🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kể Chuyện Trạng Nguyên Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo Héi ®ång chØ ®¹o xuÊt b¶n Chñ tÞch Héi ®ång pgs.TS. NguyÔn ThÕ kû Phã Chñ tÞch Héi ®ång TS. HOµNG PHONG Hµ Thµnh viªn trÇn quèc d©n TS. NguyÔn §øC TµI TS. NGUYÔN AN TI£M NguyÔn Vò Thanh H¶o V23 M· sè:CTQG - 2015 2 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Dưới chế độ thi cử thời phong kiến, để có được danh hiệu Trạng nguyên mỗi môn sinh dự thi phải vượt qua ba kỳ thi: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Trạng nguyên là danh hiệu thuộc học vị Tiến sĩ của người đỗ cao nhất trong các khoa Đình. Khoa thi đầu tiên được tổ chức năm 1075 dưới thời nhà Lý, nhưng phải đến năm 1246 dưới đời vua Trần Thái Tông mới đặt ra định chế Tam khôi (ba vị trí đỗ đầu có tên gọi thứ tự là: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) thì mới có danh hiệu Trạng nguyên. Cuốn sách Kể chuyện Trạng nguyên Việt Nam do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phối hợp với Nhà xuất bản Văn học xuất bản, kể về các Trạng nguyên được chính thức công nhận danh hiệu Trạng nguyên (bắt đầu từ kỳ thi năm 1246). Cuốn sách nhằm góp phần cung cấp thông tin về thân thế, sự nghiệp cùng một số giai thoại về các Trạng nguyên. Đồng thời, qua cuốn sách bạn đọc có thể hiểu rõ thêm về truyền thống hiếu học của nhân dân ta từ bao đời nay. Đây là tài liệu tham khảo, góp phần giúp cho cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn trong việc tuyên 5 truyền, giáo dục truyền thống, triển khai các hoạt động khuyến học của mỗi địa phương một cách thiết thực. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 12 năm 2015 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT 6 LỜI NÓI ĐẦU Trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước, Việt Nam là một quốc gia văn hiến, có truyền thống hiếu học. Tiến sĩ Thân Nhân Trung ( 1418 -1499) trong bài ký đề lên bia Tiến sĩ ở Quốc Tử Giám đã viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”. Hiểu rõ được tầm quan trọng ấy, từ ngày xưa, những vị minh quân đã rất quan tâm đến việc bồi dưỡng nhân tài. Bắt đầu từ đời Lý, việc giáo dục được chú trọng. Năm 1075, vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho học đầu tiên ở nước ta và người đỗ đầu khoa này là Lê Văn Thịnh. Sau đó, các triều đại sau đều đặn mở các khoa thi tuyển chọn các nhân tài, mà chế độ thi cử ngày xưa hết sức nghiêm ngặt, khắt khe, phải vượt qua bốn trường thi Hương mới được dự thi Hội, đỗ rồi mới được vào thi Đình để đạt được các danh hiệu cao quý như: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa… Chính vì thế, việc sưu tầm, biên soạn những tư liệu về các Trạng nguyên Việt Nam nhằm khắc họa, 7 phản ánh lại một cách chân thực, sinh động cuộc đời cũng như thân thế của họ là việc làm thiết thực để thể hiện lòng biết ơn, sự tự hào cũng như giáo dục truyền thống hiếu học cho thế hệ hôm nay. Cuốn sách “Kể chuyện Trạng nguyên Việt Nam” được thực hiện không nằm ngoài mục đích trên. Cuốn “Kể chuyện Trạng nguyên Việt Nam” được biên soạn dựa trên các nguồn tư liệu chính sử và các giai thoại lưu truyền trong dân gian. Tuy nhiên, đây là một đề tài khó, vì nguồn sử liệu hiếm hoi, đa phần lại là chữ Hán và chữ Nôm, nên có những Trạng nguyên vẫn chưa xác định được chính xác năm sinh, năm mất, quê quán, đồng thời những chuyện kể lại về cuộc đời, sự nghiệp cũng hết sức hiếm hoi. Vì thế, cuốn sách được viết một cách tóm lược, cô đọng nhất về cuộc đời các vị Trạng nguyên dựa trên các tiêu chí sau: Thứ nhất, chỉ giới thiệu các vị Trạng nguyên đã được phong danh hiệu Trạng nguyên. Như trên chúng tôi đã giới thiệu, ở vương triều Lý, việc học bắt đầu được quan tâm, năm 1075, vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho học đầu tiên, người đỗ đầu khoa thi này là Lê Văn Thịnh, trở thành bậc khai khoa cho các nhà khoa bảng nước ta. Cho đến năm 1246, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi Thái học sinh, lấy đậu theo Tam giáp (Nhất giáp, Nhị giáp, Tam giáp). Năm 1247, nhà vua cho đặt lại thứ bậc trong Tam giáp. Bậc Nhất giáp có Tam khôi gồm: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Bậc Nhị giáp gọi là Hoàng giáp, Bậc Tam giáp gọi là Thái học sinh. Vì khuôn khổ sách có hạn, chúng tôi chỉ xin 8 giới thiệu những vị Trạng nguyên đã được phong thứ bậc trong Tam giác từ năm 1246, còn những vị được dân gian yêu mến, kính trọng mà phong Trạng (Trạng dân gian) xin được giới thiệu trong cuốn khác. Trong cuốn sách “Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam có viết: “Kể từ khoa thi tuyển Minh Kinh bác học đầu tiên của nước ta vào năm 1075, đời vua Lý Nhân Tông đến khoa thi cuối cùng vào năm 1919 đời vua Khải Định, tổng cộng có 185 khoa thi với 2.898 vị đỗ đại khoa, trong đó có 5 thủ khoa (vì thời Lý và đầu triều Trần chưa đặt định chế Tam khôi nên chưa gọi các vị thủ khoa là Trạng nguyên) có 46 vị Trạng nguyên, 48 Bảng nhãn, 76 Thám hoa, 2.462 Tiến sĩ và 266 Phó bảng...””1. Thứ hai, để khắc họa chân dung các vị Trạng nguyên một cách sinh động với nhiều chi tiết gần gũi, đời thường, bên cạnh nguồn tư liệu chính sử mà cụ thể là tên tuổi, năm sinh, năm mất, quê quán, phần lớn chúng tôi tham khảo trong các cuốn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 do GS. Ngô Đức Thọ chủ biên, Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1993; Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam do Trần Hồng Đức biên soạn, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin xuất bản năm 2006; Từ điển Văn học Việt Nam: Từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX do Lại Nguyên Ân biên soạn, Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1999; Kho tàng về các ông Trạng Việt Nam _______________ 1. Trần Hồng Đức biên soạn, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2006. 