"
Kế Hoạch Làm Bố PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kế Hoạch Làm Bố PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Kẻ Tử Đạo Cuối Cùng Đào Hiếu
vietmessenger.com
LỜI NÓI ĐẦU
Đây là một câu chuyện hoàn toàn hư cấu, gần như không tưởng, không thể tồn tại trong cõi đời này.
Thế nhưng có một câu chuyện tương tự như thế đã từng xảy ra trong xã hội loài người ngót một trăm năm nay, có thể kể từ năm 1917, khi Lênin tiến hành cái gọi là "Cách mạng Tháng mười Nga", lập nên nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô-viết.
Cuộc cách mạng ấy cũng đã bắt đầu bằng một chủ nghĩa hoàn toàn hư cấu, không tưởng và không thể thực hiện được.
Tuy vậy nó đã thắng lợi, đã giành được chính quyền, và trong suốt gần một thế kỷ, nó đã chia đôi nhân loại thành hai thế giới mà nó là kẻ thống trị cái phần thế giới man rợ nhất, quái đản nhất và cũng khốc liệt nhất, cho đến ngày 26/12/1991 khi Liên Xô tan rã.
Giờ đây, không còn ai tin vào cái "cuộc cách mạng" hoang đường ấy, kể cả Việt Nam, nhưng tàn dư của nó vẫn còn thống trị một góc tối của hành tinh chúng ta như một thứ chất thải độc hại chưa thể tẩy sạch hết.
Câu chuyện giả tưởng này cũng thế.
Nó bắt đầu bằng một truyền thuyết hoang đường về một đạo cô xinh đẹp, nhiều phép lạ, nhưng đã có những trí thức, những nghệ sỹ, những chàng trai ưu tú… tôn thờ, ca ngợi và sẵn sàng chết vì nhân vật huyền thoại ấy.
Và cũng có những cuộc trả thù man rợ nhất của bọn cuồng tín để giành quyền độc tôn.
Đó là cuộc quyết đấu điên rồ, cuộc tương tàn ngu xuẩn, mà cho đến ngày nay vẫn còn tiếp diễn.
ĐÀO HIẾU
Ờ À Ĩ
1. NGƯỜI MUA VE CHAI VÀ NHẠC SĨ
Người mua ve chai ấy ăn mặc rất tàng, chiếc mũ vải rách đội hờ hững trên đầu, tóc cứng và bẩn, chân đi dép da cũ mèm. Hắn đi qua đi lại trước căn nhà ấy đã ba bốn hôm nay, đôi mắt đục, mặt lờ đờ như người say rượu. Nhưng hắn không say. Ðã mấy lần hắn thò đầu vô cửa nhà nhạc sĩ Phạm Hưng và hỏi:
- Ông có giấy vụn, sách báo cũ bán không?
Hưng lắc đầu. Nhưng hôm nay khi nghe hắn hỏi thì Hưng lại nghĩ ngay đến mớ sách cũ của mình, anh ngoắc hắn lại:
- Báo thì tôi không có, nhưng sách cũ thì nhiều. Cậu có mua sách tiếng Tây không?
Hắn không trả lời. Hắn đứng ngay cửa ra vào, mặt lạnh, cái nhìn dửng dưng như không. Hắn nhìn chăm chăm vào mặt gia chủ. Ðến khi hắn định bước vào nhà thì Hưng ngăn lại:
- Cậu làm ơn bỏ dép bên ngoài.
Hắn bỏ dép. Hưng lại chỉ cái miếng chùi chân làm bằng xơ dừa và nói:
- Cậu chùi chân lên đây.
Hắn chùi chân. Chẳng có vẻ gì là khó chịu. Mặt thì cứ lạnh. Khi hắn đã bước vào trong nhà rồi, thì không nhìn đống sách cũ mà nhìn quanh căn phòng, nhìn những tờ lịch, nhìn bức ảnh bán thân để trên nắp đàn piano của Hưng rồi nhìn ra cửa sau.
Hưng nhắc:
- Sách đấy.
- Ông có truyện chưởng không?
- Có một bộ Cô Gái Ðồ Long.
- Có Lệnh Xé Xác không?
- Tôi không rành truyện chưởng lắm, Hưng nói, lại có một cuốn sách tên như vậy à?
Hắn ngước nhìn Hưng, cái nhìn đục ngầu, rồi nhắc lại từng tiếng: - Lệnh Xé Xác.
Hưng mời hắn một điếu thuốc lá.
- Thôi, cậu cứ lựa đi. Mua hết càng tốt. Nhưng mà cậu có rành về sách cũ không đấy?
Hắn làm thinh, lật những trang sách bằng một ngón tay, ngón trỏ ốm nhom nám khói thuốc lá vàng khè. Hắn lật một cách lơ đãng, lạnh lùng. Rồi chợt hỏi:
- Sách Tây ông có gì?
- Passager de la pluie, Le repos du guerrier… toàn chuyện tình và truyện trinh thám giựt gân cả đấy.
Hắn cầm mấy cuốn sách lên, để qua một bên.
- Ông chỉ cho tôi cái toa-lét.
Hưng hơi ngạc nhiên vì cái vẻ lấc cấc của hắn, anh nhìn sững vào mặt hắn. Hắn đón nhận cái nhìn của anh không chút lúng túng. Rồi hắn cười. Nhếch một bên môi. Khi hắn cười, tóc gáy của hắn giựt đến độ làm rung rinh vành mũ vải. Hưng cảm thấy khó chịu, anh nói:
- Không được. Toa-lét tôi đang cọ rửa.
- Không sao.
Hắn lại nhếch cười, lại lật lật mấy trang sách bằng cái ngón tay vàng khè của mình.
- Ông ở đây một mình à?
- Cậu hỏi để làm gì?
- Không có gì. Nhưng ông chỉ cho tôi cái toa-lét đi.
- Không được. Tôi đã bảo là đang cọ rửa. Cậu mắc tiểu hả? Thế thì ra tạm sau nhà.
Hắn đứng dậy đi liền. Khi hắn trở vô thì Hưng đã đứng sẵn ở cửa sau.
- Ðợi chút. Khoan bước vào nhà đã.
Và anh lại chỉ cái miếng chùi chân bằng xơ dừa.
- Chùi thật sạch mới được.
- Nhà ông có ruồi không? Hắn vừa hỏi vừa bước vào. - Cậu hỏi để làm gì?
- Không có gì.
Hắn nói và đi đi lại lại trong phòng một cách tỉnh bơ như nhà của hắn. Hắn đến soi gương rồi cười một cách man dại, sau đó hắn lại gần cây đàn piano, gõ mấy nốt, rồi lấy ngón tay quệt lên mặt bàn, quệt lên thành ghế dựa. Hắn nói:
- Không có một hạt bụi. Ông ăn ở sạch sẽ quá đáng. - Tính tôi như vậy.
- Như thế chưa chắc đã sống lâu đâu.
- Nhưng những người ở sạch có nhiều khả năng sống lâu hơn những người ở bẩn chứ.
- Chưa chắc, chưa chắc. Thế ông không có Lệnh Xé Xác à?
- Tôi đã nói là tôi không rành về chuyện kiếm hiệp. Cuốn đó bây giờ cao giá lắm sao?
- Không hẳn. Nhưng ông nên tìm đọc cuốn đó.
- Cậu có vẻ cũng là người có học. Trước đây cậu làm gì? - Theo ông thì tôi làm nghề gì?
- Không biết. Nhưng cậu có vẻ là một người bất phùng thời. Cậu bất mãn chế độ hả?
Hắn cười:
- Chuyện đời, tôi bỏ ngoài tai.
- Vậy thì cậu quan tâm đến chuyện gì?
- Lệnh Xé Xác.
- Hình như cậu không được bình thường. Thôi, chúng ta nói chuyện như vậy cũng đã nhiều. Nói thực với cậu vì tôi thấy cậu cũng là người có học vấn nên tôi mới tiếp, chứ cái kiểu lấc cấc như cậu làm người ta bực lắm đấy.
Hắn ném tàn thuốc ra cửa sổ. Một chút tro rớt lại trên nền gạch bông. Hưng gom nó lại. Người mua ve chai lấy năm cuốn sách, bỏ trong cái túi vải cũ, khoác lên vai, tay phải thọc vào túi quần, móc tiền đưa cho chủ nhà.
Hưng nhận tiền. Hắn bước ra cửa. Cứ thế hắn đi bộ tà tà giữa dòng xe cộ rộn rịp.
Hưng gom mấy cuốn sách còn lại, cột thành bó, nhét vào ngăn tủ rồi thay đồ đi phố.
Thành phố rộng thênh thang nhưng anh không đi đâu xa. Chỗ của anh là quán cà phê Hồng. Quán không sang trọng nhưng cũng không quá tồi. Có một chút vườn, một chút hoa, một chút bóng mát, vài cái ghế gỗ thấp.
Người Tàu già bán chạp phô ở đầu chợ đã ngồi sẵn ở cái bàn quen thuộc gần lối đi. Ly xây chừng trước mặt ông đã cạn và ông đã rót nước trà vào đó mà không cần tráng ly nên nước có mầu đục của đất sét bẩn. Ông ta không hút thuốc nhưng hay hít dầu Nhị Thiên Ðường. Hôm nay ông có xách theo một cái giỏ lát to đựng lỉnh kỉnh những dép nhựa, đồ chơi trẻ con.
Hưng chọn một góc kín đáo, càng xa lão Tàu già ấy càng tốt. Anh ngồi dưới bóng mát của cây chùm ruột. Những người khách còn lại đều lạ mặt. Bọn họ đang xầm xì với nhau. Nhưng Hưng thì im lặng. Anh bước vào quán không ai hay, và chỗ anh ngồi cũng khuất tịch.
Chủ quán là một người đàn bà sồn sồn, ăn mặc nâu sồng trông như một bà vãi giữ chùa.
Quán không có nhạc. Và im lặng. Im lặng đến nỗi khách tới đây gần như không ai dám nói chuyện. Nếu cần nói thì thường họ chỉ thì thầm, hoặc khoa tay, lắc đầu, gật đầu hay mĩm cười.
Bàn ghế trong quán thì toàn bằng gỗ mộc, xù xì.
Đàn sau quán là một khu vườn có cây cổ thụ lá dày, tàn rộng, bên dưới là một cái hang đá lớn, vài chỗ có rêu phủ. Bên ngoài trông hoang phế nhưng bên trong là một căn phòng thoáng đãng, mặc dù không thấy có cửa sổ, nhưng dường như ánh sáng chiếu rọi vào bên trong qua những khe đá rải rác đâu đó. Tất cả tạo nên một không gian tĩnh lặng, cách biệt với thế giới bên ngoài.
Chủ của cái giang sơn đó là một cô gái trạc ba mươi, nhan sắc vô cùng diễm lệ.
Tuy vậy, cô không phải là người của thế tục. Cô mặc áo tràng màu nâu, với mái tóc dài óng ả hiếm thấy, Tử Hồng trông giống một đạo cô.
Tử Hồng có thể hiểu là một đoá hồng màu tím. Thường ngày cô ngồi thiền ngay dưới bức tường đá, nhưng cũng có khi cô đi đi lại lại hay nằm trên chiếc võng gai.
Tuy nhiên vị đạo cô này không sống biệt lập. Hàng ngày cô tiếp các bệnh nhân nghèo đến chữa bệnh. Cô không cho thuốc, không bắt mạch, cũng không hỏi han người bệnh. Cô chỉ cầm tay họ, hoặc đặt tay lên đỉnh đầu họ giây lát. Và họ khỏi bệnh. Xong, đến lượt người khác.
Khách đến quán cà phê phần lớn là bệnh nhân của cô. Cô chữa bệnh không lấy tiền và cũng không nhận bất cứ quà cáp gì.
Mọi người đều nhớ ơn cô, nhưng không ai mê tín, bởi vì phong thái của cô giản dị, hoà nhã, thân thiện như một người bạn.
°
Phạm Hưng uống hết tách cà phê rồi bước vào hang đá. Anh không vái chào, chỉ lẵng lặng đến ngồi xếp bằng ngay góc bên phải của cái bệ đá đen, nơi đạo cô đang toạ thiền.
- Tôi đến đây không phải để chữa bệnh.
- Nhưng trái tim ông đang loạn nhịp.
- Tôi hồi hộp.
- Vì cái gì?
- Vì sư cô đẹp như thần tiên. Tôi chỉ muốn quỳ xuống và đảnh lễ. - Ở chỗ tôi không có Tam Bảo.
- Tôi muốn đảnh lễ nhan sắc.
- Nhan sắc cũng là hư không.
- Nhưng tôi muốn nó tồn tại vĩnh cửu.
- Bằng cách nào?
- Bằng âm nhạc. Tôi sẽ cụ thể hoá nhan sắc thành giai điệu và tiết tấu. Tôi sáng tạo.
Đạo cô mở mắt, hất mái tóc dày như rừng của mình lên như một cơn sóng đen lấp loá và nàng bốc lên như một cánh chim lớn.
Nàng bước những bước khoan thai quanh chỗ Phạm Hưng ngồi rồi chợt dừng lại, đặt bàn tay lên đầu người đàn ông. Nàng hỏi:
- Bản nhạc của thí chủ đâu?
Phạm Hưng lấy trong ngực áo ra một cây hắc tiêu nhỏ. Tiếng sáo lan toả trong hang động như một áng mây mỏng manh, phiêu hốt như cụm sương giá lạnh.
Bên ngoài không ai nghe được tiếng sáo. Chỉ có đạo cô và những vách đá. Âm thanh chìm vào trong rêu đen, trong những tinh thể thạch anh lóng lánh, những vân đá sần sùi. Giai điệu mảnh khảnh của tấu khúc ngấm vào đá như những tín hiệu tạc vào một cung điện đầy bóng tối, ánh sáng và từ tính.
Khi ông ngưng thổi và đặt chiếc hắc tiêu xuống nền đá, trước mặt mình thì tất cả mọi vật trong hang đều bất động như hoá thạch.
Tử Hồng bước ra phía sau bục đá đen, ở đó có một cây đàn đá chìa ra từ trong rêu. Nàng phất ống tay áo rộng để lộ một cánh tay trần trắng như tuyết trên đỉnh núi. Nàng gõ những ngón tay lên các phiến đá, và lạ thay, giai điệu của chiếc hắc tiêu lúc nãy Phạm Hưng thổi, lại vang lên, nhưng với một thứ âm sắc long lanh, lạnh giá, ngân nga như ngọc gõ vào cẩm thạch.
Phạm Hưng kinh ngạc, quỳ mọp xuống, úp mặt trên nền đá. Dứt bản nhạc anh nói:
- Bạch đạo cô, bây giờ thì nhan sắc không phải là hư không nữa. Nó đã biến thành giai điệu và đã được lưu trữ trong vách đá.
Đạo cô hỏi:
- Vậy khi ta chết đi thì sao?
- Thì nhiều thế hệ sẽ đến đây. Sẽ chạm vào vách đá. Và giai điệu sẽ trổi lên. Và cô sẽ hiện ra, sẽ toạ thiền, sẽ đi lại trước mặt chúng sinh như bây giờ.
Tử Hồng nói:
- Thí chủ hãy đứng dậy.
Nhưng Phạm Hưng cứ quỳ mọp cho đến khi có tiếng lao xao ngoài cửa hang, ngó ra đã thấy một đứa trẻ đắt một người đàn bà mù lần từng bước đi đến. Phạm Hưng đành phải đứng dậy, vái chào rồi quay bước.
Đứa trẻ dẫn bà lão mù đến ngay chỗ Phạm Hưng lúc nãy.
Đạo cô đến ngồi trên phiến đá đen và ra hiệu cho đứa trẻ dẫn bà lão đến ngay trước mặt mình.
- Bà bị mù đã bao lâu rồi?
- Mười năm.
- Vì sao?
- Dạ thưa, vì chồng và các con đều chết ngoài biển, mất xác. Tôi đã khóc rất nhiều và mù.
Đạo cô nắm lấy hai bàn tay bà, siết chặt. Bà lão cảm thấy có luồng hơi nóng chạy dọc theo hai cánh tay và lên đến đỉnh đầu.
Đạo cô nói:
- Hãy tập trung vào luồng khí nóng. Hãy lắng nghe nó chuyển động. Chung quanh hoàn toàn im lặng.
Chừng nửa canh giờ, Tử Hồng nới lõng bàn tay, rồi rút trong túi áo tràng ra một dải lụa trắng, cột quanh mắt người đàn bà.
- Xong rồi. Hãy dẫn bà ra ngoài. Khi nào về đến nhà hãy mở dải lụa. Đứa bé và bà lão sụp lạy đạo cô rồi ra khỏi hang.
Bệnh nhân kế tiếp là một cô gái câm tuy hãy còn rất trẻ.
Hôm nay những người xếp hàng trước cửa hang không nhiều. Họ đứng im lặng trong bóng mát dưới tàng cây cổ thụ. Những người uống cà phê thì đang quay nhìn bà lão bịt dải lụa quanh mắt nhưng không ai nói gì. Vài người chắp tay, ngửa mặt lên trời khấn vái gì đó nhưng tất cả đều im lặng.
°
Vài phút sau, một người bạn của nhạc sĩ Phạm Hưng xuất hiện. Đó là một nhà văn chưa ai biết tên tuổi mặc dù cũng có in vài ba cuốn sách. Ông ta dắt chiếc xe PC rách nát của mình xăm xăm vô quán, không nhìn ai, nên suýt tông vào bà lão. Nhưng bà đã dừng lại kịp. Rồi bà nói:
- Cháu ơi, bà vừa nhìn thấy cái bóng mờ của một người đàn ông, có phải vậy không?
Đứa bé ôm chầm lấy bà. Nó reo lên:
- Bà đã nhìn thấy rồi! A Di Đà Phật!
Nhà văn nọ không hề để ý tới hai bà cháu. Ông đến, ngồi đối diện Phạm Hưng. Cả hai người đều ba mươi bốn tuổi và đều độc thân. Hưng thì độc thân vì hay kén chọn và có cái vẻ ngoài khó gần còn
nhà văn độc thân vì nghèo và xấu trai. Họ ít khi lui tới chơi bời với nhau nhưng ở quán cà phê này thì họ thường ngồi chung.
Ðiếu Lucky trên tay Phạm Hưng sắp tàn nhưng anh không ném đi. Anh lấy một điếu thuốc mới, rút bớt một số sợi thuốc ra, chừa một khoảng trống, rồi nhét mẩu thuốc đang cháy vào điếu thuốc mới, thế là anh có một điếu dài ngoằn. Ðó là trò chơi điệu nghệ của anh. Và đóm lửa trên môi anh không bao giờ tắt.
Nhà văn khoe:
- Mình có ý định viết về một tôn giáo mới, tôn thờ nhan sắc phụ nữ. Tại sao lại không thể có một tôn giáo như thế chứ? Ông thử nghĩ mà xem, chúa Giê-su cô đơn như thế, bất hạnh như thế mà vẫn là một giáo chủ.
- Vì hàng trăm triệu con người trên hành tinh này tin và thờ lạy ngài.
- Thoạt tiên không phải như thế, nhà văn nói, ngài có mười hai môn đồ nhưng gần như không có ai trung thành với ngài, hết lòng với ngài. Khi bọn quân lính của Hêrôđê đến vây bắt ngài xong, liền hỏi Phêrô, môn đồ thứ nhất của ngài: "Ngươi có biết người này là ai không?" Phêrô đã chối là không biết. Và ông ta đã chối đến ba lần như vậy. Còn Giuđa thì đã bán Chúa để lấy ba mươi quan tiền. Ông thấy không, chúa Giêsu đã bị đối xử tệ bạc như thế, trong khi vị đạo cô này được quần chúng say mê, tôn thờ, sao không thể lập ra một cái Đạo chứ?
Hưng nhắp một ngụm cà phê và mỉm cười.
Bà chủ quán đến với một cái khay nhỏ, đặt hai phin cà phê đen lên bàn.
- Chào hai chú.
Bà nói và hỏi nhà văn:
- Hôm nay thầy có vào đảnh lễ đạo cô không?
