" Không Chốn Nương Thân PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Không Chốn Nương Thân PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo KHÔNG CHỐN NƯƠNG THÂN Cormac McCarthy Dịch giả: Diệp Minh Tâm Nhà xuất bản Hội nhà văn - 2010 —★— Scan: Bánh Ngọt Chuyển text: Caruri tve-4u.org 14/11/2019 Chương I Tôi đã đưa một tên trai trẻ vào phòng hơi ngạt ở Huntsville. Chỉ một người duy nhất là tên trai trẻ ấy. Việc tôi bắt giữ và khai báo. Tôi đi lên đấy, và đến gặp tên trai trẻ hai hoặc ba lần. Ba lần. Lần cuối cùng là khi hắn bị thi hành án tử hình. Tuy không vì nhiệm vụ bắt buộc nhưng tôi vẫn đi. Chắc chắn là tôi không thích đi chút nào. Hắn đã hạ sát một cô bé mười bốn tuổi và bây giờ tôi có thể nói với bạn rằng mình không hề muốn đến gặp hắn chứ đừng nói đến việc đi xem hắn bị thi hành án. Nhưng tôi vẫn đi. Báo chí tường thuật đấy là một vụ án mạng vì tình nhưng hắn lại bảo với tôi rằng không có tình yêu trong vụ này. Hắn đã hẹn hò với cô gái ấy, cô còn rất trẻ. Hắn mười chín tuổi. Hắn bảo tôi rằng từ lâu lắm rồi, mà hắn không nhớ từ lúc nào, hắn đã trù định giết ai đấy. Bảo rằng nếu không bị phát hiện thì hắn sẽ làm chuyện này lần nữa. Hắn bảo hắn biết mình sẽ sa xuống địa ngục. Chính cửa miệng hắn nói với tôi như thế. Tôi không hiểu sự thể ra sao. Chắc chắn là tôi không hiểu. Tôi nghĩ mình chưa bao giờ gặp một người như thế, khiến cho tôi tự hỏi phải chăng hắn là một mẫu người mới. Tôi nhìn người ta buộc hắn vào thành ghế và đóng cánh cửa lại. Dường như hắn lộ vẻ âu lo một tí về việc này nhưng chỉ có thế thôi. Tôi thật sự tin hắn biết rằng hắn sẽ sa xuống địa ngục. Tôi tin như thế. Và tôi suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Hắn không phải là người khó bắt chuyện. Gọi tôi là Cảnh sát trưởng. Nhưng tôi không biết nói gì với hắn. Bạn nói gì với một người tự nhận là mình không có linh hồn? Tại sao bạn lại phải nói gì cơ chứ? Tôi suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Nhưng hắn chả là gì cả so với những chuyện sẽ xảy ra tiếp theo. Người ta nói đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Tôi không biết đôi mắt nào là cửa sổ đối với ai và tôi nghĩ còn lâu mình mới biết được. Nhưng ngoài kia có một nhãn quan khác về cuộc đời, có những đôi mắt nhìn theo nhãn quan ấy, và đấy là nơi sự việc xảy ra. Nó đã mang tôi đến một nơi chốn trong cuộc đời mà tôi chưa từng nghĩ mình sẽ đi đến. Ở nơi nào đấy ngoài kia có một nhà tiên tri sống mà tôi không muốn giáp mặt. Tôi biết nhà tiên tri ấy có thật. Tôi đã thấy hành động của ông ta. Một lần tôi đi ngang qua trước mắt ông ta. Tôi sẽ không bao giờ làm chuyện này nữa. Tôi sẽ không phó mặc mọi chuyện mà đi tìm ông ta nữa. Đấy không phải là do tôi đã già. Tôi mong thế. Tôi không thể nói rằng thậm chí đấy là việc bạn tự nguyện làm. Bởi vì tôi luôn biết rằng bạn sẽ sẵn lòng chết để làm chuyện này. Luôn là thế. Nghe ra không vẻ vang gì trong chuyện này nhưng bạn phải làm. Nếu bạn không làm, họ sẽ biết. Họ sẽ thấy ngay trong tích tắc. Tôi nghĩ nó giống như việc bạn muốn mình trở thành như thế nào. Và tôi nghĩ người ta sẽ phải đem tâm hồn vào chốn hiểm nguy. Tôi sẽ không làm thế. Bây giờ tôi nghĩ có lẽ mình sẽ không bao giờ làm thế. Viên cảnh sát phụ tá để cho Chigurh đứng ở góc văn phòng với hai tay bị còng quặp sau lưng, trong khi anh ngồi trên chiếc ghế xoay, dỡ chiếc mũ ra, đặt hai chân lên mặt bàn rồi gọi cho Lamar qua điện thoại di động. “Mới bước vào qua cửa. Cảnh sát trưởng à, hắn mang trên người thứ gì đó giống như là lọ dưỡng khí để chữa chứng hen suyễn hay đại loại như vậy. Rồi hắn có một cái ống giấu bên trong tay áo và nối với khẩu súng gây bất tỉnh giống như loại người ta dùng ở lò sát sinh. Dạ, thưa sếp. À, nó giống như vậy. Sếp có thể nhận ra khi tới đây. Dạ, thưa sếp. Tôi theo dõi kỹ. Dạ, thưa sếp.” Khi đứng lên khỏi chiếc ghế, anh rút ra xâu chìa khóa đeo ở thắt lưng rồi mở ngăn kéo bàn để lấy chìa khóa phòng giam. Anh đang cúi hơi thấp người thì Chigurh ngồi xổm luồn hai bàn tay bị còng phía dưới thân người mình cho đến phía sau đầu gối. Cùng lúc, hắn ngồi bật ra sau, luồn sợi dây xích dưới hai chân mình rồi lập tức đứng dậy mà không phải dùng nhiều sức. Đấy giống như là động tác hắn đã tập luyện nhiều lần. Hắn giáng hai bàn tay bị còng xuống đầu viên cảnh sát rồi nhảy lên, tống hai đầu gối vào sau gáy anh và kéo sợi dây xích lại. Cả hai ngã xuống nền nhà. Viên cảnh sát cố đưa hai bàn tay vào bên trong sợi dây xích nhưng không được. Chigurh chỉ nằm đấy dùng hai đầu gối giữa hai cánh tay kéo lên hai chiếc còng và quay mặt đi. Viên cảnh sát đang dãy dụa, bắt đầu xoay lòng vòng ngang người, hai chân đá văng giỏ rác, đá chiếc ghế bay đi. Anh đá cánh cửa cho đóng lại, quấn tấm thảm nhỏ quanh hai người. Miệng anh phát tiếng ùng ục vì máu đang chảy ra. Anh đang bị bóp nghẹt bởi chính dòng máu của mình. Chigurh chỉ cần giật cho mạnh thêm. Đôi còng mạ kền cấn thấu đến xương. Động mạch chủ bên phải của viên cảnh sát vỡ tung, một vòi máu phun ra, chạm đến tường rồi chảy ròng xuống. Hai chân viên cảnh sát cử động chậm dần rồi ngưng lại. Thân người anh èo giật. Rồi trở nên bất động. Chigurh nằm thở nhè nhẹ, hai tay giữ lấy người viên cảnh sát. Rồi hắn đứng dậy, tháo chùm chìa khóa từ thắt lưng viên cảnh sát mà mở khóa còng cho mình, giắt khẩu súng lục của viên cảnh sát vào lưng quần, rồi đi vào buồng tắm. Hắn cho vòi nước lạnh chảy trên hai cổ tay cho đến khi máu ngưng chảy, dùng răng xé tấm khăn lau tay băng bó hai cổ tay, rồi trở ra văn phòng. Hắn ngồi trên mặt bàn, dùng băng keo văn phòng băng bó vải khăn ở cổ tay, nhìn qua người đã chết đang há hốc mồm nằm trên sàn nhà. Xong xuôi, hắn rút chiếc ví của viên cảnh sát, lấy hết tiền cho vào túi áo mình rồi ném chiếc ví xuống sàn. Hắn nhặt lấy lọ khí của mình và khẩu súng gây bất tỉnh rồi đi ra ngoài cánh cửa, bước lên chiếc xe của viên cảnh sát, nổ máy, chạy ra con đường. Trên xa lộ liên tiểu bang, hắn chọn một chiếc xe Ford kiểu mới chỉ có một người duy nhất lái xe, mở đèn nháy và còi hụ xe của mình. Chiếc xe kia tấp vào bên lề đường. Chigurh đỗ xe phía sau, tắt máy xe, quàng lọ khí qua vai và bước ra. Người lái xe nhìn hắn qua kính chiếu hậu khi hắn bước đến. Ông hỏi: “Có vấn đề gì vậy hở sếp?” “Xin ông ra khỏi xe được không?” Người lái xe mở cửa, bước ra ngoài. Ông hỏi: “Có chuyện gì vậy?” “Xin ông vui lòng bước xa ra khỏi xe.” Người đàn ông bước tránh xa khỏi chiếc xe mình. Chigurh có thể thấy vẻ nghi ngờ trong ánh mắt ông khi nhìn người đứng trước mặt vấy máu, nhưng đã quá muộn. Hắn đặt một bàn tay lên đầu ông, như là cha cố làm phép thánh cho con chiên. Tiếng rít của khí nén và tiếng còi súng đánh chát nghe như là cánh cửa đóng sập. Thân người đàn ông rũ xuống đất không một tiếng động. Một dòng máu sủi bọt từ một lỗ nhỏ trên trán rồi chảy xuống đôi mắt, mang theo hình ảnh cuối cùng mà người đàn ông nhìn thấy trong đời. Chigurh dùng một chiếc khăn tay lau bàn tay mình. Hắn nói: “Chỉ vì tao không muốn mày nhỏ máu trên xe.” Moss ngồi với hai gót của đôi giày cao cổ lún sâu vào lớp sỏi của gờ núi lửa, dùng ống nhòm của Đức với độ phóng đại 12 để quan sát vùng sa mạc phía dưới. Vành mũ anh kéo ngược về phía sau đầu. Hai cùi chỏ chống lên hai đầu gối. Khẩu súng trường quàng qua vai với dây đeo súng bằng da là khẩu ’98 Mauser có cỡ nòng .270, với báng làm bằng gỗ phong và gỗ óc chó. Khẩu súng được trang bị một ống ngắm Unertl có độ phóng đại ngang bằng ống nhòm. Đàn linh dương ở khoảng cách một ki-lô-mét rưỡi. Mặt trời đã mọc không đầy một tiếng đồng hồ, bóng của những đỉnh núi và vách đá trải dài trên thung lũng trước mặt anh. Ở nơi đâu đấy cũng có cái bóng của chính Moss. Anh hạ ống nhòm xuống và ngồi quan sát vùng đất. Xa về hướng nam là những rặng núi hoang sơ của Mexico. Nơi con sông bị ngắt quãng, về hướng tây là vùng đất khô cằn bị nung chín dưới ánh mặt trời chạy dọc theo đường biên giới. Anh khô khan nhổ nước bọt rồi chùi miệng trên vai áo vải bông. Vói cự ly chín trăm mét và cùng một đích nhắm, những viên đạn sẽ ghim vào mục tiêu cách nhau khoảng 7 xen-ti-mét. Điểm mà anh chọn để bắn nằm ngay dưới triền dốc trải dài của lớp đá vụn núi lửa và đặt anh trong khoảng cách ấy. Chỉ có điều là phải mất gần một tiếng đồng hồ để đi đến đấy và đàn linh dương đang vừa gặm cỏ vừa rời xa khỏi anh. Điều tốt nhất mà anh có thể nói về việc này là không có gió. Khi đi đến chân triền dốc, anh từ từ đứng thẳng lên và dõi mắt tìm đàn linh dương. Chúng vẫn ở cùng vị trí anh thấy lần cuối nhưng cự ly bắn vẫn còn gần bảy trăm mét. Anh quan sát đàn thú qua ống nhòm. Qua lớp bụi không khí nén và hình ảnh méo mó vì hơi nóng. Một lớp mờ mờ bụi và phấn hoa sôi sục. Không có chỗ ẩn núp và sẽ không thể bắn thêm phát súng nào khác. Anh dầm chân trong lớp đá vụn núi lửa, tháo một chiếc giày cao cổ ra đặt lên các hòn đá, hạ khẩu súng khỏi sợi dây da và mở chốt an toàn rồi nhìn qua ống nhắm. Đàn thú đứng ngẩng cao đầu, tất cả đàn, nhìn về phía anh. Anh thì thầm: “Mẹ kiếp!” Mặt trời ở phía sau lưng anh nên đàn thú không thể nhìn ánh sáng phản chiếu từ mặt gương của ống nhắm. Chúng chỉ nhìn anh trực diện. Khẩu súng có cò súng Canjar được hiệu chỉnh ở mức 266 gram. Anh kéo khẩu súng và chiếc giày về phía mình thật cẩn thận, lại nhìn qua ống ngắm, xê dịch trung tâm của hai đường chỉ một chút về phía lưng của một con linh dương hiện ra với thân hình lớn nhất trong ống ngắm. Anh biết cứ mỗi 100 mét thì viên đạn xê dịch xa bao nhiêu. Chỉ có cự ly là anh không chắc chắn. Anh đặt một ngón tay theo đường cong của cò súng. Chiếc nanh heo rừng mà anh mang trên sợi dây chuyền vàng cuộn lên những viên đá bên trong cùi chỏ của anh. Cho dù nòng và phần loe họng súng đều nặng, khẩu súng vẫn cân bằng. Khi nhìn lại qua ống ngắm, anh có thể thấy đàn thú vẫn đứng chỗ cũ. Viên đạn nặng gần 10 gram mất gần một giây đồng hồ thì đến mục tiêu nhưng âm thanh lại mất thời gian gấp đôi. Bầy thú đang đứng nhìn về phía chùm khói thì viên đạn bắn đến. Rồi chúng nhảy dựng lên. Hầu như lập tức bỏ chạy hết tốc độ dọc theo đáy thung lũng với tiếng rít của đạn súng trường cuốn theo chúng và va đập trên đá rồi dội chệch qua khoảnh đồng trống trong bầu không khí cô quạnh ban mai. Anh đứng nhìn đàn thú chạy đi. Anh nâng ống nhòm. Một con thú đã ngã xuống, đang lê một chân. Anh nghĩ có lẽ viên đạn đã bắn trúng chân sau bên trái. Anh đứng tựa và nhổ nước bọt. Anh thốt lên: “Mẹ kiếp!” Anh ngắm nhìn đàn thú chạy xa khỏi tầm mắt ở khoảnh đất mũi phủ đá xa về hướng nam. Đám bụi màu cam nhạt lơ lửng trong ánh sáng ban mai không một gợn gió, trở nên mỏng dần và rồi cũng tan biến. Đáy thung lũng trở lại yên ả và hoang vắng dưới ánh nắng. Như thể không có chuyện gì xảy ra. Anh ngồi kéo chiếc giày cao cổ lên, nhấc lấy khẩu súng, tống ra vỏ đạn rỗng, bỏ nó vào túi áo rồi đóng chốt súng. Rồi anh quàng khẩu súng lên vai và bước ra. Anh mất khoảng bốn mươi phút để đi xuyên qua đáy thung lũng. Từ đây anh đi lên triền núi lửa dốc dài, lần theo đỉnh của gờ núi phía tây nam đến một mỏm đá nhìn xuống khoảng đồng trống nơi bầy thú đã biến mất. Anh chầm chậm dõi mắt qua ống nhòm. Một con chó to không đuôi, lông đen, đang đi ngang qua. Anh dõi mắt theo. Con chó có cái đầu khổng lồ, vành tai cụt ngủn, đang đi lặc lè. Nó ngừng lại. Nó nhìn về phía sau. Rồi nó tiếp tục đi. Anh hạ ống nhòm xuống và nhìn theo nó. Anh đi dọc theo gờ núi với ngón tay cái bấu vào sợi dây đeo súng, vành mũ lật ngược phía sau đầu. Lưng áo anh ướt đẫm mồ hôi. Những tảng đá ở đây được khắc những chữ tượng hình có lẽ cả nghìn năm trước. Những người vẽ nên những chữ này đã là dân đi săn giống như chính anh. Không có dấu vết nào khác về họ. Ở cuối gờ núi là khoảnh đá trượt, một con đường mòn gồ ghề dẫn xuống. Lùm cây đuôi chồn bụi rậm gai góc. Anh ngồi trên những phiến đá, tựa hai khuỷu