer, vừa chăm sóc phần tâm linh vừa chăm lo đời sống thường ngày của các Phật tử.
46
KI ÚN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THANG
Chùa Láng Cát đã có những trang sư gắn liền với phong trào yêu nước ở Việt Nam những năm cuối thế ky XIX đầu thế ky XX và phong trào đấu tranh chống thục dân Pháp và đế quốc Mỹ, có hai sự kiện nôi bật:
Năm 1882, hòa thượng Tăng Phô (tự Trần Phố) s;nh năm 1847 trụ trì chùa Ang kor chum (nay là chùa Láng Cát) đã cúng cố khối đoàn kết của các Phật tư trong xóm ấp Khmer, khơi dậy lòng yêu nước của các vị Acha và các cụ già, theo gương ái quốc của ông Nguyền Trung Trực đánh Pháp. Nghĩa quân có Thạch Búp và nhiều binh sĩ người Khmer tham gia. Bị giặc Pháp truy lùng, ông lui về vùng bí mật ở Tà pết. Tên Chiêu là chi điềm của mật thám Pháp đã tìm đến nơi, hin nói dối với ông nên trở lại chùa vì các Phật tử đang mong chờ ông. Có lẽ do mất cánh giác với kẻ thù hay vì nóng lòng cho phong trào cách mạng, năm 1894 ông đã trở vê chùa đê tiêp tục gây dựng phong trào thì ngay ngày hôm ấy mật thám của Pháp đến vây bắt, tịch thu tài liệu của ông (có tang chứng vật chứng). Theo tài liệu của mật thám Pháp còn để lại thì hòa thirợng Tăng Phô luc đó 87 tuổi, bị kết án tù chung thân lưu đày tại Côn Đáo. Một số nghĩa sĩ khác theo hòa thượng Tăng Phô cùng bị địch bắt trong cuộc đấu tranh này.
Đại đức Danh Chướp sinh năm 1944 trong một gia đình nông dàn nghèo ở xã Định An, huyện Gò Quao. Năm 1972, ông về trụ trì chùa Láng Cát. Ông
47
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
Danh Chướp thường xuyên quan hệ làm việc với cán bộ cách mạng và làm việc họp pháp tại chùa. Ong bí mật tham gia Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước, thường xuyên thu thập tin tức đế nắm tình hình báo cho Hội. Người trực tiếp giao nhiệm vụ cho Danh Chướp là ông Thạch Đông, Bí thư Huyện uy Châu Thành lúc ấy. Ông Danh Chướp đã hoàn tục năm 1976.
8. Tháp Bốn vị sư liệt sỹ
Tháp Cù Là hay còn gợi là Báo tháp - tháp Bốn vị sư liệt sỳ tọa lạc tại huyện Châu Thành. Tháp thờ bốn vị sư liệt sỳ đã hy sinh trong cuộc biểu tình ngày 10/6/ 1974.
Tháp Cù Là cách thị trấn Minh Lương 2,5km, sát con đường quốc lộ đi Rạch sỏi, Minh Lương, được bao bọc bởi tường rào xây xung quanh. Mặt tiên của tháp hướng về phía tây, nằm trong khuôn viên chữ nhật rộng 342m2. Ta có thê dễ dàng nhận biết tháp mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Khmer Nam bộ. Tháp có chu vi 48m, đúc bằng bê tông, mồi bên có bốn hàng cột, mồi hàng cột có đẳp hoa văn, bốn mặt tháp tô đẳp hoa văn sóng nước, ở giữa có hai cột tròn. Tháp xây hai tầng, tầng trên xây nho đầu tạo thành bốn mặt. Bệ tầng tháp có chu vi 16m, chân và đỉnh có hình tam cấp, gần đinh xây bốn hang sâu để bốn tượng sư quay mặt bốn hướng với tư thể tiến công, tượng ưưng khí phách hiên ngang anh dũng dẫn đầu trong đoàn biểu tình ngày 10/6/1974.
48
KIÊN CilANG - DI TÍCH VÀ DANH T HÁNG
Đình tháp có tượng các thần Phamacha hay thân rúi Somoru. Bàn thờ chính có hình bôn vị sư và bôn lư Fương bang sành. 12 bức bích họa tường thuật lại và ciễn biến giờ khắc, từng đoạn đường cửa cuộc biêu tình.
Đầu tháng 6 năm 1974, Tiêu đoàn 519 quân giải fhóng diệt chi khu Tắc Cậu, đoàn pháo binh diệt lô cốt Khoen Cà Timg trên lộ Minh Lương - Tràm Chẹt, cùng \ới thắng lợi chung của quân giái phóng miền Nam trên toàn miền làm cho quân đội Việt Nam Cộng hòa bị thất bại nặng nề, quân số hao hụt nghiêm trọng. Chính vì \ậy chính quyền Sài Gòn ra lệnh tống động viên những r.gười từ 18 đến 40 vào lính, không phân biệt đạo hay cời. Trong đợt này chính quyền Sài Gòn cho lính bắt nười vị sư giam ở Rạch sỏi, đưa hơn 1.200 sư đi huấn luyện học tập quân sự ờ cần Thơ, trong đó chùa Minh Lương có sáu sư. Ngoài hình thức vây bắt sư ở trong chùa, chính quyền Sài Gòn còn cho lính bắt sư đi lại ừên đường, đồng thời bắn phá chùa chiền, lấy chùa chiền làm đồn bót. Trước tình hình đó, sư sãi và đồng bào Khmer ở huyện Châu Thành mở cuộc vận động biểu tình với lực lượng là sư sãi ở các chùa, cùng với cồng bào ở Châu Thành, Gò Quao, Giồng Riềng, Hà Tiên, Rạch Giá. Ngày 7/6/1974 đoàn biểu tình tập thử Ùn đầu tiên gom 200 tu sĩ, 100 tín đồ.
Qua lần diễn tập đó, ngày 8/6/1974 Hội Phật giáo rhừng người yêu nước tổ chức họp ở chùa Cà Lăng Óng với tám nội dung được bàn luận:
49
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẢ N G
- Nói rõ âm mưu phá hoại chà đạp tôn giáo hãng cách lấy chùa làm đồn bót của Mỹ ngụy.
- Vấn đề vì sao không cho dạy chữ Khmer?
- Chống chính sách bần cùng hóa và chia rẽ miệt thị dân tộc.
- Đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh, thống nhất Tô quôc.
- Đòi tự do sư dụng tiếng nói và chữ viết dân tộc. - Đòi chính sách ưu đãi cho học chừ phô thông.
- Cương quyết chống chính sách ngu dân. biến nhân dân lao động thành dốt nát.
- Chong đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai, chống không cho bắt sư sãi đi lính.
Sau khi triển khai nội dung, theo kế hoạch, đại đức Lâm Hùng trớ về chùa Cù Là cũ, Danh Hoi trở về chùa Cà Lăng Ông, Danh Hom về chùa Cà Lăng Mương, Danh Tấp về chùa Khoen Cà Tưng, chi đạo đấu ưanh. Đúng ngày 10/6/1974 lực lượng biểu tình từ các chùa Cà Lăng Mương, Khoen Cà Tưng, Gò Đất quy tụ tại chùa Cà Lăng Ông với số lượng lên đến 600 sư sãi, 4.000 tín đồ. Họ xếp thành hàng kéo ra dinh Tinh trướng ở Rạch Giá.