- Nếu đạo cô không quá mệt, tôi sẽ là người cuối cùng. Phạm Hưng hỏi:
- Hôm nay anh gặp đạo cô để làm gì?
- Tôi định viết một cuốn sách về cô ấy và tôi muốn xin ý kiến. Còn anh?
- Lúc nãy tôi đã gặp và tấu cho cô nghe một nhạc phẩm. - Một ca khúc?
- Không. Chỉ là một prélude soạn cho hắc tiêu.
- Ý của nàng như thế nào?
- Nàng chỉ nghe có một lần nhưng đã tấu lại bằng chiếc đàn đá một cách hoàn chỉnh. Nó như một bản thánh ca. Điều lạ là cây đàn đá đã lưu giữ được giai điệu của khúc prélude ấy.
- Còn tôi thì muốn viết về Tử Hồng như một nhân vật huyền thoại. Vừa ca tụng nhan sắc vừa ca tụng sự mầu nhiệm của nhân cách.
- Chắc anh sẽ viết một trường ca?
- Có thể tôi sẽ dùng bút pháp của kinh thánh…
- Lúc nãy nghe Tử Hồng đàn, tôi nghĩ ngay đến hoàng hậu Nam Tử của nước Vệ thời Chiến Quốc khi nàng xướng hoạ cùng đức Khổng Tử.
- Tôi nghĩ Nam Tử chỉ là một mỹ nhân của thế tục, còn Tử Hồng là một thánh cô, không thể so sánh được.
Lúc này bệnh nhân đã về hết. Nhà văn Lê Đạo bèn đứng dậy, theo lối mòn, đi giữa hai hàng cây dẫn vào cửa hang.
- Chào nhà văn - đạo cô vẫn ngồi im trên bục đá - ông lại muốn nói về cuốn sách của ông chớ gì?
- Tôi đang lo sợ. Sợ không đủ tài, sợ ngòi bút quá thô thiển không diễn đạt được…
Lê Đạo ngồi xếp bằng trước mặt đạo cô. Khi ông định cúi xuống đảnh lễ thì Tử Hồng cười thành tiếng và đứng dậy. Nàng bước lại chiếc võng gai, nằm xuống. Nhà văn hướng về phía ấy. Đạo cô hỏi:
- Ông sẽ viết những gì?
- Cô đã đọc kinh Tân Ước chưa?
- Tân ước là những câu chuyện kể của nhiều người. Tôi nghĩ đó là thần thánh hoá. Vừa nhập thế vừa siêu hình.
- Nhưng cô cũng có thể làm cho người câm nói được, người mù sáng mắt?
- Đó chỉ là nhờ nhân điện. Anh có nghĩ tôi là một bà lang vườn không?
- Không. Tuyệt đối không dám. Nếu như tôi có thể gọi em là Thánh Cô. Thực ra đối với tôi, những khả năng chữa bệnh của em không quan trọng lắm mà là nhan sắc. Tôi biết nói sao bây giờ? Như một bông hoa? Như một tinh thể tuyết giữa không trung? Như một đoá quỳnh lộng lẫy? Tử Hồng ạ, em đẹp đến sững sờ. Vẻ đẹp ấy làm cho vạn vật phải khép nép.
Tiếng cười của đạo cô vang lên lấp lánh như tiếng của băng tan trong vách đá.
- Vạn vật phải khép nép?
- Vâng, không chỉ tôi và các bạn tôi mà cả cây cỏ, hoa lá, chim muông và suối nguồn, rừng núi. Và cả những đám mây, những ngọn gió…
- Tất cả những sự thần thánh hoá đều giả. Tôi chỉ là một người bình thường và tôi muốn được xem như một người bình thường.
Tử Hồng ngồi dậy nhưng vẫn ở trên võng, hai bàn chân trần đặt trên nền đá.
Nhà văn Lê Đạo chợt như rơi vào cơn mê. Ông thấy mình đang bồng bềnh như nổi trên một đám phù vân, và hoảng hốt khi thấy cỏ từ trong kẽ đá đang vươn dài ra quanh những đầu ngón chân trắng hồng của đạo cô.
Cỏ mảnh mai, xanh biếc và toả hương thơm ngát. Rồi những cánh hoa trắng nhỏ mọc chi chít quanh lá cỏ, cứ đùn lên, đùn lên, bỗng chốc biến thành đám mây khi đạo cô nhẹ bước đến trước mặt nhà văn.
Lê Đạo khóc nức nở. Đạo cô đưa bàn tay mềm mại của mình vuốt mặt ông rồi xoè ra, tức thì những giọt nước mắt trong lòng bàn tay cô biến thành những tinh thể bông tuyết lấp lánh.
Đạo cô tung chúng lên cao. Lập tức bông tuyết bay rợp trong hang động lạnh giá và đầy ánh sáng. Đạo cô đặt hai bàn tay lên vai nhà văn.
- Đó chỉ là ảo giác. Hãy xuất định! Đạo cô nói. Hãy bước ra khỏi cơn mê. Đó là sân si. Ông có biết không?
Lê Đạo choàng tỉnh, vịn vách đá đứng dậy.
Cho tới khi bước ra khỏi cửa hang, đến ngồi cạnh Phạm Hưng, nhà văn vẫn còn lảo đảo. Phạm Hưng châm cho bạn điếu thuốc.
- Ông si quá rồi. Ông có muốn lấy Tử Hồng làm vợ không?
- Tôi biết anh muốn như thế Hưng ạ, còn tôi thì không. Tôi yêu cô ấy như yêu một vì sao. Nó lung linh sáng, nó như hạt ngọc đính trên trời đêm, mãi mãi không bao giờ mình nên chạm tới.
- Anh nói giống như trong tiểu thuyết diễm tình cổ điển.
- Đừng chế diễu. Tôi là nhà văn mà, tôi biết anh cũng đang chết mệt vì cô ấy. Và anh chỉ muốn cưới cô ấy làm vợ, phải không nào?
- Cưới vợ à? Chỉ nghe hai tiếng ấy không, đã thấy mệt rồi. Cứ tưởng tượng trong nhà mình bỗng nhiên có một phụ nữ đi đi lại lại, rồi lục đục trong bếp, rồi hỏi tiền chợ, rồi kêu đói bụng, kêu đi ăn phở, đi xem ca nhạc. Mình đang ngồi làm việc, đang suy nghĩ thì réo lên, anh ơi, anh sửa dùm em cái bếp điện… thì chán chết đi được.
- Đừng làm bộ. Tôi nhìn thấu suốt tim đen của anh.
Phạm Hưng vỗ vai nhà văn, anh nói:
- O.K. Nếu tôi cưới được cô ấy thì sao?
- Anh sẽ không bao giờ cưới được cô ấy.
- Tại sao?
- Vì nhan sắc ấy chỉ để chiêm ngưỡng, thờ lạy và cầu nguyện chứ không để chiếm hữu.
Phạm Hưng uống cạn tách cà phê, vò nát bao thuốc rỗng không, ném đi.
- Hãy đợi đấy, anh nhà văn ạ. Bây giờ tôi về. Anh cho phép tôi trả tiền nhé.
- Anh cứ trả phần anh đi. Còn tôi, tôi cần ngồi lại đây một lát nữa.
2. ĐỘT NHẬP CĂN HỘ CỦA NHÀ VĂN
Lê Ðạo leo bốn tầng lầu của khu tập thể và đứng thở dốc trước cửa căn phòng nhỏ bé của mình.
Khi cánh cửa phòng mở ra, anh giật mình khi nhìn thấy một người thanh niên ăn mặc xoàng xĩnh, đầu đội chiếc mũ vải sờn rách đang ngồi im như tượng nơi chiếc ghế mây đặt cạnh bàn viết của mình. Anh ta không đứng dậy và cũng không chào chủ nhà, không nói một lời. Anh ta nhìn Lê Ðạo bằng đôi mắt mệt mỏi, buồn bã. Lê Ðạo hỏi:
- Anh làm gì ở đây?
- Tôi muốn gặp ông.
- Nhưng ai cho phép anh vào nhà tôi trong khi tôi đi vắng? Anh định giở trò gì thế?
- Ông đừng nổi nóng, người khách lạ nói, tôi không phải là kẻ trộm đâu.
- Thế anh vào nhà tôi để làm gì?
Người lạ lấy thuốc lá ra hút rồi đứng lên, đi đi lại lại trước mặt Lê Ðạo, hai ngón tay vàng khè kẹp điếu thuốc vung lên trong khoảng không.
- Ông xem xét lại đồ vật trong nhà đi. Tất cả còn nguyên vẹn. Nếu tôi là kẻ trộm thì tôi đã ra đi trước khi ông về.
- Nhà tôi cũng chẳng có gì để anh ăn trộm đâu, nhưng anh không được quyền vào nhà tôi một cách lén lút như thế.
Người lạ dừng trước tấm lịch, lật lên coi và nói:
- Tôi chẳng lén lút. Tôi đợi ông về mà.
- Nhưng lẽ ra anh phải đứng đợi tôi ngoài hành lang. Chìa khóa đâu anh mở cửa phòng tôi?
Người lạ thọc tay vào túi quần lấy ra chiếc chìa bằng đồng dài như cây bút bi đưa cho Lê Ðạo.
- Tôi tìm thấy nó trong chậu hoa ngoài hành lang.
Lê Ðạo cởi giày, ném mạnh xuống sàn:
- A, té ra anh đã theo dõi, rình rập tôi từ lâu rồi. Anh là ai? Và anh muốn gì?
Người lạ trở lại chiếc ghế mây lúc nãy.
- Ông yên tâm, tôi không phải là công an đâu.
- Có là công an tôi cũng chẳng sợ vì tôi sống trong sạch. Nhưng này, anh phải nói cho tôi biết anh là ai chứ. Tôi không có thói quen tiếp những người mà tôi không biết.
Người lạ không có vẻ gì là nao núng. Anh ta chậm rãi mở khóa kéo xách tay, lôi ra một cái phong bì, đưa cho Lê Ðạo. Nhà văn tiếp lấy mở ra, thấy bên trong có một tấm ảnh cỡ sáu chín.
- Ông nhận ra người trong ảnh chứ? Người lạ hỏi.
Lê Ðạo lặng thinh nhìn tấm ảnh rất lâu. Anh hỏi:
- Anh chụp lén hình tôi để làm gì?
- Ông đang ngồi buồn bã, ngồi một mình nơi ghế đá trong công viện vắng người. Ông đang nhớ, đang khóc thầm phải không?
Lê Ðạo đập bàn giận dữ.
- Chuyện đó không liên quan tới anh! Tôi nhớ ai mặc xác tôi. Anh có quyền gì?
Người lạ cười khô một tiếng, ngắm nghía cơn giận của chủ nhà một cách thích thú.
- Tôi là một nhà nhiếp ảnh tài tử, nhưng tôi rất thích săn những tấm ảnh nghệ thuật, nhất là những ảnh diễn tả nội tâm. Ông thấy nó có đẹp không? Ông có muốn xem nữa không. Có một bức tôi rất thích. Chụp hai người đứng trú mưa dưới một mái hiên trong một buổi sáng ảm đạm.
- Hai người nào?
- Một trong hai người là ông. Ông có muốn xem không?
- Anh cút đi. Chẳng xem xiếc gì cả. Tôi đang bận.
Lê Ðạo ném tấm ảnh lúc nãy trả lại cho chàng trai lạ mặt và thay quần áo. Người lạ lại nói:
- Tôi chưa đi được. Tôi còn nhiều chuyện muốn nói với ông. - Nhưng tôi chẳng có chuyện gì để nói với anh cả. Anh đi đi! Người lạ lại lôi từ trong xách tay ra một cây bút bi.
- Cây bút này của ông?
Lê Ðạo nhìn cây viết Parker có khắc tên mình. Ông nói: - Dường như tôi đã bỏ quên nó ở đâu đó.
- Trong quán cà phê Hồng phải không?
- Có lẽ. Anh muốn tôi chuộc lại chớ gì?
- Tôi trả lại cho ông.
Và anh ta đặt cây bút trước mặt nhà văn.
- Cám ơn, Lê Ðạo nói, bây giờ thì anh có thể đi.
- Tôi sẽ đi. Nhưng xin hỏi ông câu này. Tối thứ bảy tuần rồi, lúc mười giờ ba mươi lăm phút ông có dắt chiếc xe PC đi ngang qua căn nhà số 324 đường Ðiện Biên Phủ phải không?
- Tôi không nhớ. Nhưng anh hỏi cung tôi đấy à?
- Sao ông lại không nhớ được. Ông không nhớ căn nhà ấy thì ai nhớ. Ông đã dắt xe đi rất chậm và nhìn lên cửa sổ, chỗ có ánh đèn. Ðúng không?
- Có thể lúc ấy xe tôi bị chết máy.
- Không chết máy. Bằng chứng là sau đó, khi đi qua khỏi căn nhà một đoạn thì ông lại lên xe và chạy đi.
Nhà văn bắt đầu thấy mệt mỏi vì cái con người lì lợm quái đản này. Anh lên giường nằm và nhắm mắt lại. Nhưng bên tai ông cái giọng hỏi cung lạnh lùng ấy lại vang lên:
- Sáng thứ năm tức là ngày hôm qua lúc chín giờ kém năm phút ông có mặt trong chợ Bến Thành. Ðầu tiên ông mua một cái kẹp tóc bằng đồi mồi giá một ngàn đồng, sau đó ông mua một bàn chải đánh răng hiệu Colgate giá hai trăm và cuối cùng ông đến cửa hàng quần áo mua một chiếc áo pull có vẽ hình một con chim ruồi giá bốn ngàn phải không?
Nhà văn vẫn nhắm mắt, rồi anh xoay người úp mặt vào gối, lấy tay bịt cả hai tai lại. Tuy vậy cái giọng lạnh lùng kia vẫn vang lên:
- Lúc chín giờ sáng ngày…
- Thôi, thôi! Nhà văn vùng dậy. La lớn. Rồi bỗng nhiên lòng anh chợt nguội lạnh, dửng dưng như không có chuyện gì, như những điều nãy giờ diễn ra chỉ là một trò đùa dai.
Nhà văn đến bên cạnh chàng trai, vỗ vai anh ta và nói:
- Thôi, dẹp những chuyện ấy đi nhé. Ðể tôi pha cà phê cho bạn uống. Tôi có cà phê chồn ngon tuyệt vời.
Người lạ im lặng, không tỏ vẻ bằng lòng mà cũng không phản đối. Anh ta lấy cái mũ mềm xuống cầm nơi tay, vuốt vuốt những chỗ sờn rách rồi nhíu mày, gương mặt hằn lên nét khắc khổ, đau đớn. Và trong khi nhà văn lui cui pha cà phê, anh ta lấy chiếc dép da lên săm soi cái gót đã mòn vẹt, rồi khi nhận ra có một cái đinh đã lung lay, anh ta cố sức nhổ nó ra, bỏ vào lòng bàn tay, trở qua trở lại, thảy thảy mấy cái rồi bỏ nó vào cái gạt tàn thuốc.
Nhà văn mời anh ta đến ngồi đối diện mình. Cà phê nhỏ xuống trong ly những giọt long lanh đen tuyền và chậm chạp. Lê Ðạo khui một gói Ruby đầu lọc mời khách. Khi cả hai điếu thuốc cháy lên và khói bay tản mạn trong phòng, nhà văn mới ngắm nghía diện mạo của chàng trai trẻ.
Nếu như không có cái nhìn u ám kia thì đó là một khuôn mặt có thể nói là đẹp trai, nơi khóe miệng có một nét gì đó rất duyên dáng. Lê Ðạo hỏi:
- Năm nay cậu bao nhiêu tuổi rồi?
- Hai mươi lăm.
- Cậu đã có gia đình chưa?
- Có làm gì. Nhưng mà tôi không thích cách xưng hô của ông đâu. Nhà văn cười:
- Xin lỗi. Uống cà phê đi. Anh là một nhà nhiếp ảnh thực đấy chứ? - Có thể như thế.
- Anh nên tổ chức một cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật. Anh còn trẻ mà, còn nhiều triển vọng. Nhưng dường như anh có điều gì buồn lắm phải không? A, chắc là chuyện tình yêu chớ gì?
- Không. Tình yêu đối với tôi vô nghĩa.
- Như thế chắc là anh rất chú tâm vào nghệ thuật nhiếp ảnh. Anh nghĩ gì về những nhà nhiếp ảnh lớn như Nguyễn Cao Ðàm, Võ An Ninh?
- Họ là những bậc thầy. Tôi rất mê những bức chụp cồn cát của Nguyễn Cao Ðàm.
- Anh có bức nào chụp cồn cát không?
- Nhiều lắm, tôi là dân Phan Thiết mà. Ðúng ra là dân Mũi Né. Tôi sinh ra và lớn lên ở đó. Ðó là xứ của biển và cồn cát. Chưa có cái gì trên đời này kỳ diệu bằng cồn cát đâu ông ạ. Nó mênh mông và biến ảo vô cùng. Buổi sáng vừa thấy nó lăn tăn như sóng biển, đến trưa nó đã nhấp nhô uốn lượn như thung lũng, như núi đồi, đến chiều, khi hoàng hôn sắp tàn thì cồn cát mang đầy những đường nét gợi cảm của thiếu nữ khỏa thân. Ðó là chưa nói đến những đêm trăng và những cơn bão cát mù mịt. Ông không thể tưởng tượng được sự biến ảo kỳ lạ của cồn cát đâu.
Trong lúc anh ta say sưa diễn tả, cái vẻ u ám trong đôi mắt chợt biến mất và anh trở nên một con người dễ thương lạ lùng. Nụ cười của anh cũng khác, hồn nhiên như trẻ thơ.
Lê Ðạo nói:
- Anh là một người có tâm hồn, anh bạn ạ. Nhưng tôi vẫn thấy anh có một điều gì đó rất u uất. Bây giờ coi như chúng ta đã là bạn của nhau rồi, anh có thể cho tôi được chia sẻ phần nào nỗi u uất của anh không?
- Không. Không bao giờ. Giọng chàng trai chợt thay đổi hẳn. Chính tôi đã sống bằng sự u uất ấy đấy. Không có nó thì tôi sẽ chết.
Lê Ðạo cảm nhận một điều gì đó rất ghê gớm trong câu nói ấy. Lúc nãy anh tưởng là mình đã có thể hiểu được chàng trai còn bây giờ thì không. Nhưng thực sự lòng anh muốn chia sẻ điều bất hạnh bí mật của người khách lạ trẻ tuổi. Lê Ðạo nói:
- Anh còn trẻ lắm. Anh hãy quên nỗi buồn của mình đi. Nghệ thuật cũng là một điều kỳ diệu lắm. Nó có khả năng cứu rỗi, như đức tin vậy.
- Ông không hiểu gì về tôi cả. Tôi chẳng cần sự cứu rỗi, cũng chẳng cần đức tin.
- Thế anh cần cái gì?
Người khách cười khẩy.
- Tôi cần cái gì làm sao ông biết được.
- Chúng ta lại luẩn quẩn rồi. Anh hãy nói tiếp về cái cồn cát của anh đi.
- Không. Lúc nãy tôi nói thế là tôi điên đấy. Tôi có những lúc giống như lên đồng, giống như có một người nào khác trong tôi đang nói.
- Nhưng tôi lại thấy lúc nãy khi anh diễn tả về cồn cát thì anh mới thực là anh. Còn bây giờ thì…
Chàng trai đưa tay ngăn nhà văn lại.
- Không. Bây giờ mới chính là tôi. Tôi không bao giờ quên, không bao giờ tha thứ…
- Tha thứ ai?
- Không bao giờ tha thứ.
Nhà văn thở dài. Tách cà phê đã cạn, anh rót trà cho chàng trai rồi nói:
- Tôi hiểu anh. Và hứa sẽ không xen vào chuyện riêng của anh nữa. Chàng trai chợt bật lên cười ha hả như điên dại.
- Ước gì đó chỉ là chuyện riêng của tôi! Ông là nhà văn mà ông chẳng hiểu gì hết.
- Chẳng lẽ chuyện của anh có liên quan đến tôi à?
- Biết đâu đấy. Nếu ông viết chuyện này thành sách thì dĩ nhiên là có liên quan tới ông.