tay lên hai đầu gối và dùng ống nhòm quan sát khu đồng trống phía dưới. Cách khoảng một ki-lô mét rưỡi, trên khu đồng bằng có ba chiếc xe đang đỗ. Anh hạ ống nhòm xuống và nhìn bao quát khu đồng trống. Rồi lại nâng ống nhòm lên. Trông như có những người đang nằm trên mặt đất. Anh bấm đôi giày vào khe đá và điều chỉnh ống nhòm. Ba chiếc xe thuộc loại bán tải hai cầu hoặc là loại xe Bronco với lốp xe dùng để chạy trên mọi địa hình, có máy tời phía trước và dàn đèn pha trên mui xe. Những người đang nằm có vẻ như đã chết. Anh hạ ống nhòm xuống. Rồi lại nâng lên. Rồi anh hạ xuống và chỉ ngồi đấy. Không có gì động đậy. Anh ngồi đấy một hồi lâu. Khi đang tiến đến ba chiếc xe, anh đã tháo khẩu súng trường xuống khỏi vai, cầm ngang hông, chốt an toàn mở. Anh dừng lại. Anh quan sát khu đồng trống rồi quan sát ba chiếc xe. Cả ba xe đều bị bắn nát. Nhìn những lỗ đạn trên thành xe chạy theo vài đường thẳng hàng đều đặn, anh biết dấy là do đạn súng máy. Hầu hết các cửa kính bị bắn vỡ nát; các bánh xe đều bị xẹp. Anh đứng đấy. Nghe ngóng. Trên chiếc xe thứ nhất, một người gục chết trên tay lái. Gần đấy là thêm hai xác chết nằm trên lớp cỏ vàng úa cằn cỗi. Từng vết máu đen sì trên mặt đất. Anh dừng lại và nghe ngóng. Không có gì cả. Đàn ruồi nhặng lao xao. Anh đi vòng qua phía sau chiếc xe. Có một con chó nằm chết, giống như loại chó anh đã thấy chạy ngang khu đồng trống. Con chó bị bắn nát bụng. Kế đấy là một xác chết thứ ba nằm úp mặt xuống. Qua khung cửa xe, anh nhìn đến người ngồi bên trong. Người này bị bắn vào đầu. Máu vương vãi khắp nơi. Anh đi đến chiếc xe thứ hai, nhưng xe này trống rỗng. Anh đi đến chỗ xác chết thứ ba. Có một khẩu shotgun* trên mặt đất. Khẩu súng có nòng ngắn, được gắn báng súng lục và bằng đạn loại tròn chứa hai mươi viên đạn. Anh lấy mũi giày khẽ hích chân xác chết, rồi quan sát vùng đồi chung quanh. Chiếc xe thứ ba là chiếc Bronco có bộ giảm sốc nâng cao và các cửa kính màu khói đậm. Anh mở cửa xe phía tay lái. Có một người đàn ông ngồi trên nệm ghế, nhìn đến anh. Moss loạng choạng lùi về phía sau, cầm ngang khẩu súng. Khuôn mặt người đàn ông vấy máu. Anh ta mấp máy đôi môi khô. Anh ta nói: “Agua, cuate. Agua, por dios.*” Đặt trên lòng người đàn ông là một khẩu súng lục tự động* nòng ngắn H&K với dây đeo vai bằng nhựa màu đen. Moss tiến đến thu lấy khẩu súng rồi bước lui lại. Người đàn ông lặp lại: “Agua. Por dios.” “Tôi không có nước.” “Agua.” Moss vẫn để cánh cửa xe mở, quàng khẩu H&K lên vai và bước đi. Người đàn ông dõi mắt nhìn theo anh. Moss đi vòng qua phía đầu xe, mở cánh cửa phía bên kia. Anh nhấc chốt cài ghế và gấp lưng ghế về phía trước. Một tấm vải bạt màu trắng bạc phủ khoang hành lý phía sau ghế. Anh kéo tấm vải bạt qua một bên. Một đống gồm những gói có kích thước bằng viên gạch, mỗi gói được phủ trong bao nhựa. Một loại bột màu nâu tuôn ra. Anh thấm ướt ngón trỏ, nhúng vào trong bột nâu rồi đưa lên mũi ngửi. Rồi anh lau ngón tay trên vải quần jeans, kéo tấm vải bạt phủ lại đống gói, bước lui, lại nhìn ra khoảng đồng trống. Không có gì cả. Anh bước xa khỏi chiếc xe, đứng lại và nâng ống nhòm nhìn lên vùng đồi thấp. Nhìn đường gờ nham thạch. Nhìn vùng đồng phẳng lì về hướng nam. Anh rút ra chiếc khăn tay, quay lại, lau mọi nơi anh đã đặt tay lên. Nắm cửa xe, chốt cài ghế, tấm vải bạt, gói nhựa. Anh đi vòng qua bên kia chiếc xe và cũng lau khắp nơi. Anh cố nhớ lại những chỗ nào khác mình đã chạm tay vào. Anh bước trở về chiếc xe thứ nhất, dùng chiếc khăn tay để mở cửa xe rồi nhìn vào bên trong. Anh mở hộc chứa găng tay của chiếc xe rồi đóng trở lại. Anh quan sát người chết ngồi trước tay lái. Anh vẫn để mở cánh cửa và bước qua phía ghế người lái xe. Cánh cửa xe lỗ chỗ vết đạn. Kính trước cũng thế. Đạn cỡ nhỏ. Sáu mi-li-mét. Các viên bi* có lẽ cỡ số bốn*. Dấu vết cho thấy như thế. Anh mở cửa xe và đẩy chốt cửa sổ nhưng chiếc xe đã không được mở máy. Anh đóng cửa xe lại, đứng đấy, quan sát vùng đồi thấp. Anh ngồi xổm, tháo khẩu súng trường trên vai xuống rồi đặt trên bãi cỏ, cầm lấy khẩu H&K, kéo cần dẫn về phía sau. Còn một viên đạn trong buồng đạn, nhưng băng đạn chỉ còn hai viên. Anh ngửi đầu nòng súng. Anh tháo băng đạn ra, đeo khẩu súng trường qua một bên vai, đeo khẩu súng lục tự động qua vai bên kia, lại đi về phía chiếc Bronco, giơ cao băng đạn cho người kia nhìn thấy. Anh nói: “Otra. Otra”*. Người đàn ông gật đầu: “En mi bolsa”*. “Anh nói được tiếng Anh không?” Người đàn ông không trả lời. Anh ta cố gắng cử động cằm để ra dấu. Moss có thể thấy hai băng đạn ló ra từ túi áo anh ta đang mặc. Anh đưa tay vào thu lấy hai băng đạn rồi bước lui lại. Có mùi máu và phân người. Anh đút một trong hai băng đạn đầy vào khẩu súng lục tự động và hai băng đạn kia trong túi áo mình. Người đàn ông nói: “Agua, cuate.” Moss nhìn đảo một vòng vùng đồng trống chung quanh. Anh nói: “Tôi đã bảo anh là tôi không có nước.” Người đàn ông nói: “La puerta.”* Moss nhìn anh ta. “La puerta. Hay lobos.”* “Không có chó sói.” “Sí, sí. Lobos. Leones.”* Moss dùng khuỷu tay đóng sập cửa xe. Anh đi trở lại chiếc xe đầu tiên, đứng ở cửa xe nhìn vào phía ghế đối diện người lái. Không có vết đạn ở cửa xe nhưng vẫn có máu trên nệm ghế. Chìa khóa xe vẫn gắn ở ổ đề máy. Anh đưa tay vào, xoay chìa khóa và đẩy chốt cửa sổ. Tấm kính được đẩy lên chầm chậm. Có hai lỗ đạn, một vệt máu mỏng trên mặt trong tấm kính. Anh suy nghĩ về việc này. Anh nhìn xuống mặt đất. Những vệt máu trên đất sét. Máu trên cỏ. Anh nhìn ra con đường mòn chạy ngang một lòng chảo núi lửa theo đó chiếc xe chạy đến. Phải có một người cuối cùng còn sống. Và đấy không phải là “anh bạn” đang xin nước uống trong chiếc Bronco. Anh đi ra phía khoảnh đồng bằng, đảo mắt một vòng tròn để tìm dấu bánh xe trên nền cỏ mỏng sẽ hiện ra dưới tia sáng mặt trời. Anh tìm ra dấu vết cách khoảng ba mươi mét về hướng nam. Anh đi theo dấu chân cho đến khi thấy vết máu trên cỏ. Rồi có thêm vết máu. Anh lẩm bẩm: “Mày không đi được xa. Mày có thể nghĩ mình đã đi xa. Nhưng không phải.” Anh rời khỏi con đường mòn, đi đến khu đất cao nhất, cầm khẩu H&K trong tay với chốt an toàn đã mở. Anh quét ống nhòm qua vùng đồng trống phía nam. Không có gì. Anh đứng mân mê chiếc nanh heo rừng phía trước áo sơ-mi. Anh lẩm bẩm: “Bây giờ, mày đang trú nắng ở đâu đấy mà trông chừng đường rút lui. Khó cho mày nhìn thấy tao trước khi tao nhìn thấy mày.” Anh ngồi xổm, chống hai khuỷu tay lên hai đầu gối, nâng ống nhòm quét qua những tảng đá ở đầu thung lũng. Anh ngồi bệt xuống, bắt chéo hai chân, quét qua khu đồng bằng chậm hơn rồi hạ ống nhòm xuống mà chỉ ngồi như thế. Anh lẩm bẩm: “Đừng có ngu xuẩn mà ra đó lãnh đạn. Đừng làm thế.” Anh quay người, nhìn về hướng mặt trời. Khoảng mười một giờ. “Thậm chí mình không biết mọi chuyện này xảy ra đêm qua. Có thể là hai đêm trước. Thậm chí có thể ba.” “Hoặc có thể là đêm qua.” Một cơn gió dịu nổi lên. Anh đẩy vành mũ về phía sau đầu, dùng tấm khăn rằn lau mồ hôi trên trán rồi nhét tấm khăn vào túi quần. Anh nhìn ngang qua lòng chảo núi lửa, hướng đến dãy những tảng đá thấp dọc chu vi phía đông. Anh lẩm bẩm: “Không ai bị thương lại đi lên triền dốc. Không có chuyện này.” Khá vất vả mới đi lên được đến đỉnh gờ núi; gần giữa trưa anh mới đi đến đấy. Xa hơn về phía bắc, anh có thể nhìn thấy hình thể một chiếc xe kéo xe moóc theo sau đang chạy ngang qua vùng đất nóng bỏng. Hơn mười lăm cây số. Có lẽ hơn hai mươi cây số. Xa lộ 90. Anh ngồi xuống, đưa ống nhòm quét vùng đồng trống. Rồi anh ngưng lại. Có một vệt đá lở, dưới chân vệt đá ở rìa khoảnh đồng bằng lũ tích* là một mảnh nhỏ gì đấy có màu như màu lam. Anh quan sát một hồi lâu qua ống nhòm. Không có gì động đây. Anh quan sát vùng đồng trống chung quanh. Rồi anh lại để mắt trông chừng thêm. Phải gần một tiếng đồng hồ sau anh mới đứng dậy và đi xuống. Xác người đàn ông nằm tựa vào một tảng đá. Một khẩu súng tự động .45* bọc kền do nhà nước cấp nằm trên cỏ, giữa hai chân xác chết. Ông đã ngồi ngã qua một bên. Đôi mắt ông mở. Có vẻ như ông đang xem xét cái gì đấy trong đám cỏ. Có máu trên mặt đất và máu trên đá phía sau lưng ông. Máu vẫn còn có màu đỏ sậm nhưng chưa hẳn còn mới vì vẫn còn nằm trong bóng râm. Moss nhặt khẩu súng lục lên, khóa chốt an toàn. Anh ngồi xổm, cố lau vết máu khỏi báng súng trên ống quần của người đàn ông nhưng máu quá quánh đặc. Anh đứng dậy, giắt khẩu súng vào lưng quần, kéo vành nón lại, đưa tay áo lau mồ hôi trán. Có một chiếc cặp da dày dùng đựng tài liệu nằm dọc đầu gối của người đàn ông. Moss biết rất rõ bên trong cặp da là gì, và anh cảm thấy sợ hãi tuy không nhận rõ tại sao. Cuối cùng anh nhấc chiếc cặp da lên, đi ít bước ra phía ngoài, ngồi trên cỏ, đặt khẩu súng trường xuống một bên. Anh ngồi với khẩu H&K đặt trên lòng và chiếc cặp da ở giữa hai đầu gối. Rồi anh tháo lỏng hai sợi dây buộc, mở hai chốt cài, nhấc nắp lên và gấp qua một bên. Chiếc cặp da đựng đầy những tờ bạc một trăm đô, được xếp vào từng xấp 10.000 đô. Anh không biết chắc tổng số tiền là bao nhiêu nhưng có thể đoán gần đúng. Anh ngồi đấy nhìn những xấp giấy bạc rồi đóng nắp lại, đầu cúi xuống. Cả cuộc đời của anh đang ngồi đấy trước mặt anh. Từ ngày này qua ngày khác, từ tinh sương đến tối cho đến khi chết. Tất cả được cô đọng trong hai mươi kí giấy bạc. Anh ngẩng đầu, nhìn qua khu đồng bằng lũ tích. Một cơn gió nhẹ từ hướng nam. Không khí mát lạnh. Trời quang đãng. Đã một giờ trưa. Anh nhìn xác người đàn ông nằm trên đám cỏ. Đôi giày da cá sấu còn mới vương đầy máu đã sẫm màu. Hồi kết cục của cuộc đời ông ta. Ở nơi chốn này. Những quả núi xa về hướng nam. Gió thổi qua các bụi cỏ. Không gian tĩnh lặng. Anh buộc lại hai sợi dây, bấm hai chốt cài, gấp nắp đậy lại, đứng lên quàng khẩu súng trường qua vai, nhấc chiếc cặp da và khẩu súng lục tự động lên, nhìn bóng mình trên mặt đất để định hướng, rồi bước đi. Anh nghĩ mình biết cách tìm đường trở lại chiếc xe của mình, và cũng có suy nghĩ lo âu về việc lang thang ngoài sa mạc trong đêm tối. Có những con rắn chuông* trong vùng này và nếu bị rắn cắn có phần chắc là anh sẽ gia nhập đám người chết kia, rồi chiếc cặp đựng tiền sẽ rơi vào tay người chủ mới nào đấy. Đối trọng với ý nghĩ này là vấn đề đi bộ qua vùng đất trống trải giữa thanh thiên bạch nhật với một khẩu súng tự động đeo một bên vai và xách một chiếc cặp da đựng vài triệu đô. Chắc chắn là có một người nào đấy đang đến để đi tìm số tiền. Có thể vài người nào đấy. Anh nghĩ đến việc quay lại và thu lấy khẩu shotgun với băng đạn còn nguyên. Anh là người tin cậy nơi shotgun. Thậm chí anh còn nghĩ đến việc để lại khẩu súng lục tự động. Mang nó bên mình là một trọng tội. Anh không để lại thứ gì và cũng không quay lại chỗ các chiếc xe. Anh đi qua vùng đồng trống, cắt ngang qua những khe hở của gờ núi lửa, băng ngang dải đất bằng phẳng hoặc khu bình nguyên ở giữa. Cho đến gần cuối ngày, anh đi đến con đường trang trại mà buổi sáng ấy anh đã đến. Rồi anh đi khoảng một dặm thì đến chiếc xe bán tải. Anh mở cửa xe, đặt khẩu súng trường trên sàn xe. Anh đi vòng mở cửa phía ghế người lái, nắm lấy cái cần để đẩy chiếc ghế về phía trước rồi đặt chiếc cặp da và khẩu súng lục tự động phía sau. Anh đặt khẩu .45 và ống nhòm trên nệm ghế, bước lên xe, kéo chiếc ghế về phía sau đến hết mức xa nhất, cắm chìa khóa cho nổ máy xe. Rồi anh giở mũ ra, ngồi ngả người ra sau, tựa đầu vào mặt kính lạnh phía sau và nhắm mắt lại. Khi lái đến xa lộ, anh cho xe chạy chậm lại dọc theo hàng rào chặn bò rồi chạy lên mặt đường và mở đèn pha. Anh lái về hướng tây cho đến Sanderson và suốt dọc đường vẫn giữ tốc độ trong mức cho phép. Anh dừng lại ở trạm xăng ở đầu cuối phía đông của thị trấn để mua thuốc lá và nước uống, rồi đi tiếp. Anh đỗ xe phía trước căn nhà di động* rồi tắt máy xe. Đèn bên trong căn nhà vẫn còn sáng. Anh lẩm bẩm: “Mình