Cùng thời gian này ở chùa Láng Cát (Rạch Giá), chùa Phật Lớn cùng các chùa ở Hòn Đất, Hà Tiên cũng sáp nhập lực lượng kéo đến dinh Tinh trường. Dần đầu đoàn biểu tình là Danh Tấp, Lâm Hùng, Danh Hom.
50
KI ẺN GIANG DI TÍCH VÀ DANH THẢ N G
Dunh Hoi. với cờ, khảu hiệu. Qua So Đũa đến Tà Niên, ngã ba Rạch sỏi, đoàn biếu tình vẫn ào ạt xông lên. Thấy không cản được họ, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã bắn súng, ném lựu đạn cay vào đoàn biêu tình làm chết 4 vị sư hòng uy hiếp tinh thần nhân dân. Nhưng phía quân đội Việt Nam Cộng hòa không ngăn được vì lực lượng biêu tình đã sôi sục căm thù, càng lúc càng tiến lên.
Đen quận Kiên Thành (Rạch sỏi), khẩu hiệu “Chông bát sư đi lính”, “Phai tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân”, “Đả đảo chính quyển tàn bạo” lại vang lên, chính quyền Sài Gòn vội lấy xác bốn nhà sư mà chúng đã sát hại đem vào bệnh viện hòng bao che cho hành động dã man của chúng. Lính của quân đội Việt Nam Cộng hòa lột áo cà sa, bỏ cạnh thi thể bốn vị sư bốn khẩu súng và nói là bốn Việt cộng hòng lừa dối nhân dân. Nhưng tội ác của họ đã bị vạch trần. Đúng 10 giờ 45 phút đoàn đã đến nơi cấp cứu các sư sãi bị thương, lực lượng biểu tình gồm 17 ngàn người tiếp tục kéo lên Rạch Giá.
Khi đến Rạch Giá đoàn biếu tình đòi chính quyền Sài Gòn phải trừng trị những tên lính ác ôn và phải trả áo cà sa cho bốn vị sư bị chúng giết. Trước sự phẫn nộ của quần chúng nhân dân, Tinh trường Kiên Giang phái mặc trả áo cà sa cho bốn vị sư đã hi sinh và cho xe chở thi hài họ về chùa Cù Là cũ. Tại Cù Là, đoàn biểu tình chuyến sang làm lễ cầu siêu, vừa làm lễ vừa hô khẩu
51
KIÊN GIA NG DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
hiệu: "Đá đáo chính quyển tàn bạo", “Phái trả tự do cho các sư đã bị bắt lính hôm qua ”...
Sau đó tất cả các chùa trong và ngoài tinh đều làm lễ cầu siêu. Khí thế cuộc biêu tình kéo dài đến ngày 30/8 mới tạm kết thúc để chuẩn bị cho giai đọan sau quyết liệt hơn.
Cuộc biêu tình đã thang lợi. Chính quyền Sài Gòn phái thá 2.(X)0 người bị bắt lính ơ cần Thơ trong đó có 160 người Khmer Kiên Giang. Một số lính quân của quân đội Việt Nam Cộng hòa đã bo súng, trở về với cách mạng.
9. Đình thò' Phó CO' Nguyễn Hiền Điều
Theo con đường Rạch Giá đi Minh Lương, qua khỏi Rạch sỏi độ 1,500m, nhìn phía trái ta sẽ gập ngôi đình thờ Nguyễn Hiền Điều, người trong vùng quen gọi là đình Phó cơ Điều.
Đình Phó cơ Điều được nhàn dân xây cất lần đầu vào năm 1842 tại đình Tà Niên (cách giếng Cây Trâm 2km), rồi sau đó dời về xã An Hòa (gần mé biển thuộc phường An Bình, thành phố Rạch Giá ngày nay). Khoảng năm 1930, đình dời về đầu kinh Cái sắn, cạnh cầu Rạch Sỏi và được xây dựng khang trang, kiên cổ. Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, cầu Rạch Sởi bị đánh sập, đình bị phá húy, nhân dân phải đưa bài vị của ông về thờ ờ một miếu nhỏ tại giếng Cây Trâm.
52
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
Năm 1967. nhân dân trong vùng tự quyên góp tiên bạc, vật liệu và xây dựng lại ngôi đình ngày nay. Việc xây dựng kéo dài đến năm 1970 mới hoàn thành.
Đình được xây thành ba dãy: chính điện, đông lang và tây lang, trên khoanh đất cao, rộng khoáng 3.000m:. Kiến trúc của đình kết hợp giữa xưa và nay. Trèn nóc đình có hình “lưỡng long tranh châu”, mái uốn cong vừa phái, nền lát gạch hoa. Bậc tam cấp vào chính điện hai bên có sư tử ngồi chầu. Đông lang và tây lang có thề chứa khoáng 50 - 60 người. Giữa chánh điện có bài vị ghi “Nguyền Hiền Điều chi thần”, có liễn đối, có bàn thờ “tả ban”, “hĩru ban” đúng theo kiểu đình thần. Trước sân đình là Giếng Cây Trâm là một giếng nước tốt, đồng bào địa phương đã sử dụng hàng trăm năm nay. Giếng được mở rộng, vét sâu và xây bằng bê tông cốt sắt, có bậc thang xuống giếng khi họ chỉnh trang lại ngôi đình. Bên cạnh giếng là cây trâm khoảng 20 năm tuổi, tại chồ cây trâm cổ thụ thời xưa.
Đình Phó cơ Điều là một trong những ngôi đình cổ xưa của vùng Rạch Giá, song ngày giỗ không được nhộn nhịp như một số đình khác, vì đình phải di dời nhiều chồ, nhiều lần. Mặt khác, vùng này chiến tranh ác liệt kéo dài, dân cư không ổn định, số người “cố cựu” còn rất ít.
Ngoài nơi thờ chính tại đình Giếng Cây Trâm, bài vị của ông còn được thờ ở đình cầu Quay (phường An
53
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
Hòa), đình Tà Niên (xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành) và đình Nguyền Trung Trực (thành phố Rạch Giá).
10. Di tích Mộ nhà tho’ yêu nước Huỳnh Mẩn Đạt
Huỳnh Man Đạt sinh năm 1807 tại làng Tân Hội, huyện Tân Long, tính Gia Định, mất năm 1883 tại làng Vĩnh Thanh Vân, tinh Rạch Giá (nay là tinh Kiên Giang), thọ 76 tuổi. Năm 24 tuồi ông thi đậu cư nhân, sau đó làm quan dưới triều vua Tự Đức. Khi thực dân Pháp xâm lược nước Việt Nam, ông cùng với Nguyền Tri Phương đánh chúng ớ Chí Hòa, Định Tường. Sau khi ba tỉnh miền Đông Nam bộ rơi vào tay người Pháp, triều đình Huế cử Huỳnh Mần Đạt làm quan Tuần phu tỉnh Hà Tiên.
Khi cá sáu tinh Nam Kỷ rơi vào tay người Pháp (1867), không hợp tác với Pháp, ông cáo quan rồi cùng gia quyến về sống tại làng Vĩnh Thanh Vân và mất tại đây.