- Nhưng đó chỉ là chuyện văn chương, nào phải chuyện có liên quan tới ai đó ngoài đời.
- Thôi, tạm cho là như vậy. Chàng trai đứng lên đưa mắt nhìn ra cửa sau. Ông chỉ cho tôi cái toa-lét. Rồi tôi sẽ kể cho ông nghe chuyện một vụ án ly kỳ để ông viết tiểu thuyết. Hiện nay đang thịnh hành chuyện vụ án lắm mà.
Nhà văn vừa ngáp vừa nói:
- Tôi chẳng quan tâm đến các vụ án. Toa-lét ở cuối hành lang phía bên trái.
Tuy vậy chàng trai vẫn không rời khỏi ghế và không có vẻ gì là anh ta sẽ rời khỏi ghế. Lê Ðạo bèn nhắc lại lời chỉ dẫn của mình nhưng anh ta đã nói:
- Thôi, không cần toa-lét. Này ông, ông không thích những vụ án mạng à?
- Tôi không quan tâm.
- Ông sợ chúng chứ gì?
- Tôi ghê tởm.
- Ông nghĩ gì về cái chết?
- Những điều tôi suy nghĩ về cái chết tôi không thể chia sẻ với cậu được đâu.
- Ông đừng gọi tôi như thế. Ông cho rằng làm người phải chết cho hào hùng, chết cho có ý nghĩa, chết cho xứng đáng chớ gì?
Lê Ðạo lặng thinh. Và cứ ngồi lặng thinh như thế rất lâu. Rồi anh nói mà không nhìn chàng trai, vì anh không định nói với chàng trai:
- Cái chết chính là quê hương điêu tàn nhất của mỗi con người. Ðó là điều đáng nói. Chứ không phải chết như thế nào mới là điều đáng nói.
Chàng trai nhìn Lê Ðạo trân trối rồi cầm lấy cái mũ mềm. Nhà văn chìa tay cho anh ta bắt, anh ta nói:
- Nhưng rồi ông cũng sẽ chết. Cả tôi nữa. Phải không?
Lê Ðạo buông cái bàn tay lạnh lẽo kia ra, anh không trả lời câu hỏi ấy.
3. KẺ MAI PHỤC TRONG THÙNG GỖ
Nguyễn Xuân Ðắc là một nhà điêu khắc trẻ, cao lớn, khỏe mạnh, tuy không đẹp trai lắm nhưng rất đàn ông. Anh vào quán cà phê Hồng lúc ba giờ rưỡi chiều và ngồi đến bốn giờ thì đi.
Lúc dắt chiếc Honda 67 ra cổng, anh suýt tông vào một ông khách đang bước vô quán. Ông khách đó là lão chủ tiệm chạp phô người Tàu. Ðắc nói xin lỗi, ông già cười hề hề:
- Chào chú em.
- Chào ông Hoành Bá. Ông chủ đi uống cà phê trễ vậy? - Ngộ bận lắm. Có chuyện gì gấp không, vô đây nói chuyện chơi.
Ðắc quay xe lại. Hai người ngồi nơi chiếc bàn ở cuối sân. Ông Hoành Bá gọi hai cái xây chừng rồi móc chai dầu Nhị Thiên Ðường ra hít. Lão mới ngoài năm mươi nhưng vì dáng người nhỏ thó gầy đét nên trông già xọm.
Lão hỏi:
- Chú em đi đâu mà gấp vậy?
- Ði tắm hơi. Ông chủ đi hôn, tui chở đi?
Hoàng Bá vén cái áo sơ mi bằng tơ tằm lên, xoa dầu vô lỗ rún. - Thôi, thôi… Ngộ già rồi. Không ham.
- Già thì mới cần đi tắm hơi. Tắm xong khỏe liền, không cần dầu Nhị Thiên Ðường.
Nhưng Hoành Bá cứ lắc đầu.
- Thôi, thôi. Ngộ tu dồi.
Câu chuyện đang rôm rả thì thấy đạo cô từ trong hang đá đi ra, chiếc áo tràng màu nâu già đã bạc màu nhưng mái tóc dài của nàng thì ngời lên trong ánh nắng xế như một vầng hào quang lộng lẫy.
Lão Hoành Bá nói:
- Hôm nay có ít bệnh nhân, đạo cô về sớm quá. Cậu đưa cổ về nhà đi.
- Tôi không dám. Tôi chưa hề nói chuyện với đạo cô lần nào.
Rồi Ðắc im bặt. Anh đã ngủ với cả chục người đàn bà, đã sỗ sàng với biết bao nhiêu thiếu nữ vậy mà lúc gặp đạo cô là anh sợ. Nhìn lén thì nhìn say mê mà đối mặt thì không dám. Sắc đẹp của cô làm anh rúng động, rụng rời.
Đắc nhìn xuống đất, lại thấy mấy ngón chân trắng hồng của cô gái, tim anh hồi hộp và anh chỉ muốn bỏ đi.
Lúc cái bàn chân xinh đẹp kia biến mất ngoài ngõ, Ðắc mới choàng tỉnh, hấp tấp đứng dậy. Nhưng khi ngồi lên xe, đạp máy, Ðắc lại không muốn đi tắm hơi nữa. Anh cứ lang thang trong phố một lúc rồi ghé vào quán nhậu, kêu hai chai bia và một đĩa mồi, ngồi lai rai một mình. Gần năm giờ anh ghé nhà một cô bạn gái vừa lúc cô cũng đi đâu về.
- Khoan vào nhà đã, Ðắc nói, đi với anh một lát đi.
- Ði đâu?
- Ði quanh quanh chơi.
- Em không đi đâu. Anh lại dụ em chớ gì.
Ðắc nắm tay cô gái, nhìn một cách tình tứ:
- Thôi mà, lên xe đi.
Cô gái lên ngồi phía sau. Ðắc chạy quanh quanh một lát rồi quẹo sang đường đi Gò Vấp.
- Anh đi đâu vậy?
Ðắc vuốt ve cái đùi của cô bạn và nói:
- Lại chỗ cũ.
- Thôi, em không chịu đâu. Anh chỉ đến với em vì mục đích đó thôi chớ gì. Mới uống bia phải không?
- Uống có một chai, ăn thua gì. Nhưng mà anh nhớ em, anh yêu em lắm.
- Ai mà anh chẳng yêu. Bỏ tui xuống đây đi. Tui đi xích lô về.
- Thôi mà, Ðắc năn nỉ, Tụi mình đã từng yêu nhau như thế. Em cho là chuyện qua đường sao?
- Chớ gì. Anh ngủ với biết bao người. Em tởm anh lắm.
- Nói bậy. Ðừng có ghen như thế. Tình cảm giữa chúng mình có gì thay đổi đâu.
Ðắc cứ gợi chuyện, cứ nói, cứ tán, thế là cô gái quên chuyện đòi về, tới khi đến địa điểm thường lệ thì cô mới kêu lên:
- Em không vô đâu.
Nhưng Ðắc cứ đi gởi xe. Lúc trở ra anh cầm lấy tay cô gái và nói: - Thôi mà, gây gổ giữa đường người ta cười cho.
Anh vuốt lưng cô và đẩy nhẹ cô đi.
Bao giờ sau khi làm tình xong cô gái cũng khóc và nói:
- Anh là thằng khốn nạn. Anh chỉ thích cái trò này chớ anh có yêu em đâu.
Ðắc hôn cô, cài nút áo cho cô và nói:
- Ðừng nói thế. Anh yêu em.
Rồi anh ôm và hôn. Cô gái ôm anh thật chặt, cắn anh đau điếng bả vai. Mà vẫn khóc.
Trên đường về, Ðắc ghé một quán phở. Cô gái hỏi:
- Vô đây làm gì?
- Em ăn một chút đi. Uống sữa tươi nhé.
- Anh trả công cho tôi đấy phải không?
- Khổ quá. Cứ nói thế.
Và anh gọi sữa. Tự nhiên cô gái nổi giận. Cô rút một đôi đũa trong ống ra, bẻ đôi và ném mạnh xuống đất.
- Anh đạt được mục đích rồi đó. Bây giờ thì đi đi, để mặc tôi. - Có gì mà giận. Em uống sữa xong anh đưa em về. - Không cần. Anh đi đi. Anh không đi thì tôi đi.
Và cô xô mạnh cái ghế, bỏ đi ra khỏi quán.
Người phục vụ đem phở và sữa đến. Ðắc móc ví trả tiền, lên xe đuổi theo cô gái.
Nhưng cô đã biến mất.
Tự nhiên anh thấy buồn và lại nghĩ đến Tử Hồng, lòng cứ xót xa ray rức. Anh đứng giữa đường, không biết đi về đâu. Anh chán ngấy căn phòng của anh, chán ngấy tất cả. Anh phóng xe như bay giữa đường phố sáng choang ánh đèn, tự nhiên anh thấy mình ngu ngốc và lố bịch. Anh cho xe chậm lại rồi quẹo sang một con đường vắng hơn, tối hơn. Ði một lúc thấy lố nhố ba bốn cô gái ẩn hiện bên các gốc cây. Ðắc không thấy ham muốn nhưng anh cũng ghé lại. Cô gái tà tà đi ra, cười cười.
- Ði không? Cô ta hỏi.
Ðắc im lặng rút một điếu thuốc, đốt lên. Rồi nghĩ sao anh rút tiếp một điếu nữa đưa cho cô gái, bật lửa cho cô ta. Anh vẫn ngồi trên xe. Cô gái bá cổ anh, phun khói vào mặt anh. Anh chợt nhận ra đôi mắt cô gái trắng dã trong đêm và anh hoảng sợ. Anh móc năm trăm đồng cho cô ta rồi vụt xe đi, lầm bầm chửi thề. Lúc ấy tự nhiên anh nghĩ đến người đàn bà bán chả giò ở đường Võ Thị Sáu và anh chạy đến đó.
Mười giờ đêm, tiệm đã đóng cửa. Anh dựng xe và bấm chuông gọi. Phía trong có tiếng dép lẹp xẹp đi ra rồi một đôi mắt xuất hiện ở khe cửa.
- Cho anh vào với.
- Ðồ quỷ, người đàn bà sồn sồn nói, đi đâu biệt tăm vậy?
Ðắc không trả lời. Anh đẩy cánh cửa sắt, dẫn xe vào. Người đàn bà đóng sập cửa lại. Hai người lên lầu.
Khi đã ngồi xuống giường, người đàn bà hỏi:
- Làm gì mà mặt ngầu quá vậy?
Ðắc chẳng nói chẳng rằng, vồ lấy người đàn bà đồ sộ nọ. Bà ta cười khúc khích đấm thùm thụp vào ngực anh.
Anh dữ như một con gấu.
°
Sáng sớm Ðắc thức dậy khi người đàn bà còn ngủ. Anh mặc quần áo vội vàng rồi lén lấy chìa khóa, rón rén đi xuống cầu thang, mở cửa, dẫn xe ra.
Trời còn sớm lắm. Thành phố còn ngái ngủ. Trên đường chỉ có vài ba người đi. Một người phu xích lô đạp xe từ đằng kia đi lại ho khan lên mấy tiếng. Ðắc chạy xe chậm chậm. Khuôn mặt của đạo cô cứ ám ảnh anh, choán cả tâm trí anh. Tại sao cô gái lạ lùng ấy không hề để ý đến ai, cứ cười cười nói nói mà vô tình, mà hờ hững. Chắc giờ này Tử Hồng vẫn còn ngủ, cũng có thể đã thức dậy và chuẩn bị đến hang đá. Ðắc lái xe mà không nhìn đường, miệng khô cứng và có vị đắng. Tự nhiên xe tới trước nhà Tử Hồng. Đối diện căn nhà là một cái bục gỗ của người thợ sửa giày. Giờ này ông ta chưa dọn hàng ra, cái bục gỗ vẫn còn đóng kín. Anh đậu xe lại ngay đó, đựng xe rồi đến ngồi trên cái bục, lấy thuốc lá ra hút.
Buổi sáng se se lạnh. Căn phòng của Hồng ở trên lầu đã có đèn sáng và có tiếng tụng kinh. Anh vẫn ngồi chờ. Hút hết điếu thuốc, vẫn chưa nhìn thấy được bóng dáng của người đẹp nhưng Ðắc không sốt ruột. Buồn tình anh quan sát cái bục gỗ. Nó như cái thùng đựng trái cây đã gần như mục nát, chỗ nắp đậy có một cái khoen han rỉ, không có khóa, anh nghĩ chắc bên trong không đựng gì, nếu có cũng chỉ là mấy miếng da vụn, vài cái đế giày mòn vẹt, dăm ba cái quai dép đứt. Tự nhiên anh thấy tội nghiệp cho cái kiếp nghèo của người dân lao động. Anh chưa từng vá giày ở đây lần nào nhưng vì đây là cái bục ở trước nhà Hồng nên anh biết rành người
chủ của nó. Một người thợ già, da bọc xương mà bền bỉ một cách kỳ lạ. Lần nào anh đi qua đây cũng thấy ông ngồi cặm cụi làm việc, buổi sáng thì ông mặc áo lính dày cộm, buổi trưa ông mặc áo thun ba lỗ để lòi cả xương ngực, xương vai. Có lúc ông ở trần, chẳng biết nhà cửa ở đâu, con cái ra sao.
Ðắc lại nhìn lên căn phòng của Hồng. Vẫn ánh đèn, vẫn tiếng mõ lốc cốc. Năm giờ rưỡi sáng. Ðắc gõ gõ ngón tay lên nắp cái bục gỗ và hát vớ vẩn một câu gì đó. Thình lình anh nghe có tiếng rục rịch bên trong cái bục. Rồi lại im. Lát sau lại rục rịch. Ðắc đứng dậy, chờ đợi một lúc vẫn không thấy động tĩnh gì, anh tò mò mở nắp thùng lên và kinh hoàng nhảy lùi lại.
Một con người từ dưới đáy thùng gỗ bật dậy. Không phải lão già. Mà là một thanh niên trạc hai mươi lăm hai mươi sáu tuổi, đầu đội cái mũ mềm đã sờn rách. Người đó dường như Ðắc đã gặp vài lần trong quán cà phê Hồng.
Anh ta nhảy ra khỏi cái bục rất nhanh và đứng chống nạnh nhìn thẳng vào mặt Ðắc, hỏi:
- Anh ngồi đợi ai đây?
- Ðợi ai kệ tôi. Ðắc vừa đáp vừa quan sát anh ta.
- Anh có biết chỗ này là chỗ gì không?
Ðắc hỏi lại:
- Cái bục này của anh à?
- Không. Nhưng tôi hỏi anh có biết nơi này là nơi nào không?
Anh ta hỏi mà mắt nhìn trừng trừng, nhưng Ðắc cứ tỉnh bơ, thản nhiên hút thuốc, rồi lại ngước nhìn lên căn phòng của Hồng. Người thanh niên nọ lập lại câu hỏi.
Ðắc cũng hỏi:
- Chắc đây là đất của anh?
- Gần như thế. Tôi báo cho anh biết, anh không được theo đuổi đạo cô nữa đấy.
Ðắc cười:
- Anh là chồng cô Hồng chắc?
- Gần như thế.
- Gần như thế mà lại nằm chèo queo trong cái bục gỗ này à? Ðêm nào anh cũng nằm chầu chực trước nhà cổ như vầy chớ gì. Tôi phục anh đấy.
Chàng trai sấn tới muốn đánh nhưng kìm lại được. Còn Ðắc thì cứ tỉnh bơ hút thuốc.
Chàng trai thọc hai tay vào túi quần nghênh mặt nói: - Ðừng có tự đắc. Rồi anh sẽ biết tay tôi.
Nói xong anh ta bỏ đi.
4. NHỮNG MÔN ĐỒ ĐẦU TIÊN CỦA HỒNG ĐẠO
Nhạc sĩ Phạm Hưng, nhà văn Lê Ðạo và nhà điêu khắc Nguyễn Xuân Ðắc ngồi chung bàn nói chuyện về anh chàng đội mũ rách mà họ chưa biết tên, chưa biết tông tích, gốc gác ra sao.
Đắc nói:
- Mới sáng hôm qua tôi gặp nó.
- Gặp ở đâu? Hưng hỏi.
- Nó ngủ trong cái thùng gỗ trước mặt nhà Tử Hồng. Ðêm nào nó cũng nằm canh ở đó.
Nhà văn Lê Ðạo:
- Ðúng là "Hồng" vệ binh.
- Nhưng cậu ta tên là gì vậy?
- Đâu biết, Ðắc nói, cũng không rõ làm nghề ngỗng gì. Phạm Hưng:
- Hôm đến nhà tôi, cậu ta giả làm người mua ve chai. Ăn mặc rách rưới.
Nhà văn:
- Còn với tôi, cậu ta xưng là nhiếp ảnh gia, chuyên săn ảnh nghệ thuật. Ở đây có người nào bị cậu ta chụp hình chưa? Tôi bị mấy lần rồi đấy.
- Tay đó khùng quá mức, Đắc nói, gặp ai cũng quậy. Sáng hôm qua mình nghĩ cũng tội nghiệp, không thì đã dần cho nó một trận rồi.
Phạm Hưng:
- Tôi cũng rất ngại tay ấy. Nó gặp tôi lần thứ hai rồi đấy. Hôm trước, thấy Tử Hồng cứ đi bộ hoài, tôi chạy xe theo xin đưa về nhà nhưng bị từ chối, sáng hôm sau tôi bị nó chặn đường. Nó nói tui cảnh cáo ông lần thứ nhứt. Nó hăm giết tôi.
Ðắc nói:
- Nó cũng hăm giết tôi.
Nhà văn hỏi:
- Theo các anh thì cậu ta dám làm chuyện đó không? Ðắc nói:
- Dám thì nó không dám nhưng nó làm phiền mình. Bực lắm. Tôi nổi xùng lên tôi đập cho mà chết.
Lê Ðạo cười khì.
- Bọn mình cũng đã lớn tuổi rồi, toàn dân có học cả, thế mà cũng không tránh được những chuyện thường tình. Nếu gây sự đánh nhau, giết nhau, thật chẳng ra làm sao.
Ðắc cãi:
- Nhưng mình có muốn thế đâu. Tại nó gây sự. Nó lấy quyền gì mà cấm đoán người này người nọ. Nó không phải chồng, cũng không phải người yêu, cũng không phải bà con thân thích gì. Thế thì nó cũng như bọn mình thôi chớ gì. Các anh nghĩ coi. Tôi đâu có phải là một thằng nhát gái, bồ bịch tôi thiếu gì, vậy mà gặp Tử Hồng tôi không dám mở miệng nói một lời nào. Trước sau một lòng tôn trọng không hề thất lễ. Còn nó thì ra lệnh cho người này, cấm đoán người kia, hăm he người nọ. Chịu sao được.
Hưng quay sang nhà văn.
- Anh Ðạo này, theo anh thì mình nên đối xử với cậu ta như thế nào?
Nhà văn nói:
- Saint Exupéry có nói một câu như thế này: "Yêu nhau không phải là nhìn nhau mà là nhìn cùng một hướng". Ba anh em mình ngồi đây cũng cùng nhìn một hướng, đó là đạo cô. Cậu ta là người thứ tư cũng nhìn về hướng đó. Bốn người cùng chung một lý tưởng, hoàn toàn có thể thân nhau được lắm chứ. Theo tôi thì ta nên lập một cái Ðạo. Trên đời này có biết bao nhiêu thứ đạo nhảm nhí, thế thì tại
sao một nhan sắc tuyệt vời, một con người từ bi bác ái như đạo cô lại không thể là một cái Ðạo. Tại sao người ta có thể thờ lạy những pho tượng bằng đất mà lại không thể thờ lạy một nhan sắc toàn hảo, một nhân cách cao đẹp, một tấm lòng bồ tát. Tại sao hàng trăm triệu người có thể trung thành với những điều viễn vông mà lại không thể trung thành với một thánh cô có thật trên đời?
Cả Phạm Hưng lẫn Nguyễn Xuân Đắc đều cười ha hả mà rằng: - Hảo a! Hảo a! Vậy thì bây giờ ta làm việc gì trước? - Ta phải gặp và thuyết phục cho được cậu ấy.