có thể sống cả trăm năm nhưng vẫn sẽ không có ngày nào như ngày này.” Ngay sau khi nói câu ấy, anh cảm thấy tiếc. Anh lấy ra cây đèn bấm từ hộc chứa găng tay của chiếc xe, bước ra khỏi xe cùng với khẩu súng lục tự động và chiếc cặp da rồi bò phía dưới sàn của căn nhà di động. Anh nằm đấy trên bụi đất mà nhìn lên mặt dưới sàn nhà. Ống nhựa và ván ép rẻ tiền. Vật liệu này nọ dùng để cách nhiệt. Anh luồn khẩu H&K lên một góc, kéo vật liệu cách nhiệt bao phủ nó rồi nằm đấy mà nghĩ ngợi. Rồi anh bò ra cùng với chiếc cặp da, phủi bụi cho mình rồi bước lên các bậc thang vào nhà. Cô đang xem TV, vừa xoài người trên ghế bành vừa uống một lon Coca-Cola. Không màng nhìn lên. Cô nói: “Ba giờ khuya.” “Anh có thể trở lại sau.” Cô nhìn anh qua mặt lưng của ghế bành rồi lại nhìn lên màn hình TV. “Anh có gì trong chiếc cặp đó?” “Đầy những tiền.” “Ừ. Đúng là một ngày may mắn.” Anh đi vào gian bếp, mở tủ lạnh lấy ra một lon bia. Cô hỏi: “Cho em mượn chìa khóa nhé?” “Em đi đâu?” “Mua ít thuốc lá.” “Thuốc lá?” “Đúng vậy, Llewelyn. Thuốc lá. Em đã ngồi ở đây cả ngày.” “Còn cyanide thì sao? Chúng ta định làm gì với nó?” “Chỉ cần đưa cho em chìa khóa. Em sẽ đứng ở ngoài sân mà hút.” Anh uống một ngụm bia, đi trở vào phòng ngủ, quỳ một đầu gối xuống rồi đẩy chiếc cặp da dưới gầm giường. Rồi anh trở ra. Anh nói: “Anh có ít thuốc lá. Để anh đi lấy.” Anh đặt lon bia lên mặt quầy, đi ra, thu lấy hai gói thuốc, ống nhòm và khẩu súng lục, quàng khẩu .270 qua vai, đóng cánh cửa chiếc xe bán tải, rồi đi vào nhà. Anh đưa cho cô thuốc lá và đi vào phòng ngủ. Cô nói với theo: “Anh thu được khẩu súng lục ấy ở đâu?” “Ở nơi anh thu được.” “Anh mua hả?” “Không. Anh nhặt được.” Cô ngồi nhổm dậy, kêu: “Llewelyn?” Anh bước ra: “Cái gì? Đừng có tru tréo.” “Anh phải tốn bao nhiêu để có nó?” “Em không cần phải biết mọi chuyện.” “Bao nhiêu?” “Anh đã nói rồi. Anh nhặt được.” “Không, anh không bao giờ làm vậy.” Anh ngồi trên ghế bành, vừa đặt hai chân lên bàn cà phê vừa uống bia. Anh nói: “Nó không phải của anh. Anh không mua súng lục.” “Anh đừng mua thì tốt hơn.” Cô mở gói thuốc lá, rút ra một điếu rồi châm lửa. “Cả ngày anh đi đâu?” “Đi mua ít thuốc lá.” “Em không cần biết. Thậm chí em không muốn biết anh có dự tính gì.” Anh hớp một ngụm bia: “Vậy là tốt.” “Em nghĩ tốt nhất là đừng biết gì cả.” “Nếu em cứ ba hoa cái miệng đó thì anh sẽ mang em trở vào đó mà chơi em.” Cuộc đối thoại nghiêm túc. “Anh cứ làm đi.” Cô nói như thế. Anh nói thầm: “Để mình uống xong lon bia này. Ta sẽ xem cô nói gì và không nói gì.” Khi anh thức giấc, chiếc đồng hồ ở đầu giường chỉ 1 giờ 06 phút. Anh nằm nhìn lên trần nhà, ánh sáng ngọn đèn bên ngoài phủ phòng ngủ lạnh lẽo một màu xanh lam nhạt. Giống như ánh trăng mùa đông. Hoặc một thứ ánh trăng nào khác. Có cái gì đấy xa lạ trong ánh sáng mà anh đã cảm thấy dễ chịu. Bất cứ ánh sáng nào, còn hơn là ngủ trong bóng tối. Anh vung đôi chân khỏi tấm chăn và ngồi lên. Anh nhìn đến tấm lưng trần của cô. Mái tóc xõa trên gối. Anh kéo tấm chăn lên che đôi vai cô, rồi đứng dậy đi vào bếp. Anh lấy bình nước trong tủ lạnh, vặn chiếc nắp và đứng đấy uống trong ánh sáng của đèn tủ lạnh. Rồi anh đứng đấy cầm bình nước lạnh với những giọt nước đọng bên ngoài, qua cửa sổ nhìn xuống xa lộ. Anh đứng đấy một hồi lâu. Rồi anh đi vào phòng ngủ, nhặt chiếc quần soọt trên sàn mặc vào, đi vào phòng tắm và đóng cửa lại. Rồi anh đi vào phòng ngủ thứ hai, kéo chiếc cặp da dưới gầm giường và mở ra. Anh ngồi trên sàn, chiếc cặp da ở giữa hai chân, mò tay vào giữa các xấp giấy bạc và moi lên. Hai mươi lớp xấp giấy bạc đặt chồng lên nhau. Anh xếp lại các xấp giấy bạc, xốc xốc chiếc cặp da trên sàn để các xấp giấy bạc nằm ngay ngắn với nhau. Nhân cho mười hai. Anh có thể nhẩm tính trong đầu. Hai triệu bốn trăm nghìn đô. Tất cả đều là giấy bạc cũ. Anh nhìn món tiền. Anh lẩm bẩm: “Mình phải xem vụ này là nghiêm túc. Không thể xem đó là do may mắn.” Anh đóng lại chiếc cặp da, bấm hai chốt cài, đẩy chiếc cặp da vào gầm giường, đứng lên, qua khung cửa sổ nhìn lên những vì sao trên các mỏm núi đá phía bắc thị trấn. Cái im lặng chết người. Ngay cả tiếng chó sủa cũng không có. Anh lẩm bẩm: “Mi đang nằm chết ngoài đấy phải không? Mẹ kiếp, không phải, mi chưa chết.” Cô thức giấc trong khi anh đang mặc quần áo. “Llewelyn?” “Ừ.” “Anh đang làm gì vậy?” “Đang mặc quần áo.” “Anh định đi đâu?” “Đi ra ngoài.” “Anh yêu, anh định đi đâu vậy?” “Anh quên một việc. Anh sẽ trở lại.” “Anh định làm gì?” Anh mở ngăn kéo, lấy ra khẩu .45, tháo băng đạn ra kiểm tra rồi lắp băng đạn vào lại, giắt khẩu súng vào lưng quần. Anh quay lại nhìn cô. “Anh định làm một việc rồ dại nhưng vẫn phải làm. Nếu anh không trở về, nói với Mẹ anh yêu bà.” “Mẹ anh đã chết, Llewelyn à.” “Thế thì để anh tự nói vậy.” Cô ngồi lên trên giường: “Anh làm em sợ chết khiếp, Llewelyn. Anh có gặp rắc rối gì không?” “Không. Ngủ tiếp đi.” “Ngủ tiếp hả?” “Anh sẽ trở lại nhanh.” “Chết tiệt anh, Llewelyn.” Anh bước ra ngạch cửa và nhìn lại cô. “Nếu anh không trở về thì sao? Có phải đó là những lời cuối cùng của em?” Cô tròng vào chiếc áo ngủ, dõi mắt nhìn theo anh đi dọc lối đi đến gian bếp. Anh lấy một cái bình rỗng từ phía dưới bồn rửa mặt, rồi vặn vòi cho nước chảy vào bình. Cô hỏi: “Anh có biết mấy giờ rồi không?” “Có. Anh biết mấy giờ rồi.” “Cưng à, em không muốn anh đi. Anh đi đâu? Em không muốn anh đi.” “Em yêu, chúng ta đồng lòng ở điểm này vì anh cũng không muốn đi. Anh sẽ trở về. Đừng thức mà chờ anh.” Anh lái xe đến trạm xăng, tắt máy xe, rút tấm bản đồ từ hộc chứa găng tay rồi trải rộng ra trên nệm ghế, ngồi đấy mà xem xét. Cuối cùng, anh ghi dấu địa điểm mà anh nghĩ các xe bán tải đang nằm, rồi anh dò một con đường dẫn về cổng trại bò của Harkle. Chiếc xe có loại bánh chạy trên mọi địa hình và còn có hai bánh xe dự phòng, nhưng địa hình vùng này rất xấu. Anh ngồi nhìn xuống con đường vừa đánh dấu. Rồi anh cúi xuống, ghi nhận các địa hình và vạch một đường khác. Rồi anh ngồi đó mà nghiên cứu tấm bản đồ. Khi anh cho nổ máy xe và chạy lên mặt xa lộ, đã là hai giờ mười lăm phút sáng. Con đường vắng ngắt, thậm chí từ băng tần này qua băng tần khác của bộ đàm chiếc xe bán tải không có tạp âm. Anh dừng xe trước cổng trại bò, bước xuống, mở cánh cổng rồi lái xe vào, bước ra để đóng cánh cổng lại, và đứng lắng nghe bầu không khí yên ắng. Rồi anh lên xe, lái về hướng nam trên con đường của trang trại. Anh giữ xe chạy ở chế độ hai cầu và gài hộp số ở số hai. Ánh sáng của mặt trăng còn khuất lấp trước mặt anh lan tỏa dọc các triền đồi như là ánh sáng nền tối trong một nhà hát. Đến điểm anh đã đỗ xe buổi sáng đó, anh rẽ vào một con đường cũ dành cho xe goòng đi về hướng đông xuyên qua đất trang trại của Harkle. Khi mặt trăng mọc lên, ánh trăng vàng vọt lan tỏa khắp các ngọn đồi, anh tắt đèn xe. Nửa tiếng đồng hồ sau, anh đỗ xe lại, bước ra đi dọc theo gờ một khu đồi cao, nhìn xuống vùng đồng trống về hướng đông và hướng nam. Vầng trăng lên cao. Một thế giới màu xanh lam. Bóng từng cụm mây in lên đất bình nguyên. Chạy dọc dài trên các triền đồi. Anh ngồi trên mặt đá thô ráp với hai chiếc giày cao cổ bắt chéo nhau phía trước. Không có chó rừng. Không có gì cả. Đối với dân buôn lậu ma túy thế là tốt. Đúng thế. Mỗi người đều có vận may. Khi lái xe đi tiếp, anh rời khỏi con đường mòn, định phương hướng qua ánh trăng. Anh vượt qua một khoảnh đất mũi núi lửa ở đầu cuối thung lũng rồi lại rẽ về hướng nam. Anh có trí nhớ tốt đối với địa hình bằng phẳng. Anh đang chạy qua vùng mình đã đi thăm dò lúc trước trong ngày, rồi dừng lại nghe ngóng. Khi trở lại chiếc xe, anh cạy tấm nắp nhựa đèn trần xe, gỡ bóng đèn ra và đặt vào gạt tàn thuốc. Anh ngồi với cây đèn bấm để nghiên cứu tấm bản đồ lần nữa. Khi lái đến điểm đỗ kế tiếp, anh tắt máy xe, kéo cánh cửa sổ xuống. Anh ngồi đấy một hồi lâu. Anh đỗ xe khoảng gần một ki-lô-mét phía trên đầu cuối của lòng chảo núi lửa, nhấc bình nước ra khỏi xe, đặt đèn bấm vào túi quần. Rồi anh nhấc khẩu .45 từ nệm ghế, nhẹ nhàng đóng cửa xe lại, quay bước về phía các xe bán tải. Các chiếc xe này vẫn ở cùng vị trí như anh thấy lúc trước, nằm ụp trên các bánh xe đã bị bắn xẹp. Anh tiến đến với khẩu .45 lăm lăm trong tay. Không gian yên ắng chết người. Có lẽ là do vầng trăng. Anh không thích cái bóng của chính mình. Có cảm giác đáng sợ gì đấy ở đây. Một người xâm nhập. Giữa những người chết. Anh lẩm bẩm: “Đừng có cảm thấy kỳ quặc. Mình không cùng bọn họ. Chưa cùng.” Cánh cửa chiếc Bronco đang mở. Khi thấy thế, anh quỳ một gối xuống. Anh đặt bình nước xuống mặt đất. Anh lẩm bẩm: “Mình ngốc quá. Bây giờ lại đến đây. Ngốc quá nên khó sống.” Anh chầm chậm xoay người, nhìn ra khắp vùng đồng trống. Âm thanh duy nhất mà anh nghe được là tiếng tim đập của chính mình. Anh bước đến chiếc xe, quỳ bên cánh cửa. Thân người đàn ông đã ngả qua một bên. Vẫn còn được buộc trong dây an toàn. Máu tươi vương vãi khắp nơi. Anh rút ra chiếc đèn bấm từ túi quần, dùng nắm tay che bớt chung quanh rồi bật đèn lên. Người đàn ông đã bị bắn qua đầu. Không có chó sói. Không có báo núi. Anh hướng tia đèn vào khoang chứa hành lý phía sau hai chiếc ghế. Mọi thứ đã biến mất. Anh tắt ngọn đèn, rồi chầm chậm bước đến những xác chết khác. Khẩu shotgun đã biến mất. Vầng trăng đã lên được một phần tư bầu trời. Mọi vật đều sáng tỏ. Anh cảm thấy bất an. Anh đã đi lên được nửa đoạn lòng chảo núi lửa để về lại chiếc xe của mình thì có cái gì đó khiến cho anh phải dừng lại. Anh quỳ xuống, nắm khẩu súng đã lên đạn sẵn đặt tựa đầu gối. Anh có thể thấy chiếc xe bán tải dưới ánh trăng, trên đỉnh một ngọn đồi thấp. Anh nhìn qua một bên để quan sát rõ hơn. Có người nào đấy đứng kề bên. Rồi họ đi. Anh nói thầm: “Không có cái dại nào giống cái dại nào. Bây giờ mình chịu chết.” Anh giắt lại khẩu .45 vào lưng quần và đi vội đến gờ nham thạch núi lửa. Anh nghe tiếng máy chiếc xe bán tải từ đằng xa. Ánh sáng chiếu từ đỉnh đồi. Anh bắt đầu chạy. Khi anh chạy đến các tảng đá, chiếc xe bán tải đã chạy xuống được nửa lòng chảo núi lửa, ánh đèn pha nhấp nhô trên mặt đá gồ ghề. Anh tìm chỗ nấp. Không còn kịp nữa. Anh nằm úp mặt xuống đất, hai cánh tay ôm lấy đầu trên bãi cỏ, và chờ đợi. Hoặc là họ đã trông thấy anh hoặc không thấy. Chiếc xe bán tải chạy ngang qua. Khi nó khuất bóng, anh đứng dậy, đi lên triền núi. Đi được nửa đường, anh dừng lại, hít hơi thở, cố gắng nghe ngóng. Ánh sáng ở đâu đấy phía dưới. Anh không thể nhìn thấy họ. Anh tiếp tục leo lên. Sau một hồi, anh có thể nhìn thấy hình thù màu đen của những chiếc xe phía dưới. Rồi chiếc xe bán tải chạy lên lòng chảo núi lửa, đèn xe đều tắt. Anh nằm bẹp xuống trên các tảng đá. Một ánh đèn pha rọi ngang dọc qua lại trên mặt nham thạch. Chiếc xe chạy chậm lại. Anh có thể nghe tiếng máy chạy không tải. Triền dốc lài. Máy xe loại lớn. Ánh đèn pha lại chiếu trên các tảng đá. Anh lẩm bẩm: “Được rồi. Mày cần được thoát ra khỏi cơn khổ ải của mày. Hãy làm cách tốt nhất cho những người khác.” Tiếng máy xe nổ mạnh rồi lại chạy không tải rầm rì. Âm thanh ùng ục ở ống khí xả. Tiếng bạc đạn cùng máy chạy không tải và còn tiếng gì khác có Trời mà biết. Sau một lúc, chiếc xe tiến lên trong bóng tối. Khi lên đến đỉnh núi lửa, anh nằm xuống, nắm lấy khẩu .45 từ thắt lưng, thả cò súng xuống rồi giắt vào lại, nhìn về hướng bắc và hướng đông. Anh lẩm bẩm: “Mình có muốn ra ngoài đó trên chiếc xe cà tàng mà cố chạy nhanh hơn chiếc xe kia không?” Rồi anh nhận ra rằng mình sẽ không còn gặp lại chiếc xe của mình nữa. Anh lẩm bẩm: “Không sao. Còn có nhiều thứ khác mà mình sẽ không được gặp lại.” Ánh đèn pha lại chiếu rọi trên miệng lòng chảo núi lửa và quét dọc gờ núi. Moss nằm sấp, quan sát. Ánh đèn pha quay trở lại. “Nếu bạn biết ở ngoài kia có kẻ nào đấy đang giữ hai triệu đô của bạn, thì điểm dừng trong cuộc tìm kiếm của bạn là