Huỳnh Mần Đạt không những không hợp tác với Pháp mà còn dùng ngòi bút sắc bén của mình tố cáo tội ác của chúng. Ông còn lên án, đả kích những kẻ bán nước theo thực dân Pháp như Tôn Thọ Tường và đã bày tỏ thái độ của mình. Ông có nhiều bài thơ hay như: Chó già, Trâu già, Qua choi gành Móm, Đêm mưa,
Cây dừa, Cảnh trcri chiều... Bài thơ nôi tiếng của ông là bài Điếu Nguyễn Trung Trực viết khi ông Nguyễn bị
54
KIÊN GIANG DI TÍCH VÀ DANH THÃNG
người Pháp hành quyết ngày 27/10/1868. Bài điếu ca ngợi chiến công lẫy lừng và to lòng ngưỡng mộ sự hi sinh cao cả của Nguyễn Trung Trực. Bài thơ bàng chữ Hán. phiên âm như sau:
Thăng phụ nhung trường bât túc luân
Đói ba đê trụ ức ngư dân
Hoa hồng Nhật Táo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khap quỷ than
Nhất đán phi thường tiêu tiết nghĩa
Lưỡng toàn vô úy báo quân thân
Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
Tu sát đê đau vị tử nhân.
Bài thơ được truyền tụng rộng rãi trong dân chúng, đặc biệt là hai câu:
Hòa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiêm bạt Kiên Giang khâp quỳ thân.
Mộ Huỳnh Mần Đạt tọa lạc tại khu đất số 19 khu phố Cô Bắc, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá là di tích lịch sư đã được Nhà nước công nhận. Mộ xây bằng đá ong dài 2,7m, rộng 2m, cao 40cm. Vừa qua, khu mộ được tu sửa, xây nhà thờ, cổng vào và hàng rào xung quanh, nền được tráng xi măng.
Huỳnh Mần Đạt là một con người có nếp sống thanh cao. Tuy làm quan cho triều Nguyễn nhưng ông
55
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
là một người có tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm. Ke từ ngày ông mất đến nay những bài thơ. bài văn tràn đầy tình yêu quê hương đất nước của ông vẫn được lưu truyền trong nhân dân.
11. Chùa Phật Lón
Chùa Phật Lớn tọa lạc tại phường Vĩnh Thanh, thành phổ Rạch Giá. Từ trung tâm Rạch Giá theo đường Quang Trung đi khoảng 1,5km là đến di tích.
Đây là một trong những ngôi chùa của đong bào dân tộc Khmer được hình thành và phát triển sớm nhất trong tinh Kiên Giang. Chùa được thành lập vào đầu thế kỷ thứ XVI, lúc này dân cư ở Rạch Giá còn rất thưa thớt. Cùng tồn tại với thời gian, đến nay chùa đã có ba lần thay đổi địa điểm.
Lúc đầu chùa chi được xây dựng bằng cây lá, nay chùa Phật Lớn đã được xây dựng khang trang với lối kiến trúc cổ đẹp, khuôn viên chùa rộng thoáng đãng vói nhiều cây cổ thụ. Từ khi hình thành đến nay, ngôi chùa này đã có 19 vị sư trụ trì và nhiều sư sãi đến tu học tại đây. Họ đều là những vị chân tu có đức độ đã hết lòng xây dựng ngôi chùa đồng thời chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho bà con trong vùng.
Trong lịch sử, chùa Phật Lớn và các vị chân tu ở đây hết lòng vì nước vì dân, đã cùng với các dân tộc ở
56
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THANG
Kiên Giang đánh đuổi giặc xâm lược ra khỏi đất nước. Từ khi được thành lập đến nay có rất nhiều sự kiện yêu nước diễn ra tại chùa nhưng nôi bật nhất là hai sự kiện trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tháng 5 năm 1894 một tiểu đội lính do phòng nhì Pháp chi huy đã bao vây chùa Phật Lớn bắt đại đức Chao Sắt (bấy giờ ông đang là trụ trì chùa) vì ông là Hội phó Hội Vận động nhân dân không hợp tác với Pháp. Họ đã dùng cực hình tra tấn rồi đày ông ra Côn Đảo giam giữ và ông hi sinh tại đó.
Một sự kiện lịch sử khác xảy ra tại chùa Phật Lớn đã được ghi vào sử sách. Đó là ngày 11/8/1948, quân và dân Kiên Giang phối hợp với lực lượng khu 9, đã tổ chức đánh và thắng lớn trận Sóc Xoài (đây là trận thắng lớn thứ hai sau trận Tầm Vu ở đồng bằng sông Cửu Long). Ở ưận này, quân và dân Kiên Giang đã tiêu diệt 72 lính cùa quân đội Pháp, thu nhiều vũ khí, đặc biệt có cả cối 80 ly.
Để trả đũa cho thất bại nhục nhã này, 17 giờ cùng n?ày thục dân Pháp và tay sai đã điên cuồng đưa 32 chiến sĩ cách mạng đang bị giam cầm tại khám lớn đến chùa, trói họ vào hàng rào trước chánh điện của chùa rồi nổ súng giết chết họ. Tại chùa còn một tấm bia tưởng niệm 32 chiến sĩ này, hằng năm các vị sư trong chùa đều tó chức dâng hương nhân ngày giỗ thường niên.
57
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẤNG
Chùa Phật Lớn có khuôn viên rộng, đẹp, với rất nhiêu cây cô thự quanh năm xanh mát, các công trình phối hợp với nhau hài hòa. Toàn bộ công trình gồm: công đi vào, hùng rào, chánh điện, các liêu, sa-la, trường học, các tháp mộ và nhiều cây cồ thụ. Ngôi chánh điện của chùa được xây dụng kiên cố từ năm 1920. mặt quay về hướng đông, có hàng rào xây bao xung quanh, có sân và có công đi vào. Nhà chánh điện được xây bằng gạch vôi. Mái chánh điện có ba tầng, được lợp bằng ngói máng. Kiến trúc mái theo kiểu Khmer, bốn góc của ba lớp mái đều đấp trang trí đầu rông cao vút lên, chính giữa đắp một tháp hình trụ có bôn mặt tượng quay về bốn hướng, các điềm mái đều trang trí hoa văn. Phía trong chánh điện có bốn hàng cột (mồi hàng tám cột), cột tròn được làm bằng gồ tốt, đế cột được kê bằng trụ đá có trang trí hoa văn. Phía trên của các mảng tường trong chánh điện được vẽ các bức tranh mô tả toàn bộ cuộc đời của Đức Phật Thích Ca từ khi mới sinh ra đến khi tu luyện thành Phật.
Đặc biệt, chùa có một tượng Thích Ca Mâu Ni rất to, cao 2m, rộng l,5m (vì thế nhân dân gọi là chùa Phật Lớn). Ngoài kiến trúc cùa ngôi chánh điện, chùa Phật Lớn còn có rất nhiều tháp mộ, có lối kiến trúc rất đặc sắc. Trong chánh điện, tượng Phật Thích Ca được đẳp
58
KI ẺN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THÃNG
bằng bê tông, chi có một lư hương bằng đồng và một bát nhang bằng đồng (có niên đại trên 100 năm) và ba tượng Phật bằng pha lê, chín bia đá cẩm thạch. Trong liêu của các sự trụ trì có mười tượng (15cm X 25cm) bằng đồng loại cô.
Có thê nói, chùa Phật Lớn chính là chồ dựa tinh thần vừng chắc cua đồng bào Phật tử nơi đây từ bao đời nay.