- Gặp ở đâu?
Ðắc nói:
- Tối nay ba anh em mình kéo nhau đến trước nhà Tử Hồng, chỗ cái thùng gỗ, gặp nó. Ðể coi anh nhà văn thuyết phục được nó không. Tôi cá với anh, nếu anh thuyết phục được, tôi sẽ xây ngay tại chỗ cái thùng gỗ ấy một thánh đường, có tháp chuông đàng hoàng.
Ba người bắt tay nhau, cả cười.
°
Ðúng nửa đêm, họ đều có mặt bên cái bục gỗ của người thợ giày. Ðắc xách theo một chai whisky, nhà văn đem theo một cái chén sứ men trắng rất đẹp và một con dao nhỏ cán bằng ngà voi xinh xắn. Ðắc cầm con dao lên ngắm nghía.
- Anh đem theo con dao để làm gì vậy?
Nhà văn nói:
- Xưa, ba anh em Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi kết nghĩa tại Vườn Ðào đều có uống máu ăn thề. Nay ta vâng mệnh Trời lập Ðạo há chẳng lấy đó làm gương sao?
Hưng nói:
- Anh nhà văn bày ra cái trò này hay đấy! Vậy thì Ðạo của chúng ta lấy tên là gì?
- Theo ta thì nên lấy tên là Hồng Đạo. Vừa có nghĩa là "đạo lớn" vừa ứng với tên của đạo cô.
- Nhưng theo thiển nghĩ thì Đạo bao giờ cũng thờ một thánh nhân như Jésus, Phật Thích Ca, Khổng Tử hay Phật bà Quan Âm… còn chúng ta, chẳng lẽ lại thờ một mỹ nhân sao?
- Ta nói điều này có lẽ các ngươi ngạc nhiên lắm, nhưng vai trò của người nữ, nhất là một mỹ nhân, rất quan trọng trong tôn giáo. Ví dụ như Phật bà Quan Âm.
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát tiếng Phạn là Avalokitesvara, có nghĩa: Nghe thấu được tiếng kêu thầm kín thiết tha từ chúng sanh trong thế gian mà đến cứu khổ.
Trong kinh BI HOA, đức Thích Ca Mâu Ni luôn luôn gọi đức Quán Thế Âm Bồ Tát là “Thiện-nam-tử” như vậy ngài vốn là nam nhân. Ngài cũng xuất thân là một thái tử con của vua Vô Trách Niệm, nhờ tu hành tinh tấn mà thành Phật.
Khi đạo Phật truyền sang Trung Hoa, vì hình ảnh người nữ luôn đem lại vẻ dịu dàng, trìu mến của người mẹ, nhất là những nữ nhân có nhan sắc tuyệt vời như đạo cô, thì nhan sắc ấy có khả năng xoa dịu những vết thương thể xác lẫn tinh thần, hoá giải những phiền não, tuyệt vọng của chúng sinh, nên Quán Thế Âm Bồ Tát mới xuất hiện trong hình hài của nữ nhi. Phật giáo đại thừa gọi đó là "tuỳ duyên hoá độ".
Nguyễn Xuân Ðắc chắp tay vái Lê Đạo.
- Đại ca thật là uyên bác.
Nhà văn nghiêm sắc mặt mà rằng:
- Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc đến nay, loài người lập ra nhiều thứ Ðạo. Ðạo Lão thì lấy vô vi làm gốc, lấy cái bản thể tự nhiên của tạo hóa làm nền, đạo Khổng là đạo nhập thế, lấy Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín mà răn người, lấy Tam cương Ngũ thường mà quản lý xã hội. Ðạo Phật tuy vô thần mà thâm sâu ảo diệu, Ðạo Kitô tuy huyền bí mà gần gũi thân thiết với con người. Nay anh em chúng ta họp nhau
đây, vì một nhan sắc phi phàm mà lập đạo, thì cũng dựa vào cái lẽ "tuỳ duyên hoá độ" đó.
Phạm Hưng hỏi:
- Vậy mục đích của đạo ta là gì?
- Là Đạo Cứu Người. Là quảng bá công phu tuyệt kỹ của đạo cô, chữa bệnh cho dân nghèo.
Đắc hỏi:
- Có nghĩa là chúng ta thiên về khí công, về y lý hơn là giáo lý, đúng không?
- Ta cũng nghĩ như vậy. Phật giáo Tiểu Thừa có hai pháp môn tu tập là: Pháp Học và Pháp Hành. Pháp Học thiên về kinh kệ, Pháp Hành thiên về thực nghiệm.
- Tôi không rành về Phật giáo Tiểu Thừa, anh có thể nói rõ hơn về Pháp Hành không?
- Đó là những thực nghiệm. Ví dụ như toạ thiền. Khi thái tử Tất Đạt Đa toạ thiền trên bồ đoàn cũng chỉ thực hành Tứ Niệm Xứ mà thành chánh quả.
- Nhưng Từ Niệm Xứ là gì?
- Là Niệm Thân, Niệm Thọ, Niệm Tâm và Niệm Pháp. Sau 49 ngày đêm, ngài đã khai mở được huệ nhãn vả thành chánh quả. Chúng ta không thể đạt tới cảnh giới ấy, nhưng chúng ta chỉ cần đạt tới năng lực của đạo cô là đã có thể trị bệnh cứu người.
Phạm Hưng hỏi:
- Nhưng đạo cô đâu phải là Phật tử. Cô ấy là một nữ đạo sỹ, tu theo Đạo Giáo (Taoism) phải không?
Lê Đạo:
- Không hẳn như vậy. Đạo cô là sự tổng hoà giữa Đạo giáo và Thiền tông của Phật giáo. Chính ba anh em chúng ta sẽ vận động thành lập một tu viên để đạo cô truyền đạt các pháp môn của mình.
Phạm Hưng đứng dậy, xá nhà văn một cái rồi khoanh tay hầu một bên.
Nguyễn Xuân Ðắc thấy Hưng đã thần phục bèn bắt chước đứng lên chắp tay vái Lê Ðạo rồi nói:
- Tôi là Nguyên Xuân Ðắc sinh năm Ất Mùi quê ở Vĩnh Long, nay vì ngưỡng mộ nhan sắc và thần thông của một người con gái huyền thoại mà nguyện trung thành với Hồng Ðạo và xin được làm môn đồ thứ ba.
Ðắc khấn xong cũng khoanh tay đứng hầu một bên, Lê Ðạo nói:
- Nay ta được hai sư đệ tôn làm đệ nhứt môn đồ của Hồng Ðạo, lòng tự thấy áy náy muôn phần, nhưng vì Ðạo ta còn quá mới mẻ, môn đồ còn ít, nên ta nguyện sẽ đem hết sức cùng anh em làm cho lẽ Ðạo ngày càng được thấm nhuần rộng rãi trong lòng người. Vậy các sư đệ hãy cùng ta cắt máu ăn thề.
Nói xong Lê Ðạo cầm con dao cán ngà lên cứa vô cổ tay mình một nhát, nhễu mấy giọt máu vô chén rượu Whisky. Hưng và Ðắc cũng bắt chước làm theo. Khi máu của ba người đã hòa lẫn vào trong rượu, Lê Ðạo liền kính cẩn nâng chén rượu lên ngang mày, rồi uống một ngụm. Uống xong anh trao chén rượu cho Hưng và nhắc:
- Các ngươi nhớ chừa lại một phần tư.
- Ðể làm gì? Ðắc hỏi.
- Lát nữa ta sẽ thu nhận môn đồ thứ tư.
Ðắc nghe nói thì ngửa mặt mà cười trong khi Hưng vâng mạng uống một phần tư rồi đưa cho Ðắc. Ðắc bưng lấy chén rượu, ngửa cổ uống cạn. Hưng hoảng hốt nói:
- Sao ngươi không chừa lại một phần tư?
Ðắc đặt chén rượu xuống cái bục gỗ, cười ha hả. Ðệ nhứt môn đồ Lê Ðạo thở dài mà than rằng:
- Ðiềm gở rồi!
Ðắc phát vào vai Lê Ðạo một cái.
- Nãy giờ anh em mình đùa bao nhiêu đó đủ rồi. Hơi quá lố rồi đấy.
Lê Ðạo cũng cười, rót đầy chén rượu uống cạn, rồi rót ly khác đưa cho Hưng.
Nhà văn nói:
- Hình thức là đùa chơi với nhau nhưng tinh thần là nghiêm túc đấy nhé. Lòng tôi tôn kính Hồng như thế đấy. Tôi muốn các cậu cũng kính yêu như thế.
Ðắc nói:
- Anh làm như chỉ mình anh biết yêu. Tôi cũng yêu gần chết đây này. Ba người bắt tay nhau. Lại uống. Ðắc nói:
- Sao lâu quá không thấy nó về? Hay là nó đã nằm trong thùng rồi?
Hưng giở nắp thùng lên. Thùng rỗng không. Họ lại uống và chờ. Vừa chờ đạo cô xuất hiện bên cửa sổ vừa chờ chàng trai trở về.
Hơn một giờ sáng lúc ba người đã ngà ngà say thì chàng trai lếch thếch trở về. Chàng cũng say mèm lảo đảo bước trên hè phố. Chàng vác trên vai một cái túi vải không biết đựng những gì trong đó. Khi đến gần cái bục gỗ, thấy ba người đang ngồi uống rượu chàng dừng lại lè nhè hỏi:
- Ðứa nào muốn chiếm chỗ của ta đấy?
Nhà văn reo lên:
- A! Anh bạn đã về.
- Môn đồ thứ tư đã về! Ðắc cũng reo lên.
Chàng trai hơi khom người xuống, ngó vô mặt từng người một. - Té ra là các người, các người cũng đáng bậc trượng phu đấy. - Hay! Anh bạn nói nghe được.
- Ðược quá đi chớ, nhưng mà chiếm chỗ như thế là đủ rồi đấy. Bây giờ quý vị đi cho.
Nhà văn:
- Có gì mà vội. Ðã gặp nhau đây ta hãy uống với nhau ly rượu đã.
Và anh rót cho chàng trai một ly đầy. Chàng đỡ lấy ly rượu, ngồi xuống, lảo đảo đến độ Ðắc phải đỡ mới khỏi ngã. Tuy vậy chàng cũng uống cạn.
- Các ông muốn gì tôi? Chàng hỏi.
Nhà văn:
- Này anh bạn, đã là bạn rượu với nhau thì chúng ta không nên dối nhau làm gì. Ba anh em chúng tôi đây đều yêu mến đạo cô, nhưng chỉ yêu trong mộng tưởng. Bạn cũng yêu như thế, nào có khác gì. Phải không?
- Không. Không phải đâu, không phải đâu… (bỗng nhiên chàng ôm mặt khóc) Tôi yêu Hồng hơn các ông nhiều lắm. Tôi có thể chết vì cô ấy nhưng các ông có dám chết không?
Nhà văn nói:
- Ðiều đó không thể nói trước được.
Nhưng Ðắc lại nâng tách rượu lên uống một hớp, đưa cho chàng trai rồi nói:
- Tôi dám. Chết quách là xong. Ai dám thì uống với tôi ly rượu này.
Tức thì chàng trai bưng ly rượu uống cạn, hào khí ngất trời. Chàng chụp lấy con dao, nhưng Hưng đã nhanh tay giành lại kịp. Lúc ấy chàng trai mềm rũ người ra, nhào tới ôm chầm lấy Ðắc mà hôn rồi nói:
- Tôi thương anh lắm, anh Ðắc ơi.
Ðắc cũng ôm chàng trai rồi ngã lăn ra đất.
Hưng và Lê Ðạo cũng đã gục rồi, mặt úp xuống nắp thùng gỗ.
Nơi căn phòng của đạo cô trên lầu đã không còn ánh đèn nữa. Hồng đang ngủ say và không hề hay biết gì về Ðạo của mình và về những môn đồ đầu tiên vô cùng trung thành, sẵn sàng tử vì đạo.
Gần sáng, chàng trai tỉnh dậy, ngạc nhiên khi nhận ra mình đang nằm ở vỉa hè bên cạnh những người đàn ông xa lạ. Rồi chàng nhớ lại tất cả những chuyện đã xảy ra hồi khuya, những cử chỉ chàng đã làm, những câu chàng đã nói. Chàng thấy giận mình quá, rượu đã làm ta đần độn tới mức đó sao. Ngu xuẩn và yếu đuối như một mụ đàn bà.
Chàng nhổ một bãi nước bọt xuống đất, mắt long lên sòng sọc nhìn ba người đàn ông đang ngủ.
- Không bao giờ, chàng lẩm bẩm, không bao giờ ta thỏa hiệp với các người. Ðừng hòng đánh lừa ta. Ta căm thù các người tận xương tủy. Và không bao giờ ta có thể tha thứ cho các người.
Thấy con dao nằm cạnh cái vỏ chai whisky nghiêng đổ, chàng cầm lên tay rồi đưa mắt nhìn từng người một đang say sưa ngủ. Thằng khốn nạn nhất trong bọn vẫn là thằng Hưng, nó đã cả gan dám đòi chở Hồng sau xe. Nó phải chết trước rồi đến thằng Ðắc và cuối cùng là thằng nhà văn.
Chàng trai nhẹ ngồi xuống cạnh Hưng đăm đăm nhìn con dao nhọn mình đang cầm trên tay. Rồi chàng lại nghĩ: kẻ trượng phu ở đời lẽ nào đi giết những người đang ngủ. Thôi ta hãy cứ để cho chúng sống một thời gian nữa rồi sẽ tính.
Chàng ném con dao xuống đất rồi lầm lũi bỏ đi một mình, khuất mất trong bóng tối của phố xá.
5. LAI LỊCH CỦA NHÀ SƯ CỤT TAI
Trong chứng minh nhân dân, chàng trai ấy mang tên Trần Văn Ðoài sinh ngày 27 tháng 5 năm 1960 tại Mũi Né, Phan Thiết, nhưng dưới những tấm ảnh nghệ thuật gởi đăng báo, chàng ta ký tên là Trần Hồng Sơn, tuy nhiên cái tên ấy cũng không nổi tiếng gì lắm.
Buổi trưa quán cà phê Hồng thường rất vắng khách. Những bệnh nhân cũng đã về hết. Lúc ấy đạo cô thường nằm nghỉ trên võng. Đúng ngọ, bà chủ quán - mẹ cô - mới đem bữa cơm duy nhất trong ngày cho cô, giống như cách ăn uống của giáo phái Theravada, tuy nhiên cô lại chỉ dùng đồ chay như Phật giáo Đại thừa.
Tử Hồng vừa ăn xong, thì Trần Hồng Sơn bước vào quán, ngồi ở vị trí gần lối mòn dẫn vào cửa hang. Bà lão chủ quán bước đến. Khách nói:
- Tôi muốn gặp đạo cô.
- Đạo cô đang nghỉ trưa.
- Nhưng tôi đến xin chữa bệnh.
- Đã hết giờ khám bệnh rồi. Ngày mai cậu quay lại.
Khách ngồi xuống ghế.
- Thôi được. Bà cho tôi một cà phê phin.
Chủ quán do dự giây lát rồi bỏ đi.
Không để lỡ một giây, Trần Hồng Sơn rảo bước theo lối mòn tiến vào hang đá. Khi đến cửa hang hắn liền quỳ mọp xuống, sụp lạy.
- Nam mô đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, Quán Thế Âm Bồ Tát.
Hắn vừa lạy vừa đọc kinh, vừa bò vô hang như một con rùa. Hấp tấp, lạch bạch. Tiếng tụng niệm của hắn cũng hấp tấp.
Đạo cô đang lim dim trên võng, mở mắt ra, thấy hắn thì thở dài. - Ngươi vào đây làm gì?
- Thưa, chữa bệnh.
- Đã hết giờ rồi.
- Nhưng tôi sắp chết. Tôi có dấu hiệu sắp đột quỵ.
- Thần sắc của ngươi không phải như thế.
Hắn bèn đổi tư thế, ngồi xếp bằng theo lối kiết già. Ngay lúc ấy người mẹ của Tử Hồng xuất hiện ở cửa hang.
- Mời cậu đi ra!
Bà sấn tới định lôi hắn đi nhưng hắn đã sụp lạy, miệng không ngớt tụng: "Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát" làm cho bà lão bối rối không biết làm gì, đành hỏi đạo cô:
- Bây giờ sao?
Vẫn ngồi im trên võng, Tử Hồng nói:
- Thôi được, mẹ ra đi.
Nhưng Trần Hồng Sơn thì vẫn quỳ mọp, dập đầu xuống nền đá. Đạo cô hỏi:
- Thực ra là có chuyện gì?
- Tại sao hôm trước cô để cho thằng Phạm Hưng nó chở cô?
- Ổng đón đường đòi chở nhưng tôi đã từ chối. Lúc nào tôi cũng hành thiền. Có bao giờ tôi đi xe đâu.
- Nhưng những lần khác thì sao? Cô có biết rằng đàn bà con gái mà ngồi sau xe cho đàn ông nó chở là hư lắm không?
- Tôi là người tu hành. Xin anh đừng quấy rầy. Anh nên về đi. Tử Hồng bước đến phiến đá đen, bắt đầu toạ thiền.
Sơn làm thinh, xé cái bao thuốc Hero làm hai, dùng tay bóp nát rồi đưa vô miệng nhai. Hồng cứ mặc kệ, lim dim mắt, dùng phép "Tứ Niệm Xứ" để theo dõi hơi thở.
Sơn cố nuốt chửng bao thuốc lá, hai mắt trợn trắng. Đạo cô vẫn không nhúc nhích, cố đưa tâm về trú trong thân, nhưng vẫn cứ bị cái
trò gàn dở của hắn ta chi phối.
Cuối cùng hắn cũng nuốt được bao thuốc, thở hắt ra một tiếng rồi lôi trong cái túi vải bẩn thỉu của hắn ra một mảnh giấy báo. Hắn lại vò tờ báo thành cục, rồi cố nhét vào miệng, cố nuốt nhưng nuốt không nổi, hắn phải lôi tờ báo ra, xé từng mảnh, nhét vô miệng nhai chóp chép rồi nuốt.
- Tôi sẽ ăn hết tờ báo này, rồi sau đó sẽ gặm đôi guốc mộc của cô. Tôi sẽ ăn cho tới khi nào chết thì thôi.
Tử Hồng vẫn bất động.
Quả nhiên, một lúc sau hắn đã ăn hết tờ giấy báo. Hồng vẫn bất động, cho tới khi hắn rướn người, chụp lấy chiếc guốc mộc của cô, đưa lên miệng xé cái quai guốc, thì cô mở mắt.
Thấy vậy, hắn vừa lạy vừa khóc vừa rên rỉ:
- Anh lạy em. Hồng ơi! Anh lạy em. Anh yêu em vô cùng. Không có em anh sẽ chết mất.
- Nếu bây giờ tôi bảo anh chết, anh dám chết không?
- Dám. Em biểu đi. Hay em muốn chứng tỏ như thế nào? Em nói đi, tôi sẽ làm theo lời em.
- Vậy thì anh hãy về đi. Sáng giờ tôi chữa bệnh cho nhiều người, rất mệt. Anh cho tôi nghỉ một lát.
Nhưng hắn đã đứng dậy, đi về phía bàn thờ và trở lại với cây đèn dầu hôi trên tay. Hồng hỏi:
- Anh làm gì vậy?
Sơn nói một cách dịu dàng:
- Em ngồi xuống. Mặc kệ tôi.
Rồi anh dùng răng xé một góc áo pull đang mặc, dùng mảnh vải thun ấy chậm chạp quấn quanh đầu ngón tay trỏ của mình.
Đạo cô lấy làm lạ, bèn hỏi:
- Anh bị thương hả?
- Em không muốn tôi chứng tỏ tình yêu của tôi đối với em sao? Tử Hồng lại ngồi võng, nhìn quanh vách đá.
Sơn lấy dầu hôi trong đèn rưới lên ngón tay vừa được quấn bằng miếng vải thun rồi đưa ngón tay ra giữa hai người.
Hồng cười:
- Tình yêu gì kỳ vậy?
