"
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Khát Vọng Đổi Đời PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Giới Thiệu Nhận Định Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 KHÁT VỌNG ĐỔI ĐỜI Stefan Zweig www.dtv-ebook.com Giới Thiệu Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig, bậc thầy về phân tích tâm lý con người, đã phơi bày ra những góc khuất của chủ nghĩa tư bản. Câu chuyện kể về cô gái tên là Christine, nhân viên tại một trạm bưu điện xa xôi thuộc nước Áo. Bố và anh trai đã mất trong chiến tranh, Christine sống với bà mẹ già nua bệnh tật trong một căn phòng ọp ẹp tồi tàn và ngày qua ngày làm công việc nhàm chán. Cho đến một hôm, người dì đã lưu lạc sang Mỹ 25 năm trước của Christine mời nàng đến nghỉ cùng vợ chồng họ trên dãy núi Alps thuộc Thụy Sĩ. Christine gói ghém đồ đạc tới chỗ dì Claire ở Pontresina và hoàn toàn choáng ngợp trước cảnh giàu sang phú quý nơi đây. Dì Claire đã đưa nàng bước chân vào thế giới thượng lưu hào nhoáng. Từ đây, cuộc đời nàng bước sang một trang mới với những mật ngọt cùng những giăng mắc mà nó bày ra. Khát vọng đổi đời được Stefan Zweig hoàn thành trong những năm 30 của thế kỷ XX nhưng chỉ được xuất bản 40 năm sau khi ông qua đời. KHÁT VỌNG ĐỔI ĐỜI Stefan Zweig www.dtv-ebook.com Nhận Định Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig đã khám phá từng chi tiết của đời sống thường nhật với một văn phong làm rung động cả khối óc lẫn tâm hồn… Câu chuyện sầu thảm, và có lẽ là một trong những bản cáo trạng u tối nhất từng xuất hiện trong văn chương về việc sự nghèo đói hủy diệt hy vọng, niềm vui, sắc đẹp và tiếng cười như thế nào. - The Spectator (UK) Một tác phẩm vô cùng hấp dẫn cho thấy lịch sử có thể tác động lên đời sống mỗi con người như thế nào. - The Financial Times Khát vọng đổi đời táo bạo, buồn và cảm động… Với hình tượng nhân vật Christine và đặc biệt là Ferdinand, Zweig đã cho chúng ta thấy chân dung của một thế giới đang đến ngày tàn. - The Guardian … Không một tác phẩm nào của Zweig đòi đấu trực diện với di sản của Thế chiến thứ nhất với độ sâu sắc về xã hội lẫn sự chi tiết về con người như Khát vọng đổi đời… chúng ta may mắn có được cuốn sách này, không chỉ bởi nó là bức tranh đau buồn về đời sống nước Áo sau chiến tranh mà còn bởi nó rất khác các tác phẩm khác của Zweig. - William Deresiewicz, The Nationb KHÁT VỌNG ĐỔI ĐỜI Stefan Zweig www.dtv-ebook.com Chương 1 Ai đã có lần ghé vào phòng làm việc của một trạm bưu điện nông thôn nước Áo thì có thể coi như mình đã biết tất cả các trạm bưu điện khác, bởi lẽ chúng hầu như chẳng khác nhau là bao. Vẫn những đồ vật được sắp đặt, hay nói cho đúng hơn là được quy định sắp đặt theo một quy chế thống nhất, vẫn những dụng cụ có từ thời Franz Josef[1] và ở bất cứ đâu những vật dụng ấy đều mang dấu ấn của thói quan liêu nặng nề, ngay cả ở tận những xóm làng hẻo lánh vùng Tyrol băng giá cũng thế. Trong các trạm bưu điện ấy lúc nào cũng bốc lên mùi tù hãm của thuốc lá rẻ tiền và bụi giấy, những mùi vị đặc trưng cho các phòng giấy của nước Áo cổ. Các trạm bưu điện đó dù có ở nơi nào cũng đều được thiết kế giống nhau: từ tấm vách ngăn bằng gỗ với những ô cửa sổ nhỏ lắp kính chia căn phòng theo một tỷ lệ nhất định, như muốn ngăn đôi thế giới thành hai khu vực - khu vực dành cho khách hàng và cho nhân viên phục vụ. Trong khu vực dành cho mọi người chẳng có lấy một chiếc ghế hoặc những đồ dùng cần thiết dành cho khách hàng, điều ấy đã nói lên một cách rõ ràng rằng chính phủ rất ít quan tâm đến sự có mặt trong giây lát của mọi công dân trong khu vực ấy. Đồ gỗ duy nhất ở đây thường chỉ có một chiếc bàn viết phủ vải sơn dựng hờ hững vào tường. Tấm vải sơn nứt nẻ, loang lổ vết mực dù chẳng ai nhớ nổi trong cái lọ mực được bắt chặt trên mặt bàn đã bao giờ có một thứ gì, ngoài một chất lỏng lổn nhổn như cháo. Còn nếu tình cờ cạnh đấy có một chiếc bút thì chắc chắn là ngòi bút bị tòe, không thể viết được. Cơ quan ngân khố quốc gia chẳng những chỉ tiết kiệm trong các tiện nghi mà ngay cả trong hình thức cũng vậy. Kể từ khi nước Cộng hòa ra lệnh bãi bỏ các bức chân dung của Franz Josef đến nay thì vật trang trí duy nhất ở những nơi công cộng là những tấm quảng cáo lòe loẹt dán đầy trên các bức tường không quét vôi bẩn thỉu, kêu gọi mọi người đến xem các phòng triển lãm đã đóng cửa từ lâu hoặc mua vé xổ số. Còn trong một vài văn phòng khác, ít được ai ngó tới, vẫn treo những tấm áp phích hô hào mọi người mua công trái chiến tranh, với những thứ trang trí rẻ tiền như vậy lại còn kèm theo một lời yêu cầu không được hút thuốc lá và hầu như chẳng ai thèm chấp hành, sự hào phóng của quốc gia trong các văn phòng bưu điện chỉ được giới hạn có từng ấy. Tuy nhiên, ngăn của nhân viên phục vụ trông có vẻ đáng kể hơn nhiều. Tại đây, với một quy mô thích hợp, chính phủ muốn phô trương sự hùng cường của mình dưới mọi hình thức. Ở góc phòng thường đặt một chiếc két sắt chống cháy mà dựa vào những chấn song lắp trên cửa sổ ta có thể đoán được trong chiếc két ấy đôi khi có chứa những khoản tiền lớn. Trên bàn làm việc ngự trị chiếc máy điện báo bằng đồng thau sáng loáng, trông như một vật trang sức quý giá. Cạnh đấy là chiếc máy điện thoại đang yên nghỉ trên cái giá đỡ mạ kền. Hai thứ dụng cụ trên được cố tình để riêng ra trong một vị trí trang trọng như vậy bởi lẽ chúng đã nối liền cái thôn hẻo lánh này với mọi miền của đất nước bằng những dây dẫn bằng đồng. Những dụng cụ vặt vãnh còn lại của ngành bưu điện đành phải chịu cảnh lép vế: những chiếc cân và những chiếc túi đựng thư, các bảng tra cứu, những chiếc cặp giấy nhét đầy sổ sách, cuốn sổ thống kê, chiếc hộp tròn đựng tiền trả cước phí đầy tiền xu hễ cứ động vào là kêu lẻng xẻng, những quả cân, những chiếc bút chì xanh, đỏ, đen và bút chì hóa học, những chiếc kẹp giấy, cuộn giấy buộc hàng, hộp đựng xi, miếng bọt biển thấm nước, cái bàn thấm, con dao rọc giấy, lọ keo cùng với những chiếc kéo - tất cả những dụng cụ khác nhau đó đành phải chen chúc lộn xộn nơi mép bàn. Còn trong các ngăn kéo thì nhét đầy mọi thứ giấy tờ đủ loại và những biểu mẫu. Thoạt nhìn, tất cả cái đống vật dụng ấy có vẻ như được sử dụng rất hoang phí, nhưng cảm giác ấy hoàn toàn sai lầm - Nhà nước thường xuyên kiểm tra rất nghiêm ngặt từng thứ vật dụng rẻ tiền mau hỏng đó. Từ mẩu bút chì cho đến con tem rách, từ tờ giấy thấm nhàu nát cho tới mẩu xà phòng ở chỗ rửa tay, từ chiếc bóng điện chiếu sáng văn phòng cho tới chìa khóa để khóa văn phòng lại - chính phủ yêu cầu các nhân viên phục vụ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả những tài sản quốc gia đó, cho dù chúng đã hỏng hay đang sử dụng. Bên cạnh chiếc lò sưởi bằng gang có treo một bảng đánh máy liệt kê tất cả mọi thứ vật dụng, bên dưới có đóng dấu hẳn hoi và một chữ ký loằng ngoằng. Với một sự chính xác của toán học, tất cả mọi thứ dụng cụ, kể cả những thứ rẻ tiền và không đáng kể của trang thiết bị đã được tính toán, cân nhắc để cung cấp cho từng trạm bưu điện tương ứng. Không một thứ vật dụng nào không có tên ở trong bảng lại có quyền tồn tại trong phòng làm việc, và ngược lại mỗi một dụng cụ có tên trong bảng phải luôn luôn có mặt trong phòng để bất cứ lúc nào cũng có thể sử dụng được. Chính quyền, luật lệ và thể chế đã quy định như vậy. Nghiêm khắc mà nói thì trong cái bảng liệt kê được đánh máy cẩn thận ấy cần phải ghi thêm một nhân vật nữa - đó là người nhân viên cứ sáng sáng vào đúng bảy giờ lại nhấc tấm kính ở vách ngăn ra rồi đưa toàn bộ cái thế giới vô tri vô giác ấy vào hoạt động. Người đó sẽ mở các bao thư, đóng dấu vào các bức thư, thanh toán các giấy chuyển tiền, viết hóa đơn, cân các bưu kiện, ghi chép và đánh những cái dấu bí hiểm không ai hiểu nổi lên giấy tờ bằng bút chì xanh đỏ, nhấc ống nghe lên và quay điện thoại. Nhưng có lẽ vì tế nhị mà người ta không đưa cái nhân vật vẫn thường được khách hàng gọi là nhân viên bưu điện ấy vào trong bảng liệt kê vật dụng nói trên. Tên họ của người đó đã được đăng kí trong một bộ phận khác của ban giám đốc bưu điện. Tuy nhiên cũng giống như những thứ vật dụng khác, người đó cũng nằm trong diện được kiểm tra thường xuyên. Trong căn phòng làm việc đáng tôn kính ấy hầu như không bao giờ xảy ra một sự thay đổi đáng kể nào. Những quy luật vĩnh cửu về cuộc sống và cái chết đành phải lùi bước khi đụng vào bức tường chắn của quốc gia. Xung quanh bưu điện, cây cối đâm chồi nảy lộc rồi trút lá, trẻ con lớn lên còn người già lại chết đi, những ngôi nhà cũ kỹ ọp ẹp đổ sập xuống và người ta lại xây những ngôi nhà mới, chỉ riêng cái công sở của nhà nước ấy là vẫn khoa trương sức mạnh không hề bị khuất phục bởi bất cứ điều gì. Bởi lẽ, trong cái môi trường ấy, mỗi một vật dù bị mòn hay bị mất, bị hỏng hay bị gãy, liền được các nhà chức trách yêu cầu phải thay thế ngay bằng một tiêu bản khác giống y như vậy. Chính điều đó đã chứng minh sự hơn hẳn của cơ quan nhà nước với thế giới bên ngoài đang tàn rữa. Nội dung chứa đựng bên trong có thể chỉ nhất thời nhưng hình thức thì không bao giờ thay đổi. Trên bức tường có treo một tấm lịch. Cứ mỗi ngày trôi qua, một tờ lịch lại được bóc đi. Sau một tuần mất bảy tờ, sau một tháng - ba mươi tờ. Vào ngày ba mươi mốt tháng mười hai, khi lốc lịch đã hết, người ta làm đơn xin cái mới, cũng với kích thước y như vậy, hình thức ấn loát y như vậy. Và thế là một năm mới đã bước sang nhưng tấm lịch thì vẫn như cũ. Trên bàn có một cuốn sổ kế toán với những hàng số chi chít. Khi những dãy số ở hàng bên trái vừa cộng xong, kết quả liền được đưa sang hàng bên phải và công việc tính toán lại tiếp tục, hết trang này đến trang khác. Khi trang cuối cùng được viết kín cuốn sổ cũng coi như hết, lại bắt đầu một cuốn mới, vẫn hình dạng y như thế, chiều dày y như thế, không khác chút nào so với cuốn trước. Còn tất cả mọi công việc đã kết thúc trong ngày hôm ấy thì hôm sau sẽ bắt đầu lại, tẻ nhạt, đơn điệu như chính bản thân công việc. Trên mặt bàn sẽ lại xuất hiện chính những đồ vật ấy, vẫn những tập biểu mẫu in sẵn với những cây bút chì, vẫn những chiếc kẹp giấy và những tờ phiếu ghi, lần nào công việc cũng có vẻ như mới nhưng thực ra vẫn như cũ. Không có chuyện gì thay đổi hoặc thêm vào trong cái thế giới do nhà nước quản lý này. Cuộc sống cứ thế lặp đi lặp lại, không chút sinh khí, nói cho đúng hơn là sự chết dần chết mòn ấy không bao giờ chấm dứt. Điều duy nhất khác nhau giữa những đồ vật là nhịp độ hao mòn và khả năng phục hồi của chúng, nhưng điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào bản thân đồ vật. Chiếc bút chì chỉ tồn tại trong một tuần và sau đó được thay bằng chiếc khác giống y như chiếc cũ. Cuốn sổ bưu điện sống được một tháng, chiếc bóng điện - ba tháng, còn tấm lịch thì một năm. Chiếc ghế mây được quy định phải dùng trong ba năm mới được thay thế còn người ngồi trên đó thì phải ngồi suốt đời - khoảng ba mươi đến ba lăm năm. Sau đó trên chiếc ghế ấy người ta sẽ bổ nhiệm một người khác, song chiếc ghế vẫn như cũ, chẳng khác gì chiếc trước. Vào năm 1926, trong trạm bưu điện Klein-Reifling nằm ở một làng nhỏ bình thường cạnh thành phố Krems và cách thủ đô Vienna khoảng hai giờ xe lửa, thứ vật dụng có thể thay thế được mà ta vẫn thường gọi là “nhân viên phục vụ” lại là một người phụ nữ. Và bởi lẽ trạm bưu điện này được xếp vào loại nhỏ, do đó người nhân viên cũng chỉ được mang tước vị “trợ lý ngành bưu điện”. Qua tấm kính của vách ngăn ta không thể nhìn rõ cô gái được, nhưng có thể thấy một khuôn mặt thiếu nữ nhìn nghiêng không có gì đặc biệt song rất dễ thương: cặp môi nhỏ, đôi má hơi nhợt nhạt, phía dưới cặp mắt có một quầng tối. Vào buổi chiều, khi cô gái bật ngọn điện sáng gắt lên, người tinh mắt có thể nhận thấy một vài nếp nhăn nhỏ trên trán và hai bên thái dương. Mặc dù vậy, bên cạnh cành miên quỳ lấp ló sau khung cửa sổ và bó hoa cơm cháy sáng nay cô vừa cắm trong chiếc lọ bằng sắt tây, cô gái vẫn là một đối tượng sinh động hơn cả giữa những vật dụng của trạm bưu điện Klein - Reifling. Và cũng dễ dàng nhận thấy cô gái ấy còn có thể tiếp tục công việc của mình ít nhất là hai mươi lăm năm nữa. Bàn tay nhỏ nhắn với những ngón tay trắng xanh kia sẽ còn phải nhấc lên đặt xuống hàng nghìn lần nữa cái tấm kính ngăn. Và hàng trăm nghìn lần nữa, mà cũng có thể là hàng triệu lần nữa, bằng những động tác máy móc, cô sẽ còn phải đặt những bức thư lên miếng đệm cao su, rồi cũng hàng nghìn lần nữa có thể hàng triệu lần nữa, đóng cái dấu bằng đồng nhem nhuốc lên những con tem. Có lẽ cái thao tác thành thạo của cánh tay cô gái sẽ ngày càng trở nên chính xác hơn, nhanh nhẹn hơn nhưng đồng thời cũng trở nên vô ý thức hơn. Hàng trăm nghìn bức thư nữa sẽ qua tay cô gái, tất nhiên những bức thư khác nhau nhưng chúng luôn luôn chỉ là những bức thư, và những con tem dẫu có khác nhau, nhưng dù sao thì đó cũng chỉ là những con tem. Những tháng ngày khác nhau sẽ trôi qua, nhưng ngày nào cũng bắt đầu từ tám giờ sáng, đến mười hai giờ trưa, từ hai giờ chiều đến sáu giờ tối, rồi năm tháng sẽ trôi qua, không chút hứng thú, không chút thay đổi vì vẫn chỉ là những công việc ấy, cứ lặp đi lặp lại mãi. Cũng có thể vào chính cái buổi trưa mùa hạ êm ả ấy, người thiếu nữ có mái tóc màu hung nhạt ngồi sau ô cửa kính đang nghĩ về tương lai của mình, mà cũng có thể nàng chỉ đang mơ mộng. Dù có thế nào thì cô gái vẫn ngồi đấy, hai cánh tay tuột khỏi mặt bàn nằm yên trên đầu gối, những ngón tay thon nhỏ, trắng xanh mệt mỏi đan vào nhau. Vào những buổi trưa tháng bảy oi nồng với bầu trời xanh nhạt như thế này, trong trạm bưu điện Klein - Reifling hầu như chẳng có việc gì làm. Công việc buổi sáng đã kết thúc, người đưa thư Hinterfellner, một người đàn ông gù lưng lúc nào cũng nhai thuốc lá đã chuyển xong những bức thư từ lâu. Từ giờ đến chiều tối sẽ chẳng có một cái công văn hoặc một mẫu hàng nào từ các nhà máy gửi đến nữa, còn người dân trong làng thì chẳng muốn hoặc chẳng có thời gian đâu mà viết thư. Những người nông dân đầu đội mũ rơm rộng vành đang vun gốc nho, đám trẻ con chân đất vẫn đang nghỉ hè thì dẫn nhau ra sông. Mảnh sân lát đá trước cửa vắng hoe bị ánh nắng mặt trời nung nóng. Giá bây giờ được ngồi ở nhà thì thật là tuyệt và cũng thật là tuyệt nếu được ngồi yên mà mơ mộng. Dưới bóng râm của cánh cửa chớp, những tờ biểu mẫu và những tấm bưu ảnh đang ngủ yên trên giá và trong hộp gỗ, chiếc máy điện báo uể oải lười biếng hắt ra ánh kim loại trong bóng tối nhờ nhờ vàng đục. Sự tĩnh lặng giống như một lớp bụi vàng dày đặc bao trùm lên tất cả mọi thứ dụng cụ trong phòng, chỉ còn lại dàn nhạc violon nhỏ xíu của đàn muỗi và của bầy ong đất là vẫn còn tiếp tục chương trình hòa nhạc buổi chiều của mình ngoài khung cửa. Vật duy nhất còn hoạt động trong căn phòng mát mẻ là quả lắc chiếc đồng hồ treo tường vỏ gỗ treo giữa hai khuôn cửa sổ. Mỗi một giây trôi qua, chiếc đồng hồ nuốt chửng một giọt thời gian. Tuy nhiên tiếng lắc đều đều yếu ớt của nó chỉ càng làm cho người ta dễ ngủ hơn là đánh thức người ta dậy. Cô gái trợ lý ngành bưu điện vẫn ngồi yên trong cái thế giới nhỏ bé của mình và uể oải thiếp đi với một cảm giác dễ chịu. Đúng ra mà nói, cô cũng định tranh thủ thêu thùa một chút. Cô đã chuẩn bị sẵn kim chỉ và một chiếc kéo nhỏ, nhưng tấm vải thêu tuột khỏi đầu gối rơi xuống đất, nhặt nó lên thì cô không đủ sức và cũng chẳng có ý định ấy. Ngửa người ra thành ghế, cô gái nhắm mắt lại thở nhè nhẹ, hoàn toàn đắm chìm trong cảm giác khoan khoái, dễ chịu vì được nghỉ ngơi. Những giây phút như vậy thật hiếm trong đời nàng. Chú thích [1] Franz Josef (1830 - 1916): hoàng đế Đế quốc Áo - Hung từ năm 1848 tới năm 1916. KHÁT VỌNG ĐỔI ĐỜI Stefan Zweig www.dtv-ebook.com Chương 2 Thế rồi bỗng nhiên: tạch - tạch! Nàng giật mình bừng dậy. Những chiếc gõ kim loại nghe vội vã, dứt khoát: tạch - tạch. Cái thiết bị của Morse vẫn bướng bỉnh gõ đều đều, nhanh hơn cả tiếng quả lắc đồng hồ. Cái bức điện ấy, vị khách hiếm hoi của Klein-Reifling muốn người ta phải đón tiếp mình một cách kính cẩn. Ngay lập tức cô gái bừng tỉnh, bước vội đến chiếc bàn để máy và đỡ lấy băng giấy. Nhưng vừa dịch xong hàng chữ đầu tiên, nàng đỏ bừng mặt đến tận chân tóc. Bởi lẽ từ trước đến nay, kể từ khi bắt đầu làm việc ở đây, lần đầu tiên nàng nhìn thấy tên mình trên băng giấy. Bức điện đã chuyển xong, nàng đọc lại lần thứ hai rồi lần thứ ba, nhưng hoàn toàn không hiểu một chút gì. Tại sao lại thế nhỉ? Có chuyện gì vậy? Người nào đã nghĩ ra chuyện đánh điện cho nàng từ thành phố Pontresina. “Christine Hoflehner, Klein-Reifling, nước Áo. Chúng tôi rất vui mừng đợi cô. Hãy đến vào bất cứ ngày nào. Báo trước cho biết ngày có mặt. Hôn cô Claire-Anthony.” Nàng đăm chiêu suy nghĩ: không biết người mang tên Anthony ấy là ai, đàn ông hay đàn bà? Hay có thể một người bạn đồng nghiệp nào đó đã nghĩ ra chuyện này để đùa nàng? Nhưng rồi nàng bỗng nhớ lại, cách đây không lâu, mẹ nàng có nói rằng vào mùa hè này, dì nàng, đúng rồi bà dì ấy tên là Klara, sẽ sang châu Âu. Như vậy thì Anthony có lẽ là tên chồng dì, mẹ vẫn thường gọi ông ấy