12. Mộ Hội đồng Suông
Nếu lăng mộ của Mạc Cứu đại diện cho kiến trúc của tầng lóp quan lại thì mộ của Hội đong Suông là đại diện cho kiến trúc của tầng lớp địa chủ ở Kiên Giang.
Mộ Hội đồng Suông là cách thường gọi của người dân, thật ra phải gọi là phàn mộ của gia đình Hội đồng Suông. Hội đồng Suông tên thật là Hà Mỹ Song, người Hoa gốc Phúc Kiến, sinh sống tại Kiên Giang. Khu mộ này ông xây để chôn cất cha mẹ đé, tọa lạc tại khu phố 2, phường An Hòa, thành phố Rạch Giá (đối diện Trung tâm Văn hóa - Thông tin của tỉnh).
Khu mộ được xây dụng trên một đồi đất nhân tạo cao 5m, mặt bằng hình chữ nhật hướng về phía bắc, rộng 31,5m X 25m; xung quanh có tường cao 3m bao bọc với hai cống ra vào ở mặt trước. Khu mộ được chia thành ba phần: phần trước là khoảng sân chầu rộng
59
KIÊN GIANG DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
200m2 có đặt một bàn thờ và một bia đá chữ Hán cao l,2m; khu mộ chính nằm chính giữa ngôi đất, diện tích 7m X 7m, xung quanh cũng được bao bọc bằng tường cấm thạch, hai bên là hai hòn non bộ (Đông sơn và Tây sơn, rộng 6m. dài 7m vào cao 7m); mặt sau của khu mộ có dựng một long đình diện tích 4m X 3,5m, cao 4m. Phân sau là chín gian nhà thờ liên nhau.
Hai ngôi mộ chính được làm bằng câm thạch ghép lại với nhau bằng những mạch vữa nho kết dính rất chất', trên mặt chạm trổ khéo léo, tinh xảo, khắc họa nhiều hình hoa văn với chim muông cây cỏ, hoa lá và các linh vật... Tường thành quanh mộ làm bàng cấm thạch, phía trước có cổng vào cao 2,8m, lối vào cao l,8m, rộng 0,8m được ghép bằng hai cột vuông, nưa tròn. Trên mặt cột chạm trổ những đám mây cách điệu và đôi câu đối khắc chữ Hán, trên đỉnh cột có hai con kỳ lân bằng cẩm thạch hồng nghiêng đầu quay chầu mộ. Trên nóc cổng chạm hình một cái khánh và ở đầu các cột khác là hình mâm ngũ quả cũng bằng cẩm thạch hồng. Các bức tường có chạm khắc những hình nổi như chim phụng, hạc, cá chép, hoa sen, thiên nga...
Nói chung, toàn bộ khu mộ là một công trình kiến trúc mỹ thuật đặc sắc, mang đặc điểm Nho giáo truyền thống của người Hoa Kiên Giang.
6 0
KIÊN CÌIANG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
13. Công viên văn hóa An Hòa
Công viên này nam dọc theo Quốc lộ 80 thuộc phường An Hòa, phía nam thành pho Rạch Giá. Công viên có diện tích 52ha, nam ớ cửa ngõ thành phố Rạch Giá, là khu vực dành cho các hoạt động vãn hóa thể thao, dịch vụ du lịch phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí.
Mục tiêu đầu tư xây dựng công viên này là đê hình thành khu vui chơi, giải trí với nhiều loại hình cho nhân dân và các em thiếu niên nhi đồng trong tỉnh; xây dựng khu liên hợp thể dục thể thao nhàm phát triển phong trào thể dục thể thao cùa tỉnh; tái tạo các quang cánh về lịch sử, văn hóa, thiên nhiên cho con người Kiên Giang.
Tổng diện tích đất quy hoạch là 52ha, trong đó gồm cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các trung tâm văn hóa, thể dục thể thao, các ưò chơi giải trí, hồ tạo cảnh, tái tạo lại một số di tích lịch sử, vãn hóa của Kiên Giang, rừng tràm và cây xanh.
Công trình gồm các khu chính sau:
- Khu vực lối vào.
- Khu vực vui chơi giải trí thiếu nhi: Với nhiều loại hình vui chcri trong nhà và ngoài trời đa dạng, phong phú. Ngoài ra, còn có các sân khấu hoạt động văn hóa nghệ thuật thiếu nhi, rạp xiếc, vườn hoa...
61
KIÊN GlANCi DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
- Khu Vực động vật hoang dã: Với ý tướng giúp du khách, các em thiếu nhi. các hạn thanh niên hiêu biết thêm về thiên nhiên, các động vật cố đại, các động vật hoang dã...
- Khu vực giai trí dưới nước: Được bố trí giữa các khu vực hoạt động chức năng, với hồ nhân tạo rộng 7ha và các hoạt động vui chơi dưới nước.
- Khu vục truyền thong lịch sử: Với ý tương phục dựng những truyền thống lịch sư vẻ vang cùa dân tộc qua các mốc thời gian và những chiến công.
- Khu vực phiêu lưu mạo hiếm: Với những ngọn đồi nhân tạo, các đường xoắn ốc, các bậc thang, các trò chơi gắn với thiên nhiên, khu giái trí phiêu lưu mạo hiêm tạo cho du khách cám giác thích thú với nhiều thứ thách.
14. Kinh Thoại Hà
Kinh (kênh) Thoại Hà còn gọi là kinh Long Xuyên - Rạch Giá (hoặc Rạch Giá - Long Xuyên), là con đường giao thông đường thuy quan trọng của vùng Tứ giác Long Xuyên, nối thành phố Long Xuyên (tinh An Giang) với thành phố Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang). Đây cũng là con kinh đầu tiên mà triều đình nhà Nguyền cho đào ờ miền Nam, có vị trí quan trọng trong
62
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
giao thông vận tai đường sông và phát triển nông nghiệp trong vùng từ bao đời nay.
Năm 1817, Nguyễn Văn Thoại vâng lệnh triều đinh về trấn thu VTnh Thanh. Thấy việc giao thương ở vùng đất này gặp nhiều khó khăn, mọi sự giao thông cia ghe thuyền từ Long Xuyên và đồng bằng sông Cửu Long sang Rạch Giá, Hà Tiên hay ngược lại đều phai đi đường biển vòng xuống Cà Mau rất bất tiện; mặt khác cùng nhận thấy cần phải khơi nguồn để tháo bớt một phần nước lụt của sông Hậu ra biển, sau khi quan sát địa bàn, ông đã sớm có ý định cho đào một con kinh. Mùa xuân năm 1818, ông được vua Gia Long xuống chỉ cho phép thi hành.
Kinh khởi công vào đầu năm 1818, nối với rạch Đông Xuyên (nay là Long Xuyên), kéo dài theo hướng táy nam ngang qua chân núi Sập, tiếp với sông Kiên Giang, đố nước ra cửa Rạch Giá. Việc đào kinh huy động khoảng 1.500 nhân công, chủ yếu là người Kinh và một bộ phận người Khmer. Nhờ đào theo lạch nước cù nên công việc khá thuận lợi, sau một tháng kinh đã hoàn thành với bề rộng khoáng 51,2m, chạy dài 31.744m, ghe xuồng qua lại rất tiện lợi.
Kinh đào xong, ông được vua Gia Long khen ngợi và cho phép lấy tên mình để đặt tên cho con kinh mới đào là Thoại Hà và núi Sập là Thoại Sơn.