9 do GS. Vũ Ngọc Khánh biên soạn, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2010; Giai thoại Văn học Việt Nam do Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch biên soạn, Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1988; Kể chuyện Danh nhân Việt Nam do Nguyễn Phương Bảo An biên soạn, Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2010; Kể chuyện thần đồng Việt Nam do Nguyễn Phương Bảo An biên soạn, Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2010,... Chúng tôi đã sử dụng thêm nguồn tư liệu giai thoại và dã sử vẫn được lưu truyền lâu nay trong kho tàng dân gian cùng các tạp chí, tài liệu và các trang điện tử khác có liên quan. Nhân đây, cũng xin có lời cảm ơn sâu sắc đến tác giả những cuốn sách trên, đã giúp chúng tôi có thêm nguồn tư liệu quý hiếm để hoàn thành cuốn sách này. Dù đã làm việc với tinh thần nghiêm túc, cầu thị, song trong quá trình biên soạn, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý vị độc giả gần xa để những lần xuất bản sau, cuốn sách được hoàn thiện hơn. Hy vọng cuốn sách sẽ nhận được sự ủng hộ nhiệt thành của độc giả, đặc biệt là các em học sinh trong việc bổ sung các kiến thức về lịch sử, cũng như giúp các em thêm tự hào về truyền thống hiếu học của cha ông ta - những người đã góp phần vào nền văn hiến lâu đời của dân tộc Việt Nam. BẢO AN 10 TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN QUAN QUANG* Nguyễn Quan Quang, người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc (nay là xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông đỗ Trạng nguyên năm Bính Ngọ, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 15 (1246), dưới đời vua Trần Thái Tông. Làm quan trải các chức Bộc xạ, Thượng thư... khi mất được truy phong hàm Đại Tư không. GIAI THOẠI VỀ TRẠNG NGUYỄN QUAN QUANG Thuở nhỏ, nhà Quan Quang rất nghèo, không có gạo tiền ăn học, Quan Quang phải đứng ngoài sân học lỏm, dùng sân gạch làm giấy, lấy gạch non làm mực. Đứng thập thò ngoài sân, Quan Quang nhìn vào lớp học, thấy các bạn trong lớp viết chữ gì, học chữ gì, ở ngoài sân em cũng viết chữ đó, học chữ đó. Viết _______________ * Chưa rõ năm sinh, năm mất của Trạng nguyên Nguyễn Quan Quang. 11 xong, Quang ngồi tô đi tô lại cho thuộc mặt chữ. Lúc thầy giảng, Quang chăm chú nghe. Vì vậy chỉ trong thời gian ngắn, mảnh sân gạch đã đầy chữ. Giờ ra chơi, học trò kẻ đi người lại trên sân nhộn nhịp, nhưng không ai để ý đến những dòng chữ ấy. Họa chăng có người để ý thì lại cho rằng, đó là trò vẽ vời của lũ trẻ nhỏ học đòi theo các anh học trò mà thôi. Đến một hôm, tan giờ học, học trò đã về hết, chỉ còn lại hai anh em Sơn và Hà học giỏi nhất lớp, thầy đồ bảo ở lại để nghe thầy giảng một bài phú khó mà hay. Giảng xong, thầy ra sân dạo, bất ngờ, ánh mắt thầy chạm phải những chữ viết trên sân. Đẹp! Đẹp quá, học trò của thầy không ai viết đẹp bằng. Thầy trầm trồ thốt lên: - Chữ viết đẹp quá! Sơn và Hà đứng ở gần đấy, cùng nghe thấy tiếng thầy, vội vàng chạy lại xem. Thầy vừa nói vừa chỉ tay xuống sân: - Chữ ai viết mà đẹp quá! Đây là một kẻ có hoa tay, không chừng là một nhân tài. - Dạ, thưa thầy! Chữ viết quả là đẹp! - Xem thật kỹ hàng chữ giữa sân, Hà phụ họa. - Thầy muốn xem ai là kẻ đứng ngoài sân để viết những chữ này. Giờ thầy bảo hai con thế này nhé! Nhờ hai con giúp thầy, ngày mai đến đây đứng vào một chỗ kín, xem ai viết, rồi báo lại thầy. Hôm sau, Sơn và Hà đứng nấp ở một chỗ kín 12 đáo, thấy Quang thập thò ngoài sân, mắt chăm chú nhìn về phía các học trò nhỏ đang học cuốn Tam Tự Kinh, tai lắng nghe, tay cầm hòn gạch non viết ra sân. Hai cậu bé mừng lắm, báo ngay cho thầy đồ: - Dạ thưa thầy! Người viết ngoài sân là bạn Quang ạ! Nhà bạn ấy ở ngay trong xóm này. Nghèo lắm thầy ạ, không có tiền theo học, nên phải học thế đó. Thầy đồ trầm ngâm một lát, rồi bảo Sơn và Hà: - Giờ hai con ra bảo Quang vào đây gặp thầy. Hai cậu bé vâng lời thầy, rảo bước ra sân. Nhưng Quang vừa nhác thấy bóng người bước ra, đã chạy vọt ra cổng. Sơn và Hà phải chạy theo. Gần đến nhà Quang, hai cậu mới đuổi kịp. Sơn lên tiếng gọi Quang: - Sao em lại bỏ chạy? Sợ gì mà em phải chạy thục mạng thế? Bọn anh là học trò, có phải mấy bác tuần phu, hay ông hương, ông lý đâu mà em phải sợ. - Em sợ thầy đồ không cho em viết làm bẩn sân. Em sợ thầy phạt! - Quang vừa nói vừa run. - Chữ em viết ở sân đẹp lắm, thầy đồ khen, nét chữ đẹp như phượng múa rồng bay. Thầy bảo hai anh gọi em vào gặp thầy. Hà nói thêm: - Chính thầy đồ là người phát hiện nét chữ em viết giữa sân. Em cứ vào gặp thầy, biết đâu thầy đồ cho em vào học không lấy tiền. Quang buồn rầu đáp: 13 - Đi học, em lấy đâu tiền mua bút mực, lại còn sách vở và tiền dầu đèn nữa chứ. - Không lo, các anh sẽ giúp em - Hà nói tiếp - Em quay lại gặp thầy đi, nếu em không quay lại gặp thầy, thầy sẽ mắng hai anh