là Anton. Đúng, bây giờ thì nàng nhớ ra cách đây không lâu chính nàng đã mang về cho mẹ một bức thư từ thành phố Cherbourg, tuy nhiên không hiểu tại sao mẹ lại giấu không nói cho nàng biết nội dung bức thư ấy. Nhưng bức điện này lại gửi cho nàng cơ mà. Chẳng lẽ chính nàng sẽ đi Pontresina? Đã có ai nói gì về chuyện ấy đâu. Nàng lại nhìn vào cái băng giấy, nhìn vào bức điện đầu tiên nàng nhận được ở đây một lần nữa, đọc lại nó với một sự ngỡ ngàng xen lẫn tò mò, nghi hoặc, hoàn toàn không hiểu tí nào về những gì viết trong đó. Không, nàng không thể chờ đến giờ nghỉ trưa được. Cần phải hỏi mẹ xem tất cả những chuyện này nghĩa là thế nào?” Christine cầm chìa khóa, đóng cửa văn phòng lại và chạy về nhà. Trong lúc vội vã, nàng quên tắt chiếc máy điện báo, và thế là trong căn phòng vắng ngắt chiếc phím nhỏ bằng đồng thau vẫn cứ gõ mãi một cách bực bội lên băng giấy trắng. Dòng điện chuyển động nhanh hơn ý nghĩ. Giống như một tia chớp trắng, ba mươi mốt từ vừa rồi đã lao vào căn phòng tù hãm nửa tỉnh, nửa mê của trạm bưu điện nước Áo, chỉ mới được viết ra trước đó vài phút. Nó đã kịp băng qua ba quốc gia để đến đây. Bức điện xuất phát từ một miền đất có những con sông băng lạnh lẽo màu xanh nhạt, dưới bầu trời thiên thanh trong suốt của thành phố Engadine. Và khi những dòng chữ của người gửi trên bưu điện còn chưa kịp khô thì ý nghĩa của chúng đã kịp làm cho một trái tim phải bối rối. Sự việc đã xảy ra như sau: Ngài Anthony van Boolen vốn là một người Hà Lan làm nghề môi giới (nhiều năm trước ông đã sang miền Nam Hoa Kỳ với nghề kinh doanh bông vải), một người đàn ông tốt bụng nhưng lạnh nhạt và hoàn toàn không có gì đặc biệt vừa mới dùng xong bữa sáng trong phòng ăn trên sân thượng lắp kính sáng sủa của khách sạn Palace. Bây giờ cần phải kết thúc bữa sáng bằng một điếu xì gà Habana hảo hạng màu nâu sẫm được chở thẳng tới đây từ nơi chế tạo, trong những lớp giấy bọc mà ngay đến không khí cũng không lọt qua được. Khi vừa rít xong hơi đầu tiên, hơi thuốc ngon nhất đối với dân nghiện, con người phì nộn ấy liền gác chân lên chiếc ghế mây bên cạnh rồi giở tờ báo New York Herald to như cánh buồm ra và bắt đầu bơi trong cái biển thị trường chứng khoán. Vợ ngài, bà Claire - trước kia vẫn thường được gọi là Klara, với vẻ mặt buồn chán đang ngồi trước mặt ngài bóc từng múi bưởi. Theo kinh nghiệm tích lũy từ nhiều năm nay, bà Claire hiểu rằng mọi cuộc nói chuyện không thể nào làm sao nhãng việc đọc báo buổi sáng của chồng. Nhưng vừa lúc ấy cô nhân viên phục vụ khách sạn, một cô gái mặc áo hồng, đội mũ nâu, khá ngộ nghĩnh, bất ngờ xuất hiện và trao cho bà bưu phẩm vừa mới nhận được. Trên chiếc khay chỉ có mỗi bức thư. Rõ ràng là nội dung của bức thư đã làm cho bà Claire rất quan tâm vì vậy bà quên mất cái kinh nghiệm đã tích lũy được, định cố lôi chồng ra khỏi tờ báo. - Anthony, mình nghe này, - bà nói trong lúc tờ báo vẫn không động đậy - Anthony, tôi không muốn làm phiền mình đâu, chỉ xin mình một phút thôi vì có việc này quan trọng lắm. Có thư của chị Mary - bà vô tình gọi tên người chị gái bằng tiếng Anh. - Mary viết rằng chị ấy không thể đến được mặc dù rất muốn. Chị ấy bị đau tim rất nặng. Bác sĩ bảo chị ấy không chịu nổi khi sống ở độ cao trên hai nghìn mét. Nhưng nếu chúng ta không phản đối, chị ấy sẽ cho Christine đến chơi với chúng ta khoảng hai tuần lễ. Mình cũng biết đấy, Christine là con gái út của Mary, cô bé tóc sáng ấy mà. Mình đã nhìn thấy ảnh của nó từ dạo trước chiến tranh. Christine làm việc ở văn phòng dịch vụ và chưa lần nào nghỉ phép, nếu xin nghỉ người ta có thể đồng ý ngay. Tất nhiên là con bé sẽ rất sung sướng vì suốt nhiêu năm nay nó vẫn “kính trọng dì và dượng Anthony quý mến”… bà Claire còn nói một thôi một hồi nữa. Tờ báo vẫn không động đậy. Bà Claire sốt sắng: - Mình nghĩ thế nào, có mời con bé ấy không?… Cho nó hít tí không khí trong lành cũng chẳng hại gì. Dẫu sao thì tôi cũng đã đến đây cho nên cũng cần phải gặp mặt con gái Mary, quan hệ họ hàng từ lâu đã bị gián đoạn rồi. Mình không phản đối chứ, nếu như tôi mời cô bé ấy? Tờ báo hơi động đậy một chút. Đầu tiên, một vòng khói tròn màu xanh nhạt bay ra khỏi mép từ báo sau đó là một giọng nói ề à, dửng dưng: - Tôi không phản đối. Có gì mà phản đối cơ chứ![2] Bằng một câu trả lời ngắn ngọn như vậy, cuộc nói chuyện kết thúc sau khi đã quyết định trước một bước ngoặt quan trọng cuộc đời của một người nào đó. Thế là sau mười năm, quan hệ ruột thịt đã được nối lại, bởi lẽ, mặc dù bà Claire van Boolen mang một cái họ quý tộc thì chữ “van” trong tên bà cũng chỉ là một tiếp đầu ngữ Hà Lan thông thường mà thôi, và cho dù hai vợ chồng bà có nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh, bà cũng chẳng vì thế trở thành một người khác mà vẫn là em ruột của Marie Hoflehner, có nghĩa là dì ruột của cô nhân viên trạm bưu điện Klein-Reifling. Bà Claire van Boolen đã rời bỏ nước Áo hơn hai mươi lăm năm về trước vì một lý do mờ ám nào đó. Sự việc ấy bà chỉ còn nhớ mang máng - trí nhớ của chúng ta quả là rộng lượng - và người chị gái của bà cũng chẳng bao giờ kể cho các con của mình biết về chuyện ấy. Tuy nhiên vào những năm đó, câu chuyện đã gây biết bao tai tiếng và chắc chắn sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng nếu như những người thông minh và tháo vát không kịp thời dẹp ngay cái nguyên cớ đã khơi nên sự chú ý của mọi người. Cũng vào những năm ấy, bà Claire van Boolen mà chúng ta đang nhắc đến chỉ là một cô gái bình thường mang tên Klara và làm người mẫu trong một tiệm quần áo ở Kohlmarkt. Chính cô gái có thân hình uyển chuyển và cặp mắt sắc sảo ấy đã gây được ấn tượng mạnh mẽ với một nhà buôn gỗ đã có tuổi, trong lần ông đưa vợ đến để thử quần áo. Với tất cả nỗi tuyệt vọng của ngọn lửa tình bỗng bừng lên trước khi tàn lụi, nhà buôn giàu có, vẫn còn đương sung sức, đã yêu mê mẩn cô gái trẻ có mái tóc vàng rực. Ông đã tán tỉnh nàng với một sự hào phóng đáng ngạc nhiên ngay với cả những người trong tầng lớp của mình. Thế là sau đó không lâu, bất chấp mọi sự phản đối của những người họ hàng đứng đắn, cô gái làm mẫu mười chín tuổi đã đồng ý dạo chơi trong chiếc xe Fiat sang trọng với những đồ trang sức và quần áo len dạ đắt tiền. Những thứ ấy trước kia cô chỉ được mặc mỗi khi đứng trước gương và trước những người khách hàng cầu kỳ, xét nét. Càng trở nên kiều diễm bao nhiêu, cô gái lại càng làm cho người bảo trợ có tuổi của mình say đắm bấy nhiêu và điều đó lại càng làm cho công việc buôn bán của ông trở nên phát đạt, do vậy ông lại càng tỏ ra hào phóng hơn. Cuối cùng ông đã gần như phát rồ lên vì tình yêu sét đánh ấy. Chỉ sau vài tuần cô đã làm cho người bảo trợ của mình mê mẩn đến nỗi theo yêu cầu của ông, người luật sư riêng đã bí mật chuẩn bị mọi thủ tục cần thiết để ông ly dị vợ, và cô gái được ông tôn thờ kia chỉ một chút nữa là trở thành người đàn bà giàu nhất thành Vienna. Nhưng chính lúc ấy, vợ ông đã làm một việc thô bạo và ngu ngốc hòng ngăn cản đôi tình nhân, sau khi nhận được một bức thư nặc danh. Thật cay đắng và bất công vì sau ba mươi năm chung sống yên ổn bỗng nhiên người ta lại muốn gạt bà ra như gạt một con ngựa già. Điều ấy đã làm cho bà phát điên lên. Bà liền sắm một khẩu súng ngắn và nhảy bổ vào văn phòng bí mật của đôi tình nhân không tương xứng lúc họ đang ân ái. Chẳng cần phải mào đầu này nọ, người vợ bị chọc tức liền nổ ngay hai phát súng vào kẻ đã phá hoại hạnh phúc của mình, một viên bị trượt còn viên kia trúng ngay vào vai. Thực ra vết thương cũng chẳng có gì nguy hiểm nhưng sự việc tiếp theo lại chẳng dễ chịu chút nào: láng giềng đổ xô đến, những tiếng kêu cứu la hét vọng ra từ chiếc cửa sổ bị vỡ kính, cửa kính bị phá ra, người này người kia ngã lăn bất tỉnh, rồi cảnh cãi vã ầm ĩ, bác sĩ xuất hiện, cảnh sát đến lập biên bản về sự việc đã xảy ra. Còn trước mắt, chắc chắn sẽ phải ra tòa. Đúng là một vụ xì căng đan mà những người tham dự ai nấy đều khiếp sợ. Tuy nhiên thật may mắn vì tất cả những kẻ giàu có, chẳng riêng gì ở Vienna mà ở khắp mọi nơi, đều có những luật sư tháo vát có khả năng lấp liếm được các vụ tai tiếng. Và một bậc thầy giàu kinh nghiệm như thế đã xuất hiện, đó là ông cố vấn tư pháp Karplus. Ông ta, theo như người ta vẫn thường nói, đã cố gắng tìm ra một thứ thuốc giải độc. Ông cố vấn tư pháp nhã nhặn mời Klara đến văn phòng của mình. Cô gái xuất hiện trong bộ trang phục trang nhã, cánh tay được băng lại một cách cầu kỳ, tò mò đọc bản giao kèo trong đó có ghi rõ cô phải sang châu Mỹ trước khi bị tòa gọi đến. Ở đó, ngoài khoản đền bù một lần vì sự thiệt hại, cô còn được một khoản trợ cấp nhất định: trong thời gian năm năm liền, chỉ với điều kiện cô phải sống thật yên lặng. Số tiền này cô sẽ được nhận vào ngày mùng một hằng tháng thông qua người luật sư. Sau vụ tai tiếng nói trên cho dù không có khoản trợ cấp ấy thì Klara cũng chẳng muốn tiếp tục làm người mẫu ở thành Vienna nữa, thêm vào đó cô còn bị bố mẹ đuổi ra khỏi nhà. Klara thản nhiên đọc cho hết bốn trang trong bản giao kèo, nhanh chóng tính toán tổng số tiền mình sẽ được cấp và nhận ra rằng số tiền ấy chẳng phải là ít. Cô thử đòi thêm một ngàn gulden[3] nữa và yêu cầu này cũng được chấp nhận. Klara mỉm cười ký ngay vào bản giao kèo, rồi ngay sau đó lên đường vượt đại dương, không chút ân hận gì về quyết định của mình. Ngay trên đường đi cô đã nhận được không ít những lời cầu hôn, nhưng cuối cùng cô quyết định chọn thành phố New York sau khi làm quen với chàng thanh niên van Boolen trong một quán trọ. Vào thời gian ấy van Boolen chỉ là một nhân viên thương mại bình thường của một hãng buôn Hà Lan, nhưng anh ta đã tính rằng với số vốn của vợ - một cô gái có quá khứ lãng mạn mà anh ta không chút nghi ngờ - anh sẽ làm nên sự nghiệp ở miền Nam nước Mỹ. Sau ba năm họ sinh được hai đứa con, còn sau năm năm đã tậu được một ngôi nhà và sau mười năm đã có một số vốn đáng kể. Cuộc chiến tranh khiến châu Âu tàn lụi lại giúp những kẻ ở nơi khác phất lên như diều gặp gió. Giờ đây khi những đứa con của họ đã trưởng thành và có khả năng tiếp tục sự nghiệp của bố, bậc cha mẹ đã luống tuổi có thể cho phép mình làm một cuộc du lịch thoải mái sang châu Âu. Và thật lạ lùng, khi bờ biển Cherbourg vừa ló ra khỏi màn sương mù, bà Claire bỗng cảm thấy trong lòng mình dâng lên tình cảm quê hương từ lâu bị quên lãng. Đã lâu rồi, từ trong thâm tâm bà vẫn tự cho mình là một người đàn bà Mỹ, nhưng khi vừa nhận ra dải đất kia chính là châu Âu, bà cảm thấy một nỗi buồn da diết về cái thời thanh nữ của mình. Tối đến bà nằm mơ thấy chiếc giường nhỏ có những chấn song mà hồi trước bà đã từng ngủ trên đó với chị mình. Bà nhớ lại hàng nghìn chi tiết nữa và cảm thấy xấu hổ vì suốt từng ấy năm chưa hề viết một dòng nào cho chị gái góa bụa. Ý nghĩ về người chị không phút nào cho bà được yên và ngay sau khi vừa đặt chân lên đất liền, bà liền gửi một bức thư mời người chị đến chơi. Trong lá thư ấy bà còn gửi theo tờ bạc một trăm đô la. Chú thích [2] Nguyên văn bằng tiếng Anh: Not at all. Why should I? [3] Gulden - Đơn vị tiền tệ của Áo. KHÁT VỌNG ĐỔI ĐỜI Stefan Zweig www.dtv-ebook.com Chương 3 Còn bây giờ, trong giây phút khi mà bà van Boolen đã hiểu ra rằng thay vì phải mời người mẹ bà sẽ mời người con, bà liền vẫy nhẹ mấy ngón tay và ngay lập tức người bồi mặc bộ đồng phục nâu, đội mũ tròn vội lao đến như một hòn đạn. Anh ta nhanh chóng hiểu ngay bà cần gì, liền mang đến cho bà một tờ giấy mẫu điện tín, rồi sau khi bà viết xong anh ta mang ngay ra bưu điện. Vậy là chỉ vài phút sau đó những dấu chấm và gạch được phát đi từ chiếc máy điện báo Morse đã vọt lên mái nhà, và như một tia chớp phóng theo những sợi dây điện bằng đồng dài hàng nghìn kilômét nhanh hơn bất cứ một chuyến tàu nào, bất cứ một chiếc ô tô nào. Trong chớp mắt bức điện đã vượt qua biên giới, một cái chớp mắt nữa đã vượt qua hàng ngàn mái nhà nóc nhọn của thành phố Vorarlberg, vượt qua đất nước Liechtenstein nhỏ bé, vượt qua những thung lũng bị cắt ngang dọc của vùng Tyrol. Những hàng chữ ấy biến thành một tia lửa nhỏ lao thẳng từ những đỉnh núi băng giá xuống thung lũng Danube tiến vào thành phố Linz và có mặt ở tổng đài. Tại đây, sau khi nghỉ ngơi vài giây, bởi lẽ chỉ có chạy thật nhanh mới xứng đáng với chữ “điện khẩn”, bức điện nhanh chóng rời khỏi dây dẫn trên nóc trạm bưu điện Klein-Reifling để nhập ngay vào chiếc máy thu điện báo. Và thế là sau khi thở phào nhẹ nhõm nó liền tác động ngay vào trái tim của một cô gái, làm cho cô vừa ngạc nhiên vừa tò mò, bối rối. o O o Sau khi rẽ vào góc phố, rồi bước lên chiếc cầu thang bằng gỗ ọp ẹp, tối tăm, Christine bước lên căn gác áp mái trong một ngôi nhà tồi tàn. Tại đây, trong căn phòng với những ô cửa sổ nhỏ xíu Christine cùng sống với mẹ. Chiếc mái che rộng trước mặt tiền căn nhà, dùng để che tuyết vào mùa đông và che nắng lúc ban ngày chỉ cho phép những tia nắng chiếu yếu ớt lọt tới chỗ chậu thiên trúc quỳ đặt trên bệ cửa sổ. Chính vì vậy trong căn gác áp mái không khí lúc nào cũng tù túng và ẩm ướt, bốc lên mùi gỗ mục và mùi vải trải giường chưa khô hẳn. Những mùi vị lưu cữu ấy ngấm vào tường như nấm bám vào thân cây. Có lẽ căn gác áp mái này trước kia dùng làm nơi chứa những đồ linh tinh. Nhưng vào những năm sau chiến tranh; với những khó khăn về nhà ở, nhu cầu của con người cũng trở nên khiêm tốn hơn. Họ sẽ rất biết ơn số phận nếu như chiếm được một căn phòng chỉ cần kê được hai chiếc giường cùng với chiếc ghế bành là vật thừa tự cũng đã chiếm rất nhiều chỗ trong căn phòng vì vậy hai mẹ con phải bán rẻ cho đồng nát và bây giờ họ rất lấy làm tiếc vì chuyện ấy. Mỗi khi đôi chân của bà Hoflehner phù lên, bà chẳng biết ngồi vào đâu, đành phải nằm trên giường cả ngày. Đôi chân phù thũng sưng vù lên như hai khúc gỗ với những mạch máu xanh thẫm của người đàn bà mệt mỏi và già trước tuổi kia, chính là hậu quả của hai năm làm thợ giặt ở trạm quân y, trong tầng trệt của một tòa nhà lúc nào cũng ẩm ướt. Từ khi việc đi lại đối với người đàn bà mập mạp trở thành một cực hình thì bà hầu như không đi lại gì nữa mà chỉ dịch chuyển chầm chậm từ chỗ này đến chỗ khác với những cơn ngạt thở và nếu có hơi gắng sức một chút hoặc xúc động vì một chuyện gì đó, bà phải vội vàng ôm chặt lấy ngực. Bà hiểu rằng mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Nhưng thật may mắn vì trong tình trạng hỗn loạn sau khi nhà nước quan chủ bị lật đổ, người anh chồng của bà, một người có tước vị trong chính phủ đã giúp cho Christine kiếm được một chỗ làm trong trạm bưu điện. Cho dù phải sống ở một nơi hẻo lánh, tiền lương cũng chẳng được mấy đồng, nhưng dù sao cũng tạm xoay xở được, ít ra cũng có một mái nhà che đầu và một căn phòng để đi về. Tất nhiên căn phòng kể cũng có chật chội, nhưng sớm muộn gì lại chẳng phải chui vào áo quan, mà ở đó lại càng chật hơn nữa. Căn phòng lúc nào cũng thoảng mùi dấm chua, mùi ẩm ướt, mùi bệnh tật, mùi nhà thương. Cánh cửa nhỏ thông với nhà bếp không thể nào đóng kín được vì vậy căn phòng lại có thêm mùi khói bếp và mùi thức ăn. Khi vừa bước vào phòng, Christine phải mở ngay chiếc cửa sổ vẫn đóng im ỉm. Nghe tiếng động, mẹ nàng rên rẩm thức dậy. Bà không thể làm khác được, cứ mỗi lần cựa mình bao giờ bà cũng phải rên lên mấy tiếng. Cũng giống như cánh cửa tủ, chỉ vừa chạm tay vào nó đã rít lên khe khẽ, cái thân xác bị bệnh tê thấp của bà cũng vậy, trước khi nhúc nhích bao giờ nó cũng phải báo trước. Sau đó người đàn bà yếu đuối nhổm dậy hỏi: - Có chuyện gì thế con? Ý thức mơ màng của bà đã biến mất khi bà nhận ra rằng bây giờ chưa đến giờ ăn trưa, chưa phải lúc được ngồi vào bàn. Có nghĩa là đã xảy ra một chuyện gì đó. Người con gái trao cho bà bức điện. Bằng bàn tay gầy guộc, bà chậm rãi (bởi lẽ mỗi một cử động đều gây nên sự đau đớn) lần tìm chiếc kính trên mặt cái tủ nhỏ cạnh giường. Mãi một lúc lâu bà mới tìm thấy chiếc kính gọng bằng kim loại rồi đeo lên mũi[4]. Trong khi người đàn bà già yếu đọc bức điện, tấm thân nặng nề của bà bỗng giật lên như bị điện giật. Bà khó nhọc lê từng bước, miệng thở dốc tiến về phía Christine và rơi cả tấm thân nặng nề vào lòng nàng. Bà xúc động ôm chầm lấy cô con gái đang hoảng sợ. Bà mỉm cười, định nói một câu gì đó nhưng toàn thân cứ run lên không sao mở miệng được. Cuối cùng, bà mệt lả, hai tay ôm lấy ngực rồi vật xuống ghế. Bà ngồi lặng đi trong một phút, cố thở bằng cái miệng đã rụng hết răng. Sau đó bà mấp máy đôi môi run rẩy, lắp bắp những câu rời rạc, đứt quãng, lộn xộn, và trên khuôn mặt bà xuất hiện một nụ cười mãn nguyện, nhưng vì quá xúc động bà lại càng ngắc ngứ tợn, trong lúc hai bàn tay vung lên để ra hiệu và trên đôi má nhăn nheo những giọt nước mắt tuôn chảy lặng lẽ. Cái dòng thác từ ngữ lộn xộn của mẹ làm cho Christine hoảng hốt. Ơn chúa, mọi việc đã đâu vào đấy và giờ đây người đàn bà già yếu và vô dụng này đã có thể yên tâm nhắm mắt xuôi tay. Chính vì điều đó mà vào tháng sáu vừa qua bà đã làm một cuộc hành hương đến những nơi tôn kính để cầu nguyện cho Klara, người em gái của bà, hãy đến trước khi bà qua đời để bà có thể trao gửi con gái mình cho cô ấy. Bây giờ thì bà hài lòng lắm rồi. Đấy, trên bức điện đã ghi rõ cho phép Christine đến khách sạn thăm họ, họ phải tốn tiền đánh điện, còn hai tuần trước đó lại gửi cho bà một trăm đô la nữa. Klara quả là có một tấm lòng vàng, cô ấy lúc nào cũng tốt bụng và đáng yêu như vậy. Có lẽ một trăm đô la kia không những đủ để chi tiêu dọc đường mà còn có thể sắm sửa, ăn mặc như một công tước phu nhân, trước khi con gái bà xuất hiện trước mặt họ trong một nhà nghỉ sang trọng. Ở đó con gái bà sẽ được mở rộng tầm mắt, sẽ được thấy những con người học thức và giàu có sống ra sao. Ít nhất thì đây cũng là lần đầu tiên con gái bà sẽ được sống như mọi người. Quả đúng trời có mắt, nó cũng xứng đáng được hưởng như vậy. Từ trước đến giờ nào nó đã nhìn thấy gì trong cuộc đời - hoàn toàn không có gì hết, chỉ có công việc, công việc, cùng với mọi nỗi lo toan vất vả, cộng thêm vào đấy lại còn một người mẹ già nua, ốm yếu, chẳng làm được việc gì, đáng lý ra phải xuống lỗ từ lâu rồi mới phải. Cũng chỉ vì bà và vì cuộc chiến tranh khốn kiếp vừa qua mà toàn bộ thời thiếu nữ của Christine đã bị hủy hoại. Chỉ nghĩ tới điều ấy, nghĩ tới những năm tháng đẹp nhất của con gái đã trôi qua một cách buồn thảm cũng đủ làm cho bà đau xót tâm can. Nhưng bây giờ thì nó đã tìm thấy hạnh phúc của mình. Chỉ cần nó cư xử lễ độ với dì dượng, lúc nào cũng phải lễ phép, khiêm tốn, nhưng đừng có quá rụt rè, e ngại. Klara có tấm lòng vàng, có trái tim nhân hậu, nhất định cô ấy sẽ giúp cho cháu ruột của mình thoát khỏi cái nơi khỉ ho cò gáy này, thoát khỏi cái làng hôi thối này, còn bà, một mụ già còm cõi sớm muộn gì chẳng chết. Và nếu giờ đây cô nó đã mời đến chơi thì nhất định nó sẽ đi. Còn ở đây, trên đất nước đang thối rữa này nó còn điều gì tốt lành nữa đâu, dân chúng thì đần độn, mà bà, một mụ già ốm yếu thì có gì đáng phải bận tâm nữa. Lúc nào mà chẳng tìm được một chỗ bên cạnh Chúa và liệu bà còn sống được bao lâu nữa?