ở đâu?” “Đúng thế. Chẳng có điểm dừng nào cả.” Anh nằm nghe ngóng. Anh có thể nghe tiếng máy chiếc xe bán tải. Sau một lúc, anh đứng dậy bước xuống đến rìa bên kia của lòng chảo núi lửa. Quan sát vùng đồng trống. Khu bình nguyên mở rộng và yên ắng dưới ánh trăng. Không có cách nào đi băng ngang qua đấy và cũng không có đường khác. “Này anh bạn, giờ phải tính sao đây?” Bốn giờ sáng. “Mày có biết tên bạn hữu hảo của mày đang toan tính gì không?” “Tao nói cho mày biết. Tại sao mày không bước lên xe của mày mà chạy ra ngoài đó và mang cho cái tên khốn kiếp ít ngụm nước?” Vầng trăng đang ở trên cao, thu nhỏ lại. Khi leo lên triền dốc, anh vẫn để mắt trông chừng vùng bình nguyên phía dưới. Anh lẩm bẩm: “Mày có động lực như thế nào?” “Có động lực hay đến chết tiệt.” “Thế là tốt.” Anh có thể nghe tiếng chiếc xe. Nó tắt đèn chạy vòng theo gờ núi lửa rồi chạy xuống rìa khu bình nguyên giữa ánh trăng. Anh nằm rạp xuống các phiến đá. Ngoài những tin xấu khác, ý nghĩ của anh còn hướng về bọ cạp và rắn chuông. Ánh đèn pha vẫn quét qua lại trên mặt gờ núi. Một cách có hệ thống. Anh không dám cử động. Chiếc xe bán tải chạy cắt ngang đến rìa bên kia rồi quay lại. Chạy với số hai, ngừng lại, rồi xồng xộc chạy tiếp. Anh trườn mình tới trước để nhìn rõ hơn. Từ một vết cắt trên trán, máu chảy qua tròng mắt anh. Anh không biết mình bị vết cắt ấy ở đâu. Anh chùi hai mắt với lưng bàn tay rồi chùi lưng bàn tay trên ống quần. Anh rút chiếc khăn tay ra, áp trên trán. “Mình có thể đi về phía nam con sông.” “Ừ. Mình có thể.” “Địa hình ít trống trải.” “Những thứ khác thì không ít hơn.” Anh quay người, vẫn giữ chiếc khăn tay áp trên trán. Không thấy có bóng mây nào. “Đến khi trời sáng thì mình phải ở nơi nào khác. Nằm trên giường ở nhà thì tốt.” Anh quan sát vùng bình nguyên màu xanh lam trong bầu không khí tĩnh lặng ngoài kia. Một sân khấu ngoài trời mênh mông và nín thở. Đang rình rập. Anh đã có cảm giác như thế này lúc trước. Ở một đất nước khác. Anh không bao giờ nghĩ mình có cảm giác như thế này lần nữa. Anh chờ đợi một hồi lâu. Chiếc xe vẫn chưa trở lại. Anh tìm đường đi dọc gờ núi về phía nam. Anh dừng lại và nghe ngóng. Không có chó rừng, không có gì cả. Vào lúc anh đi xuống đến vùng đồng bằng của con sông, bầu trời về hướng đông đã nhuốm ánh sáng nhàn nhạt đầu tiên trong ngày. Đây là một đêm tăm tối nhất. Vùng đồng bằng chạy dài đến nơi con sông chuyển dòng. Anh nghe ngóng lần cuối rồi chạy lúp xúp. Đoạn đường đi khá dài. Khi còn cách con sông gần hai trăm mét, anh nghe tiếng máy chiếc xe bán tải. Ánh sáng xám đang chiếu qua các đỉnh đồi. Khi nhìn lại, anh có thể thấy bụi bốc lên chân trời mới. Vẫn còn cách xa khoảng một ki-lô-mét rưỡi. Trong bầu tĩnh lặng ban mai, tiếng máy xe nghe ra hiền hòa như tiếng một con thuyền trên mặt hồ. Rồi anh nghe tiếng xe sang số thấp. Anh rút khẩu .45 từ thắt lưng để không bị rơi mất, rồi bắt đầu chạy trối chết. Khi anh nhìn lại, chiếc xe bán tải đã chạy được phân nửa lòng chảo núi lửa, rút ngắn một khoảng cách đáng kể. Anh vẫn còn cách con sông gần một trăm mét và không biết mình sẽ gặp gì khi chạy đến đấy. Một vực núi đá dốc. Những tia nắng đầu tiên đang chiếu qua khe hở giữa các ngọn núi ở hướng đông và trải rộng qua vùng đồng trống trước mặt anh. Chiếc xe bán tải đang rừng rực lao đến với ánh sáng đèn. Tiếng máy nghe gầm gừ mỗi khi bánh xe nhảy lên khỏi mặt đất. Anh lẩm bẩm: “Họ sẽ không bắn mình. Họ không dám làm thế.” Tiếng nổ của khẩu súng trường vang dội trên đồng trống. Cái mà anh nghe như tiếng rít trên đầu, anh nhận ra đấy là viên đạn bay qua và biến mất về hướng con sông. Anh nhìn lại và thấy một người đàn ông đang đứng đưa nửa người khỏi khung cửa nóc xe, một tay nắm lấy trần xe, tay kia cầm một khẩu súng trường. Nơi anh chạy đến con sông, dòng nước chảy mạnh ra khỏi một vực núi và đổ xuống qua một đám lau sậy sao. Phía hạ lưu, dòng nước va vào một vách đá rồi chảy về hướng nam. Vực núi tối đen sâu thẳm. Nước tối đen. Anh thả người xuống triền dốc rồi ngã lăn rồi đứng dậy, rồi bắt đầu chạy theo một luống cát trải dài xuống con sông. Anh chỉ mới tiến được khoảng dăm bảy mét thì mới nhận ra là mình không có đủ thời giờ. Anh nhìn ngoái lại phía sau, rồi ngồi xổm và tựa người vào một bên triền dốc, hai tay cầm khẩu .45 chĩa về phía trước. Anh lăn và trượt người, hai mắt gần như nhắm nghiền do đất cát anh cày xới lên, ôm khẩu súng lục sát vào ngực. Rồi tất cả đều dừng lại, chỉ có thân người anh là rơi tự do. Anh mở mắt ra. Thế giới ban mai tươi tắn phía trên anh, đang quay chầm chậm. Thân người anh va vào một bờ đá sỏi; anh cất một tiếng kêu rên. Rồi anh lăn trên một bãi gì đấy giống như cỏ thô ráp. Rồi anh dừng lại, nằm sấp ở đấy, thở dốc. Khẩu súng đã biến mất. Anh bò trở lại qua mặt cỏ bị bẹp dí cho đến khi tìm thấy khẩu súng, rồi quay đầu nhìn rìa bờ sông dốc phía trên đầu, huơ nòng súng qua cánh tay để rũ đất cát. Miệng anh đầy cát. Hai hốc mắt cũng thế. Anh thấy hai người xuất hiện trên nền trời. Anh bắn hai phát về phía họ và họ bỏ chạy. Anh biết mình không có thời giờ bò đến bờ sông. Anh đứng dậy chạy thật nhanh làm bắn tóe lên những viên sỏi, chạy xuống một bãi cát cho đến dòng nước chính. Anh lấy các chìa khóa và cuộn tiền cho vào túi áo rồi cài cúc túi. Cơn gió lạnh thổi qua mặt nước có mùi gỉ sắt. Anh có thể nếm được. Anh ném đi chiếc đèn bấm, hạ xuống chiếc cần lên đạn của khẩu .45 và giắt vào đũng quần. Rồi anh cởi ra hai chiếc giày cao cổ, cột chúc xuống vào dây thắt lưng ở mỗi bên hông, thắt lại dây thắt lưng cho chặt, rồi quay người phóng xuống dòng nước. Nước lạnh khiến cho anh nín thở. Anh quay lại phía sau, nhìn về phía rìa bờ sông, vừa hít khí trời vừa đạp chân qua làn nước xanh xám. Không có gì. Anh quay người rồi bơi tiếp. Dòng nước cuốn anh đến một đoạn uốn cong và va vào một vách đá. Anh cố đẩy người mình ra xa. Dốc đứng phía trên đầu anh vươn lên tăm tối, khum sâu vào trong, còn dòng nước trong bóng râm thì đen ngòm và dậy sóng. Cuối cùng, khi lướt xuống dòng hạ lưu và nhìn lại, anh có thể nhìn thấy chiếc xe bán tải đang đỗ ở phía trên dốc đứng nhưng anh không thể thấy người nào. Anh kiểm tra để biết chắc mình vẫn còn đôi giày cao cổ và khẩu súng, rồi quay người và bắt đầu bơi sang bờ bên kia. Vào lúc run rẩy lê người lên khỏi dòng nước lạnh, anh đã cách xa điểm khởi hành khoảng một ki-lô-mét rưỡi. Đôi bít tất đã tuột mất, anh phải chạy chân trần đến đám lau sậy. Khi anh nhìn lại lần nữa, chiếc xe bán tải đã biến mất. Hai người đàn ông đang chạy dọc bờ dốc đứng, thân người họ in trên nền trời. Anh chạy gần đến đám lau sậy thì thình lình chung quanh đều dao động, có một tiếng “bùm” nặng nề rồi có tiếng vọng lại qua mặt sông. Cánh tay anh bị một viên đạn bắn trúng, anh cảm thấy nhức nhối như bị ong vò vẽ đốt. Anh đặt bàn tay lên vết thương và phóng mình vào bụi lau sậy, viên đạn đi sâu vào phía sau cánh tay. Chân anh như muốn khuỵu xuống, hơi thở anh trở nên mệt nhọc. Ẩn khuất sâu trong lùm bụi, anh ngồi quỳ xuống, há miệng hút lấy không khí. Anh tháo thắt lưng, để đôi giày rơi xuống nền cát, với lấy khẩu .45 đặt ở một bên, rồi lần mò trên vết thương. Viên đạn đã biến mất. Anh tháo cúc áo, cởi chiếc áo ra, giơ cao cánh tay để xem xét vết thương. Miệng vết thương chỉ có hình dạng như viên đạn, rỉ ra ít máu, vài sợi vải áo quyện vào. Cả phần phía sau cánh tay anh đã trở thành một vết bầm tím xấu xí. Anh vắt chiếc áo cho ráo nước, mặc lại vào, cài cúc, mang lại đôi giày, gài lại thắt lưng. Anh nhặt lấy khẩu súng lục, tháo băng đạn ra, trút viên đạn ra từ nòng súng, vung vẩy khẩu súng, thổi vào nòng súng, rồi lại lắp ráp như cũ. Anh không chắc liệu khẩu súng còn bắn được không, nhưng nghĩ rằng bắn được. Khi bước ra khỏi bụi lau sậy phía bên trong, anh dừng lại để nhìn về phía sau. Bụi lau sậy cao khoảng mười mét và anh không thấy gì phía ngoài. Dọc theo con sông là một khoảnh đất rộng và một hàng cây dương. Khi đi đến đấy, hai bàn chân anh bắt đầu phồng rộp vì phải đi chân trần trong đôi giày ướt. Cánh tay anh sưng lên, nhức nhối nhưng hình như máu đã ngưng chảy. Anh bước đi ra trên một lớp sỏi, dưới ánh mặt trời, rồi ngồi đấy, tháo đôi giày ra, nhìn đến vết phồng rộp màu đỏ ở gót chân. Khi anh vừa ngồi xuống, chân anh lại bị đau. Anh mở nắp một túi da ở thắt lưng, lấy ra con dao, rồi đứng dậy và lại cởi áo ra. Anh cắt lấy nửa ống tay áo rồi ngồi xuống, quấn vải tay áo quanh hai bàn chân rồi mang giày cao cổ vào. Anh dắt con dao vào túi da, rồi đứng nghe ngóng. Một con chim két cánh đỏ. Không có gì khác. Khi quay mặt bước đi, anh nghe âm thanh rất nhỏ của máy chiếc xe bán tải ở bờ bên kia. Anh cố dõi tìm nhưng không thấy gì. Anh nghĩ bây giờ có lẽ hai người kia đã vượt qua con sông và đang ở đâu đấy phía sau mình. Anh đi xuyên qua hàng cây. Phù sa bám dính các thân cây từ mức nước cao; rễ chùm quấn quanh các tảng đá. Anh lại cởi giày ra, cố bước trên nền sỏi mà không để lại dấu vết, rồi đi qua một khoảng đất dài, bằng phẳng, phủ đá hướng về bờ vực con sông phía nam, tay mang đôi giày và khẩu súng, để mắt trông chừng về phía sau. Ánh mặt trời đang chiếu xuống vực; những tảng đá anh bước qua sẽ khô trong vòng vài phút. Ở một khúc quanh gần bờ vực, anh dừng lại, nằm sấp với đôi giày đặt trên đám cỏ kế bên. Chỉ cần mất mười phút là lên đến đỉnh bờ vực nhưng anh nghĩ mình không có mười phút. Phía trên bờ sông bên kia, một con diều hâu cất cánh từ chỏm đá, cất tiếng huýt khe khẽ. Anh chờ đợi. Sau một chốc, một người đi ra khỏi bụi lau sậy rồi dừng lại. Anh ta mang một khẩu súng máy. Một người thứ hai xuất hiện phía sau. Họ liếc nhìn nhau rồi đi tiếp. Họ đi ngang qua phía dưới anh rồi khuất bóng dưới con sông. Anh không thực sự nghĩ về họ. Anh đang nghĩ về chiếc xe bán tải của mình. Khi tòa án mở cửa lúc chín giờ sáng thứ Hai, sẽ có ai đấy khai ra số xe của anh cùng tên họ và địa chỉ của anh. Đấy là trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau. Lúc ấy, họ sẽ biết anh là ai và sẽ chẳng bao giờ ngưng truy lùng anh. Chẳng bao giờ cả. Anh có một người em ở California mà anh sẽ kể những gì? Arthur ạ, có vài đứa đang đi đến đó gặp em và sẽ tra khảo em dù em có biết anh đang ở đâu hay không. Có lẽ mình nên nghĩ đến việc rời đi Trung Quốc. Anh ngồi lên, bó mảnh vải quanh hai bàn chân, mang lại đôi giày, rồi đứng lên để đi hết đoạn cuối đến đỉnh bờ vực. Vùng đồng bằng phía dưới mở rộng đến hướng nam và hướng đông. Bụi đỏ và nhựa đường. Các ngọn núi ở xa xa và khoảng giữa. Không có gì ở đấy. Hơi nóng hừng hực. Anh giắt khẩu súng vào thắt lưng, nhìn xuống con sông một lần nữa rồi bước đi về hướng đông. Langtry Texas cách gần năm mươi ki-lô-mét theo đường chim bay. Có lẽ gần hơn. Mười tiếng đồng hồ. Mười hai. Hai bàn chân anh đang đau nhức. Hai ống chân đau nhức. Lồng ngực. Cánh tay. Con sông uốn khúc phía sau anh. Thậm chí anh chưa hớp được ngụm nước nào. Chương II Tôi không rõ việc thực thi pháp luật bây giờ có nguy hiểm hơn ngày xưa hay không. Khi mới nhận công việc, tôi biết có một vụ ẩu đả ở đâu đấy mà bạn phải đến giải quyết và họ muốn chống đối bạn. Đôi lúc bạn phải chìu theo họ. Họ không muốn cách nào khác. Và tốt hơn, bạn cũng không được thua. Bạn không nghĩ nhiều về việc này, nhưng có lẽ bạn thấy điều tệ hại hơn. Có lúc một người chĩa khẩu súng đến tôi, thế là tôi cố đoạt lấy khẩu súng khi anh ta định bắn, và cò súng sướt vào ngón tay cái tôi. Bạn có thể thấy vết sẹo ở đấy. Nhưng người kia có ý định giết tôi. Chỉ vài năm về trước, một đêm tôi đi tuần tra dọc con đường hai làn xe và gặp một chiếc xe bán tải, có hai anh trai trẻ nằm trên chiếc giường. Chúng dụi mắt vì ánh đèn và tôi thối lui vài bước nhưng chiếc xe mang biển số Coahuila* nên tôi nghĩ, à, mình phải chặn hai đứa này lại và xem qua. Thế là tôi bật đèn hiệu và mỗi khi làm thế tôi thấy cửa kính phía