đấy. Quang thấy hai anh Sơn, Hà nói năng dịu dàng, khéo léo, lại cũng sợ thầy đồ mắng hai anh, đành theo hai anh quay lại gặp thầy đồ. Vừa trông thấy thầy, Quang đã chào thầy, rồi lấy hết can đảm thưa: - Dạ thưa thầy! Con cả gan viết chữ làm bẩn sân của thầy, con xin nhận lỗi, xin thầy đừng phạt con. Con sẽ gánh nước rửa sân cho sạch. - Con đừng sợ! - Thầy đồ trấn an Quang - Thầy không phạt con. Con không có lỗi gì hết! Thầy phải khen con mới phải. Con viết chữ đẹp lắm. Nói rồi, thầy bảo Sơn, Hà lấy một tờ giấy trắng, một chiếc bút lông và một đĩa mực đã mài sẵn, đưa cho Quang: - Con ngồi vào đây viết thử cho thầy xem nào! - Dạ... thưa thầy... - Quang vừa thưa vừa nhìn chăm chăm vào đĩa mực, chiếc bút lông, tờ giấy trắng tinh, vừa nói - thưa thầy... con không biết cầm bút. - Được, thầy sẽ dạy con cầm bút - Thầy ân cần cầm tay Quang, đưa từng nét chữ, miệng giảng giải: - Con cứ cầm cho quen bút lông, khi nào thấy quen 14 như ta quen cầm đôi đũa và cơm, lúc đó mới hết run, có hết run mới viết được. Trong thời gian chỉ khoảng nhai giập miếng trầu là Quang hết run tay, bắt đầu cầm chắc cây bút lông. Các học trò của thầy ai nấy đều nể phục, bình thường các cậu phải tập hàng tuần, có khi phải hàng tháng chưa chắc đã được như thế. Cầm được bút rồi, Quang chăm chú viết cho thầy xem. Thầy gật gù, nói: - Con giỏi lắm. Giờ con có muốn đến lớp học như các trò ở đây không? Nghe thầy hỏi, cậu bé rơm rớm nước mắt, cúi đầu thưa: - Dạ thưa thầy! Con không có tiền mua bút, giấy... lại còn mực, dầu đèn nữa. Con xin thầy cho con đứng ngoài sân, học được chữ nào hay chữ ấy. Con chỉ học cho biết chữ để đọc sách, để tìm trong sách những điều hay, lẽ phải... - Con cứ đến lớp học đi. Thầy sẽ không lấy tiền học của con, mà còn cho con bút, giấy, mực nữa. Có được không? Thầy đồ vừa dứt lời, vài học trò nhao lên: - Dạ, thưa thầy! Thầy cứ nhận Quang vào học đi. Chúng con sẽ cho Quang bút, giấy ạ! - Các con lấy tiền đâu ra mà mua bút, giấy, mực cho Quang? - Thầy đồ hiền từ hỏi. 15 - Thưa thầy! Chúng con sẽ xin cha mẹ. Mẹ con cũng hay thương người nghèo lắm. - Dạ thưa thầy! Nếu nhà Quang không có dầu để học thì tối tối Quang sang nhà con cùng học - Cậu bé Ngô Văn Đô ở gần nhà Quang nói xen vào. Rồi từ đó, Nguyễn Quan Quang được cắp sách tới trường như bao bạn khác. Giấy, bút, mực đã có thầy, có bạn cho. Còn dầu đèn thì khỏi lo, Quang cứ sang nhà Đô mà học. Mới đi học ít lâu, Quan Quang đã nổi tiếng thông minh, làng trên xóm dưới đều nức tiếng cậu bé thần đồng học một biết mười. Chẳng bao lâu, Quang đã thuộc làu Kinh truyện, Quang còn giúp cho bạn Đô từ học bình thường trở nên học giỏi. Khoa thi năm Bính Ngọ (1246), đời vua Trần Thái Tông, Quan Quang dự thi, đỗ Trạng nguyên. Bạn học Ngô Văn Đô cũng thi và đỗ Cử nhân. Sau khi vinh quy bái tổ, ông được vua Trần ban cho Quốc tính, lấy họ Trần là họ của mình. Vì vậy lúc bấy giờ ở trong triều gọi ông là Trần Quan Quang. Trần Quan Quang làm quan đến chức Thượng thư. Khi làm quan, ông hết lòng vì dân, vì nước, thanh liêm, chính trực, được trong triều ngoài nội mến phục cả về tài lẫn đức. Sống ở Kinh kỳ một thời gian, ông cáo quan từ chức, trở về quê nhà mở lớp dạy học, sống thanh đạm, lấy dạy học làm vui. Người quê ông cho rằng, Trạng nguyên Nguyễn Quan Quang là người khai 16 sáng cho nền học ở quê hương, mở đường cho thế hệ con em quê nhà theo nếp hiếu học. Sau khi Nguyễn Quan Quang qua đời, để tưởng nhớ tới ông, dân làng dựng lên ngay ở chỗ ông ngồi dạy học một ngôi chùa, gọi là chùa Linh Khánh. Lại lập trên núi Viềng một ngôi đền, được gọi là đền Viềng để thờ ông và tôn ông là Thành hoàng của làng Tam Sơn. 17 TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN HIỀN (1235 - 1255) Nguyễn Hiền người xã Dương A, huyện Thượng Hiền phủ Thiên Trường (nay thuộc thôn Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Ông đỗ Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm 1247 niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình 16, dưới đời vua Trần Thái Tông, năm ấy ông mới 12 tuổi. Nguyễn Hiền là Trạng nguyên trẻ nhất nước Nam. Khi mất ông được vua truy phong: Đại vương Thành Hoàng. GIAI THOẠI VỀ TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN HIỀN Nguyễn Hiền vốn rất thông minh, có trí nhớ tốt. Lúc sáu, bảy tuổi ông theo học một nhà sư ở chùa làng, mỗi ngày sư thầy cho học hai mươi trang sách, ông chỉ đọc qua là thuộc. Ngay từ lúc ấy, ông đã nổi tiếng là thần đồng, cũng nổi tiếng là tinh nghịch. Theo giai thoại lưu truyền trong dân gian, hồi mới lên bảy, Nguyễn Hiền 18 có thú vui nặn đất với bạn bè đồng lứa, ông vốn đã khéo tay, lại thông minh, nên nghĩ ra lắm trò hay. Một lần Nguyễn Hiền nặn con voi đất, rồi lấy bốn con cua để vào bốn chân, lấy đỉa làm vòi, lấy bướm làm tai, thành ra voi đất mà cũng cử động được, khiến cho bọn trẻ vui thích reo hò ầm ĩ. Chợt một ông quan đi qua đứng lại xem và hỏi chuyện Hiền. Thấy Hiền khéo léo và láu lỉnh, ông quan liền đọc bỡn một câu: - Đồng tử ngũ lục nhân, vô như nhĩ xảo! Câu này có nghĩa: Bọn trẻ năm, sáu đứa, không đứa nào khéo bằng mày. Trạng thấy vậy, hỏi ông quan rằng: - Xin ông cho biết ông làm chức quan gì? Ông quan nói: - Ta là quan thái thú ăn lương hai ngàn hộc. Thấy quan có ý khoe khoang, Hiền liền đọc rằng: - Thái thú nhị thiên thạch, mạc nhược công... Nghĩa là: Quan thái thú ăn lương hai ngàn