Sơn bật quẹt ga lên, châm vào ngón tay mình. Nó bốc cháy như một ngọn nến lớn. Sơn ngồi im nhìn ngọn lửa, không nhúc nhích. Hồng thì kinh ngạc nhưng chẳng hiểu sao cô lại không sợ. Chưa bao giờ cô thấy Sơn vui như lúc này. Mặt anh rạng rỡ, đôi mắt anh trong, và cái nhìn âu yếm lạ thường.
Ngón tay vẫn cháy phừng phực. Mùi khét của da thịt đã bốc ra thế mà ngón tay vẫn giương thẳng. Đạo cô nhìn trân trối, vẫn cứ tưởng đó là một trò ảo thuật. Lát sau, khi một dòng mỡ người từ ngón tay bốc lửa ấy chảy rịn xuống bàn tay, thì Sơn cơ hồ như không thể chịu đựng nổi nữa. Khuỷu tay tựa lên mặt đá, nhưng cánh tay thì rung lên bần bật. Sơn mím chặt môi, tóe máu.
Hắn gục xuống, cánh tay buông thõng. Ngọn lửa đã tắt, trơ ra một ngón tay đen nham nhở những vệt đỏ của da thịt nứt nẻ. Ngón tay bây giờ cong lại, co quắp như một con bọ xù xì đã chết từ lúc nào.
°
Sau đó là một nỗi khủng khiếp, hoảng sợ và hoang mang. Hồng bỏ cả khám bệnh, cô nằm dài ở nhà suốt ba ngày liền. Đã nhiều lần cô cố ngồi thiền để tự trấn tĩnh nhưng cứ nghĩ đến cái ngón tay ấy là cô không thể nhắm mắt được. Cô cũng không ăn được, chỉ uống ít sữa. Buổi trưa cô ngủ chập chờn và đầy ác mộng. Nhưng sợ nhất là ban đêm, cô đến ngủ chung với mẹ. Nằm cạnh mẹ cô thấy yên tâm hơn và ngủ được đôi chút nhưng cô hay thức dậy nửa chừng và mơ hồ nghe có tiếng bước chân ai đi ngoài hành lang. Cô ôm lấy mẹ và thiếp đi. Trong mơ, cô thấy Sơn đi giữa sa mạc nóng bỏng, vừa đi vừa nhìn ngón tay cháy đỏ rực của mình và cười lên như điên dại. Tiếng cười buốt óc cô, lan ra trên sa mạc mênh mông. Tiếng cười
xoáy vào tim cô, xoáy vào khoảng trời rộng, xoáy vào những cơn gió làm cho nó trở nên hung dữ, trở nên điên loạn và cuồng nộ hơn.
Ngón tay cứ cháy đỏ rực rồi cháy lan ra cả bàn tay, cả cánh tay, đến khi ngọn lửa táp vào quần áo Sơn, phừng phực trên ngực, trên mặt thì tiếng cười của Sơn biến thành một cơn bão. Cát bay mù mịt, lốc xoáy ghê rợn. Cả người Sơn bốc lửa và bị cơn lốc xoáy hút lên trời đỏ rực như một ánh ma trơi. Hồng la hoảng lên, ngồi bật dậy thở hổn hển. Mẹ cô hoảng hốt nhìn con gái. Bà lấy nước đá chườm lên trán cô rồi vuốt ve cô, quạt cho cô ngủ. Cơn ác mộng ấy cứ diễn đi diễn lại hai ba lần làm Hồng khủng hoảng.
Ðến ngày thứ ba cô cảm thấy ổn định hơn. Cô đã có thể toạ thiền được. Mẹ cô cũng an tâm và ra quán một mình. Cô tụng kinh một lát thì ngủ thiếp đi.
Ngay lúc ấy Sơn đến. Vẫn đội cái mũ vải sờn rách quen thuộc. Bàn tay đã được băng bó kỹ. Trông anh xanh xao hơn mọi ngày. Hồng đang ngủ nên không hay biết sự có mặt của anh. Sơn ngồi xuống nền nhà, ngồi xếp bằng, lặng lẽ ngắm cô gái. Bàn tay của Hồng đặt hờ trên mép "ra" trắng, ngón tay thon thả. Ðã bao nhiêu năm anh mơ ước được cầm lấy bàn tay ấy trong tay mình mà vuốt ve âu yếm, được hôn lên từng ngón tay… nhưng chưa có lần nào anh dám làm điều ấy, bây giờ cái ước muốn ấy lại trào lên, mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tim đập hỗn loạn, anh khó thở, muốn nghẹn và thấy đau nhói ở ngực.
Thế rồi anh quỳ bên giường, nhẹ nhàng cúi xuống hôn nhẹ lên những ngón tay ấy.
Hồng choàng tỉnh. Khi nhận ra cái mũ vải, cô hét lên, ngồi bật dậy, mặt tái mét.
- Ðừng sợ. Sơn đây mà.
- Không. Anh đi đi. Anh làm tôi sợ lắm.
- Tôi có làm gì em đâu. Tôi yêu em vô cùng. Em vẫn chưa tin tôi sao?
Tử Hồng e ngại cái trò quái gỡ hôm trước lại tái diễn nên cô đến quỳ trước bàn thờ, tay cầm cái dùi bằng gỗ, vừa gõ vừa tụng kinh.
Hắn không bỏ cuộc. Hắn cũng đến quỳ một bên. Hồng tin rằng hắn không thể nào quỳ lâu bằng cô được và rồi hắn sẽ phải bỏ cuộc, nên cô cứ làm như không hề hay biết.
Tàn một nén nhang, hắn vẫn bất động như tượng đá. Hồng vừa định đốt nén nhang khác thì hắn đã gục xuống nền nhà khóc nức nở.
- Tôi lạy em Hồng ơi! Em nỡ giết tôi sao.
- Đừng nói nhảm nữa. Anh có biết là suốt mấy hôm nay anh đã làm cho tôi khủng khiếp đến mức nào không? Trời ơi, tại sao tôi lại phải chịu đựng anh, phải sống những ngày khủng khiếp như thế này. Anh có biết rằng anh như một bóng ma ám ảnh cuộc đời tôi không.
Sơn thở dài. Anh không quỳ nữa mà ngồi bệt xuống nền nhà, mặt hằn lên nét đau đớn và tuyệt vọng.
Hắn lôi từ trong túi vải ra một con dao, một hộp bông gòn và một cuộn băng vải lớn.
Sự bình tĩnh đã trở lại trên gương mặt của hắn. Ðó là một sự tĩnh lặng hiu hắt, xa vắng và mênh mông của thảo nguyên hoang vu…
Sơn gọi:
- Hồng ơi! Hồng!
Nhưng cô gái vẫn khóc. Sơn lại gọi:
- Hồng ơi!
Cô gái vừa khóc vừa nói:
- Anh đi đi! Tôi lạy anh.
- Thế là hết. Bây giờ tôi mới biết rằng từ trước đến nay Hồng chưa bao giờ yêu tôi. Thế thì tôi còn gì nữa đâu. Ðời tôi trở thành vô nghĩa, thừa thãi trên trái đất này. Em hãy quay lại nhìn tôi một lần cuối đi. Rồi tôi sẽ ra đi.
- Không. Anh đi đi. Mẹ tôi sắp về bây giờ.
- Em đuổi tôi thiệt sao?
- Thiệt mà.
Sơn đăm đăm nhìn cô gái. Hắn dùng những ngón tay còn lại của bàn tay trái kéo căng vành tai mình ra, rồi tay phải cầm chắc con dao, cứa phăng một nhát. Vành tai đứt lìa. Con dao cau rớt xuống nền nhà, bên cạnh vành tai đẫm máu.
Hồng rú lên và ngất xỉu.
Sơn bình tĩnh bịt vết thương bằng cục bông gòn lớn nhưng máu cứ đầm đìa, dây ra mặt, chảy ròng ròng theo cổ tay, chảy đỏ cả ngực.
Hắn quấn băng một cách vụng về, quấn chằng chịt, chỉ chừa hai con mắt để nhìn, và cái mũi để thở. Khi máu đã hết chảy, hắn gom những thứ vung vãi trên nền nhà lại, lau sạch máu quanh chỗ ngồi, rồi bước ra khỏi phòng, khép nhẹ cánh cửa.
Lúc ra đến đường, máu lại nhễu giọt xuống vai, chảy ròng ròng. Hắn thấy choáng váng, hoa mắt. Hắn gọi một chiếc xích lô đạp. Người phu xe hết hồn khi nhìn thấy anh, ông ta vội vàng nhảy xuống, đỡ anh lên xe. Sơn ngửa người ra phía sau, nằm thiêm thiếp. Chỉ một lát sau anh đã mê đi, không còn biết gì nữa.
°
Ba tháng sau, trên đường phố Sài Gòn, sáng sáng người ta thấy có một nhà sư khất thực trẻ tuổi mặc áo cà sa mầu vàng sậm và đi chân đất. Nhà sư cạo đầu nhẵn thín, và các tín hữu đem thức ăn đến bỏ vào bình bát của ông, ban đầu còn ngạc nhiên nhìn cái vành tai cụt, nhưng dần dà mọi người trong phố cũng quen với cái khuyết tật ấy.
6. NHÀ VĂN VÀ LÃO TÀU BÁN TẠP HOÁ
Mọi sinh hoạt trở lại bình thường cũng giống như cơn bão đã đi qua, biển đã lặng và đang thức dậy trong bình minh.
Quán cà phê Hồng lại mở cửa và những môn đồ của Hồng Ðạo ngày ngày vẫn tới để cầu nguyện và chứng kiến những phép lạ của đạo cô khi chữa bệnh cho dân nghèo.
Những bệnh nhân này đã trở thành những tín đồ đầu tiên của Hồng Đạo, tuy chỉ có vài ngàn người nhưng họ là những tín hữu sùng đạo mặc dù họ không có kinh kệ, giáo lý và cũng không từng được nghe thuyết pháp. Họ chỉ có đức tin vì đã tự thân trải nghiệm phép lạ. Những người mù đã sáng mắt, những người câm đã nói được, những người điếc đã phục hồi thính giác, những kẻ què quặt đã đi lại bình thường, những cô gái hiếm muộn đã trở thành những bà mẹ. Và tất nhiên những đứa trẻ được sinh ra từ hơi ấm bàn tay của đạo cô cũng trở thành những người sùng đạo tự nguyện.
Sau gần nửa năm thành lập, ba môn đồ đầu tiên là nhà văn Lê Đạo, nhạc sĩ Phạm Hưng và nhà điêu khắc Nguyễn Xuân Đắc vẫn ôm ấp những tác phẩm kinh điển cho một tôn giáo mới. Vị thánh thứ tư chưa kịp thụ phong thì đã bỏ đi, quy y Phật pháp.
Ðắc nói:
- Dẫu sao thì chúng ta cũng bớt được một mối lo. Anh ta đã trở thành một nhà sư khất thực, tuy ở ngoài Ðạo nhưng còn hơn là ở trong Ðạo mà lại là một tên Judas.
Nhà văn nói:
- Câu chuyện ấy đã trở thành quá khứ, đừng nhắc đến nữa.
Sáng nay gặp nhạc sĩ Phạm Hưng và nhà điêu khắc Nguyễn Xuân Ðắc, Lê Ðạo thông báo ý định sẽ viết cuốn kinh thánh, kể lại sự tích của giáo chủ và của từng môn đồ. Anh sẽ tìm hiểu thêm về trường hợp ra đời của Tử Hồng, về dòng dõi, gia thế, kèm theo những truyền thuyết về giáo chủ dưới góc độ của các tín đồ từng là bệnh
nhân chịu phép lạ của giáo chủ, kể cả chuyện của anh chàng Trần Hồng Sơn, để cho đời sau hiểu được rằng Hồng Đạo đã ra đời trong hoàn cảnh gian nan như thế nào, có như thế thì lớp trẻ sau này mới hiểu thế nào huyền nhiệm của một nhan sắc và lòng nhân ái.
- Ðồng ý. Nhạc sĩ Phạm Hưng vỗ tay lốp đốp. Nhưng Ðắc này, đó là phần việc của nhà văn còn hai anh em mình, cũng phải làm một cái gì chứ?
Ðắc nói:
- Tôi tưởng là từ lâu anh đã suy nghĩ đến điều đó rồi chứ. Khi yêu, trong đầu người ta nghĩ ra được biết bao nhiêu là điều hay ý lạ. Chính vì thế mà tôi rất tin rằng anh Lê Ðạo sẽ viết thành công cuốn Kinh Thánh kia vì chắc anh cũng đã ôm ấp cái mộng ấy từ nhiều năm nay rồi. Tôi cũng vậy thôi có điều là chưa có dịp để thực hiện những mơ ước ấy. Nay Ðạo đã lập, tín đồ đã có, chỉ còn thiếu những tác phẩm nghệ thuật thôi. Vậy thì phần tôi, tôi sẽ tạc tượng người đẹp. Trong đầu tôi đã có sẵn cả ngàn ý mới lạ về cách thể hiện những đường nét, về những góc độ khác nhau, về những biểu lộ tính cách khác nhau của cùng một nhan sắc. Mà không phải chỉ có góc độ, chỉ có đường nét, còn có cả những sự cách điệu vô cùng táo bạo nữa. Rồi các anh sẽ xem. Tuy tôi không phải là một tài năng lớn lao gì nhưng tình yêu nó kỳ lạ và nó nhiều bất ngờ lắm, điều này có lẽ tôi nói với các anh cũng là thừa thôi.
Nhạc sĩ Phạm Hưng nói:
- Viết thánh ca không phải là sở trường của tôi nhưng tôi rất tin vào những bất ngờ mà anh Ðắc vừa nói. Có lẽ tôi sẽ chú trọng hơn ở thể loại sonate soạn riêng cho piano.
Từ nãy giờ nhà văn có vẻ nghĩ ngợi xa vắng. Anh hút thuốc lá liên tục và gật gù một mình. Lát sau anh nói:
- Khi chúa Giê-su thành lập đạo thì những môn đồ đầu tiên của ngài là những người bình dân được ngài dạy dỗ nên người tốt, chẳng hạn như Phêrô là một dân chài, Giuse là thợ mộc, Philipphê là một kẻ cướp, vòn Giuđa nguyên là kẻ du đãng ở làng Ghétsêmanê. Nay
bọn ta đều là những người có học vấn cả, nếu không nói là những người ưu tú trong xã hội, vậy thì không có lý do gì mà đạo ta không lớn mạnh được. Vậy các ngươi hãy về cố gắng thực hiện hoài bão của mình đi, vừa có lợi cho Ðạo, vừa để lại tác phẩm cho đời.
Nói xong Lê Ðạo ra hiệu giải tán. Trên đường về, nhà văn ghé tiệm tạp hóa của lão Hoành Bá giữa lúc ông ta đang cặm cụi xếp mấy cái đồ nhôm gia dụng. Thấy Ðạo đến, lão ngừng tay và mời uống trà. Nhà văn hỏi:
- Ông không nghỉ trưa sao?
- Không, ngộ ít ngủ lắm. Bốn giờ sáng đã dậy dồi.
Nhà văn ngó quanh căn phòng, thấy đồ đạc lỉnh kỉnh đủ thứ: đồ nhựa, đồ nhôm, bình trà chén tách bằng sứ loại rẻ tiền…
Ðạo lại hỏi:
- Ông ở đây có một mình sao?
- Một mình. Vợ chết mười năm dồi. Ngộ không có con. - Buồn nhỉ.
- Quen rồi.
- Thế ông có đọc sách không?
Hoành Bá cười.
- Ngộ không biết chữ.
- Ðáng tiếc, vì trong truyện Tàu có nhiều điều hay lắm. - Anh biết đọc chữ Tàu hả? Hoành Bá hỏi.
- Tôi đọc được.
Hoành Bá có vẻ mừng rỡ, ông lật đật đứng dậy chạy vô trong đem ra một bức thư còn mới tinh:
- Mới nhận hồi sáng của người chị ở bên Hồng Kông gởi về. Anh đọc dùm.
Ðạo bóc thư ra đọc, nhưng vì anh không thể phát âm theo tiếng Quan thoại, mà đọc theo âm Hán Việt thì Hoành Bá lại không hiểu, vì thế anh chỉ đọc thầm và tóm ý thôi. Qua bức thư anh được biết người chị của Hoành Bá đang bị đau gan phải nằm viện và dường như gia đình của bà ta cũng không khá giả gì lắm.
Nhà văn giải thích xong bức thư, Hoành Bá cảm ơn rối rít và ra ngoài đường mua thuốc lá đãi anh. Hút hết điếu thuốc anh cáo từ ra về.
Hoành Bá lại tiếp tục lau chùi mấy món đồ nhôm. Lau chùi xong thì đã hơn mười hai giờ trưa, ông đóng cửa tiệm đi ra chợ ăn cơm và ghé hàng trái cây mua một trái hồng chín đỏ. Ông tà tà đi bộ lại quán cà phê Hồng kêu một ly xây chừng ngồi nhâm nhi chừng mười lăm phút, lấy chai dầu Nhị Thiên Ðường ra hít mấy cái rồi đứng lên, lại quầy trả tiền. Ông có thói quen mỗi trưa uống cà phê xong ông đều đem trái hồng chín mọng vào tận của hang đá, đặt trên cái dĩa bằng gổ ở đó, rồi lẵng lặng lui ra. Thường thì những lúc đó Hồng đang nằm nghỉ trưa trên võng.
Đạo cô rất thích trái hồng vì nó đẹp quá. Nó mọng đỏ và ngọt lịm. Hồng ưa cầm nó trong tay, nó tròn đầy, bầu bĩnh và mát như đôi má của trẻ lên ba, hôn hoài không chán. Mỗi ngày cô đều nhận được một trái hồng thật lớn, thật đỏ và thật ngọt ngào như thế. Khi hết mùa hồng thì lão Hoành Bá lại cho cô vú sữa. Những trái màu tím sẫm, no tròn và láng bóng. Cô rất thích những trái cây có da láng vì cầm rất mát tay. Nhưng cô lại chỉ thích có một trái thôi, nhiều quá tự nhiên vẻ đẹp của nó giảm đi hẳn.
Sau đó ông Hoành Bá về thẳng tiệm tạp hóa, mở cửa lúc một giờ rưỡi, cởi trần, ngồi trên cái ghế gỗ đặt sát vách, tay cầm cây quạt giấy quạt phành phạch. Khoảng hai giờ hơn, tiệm mới đông khách. Vì là tiệm tạp hóa nhỏ nên khách của ông gồm đủ loại người: Ðàn bà, trẻ con, thanh niên, thiếu nữ, người lao động cũng có mà dân nhà giàu cũng có. Người thì đến mua cái xô nhựa, kẻ lại mua cái nồi nhôm, có người chỉ mua tăm xỉa răng, bọn con nít thì mua vài trăm bạc cước câu cá. Tiền bạc ông thu vô cũng đủ loại: Bạc mười đồng, bạc hai chục, năm chục, tờ trăm cũng có mà năm trăm, một ngàn
hai ngàn cũng có, được bao nhiêu ông cứ bỏ đại vô ngăn kéo, buổi chiều ông đóng cửa tiệm lại và vốc tiền ra để một đống trên bộ ván rồi bắt đầu sắp xếp chúng lại theo từng loại.
Ðó là giây phút thú vị nhất trong ngày. Bạc giấy rất nhiều, nhất là bạc lẻ hai chục, năm chục, có rất nhiều tờ nhăn nheo, xếp góc, có cả những tờ bị rách nhưng ông làm cái công việc ấy không thấy chán. Ông vuốt từng tờ bạc cho thằng ra, xếp chúng lại thành từng xấp mười tờ, rồi cứ mười xấp như thế ông cột thành một cọc. Những tờ giấy bạc rách ông dùng hồ dán lại cẩn thận, vuốt cho thẳng rồi mới xếp lại. Ông làm việc ấy một cách chăm chỉ, quên cả đói. Khi đống bạc đã được xếp gọn gàng thành những cọc tiền, ông mới đem bỏ chúng vào tủ, khóa lại rồi đi tắm, tắm xong ông ra tiệm ăn cơm rồi đi vòng quanh phố một lát, sau đó ông về nhà thắp hương bàn thờ ông bà, bàn thờ thần tài và thổ địa xong rồi mới đi ngủ.