… Ôi, giờ thì bà có thể yên tâm nhắm mắt được rồi khi mà mọi việc đã đâu vào đấy. Trong chiếc áo cánh và chiếc váy lót lại trùm thêm chiếc khăn san, người đàn bà già yếu, còm cõi loạng choạng lê đôi chân sưng vù như chân voi đi đi, lại lại trong phòng làm cho những tấm ván sàn kêu cọt kẹt. Bà liên tục vung hai cánh tay làm điệu bộ, chốc chốc lại nức nở lấy chiếc khăn mùi soa màu đỏ to tướng lau mắt. Sau đó vì quá xúc động bà đành ngồi xuống ghế nghỉ một lát, hỉ mũi xụt xịt để lấy sức cho những cuộc đối thoại tiếp theo. Và vì trong óc bà một ý nghĩ nào đó vừa mới xuất hiện, thế là bà lại tiếp tục nói, tiếp tục thổn thức, tiếp tục rên rỉ, sung sướng vì sự may mắn bất ngờ. Đột nhiên, trong một phút nghỉ lấy sức, bà bỗng nhận ra rằng đáng lý Christine cũng phải xúc động như bà thì lại đứng lặng đi với vẻ mặt tái nhợt, bối rối, cặp mắt chỉ biểu lộ nỗi ngạc nhiên, lúng túng, chẳng hề nói một câu nào. Người đàn bà già yếu cảm thấy bực mình. Thu hết sức lực còn lại, bà cố đứng lên lần nữa, bước đến chỗ con gái và ôm lấy vai cô, kéo sát vào lòng, hôn cô bằng những cái hôn nồng nàn như muốn đánh thức cô dậy, kéo cô ra khỏi trạng thái đờ đẫn. - Sao con cứ im lặng thế? Việc này chẳng liên quan đến con thì liên quan đến ai, con làm sao thế, con bé ngốc nghếch của mẹ? Con cứ đứng ngây ra như phỗng mà chẳng nói gì cả. Đây là một dịp may hiếm có đấy con ạ. Con phải vui mừng mới phải. Sao con lại không mừng? Điều lệ nghiêm khắc cấm nhân viên bưu điện trong khi đang làm việc tự ý rời khỏi văn phòng trong một thời gian dài, cho dù người đó có những lý do hoàn toàn xác đáng thì điều ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì trước pháp luật nhà nước: trước hết phải là công việc rồi sau mới đến con người, trước hết phải có những chữ cái rồi sau đó mới có ý nghĩa của những chữ cái ấy. Chính vì vậy mà sau một lát rời khỏi bưu điện, cô nhân viên trạm Klein-Reifling lại có mặt ở phòng làm việc, bên chiếc bàn cạnh cửa sổ, tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong khoảng thời gian vắng mặt, không có ai hỏi nàng. Vẫn như mười lăm phút trước đó, giấy tờ vẫn nằm yên trên bàn, sau một lúc bị đánh thức dậy chiếc máy điện báo bằng đồng thau sáng loáng lại nằm yên ngủ trong bóng tối mờ mờ. Thật là may vì trong lúc nàng vắng mặt không có ai ghé vào bưu điện, không có điều gì đáng tiếc xảy ra. Với lương tâm thanh thản, giờ đây nàng có thể bình tĩnh suy nghĩ về cái tin bất ngờ vừa mới bay đến theo những dây dẫn bằng đồng, bởi lẽ trong lúc bối rối Christine chưa kịp hiểu nổi cái tin ấy có đáng mừng hay không. Ý nghĩ của nàng dần dần được sắp xếp lại. Vậy là lần đầu tiên nàng phải rời mẹ để làm một chuyến đi xa trong hai tuần lễ, mà cũng có thể sẽ lâu hơn, đến với những con người xa lạ, không, không phải là xa lạ mà đến với dì Klara, em ruột của mẹ, trong một khách sạn sang trọng. Cần phải xin nghỉ phép - một kỳ nghỉ xứng đáng vì trong suốt từng ấy năm cũng cần phải nghỉ một lần cho ra hồn, để ngắm nhìn thế giới, tận mắt nhìn thấy những điều mới lạ, nhìn thấy một cuộc sống khác với cuộc sống của nàng. Christine nghĩ mãi, nghĩ mãi. Quả thật đó là một cái tin vui và mẹ hoàn toàn có lý để vui mừng, hoàn toàn có lý. Công bằng mà nói đây là cái tin vui nhất mà họ nhận được trong suốt những năm dài đằng đẵng. Lần đầu tiên được rời bỏ những công việc tẻ ngắt, được tự do hoàn toàn và quên hết mọi chuyện, được nhìn thấy những khuôn mặt mới, thế giới mới, chẳng phải đó là món quà đặc biệt bỗng dưng từ trên trời rơi xuống? Nhưng ngay lúc ấy bên tai nàng lại vang lên giọng nói ngạc nhiên, sợ hãi có pha chút tức giận của mẹ: “Tại sao con lại không vui mừng?” Chú thích [4] Loại kính cổ không có gọng để đeo vào tai mà chỉ gài trên sống mũi. KHÁT VỌNG ĐỔI ĐỜI Stefan Zweig www.dtv-ebook.com Chương 4 Mẹ nói đúng, tại sao mình lại không vui nhỉ? Tại sao lòng mình lại không mảy may xúc động, tại sao điều đó lại không làm cho mình choáng ngợp? Nàng cố lý giải những tình cảm của mình, cố lắng nghe một tiếng nói khác trong lòng, nhưng hoàn toàn không nhận được câu trả lời mong muốn. Vẫn như trước, món tặng vật bỗng dưng từ trên trời rơi xuống chỉ gây cho nàng một sự bối rối và lo ngại không sao hiểu nổi. Thật lạ, nàng nghĩ, tại sao mình lại không vui nhỉ? Đã hàng trăm lần mình lôi từ trong bao thư ra những tấm bưu ảnh phong cảnh để phân loại, mình đã ngắm mãi không chán những bờ vịnh kỳ diệu ở Na Uy, những đại lộ rộng lớn của Paris, các vũng tàu ở Sorrento, những tòa nhà chọc trời bằng đá ở New York, chẳng phải những lần ấy mình vẫn thường thở dài khao khát hay sao? Biết đến bao giờ, đến bao giờ mình mới được nhìn thấy một điều gì đó khả dĩ thú vị. Trong những phút giây rảnh rỗi lúc sáng sớm mình đã từng mong ước cái gì ngoài nỗi khát khao đến một lúc nào đó sẽ thoát ra khỏi cái lồng khốn khổ này để quên hết những công việc vô vị hàng ngày. Đó quả là một cuộc đọ sức tuyệt vọng với thời gian. Mình mong ước giá có lúc nào đó được nghỉ ngơi một chút, được hoàn toàn sử dụng thời gian của mình theo ý muốn chứ không phải chỉ tranh thủ mỗi lúc một tí. Giá đến một lúc nào đó mình không phải nghe cái tiếng chuông đồng hồ báo thức sáng nào cũng réo bên tai. Cái đồng hồ ấy đúng là một con quái vật, luôn luôn rượt theo mình, bắt mình phải bật dậy, vội vã mặc quần áo, nhóm lò, mua sữa, mua bánh mì, hâm lại thức ăn, sau đó lại lôi mình đến chỗ làm việc, còn mình, cứ như một chiếc máy đã lên dây cót, liên tục đóng những con dấu lên phong bì rồi viết, rồi gọi điện thoại sau đó lại quay về nhà, luẩn quẩn bên tấm ván là quần áo, bên cái bếp, rồi lại giặt giũ, nấu nướng, may vá, chăm sóc người bệnh, và cuối cùng sau khi đã mệt rã người, mình lăn ra ngủ như chết. Chính trong chiếc lồng này, sau chiếc bàn này mình đã hàng ngàn lần mong ước đến điều đó và bây giờ thì ước mong ấy đang trở thành hiện thực, mình sẽ được đi du lịch, được tự do, thế mà mình lại không vui mừng. Quả thật, mẹ đã nói đúng. Tại sao lại thế nhỉ? Tại sao mình lại không sẵn sàng đón nhận điều mong ước ấy? Christine bất lực buông người xuống, đăm đăm nhìn lên bức tường trơ trọi của văn phòng bằng cặp mắt đờ đẫn. Nàng chờ đợi, chờ đợi, không hiểu cái niềm sung sướng muộn màng ấy có đến với nàng không. Bất chợt nàng nín thở, như một người bụng mang dạ chửa cố gắng nghe những biến động trong cơ thể mình. Nhưng chẳng có một tiếng vọng nào dội lại, tất cả vẫn trống rỗng, tĩnh lặng như một khu rừng vắng tiếng chim. Và Christine - đến nay nàng đã hai mươi tám tuổi rồi - cố nhớ lại xem thế nào là một nỗi vui mừng và nàng bỗng hoảng sợ nhận ra mình không thể nào nhớ nổi cái cảm giác ấy ra sao. Giống như một thứ ngoại ngữ đã học từ lâu nhưng giờ đây đã quên hết chỉ mang máng nhớ rằng mình đã từng biết ngoại ngữ ấy. Lần cuối cùng mình đã thật sự vui mừng vào lúc nào nhỉ? - Christine lại đăm chiêu suy nghĩ, đầu cúi xuống, trên vầng trán hiện rõ những nếp nhăn nhỏ. Dần dần giống như một chiếc gương mờ, từ nơi sâu thẳm của ký ức hiện ra một cô bé tóc xoăn, chân tay gầy guộc, mặc chiếc váy hoa ngắn cũn cỡn, sung sướng huơ huơ chiếc cặp sách trên tay… còn đây là công viên ở ngoại ô thành phố: hàng chục đứa trẻ đang chơi trò đuổi bắt chạy vùn vụt quanh nàng, mỗi lần quả bóng được ném đi, những tiếng cười lại rộ lên cùng với những tiếng la hét, và nàng nhớ rằng, dạo ấy tiếng cười sao mà thoải mái và vô tư đến thế. Dường như những tiếng cười ấy luôn luôn nằm sẵn ở cổ, luôn luôn cựa quậy ở một nơi nào đó dưới lớp da, chạy qua chạy lại va chạm vào nhau trong từng mạch máu. Chỉ cần chạm khẽ vào chúng, thế là tiếng cười không thể nào kìm giữ nổi liền bật ngay ra khỏi miệng. Dạo còn đi học, vào những giờ tiếng Pháp, nhiều lần nàng phải bám chặt vào mép bàn và cắn môi lại để khỏi bật cười mỗi khi nghe thấy một từ ngộ nghĩnh hoặc một câu pha trò ngốc nghếch nào đó. Bất cứ một chuyện vớ vẩn nào - dù đó là vẻ mặt lúng túng của thầy giáo, một nét nhăn nhó trên khuôn mặt mình khi đứng trước gương, một con mèo cong đuôi ngộ nghĩnh, chàng sĩ quan săm soi bộ quân phục của mình trên đường phố - bất cứ một chuyện nhảm nhí nào cũng làm bùng lên tia lửa để phát ra tiếng cười. Sự vô tư tinh nghịch ấy lúc nào cũng làm bạn cùng ta, ngay cả trong giấc ngủ, nụ cười cũng để lại dấu ấn trẻ trung trên những cặp môi thơ trẻ. Thế mà bỗng nhiên, tất cả trở nên u ám tàn lụi, giống như chiếc ngòi nổ bị dập tắt đột ngột. Chuyện ấy xảy ra vào ngày mồng một tháng tám năm 1914[5]. Trưa hôm ấy nàng còn đi tắm. Như một ánh chớp bỗng lóe lên, nàng nhớ lại thân hình trắng mịn, cân đối của một cơ thể trẻ trung mười sáu tuổi với những đường cong uyển chuyển và một sức sống dồi dào lúc nàng thay quần áo trong phòng. Nàng thích thú đắm mình trong làn nước mát lạnh, vùng vẫy, xoải người bơi lội rồi sau đó chạy giỡn với đám bạn gái trên những tấm ván cầu ọp ẹp. Ngay đến bây giờ nàng vẫn như còn nghe thấy những tiếng cười đùa, la hét của đám bạn gái. Sau đó nàng chạy như bay về nhà, nàng phải giúp mẹ sắp xếp đồ đạc để hai ngày nữa lên đường đến Kamp Valley nghỉ hè. Nhảy qua hai bậc thang một, Christine lao lên gác và mở toang cánh cửa. Nhưng thật lạ… Khi vừa bước chân vào phòng và còn chưa kịp thở lấy hơi, nàng nhận thấy bố mẹ liền ngưng ngay cuộc nói chuyện và làm như không nhận ra sự có mặt của con gái. Người bố, mà trước đó một lát nàng còn nghe thấy giọng nói oang oang kỳ lạ của ông, giờ đang tỏ ra chăm chú vào tờ báo. Còn mẹ, rõ ràng mẹ vừa khóc xong đang xúc động vò vò chiếc khăn mùi soa và bước vội về phía cửa sổ. Có chuyện gì đã xảy ra ở đây? Bố mẹ vừa cãi nhau chăng? Không, sự việc chẳng giống như vậy. Nàng thấy bố bỗng quay về phía mẹ và đặt tay lên bờ vai đang run lên của mẹ. Nhưng mẹ vẫn không quay lại và đôi vai của mẹ càng run hơn khi tay bố vừa chạm vào. Có chuyện gì đã xảy ra? Bố mẹ hầu như quên hẳn sự có mặt của nàng, không người nào nhìn về phía nàng. Giờ đây, dẫu đã mười hai năm trôi qua, Christine vẫn còn nhớ lúc ấy nàng đã hoảng sợ đến thế nào. Có thể bố mẹ tức giận nàng chăng? Biết đâu nàng đã chẳng vi phạm một lỗi lầm nào đó. Quá hoảng sợ - ở cái tuổi ấy, bất cứ một đứa trẻ nào cũng đều có cái cảm giác lo sợ vì phạm lỗi - nàng lặng lẽ bước vào bếp. Tại đây bà giúp việc Božena cho nàng hay rằng, người lính cần vụ Geza ở nhà bên cạnh có nói là nhà nước vừa ra một mệnh lệnh phải bằng mọi giá đánh tan bọn Serb. Như vậy có nghĩa là anh trai Otto, vốn là trung úy dự bị cùng với anh rể sẽ bị gọi vào quân đội. Đó chính là nguyên nhân đã làm bố mẹ nàng xúc động. Sự thật đúng như thế, sáng hôm sau anh Otto bất ngờ xuất hiện trong bộ quân phục màu xanh xám với chiếc khăn quàng cổ của sĩ quan và thanh kiếm đeo trên cái thắt lưng màu vàng. Vốn là một giáo viên thể dục ngoài biên chế, thường ngày anh chỉ mặc chiếc áo khoác màu đen ít được chải là cẩn thận. Với khuôn mặt nhợt nhạt, vóc dáng gầy gò, cao ngồng, mái tóc cắt ngắn kiểu đờmi carê và lớp lông măng màu hung nhạt hai bên má, trông anh lúc nào cũng ngộ nghĩnh đến tức cười trong bộ y phục màu đen nghiêm chỉnh. Nhưng giờ đây cặp môi mím lại vẻ cương quyết, trong bộ quân phục bó sát lấy người, anh hầu như biến thành một người khác hẳn. Christine nhìn anh với một sự thán phục thơ ngây pha chút giễu cợt, nàng vỗ hai tay vào nhau: “Ôi, lạ thật, trông anh bảnh quá!” Nhưng mẹ nàng từ trước đến nay chưa bao giờ đánh nàng một roi, liền đẩy nàng một cái làm khuỷu tay đập vào cạnh tủ đau điếng. “Mày không thấy xấu hổ à, cái đồ trơ tráo!” Nhưng cơn giận ấy không thể nào làm dịu nỗi đau âm ỉ trong lòng, người mẹ bật lên khóc, ôm chầm lấy đứa con trai với những tiếng rên rỉ đau đớn. Chàng thanh niên cố tỏ ra cứng rắn liền ngoảnh đầu đi và lẩm bẩm một câu gì đó về tổ quốc, về nghĩa vụ. Và cả bố cũng quay mặt đi, ông không thể chịu nổi cảnh ấy. Anh Otto bực mình, hai hàm răng nghiến chặt và hình như phải cố lắm mới thoát ra khỏi vòng tay của mẹ. Sau đó anh vội vã hôn lên má mẹ rồi vừa bước ra vừa bắt tay bố. Khi đi ngang qua Christine anh chỉ nói: “Anh đi nhé!” Và thế là từ cầu thang chỉ còn vọng lại tiếng lách cách của thanh kiếm. Vào lúc xế trưa người anh rể cũng đến chia tay. Anh rể là một quan chức làm việc ở Tòa thị chính, giờ đây sẽ là thượng úy phục vụ trong một quân đoàn đóng ở hậu phương. Biết rằng mình sẽ không gặp nguy hiểm, anh ta thao thao bất tuyệt về chiến tranh như về một chuyện vặt vãnh nào vậy. Sau đó để an ủi bố mẹ vợ, anh ta còn kể mấy câu chuyện vui nữa rồi mới chia tay. Nhưng hai cái bông vẫn còn ở lại: người chị dâu lúc đó đang có mang tháng thứ tư và người chị gái với một đứa con nhỏ. Giờ đây cả hai người đàn bà ấy tối nào cũng tới ăn và hình như ánh đèn mỗi ngày một nhợt nhạt hơn. Mỗi lần Christine vô ý kể một câu chuyện vui vẻ gì đó thế là bao nhiêu cặp mắt nghiêm khắc chiếu thẳng vào nàng, đến nỗi sau đó khi đã nằm trên giường nàng còn tự nguyền rủa mình mãi về tội tại sao mình lại tồi tệ, ngốc nghếch đến thế, y như một đứa con nít. Dần dần, dù không cố ý, nàng trở nên ít nói hẳn. Những tiếng cười trong nhà hầu như đã chết còn giấc ngủ cứ chập chờn, chập chờn. Thảng hoặc, vào lúc nửa đêm, nếu có tình cờ thức giấc, Christine lại nghe thấy những tiếng động nhẹ sau bức vách như tiếng những giọt nước mơ hồ đang rơi tí tách: đó là lúc người mẹ bị mất ngủ, quỳ hàng giờ liền trước bức tranh thánh và cầu nguyện cho con trai. Năm 1915 tới, khi ấy Christine vừa bước sang tuổi mười bảy. Bố mẹ nàng như đã già thêm hàng chục tuổi. Trông bố như đang bị một căn bệnh nào đó hủy hoại từ bên trong. Khuôn mặt nhăn nheo, vàng ệch, tấm lưng còng xuống, ông đi đi lại lại từ phòng này sang phòng kia và mọi người đều hiểu rằng ông đang lo lắng cho công việc của mình. Đã sáu mươi năm kể từ đời ông nội, trong khắp Đế chế không có người nào khéo tay hơn Bonifazius Hoflehner và con trai trong việc gia công sừng sơn dương và làm những con thú nhồi rơm. Ông đã nhồi không biết bao nhiêu con thú theo yêu cầu của các ngài Esterházy, Schwarzenberg và các bị quý tộc khác. Ông làm việc cần mẫn hơn bốn năm người thợ giúp việc, suốt từ sáng sớm cho đến tận đêm khuya. Sản phẩm ông làm ra bao giờ cũng cẩn thận, đẹp đẽ. Còn bây giờ, trong thời kỳ bom đạn này, khi mà người ta chỉ bắn giết lẫn nhau thì chiếc chuông trong cửa hiệu của ông hàng tuần liền vẫn cứ im tiếng. Trong khi đó, người con dâu vẫn nằm liệt giường sau kỳ sinh nở, đứa cháu ốm lên ốm xuống mà tiền thì mỗi ngày một khó kiếm. Người thợ tài hoa trở nên ít nói, tấm lưng còng hẳn xuống cho đến một hôm ông hoàn toàn quỵ hẳn. Ấy là lúc gia đình nhận được một bức thư từ bờ biển Izonso gửi đến - bức thư đầu tiên, nhưng chẳng phải do con trai của ông viết mà lại do người chỉ huy của nó viết. Mọi chuyện thế là rõ: … Con trai ông đã hy sinh anh dũng trên cương vị người chỉ huy đại đội, mọi người vô cùng thương tiếc, vân vân và vân vân. Căn nhà trở nên lạnh lẽo, trống trải, mẹ không còn cầu nguyện như trước nữa, ngọn đèn trước bức tranh thánh đã tắt hẳn, mẹ đã quên không đổ dầu cho nó. Chú thích [5] Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. KHÁT VỌNG ĐỔI ĐỜI