sau xe được kéo qua một bên và ở đây có ai đó đưa khẩu shotgun ra khỏi cánh cửa cho tên trai trẻ đang nằm trên giường. Giờ tôi phải nói với bạn rằng tôi đạp phanh bằng cả hai bàn chân. Chiếc xe trượt sang một bên nhưng cái cuối cùng mà tôi thấy trên chiếc giường là anh chàng đang đặt khẩu shotgun lên vai. Tôi cúi rạp người xuống ghế vừa lúc tấm kính xe vỡ toang thành từng mảnh vụn tung tóe khắp người tôi. Tôi vẫn còn đặt một bàn chân lên cần phanh và tôi có thể cảm thấy chiếc xe tuần tra chúi xuống con rãnh bên đường. Tôi nghĩ nó sắp lộn vòng, nhưng không. Đất cát tuôn vào đầy xe. Cái tên trai trẻ bắn về phía tôi hai phát nữa, phá nát mọi tấm kính bên hông xe, lúc đó chiếc xe đã dừng lại, tôi vẫn ngồi trên nệm ghế, rút ra khẩu súng lục. Tôi nghe chiếc bán tải vọt đi, tôi trồi dậy bắn vài phát đến đèn sau nhưng chiếc xe tẩu thoát được. Vấn đề tôi muốn nói là khi bạn chặn ai đó lại thì bạn không biết mình chặn cái gì. Bạn tuần tra dọc xa lộ. Bạn đi đến một chiếc xe và không biết sẽ tìm được gì. Tôi ngồi trên chiếc xe tuần tra ấy một hồi lâu. Xe đã chết máy nhưng đèn còn sáng. Trong xe đầy mảnh vụn kính vỡ và đất cát. Tôi bước ra khỏi xe để rũ người cho sạch rồi bước vào và chỉ ngồi đấy. Chỉ tập trung ý nghĩ. Cần gạt nước trên kính treo lủng lẳng trước bảng đồng hồ. Tôi tắt đèn và vẫn ngồi đấy. Nếu bạn chặn ai đấy và người này khinh thường pháp luật mà nổ súng, bạn va phải hạng người vô cùng nghiêm trọng. Tôi không hề gặp lại chiếc xe bán tải ấy. Người khác cũng không thấy. Mà cũng không tìm ra biển số xe ấy. Có lẽ tôi nên đuổi theo. Hoặc cố gắng. Tôi không biết. Tôi chạy trở về Sanderson, ghé lại quán café, và nói cho bạn biết, thiên hạ khắp nơi tụ tập mà xem chiếc xe ấy. Nó bị bắn đầy lỗ đạn bi. Giống như xe của Bonnie và Clyde*. Tôi không bị vết thương nào. Thậm chí không bị trầy sướt do kính vỡ. Tôi cũng bị chỉ trích vì điều này. Họ bảo tôi chỉ phô trương. À, có lẽ thế. Nhưng cho bạn biết, tôi cũng cần uống cốc cà phê này. Mỗi sáng tôi đều đọc báo. Chủ yếu là để cố nghĩ xem có chuyện nào đang đi đến đây. Không phải vì tôi có thể ngăn chặn tốt chuyện này. Nó trở nên càng ngày càng khó khăn hơn. Nơi đây lúc trước có hai anh trai trẻ gặp nhau, một anh đến từ California, anh kia từ Florida. Họ gặp nhau ở đâu đấy giữa hai nơi. Và rồi họ cùng nhau đi giết chóc khắp nơi trên đất nước. Tôi không còn nhớ họ giết mấy người. Bây giờ liệu có còn chuyện như thế hay không? Chắc là không có nhiều người như họ. Tôi không nghĩ vậy. À, chúng ta không biết. Ở đây ngày nọ có một phụ nữ tống đứa trẻ của bà ta vào máy ép rác. Ai lại nghĩ xảy ra chuyện này cơ chứ? Vợ tôi không còn muốn đọc báo nữa. Có lẽ bà ấy nghĩ đúng. Bell bước lên các bậc thang của trụ sở tòa án và đi dọc hành lang về văn phòng mình. Ông xoay vòng chiếc ghế và nhìn đến máy điện thoại. Ông lẩm bẩm: “Cứ gọi đi. Tôi đang ở đây.” Chuông điện thoại reo. Ông nhấc ống nghe lên. “Cảnh sát trưởng Bell đây.” Ông lắng nghe. Ông gật đầu. “Bà Downie ạ, tôi tin nó sẽ đi xuống thôi. Xin bà chốc nữa gọi lại. Vâng, thưa bà.” Ông dỡ chiếc mũ ra, đặt trên bàn rồi ngồi nhắm hai mắt lại, bóp lấy sống mũi. Ông nói: “Vâng, thưa bà. Vâng, thưa bà.” “Bà Downie, tôi chưa thấy con mèo nào chết trên cây. Tôi nghĩ nó sẽ tự đi xuống nếu bà cứ để mặc nó. Chốc nữa bà gọi lại cho tôi, bà nghe không?” Ông gác máy và ngồi nhìn máy điện thoại. Ông lẩm bẩm: “Đấy là do tiền bạc. Bạn có đủ tiền nên không cần phải nói với người ta về việc con mèo leo lên cây.” “À, mà có lẽ bạn cũng nói.” Bộ đàm phát âm thanh rè rè. Ông nhấc ống nghe, nhấn nút và đặt hai chân lên mặt bàn. Ông nói: “Bell đây.” Ông lắng nghe. Ông hạ hai chân xuống sàn rồi ngồi thẳng dậy. “Đi lấy chìa khóa và tìm trong hộc. Được rồi. Tôi sẽ đến.” Ông gõ mấy ngón tay trên mặt bàn. “Được rồi. Giữ đèn hiệu. Tôi sẽ đến trong vòng năm mươi phút. Còn Torbert? Đóng cái thùng lại.” Ông và Wendell lái chiếc xe vào vệ đường lát nhựa phía trước chiếc xe, đỗ xe lại rồi bước ra. Torbert bước ra và đứng kế cánh cửa xe mình. Viên Cảnh sát trưởng gật đầu. Ông đi dọc bờ rìa của con đường, xem xét vết bánh xe. Ông nói: “Tôi đoán anh đã thấy dấu vết này.” “Vâng, thưa sếp.” “Thế thì nên nhìn kỹ đi.” Torbert mở cửa hòm xe. Họ đứng nhìn cái xác. Phần trước áo sơ mi đẫm máu, một phần đã khô. Cả khuôn mặt đều vấy máu. Bell cúi người, đưa tay vào bên trong, lấy ra món gì đấy từ túi áo xác chết và mở ra. Đấy là tờ biên nhận vấy máu ghi tiền đổ xăng của một trạm xăng ở Giao lộ Texas. Ông nói: “À, đây là đoạn cuối đường đối với Bill Wyrick.” “Tôi đã không xem ông ấy có mang ví tiền trên người hay không.” “Chả sao. Ông ấy không mang ví. Đây chỉ là sự may mắn ngốc nghếch.” Ông xem xét lỗ đạn trên trán xác chết. “Trông giống như một viên .45. Gọn gàng. Gần giống như đạn bắn tập. Anh có chìa khóa không?” “Thưa sếp, có.” Bell đóng cửa hòm xe. Ông nhìn quanh. Những chiếc xe bán tải trên xa lộ liên tiểu bang gài số nhỏ khi chạy đến gần. “Tôi đã nói chuyện với Lamar. Bảo ông ấy có thể nhận lại xe của ông ấy trong ba ngày. Tôi gọi Austin và họ đang tìm anh ngay sớm ngày mai. Tôi không muốn đưa ông này vào một trong những xe của ta và chắc chắn ông ta không cần đến trực thăng*. Anh đưa xe của Lamar về Sonora khi xong việc rồi gọi cho tôi hoặc Wendell để đón anh. Anh có tiền không?” “Thưa sếp, có.” “Viết báo cáo như bất kỳ báo cáo nào khác.” “Dạ, thưa sếp.” “Đàn ông da trắng, gần bốn mươi tuổi, người tầm thước.” “Sếp đánh vần Wyrick như thế nào?” “Anh không cần đánh vần. Ta không biết ông ấy tên gì*.” “Dạ, thưa sếp.” “Có thể ông ta có gia đình ở đâu đấy.” “Dạ. Này sếp.” “Hở?” “Ta có manh mối gì về thủ phạm không?” “Không có. Trao cho Wendell mấy chiếc chìa khóa kẻo anh quên.” “Chìa khóa ở trong xe.” “Thế thì đừng để lại chìa khóa trong xe.” “Dạ, thưa sếp.” “Hẹp gặp lại anh trong hai ngày nữa.” “Dạ, thưa sếp.” “Tôi mong cái thằng khốn kiếp đó đang ở California.” “Dạ, thưa sếp. Tôi hiểu ý sếp muốn nói gì.” “Tôi có linh cảm hắn không ở đấy.” “Dạ, thưa sếp. Tôi cũng nghĩ thế.” “Wendell, sẵn sàng chưa?” Wendell dựa người và nhổ nước bọt: “Thưa sếp, tôi đã sẵn sàng.” Anh nhìn qua Torbert. “Nếu anh bị cái tên già ấy chặn lại thì chỉ cần bảo họ anh không biết gì cả. Bảo họ có ai đấy hẳn đã tống ông ta vào trong đó trong khi anh đang uống cà phê.” Torbert gật đầu. “Anh và cảnh sát trưởng sẽ đi xuống để cứu tôi thoát tội hở?” Bell nói: “Nếu chúng tôi không thể giúp anh thoát ra thì chúng tôi sẽ cùng vào đấy với anh. Tất cả các anh không nên coi thường.” Wendell gật đầu: “Vâng, sếp nói đúng. Ngày nào đấy có thể là chính tôi.” Lái xe ra khỏi quốc lộ 90 đến ngã rẽ ở Dryden, ông thấy một con diều hâu nằm chết ở giữa đường. Ông thấy mấy cánh lông vũ phất phơ trong gió. Ông dừng xe lại, bước ra, đi trở lại, ngồi xổm trên hai gót giày mà xem xét con diều hâu. Ông nắm một cánh lên rồi thả cho rơi xuống. Con mắt vàng lạnh lùng. Đấy là một con đuôi đỏ lớn. Ông nắm lấy đầu cánh nhấc con chim lên, mang đến gần con rãnh, đặt trên nền cỏ. Loại chim này đậu trên cột điện cao, quan sát con xa lộ dài nhiều ki-lô-mét theo hai hướng. Quan sát bất kỳ con vật nhỏ nào phiêu lưu qua đây. Bay theo con mồi ngược theo ánh nắng. Không tạo ra bóng. Đang mải mê đuổi theo con mồi. Đáng lẽ đã không bị xe cán chết. Ông đứng đấy, nhìn qua bãi sa mạc. Thật là yên ắng. Tiếng gió rì rào. Từng bụi cây cao dọc con đường. Dãy núi đá thô ráp in bóng trong ánh chiều muộn, về hướng đông, bình nguyên sa mạc lung linh dưới bầu trời với những màn mưa treo đen thẫm. Ông quay lại chiếc xe tuần tra, bước vào và lái đi. Khi chạy đến phía trước văn phòng cảnh sát trưởng ở Sonora, cái đầu tiên ông trông thấy là dải băng* màu vàng kéo dọc bãi đỗ xe. Một nhóm người đang tụ tập. Ông bước ra khỏi xe, đi băng qua đường. “Chuyện gì vậy, Cảnh sát trưởng?” Bell nói: “Tôi không biết. Mới đến đây.” Ông cúi người đi qua dải băng, bước lên các bậc thang. Lamar nhìn lên khi ông gõ cửa: “Vào đi, Ed Tom. Vào đi. Chúng tôi đang rối cả lên đây.” Họ đi ra bãi cỏ của trụ sở tòa án. Vài người đi theo. Lamar nói: “Tất cả các anh cứ đi. Tôi và Cảnh sát trưởng đây cần nói chuyện.” Lamar trông hốc hác. Ông nhìn qua Bell rồi nhìn xuống đất. Ông lắc đầu rồi quay phía khác. “Khi còn nhỏ tôi thường chơi đùa ở đây. Ngay ở chỗ này. Tôi nghĩ bọn trẻ bây giờ không hề biết trò chơi ấy là gì. Ed Tom, đấy là một tên cuồng trí khốn kiếp.” “Tôi nghe anh. Anh có gì nói tiếp không?” “Thật sự là không.” Lamar nhìn đi nơi khác. Ông lau đôi mắt với ống tay áo. “Bây giờ tôi nói cho anh nghe. Cái thằng chó chết đó không thể sống ngày nào để trình diện trước tòa án. Nếu tôi tóm được hắn.” “Thế thì trước nhất phải tóm được hắn.” “Anh con trai đó đã lấy vợ.” “Trước đây tôi không biết.” “Hai mươi ba tuổi. Anh con trai trong sạch. Sạch như tờ giấy trắng. Bây giờ tôi phải đến nhà cậu ấy kẻo vợ cậu ấy nghe tin qua đài phát thanh chó chết.” “Tôi không hề muốn làm việc của anh. Thực tình là không.” “Ed Tom, tôi nghĩ tôi sẽ bỏ nghề.” “Anh muốn tôi đi cùng không?” “Không. Cảm ơn. Tôi phải đi.” “Được rồi.” “Tôi có linh cảm ta đang trông thấy cái gì đó ta chưa từng thấy trước đây.” “Tôi cũng cảm thấy thế. Để tối nay tôi gọi anh.” “Cảm ơn.” Ông dõi theo Lamar đi qua bãi cỏ, leo lên các bậc thang dẫn đến văn phòng ông này. Ông thầm thì: “Tôi mong anh đừng bỏ nghề. Tôi nghĩ chúng ta sẽ cần đến tất cả các anh.” Khi chiếc xe buýt dừng lại trước quán café, đồng hồ chỉ 1 giờ 20 phút khuya. Chỉ có ba hành khách trên xe. Tài xế xe buýt loan báo: “Trạm Sanderson.” Moss bước về phía đầu xe. Anh đã thấy tài xế liếc nhìn mình qua kính chiếu hậu trong xe. Anh nói: “Này ông ơi. Ông có thể cho tôi xuống ở Desert Aire được không? Chân tôi bị đau; tôi sống ở dưới đó nhưng không có ai đến đón tôi.” Tài xế đóng cánh cửa xe lại. Ông nói: “Được. Tôi đưa ông đến đó.” Khi anh bước vào, cô đứng dậy khỏi ghế bành, chạy đến quàng hai cánh tay qua cổ anh. Cô nói: “Em nghĩ anh đã chết rồi.” “À, anh không chết, thế nên em đừng sướt mướt.” “Em không sướt mướt.” “Em làm cho anh ít thịt ba chỉ và trứng trong khi anh đi tắm.” “Để em xem vết cắt trên đầu anh. Chuyện gì xảy ra vậy? Chiếc xe đâu?” “Anh cần đi tắm. Làm cho anh cái gì đó để ăn. Dạ dày anh nghĩ họng anh đã bị cắt đứt.” Anh bận chiếc quần soọt lúc bước ra khỏi buồng tắm. Khi anh ngồi ở chiếc bàn lót formica trong gian bếp, câu đầu tiên cô hỏi là: “Phía sau cánh tay anh có cái gì vậy?” “Bao nhiêu quả trứng đây?” “Bốn.” “Em có thêm bánh mỳ nướng không?” “Có thêm hai miếng đang nướng. Chuyện gì vậy, Llewelyn?” “Em muốn nghe gì?” “Sự thật.” Anh hớp một ngụm cà phê; bắt đầu rắc muối lên món trứng. “Anh không muốn kể cho em nghe hả?” “Đúng vậy.” “Chân anh làm sao vậy?” “Bị thương khi anh sơ ý.” Cô phết bơ lên hai miếng bánh mỳ mới, đặt lên đĩa và ngồi trên chiếc ghế đối diện. Anh nói: “Anh thích ăn điểm tâm trong buổi tối. Làm anh nhớ lại những ngày còn độc thân.” “Đã xảy ra chuyện gì, anh Llewelyn?” “Carla Jean, chuyện như thế này. Em cần thu xếp đồ đạc để sẵn sàng rời khỏi nơi đây rạng sáng mai. Bất kỳ món nào em để lại thì em sẽ không thấy nó nữa, vì vậy nếu cần món gì thì phải mang theo. Có chuyến xe buýt rời khỏi nơi đây lúc bảy giờ mười lăm. Anh muốn em đi Odessa* và chờ anh ở đó cho đến lúc anh có thể gọi cho em.” Cô ngả người trên chiếc ghế nhìn anh: “Anh muốn em đi Odessa?” “Đúng vậy.” “Anh không đùa đấy chứ?” “Anh à? Không. Anh không đùa chút nào. Mình còn mứt không?” Cô đứng dậy lấy mứt trong tủ lạnh đặt trên bàn, rồi lại ngồi xuống. Anh mở nắp lọ mứt, phết một ít lên miếng bánh mỳ. “Trong chiếc cặp anh mang về có gì vậy?” “Anh đã nói với em trong đó có gì.” “Anh đã nói là có đầy tiền.” “À, vậy thì anh nghĩ nó là thế đó.” “Nó ở đâu?” “Ở dưới gầm giường.” “Ở dưới gầm giường?” “Đúng vậy, thưa cô.” “Em vào xem được không?” “Em là con gái da trắng tự do và hai