63
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
Kinh Thoại Hà là một trong hai con kinh đào quan trọng cua vùng đồng bàng sông Cưu Long, mang đậm dấu ấn của Thoại Ngọc Hau. Cho đến tận hôm nay, con kinh này vẫn còn có giá trị iớn về nhiều mặt: giao thông, thúy lợi, thương mại, nông nghiệp..., góp phần làm thay đối bộ mặt nông thôn trong vùng. Không những thế, nó còn gắn với nhiều sự kiện lịch sư trụng đại của tỉnh Kiên Giang, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chổng Mỹ cứu nước. Tất ca những điều đó thế hiện sức lao động sáng tạo và tình yêu quê hương đất nước cùa con người Việt Nam.
64
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
Chương III
DI TÍCH - DANH THẢNG u MINH THƯỢNG VÀ VÙNG LÂN CẬN
u Minh Thượng là một vùng sinh thái nồi t.ếng trong và ngoài nước. Nơi đây là căn cứ địa cách nạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và đế cuốc Mỹ. Nhiều địa danh của vùng đất u Minh Thượng đã gan liền với những chiến thang oanh liệt của quân dân như: xẻo Rô, Thứ Mười một, Cây Bàng, Lô Muời hai. Ngã tư Công sự, Kè Một, Bình Minh, VTnh Thuận... mãi mãi in đậm vào ký ức và lòng tự hào của Đảng bộ và nhân dân Kiên Giang. Căn cứ u Minh Thượng, nhân dân u Minh Thượng cũng là nơi đã từng đùm bọc. nuôi dưỡng, bảo vệ, chở che cho các cơ quan Trung ương Cục miền Nam, Khu ủy Khu 9 Bộ tư lệnh quân khu và các đồng chí lãnh đạo các cấp của Đảng như đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Linh. Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh... Biết bao đồng chí đồng bào của ta từ mọi miền đất nước đã anh dũng hi sinh, mãi mãi nằm lại mảnh đất u Minh để thế hệ hôm nay được tự hào về mảnh đất hào
65
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THÀNG
hùng này. Có thê nói rằng, căn cứ địa cách mạng ư Minh Thượng, chiến công của u Minh Thượng mãi mãi là một điểm son không thế mờ trong ban anh hùng ca bất diệt cua quân dân ta...”3.
1. Căn cứ u Minh Thưọng
u Minh Thượng là vùng rừng tràm thuân chung lớn nhất của Việt Nam. Trên bức Đại Nam thong nhất toàn đo. bản đồ hành chính đâu tiên cùa đất nước Việt Nam toàn vẹn và thống nhất, khấc in từ đầu thế ky XIX, ta nhìn thấy vùng u Minh Thượng xưa kia được chia thành nhiều ô nhó với mười con rạch xếp hàng cháy ra vịnh Thái Lan.
Cũng vào đầu thế ký XIX, Gia Địnlì thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) cho ta biết thời bấy giờ huyện Kiên Giang thuộc trấn Hà Tiên vừa mới đặt, gồm hai tổng, trong đó tổng Thanh Giang có ba thôn Vĩnh Thuận, Vĩnh Hòa, Thới An và xã Đông An (Yên), bao gồm cả một vùng rộng mênh mông của rừng u Minh Thượng.
Các địa danh cổ xưa ấy của Kiên Giang vẫn tồn tại đến ngày nay. Khoảng cuối đời Tự Đức, trong Đại Nam nhất thong chí có nói về Hà Tiên như sau: “Lâm
’ Trích thư của Phó Thù tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi Tinh ùy và ủ y ban nhân dân tỉnh Kiên Giang chào mừng ngày Hội thảo khoa học “Di tích lịch sử căn cứ địa cách mạng u Minh Thượng" tô chức tại Kiên Giang.
66
KIÊN GIANG DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
tấu4: là chỗ rìmg Kiên Giang và Long Xuyên5 giáp nhau có cây rậm rạp, dài rộng mịt mùng, là hang ô của chim muông (tức uM inhThượng)”... “Thập câu6: u chỏ hai huyện Kiên Giang và Long Xuyên giáp nhau có mười con rạch, từ rạch thứ nhất tới rạch thứ mười xêp đặt thành hàng đêu nhau, nước từ ruộng chằm chảy thông ra biến, sinh rất nhiều cá tôm ’’.
Sách còn miêu tả tỉ mì sở điểu đình (sân chim) với hoạt động kinh tế hàng hóa khá phát triển và Tấn Cửa Lớn (Vàm Gánh), nơi ngư dân sinh sống tấp nập, c5 lập một đồn canh kiếm soát ghe thuyền qua lại. Chính tại đây, theo Hà Tiên tran Hiệp tran Mạc thị gia phá, do Vũ Thế Dinh soạn thì 20.000 quân và 300 cniến thuyền của quân đội Xiêm La bị nghĩa quân Tây Sơn vùi thây tại trận Rạch Gầm - Xoài Mút (1785) đã tirng qua cửa sông này.
Tám mươi năm sau, khi thực dân Pháp mang qjân viễn chinh sang xâm lược Nam Kỳ lục tỉnh, vùng đìt trên đây lại ghi thêm trang sừ anh hùng. Nhân dân Kiên Giang cùng với Nguyễn Trung Trực đánh chiếm đDn Kiên Giang khiến người Pháp phải kinh hồn. Địa dinh Vĩnh Hòa, Đông Yên, Tây Yên, Chắc Băng... nơi tỉp hợp lực lượng nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực. Irong Les premières années de la cochinchine (Những
4Lâm tẩu: là rừng sác, rừng ngập nước.
5 Long Xuyên: xưa úng với Bạc Liêu và Cà Mau ngày nay. 6 ĩhập câu: là mười con rạch.
67
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
năm đầu ở Nam Kỳ), p. Vi-an, một sử gia đứng trong hàng ngũ đội quân xâm lược lúc bấy giờ viết: “Vùng sân chim, nơi Quan Lịch tụ tập dân khơi loạn đế gây nên sự biến bi tham ngày 16/8/1868 tại Kiên Giang là đáng chú ý đối với nhà cầm quyền thuộc địa.
Nó là xã Vĩnh Hòa, nằm dọc theo sông Cái Lớn và xã Đông An nàm dọc theo bờ vịnh. Khu này toàn rừng rậm, rất nhiều con rạch tự nhiên vừa nhỏ vừa cạn nôi liên vùng này với vùng kia, chỉ có thê giao thông bàng những chiếc xuồng con, chèo hoặc chống và bơi tay, nhà cửa hết sức thưa thói hầu như chỉ nằm rải rác theo sông rạch và bờ vịnh. Thôn dân khỏe mạnh, lầm lì ít nói, khí sắc hung tợn, người nào người nấy đều có vè là một tên khởi loạn ngầm sẵn sàng chống cự ta bằng bất cứ thứ gì họ có trong tay như: đao, búa, gậy gộc và đôi tay không. Chúng ta không thế dùng tàu lớn để tiến sâu vô rừng được. Bộ binh thì dứt khoát không thể hành quân vô đó được rồi. Pháo binh thì như muối quăng xuống biển. Đây đúng là một ma-ki hay nói đúng hơn nữa, hơn một ma-ki”7.