Stefan Zweig www.dtv-ebook.com Chương 5 Năm 1916, Christine mười tám tuổi. Giờ đây trong nhà ai cũng nói đến chuyện giá cả đắt đỏ. Mẹ, bố, chị gái, chị dâu suốt ngày từ sáng đến tối lúc nào cũng tính toán, lo nghĩ xem làm cách nào để sống cho qua ngày, tất cả mọi nỗi lo âu, vất vả đều tập trung vào đấy. Giá thịt trở nên quá đắt, giá bơ bỗng nhiên tăng vọt, giá giày dép cũng đang tăng. Christine lo lắng đến nỗi nàng cũng không dám thở mạnh, e rằng như vậy sẽ quá tốn kém. Những vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày như chạy trốn đi đằng nào hết. Chúng nằm chất đống trong kho của bọn đầu cơ tích trữ khốn nạn và mỗi khi cần mua một thứ gì đó là phải chạy ngược chạy xuôi, lùng sục khắp mọi chỗ: Phải năn nỉ hết hơi người ta mới bán cho một mẩu bánh mì, phải mặc cả chán chê với người bán rau vì một mớ rau ôi, phải về tận nông thôn mới mua được trứng, còn muốn có than phải tự tay đi chở lấy mãi tận nhà ga bằng xe kéo. Ngày này qua ngày khác, hàng nghìn người đàn bà lạnh cóng, đói khát cố gắng vật lộn trong cuộc săn lùng thực phẩm và mỗi ngày những của kiếm được càng khan hiếm hơn. Trong khi đó bố lại bị đau dạ dày, cần phải có những thực phẩm đặc biệt, dễ tiêu. Kể từ ngày bố dỡ tấm bảng hiệu BONIFAZIUS HOFLEHNER đi và bán cửa hiệu cho người khác, ông hầu như không nói chuyện với ai nữa, chỉ thỉnh thoảng thấy ông hai tay ôm chặt lấy bụng, và nếu như xung quanh không có ai, ông mới bật lên vài tiếng rên rỉ yếu ớt. Đúng ra thì cần phải gọi bác sĩ đến khám bệnh cho bố, nhưng việc ấy lại “quá đắt” (chính bố đã nói thế) và ông đành thầm lặng tiếp tục chịu đựng cơn đau của mình. Năm 1917, Christine mười chín tuổi. Vào ngày mùng hai của năm mới mọi người đi đưa tang bố. Số tiền gửi tiết kiệm chỉ vừa đủ để mọi người chuyển từ bộ quần áo vẫn mặc thường ngày sang bộ quần áo đen. Cuộc sống mỗi ngày lại càng trở nên đắt đỏ. Gia đình đã phải lấy hai căn phòng cho những người chạy loạn từ Brody đến thuê, nhưng tiền nong vẫn cứ thiếu, cho dù có làm quần quật từ sáng đến tối không ngơi tay. Cuối cùng người anh chồng của bà Hoflehner đã xoay xở cho bà được một chân thợ giặt ở trạm quân y Korneuburg, còn cô con gái Christine thì làm nhân viên đánh máy trong một văn phòng. Công việc cũng chẳng đến nỗi nào nếu như Christine không phải dậy quá sớm và sáng nào, chiều nào cũng bị lạnh cóng trong toa tàu không được sưởi ấm để đến chỗ làm việc xa lắc xa lơ. Sau đó lại còn phải dọn dẹp, may vá, giặt giũ cho đến lúc mụ mẫm cả người, không còn muốn suy nghĩ, mong ước điều gì để rồi lại thiếp đi trong một giấc ngủ nặng nề mà có lẽ tốt hơn là sau giấc ngủ ấy không nên tỉnh dậy nữa. Năm 1918, Christine đã hai mươi tuổi. Chiến tranh vẫn kéo dài, vẫn chẳng có dù chỉ một ngày được tự do, thoải mái, vẫn chẳng có thời gian dù chỉ để ngắm mình một lát trong gương hoặc dừng chân nghỉ ngơi một tí nơi ngõ hẻm. Mẹ bắt đầu than phiền về đôi chân bị phù lên vì phải làm việc trong căn phòng ẩm ướt, nhưng Christine chẳng còn sức đâu mà quan tâm đến. Nàng đã chai sạn với mọi nỗi bất hạnh, đã trở nên mụ mẫm kể từ khi hàng ngày phải đánh máy đến bảy tám mươi bản báo cáo về những người bị thương nặng. Thỉnh thoảng có một chàng trung úy từ Banat về, khập khiễng trên đôi nạng vì chân trái đã bị dập nát ghé vào văn phòng của nàng. Đó là một chàng trai bé nhỏ với mái tóc màu vàng ánh kim như lúa mì và khuôn mặt rụt rè trẻ măng như một đứa trẻ nhưng trên đó đã in hằn dấu vết của những nỗi khiếp sợ. Bằng giọng Swabia, anh ta kể cho nàng nghe về nỗi nhớ nhà, về làng quê, về những con chó và con ngựa. Một đứa trẻ tội nghiệp. Có một lần vào buổi chiều họ hôn nhau trên chiếc ghế đá trong công viên. Hai, ba cái hôn uể oải ấy giống như một sự thương hại hơn là một tình yêu. Sau đó người thanh niên ngỏ ý muốn cưới Christine làm vợ khi chiến tranh kết thúc. Nàng bỏ qua những lời tỏ tình ấy với nụ cười mệt mỏi trên môi, nàng không dám nghĩ rằng đến một ngày nào đó chiến tranh sẽ chấm dứt. Năm 1919, Christine hai mươi mốt tuổi. Đúng là chiến tranh đã chấm dứt. Trước kia nàng đã phải sống thu mình lại trước những mệnh lệnh, chỉ thị tới tấp trút xuống đầu mình, trước những tờ giấy bạc lạm phát mới tinh và những tờ công trái chiến tranh. Giờ đây nàng đã bỏ ra khỏi nơi ấy nhưng với cặp mắt trũng sâu và chiếc miệng há to đói khát, độc địa, nhai ngấu nghiến tất cả những gì còn sót lại sau chiến tranh. Cũng giống như những bông tuyết từ trên trời rơi xuống, dù chúng có bao nhiêu đi nữa, hàng trăm nghìn, hàng triệu, nhưng mỗi một bông tuyết nhỏ ấy sẽ bị tan ngay thành nước khi vừa đậu xuống một bàn tay nóng ẩm. Trong khi anh đang ngủ thì đồng tiền lại mất giá, trong khi anh đang thay đôi giày há mõm bằng đôi guốc gỗ để chạy vội ra cửa hàng thì nắm giấy bạc đã chẳng còn giá trị gì nữa, lúc nào cũng thấy người ta chạy ngược chạy xuôi, nhưng hình như chẳng kịp làm một việc gì. Cuộc sống trở thành một bài toán số học hóc búa, trở thành những phép cộng, phép nhân, thành một vòng tròn điên loạn với những con số và cái vòi rồng khủng khiếp ấy đã nuốt chửng tất cả mọi thứ bằng vàng đang gài nơi ngực mẹ, đến chiếc nhẫn cưới trên ngón tay hay tấm khăn trải bàn Damask. Nhưng dù có ném bao nhiêu vào cái mõm ấy thì cũng không thoát khỏi cảnh tối nào cũng ngồi đan len thuê cho đến tận khuya, phải dành hết phòng để cho thuê còn chính hai mẹ con thì ngủ trong bếp. Chỉ có giấc ngủ là thứ duy nhất con người được toàn quyền sử dụng không phải trả một xu nào. Vào những giờ khuya khoắt này có thể tự do duỗi tấm thân mệt mỏi, gầy guộc và vẫn còn trong trắng của mình trên tấm đệm để có thể quên đi trong sáu, bảy giờ ngày tận thế đang ở ngay trước mắt. Sau đó là đến những năm 1920 - 1921. Lúc ấy Christine đã hai hai, hai ba tuổi, cái tuổi đẹp nhất của thời con gái như người ta vẫn thường nói. Nhưng chẳng có ai nói với nàng về điều ấy cả mà chính nàng thì cũng không biết. Suốt từ sáng đến tối chỉ có một ý nghĩ duy nhất là làm sao thu vén cho cuộc sống khá hơn trong khi tiền kiếm được thì mỗi ngày một ít. Tuy nhiên cũng có một chuyện làm nhẹ bớt nỗi vất vả của nàng, đó là việc ông bác lại ra tay giúp nàng một lần nữa. Ông đã tự mình đến thăm một người bạn (cùng hội cờ bạc) hiện đang làm trong ban giám đốc bưu điện để xin cho nàng vào làm việc trong trạm bưu điện Klein-Reifling lúc ấy đang thiếu người. Trạm bưu điện nằm ở một làng hẻo lánh chuyên trồng nho. Chỗ ấy cũng chẳng ngon lành gì nhưng dù sao thì cũng có một công việc ổn định, còn sau thời gian tập sự mọi việc có thể sẽ khá hơn. Số tiền lương ít ỏi may ra chỉ đủ cho một người, song ở nhà ông anh rể không còn chỗ vì vậy Christine đành đón mẹ về ở với mình. Vẫn như trước, ngày nào cũng bắt đầu bằng việc cộng sổ xem còn lại bao nhiêu tiền. Mỗi một que diêm, một hạt cà phê, một dúm bột cũng đều phải đắn đo, cân nhắc. Nhưng dù sao đi nữa thì vẫn còn có thể thở được, vẫn còn có thể lần hồi qua bữa. Rồi đến những năm 1922, 1923, 1924. Khi ấy Christine đã bước sang tuổi hai tư, hai lăm, hai sáu. Nàng vẫn còn trẻ chăng hay đã già rồi? Nơi đuôi mắt đã xuất hiện những vết nhăn nhỏ, thỉnh thoảng lại cảm thấy đôi chân rã rời, mệt mỏi, còn cứ đến mùa xuân không hiểu tại sao đầu lại bị đau nhức. Mặc dù vậy cuộc sống vẫn tiến lên phía trước và mỗi ngày một cảm thấy dễ chịu hơn. Cầm đồng bạc trong tay người ta đã bắt đầu cảm thấy sức nặng của nó. Christine đã được công nhận chính thức là “người trợ lý ngành bưu điện”, còn ông anh rể tháng tháng vẫn gửi cho mẹ ít tiền. Giờ đây chính là lúc để trở lại cái thời con gái mà nàng đã bỏ lỡ, tất nhiên là phải từ từ, không được vội vã. Cuối cùng, bà đã bắt được nàng ghi tên vào một lớp học khiêu vũ ở làng bên cạnh. Nhưng những chuyển động có nhịp điệu ấy đối với Christine chẳng phải là chuyện dễ học. Nàng rất mau mệt, các khớp xương cứ cứng đờ như bị tê cóng mà âm nhạc cũng chẳng thể nào làm chúng ấm lên được. Christine đã cố học thuộc những bước nhảy phức tạp, nhưng chúng hoàn toàn không cuốn hút nàng và lần đầu tiên trong đời nàng mang máng nhận ra rằng tất cả những việc ấy đã quá muộn rồi, chiến tranh đã chà đạp, giày xéo tuổi trẻ của nàng không thương tiếc. Và những người đàn ông - hình như có một điều gì đó đã mách bảo cho họ - cũng cảm thấy điều ấy. Không có người nào theo đuổi nàng một cách chân thành, mặc dù khuôn mặt nàng nhìn nghiêng trông rất có vẻ quý phái và nó nổi bật lên giữa những khuôn mặt đỏ hồng, tròn vành vạnh của các cô gái nông thôn. Song đám thiếu nữ choai choai mới lớn lên sau chiến tranh lại có cách xử sự khác hẳn. Những cô gái mười bảy, mười tám tuổi ấy không còn lặng lẽ, kiên trì chờ người ta đến lựa chọn và tán tỉnh mình nữa. Họ cho rằng họ có quyền tận hưởng mọi lạc thú trên đời. Chẳng những thế họ còn đòi hỏi điều đó với một sự hăng hái khác thường, dường như ngoài hạnh phúc của chính mình họ còn muốn hưởng cả phần của hàng trăm ngàn người trẻ tuổi khác đã chết trong chiến tranh. Với một sự sợ hãi kỳ lạ, người con gái hai mươi sáu tuổi kia ngắm nhìn những kẻ đại diện trẻ tuổi của một thế hệ mới, đầy tự tin và rất khó tính. Những cặp mắt thông minh và ngạo mạn, những cặp mông khêu gợi, những tiếng cười the thé bật ra không chút ngượng ngùng khi đám con trai sỗ sàng chạm vào người họ. Cô nào trước khi về nhà cũng rẽ vào rừng cùng với một người đàn ông. Christine không thể nào chịu được cảnh ấy. Nàng cảm thấy mình như một bà già mệt mỏi, bạc nhược và vô tích sự giữa đám thiếu nữ thô tục, tham lam mới lớn lên ấy. Nàng không muốn và cũng không đủ sức để ganh đua với họ. Nói chung nàng không còn muốn nỗ lực phấn đấu cho bất cứ một chuyện gì nữa. Chỉ cần được sống yên tĩnh, thầm lặng chịu đựng những giọt nước mắt của chính mình, hoàn thành công việc được giao, sáng sáng tưới nước cho những chậu hoa trên cửa sổ, ngoài ra không còn mong muốn ước ao một điều gì khác. Christine chẳng muốn có điều gì xáo động trong cuộc sống của mình, ngay cả quyền được hạnh phúc, niềm hạnh phúc của cô gái hai mươi sáu tuổi đã bị chiến tranh cướp đi suốt mười năm qua, nàng cũng không đủ sức mà đòi hỏi nữa. KHÁT VỌNG ĐỔI ĐỜI Stefan Zweig www.dtv-ebook.com Chương 6 Bất giác Christine thở phào nhẹ nhõm, dứt khỏi dòng hồi tưởng. Ngay cả những ý nghĩ về mọi nỗi bất hạnh mà nàng đã trải qua trong thời thanh nữ cũng chẳng làm cho nàng mệt mỏi. Cái ý định của mẹ định cho nàng đi chơi một chuyến quả thật là vô nghĩa. Tại sao nàng lại phải đến đó, tại sao nàng lại phải đến với người dì và những người khác mà nàng không hề quen biết và chẳng có điều gì chung với họ. Nhưng, lạy Chúa tôi, nàng biết làm sao được khi chính mẹ lại muốn như vậy, khi chính điều đó làm cho mẹ sung sướng. Có nên cưỡng lại ý mẹ không, mà cưỡng lại để làm gì? Mình mệt mỏi quá rồi! Mệt mỏi quá rồi! Sau khi đã chịu đầu hàng số phận, Christine mở ngăn kéo trên, lấy ra một tờ giấy, cẩn thận gập đôi lại và lót ở giữa một tờ giấy có hàng kẻ để viết cho thẳng hàng, nàng bắt đấu viết lá đơn gửi ban giám đốc bưu điện Vienna xin được nghỉ phép theo đúng luật lệ đã quy định. Nàng còn viết thêm, do những lý do gia đình đột xuất đề nghị cho người đến thấy nàng vào đầu tuần sau. Nét chữ của nàng đều đặn, rõ ràng, với những nét móc cầu kỳ và những nét nhấn đẹp đẽ. Bức thư thứ hai, Christine viết cho chị gái đang sống ở Vienna, nhờ chị xin hộ chiếu xuất cảnh đi Thụy Sĩ cho mình, mượn chị chiếc va li nhỏ và yêu cầu chị về đây để bàn bạc về việc chăm sóc mẹ khi nàng đi vắng. Trong những ngày tiếp theo, Christine bình thản chuẩn bị cho chuyến đi. Nàng chẳng hề mong ngóng một điều gì, cũng chẳng vui mừng hay thích thú, dường như chuyện đó chẳng có quan hệ gì đến nàng mà chỉ có quan hệ đến một điều duy nhất là nghĩa vụ và công việc, những điều ấy chính là lẽ sống của nàng. Suốt cả tuần lễ Christine chuẩn bị cho chuyến đi. Chiều nào nàng cũng may vá, giặt giũ và sửa lại quần áo. Thêm vào đó, người chị, đáng lý ra phải mua cho nàng một vài thứ bằng số đô la mà gia đình đã gửi thì lại cho nàng mượn những bộ áo váy của mình: nào là chiếc áo bành tô đi đường màu váng chóe và chiếc áo len xanh, nào là món đồ nữ trang tráng men mà mẹ đã mua ở Venice trong tuần trăng mật và cuối cùng là chiếc va li nhỏ bằng mây đan (“Cần phải tiết kiệm” - chị nàng, một người đàn bà tiểu thị dân nhút nhát đã khuyên nàng như thế). Vậy là tốt rồi, bà chị nói, ở nơi nghỉ mát trên núi ấy người ta cũng chẳng diện lắm đâu, mà nếu có cần gì thì mua ngay ở đây cũng được. Cuối cùng ngày lên đường đã tới. Chiếc va li bằng mây được Franz Fuchsthaler, một giáo viên ở làng bên cạnh xách hộ. Anh rất muốn bày tỏ tình cảm của mình trong một dịp như thế này. Fuchsthaler là một thanh niên vóc dáng trung bình, gầy còm, có cặp mắt màu xanh nhạt rụt rè sau cặp kính. Sau bức điện ấy, anh đã đến ngay gia đình Hoflehner sẵn sàng giúp đỡ nàng trong mọi việc. Trong khắp vùng Klein-Reifling anh chỉ quen thân với gia đình Hoflehner. Hơn một năm nay vợ anh phải nằm trong bệnh viện lao Alland và tất cả các bác sĩ đã phải thú nhận rằng bệnh tình của chị ta vô phương cứu chữa. Hai đứa con của họ được những người bà con mang về nuôi ở thành phố khác. Chiều tối nào anh cũng ngồi nhà một mình, trong những căn phòng vắng lặng như nhà mồ, đắm mình trong công việc yêu thích, đó là việc sưu tầm bộ mẫu thực vật. Bằng nét chữ rõ ràng đẹp đẽ, anh ghi chú tên những loài hoa đã được ép khô. Tên Latinh viết bằng mực đỏ, còn tên Đức viết bằng mực đen. Anh còn tự tay đóng lại những tập sách mỏng màu nâu gạch yêu thích của mình do nhà xuất bản Reclam ấn hành bằng những chiếc bìa dày với những họa tiết trang trí lòe loẹt, còn ở gáy sách anh viết những hàng chữ in bằng một ngòi bút vẽ kỹ thuật nhỏ xíu. Sau đó vào lúc đêm khuya, khi những người láng giềng đã ngủ cả, anh cầm cây đàn violon, mắt nhìn vào tập nhạc tự tay chép lấy và chơi những giai điệu của Schubert, và Mendelssohn. Anh chơi không hay lắm nhưng rất say mê. Nếu không làm những việc đó thì anh lại lấy những cuốn sách mượn ở thư viện ra và chép những bài thơ hoặc những đoạn văn mà anh thích thú vào những tờ giấy mỏng gập tư. Khi đã chép được một trăm tờ như vậy anh lại đóng chúng vào một cuốn album bìa bọc giấy bóng. Giống như những người Ả Rập chép kinh Koran, anh thích những kiểu chữ tròn có những nét mảnh và nét đậm, để cho những hàng chữ im lặng ấy có thể làm sống dậy niềm sung sướng không thể diễn tả bằng lời và nỗi xúc động khi anh đọc chúng. Đối với một người khiêm tốn, lặng lẽ sống trong căn nhà do hội đồng xã cấp (căn nhà không có vườn bên cửa sổ), đối với một người như vậy thì sách chính là hoa trong nhà. Anh xếp chúng thành những hàng ngay ngắn, nổi bật lên trên giá sách, nâng niu chúng như người thợ làm vườn già nua nâng niu những bông hoa. Những ngón tay gầy, trắng nhợt chạm khẽ vào những cuốn sách như chạm vào những đồ trang sức quý giá, mong manh. Người giáo làng không bao giờ bước chân vào quán rượu trong xóm. Anh sợ bia và khói thuốc lá không khác gì những người sùng đạo sợ điều ác. Mỗi khi phải đi ngang qua cái chốn khủng khiếp ấy anh thường nhăn mặt rảo bước để khỏi phải nghe thấy những tiếng la hét, chửi rủa của những người say rượu. Kể từ khi vợ phải đi nằm bệnh viện, gia đình Hoflehner là nơi duy nhất anh đến chơi vào những lúc rảnh rỗi. Anh thường đến nhà họ sau bữa cơm chiều, nói dăm ba câu chuyện vu vơ hoặc đọc sách cho họ nghe. Hai mẹ con Hoflehner đặc biệt thích thú khi anh đọc tập Những bông hoa đồng nội của Adalbert Stifter, ông ta là người đồng hương với họ. Và khi đọc đến những đoạn xúc động, giọng nói khô khan của anh ta trở nên sôi nổi và giàu âm điệu. Đôi khi rời khỏi trang sách nhìn sang mái đầu hơi nghiêng với những lọn tóc sáng của người thiếu nữ đang chăm chú lắng nghe, người thanh niên vốn rụt rè, tẻ nhạt ấy bỗng trở nên sôi nổi lạ thường. Anh cảm thấy ở trong căn nhà này mọi người hiểu được anh. Người mẹ cũng nhận thấy tình cảm của anh, người thầy giáo. Bà đoán rằng ánh mắt của anh ta khi nhìn về phía con gái chắc chắn sẽ trở nên khác hơn, mạnh dạn hơn khi số phận của vợ anh đã được định đoạt. Nhưng Christine thì vẫn im lặng, bình thản. Từ lâu rồi nàng đã đánh mất thói quen suy nghĩ về bản thân. Người giáo làng vác chiếc va li trên vai phải, không để ý đến những tiếng cười chế giễu của lũ trẻ con gặp dọc đường. Chiếc va li chẳng lấy gì làm nặng vậy mà anh vẫn cứ phải thở hồng hộc mới theo kịp Christine đang nóng ruột vội vã bước đằng trước. Nàng không ngờ cuộc chia tay lại trở nên nặng nề như vậy. Bất chấp mọi sự ngăn cản của bác sĩ, mẹ nàng đã lên xuống cầu thang đến ba lần, dường như là linh cảm thấy một nỗi sợ hãi kỳ lạ nào đó và không thể nào chia tay được với con gái. Christine phải ba lần dìu người đàn bà già yếu, nặng nề, khóc sướt mướt trở lên cầu thang, mặc dù đã sắp đến giờ tàu chạy. Còn sau đó, khi đã được đặt lên giường, bà vừa nức nở vừa lầm bầm và thở dài não ruột. Cảnh ấy vẫn thường xảy ra trong những tuần lễ gần đây. Chính trong tình cảm như vậy Christine đã chia tay với mẹ và giờ đây nỗi lo lắng về người mẹ bỗng dâng lên, day dứt trong lòng. Chưa