mươi mốt tuổi, nên anh nghĩ em có thể làm bất cứ việc gì em muốn.” “Em không phải hai mươi mốt tuổi.” “À, thế thì sao cũng được.” “Và anh muốn em lên xe buýt đi Odessa.” “Em sẽ phải lên xe buýt đi Odessa.” “Liệu em sẽ nói với Mẹ ra sao?” “À, thử đứng trước cửa nhà và hô lên: Mẹ ơi, con đã về.” “Chiếc xe anh đâu?” “Tiêu rồi. Không có gì là mãi mãi.” “Làm thế nào chúng ta đi đến đó vào buổi sáng?” “Gọi cô Rosa ở đằng kia. Cô ấy không bận bịu gì cả.” “Llewelyn, anh đã làm gì?” “Anh đánh cướp nhà băng ở Fort Stockton.” “Anh nói dối táo tợn.” “Nếu không tin anh thì hỏi anh làm gì? Em cần sửa soạn đồ đạc. Mình chỉ còn có bốn tiếng đồng hồ trước khi trời sáng.” “Cho em xem cái gì trên cánh tay anh.” “Em đã thấy.” “Để em thoa thứ thuốc gì đó.” “Ừ, anh nghĩ còn thuốc mỡ trong tủ thuốc. Em đi đi và đừng quấy rầy anh nữa nhé! Anh đang cố ăn.” “Anh bị bắn hở?” “Không. Anh vừa nói là em phải đi lo sửa soạn. Bây giờ đi đi.” Hắn lái xe vượt qua cầu Sông Pecos ở phía bắc Sheffield Texas rồi đi theo đường 349 Nam. Khi hắn ghé vào trạm xăng ở Sheffield thì trời đã sụp tối. Hắn xin người chủ trạm xăng đổi tiền lẻ, gọi điện thoại, đổ đầy bình xăng rồi trở vào trả tiền. Người chủ hỏi: “Anh có bị mắc mưa trên đường đi không?” “Đường nào?” “Tôi thấy anh đến từ Dallas.” Chigurh thu tiền lẻ trên mặt quầy: “Việc tôi đến từ đâu có mắc mớ gì đến anh, hả anh bạn?” “Tôi không có ý gì.” “Anh không có ý gì.” “Tôi chỉ muốn bắt chuyện vậy mà.” “Tôi nghĩ cái tật đó khiến cho anh có tư cách lôi thôi.” “Thưa ông, tôi xin lỗi. Nếu ông không nhận lời xin lỗi của tôi thì tôi không biết phải làm gì hơn.” Chigurh hỏi: “Bao nhiêu cho phần này?” “Xin lỗi?” “Tôi hỏi bao nhiêu cho phần này.” “Sáu mươi chín cent.” Chigurh đặt tờ một đô la lên mặt quầy. Người chủ sắp xếp những đồng tiền lẻ trước mặt mình giống như người chia bài trong sòng bạc sắp xếp tiền hồ. Chigurh vẫn để mắt nhìn ông ta. Ông quay mặt hướng khác. Ông ho một tiếng. Chigurh dùng răng xé một gói điều lộn hột, đổ một phần ba gói vào lòng bàn tay rồi đứng đấy mà ăn. Người chủ trạm xăng hỏi: “Ông cần gì nữa không?” “Tôi không biết. Có gì nữa không?” “Có vấn đề gì không?” “Về cái gì?” “Về mọi thứ.” “Anh hỏi tôi như thế hả? Có vấn đề gì về mọi thứ không hả?” Người chủ quay mặt đi, đặt bàn tay lên che miệng và lại ho. Ông nhìn qua Chigurh và Chigurh nhìn chỗ khác. Hắn nhìn qua khung cửa sổ ở phía trước cửa hiệu. Những máy bơm xăng và chiếc xe đang đỗ ở đấy. Chigurh ăn thêm một vốc hạt điều. “Ông cần gì thêm không?” Chigurh nói: “Anh đã hỏi tôi câu đó rồi.” “À, tôi cần lo đóng cửa.” “Lo đóng cửa.” “Vâng, thưa ông.” “Mấy giờ anh đóng cửa?” “Bây giờ. Chúng tôi đóng cửa bây giờ.” “Bây giờ không phải là giờ. Mấy giờ anh đóng cửa?” “Thường là khoảng chập tối. Lúc trời tối.” Chigurh chầm chậm nhai hạt điều: “Anh không biết mình đang nói gì, phải không?” “Thưa ông?” “Tôi bảo anh không biết mình đang nói gì, phải không?” “Tôi nói về việc đóng cửa. Đó là điều tôi muốn nói.” “Mấy giờ anh đi ngủ?” “Thưa ông?” “Anh hơi điếc, phải không? Tôi hỏi mấy giờ anh đi ngủ.” “À, khoảng chín giờ rưỡi. Phỏng chừng chín giờ rưỡi.” Chigurh đổ thêm hạt điều vào lòng bàn tay: “Thế thì tôi có thể trở lại.” “Lúc đó chúng tôi đã đóng cửa.” “Được thôi.” “Thế thì tại sao ông trở lại? Chúng tôi sẽ đóng cửa.” “Anh đã nói vậy rồi.” “Vâng, chúng tôi sẽ đóng cửa.” “Anh ngụ trong căn nhà phía sau dó, phải không?” “Vâng, đúng vậy.” “Anh sống ở đây từ nhỏ hả?” Người chủ ngần ngừ rồi đáp: “Đây là cơ sở của cha vợ tôi. Lúc đầu là vậy.” “Anh kết hôn với cơ sở này.” “Trong nhiều năm chúng tôi đã sống ở Temple Texas. Tạo dựng gia đình ở đó. Ở Temple. Khoảng bốn năm trước chúng tôi dời đến đây.” “Anh kết hôn với cơ sở này.” “Tùy ông muốn nói cách nào cũng được.” “Tôi không có cách nói nào. Sự việc là vậy.” “À, tôi cần đóng cửa bây giờ.” Chigurh đổ phần hột điều cuối cùng vào lòng bàn tay, vò cái túi nhỏ và đặt lên mặt quầy. Hắn đứng thẳng trông kỳ quặc, miệng vẫn nhai hột điều. Người chủ nói: “Có vẻ như ông muốn hỏi nhiều. Đó là đối với người không muốn nói mình đến từ đâu.” “Khi thảy đồng xu thì anh từng thua nặng nhất là bao nhiêu?” “Thưa ông?” “Tôi hỏi khi thảy đồng xu thì anh từng thua nặng nhất là bao nhiêu.” “Thảy đồng xu hả?” “Thảy đồng xu.” “Tôi không biết. Thường người ta không đánh cược với nhau khi thảy đồng xu. Thường đó là để quyết định việc gì khác.” “Anh đã từng thấy quyết định việc gì lớn nhất?” “Tôi không biết.” Chigurh lấy từ túi áo một đồng 25 cent, thảy tung lên giữa ánh sáng xanh của đèn néon. Hắn bắt lấy đồng xu, úp trên lưng bàn tay. Hắn nói: “Đoán sấp ngửa đi.” “Đoán hả?” “Vâng.” “Để làm gì?” “Cứ đoán đi.” “Tôi cần biết đoán để được gì.” “Điều đó có thay đổi gì không?” Lần đầu tiên, người chủ nhìn vào mắt Chigurh. Xanh như da trời. Vừa long lanh vừa vẩn đục. Như là đá ướt. Chigurh nói: “Anh phải đoán. Tôi không thể đoán thế anh. Như vậy là không công bằng. Thậm chí là không đúng mực. Chỉ cần đoán.” “Tôi không đặt cược gì cả.” “Có đó. Anh đã đặt cược cả đời mình. Có điều là anh không biết. Anh biết năm ghi trên đồng xu này không?” “Không.” “Đó là một nghìn chín trăm năm mươi tám. Đồng xu này đã lưu hành hai mươi hai năm mới đến đây. Bây giờ nó ở đây. Và tôi ở đây. Và tôi làm chủ nó. Hoặc là sấp hoặc ngửa. Anh phải nói. Đoán đi.” “Tôi không biết mình sẽ thắng cái gì.” Trong ánh sáng xanh, khuôn mặt người chủ lấm tấm mồ hôi. Ông liếm môi trên. Chigurh nói: “Anh sẽ thắng mọi thứ. Mọi thứ.” “Ông ạ, ông nói không đúng lý gì cả.” “Đoán đi.” “Thế thì là ngửa.” Chigurh nhấc bàn tay che đồng xu, xoay cổ tay kia cho người chủ xem. Hắn nói: “Tốt lắm.” Hắn cầm lấy đồng xu và trao cho người chủ. “Tôi làm gì với nó?” Chigurh nói: “Nhận đi. Đó là đồng xu may mắn của anh.” “Tôi không cần.” “Anh cần mà. Nhận đi.” Người chủ trạm xăng nhận lấy đồng xu. Ông nói: “Bây giờ tôi phải đóng cửa.” “Đừng cất trong túi.” “Thưa ông?” “Đừng cất trong túi.” “Ông muốn tôi cất ở đâu?” “Đừng cất trong túi. Anh sẽ không biết nó là đồng nào.” “Được rồi.” Chigurh nói: “Mọi thứ có thể là một vật dụng. Những thứ vụn vặt. Chuyền từ tay này qua tay khác. Người ta không để ý tới. Và rồi tới một ngày có vụ tính sổ. Sau đó, mọi thứ đều thay đổi. Anh nói đó chỉ là một đồng xu. Giả dụ vậy. Không có gì đặc biệt cả. Nhưng nó là một vật dụng như thế nào? Anh thấy ra vấn đề. Để phân biệt hành động với món vật. Như thể những phần của một thời khắc trong lịch sử có thể hoán đổi với những phần của một thời khắc khác. Làm thế nào có thể được như vậy? À, đấy chỉ là một đồng xu. Ừ. Đúng vậy. Phải không?” Chigurh thu tiền thối từ mặt quầy vào lòng bàn tay, cho vào túi rồi quay người bước qua cánh cửa. Người chủ trạm xăng nhìn hắn đi. Nhìn hắn bước vào xe. Chiếc xe rồ máy rồi chạy ra xa lộ về hướng nam. Không hề bật đèn. Ông đặt đồng xu lên mặt quầy và nhìn nó. Ông đặt cả hai bàn tay lên mặt quầy và chỉ đứng tựa ở đấy, đầu cúi xuống. Hắn đến Dryden khoảng tám giờ tối. Hắn dừng lại ở ngã tư trước cửa hàng thực phẩm Condra’s, máy xe vẫn nổ nhưng đèn xe vẫn tắt. Rồi hắn bật đèn xe lên và rẽ vào xa lộ 90 để đi về hướng đông. Những vệt sơn trắng bên vệ đường trông giống vệt ghi dấu của trắc đạt viên nhưng không có con số mà chỉ là những vạch hình chữ V. Hắn để ý ghi nhận khoảng đường đi bằng đồng hồ khoảng cách trên xe, chạy thêm hơn một ki-lô-mét rưỡi, chậm lại rồi tách ra khỏi xa lộ. Hắn tắt đèn xe, vẫn để xe nổ máy, bước ra, mở cánh cổng rồi quay lại. Hắn lái xe dọc hàng rào chặn bò, bước ra và đứng nghe ngóng. Rồi hắn bước vào xe và lái đi trên con đường mòn có nhiều vết bánh xe lún. Hắn chạy dọc theo hàng rào chạy về hướng nam, chiếc Ford cố nuốt đoạn đường gồ ghề. Hàng rào là tàn tích từ ngày xưa, chỉ có ba sợi dây chăng dọc những hàng cột phủ dây leo gai góc. Được khoảng hơn một ki-lô-mét rưỡi, hắn đi đến một khu sỏi đá bằng phẳng, nơi có một chiếc Dodge Ramcharger đang đỗ hướng về phía hắn. Hắn chầm chậm cho xe chạy kế bên chiếc xe ấy rồi tắt máy. Chiếc Dodge Ramcharger có kính thật đậm đến nỗi trông như có màu đen. Chigurh mở cửa và bước ra. Một người đàn ông bước ra phía đối diện tay lái của chiếc Dodge, gấp chiếc ghế về phía trước rồi bước vào phía sau. Chigurh đi vòng quanh chiếc xe, bước vào và đóng cửa xe lại. Hắn nói: “Đi đi.” Người lái xe hỏi: “Anh nói chuyện với anh ta chưa?” “Chưa.” “Anh ta không biết chuyện gì xảy ra hả?” “Không biết. Đi đi.” Chiếc xe lăn bánh qua vùng sa mạc trong bóng tối. Người lái xe hỏi: “Khi nào anh định cho anh ta biết?” “Khi tôi biết phải nói với anh ta chuyện gì.” Khi họ đi đến chiếc xe bán tải của Moss, Chigurh nghiêng người tới trước để quan sát. “Có phải chiếc xe của hắn không?” “Phải. Bảng số xe đã được tháo gỡ.” “Đậu lại ở đây. Anh có cây vặn vít không?” “Tìm trong cái hộp dụng cụ đó.” Chigurh bước ra khỏi xe với cây vặn vít, đi đến bên chiếc xe bán tải và mở cửa ra. Hắn cạy ra tấm thẻ kiểm tra bằng nhôm phía bên trong cửa xe, cho vào túi, rồi bước quay về, lên xe và đặt cây vặn vít vào hộp dụng cụ. Hắn nói: “Ai đã cắt bánh xe?” “Không phải là bọn ta.” Chigurh gật đầu, nói: “Đi thôi.” Cách một quãng đường, họ đỗ xe lại, bước xuống nhìn về phía các chiếc xe. Chigurh đứng nhìn một hồi lâu. Đáy thung lũng se lạnh, hắn không có áo khoác nhưng dường như hắn không màng. Hai người kia đứng chờ. Hắn bật lên chiếc đèn bấm trong tay, đi vòng quanh các chiếc xe và các thi thể. Hai người kia đi theo sau hắn. Chigurh hỏi: “Con chó của ai vậy?” “Bọn tôi không rõ.” Hắn đứng nhìn người đàn ông gục chết trước tay lái chiếc Bronco. Hắn rọi đèn vào khoang hành lý phía sau hàng ghế. Hắn hỏi: “Cái hộp ở đâu?” “Trên chiếc xe tải. Anh muốn xem hả?” “Anh tìm ra gì từ nó không?” “Không.” “Không có gì hết hả?” “Không có tiếng nào.” Chigurh quan sát người chết. Hắn chiếu ngọn đèn lên xuống cái xác. Hắn bước lui lại, đứng nhìn lòng chảo núi lửa dưới ánh trăng. Hoàn toàn im ắng. Phỏng chừng như người đàn ông trên chiếc Bronco đã chết chưa được ba ngày. Hắn rút khẩu súng lục từ thắt lưng, xoay người đến nơi hai người kia đang đứng, tuần tự bắn vào đầu mỗi người một phát, rồi giắt khẩu súng lại vào thắt lưng. Người thứ hai thật ra đã nhìn thoáng qua người thứ nhất khi người này ngã xuống. Chigurh bước đến giữa hai người, cúi xuống tháo ra dây đeo vai từ người thứ hai, lấy ra khẩu Glock chín mi-li-mét. Rồi hắn đi trở lại chiếc xe, bước vào, nổ máy xe, lái ra khỏi lòng chảo núi lửa và chạy về hướng xa lộ. Chương III Tôi không rõ các cơ quan công quyền có được lợi nhiều từ công nghệ mới hay không. Những khí tài nằm trong tay chúng tôi thì cũng rơi vào tay bọn chúng. Không phải ý tôi nói là chúng ta có thể quay trở lại thời xa xưa. Hoặc liệu chúng ta có muốn quay trở lại hay không. Lúc trước chúng tôi được trang bị bộ đàm kiểu Motorola hai chiều. Bây giờ chúng tôi có máy cao tần số. Nhiều thứ đã thay đổi. Nhưng cảm nhận thông thường thì không đổi. Đôi lúc tôi bảo thuộc hạ mình rằng cứ xài những thứ quen thuộc. Tôi vẫn còn thích các khẩu Colt .44-40. Nếu không hạ được hắn thì cứ vứt nó mà chạy. Tôi thích khẩu Winchester kiểu 97. Tôi thích nó vì nó có cần lên cò. Tôi không thích phải mò mẫm tìm chốt an toàn. Dĩ nhiên là có nhiều thứ tệ hại hơn. Chiếc xe tuần tra của tôi đã cũ bảy năm. Nó có máy 454. Bạn không còn tìm ra được loại máy đó. Tôi đã dùng vài kiểu xe mới. Nó không thể bắt kịp một người béo phì. Tôi bảo mình muốn dùng những thứ hiện có. Không phải lúc nào đấy cũng là sách lược hay. Nhưng đấy cũng không phải là sách lược tồi. Còn việc kia thì tôi không biết. Người ta nhiều lúc hỏi tôi về việc kia. Tôi không thể nói ra vì tôi muốn loại bỏ hẳn nó. Đấy không phải là việc mà tôi muốn thấy nữa. Để chứng kiến. Những người thật sự phải chờ nhận thi hành án tử hình sẽ không bao giờ thấy được. Tôi tin vào điều ấy. Bạn sẽ còn nhớ đôi điều về việc như thế. Người ta