hộc, chẳng ai... bằng ông. Quan cười bảo: - Đối còn thiếu một chữ! Hiền nài cho tiền rồi sẽ đối nốt. Quan cho tiền xong, Hiền nhoẻn cười, đọc rằng: - Thái thú nhị thiên thạch, mạc nhược công liêm. Nghĩa là: Quan thái thú ăn lương hai ngàn hộc, chẳng ai liêm bằng ông. 19 Quan chịu là giỏi, nhưng vui miệng hỏi thêm: - Thế nếu ta không cho tiền, thì chú đối chữ gì? Hiền trả lời: - Khó gì! Nếu ông không cho tiền thì tôi chỉ việc điền chữ “tham” vào thôi. Quan biết rằng chú bé láu cá, đành phải bỏ đi không dám trêu chọc gì nữa, kẻo lại mang tiếng “to đầu mà dại”! Khoa thi Đình, năm Đinh Mùi (1247), Nguyễn Hiền chiếm bảng vàng, trở thành Trạng nguyên trẻ nhất từ trước tới nay. Khi vào yết kiến vua, vua thấy Trạng Hiền nhỏ tuổi mà hiểu biết sâu rộng, mới hỏi: - Trạng nguyên theo học thầy nào? Trạng Hiền thực thà đáp: - Thần tự học lấy, có chữ nào không hiểu thì hỏi sư ông ở chùa làng. Vua thấy Trạng bé loắt choắt mà có vẻ tự kiêu, ăn nói lại hàm hồ, không có phép tắc gì cả, bèn bắt về học lễ ba năm rồi sẽ bổ dụng làm quan. Trạng về được ít lâu thì có sứ nhà Nguyên sang, sứ đưa ra một bài thơ ngũ ngôn để thử nhân tài nước Nam: Lưỡng nhật bình đầu nhật, Tứ sơn điên đảo sơn. Lưỡng vương tranh nhất quốc Tứ khẩu tung hoành gian. Nghĩa là: 20 Hai mặt trời, mặt trời bằng đầu, Bốn trái núi, trái núi điên đảo. Hai ông vua tranh nhau một nước, Bốn cái miệng ở trong khoảng dọc ngang. Thật là một bài thơ kỳ quặc, cả triều đình đều chịu, không ai hiểu ra sao cả. Có người tâu vua thử cho mời Trạng Hiền đến hỏi xem. Vua đành phải y lời. Khi sứ nhà vua tới làng Trạng, gặp một cậu bé đang đùa nghịch ở đầu làng liền hỏi thăm vào nhà Trạng Hiền, nhưng cậu bé cứ làm thinh, chẳng nói chẳng rằng. Sứ bực mình, nhưng thấy cậu bé có vẻ ngộ nghĩnh, bèn đọc một câu rằng: Tự là chữ, cất giằng đầu, tử là con, con ai con ấy? Thằng bé thấy sứ trêu chọc bấy giờ mới chịu mở miệng; nhưng không phải để trỏ nhà Hiền mà để đối lại như sau: Vu là chưng, bỏ ngang lưng, đinh là đứa, đứa nào đứa này? Đối xong chạy biến. Nghe câu đối xược mà tài tình, sứ đoán chắc đó là Trạng Hiền, liền theo hút vào nhà. Tới sân, thấy Trạng đứng trong bếp, sứ lại đọc trêu một câu nữa: Ngô văn quân tử, tử viễn bảo trù, hà tu mị táo? (Ta nghe người quân tử thường lánh xa nơi bếp núc, sao lại đi nịnh ông bếp?). Nhưng trạng đâu chịu lép, biện bạch ngay: Ngã bản hữu quan cư đỉnh nại, khả tạm điều canh! 21 (Ta vốn là chức quan vào hàng tể tướng, nhưng hãy tạm nêm canh!)1. Sứ triều đình khâm phục vô cùng, liền mời ngay Trạng về kinh để hỏi bài thơ kia. Song mời mãi mà Trạng không chịu đi, chỉ lắc đầu nói rằng: “Trước vua bảo ta không biết phép tắc, nay chính nhà vua cũng không biết phép tắc!”. Thì ra trong lúc vội vàng, sứ đã quên cả nghi thức. Sau phải mang xe ngựa, nghi trượng đến đón thật long trọng, Trạng mới chịu đi cho. Tới triều, vua đem bài thơ ngũ ngôn của sứ nhà Nguyên ra hỏi, Trạng Hiền liếc mắt qua rồi giảng rằng đó là chữ điền. Thì ra bài thơ ấy phải hiểu là: Hai nhật bằng đầu để sóng hàng, Bốn sơn xáo lộn dọc cùng ngang. Hai vương nghiêng ngửa lo tranh nước, Bốn khẩu liền nhau ghép vững vàng. Lúc bấy giờ vua quan mới vỡ nhẽ, cả triều đình ai cũng phục trạng và khi đưa câu trả lời lại cho sứ nhà Nguyên, sứ cũng hoảng hồn không còn dám lên mặt nữa. Nguyễn Hiền vào triều. Vua tuyển ông vào học tiếp Tam giáo chủ khoa, tức đạo Lão, đạo Phật, đạo Khổng và bổ nhiệm làm quan đến chức “Thượng thư _______________ 1. Điều canh: Nêm canh, có nghĩa bóng là làm tể tướng, do câu của vua Cao Tôn nhà Thương nói với Phó Duyệt, lúc phong Phó Duyệt làm tể tướng. 22 Bộ Công” (Theo sách Đại Nam nhất thống chí). Cuốn Nguyễn tộc phả chí cũng ghi, ông còn giữ chức Trần triều Ngự sử đài, Đô ngự sử. Những năm làm quan trong triều, Nguyễn Hiền có nhiều kế sách hay để phò vua giúp nước. Năm Tân Hợi (1251), nước ta lại bị giặc Chiêm Thành xâm lược, nhà vua rất lo bèn giao cho Trạng nguyên Nguyễn Hiền đánh giặc giữ nước. Chỉ ít lâu sau, quân giặc thất bại, Trạng Hiền thu quân về Vũ Minh Sơn mở tiệc khao quân và tâu lên vua. Nhà vua vô cùng vui mừng và phong cho ông Trạng chức “Đệ nhất hiển quý quan”. Về nông nghiệp, ông cho đắp đê quai vạc sông Hồng, phát triển sản xuất mùa màng thắng lợi. Về quân sự, ông cho mở mang võ đường để rèn quân luyện sĩ. Ngày 14 tháng 8 năm 1255, Trạng nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng và qua đời. Nhà vua thương tiếc truy phong ông là “Đại vương thành hoàng” và tôn làm thần ở 32 địa phương, trong đó có đình Lại Đà ở xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội. Đồng thời cho xây đền thờ trên nền nhà cũ của ông. Hiện nay, tại đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền ở quê hương ông còn giữ được nhiều bài vị, sắc phong, câu đối, đại tự, đặc biệt bảo tồn được cuốn Ngọc phả nói về sự nghiệp của ông, trong đó có câu ca ngợi tài năng của Nguyễn Hiền như sau: 23 “Thập nhị tuế khôi khai lưỡng quốc. Vạn niên thiên tuế lập tam tài”. Tạm dịch: “Mười hai tuổi khai khoa hai nước. Nghìn năm ghi mãi chữ tam tài”. 