Ông sống những ngày đều đặn như thế đã gần mười năm nay kể từ khi vợ ông qua đời.
7. NHỮNG TÁC PHẨM ĐẦU TIÊN CỦA HỒNG ĐẠO
Bây giờ đối với Phạm Hưng thì vẻ đẹp của căn phòng trở nên vô nghĩa, sự sạch sẽ của nó cũng không còn cần thiết. Phòng tràn ngập giấy và giấy. Không phải là giấy học trò mà là giấy bản, không phải là giấy kẻ khuôn âm sẵn mà là giấy trơn.
Anh kẻ khuôn nhạc bằng bút nỉ, vừa kẻ vừa viết nhạc. Anh viết như điên, khuôn nhạc của anh to như những luống cày, như những đường ray không thẳng hàng, nốt nhạc thì có khi chỉ là những nét vạch chéo, những vòng tròn lệch và những dấu móc thì bay bướm như lá cờ phướn, như đuôi con chim trĩ.
Viết xong một tờ giấy bản anh ném xuống nền nhà, lại gạch lia lịa những đường ray không đều nhau trên tờ giấy bản kế tiếp. Những cái đuôi chim trĩ lại mọc lên. Ðô thăng thứ. Hưng sử dụng nhiều hợp âm rải (arpèges) để tạo ra sự mênh mang của nỗi nhớ và khi giai điệu đi đến cuối con đường của nó, anh để cho tay trái lồng lên với những chùm hợp âm táo bạo chuyển sang Mi trưởng.
Ðó là tác phẩm đắc ý nhất trong loạt mười lăm sonates anh viết cho Hồng Ðạo. Hưng không biết anh kết thúc tác phẩm của mình vào lúc mấy giờ, chỉ thấy thành phố im lặng quá, không một tiếng người, không một tiếng xe đi qua. Gió cũng không có. Phạm Hưng đốt một điếu thuốc ngồi trầm ngâm nhìn những tờ giấy bản tung tóe khắp nền gạch bông. Chúng tràn ngập khắp nơi, chúng che lấp cả những ô vuông, rải rác dưới gầm bàn, trên nóc tủ, trên nắp đàn piano.
Hưng gom chúng lại, kẹp thành một xấp rồi đến ngồi trước cây đàn, nó ngân lên, tỏa ra như những tia nắng đầu tiên của bình minh, bay la đà như cánh chim trắng trên biển phẳng lặng lạnh se rồi trầm xuống, chậm dần, chậm dần như những bước chân đi lang thang trên cát. Người nhạc sĩ vừa đi vừa hướng theo cánh chim bay mỗi lúc mỗi xa. Chàng đặt tên cho nó là SONATE CÁNH CHIM. Chàng đàn đi đàn lại không biết bao nhiêu lần, quên cả mệt mỏi, quên cả thời gian, quên cả giấc ngủ. Chàng đàn say sưa cho đến khi có tiếng gõ cửa. Lúc đầu là ba tiếng nhỏ. Rồi im. Chàng không nghe thấy,
vẫn đàn. Sau đó là bốn năm tiếng to hơn. Chàng vẫn không nghe thấy. Tiếng đập cửa dồn dập, cắt ngang những âm thanh cũng đang dồn dập. Hưng đứng dậy nghe ngóng một lúc rồi đến mở cửa.
Ðứng đợi bên ngoài là năm người hàng xóm mặt mày nghiêm nghị, lạnh lùng.
- Ông có biết bây giờ là mấy giờ rồi không? Một người hỏi. - Xin lỗi, xin lỗi… Hưng ấp úng.
Một bà sồn sồn chìa cổ tay đeo đồng hồ điện tử ra trước mặt Hưng. - Hai giờ sáng. Tôi không tài nào ngủ được. Suốt ba đêm nay. Một ông cụ tóc bạc, đến bắt tay Hưng và nói:
- Anh thông cảm. Ðêm đã khuya quá.
Hưng nói nhỏ nhẹ:
- Tôi thật có lỗi. Xin hứa sẽ không làm phiền các vị nữa. Những người hàng xóm bỏ về.
Hưng đóng cửa, lại giường nằm, nhưng dòng nhạc vẫn chảy trong đầu anh. Anh nằm thao thức mãi cho đến sáng.
°
Nguyễn Xuân Ðắc tạc hai bức tượng bán thân, một bức Hồng mặc áo xẩm kẹp tóc đuôi gà, bức kia Hồng khỏa thân tóc bay tự nhiên. Cả hai đều là tượng thạch cao. Tượng rất có hồn, đường nét khá sinh động nhất là bức khỏa thân thì rất gợi cảm, nhưng vẫn có một cái gì đó anh chưa bằng lòng lắm. Anh suy nghĩ hoài không biết là cái gì. Cuối cùng nó vụt hiện. Chính là cái matière. Vì Hồng đẹp quá nhưng đằng sau cái mượt mà uyển chuyển kia còn có một cái gì đó mạnh mẽ, hoang dã mà chất liệu thạch cao không diễn tả nổi. Thế là anh quyết định tạc bằng đá hoa cương, thứ đá hoang sơ ngoài thiên nhiên chớ không phải cẩm thạch.
Cẩm thạch sẽ làm hỏng mất.
Nhưng tìm đâu ra đá hoa cương? Ðắc đi lang thang trong các công viên, trong những khu vườn của những ngôi biệt thự quen biết. Chàng ra ngoại ô, lên Tây Ninh, Bảo Lộc… nhưng vẫn chưa chọn được loại đá vừa ý. Cuối cùng chàng quyết định đi Vũng Tàu.
°
Ðắc vác bao đồ nghề đi thẳng ra bãi Dâu. Anh dừng lại bên một sườn núi đá rồi leo lên núi. Nơi lưng chừng núi có một tảng đá hoa cương mầu xám xanh mọc sừng sững như một ngọn tháp nhỏ, anh ngồi xuống dưới chân tảng đá, soạn đồ nghề ra xem xét các thứ, rất hài lòng về những dụng cụ quá tốt. Ðắc đứng ngắm nghía tảng đá một lúc lâu rồi một tay cầm búa một tay cầm đục anh leo lên cao. Trong đầu anh lúc ấy bức tượng LE JOUR nổi tiếng của Michel Ange hiện ra rõ từng đường nét. Ðó là một bức tượng tạc vào đá nhưng không toàn vẹn. Michel Ange thiên tài đã cố ý cho một nửa nhân vật của mình chìm trong đá, chính nét độc đáo ấy đã làm cho nó có vẻ huyền ảo và cực kỳ gợi cảm. Ðắc quay nhìn ra biển. Mặt nước trong xanh phẳng lặng và thanh thản. Biển đang nhìn anh bằng những ánh mắt lấp lánh của nắng sớm. Chân trời kẻ một nét ngang thẳng tắp và xanh biếc. Lòng đầy hứng khởi, Ðắc đục nhát đầu tiên vô mặt đá hoa cương ấm áp. Gió biển thổi vào tóc anh như những ngón tay của người tình đan vào, ve vuốt.
°
Nhà văn Lê Ðạo đọc đi đọc lại Kinh Tân Ước và suy gẫm về bút pháp của tác phẩm nổi tiếng nhất thế giới này. Một thứ văn ít lời mà câu nào cũng có linh hồn của nó, câu nào cũng toát ra vẻ đẹp hoài cảm thiêng liêng lấp lánh. Ngôn ngữ của Thánh Kinh là ngôn ngữ ẩn dụ, ấm áp và mang đầy hơi hướng của một thời hồng hoang xa xưa mộng mị. Nhà văn suy nghĩ rất nhiều về những gợi ý của Ðắc nhưng anh sợ tài năng của mình không tạo nổi một bút pháp như thế, không mời gọi được vẻ bát ngát mênh mông của thế giới huyền nhiệm thâm trầm, nếu như thế thì không còn là Kinh Thánh nữa mà chỉ là sao chép, bắt chước trơ trẽn. Tất nhiên anh không thể viết cuốn Kinh của mình theo kiểu Thánh Kinh của Ðạo Ki-tô, nhưng anh
cũng không thể sử dụng kỹ thuật của tiểu thuyết. Vậy thì anh phải chọn lối nào đây?
Lê Ðạo lại đọc Kinh Thi, đọc kỹ 160 bài Phong: từ Bội Phong, Dung Phong, Vệ Phong đến Chu Nam, Thiệu Nam… là những tác phẩm thiên về tình yêu, nhưng càng đọc lại càng thấy không thể áp dụng được vì Kinh Thi là thơ ca, là ca dao, tuy rất trữ tình, rất dân gian, rất đằm thắm, nhưng lại không toát lên được cái thần của một Ðạo giáo, cái bí nhiệm của một đức tin.
Cuối cùng anh tìm đến Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Ðó là một bài thơ xuôi vĩ đại. Con chim bằng dang đôi cánh rộng như đám mây rũ ngang trời, bay về biển Nam lên cao chín muôn trượng, làm cho nước biển sóng sánh ba ngàn dặm. Bay cứ sáu tháng mới nghỉ.
Con chim bằng ấy bây giờ ở đâu? Trong lòng ta chỉ còn lại con chim Hồng rực rỡ. Ước gì ta có thể viết được một cuốn như Nam Hoa Kinh. Trang Tử đã nói về con chim Bằng để so sánh với con chim sẻ bay cao vừa quá mái hiên nhà và đậu xuống đám cỏ bồng, nhưng con chim sẻ cũng có lẽ huyền nhiệm của nó. Trong thiên Tề Vật Luận, Trang Tử đã nhìn thấu bản thể huyền nhiệm của từng sự vật trong cõi càn khôn. So với cái lớn vô cùng thì không gì nhỏ hơn núi Thái Sơn nhưng nếu so với cái nhỏ vô cùng thì không gì lớn bằng lông đuôi thú. Vậy thì con chim Hồng của ta há chẳng cao quý, chẳng vĩ đại như cánh chim Bằng kia sao?
Nhà văn suy nghĩ trong suốt một tháng trời để tìm ra lối thể hiện riêng và bút pháp riêng của mình. Cuối cùng anh quyết định ngồi lại bàn viết, trước cái máy chữ. Trong đầu anh chỉ có một số nét phác thảo và một hình dung mơ hồ, một không khí mộng tưởng hoang sơ nào đấy nhưng anh biết rằng anh sẽ viết được, sẽ thành công vì anh tin ở tình yêu, tin ở vẻ đẹp của nó, ở sự cao quý, sự thiêng liêng không gì sánh nổi.
°
Nhạc sĩ Phạm Hưng đi phố mua thêm một tập giấy bản và một lố bút nỉ mầu đen. Cây đàn piano đang đợi chàng ở nhà nhưng chàng không có gì phải vội vàng. Suy nghĩ của chàng đã chín như trái cây
đã mọng lên nhưng còn đợi đôi môi, còn đợi hàm răng đẹp của người. Lúc ấy hương thơm sẽ phát tiết, mật ngọt sẽ tươm ra ngây ngất.
Nhưng bỗng nhiên, khi đang bước đi giữa phố thì dòng nhạc ở đâu bỗng lùa về như gió lộng trong thảo nguyên mênh mông, giữa đêm lạnh buốt. Chàng nhìn thấy một ánh lửa du mục cháy lập lòe trong sương mù và chàng hoảng hốt, cuống cuồng sợ dòng nhạc trôi đi mất.
Cũng may chàng vừa đi ngang qua vườn Tao Ðàn, thế là chàng tạt vào đấy, ngồi bệt xuống cỏ, dưới bóng một cây si. Buổi trưa công viên vắng người. Chàng ném cái xách tay qua một bên, đặt xấp giấy bản trước mặt mình. Chàng viết hối hả. Những đường ray đen không thẳng hàng đầy đặc những nốt nhạc như chim én đậu trên đường dây. Chàng viết không cần bôi xóa sửa chữa gì cả. Gió cứ lùa trong đầu chàng, lồng lộng trong trí tưởng tượng của chàng, gió mang đầy âm thanh với giai điệu giá lạnh, thánh thót.
Từng tờ, từng tờ giấy bản viết xong được ném qua một bên, vươn vãi đầy trên vạt cỏ nhưng chàng không để ý đến chúng, chàng say sưa viết như bị thôi miên, như kẻ đang lên đồng.
Một trận gió nổi lên bất chợt. Những tờ giấy bản uốn mình cất lên cao như những cánh diều. Chàng hoảng hốt đứng bật dậy. Những dòng nhạc của chàng theo gió bay đi, lượn lờ khắp nơi, vướn trên cành cây, trên ghế đá, trên những lối đi… Có tờ bốc lên thật cao, chao qua chao lại mấy cái rồi mất hút trong khoảng không chói lòa ánh nắng.
Hưng đứng ngơ như trời trồng, khi tỉnh lại chàng mới đi nhặt những gì còn có thể nhặt được. Chúng đã mất quá nửa. Bọn trẻ con thấy giấy bay liền xúm lại nhặt, có đứa đem trả cho chàng, có đứa chạy biến đi. Chàng chỉ muốn khóc. Ðau khổ và bất lực.
Khi chàng trở lại chỗ ngồi lúc nãy thì cái xách tay của chàng đã biến mất. Trong đó có một trăm năm mươi bảy ngàn, một cuốn sổ tay, một hộp bút nỉ và vài thứ giấy tờ cần thiết.
Chàng nằm dài xuống cỏ, nhắm mắt. Mệt mỏi rã rời. Chàng lẩm nhẩm đọc bài kinh nhật tụng do Lê Ðạo sáng tác và ngủ quên đi.
Xế chiều chàng tỉnh dậy và nhìn thấy trên đầu chàng, nơi một cành cây nhỏ, có một tờ giấy bản chi chít những nốt nhạc đang nằm vắt ngang, lay bay theo cơn gió nhẹ. Nhưng chàng vẫn cứ nằm im. Chàng đợi. Chàng sẽ nằm đợi cho đến bao giờ những dòng nhạc kia rơi xuống cùng chàng.
°
Buổi chiều ngày thứ mười ba, khuôn mặt của pho tượng đã hiện ra trên nền đá xám. Khuôn mặt ấy – một nửa chìm trong đá – đang đăm đăm nhìn ra biển mênh mông. Mặt trời sắp lặn, lơ lửng trên biển, to tròn, đỏ thắm như một trái hồng khổng lồ, chín mọng. Nắng xế dọi mái tóc của pho tượng làm ánh lên vẻ óng ả lạ thường. Chàng bám lên tảng đá sần sùi, hôn lên mái tóc ấy và thấy lòng mình đang tan ra như bọt nước tản mạn trong gió chiều. Chàng muốn ôm ghì mãi mãi khuôn mặt của pho tượng và ao ước có kẻ nào đến đóng đinh chàng vĩnh viễn nơi ấy. Bỗng nhiên chàng bật cười quay nhìn biển trầm lặng, lòng tràn trề hạnh phúc.
Suốt hai tuần nay chàng không rời sườn núi, chàng làm việc từ sáng đến trưa, nghỉ tay một chút để gặm bánh mì khô uống nước lã và lại làm việc tiếp. Tối lại chàng ngủ trên một tảng đá bằng phẳng ngay dưới chân pho tượng dang dở, sáng ra lại bắt đầu một ngày làm việc mới.
Chiều nay chàng quyết định xuống tàu của người bạn để nghỉ dưỡng sức một đêm trước khi bắt đầu tạc phần dưới của pho tượng.
Xuống tàu, Ðắc được người tiếp đón rất nồng hậu. Anh ăn một bữa chiều toàn đồ biển loại xuất khẩu, bia hộp đem ra ba thùng, uống một hơi hết cạn lon bia, ném vỏ xuống biển. Ðắc ăn nhanh, mạnh bạo và tham lam như chưa hề được ăn uống sang trọng như thế bao giờ. Trong bữa tiệc anh đã thấy thấp thoáng năm sáu cô gái lượn qua lượn lại. Lúc ấy thì anh quên Hồng, quên cả cái Ðạo của mình và tuyệt nhiên không hề nhớ gì tới pho tượng. Tuy vậy sau hai
tuần làm việc quá sức Ðắc thấy buồn ngủ khủng khiếp đến độ ăn xong chưa kịp súc miệng đánh răng anh đã chui vào giường mà ngáy. Lúc ngủ trông anh giống hệt chúa Jésus. Giấc ngủ say sưa, thanh thản và tràn đầy hạnh phúc. Gần sáng anh bị đánh thức dậy bởi những tiếng nhạc the thé và tiếng cười của các cô gái. Rồi anh nghe tiếng chân chạy đuổi nhau, lẩn trong tiếng sóng vỗ vào mạn tàu. Những âm thanh ấy đối với anh chẳng có gì xa lạ, chúng không làm anh khó chịu trái lại anh thấy vui tai, chúng gợi lên trong trí anh những chuỗi ngày sống buông thả ở Sài-gòn, gọi dậy cái không khí đàn đúm, hội hè vui nhộn. Tuy vậy anh cứ nằm im mà nghe ngóng. Thế rồi có tiếng gõ cửa, anh chưa kịp ngồi dậy thì cánh cửa đã mở toang ra. Một lúc ba cô gái ùa vào phòng vây lấy anh.
- Trốn hả? Bọn họ đều hỏi và ngồi vây quanh giường anh.
Ðắc kéo trong gối ra gói thuốc lá, chậm chạp châm lửa và mỉm cười. Anh hỏi:
- Chỉ có ba em thôi à?
- A! Anh này ngon há. Ba em cũng đủ xé xác rồi đó cưng. Ðắc tốc váy một cô lên rồi lại tốc váy cô khác.
- Quần lót bỏ đâu cả rồi?
- Bị trấn lột dọc đường.
- Ðứa nào trấn lột các em? Chỉ đi, anh giết nó cho mà xem. Một cô nắm bộ râu xồm xoàm của anh giựt lia lịa và nói: - Thuyền trưởng đấy. Dám giết không?
- Thuyền trưởng cũng giết. Kiếm cho anh khẩu súng đi. - Thôi đừng có điên. Anh đẹp trai quá.
Một cô khác phụ họa:
- Ðẹp trai thiệt. Làm chồng em đi.
- Làm chồng cả ba được không?
- Ðược quá đi chớ.
- Nhưng bây giờ sao. Ai trước? Bốc thăm nhé?
Một cô đề nghị:
- Oẳn tù tì.
Cô khác la lên:
- Ðừng chơi trò con nít. Nhào vô giết nó đi.
Thế là cả ba nhào lên mình Ðắc, cười lên rũ rượi.
Ðắc vẫn bình tĩnh, nằm im mặc cho họ quần thảo mình suốt tới sáng.
°
Tám giờ sáng. Biển vẫn trong vắt, thuyền đánh cá đậu lô nhô quanh chiếc tàu viễn dương, thành phố ẩn hiện sau những cột buồm, những rặng dừa cao rậm rạp. Ðắc ăn sáng với người bạn xong thì đòi lên bờ. Người bạn cho một chiếc ca nô nhỏ chở anh và bao dụng cụ trở vào thành phố. Ðắc lại gọi xích lô đến chỗ bức tượng dang dở của mình và tiếp tục công việc. Lúc ngước nhìn khuôn mặt của người tình, Ðắc cảm thấy lòng mình thanh thản, những hoan lạc của đêm qua đã hoàn toàn được gột sạch bởi thánh linh.
Chàng trở lại công việc một cách say mê như những ngày đầu. Ðêm chàng vẫn ngủ lại dưới chân pho tượng. Ðến ngày thứ hai mươi lăm thì tác phẩm gần như hoàn tất.
Buổi trưa có một cậu bé chăn dê đội cái nón cời, tay cầm một nhánh trúc lùa đàn dê đến gần chỗ chàng đang làm việc. Em bé bỏ mặc đàn dê, đứng nhìn say mê.
Có một lúc Ðắc quay lại, trông thấy em, anh mỉm cười nhưng không nói gì. Em bé hỏi:
- Chú làm gì vậy?
- Chú tạc tượng. Quán Thế Âm. Cháu có biết phật bà Quán Thế Âm không?