không biết phải ăn mặc ra sao. Có một vài người mặc màu đen, mà tôi nghĩ như thế là được. Vài người đàn ông mặc áo tay cộc và tôi thấy phiền hà vì việc này. Tôi không biết mình có thể nói với bạn tại sao. Nhưng có vẻ như họ biết phải làm gì và điều này làm cho tôi ngạc nhiên. Tôi biết phần lớn bọn họ chưa từng dự khán việc thi hành án tử hình. Khi xong xuôi, họ kéo lại tấm màn chung quanh phòng hơi ngạt trong khi tử tội ngồi chết gục và người ta đứng dậy ra về. Giống như đi ra khỏi nhà thờ hoặc đại loại như thế. Việc này có vẻ như là kỳ quặc. Mà nó đúng là kỳ quặc. Tôi phải nói rằng có lẽ đây là một ngày bất thường nhất mà tôi đã kinh qua. Khá nhiều người không tin vào việc này. Ngay cả những người làm việc thi hành án. Bạn hẳn lấy làm ngạc nhiên. Tôi nghĩ có vài người trong bọn họ vào lúc nào đấy đã ngạc nhiên. Trong nhiều năm họ đã thỉnh thoảng trông thấy ai đó, và rồi đến một ngày họ dẫn người ấy đi dọc hành lang và mang người này đến cõi chết. Ra thế. Việc này khiến cho hầu như ai cũng không biết nói sao. Tôi không màng người ấy là ai. Và dĩ nhiên vài người trong bọn trẻ không được thông minh lắm. Ông cha cố Picke kể cho tôi nghe về một tử tội ông giúp làm thánh lễ. Anh này dùng bữa ăn cuối cùng rồi yêu cầu món tráng miệng, bất kỳ món gì. Rồi đến giờ phải dẫn anh ta đi, và cha Picke hỏi anh ta tại sao không ăn món tráng miệng. Anh ta nói mình muốn để dành cho đến khi trở lại. Tôi không biết nói về chuyện này ra sao. Cha Picke cũng thế. Tôi chưa từng phải giết ai và tôi lấy làm vui về điều này. Thậm chí vài cảnh sát đã phục vụ lâu năm không muốn mang vũ khí. Nhiều người ngạc nhiên về chuyện này, nhưng đấy là sự thật. Jim Scarborough chưa bao giờ mang vũ khí. Đấy là anh trai trẻ Jim. Gaston Boykins cũng không mang vũ khí. Ở tận trên hạt* Comanche. Lúc nào tôi cũng muốn nghe về những ngày xưa cũ. Không bao giờ bỏ qua cơ hội như thế. Mối quan tâm ngày xưa mà các cảnh sát viên mang trong lòng đối với cư dân trong khu vực của họ thì bây giờ đã bớt đi. Bạn hẳn đã nhận ra điều ấy. Cái anh da đen Hoskins ở hạt Bastrop nhớ nằm lòng số điện thoại của mọi người trong cả hạt. Quả là điều kỳ quặc khi bạn nghĩ đến điều ấy. Ở đâu cũng có cơ hội cho người ta lạm dụng. Trong Hiến pháp bang Texas không có ghi yêu cầu gì đối với cảnh sát. Chả có yêu cầu gì cả. Không có luật của hạt. cảnh sát nghĩ về nhiệm vụ của họ ở nơi chốn mà họ có quyền uy như Thượng đế và không có yêu cầu gì áp đặt lên mình cả. Họ được phân nhiệm vụ gìn giữ luật lệ vốn đã không có, thế nên bạn bảo cho tôi biết như vậy có phải là kỳ quặc hay không. Bởi vì tôi nói nó là như thế. Nó có làm chức năng tốt không? Có chứ. Chín mươi phần trăm thời gian là tốt. Không cần gì nhiều để quản lý người tốt. Chỉ cần rất ít. Còn người xấu thì không thể quản lý được. Hoặc nếu được thì tôi chưa từng nghe qua. Chiếc xe buýt chạy vào Fort Stockton lúc chín giờ mười lăm. Moss đứng dậy, nắm lấy chiếc túi từ ngăn hành lý phía trên đầu, nhặt lên chiếc cặp da từ ghế ngồi và nhìn xuống cô. Cô nói: “Đừng bước lên máy bay với cái đó. Họ sẽ giam anh vào ngục.” “Mẹ anh không dạy bảo các con thành người ngu dốt.” “Khi nào anh gọi điện cho em?” “Ít ngày nữa anh sẽ gọi.” “Thế thì được.” “Em bảo trọng.” “Em có linh cảm không hay, Llewelyn ạ.” “À, anh thì có linh cảm tốt. Vậy là hai linh cảm hóa giải cho nhau.” “Em mong vậy.” “Anh chỉ có thể gọi cho em từ máy điện thoại công cộng.” “Em biết. Anh nhớ gọi cho em.” “Anh sẽ gọi. Đừng có lo lắng mọi thứ.” “Llewelyn?” “Cái gì?” “Không có gì cả.” “Chuyện gì vậy?” “Không có gì. Em chỉ buột miệng thế thôi.” “Em bảo trọng.” “Llewelyn?” “Cái gì?” “Đừng làm hại ai. Anh nghe chứ?” Anh đứng đấy với chiếc túi quàng qua vai. Anh nói: “Anh không hứa gì cả. Nếu hứa thì sẽ bị làm hại.” Bell vừa nâng chiếc nĩa để bắt đầu dùng bữa tối thì chuông điện thoại reo. Ông hạ chiếc nĩa xuống. Lorea vừa kéo chiếc ghế của mình ra phía sau thì ông lau miệng với chiếc khăn rồi đứng dậy. Ông nói: “Để anh nghe.” “Được rồi.” “Làm cái quái gì mà họ biết mình đang ăn? Mình chẳng bao giờ ăn muộn như thế này.” Lorea nói: “Đừng chửi rủa.” Ông nhấc máy lên: “Cảnh sát trưởng Bell đây.” Ông lắng nghe một lúc. Rồi ông nói: “Tôi đang dùng bữa tối cho xong. Tôi sẽ đến gặp anh ở đấy trong vòng bốn mươi lăm phút. Chỉ cần để đèn hiệu trên xe của anh.” Ông đặt điện thoại xuống, trở lại ghế ngồi, nhấc chiếc khăn lau miệng trải lên đùi rồi cầm lấy chiếc nĩa. Ông nói: “Có người gọi về việc một chiếc xe bốc cháy. Ở bên này vực núi Lozier.” “Anh nghĩ có chuyện gì?” Ông lắc đầu. Ông ăn tiếp. Ông uống ngụm cà phê cuối cùng. Ông nói: “Đi với anh.” “Để em đi lấy áo choàng.” Khi xe chạy đến cánh cổng, họ lái qua hàng rào ngăn bò và đậu sau xe của Wendell. Anh này tiến lại và Bell kéo cửa kính xe xuống. Wendell nói: “Cách đây khoảng nửa dặm*, sếp chỉ cần đi theo tôi.” “Tôi thấy mà.” “Dạ, thưa sếp. Khoảng một giờ trước ở đây nhìn thấy rất rõ. Người gọi điện báo nhìn thấy nó từ trên đường.” Họ cho xe đỗ lại cách một quãng, bước ra khỏi xe và đứng nhìn. Họ có thể cảm thấy hơi nóng phả lên mặt. Bell đi vòng qua chiếc xe, mở cánh cửa và nắm lấy bàn tay vợ mình. Lorea bước ra đứng nhìn, hai cánh tay khoanh phía trước thân người. Có một chiếc xe bán tải đậu cách một khoảng ngắn; hai người đang đứng đấy trong ánh lửa đỏ bập bừng. Họ gật đầu chào nhau và kêu lên: “Cảnh sát trưởng.” Lorea nói: “Đáng lẽ mình nên mang theo xúc xích để nướng.” “Ừ. Hay là kẹo dẻo.” “Anh hẳn nghĩ một chiếc xe không tự bốc cháy như thế.” “Đúng, không ai nghĩ thế. Các anh có thấy gì không?” “Không, thưa sếp. Chỉ thấy lửa.” “Có trông thấy ai hoặc cái gì không?” “Thưa sếp, không thấy gì.” “Wendell, anh thấy nó giống như chiếc Ford đời 77 không?” “Có thể.” “Tôi nói nó giống như thế.” “Có phải đó là chiếc cái anh già kia vẫn lái không?” “Phải. Biển số Dallas*.” “Đây không phải là ngày may mắn cho hắn, phải không hở sếp?” “Đúng hẳn rồi.” “Sếp nghĩ tại sao họ đốt chiếc xe?” “Tôi không biết.” Wendell quay người, nhổ nước bọt. “Đó có phải là chuyện hắn nghĩ đến khi rời Dallas không?” Bell lắc đầu: “Không. Tôi đoán hắn không hề nghĩ đến chuyện này.” Vào buổi sáng khi ông đi đến văn phòng thì chuông điện thoại đang reo. Torbert chưa trở lại. Cuối cùng, lúc chín giờ rưỡi anh này gọi về. Bell phái Wendell đi đón anh. Rồi ông ngồi đưa hai chân lên mặt bàn, nhìn chăm chăm đôi giày cao cổ của mình. Ông ngồi như thế một hồi lâu. Rồi ông lấy bộ đàm gọi Wendell. “Anh đang ở đâu?” “Vừa mới đi qua vực núi Sanderson.” “Quay trở về.” “Được. Còn Torbert thì sao?” “Gọi bảo hắn cảnh giác. Tôi sẽ đến đón hắn chiều nay.” “Dạ, thưa sếp.” “Đi lấy xâu chìa khóa của chiếc xe bán tải Lorea đang giữ và nối toa rơ-moóc. Đóng yên cho ngựa của tôi và ngựa của Lorea rồi đưa lên toa. Tôi sẽ đến gặp anh ngoài đó trong khoảng một tiếng đồng hồ.” “Dạ, thưa sếp.” Ông treo ống nói lên, đứng dậy rồi đi xuống kiểm soát nhà giam. Họ lái chiếc xe qua cánh cổng, đóng cánh cổng lại, chạy tiếp khoảng một trăm mét dọc hàng rào rồi dừng xe. Wendell mở hai cánh cửa toa rơ-moóc, dẫn hai con ngựa ra. Bell nắm lấy dây cương con ngựa của vợ ông, nói: “Anh cưỡi con Winston.” “Sếp chắc không?” “Còn hơn cả chắc nữa. Nếu có chuyện gì xảy đến cho ngựa của Lorea thì bây giờ tôi có thể cho anh biết là chắc chắn anh sẽ không hề muốn mình là người cưỡi nó.” Ông trao cho Wendell một trong những khẩu súng trường ông mang theo, nhảy lên yên ngựa và kéo vành mũ xuống. Ông hỏi: “Sẵn sàng chưa?” Họ phi ngựa song song bên nhau. Bell nói: “Ta đã chạy qua vết bánh xe của họ nhưng anh vẫn có thể nhìn ra. Loại bánh xe rộng để chạy băng đồng.” Khi hai người đến nơi, chiếc xe chỉ còn là một cái khung cháy nám đen. Wendell nói: “Anh đã nói đúng về cái biển số xe.” “Nhưng tôi đã nói dối về bánh xe.” “Nói dối thế nào?” “Tôi đã nói các bánh xe lúc đó còn đang cháy.” Chiếc xe nằm giữa bốn vệt trông giống như hắc ín, những sợi kim loại quấn quanh niềng bánh xe rối nùi như bòng bong. Họ tiếp tục phóng ngựa đi. Thỉnh thoảng Bell chỉ xuống đất. Ông nói: “Anh có thể phân biệt vệt bánh xe chạy ban ngày hoặc ban đêm. Họ đã lái xe trong đêm tối mà không bật đèn. Có thấy vệt bánh xe chạy xiên xẹo không? Giống như họ không thể nhìn được xa nên không kịp tránh lùm bụi phía trước. Hoặc có thể để lại vệt sơn trên vách đá như ở đàng kia.” Đến một bãi cát, ông xuống ngựa, đi tới đi lui rồi nhìn ra xa về hướng nam. “Có cùng những dấu bánh xe khi chạy đến và chạy đi. Gần như cùng một lúc. Anh có thể thấy những vệt gai lốp xe rất rõ. Đó là đường họ chạy đi. Tôi có thể nói mỗi chiều có hai hoặc ba chuyến đi.” Wendell vẫn ngồi trên lưng ngựa, hai tay bắt chéo nhau nắm lấy núm chiếc yên. Anh nghiêng người phun nước bọt. Anh nhìn về hướng nam cùng với Cảnh sát trưởng. “Sếp đoán ta tìm thấy gì ở đây?” Bell đáp: “Tôi không rõ.” Ông đặt một chân lên bàn đạp bên hông ngựa, nhẹ nhàng nhấc người lên yên rồi phóng con ngựa nhỏ chạy tới. Ông lại nói: “Tôi không rõ. Chưa thể nói nếu chưa thấy gì.” Khi họ chạy đến chiếc xe bán tải của Moss, viên Cảnh sát trưởng quan sát rồi cho ngựa đi chầm chậm vòng quanh. Cả hai cánh cửa chiếc xe đều mở. Ông nói: “Có ai đấy đã nậy ra tấm thẻ kiểm tra.” “Các con số thì nằm trên khung.” “Ừ. Tôi nghĩ đấy không phải là lý do họ muốn lấy đi.” “Tôi biết chiếc xe này.” “Tôi cũng biết.” Wendell nghiêng người lấy tay vỗ cổ con ngựa. “Anh này tên là Moss.” “Ừ.” Bell cho ngựa chạy vòng phía sau chiếc xe rồi quay đầu ngựa lại, nhìn Wendell. “Anh biết anh ta ngụ ở đâu không?” “Thưa sếp, không.” “Anh ta có vợ, phải không?” “Tôi nghĩ vậy.” Viên Cảnh sát trưởng nhìn chiếc xe bán tải. “Tôi vừa nghĩ ra rằng quả là điều kỳ lạ nếu anh ta mất tích hai hoặc ba ngày mà không nghe ai nói năng gì cả.” “Quả là kỳ lạ.” Bell nhìn xuống lòng chảo núi lửa. “Tôi nghĩ mình thật sự có mối tai họa ở đây.” “Tôi tin sếp.” “Anh nghĩ anh này buôn ma túy hở?” “Tôi không biết. Tôi không nghĩ vậy.” “Tôi cũng vậy. Đi xuống kia mà xem cái đám bầy hầy còn lại.” Hai người cưỡi ngựa chạy xuống lòng chảo núi lửa, giữ khẩu súng trường Winchester tựa trên yên ngựa trước mặt. Bell nói: “Tôi hy vọng anh ta không nằm chết ở dưới đó. Anh ta là người tử tế; tôi đã trông thấy anh ta một, hai lần. Vợ anh ta cũng đẹp.” Họ cưỡi ngựa qua các thi thể nằm trên mặt đất và dừng lại, xuống ngựa và để rơi dây cương. Hai con ngựa dậm chân bồn chồn. Bell nói: “Anh dẫn lũ ngựa ra đàng xa kia. Chúng không cần phải nhìn cảnh này.” “Dạ, thưa sếp.” Khi Wendell trở lại, Bell đưa cho anh ta hai chiếc ví ông lấy từ các thi thể. Ông nhìn về phía những chiếc xe bán tải. Ông nói: “Hai người này chết chưa lâu như đàng kia.” “Họ từ đâu tới?” “Dallas.” Bell trao cho Wendell khẩu súng lục ông vừa nhặt lên rồi ngồi xổm tựa vào khẩu súng trường ông mang theo. Ông nói: “Hai anh này bị hành quyết. Tôi có thể nói do một đồng bọn. Anh già chưa hề mở chốt an toàn của khẩu súng lục này. Cả hai đều bị bắn giữa hai con mắt.” “Người kia không có súng hay sao?” “Có lẽ tên sát nhân đã lấy đi. Hoặc có lẽ anh ta không có súng.” “Cách tồi tệ để đấu súng như vậy.” “Đúng là tồi tệ.” Họ đi giữa những chiếc bán tải. Wendell nói: “Mấy kẻ săn mồi này say máu như lợn rừng.” Bell liếc qua anh. Wendell nói: “Dạ. Tôi nghĩ ta nên cẩn thận mà đừng nguyền rủa người chết.” Bell nói: “Tôi chỉ nói ít nhất có lẽ ta sẽ gặp chuyện không may khi làm thế.” “Đó chỉ là một đám Mễ buôn ma túy.” Bell nói: “Trước đây họ buôn ma túy. Bây giờ thì hết rồi.” “Tôi không rõ sếp muốn nói gì.” “Ý tôi chỉ nói dù họ đã là gì chăng nữa thì giờ đây họ chỉ là những xác chết.” “Tôi sẽ gác chuyện đó qua một bên.” Viên Cảnh sát trưởng nghiêng người đến ghế chiếc Bronco và nhìn về phía sau. Ông thấm nước bọt trên đầu ngón tay, quệt xuống mặt thảm rồi giơ ngón tay ra ánh sáng. “Đấy là một loại ma túy nâu của Mexico.” “Bây giờ thì biến mất từ lâu, phải