24 KINH TRẠNG NGUYÊN TRẦN QUỐC LẶC* Trần Quốc Lặc người xã Giang Hạ, huyện Thanh Lâm. (Nay thuộc thôn Uông Hạ, xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông đỗ Kinh Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Bính Thìn, niên hiệu Nguyên Phong thứ 6 (1256) dưới đời vua Trần Thái Tông. Từ nhỏ, Trần Quốc Lặc đã chí thú học hành và học rất giỏi. Tính tình khoan hòa, hiền hậu, ông luôn đề cao cái Tâm. Sau khi thi đỗ, ông được vua gả công chúa. Khi mất được phong Phúc thần. _______________ * Khoa này, danh hiệu Trạng nguyên được phong cho hai vị đỗ đầu, gọi là Kinh Trạng nguyên và Trại Trạng nguyên. Kinh Trạng nguyên được ban cho thí sinh ở bốn trấn gần kinh thành, từ Ninh Bình trở ra. Trại Trạng nguyên ban cho thí sinh ở Thanh Hóa, Nghệ An. Chưa rõ năm sinh, năm mất của Kinh Trạng nguyên Trần Quốc Lặc. 25 TRẠI TRẠNG NGUYÊN TRƯƠNG XÁN* Trại Trạng nguyên Trương Xán đỗ cùng với Kinh Trạng nguyên Trần Quốc Lặc khoa Bính Thìn, niên hiệu Nguyên Phong thứ 6 (1256), đời vua Trần Thái Tông. Trương Xán người xã Hoành Bồ, huyện Quảng Trạch, châu Bố Chính (nay thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình). Trương Xán là người say mê vẻ đẹp của thiên nhiên và thường tìm thấy trong các hiện tượng thiên nhiên những triết lý sâu sắc về đời người. Ông cho rằng, không có con người nào có thể sống tách riêng ra khỏi cộng đồng được. “Con người cũng giống như những hòn đảo, phía trên mặt nước có thể đứng tách riêng, nhưng phía dưới thì chân những hòn đảo chắc chắn sẽ liền vào nhau. Và cùng liền vào đất dưới đáy biển. Đáy biển ấy liền thành một khối không rời đối với bờ. Khi nào nước biển _______________ * Chưa rõ năm sinh, năm mất của Trại Trạng nguyên Trương Xán. 26 lui xuống, các đảo kia trơ ra chúng ta dễ dàng nhìn thấy điều ấy. Con người cũng như những hòn đảo riêng rẽ kia. Mỗi người có thể có cuộc sống khác nhau nhưng tất cả luôn gắn bó với nhau và gắn bó với cuộc sống chung của dân chúng trong thế gian này. Không ai có thể sống tách rời khỏi cộng đồng của mình được’’. Ông làm quan trải các chức Hàn lâm Học sĩ, Thị lang, hàm Tự khanh. Một số làng chài đã lập đền thờ ông tôn là Phúc thần chuyên cứu giúp những người đi biển1. _______________ 1. Xem nhóm Ban Mai (Biên soạn): Trạng nguyên Việt Nam - Đạo học của người xưa , Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007. 27 KINH TRẠNG NGUYÊN TRẦN CỐ* Trần Cố người xã Phạm Triền, huyện Thanh Miện (nay là thôn Phạm Lý, xã Ngô Quyền, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương). Trú quán xã Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Phù Chẩn, xã Phù Chẩn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Các tư liệu về ông hiện không còn nhiều, chỉ biết ông đỗ Kinh Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Bính Dần, niên hiệu Thiệu Long thứ 9 (1266), đời vua Trần Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Thiên Chương các Đại học sĩ. _______________ * Chưa rõ năm sinh, năm mất của Kinh Trạng nguyên Trần Cố. 28 TRẠI TRẠNG NGUYÊN BẠCH LIÊU1 (1236-1314) Trại Trạng nguyên Bạch Liêu người làng Nguyễn Xá, (sau gọi là Thanh Đà), nay là xã Mã Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Trong cuốn Đại Việt lịch triều, Đăng khoa lục2 có ghi rằng, ông trú quán tại xã Nghĩa Lư, huyện Thanh Lâm, tỉnh Hải Dương. Giáo sư Ngô Đức Thọ, trong bài viết Mùa xuân thăm mộ Trạng nguyên Bạch Liêu có trích dẫn theo Trần Lê Ngoại Truyện3 rằng “Cha Bạch Liêu thuở trẻ nhà nghèo, phải ra tận huyện Thanh Lâm (tỉnh Hải Dương) làm thầy đồ gõ đầu trẻ, lấy vợ người xã _______________ 1. Xem Ngô Sĩ Liên và Sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998; Website Trường Trung học cơ sở Bạch Liêu; Website Việt Nam gia phả; Báo Tuổi trẻ online. 2. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (Nguyễn Hoàn, Vũ Miên, Phan Trọng Phiên, Uông Sĩ Lãng biên soạn). Nội dung ghi chép lại danh sách và tiểu truyện của các vị đậu đại khoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam. 3. Trần Lê ngoại truyện, tác giả Phan Thúc Trực. 29 Nghĩa Lư, rồi nhập tịch ở đây, đến năm 40 tuổi mới sinh được con trai vì xa quê cũ nên đặt tên con là Liêu - nghĩa là xa”. Khi mất ông được vua Trần phong sắc Đương cảnh Thành hoàng Đại Vương. Bạch Liêu xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, giàu lòng yêu nước. Cha làm nghề dạy học, bốc thuốc, là người “tích phúc truyền gia”, lấy nhân nghĩa làm gốc. Thuở nhỏ, Bạch Liêu nổi tiếng thần đồng: 6 tuổi biết đọc, 7 tuổi biết làm thơ, 8 tuổi làm được văn bài, 15 tuổi tiếng tăm vang lừng khắp quận, huyện. Tương truyền “Ông có trí nhớ dai chẳng ai bằng, có cặp mắt lóng lánh, nhãn quan thần lực đọc sách mười dòng trong nháy mắt”. Theo Ðại Việt sử ký toàn thư, mục về Bạch Liêu có chép: “Tháng ba năm Thiệu Long thứ 9 (1266) đời Trần Thánh Tông, khoa thi lấy Kinh Trạng nguyên Trần Cố, Trại Trạng nguyên Bạch Liêu. Tư chất thông minh, trình độ học vấn như thế quả là xuất chúng”. Tuy đỗ đạt, song ông không ra làm quan, mà ở lại quê nhà. Khi Trần Quang Khải vào trấn thủ Nghệ An, ông làm môn khách của vị tướng tài này. Trần Quang Khải mến tài, trọng đức Bạch Liêu, thường gặp gỡ xướng họa thơ văn, đàm đạo việc quân, việc nước. Năm 1258, quân Nguyên - Mông bị quân dân ta đánh cho tan tác ở Ðông Bộ Ðầu (Hàng Than, Hà Nội) phải chạy về nước, ráo riết chuẩn bị đợt xâm 30 lược vào nước ta. Trước tình hình đó, Bạch Liêu đề xuất bản kế hoạch ba điểm, gọi là “Biến pháp tam chương” nhằm chuẩn bị đối phó với địch. Nội dung: - Kiểm tra dân số, lấy một vạn trai tráng sung quân, quyên góp để rèn vũ khí. Chỉ tập trung một số quân thường trực, còn lại ở tại