Sau khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, ở cực nam Ư Minh Thượng đã bùng nổ cuộc khởi nghĩa cùa hai anh em Đồ Thừa Luông và Đồ Thừa Tự. Thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp. Đối với thực dân Pháp, u Minh Thượng đáng sợ như vậy nhưng đối với nhân
7 Ma-ki: tên gọi chiến khu du kích Pháp.
6 8
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
cân Việt Nam lại là khu căn cứ an toàn, vững chắc cho sự nahiệp chòng giặc, cứu nước. Rừng tràm che chớ, nuôi sống cán bộ, bộ đội và ngăn quân thù. Trước Cách mạng tháng Tám. u Minh là căn cứ của Liên Tinh uy Hậu Giang và Tinh úy Rạch Giá.
Năm 1941, xướng vù khí được xây dựng ớ xã Vĩnh Thuận. Từ năm 1946, u Minh trở thành hậu cứ của cuộc kháng chiến chong Pháp, các cơ quan và lực lượng vũ trang của khu Tây Nam bộ đều đóng tại đây với các trường đang, trường quân sự, các đoàn thể. Xứ ủy Nam bộ, sau đó Trung ương cục miền Nam và các cơ quan cùa úy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ cùng có thời gian về ở ven rừng Ư Minh. Ngày 13/6/1946 với chiến thắng Cây Bàng, u Minh đã khẳng định thế vững chắc của một căn cứ địa cách mạng. Trong kháng chiến chống Mỹ, u Minh là địa bàn dung trú của các cơ quan đầu não của khu, của tinh, của quân chú lực Quân khu 9.
Đây là địa bàn quan trọng nên chính quyền Sài Gòn quyết tâm tập trung lực lượng để bình định. Từ đầu năm 1969 đến cuối năm 1971, chính quyền Sài Gòn được sự chỉ huy của người Mỹ tập trung quân chủ lưc rà đi soát lại từng khu vực, càn quét từng ô vuông ỏ vùng này, hi vọng ràng với những thú đoạn giết người man rợ, hãm hiếp phụ nữ, đốt nhà, cướp của..., người Mỹ và chính quyền Sài Gòn sẽ khuất phục được nsười dân u Minh, tách dân ra khỏi Đảng, khỏi cách
69
KIÊN GIANG DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
mạng, tách “rừng người” ra khói rừng cây. Nhưng người dân u Minh chắng những không sờn lòng mà còn trút ngọn lửa oán hận ngút trời lên đâu bọn chúng.
Từ năm 1972, lực lượng vũ trang cách mạng đã triển khai sang các vùng khác, tiến công dữ dội và liên tục vào quân đội Việt Nam cộng hòa, buộc chúng phai rút hàng trăm đồn bốt và co cụm lại trong thế bị động.
“...u Minh Thượng mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc ta, của nhân dân tỉnh Kiên Giang, cùa thế hệ hôm nay và mai sau” (Lời ông Lâm Chí Việt - nguyên Chu tịch ủ y ban nhân dân tinh Kiên Giang phát biểu trong Hội tháo khoa học “Di tích lịch sứ căn cứ địa cách
mạng u Minh Thượng 5 - 7/6/1997”).
2. Những địa chỉ lịch sử nối bật ở u Minh Thượng
2.1. N oi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên ở vùng u M inh Thượng
Ông Quảng Trọng Linh, Quáng Trọng Hoàng từ Mỹ Tho xuống hoạt động ờ vùng Ranh Hạt, kinh xáng Chắc Băng, cùng với một số đảng viên ớ Vĩnh Long xuống đây hoạt động đã nhóm họp lại và thành lập chi bộ Vĩnh Thuận vào năm 1932 (nay là ấp Đập Đá, xã Vĩnh Phong huyện VTnh Thuận).
2.2. Ngã ba Cây Bàng (nay thuộc xã Vĩnh Hòa huyện Vĩnh Thuận)
Tại đây có hai trận chiến thắng lớn:
70
KIÊN GIANCỈ - DI TÍCH VÀ DANH THANG
- Ngày 13/6/1946, binh lính Pháp đi càn vào /ừng Ngã ba Cây Bàng bị quân, dân Kiên Giang tiêu diệt trên 100 lính Pháp. Từ đó đến ngày đình chiến 20/7/1954, quàn đội Pháp và tay sai không dám bén nang đèn đây.
Trong kháng chiến chổng Pháp đã có một thời gian Bộ Tư lệnh quân khu đã đóng ớ vùng này. - Ngày 10/1/1956, tiếu đoàn 1/36 quân chu lực cua Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ mở cuộc hành quân đến xóm Thầy Quơn rồi xuống Ngã ba Cây Bàng. Trung đoàn lính Hòa Hảo do Nguyễn Thời Rê chi huy được ông Thái Quý, cán bộ cách mạng vào làm cổ vấn cho đơn vị này đã phục kích diệt 200 tên lính, thu toàn bộ vũ khí. Phía quân đội “quốc gia” thú nhận bị diệt 92 tên, mất 85 vũ khí các loại và bốn máy truyền tin. Hiện nay những cây bàng cành lá xanh tươi vẫn tỏa bóng trước Nghĩa trang liệt sỹ Cây Bàng, nơi an nghỉ ngàn thu của các chiến sĩ cách mạng đã hi sinh trên mảnh đất này.
2.3. Chiến thắng Ngã ba Đình và khu vực Ngã ba Tàu trên sông Cái Lớn
Ngày 5/10/1947, quân đội Pháp mở cuộc ruồng bố íớn vào vùng giải phóng u Minh Thượng. Bộ đội và du kích làng VTnh Bình, huyện Phước Long (nay là huyện VTnh Thuận) do Lê Văn Phát chi huy dùng thủy lôi liánh chìm hai tàu LCS, quân Pháp chết gần 100 tên, cuộc ruồng bố của quân đội Pháp bị bẻ gãy.
71
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
Du kích lặn xuống tàu chìm, trong một tuần gờ được hai súng trọng liên 12,7 ly, bốn trung liên, một cối 80 ly, 35 súng trường.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, trong ba năm 1969 - 1971, Nguyễn Văn Tư (ông Tư Nhà Mới) cùng tô công binh Gò Quao đánh chìm 35 tàu cùa quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa trong đó có hai tiêu pháo hạm, góp phan đánh bại chiến thuật “Hạm đội nhỏ trên sông” của địch. Năm 1971, Nguyền Văn Tư được tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong dân gian, người ta gọi ông Tư là “ông Tư Nhà Mới” và phong cho ông là ‘Thủy thần sông Cái Lớn”. Sự tích, chiến công và cuộc đời của ông được người đương thời kể lại, thật ly kỳ như truyện thần thoại.
2.4. Chiến thắng Vàm Bàu Môn - kinh Thầy Cai (xã Đông Yên, huyện A n Biên)
Trong kháng chiến chống Pháp, ngày 6/3/1954, lực lượng vũ trang cách mạng đã phục kích một tiểu đoàn địch từ vườn Bàu Môn vào kinh Thầy Cai diệt trên 200 tên lính thu toàn bộ vũ khí và đồ dùng quân sự.