không sếp?” “Lâu rồi.” Wendell ngồi xổm, quan sát mặt đất dưới cánh cửa. “Trông như có thêm một ít trên mặt đất. Có thể ai đó đã cắt một trong mấy cái túi. Để xem bên trong là thứ gì.” Bell nói: “Có thể là để kiểm tra chất lượng. Đang chuẩn bị giao dịch.” “Họ không giao dịch. Họ bắn giết nhau.” Bell gật đầu. “Thậm chí tiền bạc có lẽ cũng không có.” Bell nói: “Có lẽ đúng.” “Nhưng sếp không tin.” Bell đã nghĩ đến điều này. Ông nói: “Không. Có lẽ tôi không tin.” “Có thêm chuyện lôi thôi thứ hai ở đàng kia.” Bell nói: “Đúng. Ít nhất là thế.” Ông đứng dậy, đẩy chiếc ghế về chỗ cũ. “Người công dân tốt này cũng bị bắn giữa hai mắt.” “Ừa.” Họ đi vòng quanh chiếc xe. Bell lấy tay chỉ: “Đấy là súng máy, bắn thẳng từ đàng kia.” “Tôi cũng thấy như vậy. Thế thì sếp nghĩ người lái xe đi đâu?” “Có lẽ là một người trong bọn họ đang nằm đàng kia.” Bell rút ra chiếc khăn tay đưa lên mũi, thò tay vào lấy ra một số vỏ đạn nằm trên sàn xe, nhìn qua các con số khảm trên mặt đáy vỏ. “Đạn cỡ bao nhiêu vậy, hở sếp?” “Chín mi-li-mét. Một vài viên thuộc loại .45 ACP*.” Ông thả các vỏ đạn trở lại trên sàn xe, lui về sau, nhấc lấy khẩu súng trường ông đã để dựa vào chiếc xe. “Xem ra thì thấy ai đó đã dùng súng shotgun.” “Sếp nghĩ các lỗ đạn là lớn hay sao?” “Tôi nghĩ đạn bi cỡ số bốn thì đúng hơn.” “Kể cũng đáng đồng tiền.” Bell nói: “Anh nói thế cũng đúng. Nếu muốn quét sạch cả một con hẻm thì đấy là cách được việc.” Wendell nhìn qua lòng chảo núi lửa. Anh nói: “À, có người đi ra khỏi đây.” “Đúng thế.” “Sếp nghĩ làm thế nào chó rừng không thịt bọn họ?” Bell lắc đầu, nói: “Tôi không biết. Có lẽ chúng không thích ăn thịt bọn Mễ.” “Bọn nằm đàng kia không phải là Mễ.” “À, đúng thế.” “Ngoài này trông giống như chiến trường Việt Nam.” Viên Cảnh sát trưởng nói: “Việt Nam!” Họ bước ra giữa các chiếc xe. Bell nhặt lấy vài vỏ đạn, quan sát rồi lại thả cho rơi xuống. Ông nhặt lấy một bộ nạp đạn* bằng nhựa màu lam. Ông đứng nhìn qua quang cảnh, nói: “Để tôi nói cho anh nghe.” “Sếp nói đi.” “Không có lý do nào mà người cuối cùng không hề bị bắn.” “Tôi đồng ý.” Bell nói: “Tại sao mình không lấy ngựa đi tiếp lên một quãng và nhìn chung quanh? Có thể tìm thấy một vài chứng cứ.” “Được ạ.” “Anh có thể cho tôi biết họ muốn làm gì với một con chó ở đây?” “Tôi không biết.” Khi họ tìm ra người chết cạnh vách đá cách một dặm về phía đông bắc, Bell chỉ ngồi trên lưng con ngựa của vợ ông. Ông ngồi đấy một hồi lâu. “Sếp đang nghĩ gì?” Viên Cảnh sát trưởng lắc đầu. Ông xuống ngựa, bước đến bên người đàn ông đang ngồi gục chết. Ông đi quanh, khẩu súng trường lủng lẳng trên vai. Ông ngồi xổm, quan sát đám cỏ. “Có thêm một vụ hành quyết hả sếp?” “Không, tôi tin đây là cái chết do nguyên nhân tự nhiên.” “Nguyên nhân tự nhiên hả?” “Tự nhiên theo loại công việc hắn đã làm.” “Hắn không có súng.” “Đúng thế.” Wendell nghiêng người nhổ nước bọt. “Có người đã đến đây trước ta.” “Tôi cũng thấy thế.” “Sếp có nghĩ người đó lấy đi số tiền không?” “Tôi nói là có khả năng đó.” “Thế thì chúng ta vẫn chưa tìm ra người cuối cùng, phải không?” Bell không trả lời. Ông đứng lên, nhìn ra phía vùng đồng trống. “Đây là một vụ quá phức tạp, phải không sếp?” “Nếu ban đầu chưa phải là phức tạp thì có người đã đến gây chuyện phức tạp.” Wendell hỏi: “Thế thì sếp nghĩ cái anh già hữu hảo đó đang ở đâu?” “Tôi không biết.” “Tôi nghĩ đi tìm ra anh ta là việc ưu tiên hàng đầu của sếp.” Viên Cảnh sát trưởng gật đầu: “Ưu tiên hàng đầu.” Họ quay về thị trấn. Viên Cảnh sát trưởng phái Wendell mang trả toa rờ-moóc và hai con ngựa. “Nhớ gõ cửa cảm ơn Lorea.” “Tôi nhớ. Dù sao tôi cũng phải mang trả chìa khóa.” “Chính quyền hạt này không trả thù lao vì đã dùng ngựa của bà ấy.” “Tôi nghe rồi.” Ông gọi cho Torbert qua điện thoại di động. “Tôi sẽ đến đón anh. Cứ chờ đấy.” Khi ông đi đến trước văn phòng của Lamar, dải băng cảnh sát vẫn còn giăng ngang sân cỏ của tòa án. Torbert đang ngồi trên các bậc thang. Anh đứng dậy, bước về phía chiếc xe. Bell hỏi: “Anh ổn chứ?” “Dạ, thưa sếp.” “Cảnh sát trưởng Lamar đâu?” “Ông ấy được gọi đi ra ngoài.” Họ lái xe ra xa lộ. Bell kể cho người trợ lý về vụ việc ở vùng lòng chảo núi lửa. Torbert im lặng lắng nghe. Anh nhìn ra bên ngoài cửa sổ xe. Sau một lúc, anh nói: “Tôi đã nhận được báo cáo từ Austin*.” “Họ nói gì?” “Không nói gì nhiều.” “Anh ta bị bắn bằng súng gì?” “Họ không biết.” “Họ không biết à?” “Đúng vậy, thưa sếp.” “Làm thế nào mà họ không biết? Vết thương không có miệng trổ ra.” “Đúng, thưa sếp. Họ sẵn lòng nhìn nhận việc đó.” “Sẵn lòng nhìn nhận hở?” “Dạ, thưa sếp.” “Thế thì họ nói cái quái gì, Torbert?” “Họ nói có vẻ như một viên đạn cỡ lớn gây ra vết thương trên trán, và nói là vết thương đó đi sâu vào hộp sọ hơn năm phân đến thùy trán của bộ óc, nhưng họ không tìm ra viên đạn.” “Họ nói đấy là vết thương.” “Dạ, thưa sếp.” Bell rẽ ra đường xa lộ liên tiểu bang. Ông gõ các ngón tay lên tay lái. Ông nhìn qua người trợ lý: “Torbert, việc anh vừa nói chẳng đúng lý gì cả.” “Tôi đã nói với họ như vậy.” “Họ trả lời ra sao?” “Họ chẳng trả lời gì cả. Họ đang gửi báo cáo qua đường chuyển phát nhanh FedEx. Phim X quang và mọi thứ. Họ bảo sếp sẽ nhận được ở văn phòng sáng mai.” Hai người im lặng. Sau một lúc, Torbert nói: “Cả vụ việc này rối rắm quá, phải không sếp?” “Ừ, đúng thế.” “Tất cả có bao nhiêu người chết?” “Câu hỏi hay. Tôi không chắc mình đã đếm. Tám. Cộng thêm phụ tá Haskins là chín.” Torbert nhìn ra vùng đồng trống bên ngoài. Những bóng dài đổ trên mặt đường. Anh nói: “Bọn họ là đám người quái nào vậy?” “Tôi không biết. Tôi thường nói họ là hạng người lúc nào mình cũng phải lo xử lý. Cùng hạng người mà ông nội tôi đã phải xử lý. Lúc đó họ đi ăn trộm bò. Bây giờ họ buôn bán ma túy. Nhưng tôi không biết bây giờ còn như thế hay không. Tôi giống anh. Tôi không chắc mình đã từng gặp bọn họ trước đây. Không rõ họ là hạng người nào. Thậm chí tôi không biết phải đối phó với họ ra sao. Nếu mình giết hết bọn họ thì địa ngục phải xây thêm cơ sở mới.” Chigurh lái xe đến Desert Aire lúc gần giữa trưa, đỗ lại gần nhà di động của Moss rồi tắt máy xe. Hắn bước ra, đi qua khoảng sân trước, bước lên các bậc thang rồi gõ lên khung cửa nhôm. Hắn chờ một lúc. Rồi hắn lại gõ cửa. Hắn quay lưng về căn nhà di động, quan sát khu vườn nhỏ. Không có gì cử động. Không có con chó nào. Hắn quay lại, cầm lấy nắm cửa, dùng khẩu súng bắn bò* bắn cho xy-lanh ống khóa rơi ra, mở cánh cửa, đi vào rồi đóng cánh cửa lại. Hắn đứng, lăm lăm trên tay là khẩu súng lúc trước hắn đã cướp của viên cảnh sát. Hắn nhìn vào gian bếp. Hắn đi vào phòng ngủ. Hắn đi qua phòng ngủ, mở cánh cửa nhà tắm rồi đi vào phòng ngủ thứ hai. Quần áo trên sàn nhà. Cửa tủ mở. Hắn mở ngăn kéo trên cùng rồi đóng lại. Hắn giắt khẩu súng vào lưng quần, kéo vạt áo phủ lên rồi bước vào gian bếp. Hắn mở tủ lạnh, lấy ra một hộp giấy sữa tươi, mở ra, ngửi rồi uống. Hắn đứng đấy, chiếc hộp giấy trên một tay, nhìn ra ngoài khung cửa sổ. Hắn uống tiếp, đặt chiếc hộp giấy trở lại vào tủ lạnh, rồi đóng cánh cửa. Hắn đi ra phòng khách, ngồi trên ghế bành. Có một TV 21 inch còn mới đặt trên mặt bàn. Hắn nhìn bóng mình phản chiếu trên màn hình xám đen. Hắn đứng dậy, nhặt lấy thư từ trên sàn nhà, lại ngồi xuống xem xét từng phong thư. Hắn chọn lấy ba trong số các phong thư, bỏ vào túi áo, đứng dậy rồi bước ra ngoài. Hắn lái xe đến đỗ phía trước văn phòng rồi đi vào. Người đàn bà nói: “Chào ông.” “Tôi muốn tìm Llewelyn Moss.” Người đàn bà quan sát hắn: “Ông có đi đến nhà di động của ảnh không?” “Tôi có đến.” “Thế thì tôi nghĩ ảnh đang đi lo làm ăn. Ông có muốn để lại tin nhắn không?” “Anh ấy làm việc ở đâu?” “Thưa ông, tôi không muốn tự tiện tiết lộ thông tin về cư dân của chúng tôi.” Chigurh nhìn quanh văn phòng nhỏ đóng bằng ván ép. “Anh ấy làm việc ở đâu?” “Xin lỗi ông?” “Tôi hỏi anh ấy làm việc ở đâu.” “Ông không nghe tôi nói sao? Chúng tôi không thể tiết lộ thông tin.” Tiếng dội nước bàn cầu ở đâu đấy. Tiếng chốt cửa kéo ra. Chigurh lại nhìn người đàn bà. Rồi hắn đi ra, bước vào chiếc Ramcharger và lái đi. Hắn đỗ lại trước quán café, rút ra ba phong thư từ túi áo, mở ra rồi đọc các lá thư bên trong. Hắn mở ra hóa đơn điện thoại, nhìn qua các giá tiền. Có các cuộc gọi đi Del Rio* và đi Odessa. Hắn đi vào, xin đổi tiền lẻ, bước ra tủ điện thoại công cộng, quay số ở Del Rio nhưng không có tiếng trả lời. Hắn quay số ở Odessa, giọng một phụ nữ trả lời, và hắn xin nói chuyện với Llewelyn. Người phụ nữ nói anh ấy không có ở đây. “Tôi cố đi tìm anh ấy ở Sanderson nhưng tôi nghĩ anh ấy không còn ở đó nữa.” Một khoảnh khắc im lặng. Rồi người phụ nữ nói: “Tôi không biết anh ấy ở đâu. Ông là ai?” Chigurh gác máy, đi đến quầy bar, ngồi xuống và gọi một ly cà phê. Hắn hỏi thầm: “Liệu Llewelyn đã từng ở đây không?” Khi hắn đỗ xe phía trước ga-ra, có hai người đàn ông đang ngồi ăn trưa, lưng dựa vào tường. Hắn bước vào. Có một người đàn ông ở bàn giấy, đang uống cà phê và nghe máy thu thanh. Anh nói: “Chào ông.” Chigurh nói: “Tôi muốn tìm Llewelyn.” “Ảnh không có ở đây.” “Khi nào anh ấy đến?” “Tôi không biết. Ảnh không báo trước, nên anh có thể đoán giỏi như tôi.” Anh khẽ nghiêng đầu. Như thể anh muốn nhìn Chigurh rõ hơn. “Tôi có thể giúp ông việc gì không?” “Tôi nghĩ là không.” Bên ngoài, hắn đứng trên mặt đường mấp mô dính dầu máy. Hắn nhìn đến hai người đàn ông đang ngồi ở đầu cuối của tòa nhà. “Hai anh có biết Llewelyn ở đâu không?” Họ lắc đầu. Chigurh bước vào chiếc Ramcharger, lái trở về thị trấn. Chiếc xe buýt chạy vào Del Rio sau giữa trưa. Moss xách lấy chiếc túi, bước xuống xe. Anh bước đến bến xe taxi, mở cánh cửa sau của một chiếc taxi đang đỗ ở đấy rồi bước vào. Anh nói: “Đưa tôi đến một motel*.” Tài xế taxi nhìn anh qua kính chiếu hậu: “Ông có chủ định đi đến chỗ nào không?” “Không. Chỉ cần anh đưa tôi đến nơi nào đó giá rẻ.” Chiếc taxi chạy đến một nơi có tên Trail Motel. Moss bước ra với chiếc túi xách và chiếc cặp da, trả tiền cho tài xế, rồi đi đến quầy lễ tân. Một phụ nữ đang ngồi xem TV. Cô đứng dậy đi vòng phía sau bàn giấy. “Cô có phòng trống không?” “Tôi có vài phòng trống. Ông ở mấy đêm?” “Tôi chưa biết.” “Lý do tôi hỏi là vì chúng tôi có giá tuần. Ba mươi lăm đô cộng một đô bảy mươi lăm cent thuế. Tổng cộng ba mươi sáu đô bảy mươi lăm cent.” “Ba mươi sáu đô bảy mươi lăm cent.” “Thưa ông, đúng vậy.” “Giá một tuần?” “Thưa ông, đúng vậy. Giá một tuần.” “Đó là giá rẻ nhất hả?” “Vâng, thưa ông. Giá tuần thì không giảm bớt.” “Thế thì cứ tính theo từng ngày.” “Được, thưa ông.” Anh nhận chìa khóa, đi vào phòng, đóng lại cánh cửa, đặt hai chiếc túi trên mặt giường. Anh kéo lại các màn cửa, đứng nhìn qua tấm màn hướng mắt đến khoảng sân nhỏ bẩn thỉu. Im ắng đến chết người. Anh cài sợi dây xích qua chốt khóa cửa, rồi đến ngồi trên giường. Anh mở khóa kéo của cái túi, lấy ra khẩu súng lục tự động đặt trên tấm trải giường rồi nằm xuống kế bên. Khi anh thức giấc thì trời đã về chiều. Anh vẫn nằm đấy, nhìn lên tấm trần amiăng hoen ố. Anh ngồi dậy, tháo ra đôi giày cao cổ và đôi bít tất, xem xét miếng băng trên gót chân. Anh đi vào nhà tắm, nhìn mình qua tấm gương, cởi chiếc áo sơ-mi, xem xét phía sau cánh tay. Vùng da tái lại từ bả vai xuống đến cùi tay. Anh đi trở ra, lại ngồi trên chiếc giường. Anh nhìn khẩu súng đang nằm đấy. Sau một lúc, anh leo lên mặt bàn gỗ rẻ tiền, dùng con dao nhíp mở các con ốc vít của tấm vỉ che ống dẫn hơi máy lạnh, tuần tự đặt từng con ốc vít ngậm vào miệng. Rồi anh dỡ tấm vỉ xuống, đặt trên mặt bàn, nhón chân lên để nhìn vào bên trong ống dẫn hơi. Anh cắt một đoạn dây kéo rèm cửa sổ, cột một đầu dây vào chiếc cặp da. Rồi anh mở nắp cặp, đếm ra một nghìn đô, gấp các tờ giấy bạc cho vào túi áo, đóng nắp cặp lại và cột lại hai sợi dây buộc. Anh gỡ cái ống trong tủ quần áo, để các chiếc mắc áo trên sàn, rồi """