địa phương, thường xuyên luyện tập, khi động dụng sẽ điều đi. - Khuyến khích các Vương hầu lập thêm điền trang, đưa dân thiếu ruộng từ Bắc vào khẩn hoang, làm tăng lương thực và của cải. Lập các kho thóc, tiền, binh khí, cứ hai mươi dặm một kho, từ Thanh Hóa vào đến Hoành Sơn. - Lập các đồn điền giáp biên giới phía Nam, đưa nông dân đến khai hoang, lập làng để làm tai mắt theo dõi ngoại xâm. Trần Quang Khải rất khen “Biến pháp tam chương”, bèn cùng em là Trần Quốc Khang đưa nhiều gia nô vào lập điền trại. Sau 5 năm thực hiện “Biến pháp tam chương”, tình hình mọi mặt ở Hoan Diễn rất tốt, được triều đình khen ngợi. Năm 1271, Trần Quang Khải được triệu về kinh làm Tướng quốc Thái úy, cùng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lo đối phó với tình hình ngày càng nóng bỏng trước âm mưu của giặc phương Bắc. Ông vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với Bạch Liêu, hỏi ý kiến nhiều việc. Năm 1282, Toa Ðô đem năm mươi vạn quân, nói là đánh Chiêm Thành, sau khi chiếm hai châu Ô, Lý, bèn tiến ra Nghệ An, đến tận bờ Nam sông Lam. Năm 1284, Thoát Hoan đem quân vượt biên giới phía 31 Bắc nước ta, tràn xuống Vạn Kiếp, rồi vào Thăng Long. Vua Trần và triều đình phải tạm dời vào Thanh Hóa. Trần Quang Khải được cử vào Nghệ An chặn quân Toa Ðô, Trần Quốc Tuấn đánh cánh quân Thoát Hoan. Bạch Liêu viết tờ tâu nói rõ tình hình Hoan - Diễn, phân tích thế và lực chung của ta và địch, dâng kế sách đối phó. Vua Trần Nhân Tông đọc rất vừa ý, nhất là trong bản tâu của Bạch Liêu nói Hoan - Diễn đã sẵn sàng 10 vạn quân dưới cờ. Vua phê ngay vào dưới bản tâu hai câu: Cối Kê cựu sự quân tu ký, Hoan - Diễn do tồn thập vạn binh. (Việc cũ ở Cối Kê ngươi nên nhớ, Hoan - Diễn vẫn còn chục vạn binh). Ý vua Trần Nhân Tông nhắc Bạch Liêu nhớ kinh nghiệm Cối Kê hồi xa xưa (khoảng 500 năm trước Công nguyên), Việt vương Câu Tiễn bị Ngô Vương Phù Sai đánh thua, còn 5.000 quân rút về Cối Kê cố thủ, rồi từ căn cứ đó quật lại, giành được thắng lợi cuối cùng. Có 10 vạn lính Hoan - Diễn, là quân dân nhà Trần đã có quân bài chủ lực trong tay. Điều ấy chứng tỏ vua Trần rất tin tưởng vào người và đất Hoan - Diễn. Sau khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông thắng lợi, là người có những đóng góp nhất định vào cuộc thắng lợi nên Trạng nguyên Bạch Liêu có tên trong danh sách được triều đình ban thưởng song ông từ chối mọi tước vị, phẩm vật. Năm 1287, Bạch Liêu được cử đi sứ Trung Quốc, rồi về sống ở Nghĩa Lư (Hải Dương) dạy học, bốc thuốc, dạy dân cày cấy. 32 Hiện, đền thờ ông tại quê hương Nguyễn Xá, xã Mã Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An vẫn còn lưu giữ đôi câu đối: ʺSinh tiền bất dĩ Đông A đế Một vị năng vi Nguyễn Xá thầnʺ. (Sống không nhận quan tước của vua Trần, Chết làm phúc thần của làng Nguyễn Xá). 33 TRẠNG NGUYÊN ĐÀO TIÊU* Đào Tiêu người Yên Hồ, huyện La Sơn, nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh1, đậu Trạng nguyên khoa Ất Hợi (1275) niên hiệu Bảo Phù thứ 3, đời vua Trần Thánh Tông. Các sử liệu về ông không còn nhiều, cũng không ghi chép rõ chức quan và thân thế, sự nghiệp của ông. Trong cuốn Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh từ đời Trần đến đời Nguyễn, tác giả Thái Kim Đỉnh có bài viết về Trạng nguyên Đào Tiêu, trong đó có đoạn: “...Trước 1945, ở làng Trung Xá, Yên Hồ, tức Bà Hồ, Bình Hồ đời Trần - Lê, có ngôi đền thờ Đào Trạng nguyên (Vị hiệu là Trần triều Trạng nguyên lịch triều phong Đoan túc Dực bảo trung hưng, gia phong quang ý tôn thần, Đào Tướng công). Nay đền không còn nhưng ở đây còn có chi họ Đào, con cháu Đào Tiêu, và ở nhà thờ chi họ này còn lưu giữ _______________ * Chưa rõ năm sinh, năm mất của Trạng nguyên Đào Tiêu. 1. Có sách ghi ông người xã Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 34 được ba đạo sắc phong thần cho Trần triều Trạng nguyên Đào Tướng công (một đạo đề “Duy Tân tam niên, bát nguyệt, thập nhất nhậtʺ; một đạo đề “Thành thái thập niên, lục nguyệt sơ nhất nhật”; một đạo đề “Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật””1). Hiện đền thờ ông ở thôn 3, xã Yên Hồ, với nhiều đồ tế khí và các sắc phong của các triều đại phong kiến. Đền thờ được công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2008. _______________ 1. Xem Thái Kim Đỉnh (Biên soạn): Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh từ đời Trần đến đời Nguyễn, Hội Liên hiệp Văn học – nghệ thuật Hà Tĩnh 2004. 35 TRẠNG NGUYÊN MẠC ĐĨNH CHI (1272-1346) Mạc Đĩnh Chi tự Tiết Phu, người làng Lan Khê, huyện Bình Hà, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, sau đó dời đến xã Lũng Động, huyện Chí Linh, cũng trong châu đó (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Ông đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304), niên hiệu Hưng Long 12 đời vua Trần Anh Tông, làm quan đến chức Thượng thư Tả bộc xạ. Sau khi về trí sĩ, ông mở trường dạy học, dân gian sau này vẫn gọi là “Trạng nguyên cổ đường” (Ngôi nhà cổ của ông Trạng). GIAI THOẠI VỀ TRẠNG NGUYÊN MẠC ĐĨNH CHI Mạc Đĩnh Chi vốn là người sống rất thanh liêm, chính trực, vì thế tuy làm quan to song gia cảnh vẫn thanh bần, được nhiều người kính phục, yêu mến. Có lần, để thử ông, đang đêm vua sai người lén bỏ mười quan tiền trước cửa, nhưng trời vừa sáng đã thấy ông xin vào bệ kiến, trên vai vác một túi tiền, quỳ trước ngai