bao giờ mẹ nàng lại xúc động như hôm nay. Lạy chúa phù hộ, đừng có chuyện gì xảy ra với mẹ khi mình không có ở đây… Ngộ nhỡ lúc đêm hôm mẹ cần gì đó, trong khi chị gái ở Vienna chỉ về với mẹ vào ngày chủ nhật. Đúng ra thì cũng có một cô gái làm việc ở lò bánh mì sốt sắng hứa chiều nào cũng sẽ đến chăm sóc mẹ, nhưng nàng chẳng thể nào hoàn toàn tin tưởng vào điều đó. Chính cô ta vẫn thường bỏ mặc mẹ mình để chạy đi khiêu vũ… Không, lẽ ra mình chẳng nên đi làm gì, chẳng nên nghe theo những lời thuyết phục, năn nỉ của mẹ. Những cuộc du lịch như vậy chỉ dành cho những người không có mẹ đang ốm nằm nhà, chứ không phải để cho mình… Còn nếu phải đi đâu đó thì chẳng nên đi xa để bất cứ lúc nào cũng kịp trở về. Mà chuyến đi này có ích lợi gì cho mình kia chứ? Chẳng lẽ mình sẽ sung sướng lắm sao khi suốt thời gian ấy lúc nào cũng phải lo lắng, lúc nào cũng nghĩ đến chuyện không biết giờ này mẹ có cần gì không, rằng đêm hôm chẳng có ai bên mẹ, còn những người chủ nhà ở tầng dưới sẽ chẳng bao giờ nghe thấy hoặc chẳng muốn nghe thấy tiếng chuông mẹ gọi. Họ cũng chẳng yêu quý gì mẹ con mình, nếu có quyền, họ đã đuổi mẹ con mình đi từ lâu… Còn người y tá trực ở Linz thì cũng chẳng thể hy vọng gì nhiều. Khi mình yêu cầu chị ta tranh thủ ghé đến thăm mẹ vào buổi trưa và buổi chiều thì chị ta nói “được” nhưng giọng nói thì khô khan, lạnh nhạt và ai mà biết được chị ta có ghé lại hay không… Hay là mình đánh điện cho dì, không đi nữa? Đối với dì, việc mình đến hay không có nghĩa lý gì đâu, chỉ có mẹ là cho rằng điều ấy rất quan trọng đối với gia đình mình… Nếu không, tại sao dì mình lại không thường xuyên trao đổi thư từ từ Mỹ và trong những lúc khó khăn như thế này sao không gửi ít đồ về như mọi người vẫn thường làm… Biết bao nhiêu những kiện hàng như thế đã qua tay mình ở bưu điện, nhưng chẳng có kiện nào của dì gửi cho mẹ… Không, quả đúng là mình đã dại dột nghe theo lời mẹ, mình cần phải hủy bỏ chuyến đi này trong khi vẫn còn chưa muộn. Chẳng hiểu tại sao nhưng mình cảm thấy sờ sợ. Mình chẳng muốn đi tí nào hết, chẳng muốn đi. Người thanh niên nhỏ nhắn, rụt rè có mái tóc màu bạch kim phải cố gắng lắm mới không bị tụt lại sau Christine để an ủi và động viên nàng. Anh hứa chắc chắn ngày nào cũng sẽ đến thăm mẹ nàng, vì vậy nàng chẳng nên lo lắng làm gì. Những người khác thì anh không dám nói, còn chính Christine, anh cho rằng nàng có quyền được nghỉ ngơi. Đã bao năm nay nàng làm việc cần cù, chưa hề nghỉ lấy một ngày. Giá như nàng không hoàn thành nghĩa vụ của mình trong mọi công việc thì chính anh sẽ là người đầu tiên khuyên nàng không đi nữa. Không, Christine khỏi phải lo lắng gì cả, ngày nào anh cũng sẽ gửi thư báo cho nàng biết mọi tin tức. Vừa thở dốc anh vừa vội vã nói với Christine tất cả những gì chợt đến trong đầu để cho nàng yên tâm. Và thực tế, những lời thuyết phục kiên trì ấy cũng làm cho nàng nhẹ nhõm đôi chút. Christine hầu như không nghe rõ những lời anh nói nhưng nàng cảm thấy có thể hoàn toàn tin tưởng vào con người ấy. Trên sân ga đã vang lên tiếng chuông báo hiệu tàu sắp đến, người bạn trai khiêm tốn đi tiễn nàng thỉnh thoảng lại bối rối ho khan vài tiếng. Christine nhận thấy anh ta cứ đổi hết chân nọ sang chân kia, hình như muốn nói một điều gì đó nhưng không dám. Cuối cùng anh ta rụt rè lấy từ túi áo ngực ra một vật gì đó trăng trắng, được gấp lại cẩn thận rồi bối rối trao cho nàng. Không, lẽ dĩ nhiên đó chẳng phải là một món quà nào cả mà chỉ là một biểu hiện khiêm tốn về sự quan tâm của anh ta đối với nàng và có lẽ vật ấy sẽ rất cần thiết cho nàng. Christine ngạc nhiên mở băng giấy ra. Đó là tấm bản đồ chỉ đường cho nàng đi từ Linz đến Pontresina. Tất cả núi non, sông ngòi, thành phố dọc theo đường sắt đều được ghi rõ bằng một nét chữ nhỏ xíu màu đen. Những ngọn núi được đánh dấu bằng những đường gạch chéo, chỗ thưa, chỗ dày tùy theo độ cao của chúng. Các độ cao được ký hiệu bằng những con số nhỏ li ti, các dòng sông được diễn tả bằng những nét chì xanh, các thành phố được khoanh lại bằng những nét chì đỏ, còn khoảng cách giữa các thành phố được ghi ở phía dưới trong một bảng riêng, ở góc phải, giống y hệt tờ bản đồ dành cho học sinh của Viện Địa lý. Người giáo làng đã sao lại tờ bản đồ ấy với tất cả tình yêu và niềm say mê của mình, đồng thời cảm thấy vô cùng sung sướng bởi một công việc thích thú như vậy. Christine đỏ bừng mặt. Nhận thấy món quà nhỏ của mình đã làm cho nàng thích thú, con người khiêm tốn ấy phấn khởi hẳn lên. Anh lấy ra một tờ bản đồ khác hình vuông có những đường viền màu vàng. Đây lại là tờ bản đồ thành phố Engadine được anh can lại từ tờ bản đồ quân sự khổ lớn của Thụy Sĩ, với tất cả những con đường lớn nhỏ với ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng có. Ở chính giữa tờ bản đồ là tòa nhà được khoanh lại bằng một vòng tròn màu đỏ. Theo lời anh giải thích thì đó chính là khách sạn nơi nàng sẽ sống trong thời gian tới. Điều này anh biết được từ tờ tạp chí Baedeker cũ. Như vậy là nhờ tấm bản đồ này Christine có thể tự mình xác định phương hướng trong mọi cuộc dạo chơi mà không sợ bị lạc. Nàng xúc động cám ơn anh. Có lẽ người thanh niên ân cần này đã lặng lẽ đến Linz và Vienna để mượn những sách báo cần thiết và suốt những buổi chiều vừa qua đã cặm cụi tô vẽ bằng những chiếc bút chì gọt đi gọt lại hàng trăm lần và bằng những ngòi bút đặc biệt anh đã mua cho mục đích ấy, để hoàn thành món quà nhỏ tặng nàng. Lẽ dĩ nhiên điều ấy cũng hoàn toàn phù hợp với công việc mà anh vốn yêu thích và phù hợp với khả năng kinh tế của mình. Chuyến du lịch chưa khởi hành của Christine đã được anh ta nghĩ đến và chăm chú theo dõi trên từng cây số. Có lẽ suốt ngày đêm anh chỉ nghĩ đến chuyến đi của nàng, nghĩ đến những gì đang đợi nàng ở phía trước và hộ tống nàng trên mỗi chặng đường. Với lòng biết ơn, Christine chìa tay ra cho người thanh niên, ngạc nhiên vì chính sự bạo dạn của mình và dường như đây là lần đầu tiên nàng nhìn thấy đôi mắt của anh qua cặp kính, cặp mắt màu xanh da trời trong sáng, chân thành như cặp mắt một đứa trẻ. Nhưng trong lúc nàng nhìn anh, cái khoảng xanh thẳm sáng rực rỡ ấy bỗng tối lại và sâu hơn vì quá xúc động. Trong lòng nàng dâng lên một tình cảm ấm áp mà trước đó chưa lần nào nàng cảm thấy khi có mặt anh, một sự đồng cảm và tin cậy chưa bao giờ có đối với một người đàn ông. Trong giây phút đó, cái cảm giác mơ hồ ấy bỗng hình thành rõ rệt trong trí nàng. Christine chân thành giữ bàn tay của anh lâu hơn mọi khi. Còn anh cũng cảm thấy sự biến đổi đó trong tình cảm của nàng. Trái tim đập dồn dập trong lồng ngực, hơi thở trở nên gấp gáp hơn, anh cố chọn những từ ngữ thích hợp để nói với nàng. Nhưng ngay lúc ấy đoàn tàu đen nhẻm bỗng ập đến như một con quái vật khổng lồ bị chọc tức. Làn hơi nóng phả ra trước mũi đoàn tàu suýt nữa làm bay mất tờ giấy trong tay nàng. Chỉ còn lại một phút, Christine vội vã bước vào trong toa và từ cửa sổ nàng chỉ nhìn thấy chiếc khăn tay trắng đang vẫy vẫy rồi nó cũng nhanh chóng biến hẳn trong làn khói mờ đục. Sau đó Christine chỉ còn lại một mình, lần đầu tiên trong cả cuộc đời nàng chỉ có một mình. KHÁT VỌNG ĐỔI ĐỜI Stefan Zweig www.dtv-ebook.com Chương 7 Suốt cả buổi chiều, Christine mệt mỏi dựa lưng vào tấm vách ngăn của cupê, ngắm nhìn qua làn mưa xiên xiên sau cửa kính. Cảnh vật ảm đạm trải rộng dưới bầu trời u ám. Trong ánh hoàng hôn lúc mới lên tàu, nàng nhìn thấy những thành phố, làng mạc nhỏ nhắn trông như những con thú hoảng hốt lao ngang qua cửa sổ, nhưng dần dần tất cả cảnh vật hòa lẫn vào nhau và tan biến đi trong làn sương mù dày đặc. Trong ngăn cupê hạng ba, ngoài nàng ra chẳng còn một ai khác, vì vậy nàng có thể tự cho phép mình được duỗi chân lên băng ghế. Chỉ đến lúc ấy Christine mới cảm thấy mệt mỏi rã rời. Nàng cố gắng suy nghĩ về tất cả những gì đã xảy ra nhưng tiếng gõ đều đều của bánh xe nện trên đường ray và sự đung đưa nhè nhẹ của toa tàu làm cho nàng không sao tập trung tư tưởng được. Ý thức trở nên mờ ảo như một đám sương mù, hai bên thái dương đau nhức, nàng quên hết mọi chuyện, thiếp đi trong một cơn mơ màng, dường như nàng đang bị nhốt kín trong chiếc bao tải tối om và chiếc bao tải ấy cứ lắc lư, lắc lư theo nhịp tàu chạy. Christine bỗng thấy cái cơ thể cứng đờ của mình bay lượn trong không gian, dưới thân nàng những bánh xe vẫn hối hả chuyển động và la hét ầm ĩ như bị ma đuổi, còn trên chiếc đầu bị lộn ngược của nàng thời gian vẫn vô hình lặng lẽ trôi qua. Sự mệt mỏi của Christine dường như đã hòa tan vào cái dòng chảy tối đen cuồn cuộn ấy, đến nỗi sáng hôm sau nàng bỗng giật mình hoảng sợ khi cánh cửa bị mở toang và một người đàn ông râu ria bờm sờm, vai rộng, vẻ mặt nghiêm nghị bước vào cupê. Phải mất một lúc lâu Christine mới tỉnh khỏi cơn mê và nhận ra rằng người đàn ông mặc quân phục không có ý định làm điều gì độc ác đối với nàng, không định bắt và dẫn nàng đi mà chỉ đơn giản muốn kiểm tra hộ chiếu của nàng. Christine lóng ngóng lấy hộ chiếu từ túi xách ra. Người hiến binh đối chiếu bức ảnh dán trong hộ chiếu với khuôn mặt của chủ nhân bức ảnh đang tỏ ra xúc động, bối rối. Christine bỗng run bắn người lên. Ngay từ hồi chiến tranh nàng vẫn luôn bị một nỗi lo sợ kỳ lạ không sao ngăn nổi ám ảnh trong lòng, chỉ sợ mình đã vi phạm một trong những hàng ngàn điều luật nào đó. Nhưng người hiến binh đã nhã nhặn trao lại hộ chiếu rồi chào nàng và bước ra, nhẹ nhàng khép cửa lại. Bây giờ nàng lại có thể ngủ tiếp được nhưng nỗi lo sợ đã xua tan giấc ngủ. Christine bước đến gần cửa sổ và bất giác sững người lại. Sau tấm kính lạnh ngắt như nước đá, vừa mới đây thôi còn là một bình nguyên trông như những làn sóng màu xám trải dài đến tận chân trời, vậy mà giờ đây (có lẽ lúc nàng ngủ thời gian như đã ngừng lại) những ngọn núi đá sừng sững như mọc lên từ dưới đất mà nàng chưa bao giờ nhìn thấy. Trước ánh mắt sợ sệt và đầy thán phục của nàng là dãy Alps kỳ vĩ. Vào chính lúc ấy những tia nắng đầu tiên trong ngày từ hướng đông xuyên qua hẻm núi làm lóe lên hàng triệu đốm sáng nhấp nháy trên đỉnh núi cao nhất. Ánh sáng chói lòa, không chút vẩn đục ấy làm nàng lóe mắt và bất chợt rùng mình. Nhưng cũng chính tia sáng bất ngờ ấy đã làm nàng tỉnh hẳn. Bằng một động tác nhanh nhẹn, Christine kéo tấm kính xuống để có thể được tiếp xúc gần hơn với tất cả những điều kỳ diệu ấy, và ngay lúc đó, một luồng không khí tinh khiết, lạnh buốt thấm đượm mùi tuyết ập ngay vào chiếc miệng đang há ra vì kinh ngạc và tràn ngập vào buồng phổi của nàng. Chưa bao giờ Christine được hít thở một cách thỏa mãn luồng không khí nào trong sạch đến vậy. Bất chợt nàng vươn hai tay ra như muốn để cho ngụm không khí đầu tiên ấy nhanh chóng thấm sâu vào cơ thể. Và thế là bằng cả lồng ngực của mình, nàng cảm thấy ngay được cái hơi lạnh đang chạy rần rật trong từng mạch máu. Thật là tuyệt diệu! Một cảm giác sảng khoái lan khắp cơ thể. Và chỉ đến lúc ấy, khi đã tỉnh táo và tươi tắn hoàn toàn, nàng mới bắt đầu ngắm nghía cảnh vật xung quanh, lần lượt từ bên trái sang bên phải. Christine thích thú chăm chú quan sát từ sườn núi đá hoa cương có những dải băng viền xung quanh đến những đỉnh cao thấp của dãy núi và càng nhìn nàng lại càng phát hiện thêm những chi tiết khác nhau nữa: Kia là thác nước tung bọt trắng xóa, đổ ào ào từ trên cao xuống thung lũng, chỗ khác có những ngôi nhà xinh xắn nằm giữa những vách đá cheo leo, ẩn mình trong những khe núi rộng trông giống như những chiếc tổ của lũ chim đại bàng đang ngạo nghễ chao lượn trên đỉnh núi cao ngất. Và bao trùm lên tất cả cảnh vật ấy là bầu trời xanh ngắt, quang đãng và huyền bí, tràn trề sức mạnh và niềm vui. Lần đầu tiên trong đời thoát khỏi cái thế giới nhỏ bé, chật chội của mình. Christine không thể nào rời mắt khỏi quang cảnh diệu kỳ, khỏi những tòa tháp bằng đá như vừa mọc lên sau một đêm. Có lẽ đã hàng ngàn năm nay những dinh lũy khổng lồ của tạo hóa vẫn ngự trị ở chốn đây và có lẽ sẽ còn vững vàng đứng đó hàng triệu, hàng tỷ năm nữa. Còn nàng, Christine, nếu không có chuyến đi tình cờ này chắc hẳn nàng sẽ chết, sẽ tan rữa ra trong một nấm mồ mà không hề biết rằng trên đời lại có những điều kỳ diệu đến thế. Chưa bao giờ nàng nhìn thấy một cái gì tương tự và chắc gì đã dám mơ ước điều đó vì cuộc sống của nàng đã trôi qua theo một ngả khác: một cuộc sống vô vị, trong một mẩu không gian chỉ vừa rộng bằng một với tay, đủ để bước qua, bước lại. Trong khi đó chỉ cần vượt qua một khoảng cách bằng thời gian của một ngày đêm là bắt đầu một quang cảnh khác, đa dạng và khôn cùng. Và đột nhiên trong ý nghĩ dửng dưng, mê muội của nàng bỗng lóe lên một ý niệm rằng mình đã bỏ lỡ mất một cái gì đó trong cuộc sống đã qua. Trong những khoảnh khắc như vậy, cảm giác về sức mạnh vĩ đại của những cuộc viễn du bỗng biến đổi hẳn và con người muốn gạt bỏ ngay lớp vỏ bọc cứng nhắc của những gì quen thuộc và ném ngay cái bản chất trần trụi của mình vào cơn lốc cuồng nhiệt của thiên nhiên. Áp má vào tấm kính cửa sổ, Christine hoàn toàn đắm mình trong cảm giác mới mẻ lần đầu chợt đến và với một sự háo hức kỳ lạ, ngắm mãi không chán cảnh vật đang hiện lên trước mắt. Chẳng còn một ý nghĩ nào của nàng quay về chốn cũ, nơi nàng đã ra đi. Nàng chẳng còn nhớ đến mẹ, đến công việc, xóm làng; nàng đã quên hẳn tờ bản đồ mà trên đó có thể đọc được tên từng ngọn núi, từng dòng suối đang lướt nhanh về phía thung lũng, ngay cả cái “tôi” hôm qua của mình nàng cũng quên hết. Nàng muốn uống đến giọt cuối cùng tất cả những gì nàng đang hưởng, nàng không muốn bỏ qua một chi tiết nào từ tấm panô vĩ đại đang liên tục đổi màu, để mỗi một khoảnh khắc của nó sẽ in mãi trong trí nàng. Christine muốn uống mãi, uống mãi, không rời môi luồng không khí băng giá thần tiên, thắm đượm mùi đỗ tùng, chính bầu không khí say nồng của vùng núi ấy làm cho tiếng đập của trái tim trở nên âm vang hơn, mạnh mẽ hơn. Bốn giờ liền, Christine cứ đứng mãi nơi cửa sổ, không rời một bước, quên hẳn cả thời gian cho đến khi tàu dừng và người trưởng toa, thông báo tên ga bằng một giọng kỳ lạ không thể lẫn vào đâu được, nàng mới giật mình hoảng hốt. Lạy chúa tôi, - phải cố gắng lắm Christine mới tỉnh lại sau giấc mộng ngọt ngào vừa qua, - nàng đã đến nơi mà chưa kịp suy nghĩ về điều gì cả: nàng sẽ chào hỏi dì ra sao đây, nàng sẽ nói gì lúc gặp mặt. Christine vội vã xách va li, cầm chiếc ô, - chỉ mong đừng quên cái gì! - và theo dòng người bước ra. Những người phu khuân vác chờ tàu đến, đội những chiếc mũ nhiều màu, đứng thành hàng dài, nghiêm nghị như những hàng quân, giờ bỗng sôi nổi hẳn lên, tỏa đi khắp nơi, săn đón hành khách. Khắp mọi chỗ vang lên những tiếng chào hỏi ầm ĩ và tên những khách sạn. Nhưng chẳng có ai ra đón Christine. Nàng bối rối nhìn quanh, cảm thấy tức thở vì hồi hộp. Nàng tìm mãi nhưng vô hiệu, chẳng có ai ra đón nàng cả. Mọi hành khách đều có người ra đón hoặc tự mình biết phải đi đâu chỉ riêng nàng là không biết. Christine đứng một mình trơ trọi. Hành khách vừa xuống tàu tụ tập quanh những chiếc xe hơi của các khách sạn thành một dãy dài sặc sỡ như một khẩu đội chuẩn bị bước vào vị trí xạ kích. Sân ga vắng dần và vẫn như trước, chẳng có ai đến đón nàng. Có lẽ họ đã quên. Dì nàng không đến, có thể bà đã rời khỏi thành phố hoặc bị đau gì đó. Và chắc chắn là bà đã đánh điện cho nàng để hoãn chuyến đi lại, nhưng có lẽ điện đến quá chậm. Lạy chúa tôi, không biết có đủ tiền để quay về không! Thu hết sức lực còn lại, nàng bước đến chỗ người nhân viên phục vụ trên vành mũ có in hàng chữ vàng “Palace Hotel” và bằng một giọng yếu ớt nàng hỏi trong khách sạn của họ có vợ chồng ông bà van Boolen đang nghỉ lại hay không. “Sao lại không, sao lại không.” - Con người Thụy Sĩ trán dô long trọng trả lời bằng âm họng và đúng là ông ta được lệnh đi đón một tiểu thư ở ga. Nàng chỉ việc đưa hóa đơn hành lý cho ông còn mình có thể lên xe về khách sạn. Christine đỏ bừng mặt. Chỉ đến bây giờ nàng mới nhận ra vẻ nghèo nàn của mình và chính điều đó làm cho nàng đau xót, bởi lẽ trên tay nàng chỉ là chiếc va li nhỏ bằng mây tàn tạ bên cạnh những chiếc rương to tướng, mới toanh như lấy từ trong tủ kính ra lấp lánh kim loại của đai, khóa, bên cạnh những chiếc va li màu sắc sặc sỡ bằng những loại da quý như da cừu non, da cá sấu hay da rắn. Trong khoảnh khắc nàng bỗng nhìn thấy giữa nàng và những hành khách kia có một khoảng cách rất lớn. Nàng bỗng thấy bối rối, nhưng cần phải nghĩ ra một cách chống chế nào đây và ngay lúc ấy nàng quyết định: - Số hành lý còn lại của tôi sẽ đến sau. - Nếu vậy thì chúng ta có thể về được rồi. - Người nhân viên mặc bộ đồng phục sang trọng tuyên bố rồi mở cửa xe buýt (ơn chúa, ông ta không hề tỏ ra ngạc nhiên hay khinh thị gì cả). Nếu con người cảm thấy xấu hổ vì một việc gì đó, cho dù đó là một việc rất nhỏ được giấu kín nơi tận cùng của tiềm thức thì tất cả mọi dây thần kinh vẫn cứ bị đụng đến và chỉ cần một sự gợi nhớ thoáng qua, một ý nghĩ vô tình chợt đến đã từng làm người đó phải xấu hổ thì giờ đây lại bắt người đó phải trải qua nỗi đau ấy một lần nữa. Cú