2.5. Tiêu diệt chi khu quân sự quận lỵ Kiên A n (Xéo Rô) ngày 30/10/1959
Đêm 29 rạng sáng ngày 30/10/1959, lực lượng vũ trang Rạch Giá đánh chiếm chi khu quân sự và quận lỵ
72
KIẾN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THANG
Kiên An diệt và bất sống hơn 100 lính ngụy quân và nhân viên quân sự khác, xư tội viên quận trương Lâm Quang Quận, thu toàn bộ vũ khí, giai thoát hơn 100 cán bộ, chiến sĩ và dồng bào bị chính quyền Sài Gòn giam cầm. Đây là lần đầu tiên lực lượng cách mạng đă diệt gọn một chi khu tại quận lỵ cua quân đội Sài Gòn.
2.6. Kinh Trung Đoàn - Lẩm Sáu Sanh (Sân Gạch) Tại kinh Trung Đoàn tháng 4/1946, đội Vệ quốc đoàn đầu tiên cũa tinh Rạch Giá được thành lập, do ông Huỳnh Thú chỉ huy, lấy phiên hiệu chi đội 124, có 300 cán bộ, chiến sĩ.
Trong kháng chiến chống Mỹ, có thời gian cơ quan Tỉnh ủy Rạch Giá đóng ở kinh Trung Đoàn. 2.7. Di tích Xẻo Cạn (huyện An Biên)
Đêm 12/2/1960, lực lượng giải phóng quân đã tiêu diệt Sở chỉ huy hậu cần cuộc hành quân “Bình định u Minh” của quân đội Sài Gòn tại ngọn xẻo Cạn, loại khỏi vòng chiến đấu 56 tên, thu toàn bộ vũ khí, bẻ gãy cuộc hành quân của quân đội Sài Gòn.
Ngày 5/4/1960, tại đây chính quyền cách mạng đã thành lập lực lượng vũ trang huyện An Biên. Tại đây ngày 20/7/1960 Tiểu đoàn u Minh 10, bộ đội cơ động của tinh Rạch Giá ra mắt làm lễ xuất phát. Ngày 1/3/1961. Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Rạch Giá thành lập và làm lễ ra mắt ngày 6/3/1961, có gần 12.000 người đến dự, chủ nhiệm là ông Trương
73
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THA N G
Minh Cánh, phó chú nhiệm là ông Nguyền Kim Khuê, tức Hai Tý và ông A Cha Phâm.
Tiêp sau đó Mặt trận Dân tộc giai phóng huyện An Biên cũng được thành lập tại đây, ông Lê Hưng Tẩu được bầu làm chu nhiệm Mặt trận Dân tộc giai phóng huyện.
Ngày 5/4/1975, Tinh uy Rạch Giá họp tại Xéo Cạn thay mặt cho toàn Đang và quân dân trong tỉnh hạ quyêt tâm: "Nắm lấy thời cơ chung phát huy tinh thần tự lực, tự cường bằng ba mũi giáp công, bằng mọi lực lượng liên tục tân công và nôi dậy khăp bu vùng, tiêu diệt và tiêu hao thật nhiêu sinh lực địch, khãn trương tạo thế và lực mới, tiến tới tông công kích, tong khởi nạhĩci giành thang lợi hoàn toàn”.
2.8. Chiến thắng Kè M ột xã Vĩnh Bình (huyện Vĩnh Thuận)
Tháng 7/1961, Trung đoàn 33 của quân đội Việt Nam Cộng hòa mờ cuộc càn quét băng trực thăng vào Kè Một đã bị Tiểu đoàn u Minh 10 của tỉnh Rạch Giá đánh bại, loại khởi vòng chiến đấu gần 300 tên lính. Đây là chiến thắng đầu tiên của quân giai phóng đối với chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, “bủa lưới phóng lao”, của chính quyền Mỹ và Sài Gòn lúc bấy giờ nhằm càn quét gom dân lập ấp chiến lược.
74
KIÊN GIA N G - DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
2.9. Di tích Thứ M ười M ột (xã Đông Hung, huyện An Biên)
- Đầu năm 1946, thục dân Pháp đã đóng một cứ điềm quân sự tại Thứ Mười Một.
- Ngày 8/4/1962 chính quyền Sài Gòn dưới sự hồ trợ của Mỹ, lập quận Hiếu Lề đóng tại Thứ Mười Một. Ngày 8/1/1965 chi khu Thứ Mười Một và quận lỵ bị quân giải phóng bao vây đánh mạnh, quân đội Sài Gòn phải rút chạy và ngày 20/3/1965, chính quyền Sài Gòn phải ra Nghị định số 405/NV bãi bỏ quận Hiếu Lề.
- Từ đầu năm 1969 đến cuối năm 1971, quân đội Sài Gòn đã mở cuộc hành quân lớn “Bình định u Minh” và lấy địa bàn Thứ Mười Một lập căn cứ hành quân. Trận thắng tại Thứ Mười Một tiêu biểu nhất của quân và dân Kiên Giang vào đêm 5/11/1969, đã diệt gần 700 tên lính, bắt sống 21 tên khác, làm chủ trận địa. Đen ngày 17/11/1969 cuộc hành quân lớn thứ nhất của quân đội Sài Gòn buộc phải chấm dứt. Lần hành quân lớn thứ hai (tháng 2/1970), quân đội Sài Gòn không đóng căn cứ tại Thứ Mười Một mà đóng tại kinh Họa Đồ (cách Thứ Mười Một lkm). Ngày 12/3/1970 bộ đội giải phóng tiến công diệt gọn sở chỉ huy và diệt gần 400 tên lính thuộc quân đội Sài Gòn. Sáng ngày hôm sau quân đội Sài Gòn đã bỏ căn cứ rút chạy.
- Cuộc hành quân thứ hai của quân đội Sài Gòn bị quân giải phóng bẻ gãy. Cùng với đại thắng Mùa
75
KIÊN GIANG DI TÍCH VÀ DANH THẢNG
xuân 1975, 6 giờ sáng ngày 1/5/1975, toàn bộ quân đội Sài Gòn đóng ơ Thứ Mười Một (tại Thứ Mười Một và Cán Gáo có 1.300 tên lính) đã đầu hàng. Đây là căn cứ cuối cùng của quân đội Sài Gòn ở u Minh Thượng bị
xóa sô.
2.10. Ap 15 xã Đông H ung (huyện An M in h ) Trong ba cuộc hành quân lớn vào u Minh Thượng từ đầu năm 1969 đến cuối năm 1971, quân đội Mỹ và Sài Gòn đã dùng nhiều máy trực thăng vận chuyển qưân và bắn phá. Du kích ấp 15 xã Đông Hưng (huyện An Minh) đã cùng bộ đội giải phóng bắn rơi tại đây 17 máy bay trực thăng (trực thăng vận) của Mỳ và quân đội Sài Gòn.
2.11. Căn cứ Bình M inh (Sân Gạch xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Thuận) và Rạng Đông (T h ử M ười Một) của quân đội M ỹ và Sài Gòn
Cuộc hành quân lớn đầu năm 1969 vào u Minh Thượng, quân đội Mỹ và Sài Gòn đã đóng ba căn cứ lớn có cả trận địa pháo: căn cứ Bình Minh (Sân Gạch) ở xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Thuận; căn cứ Rạng Đông (Thứ Mười Một) và căn cứ Toàn Thắng tại Tám Ngàn (Biền Bạch, huyện Thới Bình). Ba căn cứ này thường xuyên khống chế vùng u Minh Thượng.