- Biết.
- Cháu thấy có đẹp không?
- Ðẹp. Nhưng không giống Phật Bà. Mà chú tạc tượng này chi vậy?
Ðắc ngừng tay, lấy nước uống. Anh ngoắc nó lại gần, bảo nó ngồi xuống cạnh mình rồi hỏi:
- Bây giờ chú hỏi cháu nhé. Người ta dựng tượng Chúa, tượng Phật, trong nhà thờ, trong chùa, trên đỉnh núi mà cháu thường thấy đấy, để làm gì?
Thằng bé nghĩ ngợi một chút xíu rồi trả lời:
- Ðể thờ.
- Vậy thì chú dựng tượng này cũng để thờ.
- Sao kỳ vậy? Bộ đây là cô tiên hả?
- Không. Ðây là người yêu của chú.
Thằng bé ngó ra biển nói:
- Chú nói nghe ngộ quá. Nhưng chú nên coi chừng
- Coi chừng cái gì?
- Hai bữa nay cháu thấy có mấy người công an cứ đi lảng vảng dưới chân núi, họ nhìn chú, chỉ chỏ rồi nói xầm xì cái gì đấy.
Ðắc vỗ lưng thằng bé:
- Cám ơn cháu. Nhưng chắc không phải họ nói gì về chú đâu. Chú có làm gì bậy đâu.
Thằng bé đứng dậy, chào Ðắc rồi đi theo đàn dê của mình.
Ðắc ném tàn thuốc ra xa rồi đứng lên nhìn xuống chân núi nhưng chẳng thấy một bóng người nào cả. Anh quay lại với tác phẩm của mình, ngắm nghía hồi lâu và lấy làm đắc ý. Anh nghĩ, từ giờ tới chiều mình sẽ khởi công làm ngay một chi tiết nhỏ nhưng vô cùng quan trọng: Một bức tượng của chính anh, chỉ nhỏ bằng bàn chân của người anh yêu. Anh sẽ tạc tượng anh đang quỳ ngay trước bàn chân của Hồng, cúi hôn ngón chân út.
Vì đã có ý định trước như thế nên khi tạc xong pho tượng lớn, anh đã chừa lại một khối đá nhỏ ngay dưới chân tác phẩm của mình. Với sự náo nức chưa từng có anh cầm dụng cụ lên tay và bắt đầu công việc.
8. NHỮNG NGÓN CHÂN CỦA ĐẠO CÔ
Công trình của điêu khắc gia Nguyễn Xuân Đắc tưởng như sắp hoàn tất thì bị gián đoạn vì sự xuất hiện đột ngột của Lê Đạo.
Nhà văn nói:
- Bức tượng hoàn hảo, trừ một chi tiết.
- Chi tiết nào?
- Những ngón chân. Cậu cũng đã từng vào hang đá hầu chuyện cùng đạo cô phải không?
Đắc gật đầu.
- Nhưng cậu chưa từng đảnh lễ?
- Chưa.
- Chính vì thế mà cậu không nhìn kỹ những ngón chân của nàng. Nó không chỉ là một bộ phận của đạo cô, nó còn là một thánh thể.
- Một thánh thể sao?
- Nó như có linh hồn riêng. Khi bạn cúi đầu sát bên nó, bạn sẽ thấy nó truyền cho bạn một cảm xúc dịu dàng, thủ thỉ. Lần nọ, tôi thấy từ những kẽ nứt trên nền đá, những đoá hoa trắng nhỏ xuất hiện quanh các ngón chân, bừng sáng như những cái miệng cười âu yếm. Cậu sẽ không thể tạc được cái thần của những ngón chân nếu chưa từng đảnh lễ và trải nghiệm cảm xúc ấy.
Đắc choàng tỉnh. Sóng đập dữ dội lên kè đá. Anh lùi ra xa mấy bước để ngắm pho tượng rồi dần dần tiến lại gần. Cuối cùng anh quỳ xuống, áp mặt gần sát hai bàn chân của pho tượng. Hồi lâu, ngửng mặt lên, anh nói:
- Những ngón chân rất đẹp về mặt cơ thể học nhưng đúng là nó thiếu sự thanh thoát.
- Nó đang cần "mục sở thị".
Đắc đứng dậy rất dứt khoát, gom đồ nghề bỏ trong túi xách. Hai người bạn xuống núi lúc nắng đã rực rỡ trên sườn non và chói loà trên mặt biển.
°
Đắc quyết định đến quán Hồng rất sớm, uống vội vàng mấy hớp cà phê và xin phép bà chủ để vào hang đá.
- Đạo cô chưa đến.
- Tôi sẽ ngồi chờ dưới gốc cây trước cửa hang. Tôi đã từng chờ như thế.
Tuy nhiên khi Đắc vừa lấp ló ở cửa hang thì nghe tiếng gọi: - Vào đi!
Đó là giọng nói quen thuộc của đạo cô.
Đắc tháo giày vớ, rón rén bước vào, nhưng không thấy đạo cô đâu cả. Giọng nói lại vang lên từ vách đá:
- Tinh thần anh đang rất mệt mỏi. Anh vừa trải qua chuyện gì vậy?
- Dạ… dạ… tôi… đang thực hiện một công trình lớn… trên một sườn núi.
- Sao không nghỉ ngơi một thời gian?
- Thưa đạo cô… tôi… không có thì giờ. Dạ… đúng ra là tôi không thể nghỉ…
- Tại sao?
- Vì cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
Đạo cô từ phía sau vách đá hiện ra, nâu sồng, bình dị và thanh thoát.
- Anh đang tạc một pho tượng phải không?
- Dạ.
- Vậy bây giờ anh cần gì?
- Cần đạo cô giúp sức.
Tử Hồng ngồi trên phiến đá đen nhưng không toạ thiền, hai chân thõng xuống. Cô ra hiệu cho Đắc đến ngồi cạnh. Cô nói:
- Tôi chỉ là một thầy thuốc. Tôi không biết gì về điêu khắc.
- Tôi không xin chỉ giáo về điêu khắc. Tôi đến để xin trị bệnh. Tôi nghe nói người ta có thể lấy lại sự cân bằng tinh thần chỉ bằng bấm huyệt hai bàn chân?
- Đó là điều tôi định nói với anh. Đông y cho rằng tất cả các cơ quan, bộ phận trong cơ thể con người đều có những vùng đại diện ở bàn chân. Bàn chân trái tương ứng với nửa người bên trái, bàn chân phải tương ứng với nửa người bên phải. Day bấm các huyệt ở bàn chân có tác dụng chữa được bệnh. Anh hãy đưa bàn chân cho tôi.
Đắc bối rối, gần như bẽn lẽn.
- Thưa đạo cô. Thú thật, tôi làm việc suốt tuần nay không tắm rửa, bàn chân đi giày, mang vớ bẩn thỉu, không dám làm ô uế bàn tay của đạo cô.
Tư Hồng mĩm cười, chìa bàn chân phải ra. Bàn chân trắng ngần, lung linh trên nền đá đen.
- Thôi được, đạo cô nói, anh nhìn kỹ và cố nhớ nhé. Rất đơn giản. Mỗi khi thấy tinh thần mệt mỏi, anh hãy dùng đầu ngón tay cái day ấn vào đầu ngón chân cái (ở giữa hai huyệt Đại Đôn và Ẩn Bạch), sau đó day ấn vào đầu ngón chân trỏ (phía trên, bên phải huyệt Lệ Đoài), ở cả hai bàn chân. Cuối cùng co bàn chân và các ngón chân lại, chỗ lõm sẽ xuất hiện ở giữa gan bàn chân. Đó là huyệt Dũng Tuyền. Bấm huyệt ở các vị trí này làm tăng lượng oxy đến não, giúp các tế bào hoạt động khỏe mạnh, tăng cường khả năng tư duy và sáng tạo.
Đắc cứ nói: "Dạ…. dạ…" nhưng kỳ thực anh chỉ tập trung quan sát những ngón chân của Tử Hồng. Nó như những cá thể lộng lẫy, sang cả, toả sáng huy hoàng trên nền đá trầm mặc. Nó như đang ngân lên những tiếng khúc khích, đang lan toả những xung động siêu
hình, nó đang truyền tải một thứ năng lực diễm lệ, mạnh mẽ và ấm áp.
Tiếng của đạo cô vang lên trong mơ hồ:
- Anh đưa ngón tay cái ra đi.
Nhưng Đắc chẳng nghe thấy gì cả. Tử Hồng lập lại câu nói và nắm bàn tay của Đắc.
- Day mạnh ngón tay cái vào đầu ngón chân cái của tôi. Anh thử đi.
Đắc run rẩy khi chạm vào ngón chân của người đẹp. Bỗng nhiên một luồng khí ấm áp chạy vào ngón tay của anh và lan toả rất nhanh khắp lồng ngực, xông thẳng lên não.
Đắc bừng sáng như một ngọn lửa, và sụp lạy lúc nào không hay. Đạo cô đỡ anh dậy. Đắc lúng túng, lùi một bước:
- Tôi xin lỗi. Tôi vừa bước qua một vùng ánh sáng. Và thấy thân tâm đều an lạc. Cám ơn đạo cô đã chữa khỏi bệnh.
Ba bốn bệnh nhân nghèo cũng vừa xuất hiện, lấp ló ngoài cửa hang. Đắc vái chào đạo cô rồi lui bước.
Khi ra đến bậc thềm, anh cúi xuống xách đôi giày Adidas và đôi vớ hôi rình của mình, vừa đi vừa cười.
9. HỒNG ĐẠO NHẬP THẾ
"Dưới chân núi có bà già họ Dương tên Tử Nghi, sống bằng nghề hái củi.
Ngày nọ mới sáng sớm đã nghe tiếng bước chân đi ngoải hiên, bèn chạy ra xem, thì thấy một con nai nhỏ đứng ngay cửa. Dương lão bà vừa định lấy khoai cho nó ăn, thì bị nó cắn vạt áo kéo vô rừng.
Con nai nhỏ dẫn Dương Tử Nghi qua một dòng suối, đến chỗ có hốc đá thì dừng lại. Bà lão nhìn thấy trong khe đá có ánh hào quang màu tím, lấy làm kinh dị bèn quỳ xuống lạy, và nhận ra giữa vùng sáng ấy là một đoá hồng màu tím nhạt, trong vắt như pha lê và sáng lấp lánh.
Dương lão bà vừa đưa hai tay về phía bông hồng thì nó đã nằm gọn trong lòng bàn tay bà rồi. Bà vui mừng ôm đoá hoa trước ngực, chạy về nhà. Trời chưa sáng hẳn nhưng ánh sáng từ đoá hồng toả rực rỡ trong túp lều tranh nhỏ bé.
Dương lão bà bèn thả hoa vào cái bát sành đựng đầy nước suối.
Bỗng nghe có tiếng cười khúc khích của một cô gái. Lão ghé mắt nhìn đoá hồng nhưng không thấy gì, bèn dùng ngón tay trỏ vạch cánh hoa ra, tức thì có một sinh vật nhỏ xíu bám lên ngón tay ấy, nhìn kỹ thì ra là một cô gái tóc dài đen mượt, mặt xinh như hoa, môi đó, mắt sáng long lanh, tuy nàng chỉ nhỏ bằng ngón tay út.
Dương Tử Nghi cả mừng bèn nâng vạt áo lên, đặt nàng nằm xuống. Bỗng nhiên cô bé vụt lớn thành một cô gái lên mười, quàng tay ôm cổ bà và nói:
-Mẹ ơi! Mẹ đặt tên cho con đi.
Tức thì trong đầu bà hiện ra một cái tên. Bà gọi:
-Dương Tử Hồng.
Cô bé lại hỏi:
-Dương Tử Hồng là gì vậy mẹ?
-Dương là họ của mẹ, còn Tử Hồng là hoa hồng màu tím. Từ đó trên cõi trần gian có một giai nhân tên gọi là Tử Hồng." °
Nhà văn Lê Đạo lấy làm đắc ý khi viết xong đoạn mở đầu cho cuốn Hồng Đạo Kinh của mình.
Ông quyết định dừng lại để suy nghĩ xem có nên tiếp tục viết kiểu ấy hay nên mở đầu bằng cách khác, thần bí hơn. Ông sợ nếu viết không khéo thì một cuốn kinh thánh quan trọng như thể có thể bị hiểu lầm là một câu chuyện cổ tích dành cho con trẻ.
Sau mấy ngày suy nghĩ, Lê Đạo viết tiếp:
"Cô bé lớn lên trong túp lều tranh dưới chân núi ấy, bình thường như bao cô gái khác.
Năm 16 tuổi, một hôm cô ra ngồi bên bờ suối nơi có hồ nước lớn, bao quanh bởi những tảng đá khổng lồ và cây rừng rậm rạp, thì bỗng từ trong rừng sâu, chim kéo về từng đàn. Chúng bay lượn trên đầu cô, kêu ríu rít. Càng lúc chim về càng đông, dày đặc như những đám mây. Nhiều con không còn không gian để bay lượn, phải đậu trên những cành cây, những bụi rậm và cả trên những tảng đá lớn quanh hồ.
Có con bạo dạn đậu cả trên vai cô, trên tóc cô, rỉa những sợi tóc.
Nước hồ trong vắt, nhìn xuống đáy thấy cá bơi lượn từng đàn như trẩy hội. Thấy cả những cái vảy cá lấp lánh sáng như thuỷ tinh, thấy cả những hạt cát nhỏ li ti nữa.
Đó là một buổi sáng rất vui của Tử Hồng.
Đến giữa trưa, có những con chim nhạn ở tận trên mây lao xuống, chấp chới những đôi cánh lớn ngay trên đầu cô. Chúng gần như đứng yên một chỗ. Chúng say mê nhìn ngắm nhan sắc của Tử Hồng đến nỗi quên cả đập cánh, và có mấy con rơi xuống hồ.
Trong lúc hoảng hốt, Tử Hồng vội băng mình chạy đến cứu, và vô cùng ngạc nhiên khi thấy mình đang lướt đi trên mặt nước nhẹ như
một chiếc lá.
Cô cứu những con nhạn sắp chết đuối và đặt chúng trên vai mình rồi thong thả bước nhẹ, chậm rãi, êm ái trên mặt hồ để vào bờ.
Cô không hề biết rằng ngày xưa có một vị thánh tên là Giêsu cũng đã từng bước đi trên mặt nước như thế. Cô vui sướng khi khám phá ra khả năng kỳ diệu của mình.
Chỉ có đàn chim, rừng cây, những tảng đá và dòng suối chứng kiến cảnh đó. Nhưng không hiểu sao tin đồn lan ra khắp nơi.
Những ngày sau đó thiên hạ tấp nập kéo về.
Tử Hồng nói: "Tôi chỉ là một người làm rẫy bình thường". Rồi cô bước ra mé nước, trượt chân ngã xuống hồ, chới với như sắp chết đuối. Những chàng trai hiếu kỳ phải lao xuống nước kéo nàng lên. Bầy chim cũng bốc lên cao, bay hoảng loạn.
Không ai còn tin nàng có thể đi trên mặt nước nữa.
Nhưng con người lại làm khổ nàng bằng sự tham lam và độc ác của chúng. Chúng đặt bẫy, bắt chim, chúng bắn chim bằng tên, chúng quăng lưới bắt cá. Chúng giết hại vô số những sinh vật bé nhỏ, những người bạn thân yêu của Tử Hống.
Những ngày sau đó, chúng ném lựu đạn, mìn, chất nổ xuống hồ. Cá chết hàng loạt, nổi vật vờ kín cả mặt ao, lẩn lộn với xác chim chết. Nước hồ đỏ ngầu, máu và lông chim vung vãi trên lá cây, trên những tảng đá và trôi theo dòng nước.
Con người lao xuống nước, tràn lên những mỏm đá, giành giựt, la hét, chửi rủa và đánh nhau, náo loạn cả một vùng thiên nhiên tươi tốt.
Tử Hồng quỳ xuống van xin chúng, bà mẹ lao xuống hồ, vừa kêu khóc vừa van lạy con người hãy ngừng tay, nhưng tiếng kêu khóc của bà bị chìm mất trong rừng tiếng reo cười, tiếng la hét giành giựt của đám đông đang điên cuồng gom những xác chết của chim, cá… chất đầy những chiếc giỏ tre, những quang gánh, và những chiếc xuồng ba lá.
Loài người đến càng lúc càng đông và cuộc tàn sát càng lúc càng man rợ.
Hồng đứng trên một tảng đá cao, đưa hai tay lên trời, la lớn:
-Các em hãy bay đi. Hãy bay về rừng đi. Chị sẽ không ở đây nữa đâu.
Lũ chim bốc lên cao, đảo mấy vòng từ biệt rồi biến mất trong mây. Từ đó Tử Hồng cùng mẹ giã từ đồi nương, tìm đường đi về phố chợ. °
Đó là tất cả những gì mà nhà văn Lê Đạo đã lặn lội về tận miền quê của Hồng, nơi thâm sơn cùng cốc, tìm hiểu, gặp gỡ những người thợ rừng, những trẻ mục đồng, những người dân tộc… để nghe kể lại.
Ông thấy câu chuyện mang nặng tính truyền thuyết, như một thần thoại, như một cổ tích, không biết có đáng tin hay không, có đáng để đưa vào một tác phẩm mang tầm vóc kinh thánh như Hồng Đạo Kinh hay không.
Ông suy nghĩ nhiều đêm và cuối cùng quyết định mở đầu tác phẩm của mình bằng những truyền thuyết ấy. Bởi dẫu sao nó cũng cần thiết để tạo huyền thoại cho một người mà ông rắp tâm biến thành Giáo chủ.
°
Và Hồng Đạo Kinh đã ra đời như thế.
Thoạt tiên người ta thấy xuất hiện một tên sách lạ, chỉ có những học giả, những nhà nghiên cứu triết học, vài ba vị giáo sư dạy văn chương ở các trường đại học và mấy ông thầy tu mua mà thôi. Cuốn sách phải nằm im trên các quầy bán lẻ trong ba bốn tháng trời.
Bỗng nhiên một bài báo xuất hiện. Tác giả bài báo là một thượng tọa, danh tiếng, có một lúc hai cái bằng tiến sĩ: tiến sĩ triết học đông phương và tiến sĩ văn chương Pháp tại đại học Sorbonne.
Ông ta đã lên án Hồng Ðạo Kinh như là một cuốn sách nhảm nhí do một tên nhà văn vô lại dốt nát viết ra mục đích lòe đời và làm mê muội quần chúng. Ông ta coi đó là một thứ "thiên di mặc cảm" do kẻ yêu đương mà không toại nguyện, do đau khổ vì tình, do ẩn ức về sinh lý mà chuyển dịch thành một dạng "thăng hoa" trong triết học.
Ông ta đặt câu hỏi: Tử Hồng là ai? Một thiên thần hay chỉ là một bà lang vườn tầm thường ít học. Ông ta lập luận rằng dẫu nhan sắc có kiều diễm tới mức nào mà không trí tuệ, không có tâm hồn và nhất là không có tư tưởng thì cũng chỉ là một sinh vật bé nhỏ vô danh trong cõi đời rộng lớn này mà thôi. Ông ta lên án nhà văn Lê Ðạo là đã cố tình lừa gạt cả một thế hệ thanh niên, đầu độc tuổi trẻ, xúi người ta chạy theo tôn thờ một nhan sắc trong khi cuộc đời này còn có biết bao giá trị vĩ đại và vĩnh cửu khác như lòng yêu nước, như triết học, như tình yêu lao động sáng tạo, như khoa học, nghệ thuật và thi ca.
Tiếp theo bài báo của vị giáo sư tiến sĩ ấy là một loạt những bài báo khác của các nhà giáo dục, nhà văn, nhà chính trị. Có cả những bài mang đầy tính châm biếm của một nhạc sĩ tên tuổi phê phán bản SONATE CÁNH CHIM của nhạc sĩ Phạm Hưng, coi đó như là "con diều giấy của nghệ thuật", thoạt trông cứ tưởng là cánh chim nhưng chỉ cần một cơn gió lớn làm đứt sợi dây thì lập tức cánh chim ấy biến thành một mảnh giấy rách tả tơi thảm hại. Ông ta cũng có khen một tí về giai điệu lạ nhưng cho rằng nó chịu ảnh hưởng những bản Consolations của Frank Liszt, còn về tiết tấu và hòa âm thì ông cho rằng đó là một thứ phi nghệ thuật, một kiểu lập dị thái quá trở thành lố bịch.