va chạm đầu tiên đó đã làm cho Christine mất đi vẻ hồn nhiên vốn có. Nàng lúng túng bước trong khoang xe tối mờ mờ và bất giác giật bắn người khi nhận ra trong xe không chỉ có mình nàng. Nhưng chẳng thể nào quay lui được nữa. Nàng đành bước qua những cặp chân bất đắc dĩ phải rụt vào để nhường đường cho nàng, trong mùi nước hoa và mùi da thuộc của những chiếc va li sang trọng bốc lên nồng nặc để bước đến dãy ghế cuối xe. Nàng cụp mắt xuống, rụt đầu lại như bị cảm lạnh, khép nép đi dọc theo xe, bối rối thốt lên “xin lỗi” mỗi khi bước ngang qua một cặp chân nào đó, dường như bằng chính sự lễ độ ấy nàng xin phép mọi người hãy tha lỗi cho việc có mặt của mình. Tuy nhiên chẳng có ai đáp lời nàng cả. Hoặc là việc đánh giá của mười sáu cặp mắt kia đối với nàng đã kết thúc chẳng hay ho gì, hoặc là những khách hàng ấy - các nhà quý tộc Rumani đang ầm ĩ tán chuyện bằng một thứ tiếng Pháp hổ lốn, - chẳng thèm để ý đến một sinh vật đáng thương đang lặng lẽ lẩn vào góc xe như một chiếc bóng. Sau khi đã đặt chiếc va li lên đầu gối - để ở chỗ khác nàng không dám - Christine thu người lại để tránh những cặp mắt giễu cợt của mọi người. Suốt cả đoạn đường, nàng không một lần dám ngước mắt lên, chỉ chăm chăm nhìn xuống sàn xe. Nhưng những đôi giày sang trọng của đám phụ nữ ngay lập tức nhắc nàng nhớ đến đôi giày thô kệch của mình. Christine bối rối liếc lên những cặp đùi phụ nữ cân đối, kệnh kiệu bắt chéo lên nhau dưới những tấm áo choàng bằng lông chồn bạc xòe rộng và những đôi bít tất đàn ông ló ra dưới quần gôn. Những thứ trang phục thuộc “hạ tầng cơ sở” ấy làm cho nàng toát mồ hôi. Nàng sẽ xử sự ra sao giữa những người có vẻ ngoài lịch lãm như thế? Dù có nhìn đâu nàng cũng luôn luôn cảm thấy một nỗi chua xót. Đấy, chẳng hạn như cô bé mười bảy tuổi cạnh nàng đang ôm trên đùi con chó Nhật lông lá bù xù, kêu ăng ẳng. Tấm vải phủ trên mình con chó Nhật cũng là một thứ vải len đắt tiền có thêu những hoa tự cầu kỳ, còn bàn tay búp măng của bô gái đang vuốt ve bộ lông xù của con chó thì lấp lánh ánh kim cương với những móng tay hồng hồng được chăm chút cẩn thận. Ngay cả những chiếc gậy đánh golf dựng ở góc xe trông cũng có vẻ sang trọng trong những chiếc bao mới tinh làm bằng một thứ da mịn màu kem sữa, còn những chiếc ô dựng cẩu thả cạnh đó cũng có những tay nắm khác lạ, chẳng cái nào giống cái nào. Bất giác Christine đưa tay giấu cái cán ô làm bằng một loại sừng rẻ tiền của mình lại. Chỉ mong sao đừng có ai nhìn về phía nàng, đừng có ai để ý đến nàng. Giờ đây Christine phải chịu đựng nỗi chua xót vì tất cả những gì lần đầu tiên trong đời nàng nhìn thấy! Người thiếu nữ bất hạnh càng cúi thấp đầu xuống, cố không để ai chú ý đến mình và mỗi lần nghe thấy những tiếng cười rộ lên ngay bên cạnh, nàng có cảm giác như bị kiến bò trên lưng. Mặc dù vậy Christine cũng chẳng dám ngước mắt lên để nhìn xem những tiếng cười ấy có liên quan đến mình hay không. KHÁT VỌNG ĐỔI ĐỜI Stefan Zweig www.dtv-ebook.com Chương 8 Nhưng rồi những giây phút nặng nề ấy cũng trôi qua. Dưới bánh xe vang lên tiếng sỏi lạo xạo và chiếc xe quành vào cổng khách sạn. Vừa nghe thấy tiếng còi hời đột ngột vang lên như tiếng chuông báo hiệu ngoài sân ga, đám phu khuân vác quần áo sặc sỡ cùng với đám bồi chạy vội đến cửa xe. Đi sau đám người ấy - địa vị bắt buộc phải như vậy - là người quản lý trưởng khách sạn trong bộ lễ phục màu đen với mái tóc rẽ ngôi chính giữa. Vật đầu tiên lao ra khỏi xe là con chó cảnh lông xù. Vừa nhảy xuống đất nó liền chồm lên, rũ lông loạn xạ. Sau đó đến lượt các bà, các cô vừa bước ra vừa tiếp tục trò chuyện, vừa đưa tay nhấc cao vạt áo choàng để lộ ra những bắp chân thon chắc như những vận động viên thể thao, để lại sau lưng mùi nước hoa nồng nặc. Mặc dù theo phép lịch sự, những người đàn ông phải nhường cho cô gái đang lúng túng đứng lên ra trước, nhưng hoặc là họ đã xác định đúng nguồn gốc xuất thân của cô gái hoặc là không nhận ra cô. Dù sao thì họ vẫn bước ra và tiến về phía người quản lý trưởng mà không nhìn về phía cô. Christine lúng túng ngồi nguyên chỗ cũ với chiếc va li bằng mây đan mà giờ đây nàng vô cùng căm ghét. Cứ để cho họ đi ra xa chút nữa, như vậy mọi người sẽ ít chú ý đến mình hơn, nàng thầm nghĩ. Nhưng Christine đã chần chừ quá lâu, đến nỗi khi ra đến bậc lên xuống thì người đàn ông mặc lễ phục đã quay vào với các vị khách Rumani còn đám bồi thì đang xăng xái xách những thứ đồ nhẹ, những người phu khuân vác theo mùa thì tất bật với những chiếc rương nặng trên nóc xe, thành ra chẳng có ai trong số họ chạy đến đón nàng, chẳng có ai để ý đến nàng. Có lẽ họ cho mình là một đứa đầy tớ nào đó, nàng nghĩ và cảm thấy một nỗi sỉ nhục sâu sắc, may ra thì họ cho mình là đứa ở của một trong số các bà vừa xuống xe. Đám khu khuân vác chạy đi chạy lại quanh nàng với thái độ hoàn toàn dửng dưng, dường như chính nàng cũng chỉ là một kẻ như họ. Christine không thể kiên nhẫn đứng mãi đây, nàng thu hết sức lực còn lại bước vào gian tiền sảnh và tiến thẳng đến chỗ người quản lý khách sạn. Người quản lý đang bận rộn tất bật. Lẽ nào Christine lại dám nói chuyện với ông ta, người thuyền trưởng của chiếc tàu sang trọng đang uy nghi đứng sau quầy, cương quyết lèo lái con tàu trong cơn bão tố của những câu hỏi tới tấp trút xuống. Mười lăm vị khách đang chờ sự quyết định của con người quyền lực vô song ấy. Một tay ông ta đang ghi chép gì đó còn tay kia nhắc ống nghe lên, quay phải, quay trái trả lời các câu hỏi và theo cách ra hiệu của mình, bằng cái gật đầu hay ánh mắt - đám bồi chạy túa đi các ngả. Và nếu trước mặt con người máy toàn năng oai vệ, thần kinh lúc nào cũng căng thẳng ấy mà các vị khách quyền thế còn phải đứng chờ thì nói gì đến cô gái rụt rè, ngớ ngẩn kia? Đối với Christine, con người uy quyền đang đứng giữa cái hỗn độn ấy quả là cao xa vời vợi. Nàng đành phải lùi vào góc phòng chờ cho đến khi cảnh ồn ào lắng xuống. Nhưng chiếc va li đáng ghét mỗi lúc mỗi nặng thêm trên tay nàng. Christine đưa mắt nhìn quanh cố tìm một chiếc ghế trống để đặt nó xuống. Vào đúng lúc ấy nàng cảm thấy - có lẽ vì quá xúc động mà nàng tưởng tượng ra như thế chăng, - hình như có mấy người ngồi trong chiếc ghế bành gần đấy đang nhìn nàng bằng ánh mắt mỉa mai và vừa mỉm cười vừa thì thầm trao đổi gì đó. Chỉ một chút nữa thôi là Christine sẽ đánh rơi chiếc va li khốn nạn vì mấy ngón tay bỗng mỏi rã rời. Nhưng vào chính cái giây phút khắc nghiệt đó, một người đàn bà còn trẻ, ăn mặc rất trang nhã, có mái tóc vàng một cách giả tạo, cương quyết bước thẳng đến chỗ nàng và sau khi đã chăm chú quan sát liền cất tiếng hỏi: - Có phải cháu đấy không, Christine? Và khi cô cháu gái vừa kịp thở phào nhẹ nhõm, chưa kịp nói “vâng” thì người dì đã nhẹ nhàng ôm lấy hai vai nàng và hôn nhẹ lên má, để lại một mùi phấn thơm nồng nặc. Sau những giờ phút đơn độc khổ sở, Christine sung sướng cảm thấy một tình cảm gần gũi, thân thuộc đến nỗi nàng nồng nhiệt ngả hẳn vào vòng tay của bà dì. Người đàn bà tiếp nhận cử chỉ đó như là biểu hiện của tình cảm ruột thịt trìu mến, cũng tỏ ra xúc động không kém. Bà nhẹ nhàng vuốt ve đôi vai run rẩy của nàng: - Ồ, dì mừng biết bao vì cháu đã đến. Dượng Anthony và dì đều rất mừng. - và nắm lấy tay nàng bà nói tiếp: - Nào đi thôi, dĩ nhiên là cháu phải sửa soạn lại trang phục một chút. Chắc tàu xe ở Áo không được đầy đủ tiện nghi cho lắm phải không. Cứ yên tâm sửa soạn, chỉ có điều đừng lâu quá. Người ta đã rung chuông báo giờ ăn rồi đấy mà dượng Anthony thì không thích phải đợi đâu, ông ấy có cái nhược điểm như vậy… À mà dì đã chuẩn bị mọi thứ cho cháu rồi, người gác cửa sẽ đưa chìa khóa phòng cho cháu ngay bây giờ. Nhanh lên nhé. Chẳng cần phải mặc trang phục lộng lẫy lắm đâu, giờ ăn trưa ở đây ai muốn ăn mặc ra sao cũng được. Bà dì vừa giơ tay ra hiệu, một người bồi mặc đồng phục vàng chạy đến nhấc ngay cái va li và cái ô rồi chạy đi lấy chìa khóa. Thang máy nhẹ nhàng đưa Christine lên tầng ba. Đến giữa hành lang, người bồi mở cửa phòng của nàng. Christine bước vào. Và ngay ngưỡng cửa nàng đã giật mình sững lại như bị va đầu vào đá. Bởi lẽ dù có mong ước đến đâu thì người nữ nhân viên bưu điện của làng Klein-Reifling vốn đã quen với cảnh nghèo khổ, không thể nào ngay lập tức tin được rằng căn phòng này lại dành cho nàng. Căn phòng sang trọng, rộng rãi, sáng đến chói mắt, tường bồi giấy sặc sỡ với cánh cửa trước mặt mở ra ban công, trông như một con thuyền bằng pha lê trong thác nước rực rỡ màu sắc. Ánh sáng chiếu khắp gian phòng làm cho mỗi một đồ vật càng trở nên đẹp đẽ trong dáng vẻ tự nhiên của nó. Những thứ đồ đạc bằng gỗ đánh véc ni bóng loáng, nổi bật những đường nét tinh xảo, dường như chúng không phải làm bằng gỗ mà bằng pha lê, trên những đồ bằng đồng thau và trên kính cửa những giọt nắng vui vẻ nhảy nhót lung linh, còn tâm thảm dệt hoa đẹp đẽ trong nhà là một thảm cỏ sống động. Đó chẳng phải là một căn phòng mà là một buổi sáng thiên đường rạng rỡ. Lóa mắt và sửng sốt vì tất cả những sắc màu kỳ diệu ấy, Christine bất giác đứng lại cho đến khi tim bớt đập trong lồng ngực sau đó nàng vội vã đóng cửa lại, trong lòng gợn chút băn khoăn. Cảm giác đầu tiên của nàng là kinh ngạc: lẽ nào trên đời này lại có nhường ấy màu sắc huy hoàng và tráng lệ đến thế! Ý nghĩ tiếp theo của nàng - một ý nghĩ luôn luôn gắn chặt với những ước mơ không thành - là tất cả những thứ ấy đáng giá bao nhiêu tiền, chắc là nhiều tiền, chắc là nhiều lắm, nhiều kinh khủng! Có lẽ chỉ một ngày sống ở đây cũng đáng giá hơn cả một tuần, không phải một tuần mà cả một tháng lương của nàng. Christine bối rối, - có ai dám coi đây là nhà của mình được - đưa mắt nhìn khắp gian phòng và thận trọng đặt một chân lên tấm thảm rồi đến chân kia. Sau đó với một sự tò mò và thán phục, nàng ngắm nghía hết thứ này đến thứ khác. Đầu tiên nàng nhẹ nhàng sờ nắn chiếc giường; chẳng lẽ chính nàng sẽ được ngủ trên chiếc giường này, trên những tấm ra mới tinh, trắng toát và mát lạnh này. Còn tấm chăn nhồi lông nhẹ tênh, mềm mại với những bông hoa thêu bằng chỉ tơ, cầm trên tay nhẹ như lông hồng. Và chiếc công tắc cạnh giường, chỉ cần ấn nhẹ ngón tay là ngọn đèn bừng lên tỏa ra một quầng sáng hồng hồng, dễ chịu. Hết phát hiện này đến phát hiện kia: chiếc bồn sứ rửa mặt trắng bóng với những vòi nước mạ kền sáng loáng, chiếc ghế bành êm và sâu đến nỗi đã ngồi vào khó mà nhấc người lên nổi, những thứ đồ gỗ quý đánh véc ni làm tăng thêm vẻ hài hòa cho lớp giấy bồi tường màu xanh biếc, còn trên mặt bàn là bốn bông tử đinh hương màu sắc khác nhau, cắm trong chiếc bình cao như đang chào mời vị khách - mà ngay cả chiếc bình pha lê cũng có kém gì về màu sắc. Quả là một cảnh sang trọng thần tiên mà trí tưởng tượng của nàng dù có phong phú đến đâu cũng không thể nghĩ ra nổi. Và tất cả những thứ đó đang hiện diện trước mặt nàng đây, nàng có quyền sử dụng chúng, cả ngày, cả tuần, cả hai tuần nữa. Đắm mình trong cảm giác thích thú, Christine trở nên bối rối như một kẻ đang yêu: đi từ đồ vật này tới đồ vật kia, sửng sốt sờ nắn từng thứ một, cho đến lúc nàng bỗng sững lại suýt ngã, như vừa giẫm phải con rắn. Sự việc té ra là như thế này: khi nàng vô tình mở cánh cửa tủ lớn gắn vào tường, nàng không ngờ rằng mặt sau cánh cửa có gắn một tấm gướng lớn và ngay lúc ấy - giống như một con quỷ nhỏ thè chiếc lưỡi đỏ lòm nhảy xổ ra khỏi chiếc hộp đồ chơi - từ trong tấm gương một hình dạng to bằng người thật đang chăm chú nhìn nàng. Christine kinh hoàng nhận ra chính bản thân mình trong cái hiện thực khắc nghiệt ấy - cái vật thể thô tục duy nhất trong cảnh sang trọng này. Chiếc áo bành tô nhàu nát màu vàng chóe, chiếc mũ rơm rúm ró và một vẻ mặt bối rối, - cảnh tượng ấy làm cho nàng bị chấn động sâu sắc. Hãy cút khỏi nơi đây, đồ xỏ lá! Không được làm vấy bẩn căn phòng lịch sự này! Hãy trở về ngay với địa vị của nhà ngươi! - Dường như chính tấm gương đang thét vào mặt nàng như vậy. Mà đúng ra thì làm sao ta lại dám cho phép mình sống trong một căn phòng như thế này, trong một khách sạn như thế này? - Christine chán nản tự hỏi. - Thế mà dì lại còn nói chẳng cần trang phục lộng lẫy lắm đâu, dường như mình có những thứ trang phục ấy vậy! Không, mình sẽ không xuống dưới nữa, mình sẽ ở lại đây. Tốt nhất là mình nên quay trở về. Nhưng mình còn biết trốn đi đâu, mà liệu có cách nào trốn đi không? Bà dì chắc chắn sẽ tóm ngay được mình và sẽ nổi giận. Bất giác Christine vội vã rời khỏi tấm gương và bước ra ban công. Nàng run rẩy bám chặt vào lan can và nhìn xuống dưới. Nếu ta lao đầu xuống - và thế là mọi chuyện chấm dứt. KHÁT VỌNG ĐỔI ĐỜI Stefan Zweig www.dtv-ebook.com Chương 9 Nhưng ngay lúc ấy ở dưới vọng lên tiếng chuông giục giã. Lạy chúa tôi! Christine bỗng nhớ ra dì và dượng đang đợi nàng ở phòng tiền sảnh, thế mà nàng còn dềnh dàng ở đây. Và thế là không kịp rửa ráy. Không kịp cởi chiếc áo bành tô đáng nguyền rủa mà bà chị đã mua trong dịp bán đấu giá, nàng run rẩy mở vội chiếc va li lấy ra mấy thứ đồ lót bọc trong tấm vải cao su. Nhưng khi Christine đặt bánh xà phòng thô kệch cùng với chiếc bàn chải sứt sẹo bằng gỗ và mấy thứ đồ vặt khác được mua bằng cái giá rẻ mạt lên chiếc giá sạch bong bằng pha lê, nàng bỗng cảm thấy dường như mình lại đang phô bày sự nghèo nàn của tầng lớp tiểu thị dân trước cặp mắt soi mói, khinh bỉ của ai đó. Người hầu phòng sẽ nghĩ sao khi nhìn thấy tất cả những thứ ấy. Chắc hẳn chị ta sẽ kể cho đám bạn của mình về con bé ăn mày với một giọng nhạo báng. Rồi bọn họ lại kể cho những người khác nghe nữa và thế là cả khách sạn sẽ biết hết. Còn nàng, ngày nào cũng sẽ phải cụp mắt đi ngang qua chỗ họ và sẽ phải nghe thấy những tiếng cười khúc khích sau lưng. Không, trong việc này dì nàng cũng chẳng giúp gì được, điều ấy cũng chẳng giấu được ai và sẽ lan truyền khắp chốn. Trong mỗi bước đi của nàng thế nào cũng để lộ những nhược điểm này khác và quần áo, giày dép của nàng chỉ càng phơi bày cảnh nghèo nàn trước mặt mọi người mà thôi. Đúng như thế, nhưng cần phải nhanh lên mới được vì bà dì đang đợi, còn ông dượng, theo lời bà dì nói lại không thích phải chờ đợi. Trời đất ơi, làm sao bây giờ? Biết mặc cái gì đây? Ý nghĩ đầu tiên của nàng là mặc chiếc áo màu xanh lá cây bằng tơ nhân tạo mà nàng đã mượn của chị gái. Nhưng chiếc áo mà hôm qua ở Klein-Reifling nàng còn cho là đẹp nhất trong tất cả quần áo của mình thì hôm nay cảm thấy thật là tầm thường, xấu xí. Có lẽ tốt hơn nên mặc chiếc áo trắng giản dị kia, nó sẽ không gây nên sự chú ý của mọi người và nếu nàng cầm theo mấy bông hoa trong lọ và giữ chúng trước vạt áo thì có lẽ bó hoa rực rỡ ấy sẽ đánh lạc hướng sự chú ý đối với nàng. Sau đó, Christine cụp mắt xuống, gần như ngưng thở vì sợ hãi chạy vội xuống cầu thang vào phòng tiền sảnh, đuổi kịp mấy người đi trước. Khuôn mặt tái mét, cắt không còn giọt máu, đầu óc choáng váng, đau nhức, Christine có cảm giác như mình đang bay xuống vực thẳm. o O o Vừa bước vào phòng tiền sảnh, Christine nhìn ngay thấy bà dì. Lạ thật, - người đàn bà vừa nghĩ vừa bước về phía cô cháu gái, - Có chuyện gì xảy ra với con bé thế không biết? Lúc thì đi, lúc thì chạy, lại né tránh mọi người, nó xấu hổ chăng? Quả là một con bé dễ xúc động. Đúng ra trước đó mình phải tìm hiểu kỹ hơn về nó mới phải! Trời đất ơi, bây giờ nó lại đứng lù lù như một con ngốc giữa cửa thế kia. Có thể con bé bị cận thị hay trong người có gì không ổn chăng? - Nào, có chuyện gì thế cháu? Sao mặt lại tái mét thế kia. Cháu không được khỏe à? - Không ạ, không ạ. - Christine ấp úng thốt lên và càng lúng túng hơn nữa. Có biết bao nhiêu người trong tiền sảnh, còn cái bà mặc bộ đồ đen đang cầm chiếc kính tay[6] hình như đang nhìn về phía nàng. Có lẽ bà ta để ý đến đôi giày thô kệch, tức cười của mình chăng. - Nào, đi thôi, đi thôi, cô bé, - bà dì nói rồi nắm lấy tay nàng, hoàn toàn không nghi ngờ rằng mình đã giúp rất nhiều cho cô cháu gái đang sợ chết khiếp. Bởi lẽ chính nhờ cử chỉ ấy mà cuối cùng Christine đã tìm thấy một chỗ dựa, một chốn nương thân khi bước đằng sau bà dì một chút. Còn bà dì, khi ôm đứa cháu đi bên cạnh đã che khuất nàng trước mặt mọi người bằng thân hình, bằng bộ áo váy và bằng dáng điệu của mình. Nhờ có dì dẫn đi nên Christine đã yên ổn băng qua phòng ăn đến bên chiếc bàn nơi ông dượng Anthony mập mạp đang dửng dưng chờ họ. Ông đứng dậy, hai cặp má chảy xệ biến thành một nụ cười hiền lành, đôi mắt sáng tiêu biểu của người Hà Lan với mí mắt hồng hồng vui vẻ ngắm nghía người cháu gái. Ông chìa cho nàng bàn tay to, nặng nề vì làm việc nhiều. Ông cảm thấy sung sướng vì không phải đợi hai dì cháu bên chiếc bàn đã bày biện sẵn sàng nữa, ông thích ăn ngon và ăn no. Mọi trở ngại làm ảnh hưởng đến công việc này ông không thể nào chịu nổi và ngay từ hôm qua, trong thâm tâm ông đã lo sẽ phải gặp một con bé thượng lưu, vô công rồi nghề, khó chịu, lúc nào cũng ba hoa và tuôn ra những câu hỏi làm ảnh hưởng tới bữa ăn của ông. Nhưng giờ đây, nhìn cô cháu gái nhợt nhạt, e thẹn và khá hấp dẫn trong vẻ bối rối của mình, ông cảm thấy yên lòng và ngay lập tức rút ra kết luận