Lực lượng đặc công thuộc lực lượng giải phóng quân của tỉnh Rạch Giá phối hợp với du kích xã VTnh Hòa thường xuyên đột nhập căn cứ Bình Minh, đánh
76
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
trận địa pháo, khu thông tin, kho đạn, làm cho căn cứ này không thế hồ trợ căn cứ Thứ Mười Một. Năm 1972 quân dân Vĩnh Thuận đã phối hợp với lực lượng bộ đội chu lực đánh vào khu căn cứ làm thiệt hại nặng căn cứ Binh Minh, làm chủ trận địa suốt ngày đêm, giải phóng hàng ngàn dân ra khoi ấp chiến lược Nhà Ngang.
Phát huy thắng lợi này, quân dân, du kích xã Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Hòa tấn công báy đồn lớn nhó, giải phóng hoàn toàn xã VTnh Bình Bấc và ấp Vĩnh Tiến (xã Vĩnh Hòa), xã Vĩnh Thuận tiêu diệt, bức rút bốn đồn (Kinh 2, Kinh 3, Kinh 14 và Kinh 11), giải phóng đại bộ phận các kinh ven rừng u Minh. Sang năm 1973, quân dân An Biên và Vĩnh Thuận kết họp với lực lượng của tinh liên tục bao vây căn cứ Bình Minh, Rạng Đông, vô hiệu hóa 2 căn cứ này.
Từ ngày 14 đến 19/5/1974, quân dân du kích và quân giải phóng tấn công bức rút ba đồn Cây Bàng, An Thiện, ngã ba Năm Ty và bức rút căn cứ Bình Minh.
2.12. Ảp Kinh Làng - Đông Thái huyện An Biên Ngày 3/8/1968, người Mỹ đã cho 18 lượt chiếc máy bay B52 ném bom rải thảm xuống ấp Kinh Làng - Đông Thái, giết chết hơn 100 người và phá hủy nhiều cánh rừng tràm. Hiện nay gần 300 hổ bom còn nằm rải rác ớ vùng này. Một tấm bia được dụng ở ấp Kinh Làng ghi dòng chữ “Tưởng nhớ hơn 100 đông bào, đồng chí chết và bị thương vì bom B52 của giặc M ỹ”.
77
KIÊN GIA NG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
2.13. Rìm g tràm Ban Biện Phú (huyện Vĩnh Thuận)
Từ năm 1955 - 1959 bộ máy kềm kẹp và quân đội của Ngô Đình Diệm đóng tại nhà Ban Biện Phú đã bắt và giết hại gần 1.000 người tại rừng tràm Ban Biện Phú. Ngoài ra còn có một số di tích - nơi đóng cơ quan và đơn vị lực lượng vũ trang thời kỳ kháng chiến chỏng Pháp.
2.14. Các di tích khác ở ư M inh Thirọng - Di tích Bộ Tư lệnh Khu 9 đổng ớ Cây Bàng, xã Vĩnh Hòa, huyện VTnh Thuận.
- Di tích Trường Mác-xít quân khu 9 ở Vĩnh Lộc, Vàm Câm, Lương Tâm, Phong Thuận, huyện VTnh Thuận. - Di tích Trường Chính trị Phụ nừ cứu quốc miền Tây và Trường Thiếu sinh quân Khu 9 ở Phong Thuận, huyện Vĩnh Thuận.
- Di tích Trường Lục quân Gia Định ở Cạnh Đen. xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận.
- Di tích Trường Tư pháp Nam bộ ơ Hóc Hoa (huyện An Biên), Kinh Hảng, Danh Coi (huyện An Minh). - Công binh xướng 12 Khu 9 ở Cán Gáo, Mương Đào (huyện An Minh).
- Di tích Cơ quan ngoại vụ Nam bộ ớ xã Danh Coi (huyện An Minh) dọc xuống Thới Bình, Lung Lớn, Hòa Điền.
78
KIÊN GIANG - DI TÍCH VÀ DANH THÁNG
- Di tích Hội nghị chiến sĩ thi đua Cao Miên ở háu kinh Họa Đồ xã Danh Coi, huyện An Minh. - Di tích Ban Đông y Nam bộ ơ Đập Đá, huyện Vĩnh Thuận.
- Di tích khu tập kết 200 ngày ớ kinh Xáng Chắc Báng, huyện VTnh Thuận.
*
* *
Rừng u Minh Thượng cùng với các di tích lịch sư được bao tồn, sử dụng, phát huy sẽ góp phần vào việc nghiên cứu, giáo dục về sinh thái và truyền thống cach mạng cho các thế hệ mai sau, rừng u Minh thượng đang góp phần phát triền du lịch và giao lưu văn hóa. Mọi người đến với u Minh Thượng là đến với những chiến công anh dũng của cha ông, đến với vùng sinh thái tươi đẹp của đất Việt.
3. Gò Quao với chiến thắng lộ Lục Phi
Lộ Lục Phi là con đường nối liền Tiểu khu Chương Thiện (Vị Thanh) với chi khu Kiên Hung (Gò Quao) và một số vị trí Sài Gòn. Ở đây, họ tạo ra thê gọng kìm phía đông nam tỉnh Kiên Giang.
Đây là con đường chiến lược nên quân đội Mỹ và Sài Gòn thường mở các cuộc càn quét từ Chương Thiện đến Chi khu Kiên Hưng nhằm cắt đứt, cản trờ liên lạc của cua quân giải phóng từ căn cứ cách mạng u Minh lên Giồng Riềng, Châu Thành, Rạch Giá,
79
KIÊN GIANG DI TÍCH VÀ DANH THẮNG
vòng cung huyện Châu Thành A, tinh cần Thơ và đường lên R (căn cứ Trung ưưng Cục miền Nam). Cũng chính vì tầm quan trọng của con lộ này. năm 1964 Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đã giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 96 là quân chừ lực của Quân khu nghiên cứu phương án đê mở rộng dọc lộ Lục Phi. Sau khi lên phương án. Đêm 18/7/1964, bộ đội địa phương cùng quân dân bao vây, tấn công chi khu Kiên Hưng và các đồn bót vùng Sóc Ven, Định An. Một số đồn lính của quân đội Sài Gòn ở khu vực này bị hư hại nặng nề, một số lính khác bị thương vong, đồn bót bị lực lượng giai phóng uy hiếp hoàn toàn. Đúng theo dự đoán, quân đội Sài Gòn ớ đây đã điện về Chương Thiện xin tiếp viện.
Sáng sớm ngày 19/7/1964, một tiểu đoàn quân dội Sài Gòn thuộc sư đoàn 21 (có hai cố vấn Mỹ) từ Chương Thiện tiến về chi khu Kiên Hưng giải vây. Trung đoàn 96 của quân giải phóng chia làm hai cánh đề chặn đánh: tiêu đoàn phục kích bên trái lộ Lục Phi có nhiệm vụ tiến công và tiểu đoàn bên phải khóa hậu địch.
Đúng 9 giờ sáng quân lính Sài Gòn lọt vào điểm phục kích của quân giải phóng. Khi họ chưa kịp phát hiện thì pháo cối của quân Giải phóng đã liên tiếp bắn xuống dọc theo lộ Lục Phi khiến quân đội Sài Gòn phải bở chạy tán loạn. Những loạt cối của quân giải phóng đã cắt đội hình của kẻ thù thành nhiều đoạn đẻ tiêu diệt và thu gom vũ khí. Trận chiến diễn ra hết sức
8 0