Riêng ông chủ tịch Hội Ðiêu Khắc thì lại chỉa mũi dùi vô tác phẩm BIỂN TRÊN CAO tức là pho tượng đá hoa cương do Nguyễn Xuân Ðắc tạc ở Bãi Dâu Vũng Tàu.
Vì trong cuốn HỒNG ÐẠO KINH, nhà văn Lê Ðạo có chép đủ tất cả các việc từ khi Tử Hồng ra đời cho đến khi nàng lớn lên trở thành một đạo cô xinh đẹp khiến cho bao người phải điên đảo vì nàng, nhà văn nói tỉ mỉ về lịch sử thành lập đạo, kể rõ mối tình của từng môn đồ, trong đó nhà điêu khắc Nguyễn Xuân Ðắc được mô tả tỉ mỉ nhất,
sinh động và đầy cảm hứng nhất, chính vì thế mà người ta mới đồn đại về pho tượng BIỂN TRÊN CAO của Ðắc, người ta đổ xô đến Vũng Tàu, lại được biết thêm về vụ Ðắc đang bị giam giữ về tội hành nghề không có giấy phép của chính quyền địa phương, và cũng chính vì thế mà ông chủ tịch Hội Ðiêu Khắc kia mới có một bài báo thật dài vừa công kích Ðắc, vừa công kích tác giả Hồng Ðạo Kinh. Nhưng có điều lạ là ông chủ tịch nọ không phân tích chỗ yếu chỗ mạnh trong nghệ thuật tạo hình của Ðắc mà chỉ chú tâm vào một vấn đề: Tại sao một đạo cô tầm thường lại được dựng tượng lớn giữa thành phố. Ông ta lên án sự ngông cuồng và bảo rằng một nghệ sĩ dù tài năng đến đâu mà vô tổ chức, vô kỷ luật thì tài năng ấy cũng chỉ gieo rắc những hoang mang những nghi ngờ trong xã hội mà thôi.
Tóm lại báo chí tuy nói nhiều nhưng tựu trung có mấy nội dung chính như thế. Thật không ngờ, những bài báo trên, tưởng chừng có thể đánh gục được pho tượng bằng đá hoa cương sừng sững kia, tưởng chừng có thể ném tác phẩm Hồng Ðạo Kinh vào sọt rác, có thể loại bản Sonate Cánh Chim ra khỏi tâm trí người yêu nhạc thì lại có tác động ngược lại. Tên tuổi của Lê Ðạo, Phạm Hưng và Nguyễn Xuân Ðắc nổi lên như cồn và cùng lúc tên tuổi của nhà sư khất thực Trần Hồng Sơn cũng được truyền tụng trong dân gian như là môn đồ thứ tư của Hồng Ðạo mặc dù anh không hề gia nhập vào nhóm của Lê Ðạo. Nhưng vì mối tình điên dại của anh đã được Lê Ðạo chép rành mạch trong Hồng Ðạo Kinh không bỏ sót một chi tiết nào, một hành vi quái gỡ nào, nên có thể nói là anh lại còn nổi tiếng hơn ba người kia nữa.
Lớp trẻ phục Lê Ðạo vì anh là người có tư tưởng, dám nghĩ và dám sáng lập ra một tôn giáo thờ phụng tình yêu, vì mối tình của anh đằm thắm dịu dàng và rộng lớn.
Giới trẻ phục Phạm Hưng vì bản SONATE CÁNH CHIM là lời tỏ tình thánh thiện giữa mặt đất và bầu trời, giữa những vì sao và biển cả, giữa những ngọn núi và những đám mây xa… lớp trẻ cũng không thể nào quên bản SONATE THEO GIÓ BAY vô cùng độc đáo của anh. Ðó chính là tác phẩm anh đã viết trong vườn Tao Ðàn dạo nọ
và đã bị gió cuốn bay mất nhiều trang, đó là bản Sonate dang dở, anh không có ý chép lại những đoạn đã bị bay mất một phần vì cảm hứng đã qua rồi anh không còn nhớ gì cả, một phần vì anh thấy cũng chẳng cần thiết phải làm như vậy.
Anh cứ cho in những đoạn rời tìm được. Những chỗ bị bay mất anh để trắng. Ban đầu không ai hiểu vì sao lại có những chỗ để trắng như thế nhưng khi Hồng Ðạo Kinh của Lê Ðạo ra đời thì trận gió trong vườn Tao Ðàn đã đưa tiếng tăm nhạc sĩ Phạm Hưng lên vút cao tận mây. Giới trẻ yêu thích anh là yêu thích bản Sonate Cánh Chim nhưng truyền tụng nhiều là truyền tụng bản Sonate Theo Gió Bay kỳ lạ ấy.
Riêng Ðắc, đối với giới trẻ, nhất là các cô gái thì coi Ðắc như một thần tượng. Câu chuyện hai mươi lăm ngày đêm ở trên núi, ăn chay nằm đất để tạc tượng người yêu đã trở thành truyền thuyết, thành nỗi say mê, niềm kiêu hãnh của giới trẻ. Những câu lạc bộ hâm mộ Nguyễn Xuân Ðắc được thành lập, tuy không có trụ sở nhưng giới trẻ cần gì trụ sở. Họ tụ họp nhau ở những quán cà phê, ở công viên, ở những tụ điểm văn hóa của phường, của quận huyện. Họ hội thảo về anh, thậm chí những nơi có cả Câu lạc bộ Thanh Niên đứng ra chủ trì những buổi mạn đàm về anh.
Có những nhà in vì mục đích kinh doanh đã in lậu chân dung anh bán ra thị trường và thu được rất nhiều tiền, nhưng sự hâm mộ ấy đã làm hại anh. Nhà cầm quyền nghi ngờ anh và hỏi cung anh liên tục, anh phờ phạc cả người, râu tóc ra dài, trông anh như một lão già khắc khổ.
Lão chủ tịch Hội Ðiêu Khắc rất hả hê về chuyện anh bị giam giữ lâu ngày nhưng chẳng bao lâu sự hả hê ấy cũng lắng xuống, ông lại mất ăn mất ngủ vì một biến cố mới: Trường đại học điêu khắc do ông làm hiệu trưởng bị khủng hoảng vì thiếu phòng học, thiếu giáo viên vì năm ấy sinh viên ghi danh học ngành điêu khắc tăng lên gấp ba lần so với năm trước. Ông hoảng quá liền ra lệnh ngưng nhận đơn nhập học và đặt ra một số điều kiện khó khăn trong việc thi tuyển sinh viên điêu khắc, chẳng hạn như phải xét lý lịch thật kỹ, phải đóng học phí thật cao. Tuy vậy số sinh viên xin nhập học vẫn vượt quá
mức quy định rất xa. Ðã thế một số đông các sinh viên cũ của năm thứ ba thứ tư, thứ năm họp nhau lại làm một kiến nghị đòi ban giám hiệu nhà trường phải can thiệp với chính quyền để xin lãnh nhà điêu khắc Nguyễn Xuân Ðắc về và bổ nhiệm làm giáo sư của trường.
Ông chủ tịch kiêm hiệu trưởng bị sức ép quá mạnh đành phải cử một phái đoàn giáo sư đại học điêu khắc xuống Vũng Tàu xin lãnh Ðắc về. Rất may là nhà cầm quyền Ðặc Khu rất phóng khoáng trong cách giải quyết vấn đề. Các quan chức ở đó bảo rằng họ chỉ tạm giữ Ðắc vì anh ta tạc tượng giữa nơi công cộng trong thành phố mà không xin phép chính quyền địa phương, đó là một hành động phạm pháp, tuy nhiên các vị lãnh đạo Ðặc Khu cũng công nhận rằng Ðắc là một điêu khắc gia tài năng và đã vô tình tặng cho nhân dân đặc khu một tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật rất cao.
Trong buổi gặp mặt trao đổi giữa ủy ban đặc khu và phái đoàn trường đại học điêu khắc có sự tham dự của ông giám đốc công ty du lịch Vũng Tàu Côn Ðảo, ông đã ngỏ lời cảm ơn trường đại học điêu khắc và cá nhân Nguyễn Xuân Ðắc vì nhờ pho tượng mà từ mấy tháng nay khách du lịch khắp nơi đổ xô về Vũng Tàu rất đông trong đó có nhiều khách nước ngoài. Ông nói rằng các chuyên gia dầu khí Liên Xô rất thích pho tượng và có người quay cả một cuộn phim vidéo màu về pho tượng BIỂN TRÊN CAO này gởi về nước và hình như Hội Ðiêu Khắc Liên Xô đã có ý định mời cá nhân Nguyễn Xuân Ðắc sang thăm Liên Xô.
Ngay hôm đó Nguyễn Xuân Ðắc đươc trả tự do và phái đoàn trường đại học điêu khắc mời anh cùng đi xe về với họ.
Thế là nghiễm nhiên Ðắc trở thành giáo sư trường đại học điêu khắc của thành phố. Tuy nhiên anh nhận lời làm cái nghề ấy chỉ vì sinh viên của anh yêu cầu và anh không thể phụ lòng hâm mộ của họ, nhưng trong thâm tâm anh không muốn làm nhà giáo vì anh thích tự do và vì cái lối sống của anh, lối yêu của anh, lối làm việc của anh, hoàn toàn không thích hợp với môi trường giáo dục.
Một tuần sau khi Ðắc về nhà, anh nhận được bảy trăm hai mươi tám bức thư của thanh niên nam nữ cả nước. Anh đã thức mấy đêm liền
để đọc nhưng vẫn không đọc hết.
Tuần lễ kế tiếp, Ðắc nhận được thêm bốn trăm ba mươi ba bức thư nữa, trong đó có hai mươi bảy bức từ Liên Xô gởi sang, mười lăm bức từ các nước Tây Âu.
Tuy nhiên buổi chiều khi anh ở trường đại học trở về thì thấy cửa kính phòng làm việc của anh bị vỡ. Hai bức tượng bán thân của Hồng bị đập tan nát, một mảnh giấy nhỏ của kẻ phá hoại dằn trên bàn viết với dòng chữ nguệch ngoạc: CẢNH CÁO LẦN THỨ NHẤT bên dưới ký tên TRẦN HỒNG SƠN. Ðắc vừa bực dọc vừa buồn cười. Anh lặng lẽ gom các mảnh vụn của hai pho tượng lại, cất đi, rồi đi tắm.
Ngày hôm sau khi cầm tờ nhật báo lên, Ðắc sững sờ vì một cái tin nóng hổi: NHÀ SƯ KHẤT THỰC BẮT ÐẦU TẤN CÔNG PHO TƯỢNG "BIỂN TRÊN CAO".
Ðắc hoảng hốt vội vàng phóng xe đi Vũng Tàu.
10. BỘ ẤM TRÀ CỦA NGƯỜI TÀU GIÀ
Có một người cũng nổi tiếng không kém, đó là Tử Hồng, lẽ ra cô phải là người thiếu nữ hạnh phúc nhất trên đời này nhưng không, cô đã bị báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, rồi các xưởng phim, các nhà nhiếp ảnh đến quấy rầy liên tục. Cô sợ quá, đành phải nghỉ khám bệnh, đi trốn ở nhà một người cô ruột tận Hóc Môn.
Mỗi ngày không ra quán cà phê, nhà văn Lê Ðạo cảm thấy buồn nên anh thường đi lang thang một mình trong phố, có lúc anh đứng hàng giờ xem bọn trẻ con đá banh trong một cái hẻm cụt, có khi anh đi theo mấy đứa nhỏ con nhà lao động câu lươn nơi các lỗ cống bên lề đường, buổi trưa anh tìm một quán cơm vắng vẻ ăn qua loa rồi lại đi, thỉnh thoảng anh tạt vô một rạp chiếu bóng xem phim, nửa chừng thì bỏ về. Anh nghĩ đến lão Hoành Bá và ghé lại tiệm tạp hóa đầu chợ.
Anh hỏi lão có biết người ta đồn đại gì về cô Hồng không nhưng lão không biết gì cả. Lão còn hỏi nhà văn:
- Không biết có chuyện gì mà cô Hồng vắng mặt mấy bữa nay.
Ðạo làm như không biết. Anh hỏi thăm về bệnh tình của bà chị ông ở bên Hồng Kông, ông ta bảo là bà đã khỏi bệnh và mới gởi thư về cho ông tuần trước nhưng lần này ông không nhờ Ðạo đọc nữa vì đã có người khác đọc giúp rồi.
Xế chiều tiệm tạp hóa vắng khách Hoành Bá đi ra lề đường mua mấy điếu thuốc thơm về đãi Lê Ðạo. Chủ khách ngồi uống trà với nhau, trà thì nhạt, bình trà thì mẻ miệng, chung trà thì chỉ có hai cái làm bằng đất tráng chút men, vẽ mấy cái bông hồng xanh xanh đỏ đỏ. Lê Ðạo nói:
- Ông sống như thế này một mình cũng buồn nhỉ. Sao không kiếm một bà về mà sống chung cho có bạn lúc tuổi già?
Hoành Bá nói:
- Ở Phan Thiết ngộ còn một người em họ làm chủ hãng nước mắm. Ngộ mà có tiền thì ngộ sẽ về hùn vốn với nó làm ăn, có anh có em cũng vui.
- Trước đây chắc gia đình ông ở Phan Thiết?
- Cha mẹ đều ở Phan Thiết, nhà cũng nghèo lắm. Khi cha mẹ chết dồi thì bà chị kêu ngộ vô đây. Bà đi Hồng Kông năm bảy sáu, cho ngộ cái tiệm này.
Lê Ðạo nói:
- Phải như có tiền sửa lại nhà này, buôn bán làm ăn cũng được, đi đâu làm chi.
Hoành Bá cười hề hề:
- Nhà này thuộc diện nhà vượt biên. Ngộ chỉ ở tạm đây chớ không có hộ khẩu nên có tiền cất nhà cũng không được. Mấy ông phường cứ đòi lấy nhà hoài.
Lúc ấy có khách vô mua hàng, lão Hoành Bá đứng lên, vô ý làm rớt cái chung trà Lê Ðạo đang cầm trên tay. Khi bán hàng xong ông xin lỗi Lê Đạo rồi nói:
- Ðể ngộ lấy cái chén khác.
Ông mở tủ thờ, lấy một cái tách trà. Ông đặt nó trước mặt Lê Ðạo và nâng cái bình đất định rót trà vào thì Ðạo ngăn lại. Anh cầm tách trà ngắm một lúc rồi lật đáy lên, thấy có ghi bốn chữ CÀN LONG NỘI PHỦ thì giật mình sửng sốt. Hoành Bá cũng ngạc nhiên, trố mắt hỏi:
- Có chuyện gì vậy?
Lê Ðạo làm thinh, trầm ngâm ngắm nghía cái tách rồi hỏi: - Ông có đủ bộ không?
- Có chớ. Cái này của bà chị ngộ để lại.
Rồi ông mở tủ lấy ra một ấm trà hình lục giác, bốn cái tách, tất cả được xếp gọn trong một cái đĩa lớn hình thuẫn.
Ngoại trừ quai ấm và vòi ấm có những hoa văn màu tím than, còn lại toàn bộ đều tuyền một màu đen lấm chấm những bông trắng nhỏ sắc sảo, xinh xắn, tất cả toát lên cái vẻ thanh cao của bậc đế vương ngày trước. Ðạo không rời mắt khỏi bộ ấm trà, còn lão Hoành Bá thì không rời mắt khỏi Ðạo. Lão hỏi:
- Có gì làm cho anh ngạc nhiên vậy?
Lê Ðạo trân trọng cầm bình trà lên tay và nói:
- Bình trà và bốn cái tách này tất cả đều có chữ CÀN LONG NỘI PHỦ ở dưới đáy. Ðây đích thị là một bộ "tứ ẩm" dành riêng cho vua chúa trong cung rồi!
Hoành Bá hỏi:
- Càn Long là cái gì vậy?
- Càn Long là tên một đời vua bên Tàu bắt đầu từ năm 1736 cách đây hai trăm năm mươi hai năm. Bộ trà này được chế tạo vào thời đại đó tại lò sứ Cảnh Ðức Trấn. Ðây là tác phẩm của một nghệ sĩ làm sành sứ thiên tài thời đó là Ðường Anh, tiếng Quan Thoại đọc là Thang Inh.
- Sao anh biết là do Thang Ing làm ra?
- Vì tôi nhìn cái nước men. Thứ men đen tuyền này gọi là Hắc Ðịa Bạch Hoa, tiếng Quan Thoại đọc là Hi Ti Pe Hoa. Ðó là một trong mười một thứ men độc đáo của riêng Ðường Anh phát minh ra. Cái tên Hắc Ðịa Bạch Hoa có nghĩa là nền đen bông trắng, như vậy đây đích thị là tác phẩm của Ðường Anh thời Càn Long rồi.
Hoành Bá tỏ vẻ hớn hở vì mình giữ được vật quý trong nhà. Ông cầm cái ấm trà lên săm soi một hồi rồi lại hỏi:
- Còn những đường vân màu tím này là gì?
- Ðó cũng là một trong mười một loại men do Ðường Anh sáng chế, tên gọi là Dương Tử, tiếng Quan Thoại đọc là Yang-Tse, men này có mầu tím trông rất nhã.
Mải nói về bộ đồ trà quý, hai người đều quên cả việc uống trà. Hoành Bá cười cười nói:
- Nhưng mà đối với ngộ thì bình trà này cũng chẳng ích lợi gì, thà có một cái quạt máy còn có lý hơn.
Lê Ðạo tròn mắt nhìn chủ nhà:
- Ông nói sai rồi. Ông phải biết rằng đây là một báu vật, trên đời này chưa chắc đã có người thứ hai có. Nếu ông muốn giàu sang thì nó sẽ làm cho ông giàu sang ngay lập tức.
Lão Hoành Bá cười hề hề:
- Anh nói thiệt hả?
- Ðây đâu phải là chuyện chơi. Ông có biết bộ bình trà này giá thị trường hiện nay trên thế giới là bao nhiêu không?
- Bao nhiêu?
- Ít ra cũng phải hai trăm ngàn đô la Mỹ.
- Hai trăm ngàn đô la?
Hoành Bá kêu lên và ôm lấy ngực, muốn ngất xỉu. Lát sau ông lấy lại bình tĩnh hỏi tiếp:
- Anh nói thiệt chớ?
- Thật mà! Nhưng ông phải biết chỗ tiêu thụ. Không phải dễ bán đâu đấy.
Hoành Bá xoa tay cười khoái trá:
- Cái đó thì ngộ không lo. Ngộ có rất nhiều người quen trên Chợ Lớn. Ngộ mà bán được cái này ngộ sẽ thưởng cho anh.
- Ráng đi. Ðạo nói. Mấy tụi mối lái nó cũng sẽ ăn của ông ít nhất là một phần ba rồi. Nhưng như thế vẫn còn giàu. Tôi mừng cho ông.
Hoành Bá nói:
- Cám ơn, cám ơn.
Lão cẩn thận bê bộ ấm trà cất vào tủ. Lê Ðạo nói:
- Ngay ngày mai ông nên nhờ thợ mộc họ đóng cho một cái hộp gỗ thật đẹp, xong ông mua nỉ lót bên trong cho thật sang rồi đặt bộ ấm trà vào, vừa bảo vệ an toàn vừa làm tăng giá trị của bảo vật.
- Ngộ piết mà. Cám ơn, cám ơn.
Lê Ðạo bắt tay ông chủ tiệm tạp hóa rồi cáo từ.
…………………………………………………………
(*) Bộ ấm trà này là do tôi (Đào Hiếu) hư cấu, nhưng các tư liệu thì được tham khảo từ tác phẩm "Cảnh Đức Trấn Đào Lục" của cụ Vương Hồng Sển.
"""