rằng với cô bé này có thể sẽ dễ dàng thỏa thuận về mọi việc. - Việc đầu tiên là ăn đã, sau đó hãy nói chuyện, - ông dịu dàng, thân ái khuyến khích cô gái. Người con gái gầy gò và e thẹn đến nỗi không dám ngước cả mắt lên đã làm ông thích thú. Cô bé không hề giống chút nào với những cô gái dạn dĩ ở bên kia đại dương mà ông không thể nào chịu nổi, bởi lẽ lúc nào họ cũng kè kè bên những chiếc máy hát, đi đứng nghênh ngang. Những hành động như vậy, phụ nữ ở đất nước Hà Lan của ông không bao giờ cho phép mình làm. Bất giác ông chép miệng rồi nghiêng người trên bàn, tự tay rót cho nàng một ly rượu nho sau đó ra hiệu cho người hầu bàn mang bữa trưa đến. Người hầu bàn có khuôn mặt dài ngoằng, bệ vệ, cổ tay áo hồ bột cứng ngắc. Lạy Chúa tôi, ông ta bày ra những món ăn kỳ dị làm sao, những thứ đồ nhắm lạ lùng, chưa bao giờ nàng nhìn thấy: những trái ôliu ướp lạnh, những đĩa salad sặc sỡ, những con cá lấp lánh màu ánh bạc, cả một núi áctisô, món kem lạ lùng không sao hiểu nổi, những lát patê gan ngỗng mịn màng, những khoang cá hồi màu hồng nhạt - những thứ sơn hào hải vị ấy được chế biến rất tinh tế và chắc hẳn sẽ tan ngay trong miệng. Nhưng trong hàng đống những bộ đồ ăn bày sẵn trên bàn kia biết dùng thứ nào để ăn các món mĩ vị ấy? Dùng chiếc thìa nhỏ hay chiếc thìa tròn; dùng chiếc dao bé tí xinh xắn hay chiếc dao to bản? Cần phải cắt và lấy những món ăn như thế nào để khỏi lộ ra rằng đây là lần đầu tiên trong đời, nàng bước chân vào một khách sạn sang trọng như thế này, trước mặt những người đã trả tiền cho những món ăn ấy và những người ngồi bàn bên cạnh, dày dạn kinh nghiệm? Làm cách nào để tránh khỏi những sơ suất thô thiển. Để tranh thủ thời gian, Christine chậm rãi mở chiếc khăn ăn ra và kín đáo quan sát đôi tay của bà dì để nhất nhất làm theo mọi cử động của bà. Tuy nhiên trong lúc ấy nàng lại phải lắng nghe những câu hỏi thân tình của ông dượng, - phải hết sức chăm chú lắng nghe, bởi lẽ ông dượng nói một thứ tiếng Đức đặc sệt giọng Hà Lan, thỉnh thoảng lại chêm thêm mấy từ tiếng Anh. Christine lại buộc phải cố gắng hết sức để chẳng những chỉ chiến đấu trên hai mặt trận ấy mà còn để vượt qua được cảm giác về sự thấp kém của mình, trong lúc từ sau lưng nàng cứ vẳng lên những tiếng xì xào và nàng cho rằng có lẽ những người ở bàn bên đang ném về phía nàng những ánh mắt châm chọc hoặc thương hại. Nỗi lo sợ để lộ ra sự thấp kém và ngớ ngẩn trước mắt dì dượng, trước mắt người hầu bàn và các thực khách đang ngồi trong phòng ăn, đồng thời lại muốn tỏ ra vui vẻ, vô tư đã làm cho thần kinh của Christine căng thẳng hết mức, đến nỗi nàng có cảm giác nửa giờ ngồi sau bàn ăn như kéo dài vô tận. Tuy nhiên nàng cũng chịu đựng được cho tới lúc dùng món tráng miệng. Cuối cùng, bà dì tuy không đoán được nguyên nhân song cũng nhận ra vẻ bối rối của nàng: - Trông cháu có vẻ mệt mỏi lắm, cô bé ạ. Mà cũng đúng thôi vì suốt đêm phải ngồi trong những toa tàu châu Âu khốn khổ. Nhưng không sao cả, cháu đừng e ngại gì hết, cứ nằm nghỉ khoảng một giờ rồi sau đó chúng ta sẽ đi dạo một chút. Chẳng đi đâu mà vội, dượng Anthony bao giờ cũng nghỉ ngơi sau bữa ăn trưa. - Vừa đứng dậy bà vừa nắm tay cô cháu gái. - Ta đi thôi, dì sẽ đưa cháu về phòng. Cứ nằm nghỉ một lát là tỉnh dậy sẽ khỏe khoắn ngay thôi, khi đó chúng ta sẽ dạo chơi thoải mái. Christine hít một hơi thật sâu và thầm cảm ơn bà dì. Được giấu mình một giờ trong phòng có nghĩa là Christine đã lợi được một giờ để chuẩn bị. - Thế nào, mình có thích cô bé ấy không? - vừa bước vào phòng bà dì đã hỏi ngay ông Anthony lúc ấy vừa đi vừa cởi áo vét và áo gi lê. - Rất dễ thương, - ông chồng mập mạp ngáp một cái rồi nói: - một khuôn mặt thành Vienna rất dễ thương… Bà đưa cho tôi cái gối… Đúng là một cô bé rất dễ thương và khiêm tốn. Chỉ có điều, tôi cảm thấy là cô bé ăn vận hơi nghèo nàn… Tôi chẳng biết diễn tả như thế nào cho chính xác… Ở đất nước chúng ta từ lâu mọi người không ăn mặc như thế nữa… Nếu bà định giới thiệu nó là cháu của mình với mọi người thì phải cho nó ăn mặc đàng hoàng hơn mới được… Bà có thể cho nó mượn một số quần áo của mình được chứ? - Mình thấy đấy, tôi đã cầm chìa khóa tủ đây. - bà van Boolen mỉm cười nói - Chính tôi cũng hết hồn khi nhìn tháy nó giữa đám khách mới đến, ngay từ khi nó còn đứng ngoài sân kia… Vâng, đúng là một cảnh tượng làm tổn hại thanh danh vô cùng. À mà mình không nhìn thấy chiếc áo bành tô của nó nhỉ, vàng chóc như lòng đỏ trứng gà áy, một mẫu hàng độc đáo dành riêng cho những cửa hiệu chuyên bán những đồ kỳ quái của bọn da đỏ… Con bé khốn khổ, giá mà nó hiểu được cơ chứ… tất cả bọn họ ở nước Áo đã bị phá sản hoàn toàn vì cuộc chiến tranh khốn nạn vừa qua, chính mình đã nghe nó kể đấy - chưa bao giờ đi quá thành Vienna đến ba dặm, chưa bao giờ được tiếp xúc với mọi người… Con bé khốn khổ, có thể nhận ra ngay là nó rất bỡ ngỡ với môi trường ở đây, đi đứng cứ như bị ma đuổi ấy… Thôi được rồi, tôi sẽ chuẩn bị trang phục cho nó theo đúng phép lịch sự, đồ đạc của tôi mang theo cũng khá nhiều, nếu có thiếu thứ gì tôi sẽ mua ở cửa hàng của người Anh. Sẽ chẳng có ai phát hiện ra chuyện gì đâu, mà tại sao lại không cho phép nó được tận hưởng khoái lạc dù chỉ một hai tuần, thật là một con bé khốn khổ. Và trong khi ông chồng mệt mỏi đang thiếp đi trong chiếc đi văng rộng thì bà van Boolen xem xét lại hai chiếc rương quần áo của mình ở phòng ngoài. Hai chiếc rương cao nễu nghện đến tận trần nhà. Trong hai tuần lễ ở Paris bà van Boolen chẳng những chỉ quan tâm đến các viện bảo tàng mà còn rất chú ý đến những tiệm may y phục phụ nữ. Trên tay bà giờ đây là những bộ đồ bằng nhiễu Trung Quốc, hàng tơ lụa bằng vải batic. Bà lôi từng đống áo cánh và váy dài ra, sờ nắn, lật qua lật lại dưới ánh sáng, xem chúng nhẹ hay nặng, đếm lại một lần nữa, rồi đặt vào chỗ cũ. Những ngón tay thành thạo của bà thích thú dạo chơi trên những súc vải và những chiếc váy màu đen, mịn màng, bền chắc trước khi quyết định đưa những thứ đó cho Christine. Cuối cùng trên chiếc ghế bành xuất hiện một đống áo váy mỏng tang cùng với tất chân và đồ lót lấp lánh màu sắc. Bà ôm tất cả mớ đồ đạc nhẹ tênh ấy bằng một tay và mang đến phòng cô cháu gái. Bà nhẹ nhàng hé cửa rồi bước vào phòng, nhưng trong giây phút đầu tiên bà có cảm giác trong phòng không có người. Cửa sổ mở rộng, trên chiếc ghế bành không có ai, bên chiếc bàn viết cũng vậy. Bà định đặt đống quần áo xuống ghế thì bỗng nhận ra Christine đang ngủ trên chiếc đi-văng. Vì chưa quen và quá bối rối, cô gái đã hấp tấp uống khá nhiều rượu vang, trong khi đó thì ông dượng tốt bụng lại có ý muốn trêu nàng thành ra cứ rót luôn tay và thế là giờ đây đầu óc nàng quay cuồng. Christine đã định ngồi trên đi-văng để suy nghĩ về tất cả mọi chuyện nhưng trạng thái mơ màng nhanh chóng ập đến và nàng đành ngả người lên những chiếc gối rồi thiếp đi lúc nào không biết. Hình dạng của một con người đang ngủ, nhất là vẻ mặt yếu đuối, bất lực của người đó luôn luôn gợi lên những ấn tượng dễ làm ta xúc động hoặc tức cười. Người dì đã mủi lòng thật sự khi nhẹ chân bước đến gần Christine. Trong giấc mơ nàng vẫn e thẹn áp hai tay lên ngực dường như đang định chống đỡ một chuyện gì vậy? Cái tư thế rất trẻ con ấy với chiếc miệng hơi hé hé có vẻ sợ sệt đã gây được sự đồng cảm trong lòng bà van Boolen. Hàng lông mày hơi dướn lên có cảm giác như nàng đang mơ thấy một chuyện gì đó thật đáng sợ. Bà dì bỗng đoán ra mọi chuyện: ngay cả trong giấc mơ Christine vẫn chưa hết sợ hãi. Cặp môi của con bé mới nhợt nhạt làm sao còn làn da trên khuôn mặt có vẻ ốm yếu, vậy mà nó vẫn hãy còn quá trẻ và lúc ngủ trông như một đứa con nít… Có lẽ tất cả những điều đó là hậu quả của một cuộc sống không được no đủ cho lắm. Chắc hẳn con bé phải đi làm quá sớm để kiếm sống, phiêu bạt trong những cảnh làm than đến kiệt sức, mòn mỏi, mà nó đã già dặn gì cho cam, chưa đến hai mươi tám tuổi. Con bé khốn khổ! Dường như có một cái gì đó giống như sự xấu hổ bỗng thức dậy trong lòng người đàn bà tốt bụng khi bà ngắm nhìn đứa cháu ruột của mình, nhưng người cháu không thể nào đoán được điều bí mật ấy của bà. Mà đúng là con bé có vẻ mệt mỏi, kiệt sức và bất hạnh, còn bà, quả là nhục nhã, đáng lý phải giúp mẹ con nó từ lâu. Ở bên kia đại dương, vợ chồng bà vẫn thường làm những việc từ thiện, ủng hộ cả những món quà sinh nhật, nhưng chẳng hề biết tất cả những đóng góp ấy là để cho ai. Còn ở đó chính là người chị ruột của mình. Dòng máu của mình, thế mà hàng bao năm trời gia đình bà không một lần nhớ đến họ, trong khi chỉ cần vài trăm đô la là có thể làm được những việc diệu kỳ. Tất nhiên là họ cũng có thể viết thư cho bà, làm cho bà nhớ đến họ, nhưng những kẻ nghèo khổ bao giờ cũng tỏ ra kiêu hãnh một cách ngu ngốc, không muốn ngửa tay ra xin ai một cái gì. Lạy Chúa tôi, giờ đây ít ra thì bà có thể giúp đỡ cho con bé nghèo khổ, e thẹn này, mang lại cho nó chút ít hạnh phúc. Không hiểu tại sao bà lại thấy xúc động sâu sắc khi ngắm nhìn vẻ mặt mơ mộng của đứa cháu - có thể bà đã nhận ra chính tuổi thơ của mình trong hình dáng của đứa cháu gái, hoặc giả bà chợt nhớ đến bức ảnh cũ của mẹ trong chiếc khung nhỏ mạ vàng nhũ treo ở đầu giường bọn trẻ? Cũng có thể cái cảm giác cô độc mà bà đã trải qua hồi còn sống trong nhà trọ ở New York giờ đây bỗng trỗi dậy, - nhưng dù sao đi nữa, một tình cảm dịu dàng, trìu mến bỗng dâng lên choáng ngợp trong lòng người đàn bà đã bước sang bên kia dốc của cuộc đời. Bà âu yếm vuốt nhẹ mái tóc vàng của đứa cháu. Christine tỉnh ngay dậy. Công việc chăm sóc người mẹ đau ốm đã luyện cho nàng thói quen bật ngay dậy mỗi khi có ai chạm khẽ vào người. - Muộn lắm rồi hả dì? - nàng ấp úng thốt lên, vẻ hối lỗi. Nỗi sợ hãi bị muộn giờ làm việc đã ăn sâu trong tiềm thức của bất kỳ một công chức nào và trong nhiều năm trời nó đã từng bám chặt lấy nàng trong mỗi giấc ngủ, bởi vậy bao giờ Christine cũng thức giấc khi nghe thấy tiếng chuông báo thức đầu tiên. Trước hết, sau khi thức dậy nàng nhìn ngay vào chiếc đồng hồ báo thức cùng với một câu hỏi: “Không biết đã muộn chưa nhỉ?” Và cảm giác đầu tiên trong mỗi buổi sáng bao giờ cũng là nỗi lo sợ không biết mình có sơ suất gì trong công việc hay không. - Sao cháu lại sợ hãi thế? - Người dì nói, giọng vỗ về. - Ở đây chúng ta có thừa thời gian, đến nỗi không biết dùng vào việc gì. Đừng e ngại, nếu cháu còn mệt cứ nghỉ đi, dì cũng chẳng muốn làm phiền, nhưng dì có mang cho cháu mấy bộ áo váy, cháu xem nếu thích cái nào thì cứ dùng. Dì mang từ Paris đến khá nhiều quần áo đến nỗi không khép nổi va li nữa và thế là dì nghĩ có lẽ tốt hơn là cháu mặc thay dì một vài bộ nào đó. Christine cảm thấy mặt và cổ mình đỏ bừng lên. Như vậy là ngay từ cái nhìn đầu tiên họ đã hiểu rằng nàng sẽ làm ô nhục họ bằng sự nghèo nàn của mình… Có lẽ cả hai người - cả dượng lẫn dì - đều thấy xấu hổ vì nàng. Nhưng bà dì muốn giúp nàng một cách tế nhị, muốn ngụy trang cái hành động bố thí ấy để nàng khỏi tự ái. - Làm sao mà cháu lại có thể mặc quần áo của dì được? - Christine ấp úng thốt lên. - Chúng quá sang trọng đối với cháu. - Chuyện nhảm nhí, chắc chắn là cháu mặc chúng sẽ hợp hơn so với dì. Chính dượng Anthony đã nói là dì ăn vận có vẻ trẻ trung quá. Ông ấy cứ muốn dì phải mặc giống như bà ngoại của ông ấy ở Zaandam: tuyền một thứ lụa đen dày cộp, gài khuy kín từ chân đến cổ, y như một tín đồ Tin lành chính cống ấy, còn trên đỉnh đầu phải có chiếc mũ trùm hồ bột cứng ngắc. Mấy bộ đồ vớ vẩn này, cháu mặc vào chắc sẽ làm cho ông ấy thích mê đấy. Thôi, cháu mặc thử xem nào, cháu định chọn cái nào cho buổi chiều nay? Và thế là chỉ trong chớp mắt - tài năng nghề nghiệp của một người chuyên làm mẫu tưởng đã quên hẳn từ lâu giờ bỗng sống lại - bà van Boolen chọn ngay một chiếc áo váy nhẹ nhất ướm ngay lên người mình. Với những bông hoa màu ngà voi và những đường viền sặc sỡ kiểu Nhật Bản, chiếc áo váy lấp lánh như mùa xuân bên cạnh một chiếc áo khác có những vệt sọc màu đỏ thắm như lưỡi lửa trên nền đen như bóng đêm. Chiếc áo thứ ba có sắc màu xam xám của đầm lầy với những đường chỉ nhỏ màu bạch kim nơi những mép viền. Cả ba chiếc áo váy đối với Christine thật là tuyệt và trong thâm tâm nàng không thể nào từ bỏ được ý nghĩ muốn được mặc chúng. Những thứ hàng sang trọng và mỏng manh như thế mặc vào kể cũng đáng sợ; lúc nào cũng lo ngay ngáy lỡ vô ý làm rách. Và nàng sẽ đi đứng, chuyển động ra sao trong đám mây bồng bềnh được dệt bằng màu sắc và ánh sáng ấy? Muốn mặc những chiếc áo như vậy trước hết phải học cách sử dụng chúng. Mặc dù vậy, không có người phụ nữ nào lại có thể cưỡng nổi trước sự quyến rũ bởi những báu vật như thế. Hai cánh mũi phập phồng, hai tay bắt đầu run lên một cách kỳ lạ, những ngón tay không cưỡng nổi ý muốn được vuốt ve lên mặt vải, và phải cố gắng lắm Christine mới kìm lại được. Bà dì, bằng một kinh nghiệm tích lũy từ lâu, không lạ gì nỗi thèm muốn hiện lên trong ánh mắt của nàng, đó chính là nỗi xúc động ngọt ngào mà bất cứ người đàn bà nào cũng không tránh khỏi trước những đồ vật đắt tiền, sang trọng. Bất giác bà mỉm cười khi nhận thấy một tia lửa nhỏ bừng lên trong cặp mắt của cô gái tóc sáng e thẹn. Ánh mắt lơ láo, bối rối của nàng lúng túng chuyển từ chiếc áo này sang chiếc áo kia và bà dì giàu kinh nghiệm biết trước cô cháu gái ngây thơ sẽ chọn chiếc áo nào, rồi khi chọn xong cô ta sẽ phải hối tiếc khi nhìn thấy những chiếc áo khác cũng đẹp đẽ không kém. Với ý định hoàn toàn tốt đẹp, bà va Boolen thích thú đổ thêm dầu vào lửa: - Chẳng đi đâu mà vội, dì để cả ba chiếc áo váy lại cho cháu, hôm nay cháu sẽ chọn một cái ưng ý nhất, những cái còn lại ngày mai sẽ thử. Tất chân và đồ lót dì cũng có đem đến đấy… Bây giờ chỉ cần trang điểm một chút nữa là đôi má nhợt nhạt của cháu sẽ trở nên hồng hào, tươi tắn ngay. Nếu cháu không phản đối, ta sẽ cùng đi ra cửa hàng bây giờ và sẽ mua tất cả những thứ cháu cần trong khi sống ở thành phố Engadine này. - Nhưng, dì ạ… - cuối cùng Christine xúc động lắp bắp - cháu thấy phiền dì quá… Chẳng cần phải hoang phí vì cháu như vậy làm gì. Cả căn phòng này cũng quá sang trọng, thực tế thì đối với cháu một căn phòng bình thường cũng đủ. Bà dì chỉ mỉm cười, nhưng không rời mắt khỏi nàng. - Còn sau đó, cháu ạ, - bà tuyên bố như ra lệnh. - Chúng ta sẽ đến gặp thợ uốn tóc của dì, bà ấy sẽ giúp cháu sửa lại đầu tóc một chút. Những cái đuôi sam như của cháu ở bên nước dì chỉ có người da đỏ là vẫn để thôi. Rồi cháu sẽ thấy, đầu tóc sẽ nhẹ nhõm hơn nhiều khi cái bờm ấy không còn lắc lư sau gáy nữa. Đừng cãi dì. Trong việc này dì am hiểu hơn cháu nhiều, cứ tin ở dì và đừng lo lắng gì cả. Chúng ta còn khối thời gian, dượng Anthony bây giờ còn đang mê mải với món bài poker. Chiều đến, cháu sẽ xuất hiện trước mặt ông ấy trong một hình thức hoàn toàn mới mẻ. Thôi nào, cháu chuẩn bị rồi đi thôi. Trong một cửa hàng quần áo lớn, hết hộp đồ này đến hộp đồ khác được từ trên giá xuống mặt quầy hàng. Hai dì cháu chọn một chiếc áo len carô, một chiếc thắt lưng bằng da hươu để tăng thêm vẻ kiều diễm cho eo lưng, một đôi giày chắc chắn màu hung nhạt vẫn còn thoảng mùi da tươi, một chiếc mũ, một đôi tất dài đến gối vừa khít, màu sắc sặc sỡ và vài thứ lặt vặt khác. Khi thử chiếc áo mới ở phòng thử quần áo, Christine cởi chiếc áo len cũ đáng nguyền rủa ra như trút bỏ một vết ung nhọt rồi lặng lẽ giấu cái tang chứng về sự nghèo nàn của mình vào chiếc hộp giấy. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm kỳ lạ khi những đồ vật đáng ghét biến dần vào chiếc hộp, dường như cùng với những đồ vật ấy nỗi lo sợ của nàng cũng được chôn chặt ở đó. Trong một cửa hàng khác họ lại mua thêm đôi giày dạ hội, một chiếc khăn quàng bằng tơ nhẹ và một lô những vật dụng đầy sức hấp dẫn kiểu như vậy. Christine kinh ngạc quan sát cảnh mua bán kỳ lạ của bà dì - mua mà không hề quan tâm đến giá cả của những thứ vừa mua được, không hề trải qua nỗi lo lắng ám ảnh thường xuyên rằng chúng “quá đắt”. Cứ việc chọn lựa thoải mái rồi nói một tiếng “vâng” nhẹ nhõm thế là các món hàng đã được gói lại cẩn thận và người giao hàng sẽ chuyển chúng về tận nhà cho ta. Những ý muốn chưa kịp thốt ra thì chúng đã được thực hiện chu đáo. Tất cả những chuyện ấy thật kỳ lạ nhưng đồng thời lại hấp dẫn và thú vị vô cùng. Christine hoàn toàn bị chi phối bởi sự màu nhiệm ấy, không còn nghĩ đến chuyện phản đối, để mặc cho bà dì toàn quyền quyết định. Nàng chỉ ngượng ngùng quay mặt đi mỗi khi bà dì lấy từ trong túi xách ra những tấm ngân phiếu và cố bỏ ngoài tai những câu trao đổi về giá cả. Tất cả những món hàng ấy tốn hết bao nhiêu tiền, chắc là nhiều kinh khủng. Trong suốt từng ấy năm chưa bao giờ nàng tiêu hết số tiền đã chi ra ở đây chỉ trong nửa giờ. Khi hai người bước ra hỏi cửa hàng. Christine không nổi lòng biết ơn đã xúc động nép sát vào người bà dì và hôn lên tay bà. Bà van Boolen mỉm cười, nhìn vẻ bối rối đáng yêu của nàng: - Nào, bây giờ chúng ta sẽ giải quyết đến mái tóc của cháu! Dì sẽ dẫn cháu đến người thợ uốn tóc và trong lúc cháu ở đây dì sẽ tranh thủ đi thăm bạn bè và gửi danh thiếp cho họ. Một giờ sau, cháu sẽ lột xác, cứ như từ trong tủ kính bước ra ấy, lúc đó dì sẽ đến đón. Rồi cháu sẽ thấy bà ta làm cháu biến đổi như thế nào, mà bây giờ trông cháu cũng đã khác trước nhiều rồi. Sau đó chúng ta sẽ đi dạo, còn đến tối tha hồ vui chơi thỏa thích. Christine không khỏi hồi hộp nhưng vẫn nghe theo lời bà dì (dì ấy cũng chỉ mong điều tốt cho mình thôi!) bước vào trong căn phòng lát gạch men tr đầy những tấm gương lấp loáng. Trong phòng không khí ấm áp, dễ chịu, thoảng mùi xà phòng thơm và mùi tinh dầu. Trong góc, một chiếc máy gì đó chạy điện kêu vù vù, quạt ra những luồng không khí như gió thổi qua khe núi. Thợ uốn tóc là một bà người Pháp mũi hếch nhanh nhẹn, chăm chú lắng nghe những lời hướng dẫn của bà dì, mà Christine không hiểu một chút nào và cũng không muốn hiểu. Một ý muốn kỳ lạ trước đó đã khuyên nàng cứ phó mặc cho mọi sự bất ngờ, cứ để cho họ muốn làm gì thì làm. Bà dì bước ra còn nàng ngả người trong chiếc ghế bành, nhắm mắt lại, đê mê trong một khoái lạc ngây ngất. Chiếc máy nhỏ xíu bắt đầu kêu xè xè và Christine cảm thấy chiếc máy bằng thép chạy đi chạy lại trên gáy mình. Nàng lắng nghe những câu ba hoa khó hiểu của người thợ tháo vát, ngửi thấy mùi hương dễ chịu làm nàng ngây ngất, hoàn toàn phó mặc chiếc gáy và mái tóc của mình cho những ngón tay điêu luyện và những tia nước hoa. Chỉ có điều đừng mở mắt ra, nàng nghĩ, biết đâu bỗng nhiên tất cả những chuyện này không phải là sự thật. Đừng có hỏi han gì cả, cứ việc tận hưởng những cảm giác sung sướng như ngày hội, dẫu sao mình cũng xứng đáng được nghỉ ngơi một lần cho thoải mái, không phải phục vụ người khác, mà được người khác phục vụ. Dẫu chỉ một lần, mình được phép ngồi khoanh tay, chờ đợi mọi thứ lạc thú, cảm nhận hoàn toàn cái cảm giác yếu đuối khi được người khác quan tâm, chăm sóc. Thể xác của nàng chưa bao giờ trải qua những cảm giác như vậy trong suốt từng ấy năm. Nheo nheo mắt lại bởi làn sương mỏng ấm áp, thơm nồng đang vây bọc xung quanh, Christine cố nhớ xem chuyện ấy xảy ra với nàng lần cuối cùng vào khi nào: tuổi thơ, nàng bị ốm nằm trên giường, mấy ngày liền sốt cao nhưng giờ đây cơn sốt đã qua, mẹ mang đến cho nàng cốc sữa hạnh nhân trắng ngần, ngọt lịm, bố và anh trai ngồi bên cạnh, dịu dàng thân mật và đầy vẻ lo lắng, con chim hoàng yến đang hót ngoài cửa sổ một bản nhạc vui vẻ nào đó, còn nàng, nằm trên giường, quả là dễ chịu, ấm áp, không phải đến trường, trên chiếc chăn mọi người đặt những thứ đồ chơi, nhưng nàng chẳng muốn chơi với chúng, tốt hơn là cứ nằm hưởng niềm khoái lạc ấy, nhắm mắt lại và không phải làm một việc gì cả, ngây ngất trong sự nhàn rỗi, trong ý nghĩ dễ chịu rằng mình đang được chăm sóc. Suốt hai mươi năm qua nàng không một lần nhớ lại cảm giác tuyệt diệu đã trải qua trong tuổi thơ của mình, thế mà giờ đây cảm giác ấy bỗng nhiên lại ập đến, nó thấm qua làn da cùng với làn nước hoa ấm áp dễ chịu bám vào hai bên thái dương nàng. Trong suốt khoảng thời gian ấy người đàn bà nhanh nhẹn thỉnh thoảng lại đưa ra những câu hỏi kiểu như: “Cô có muốn ngắn hơn nữa không?”, còn nàng chỉ trả lời: “Tùy bà” và cố tình không nhìn vào chiếc gương mà bà ta giơ ra trước mặt. Không, không nên phá vỡ cái cảm giác thần tiên này trong khi chẳng có điều gì đáng phải trả lời, chẳng có gì đáng phải động đậy chân tay, chẳng có gì phải yêu cầu, cứ để cho người khác hành động, mong muốn thay cho nàng; mặc dù lần đầu tiên trong đời ý thích muốn ra lệnh, yêu cầu điều này, điều khác cũng hết sức quyến rũ. Mùi hương từ chiếc ve thủy tinh nhiều mặt thấm đượm trong mái tóc nàng, lưỡi dao cạo chạm khẽ vào làn da nàng, tất cả những điều ấy làm cho mái đầu nàng bỗng nhẹ hẳn một cách kỳ lạ còn đằng sau gáy thì thoáng mát, dễ chịu. Thật lòng mà nói, Christine rất muốn ngó qua vào gương một tí xem sao, song nàng đã kìm lại được, bởi lẽ với cặp mắt nhắm lại nàng có thể tiếp tục giấc mơ dịu ngọt của mình. Vào lúc ấy, một người thợ khác nhẹ nhàng xuất hiện bên nàng như một con quỷ lùn tốt bụng ở trong chuyện cổ tích, và trong khi người thợ thứ nhất đang làm trò ảo thuật với mái tóc thì người kia sửa móng tay, móng chân cho nàng. Christine hầu như không còn biết ngạc nhiên nữa, nàng ngoan ngoãn nghe theo mọi yêu cầu và cũng chẳng hề phản đối khi người thợ nhiệt tình nói rằng: “Cô có vẻ hơi nhợt nhạt[7]”, rồi bằng các loại kem, sáp, bút chì bà ta đã làm cho môi nàng thắm hơn, hàng lông mày đậm hơn, và đôi má hồng hào hơn. Christine nhận thấy tất cả những điều ấy, nhưng trong cảm giác phiêu du uể oải nàng không thể nào ý thức được một cách chắc chắn rằng những điều ấy đang xảy ra với chính nàng hay với một người nào khác, rằng cái “tôi” mới mẻ của nàng đang hiện ra trong thực tại hay trong giấc mơ. Nàng cảm thấy bối rối bởi một nỗi lo sợ thoáng qua, biết đâu tất cả mọi lạc thú ấy sẽ đột ngột biến mất. Cuối cùng bà dì đã xuất hiện. - Tuyệt lắm. - Bà nhận xét, vẻ thành thạo. Theo yêu cầu của bà, người ta gói cho nàng lọ nước hoa, vài chiếc hộp nhỏ và dăm cây bút tô lông mày. Sau đó bà đề nghị hai dì cháu đi dạo một lát. Christine đứng dậy mà vẫn không dám nhìn vào trong gương, nàng có một cảm giác nhẹ nhõm kỳ lạ sau gáy. Và giờ đây, bước trên hè phố, thỉnh thoảng lại kín đáo ngắm chiếc váy láng mịn, đôi tất dài màu sắc sặc sỡ tươi trẻ, đôi giày sang trọng đánh xi bóng loáng, nàng cảm thấy dường như bước chân của mình trở nên tự tin hơn. Christine âu yếm nép sát vào người bà dì, lắng nghe những lời giải thích và ngạc nhiên vì tất cả mọi chuyện xung quanh. Phong cảnh quả là đặc biệt với những thảm cỏ xanh rực rỡ và những đỉnh núi chập chùng nhấp nhô, những khách sạn trông như những báu vật bằng đá ngạo nghễ vươn mình trên sườn dốc, những cửa hàng sang trọng với những tủ kính đầy sức quyến rũ: nào len dạ, đồ trang sức, đồng hồ, những thứ đồ cổ - tất cả những cảnh vật khác nhau ấy được sắp xếp một cách kỳ lạ, khó hiểu bên đỉnh núi khổng lồ, đơn độc quanh năm băng giá. Ngay cả những con ngựa trong những bộ đai thắng đẹp đẽ và những con chó ở đây trông cũng khác thường. Còn con người cũng vậy, trông họ giống như những bông hoa núi Alps bởi màu sắc sặc sỡ của trang phục, quần áo. Đây chính là cái môi trường nhàn nhã đầy nắng ấm, chính là cái thế giới không biết đến lao động, đói khổ, cái thế giới mà Christine không bao giờ biết đến. Bà dì kể cho nàng nghe tên gọi của những đỉnh núi, những khách sạn, tên tuổi của những vị khách nổi tiếng họ đã gặp trên phố. Christine kính cẩn lắng nghe và nhìn họ với ánh mắt sùng kính. Nàng cảm thấy sự có mặt của mình ở đây là một điều kỳ lạ không sao hiểu nổi. Nàng ngạc nhiên vì mình lại có thể dạo chơi ở đây, rằng nàng được phép làm điều ấy và nỗi nghi ngờ cứ mỗi lúc một tăng: chẳng lẽ tất cả điều ấy là sự thật? Cuối cùng bà dì nhìn vào đồng hồ và nói: - Đã đến lúc phải về rồi. Cần phải kịp thay quần áo. Đến giờ ăn chiều chỉ còn một tiếng nữa thôi. Mà điều duy nhất có thể làm dượng Anthony bực mình, đó là sự chậm trễ… Khi Christine trở về khách sạn và mở cửa phòng ra, nàng thấy toàn bộ căn phòng nhuốm một gam màu dìu dịu trong ánh hoàng hôn đến sớm, làm cho tất cả mọi đồ vật trông mờ mờ, ảo ảo và nhòa lẫn vào nhau. Chỉ có vuông trời sau cánh cửa mở ra ban công là vẫn còn giữ được sắc màu xanh thắm rực rỡ đến chói mắt, còn trong phòng, mọi màu sắc trở nên nhạt hơn hòa lẫn vào bóng tối mượt như nhung. Christine bước ra ban công ngắm nhìn phong cảnh trải dài tít tắp, đắm đuối quan sát những màu sắc đang nhảy nhót lung linh và biến đổi từng giây từng phút. Đầu tiên là những đám mây chuyển dần từ màu xanh rực rỡ của mình sang màu đỏ thắm mỗi lúc một nhanh, dường như chúng đang bị những tia nắng cuối cùng của mặt trời hối hả thúc giục. Sau đó bỗng nhiên những mảng tối từ các hẻm núi dần dần chạy lên cao. Ban ngày những mảng tối ấy đơn độc nấp dưới bóng cây, nhưng giờ đây chúng tỏ ra không chút sợ sệt, liên kết lại thành những mảng lớn, kéo chiếc rèm đen của mình từ dưới lên cao, làm ta vừa ngạc nhiên vừa lo sợ: liệu cái rèm đen ấy có trùm lên đến tận đỉnh núi hay không, liệu cái khung cảnh vĩ đại này có bị che mất hay không. Một làn gió lạnh từ thung lũng thổi tới, mỗi lúc một mạnh hơn. Và bỗng nhiên những đỉnh núi bỗng bừng lên trong một thứ ánh sáng khác hẳn - lạnh hơn và nhạt hơn. Hãy nhìn kìa - trên nền trời tím thẫm còn chưa chịu lui hẳn, vầng trăng đã xuất hiện. Như một chiếc đèn lồng tròn vành vạnh, mặt trăng treo lơ lửng giữa hai đỉnh núi cao nhất và tất cả cảnh vật, chỉ trước đó một phút thôi vẫn còn là bức tranh sinh động với muôn ngàn màu sắc, thì giờ đây trở thành những hình bóng mờ ảo, thành những đường nét trắng đen với những ngôi sao nhỏ xíu đang nhấp nháy lúc mờ, lúc tỏ. Christine mê mải chiêm ngưỡng cái sân khấu khổng lồ mà trên đó phong cảnh bài trí thay đổi liên tục, hết lớp này đến lớp khác. Giống như một người quen nghe những âm điệu dịu dàng của vĩ cầm và sáo trúc, lần đầu tiên bị choáng váng trước dòng thác âm thanh của một dàn nhạc khổng lồ. Cảm giác của nàng cũng vậy, nó rạo rực rung lên trước cái sân khấu màu sắc kỳ ảo mà thiên nhiên đã bất ngờ hé ra cho nàng thấy. Bám chặt hai tay vào lan can, Christine nhìn mãi, nhìn mãi không chán mắt. Chưa lần nào trong đời, nàng lại quan sát phong cảnh thiên nhiên một cách chăm chú như vậy, chưa bao giờ nàng đắm mình suy tưởng say mê và xúc động đến thế. Toàn bộ cuộc đời nàng như kết tụ lại trong một tiêu điểm, trong cặp mắt mở to vì kinh ngạc hướng thẳng đến thiên nhiên, hoàn toàn quên bẵng cả thời gian và bản thân mình. Nhưng, thật là may mắn vì trong tòa nhà này đã có sẵn một kẻ canh giữ thời gian - đó chính là tiếng chuông tàn nhẫn báo hiệu giờ ăn đã đến. Cứ ba lần trong ngày, nó nhắc những người khách trọ nhớ đến bổn phận của mình phải tận hưởng mọi lạc thú trên đời. Khi tiếng chuông đầu tiên vang lên Christine giật bắn mình. Chính bà dì nghiêm khắc đã dặn đi dặn lại, không được đến muộn. Phải nhanh chóng mặc quần áo rồi xuống ăn chiều thôi! Trong số những chiếc áo dài mới tinh, biết chọn chiếc nào đây vì chiếc nào cũng tuyệt diệu cả? Chúng nằm cạnh nhau trên giường sáng mờ mờ, trông như những chiếc cánh chuồn chuồn, lấp lánh một cách quyến rũ trong bóng tối. Christine quyết định chọn chiếc áo hoa màu ngà voi, có lẽ như vậy giản dị hơn. Nàng rụt rè, thận trọng cầm chiếc áo trên tay ngắm nghía. Chiếc áo không nặng hơn chiếc khăn mùi soa hoặc chiếc găng tay là bao. Christine vội vàng cởi áo len, tháo đôi giày nặng nề và đôi tất thể thao dày cộp ra. Đả đảo tất cả những thứ gì nặng nề thô kệch. Nàng nóng lòng muốn thử những trang phục nhẹ nhõm này xem chúng ra sao. Mọi thứ quả là mịn màng, mềm mại và hầu như không trọng lượng. Khi chạm tay vào các thứ đồ lót mới toanh, đắt tiền, Christine cảm thấy một cảm giác là lạ. Nàng run rẩy lần lượt cởi những thứ đồ lót cũ bằng vải phíp thô kệch ra và mặc những thứ mới vào. Christine có cảm giác như trên da thịt mình có một lớp bọt nhẹ ấm áp, mịn màng. Bất giác nàng định đưa tay lên bật công tắc đèn để tự ngắm mình một chút, nhưng vội buông tay xuống. Tốt hơn là cứ kéo dài cảm giác khoan khoái này thêm vài phút nữa. Ai mà biết được có thể thứ hàng nhẹ tênh kỳ lạ này chỉ có vẻ mịn màng trong bóng tối, còn trong ánh sáng gay gắt tất cả cái vẻ kỳ diệu ấy sẽ biến mất? Nào, sau khi đã mặc xong đồ lót bây giờ đến lượt tất chân và áo dài. Christine cẩn thận - vì tất cả các thứ đó là của bà dì - choàng vào người chiếc áo váy bằng tơ mát lạnh và lấp lánh màu sắc. Nàng có cảm giác như có một làn sóng nhẹ tràn từ vai xuống chân. Christine hầu như không cảm thấy chiếc áo váy trên thân thể mình, nó nhẹ như làn gió, như không khí, mơn man trên da thịt. Nhưng không được chậm trễ nữa, không được mất thời gian vì những chuyện thế này, phải nhanh chóng mặc quần áo đã rồi sau đó tha hồ mà ngắm vuốt! Bây giờ đến đôi giày, thật vừa khít. Lạy chúa, thế là xong! Cuối cùng thì có thể ngó vào gương một chút được rồi, sao lại hồi hộp thế nhỉ. Bàn tay nàng chạm khẽ vào công tắc và ngọn điện bật sáng. Cùng với ánh sáng căn phòng chết lặng lại bừng lên rực rỡ, lại xuất hiện những mảnh tường bồi giấy nhiều màu sắc, những đồ gỗ đánh véc ni bóng loáng của một thế giới mới mẻ, thanh lịch. Với một cảm giác tò mò pha chút sợ hãi, nàng chần chừ không dám đứng ngay trước tấm gương mà từ từ liếc xéo vào mặt kính đang in rõ một góc phòng và một mẩu phong cảnh ngoài ban công. Để cho buổi diễn tập chính thức nàng còn chưa đủ can đảm. Liệu trông nàng có buồn cười hơn so với lúc mặc chiếc áo cũ, cũng là một chiếc áo đi mượn, liệu cái trò đánh lừa bí mật này có qua mắt nổi những người khác và chính nàng hay không? Nàng từ từ, từ từ tiến dần đến chiếc gương, dường như bằng sự khiêm tốn của mình, nàng có thể đánh lừa được vị quan tòa nghiêm khắc. Tấm gương đã ở trước mặt nhưng Christine vẫn không dám ngước mắt lên, nàng không đủ can đảm cho cái nhìn quyết định cuối cùng. Vừa lúc ấy ở dưới lại vang lên tiếng chuông thứ hai. Không thể chậm trễ được nữa! Christine quyết định nhanh chóng, nàng hít một hơi dài như sắp nhảy xuống nước, rồi ngước mắt lên, và nàng giật nảy mình hoảng hốt, đúng là nàng đã hoảng sợ thật sự trước cảnh tượng bất ngờ ấy và bất giác lùi lại một bước. Ai thế nhỉ? Người thiếu nữ duyên dáng, sang trọng hơi nghiêng người ra sau một chút, với chiếc miệng hơi hé, cặp mắt mở to đang nhìn nàng kinh ngạc. Kia là ai vậy? Chẳng lẽ đó chính là nàng? Không thể được! Nàng không thốt ra thành lời câu nói ấy nhưng chúng chỉ chực buột ra khỏi miệng! Và thật kỳ lạ: người con gái trong tấm gương cũng đang mấp máy đôi môi. Christine vô cùng sửng sốt. Chưa bao giờ, ngay cả trong mơ, nàng lại nghĩ rằng mình xinh đẹp đến thế, trẻ trung đến thế. Giờ đây cặp môi của nàng hoàn toàn khác hẳn - chúng đỏ mọng, sắc nét, hàng lông mày cũng khác - thanh mảnh, cong vút, chiếc cổ bỗng hiện lên trắng mịn trên nền tóc dày vàng óng và ngay cả làn da dưới lớp áo váy lấp lánh trông cũng khác hẳn. Christine tiến gần đến chiếc gương để cố nhận ra mình trong bức tranh huyền ảo đó và mặc dù nàng hiểu rằng người trong gương chính là mình nhưng nàng vẫn không dám thừa nhận cái “tôi” ấy chính là cái “tôi” thật của mình. Nàng vẫn bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ rằng nếu mình bước thêm một bước nữa hoặc cử động mạnh một cái, cái hình ảnh mê hồn kia sẽ biến mất. Không, không thể được, nàng nghĩ, mình không thể thay đổi đến mức ấy được. Nếu sự thật đúng như vậy thì có nghĩa mình là một cô gái… Nàng không dám nghĩ tiếp nữa. Nhưng chính lúc ấy dường như đoán ra được những từ mà nàng bỏ lửng, cô gái trong gương bắt đầu mỉm cười, lúc đầu nụ cười chỉ thoáng qua nhưng mỗi lúc một rõ hơn. Và thế là từ những tấm gương lạnh lẽo cặp mắt của cô gái cũng cười lên vẻ sảng khoái tự hào, và đôi môi mềm mại, đỏ thắm dường như đang vui vẻ thú nhận: “Vâng, tôi đẹp lắm”. Thật quyến rũ làm sao khi được ngắm nghía mình như thế ngạc nhiên vì phát hiện ra những điều bí mật còn tiềm ẩn trong chính bản thân, quan sát kỹ từng ly từng tí những gì mà trước đó mình không để ý với một cảm giác thán phục ngay chính cơ thể mình, vì lần đầu tiên đã nhận ra bộ ngực thở phập phồng dưới làn tơ mỏng trông mới mềm mại, đẹp đẽ làm sao. Còn những đường nét cân đối và đồng thời lại rất uyển chuyển trên thân thể thì thật hài hòa trong hình khối, màu sắc và trong chiếc áo váy ấy, đôi vai trần nổi bật lên một cách tự nhiên, thoải mái. Quả là thú vị thật, không biết lúc đi đứng, cái cơ thể cân đối và mới mẻ này trông sẽ ra sao nhỉ? Christine chậm rãi quay người nhưng mắt vẫn không rời tấm gương: ánh mắt nàng lại bắt gặp ánh mắt tự hào và rất hài lòng của cô gái trong gương. Điều đó làm cho nàng can đảm hơn. Bây giờ nàng bước nhanh ba bước về phía sau: thế nào lúc đi trông cũng đẹp đấy chứ. Giờ thì có thể mạnh dạn đi dự tiệc được rồi. Nàng quay một vòng, chiếc váy ngắn xòe rộng và cô gái trong tấm gương lại mỉm cười: “Tuyệt lắm! Trông cô ta thật cân đối và duyên dáng!” Lúc này điều nàng thích nhất là được khiêu vũ, dường như trong từng khớp xương nghe có tiếng nhạc vang lên. Christine từ từ lùi lại giữa phòng rồi bước từng bước một đến phía trước gương, và tấm gương lại mỉm cười với nàng, mỉm cười với nàng bằng ánh mắt. Hình phản chiếu của chính mình trong gương đang thử thách nàng, quyến rũ nàng, lừa dối nàng với cảm giác tự thán phục mình không sao có thể thỏa mãn bởi chính cái “tôi” trẻ trung, mới mẻ và vô cùng hấp dẫn trong bộ trang phục lộng lẫy kia. Dường như người con gái ở trong gương sẽ bước ra đón nàng với nụ cười bất tận trên môi. Christine những muốn ôm chầm lấy cái sinh vật kia - con người thứ hai mới mẻ của mình. Nàng áp trán vào tấm kính, mắt nhìn mắt - cặp mắt thật và cặp mắt phản chiếu trong gương, cặp môi nóng bỏng của nàng hôn khẽ vào cặp môi lạnh lẽo trong gương và người “em gái” của nàng dần dần tan biến trong làn hơi nước bám trên mặt kính. Tiếp tục cái trò chơi thú vị đầy những phát hiện mới mẻ, Christine lại làm những cử động khác, những tư thế khác để nhìn thấy mình trong những hình ảnh """