vàng tâu: 36 - Tâu bệ hạ, không hiểu đêm qua, có ai đó bỏ quên một túi tiền trước cửa nhà hạ thần. Hạ thần đã hỏi hàng xóm, láng giềng mà không ai nhận. Vậy xin mang số tiền đó nộp vào ngân khố. Vua lắc đầu: - Nếu không ai nhận, mà tiền lại ở ngay trước cửa nhà ông, thì nó là của ông, việc gì phải tâu báo. - Thưa bệ hạ, tiền này không phải do thần đổ công sức ra làm, nên thần không dám nhận, xin cho nộp vào ngân khố, sau này dùng để phát chẩn cho người nghèo. Nói đến đây, Trạng đặt túi tiền xuống, vái lạy nhà vua rồi cáo lui. Mạc Đĩnh Chi vừa đi khuất, vua Trần mỉm cười, nói với quần thần: - Quan Trạng quả là người quá ư chính trực, liêm khiết. Tương truyền, tướng mạo của Mạc Đĩnh Chi vô cùng xấu xí: vừa lùn lại vừa đen, mồm rộng, mũi tẹt, trán dô. Song lại rất thông minh, từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Năm 1304, ông đi thi, bài làm của ông hay hơn cả, nhưng vua thấy ông xấu xí, không muốn để ông đỗ đầu. Ông biết ý, mới làm bài phú Ngọc liên tỉnh (Hoa sen trong giếng ngọc), dâng vua, để nói lên phẩm giá thanh cao và cũng là gửi gắm ý chí của mình. 37 Trong bài phú có những câu như: Phi đào lý chi thô tục Phi mai trúc chi cô hàn Phi tăng phòng chi cẩu kỷ, Phi lạc thổ chi mẫu đơn Phi đào lệnh đông ly chi cúc, Phi linh quân cửu uyển chi lan Nãi Thái Hoa phong đầu ngọc tỉnh chi liên... Nghĩa là: Chẳng phải như đào trần lý tục1 Chẳng phải như trúc cỗi mai gầy Cẩu kỷ tăng phòng2 khó sánh, Mẫu đơn đất Lạc nào bì3 Giậu Đào Lệnh4 cúc sao ví được, Vườn Linh Quân5 lan sá kể gì Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái Hoa vậy... _______________ 1. Lấy ý từ câu thơ cổ: “Đào, lý mãn sơn tổng thô tục” (Hoa đào, hoa mận đầu núi đều là thứ thô tục). 2. Cẩu kỷ tăng phòng: Tên một cây thuốc. 3. Mẫu đơn đất Lạc: Đất Lạc Dương (Trung Quốc) là nơi có hoa mẫu đơn đẹp nhất, nên người ta cũng thường gọi là Hoa Lạc Dương. 4. Giậu Đào Lệnh: Đào Lệnh tức Đào Tiềm đời Tấn, làm quan lệnh ở Bành Trạch. Thơ Đào Tiềm có câu: “Thái cúc đông ly hạ” (Hái hoa cúc ở dưới giậu phía đông). 5. Vườn Linh Quân: Tên chữ của Khuất Nguyên. Thiên Ly tao của Khuất Nguyên có câu: “Dư ký tư lan chi cửu uyển hề, hựu thụ huệ chi bách mẫu” (Ta tưới hoa lan chín uyển, lại trồng hoa huệ trăm mẫu). 38 Vua xem xong bài phú, rất cảm phục, liền chấm cho Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên. Năm Hưng Long thứ 16 (1308), Mạc Đĩnh Chi vâng mệnh triều đình đi sứ nhà Nguyên. Trong chuyến đi sứ này, nhờ khí tiết cứng cỏi, cùng tài ứng đối nhanh, biện luận sắc sảo, ông đã làm tăng quốc thể, làm cho vua quan phương Bắc phải nể phục. Trước khi đi, ông hẹn một ngày nhất định phái bộ sẽ đến cửa ải để quan nhà Nguyên mở cửa đón. Chẳng may, hôm lên đường gặp phải thời tiết không thuận lợi, thành ra sai hẹn. Lúc tới nơi thì trời tối, cửa ải đã đóng. Mạc Đĩnh Chi nói mãi, người Nguyên cũng không chịu cho qua. Sau họ vứt từ trên ải xuống một vế câu đối, bảo hễ đối được thì mới mở cửa ải. Câu đối như sau: Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan. Nghĩa là: Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan. Thật là một câu đối hiểm hóc, trong có mười một chữ mà riêng chữ quan nhắc lại tới bốn lần. Chữ quá nhắc lại ba lần. Mạc Đĩnh Chi cảm thấy rất khó đối, nhưng nếu im lặng thì e mất thể diện. Ông bèn nhân cái chuyện khó đối ấy, ứng khẩu đọc một câu rằng: Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối. Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước. 39 Tưởng đã bí, thế mà lại hóa ra có một câu đối hay. Người Nguyên phải chịu Mạc Đĩnh Chi có tài ứng biến, liền tức tốc mở cửa ải để ông đi. Khi Mạc Đĩnh Chi vào bệ kiến, vua Nguyên muốn thử tài văn chương của Trạng và cũng muốn dò khí tiết của viên bồi thần1 bằng một câu đối. Vua mới đọc: Nhật hỏa vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ. Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vừng trăng. Mạc Đĩnh Chi biết là vua Nguyên kiêu hãnh, tự xem mình là mặt trời và coi nước Nam như mặt trăng, ban ngày nhất định phải bị mặt trời thôn tính, ông bèn ứng khẩu đối ngay: Nguyệt cung, linh đan, hoàng hôn xạ lạc kim ô. Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời. Câu ra đã giỏi mà câu đối lại tài hơn. Vua Nguyên nghe đối biết mình bị trả miếng rất đau, nhưng cũng hết sức kính phục Mạc Đĩnh Chi, bèn thưởng cho Trạng nước Nam rượu ngon và rất nhiều vàng, lụa. Có hôm, Mạc Đĩnh Chi và sứ thần Cao Ly cùng vào vấn an vua Nguyên, nhân có sứ thần ngoại quốc _______________ 1. Bồi thần: Bề tôi của một nước chư hầu đối với hoàng đế phương Bắc. 40 dâng chiếc quạt, vua Nguyên liền bắt Mạc Đĩnh Chi và sứ Cao Ly làm thơ đề quạt để so tài cao thấp. Mạc Đĩnh Chi còn đang đắn đo tìm tứ thơ, thì sứ Cao Ly đã cầm bút viết thoăn thoắt. Liếc theo quản bút lông, Mạc Đĩnh Chi thấy sứ Cao Ly viết rằng: Uẩn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công, Đông hàn thê, thê Bá Di, Thúc Tề. Nghĩa là: Nóng nực oi ả thì như Y Doãn, Chu Công Rét mướt lạnh lùng thì như Bá Di, Thúc Tề. Thế là ông vội phát triển ý ấy và viết luôn: Lưu kim thước thạch, thiên địa vi lô, Nhĩ ư tư thời hề, Y, Chu cự nhu (nho). Bắc phong kỳ lương, tuyết vũ tái đồ, Nhĩ ư tư thời hề, Di, Tề ngã phu. Y! Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng Duy ngã dữ nhĩ hữu thị phù! Nghĩa là: Chảy vàng tan đá, trời đất là lò lửa Ngươi lúc ấy như Y Doãn, Chu Công là những bậc cự nho. Gió bấc lạnh lùng, mưa tuyết đầy đường Ngươi lúc ấy như Bá Di, Thúc Tề là những ông già chết đói. Ôi! Dùng thì chuyên tay, bỏ thì xếp xó Chỉ có ta với ngươi là như thế chăng? Cuối cùng, bài của Mạc Đĩnh Chi xong trước, mà ý tứ lại cao diệu hơn bài của sứ Cao Ly. Vua Nguyên 41 xem xong gật gù, khen mãi và phê từ chữ “y” (ôi!) trở xuống bốn chữ: “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. * * * Tác phẩm của Mạc Đĩnh Chi để lại không nhiều, chỉ còn lại Ngọc tỉnh liên phú và bốn bài thơ khác trong Việt Âm thi tập, Toàn Việt thi tập, nhưng cũng đủ cho chúng ta biết được khí tiết cương trực và thanh cao của một sĩ phu luôn mở lòng để đón cái đẹp của đất, trời, cái khoáng đãng của non sông, cái hồn hậu chất phác của người dân quê. 42 TRẠNG NGUYÊN ĐÀO SƯ TÍCH (1348 - 1396) Đào Sư Tích người xã Cổ Lễ, huyện Tây Chân, (nay là thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định1). Trú quán thôn Lý Hải, xã Phú Xuân, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Dần, niên hiệu Long Khánh thứ 2 (1374), đời vua Trần Duệ Tông. Từ thi Hương đến thi Đình ông đều đỗ thủ khoa. Sau khi thi đỗ, ông ra làm quan, giữ chức Nhập nội hành khiển. Sau khi mất, được truy phong phúc thần2. GIAI THOẠI VỀ TRẠNG NGUYÊN ĐÀO SƯ TÍCH 1. Cậu bé mê chuyện cổ tích Cha của Đào Sư Tích là Đào Toàn Bân, đỗ tiến sĩ _______________ 1. Có tài liệu ghi ông người làng Song Khê, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. 2. Xem Trần Hồng Đức (Biên soạn): Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam, Sđd. 43 năm 1352, làm quan đến chức Tri thẩm hình viện sự, triều Trần. Ngay từ hồi còn nhỏ, Đào Sư Tích đã được cha đón lên phủ Thiên Trường - là nơi ông Đào Toàn Bân làm quan để dạy dỗ. Từ hồi còn để tóc trái đào, Đào Sư Tích đã rất thông minh, không những thế, cậu bé còn chịu khó học hành. Đặc biệt, Sư Tích rất thích nghe những câu chuyện kể của bà, của mẹ. Những câu chuyện ấy đi vào tâm hồn ngây thơ của cậu, giúp cậu yêu hơn quê hương mình - nơi có quán nước của cụ bà hiền hậu dưới gốc cây đa toả bóng mát trước cổng làng, có giếng nước trong mát, có lũy tre xanh đêm ngày rì rào gọi đàn cò về làm tổ. Những buổi được nghỉ học, Đào Sư Tích hay chạy ra bến đò ở đầu làng. Đợi bằng được cô lái đò tên Đông vãn khách ngồi nghỉ, là cậu sà vào đòi cô kể chuyện cổ tích cho nghe. Cô Đông yêu trẻ, lại thấy Sư Tích mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, nên rất quý mến. Hễ lúc nào rỗi là cô lại kể chuyện hoặc chơi đùa với cậu bé. Một hôm, cô bảo bé Tích: - Nào cậu bé, hôm nay muốn nghe kể chuyện, phải đối được câu này. Sư Tích hớn hở nói: - Vâng ạ! Cô ra vế đối đi. Cháu sẽ đối ngay. Cô Đông ngẫm nghĩ một lát rồi đọc: - Bến tịch mịch, thuyền tịch mịch, bé con nghe cổ tích. 44 Câu bé con nghe cổ tích vừa nói lên được sở thích của cậu bé, lại vừa chỉ tên cậu bé trong đó (Tích). Cậu bé chả cần phải nghĩ ngợi lâu, đọc ngay: - Trời mênh mông, nước mênh mông, quân tử đợi đò đông. Câu đối rõ chỉnh, rõ hay. Cũng có tên cô lái đò tên Đông, lại nói lên được cái bao la bát ngát của trời đất và chí làm trai của người quân tử. Cô lái đò và những người ngồi quanh đó đều tấm tắc khen hay. Và không để Sư Tích phải đợi lâu, cô cất giọng trầm ấm, kể cho cậu bé nghe những câu từ chuyện ngày xửa, ngày xưa... 2. Không tin nhảm, không kiêng vía Khoa Giáp Dần (1374), niên hiệu Long Khánh thứ 2, đời vua Trần Duệ Tông, Đào Sư Tích đỗ Trạng nguyên. Vào ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình, ông đều chiếm ngôi đầu bảng nên còn gọi là Tam nguyên. Còn nhớ có lần đi thi Hội, vừa ra đến ngõ thì gặp một cô gái. Cho là xúi quẩy, ông cau mày tỏ vẻ bực tức, toan quay về. Cô gái thấy vậy, vội hỏi: - Sao ông lại bực bội thế? Ông đáp: - Đi thi mà ra ngõ gặp gái, hỏi ai không bực? Đi đâu mà sáng sớm đã đi không biết! Cô gái bật cười khúc khích: - Tưởng gì chứ! Đi thi là việc của ông, đi đường 45 là việc của tôi. Gặp nhau ở đây có khi lại là điều tốt ấy chứ. Đào Sư Tích tò mò: - Tốt thế nào? - Thứ nhất, đỗ hay trượt là do sức học, chứ gái hay trai thì có liên quan gì! Thứ hai, tôi là phận gái, theo tiếng Hán thì đọc là nữ, tôi nhỏ tuổi, vậy là chữ tử. Nữ ghép với tử là chữ hảo. Hảo là tốt, cớ sao ông lại sợ xúi quẩy. Thấy cô bé thông minh, láu lỉnh, nói năng linh hoạt, ông vui miệng hỏi: - Vậy theo cô, tốt đến mức nào? - Là đậu Tiến sĩ chứ sao nữa. - Tiến sĩ thì đã có gì là vừa ý. - Thế thì Trạng nguyên nhé! - Được lắm! Quả nhiên, sau đó Đào Sư Tích đỗ Trạng nguyên. 3. Cha dạy con đỗ Trạng nguyên Dòng họ Đào còn lưu truyền lại một câu chuyện rất thú vị về Tiến sĩ Đào Toàn Bân và Trạng nguyên Đào Sư Tích. Chuyện kể rằng chính ông Đào Toàn Bân đã từng được Chu Văn An đề tặng mấy chữ: “Đại sư vô nhị”, tức là bậc thầy có một không hai. Điều ấy cho thấy ông là một người đức độ, tài năng uyên bác, được người đương thời mến phục. 46 Khi Đào Sư Tích đỗ Trạng nguyên, được vào yết kiến vua Trần, vua hỏi: - Thầy dạy của Trạng nguyên là ai? Đào Sư Tích đáp: - Thưa bệ hạ, chính là cha của thần ạ! Hoàng thượng bèn cho mời cha của Đào Sư Tích vào triều, khi gặp mặt, vua khen rằng: - Ta có lời khen, thật đúng là hổ phụ sinh hổ tử. Cha dạy con đỗ Trạng nguyên, xưa nay cũng thật hiếm. Rồi vua Trần nói tiếp: - Ta ra một vế đối, ngươi hãy đối thử ta xem. Đào Toàn Bân cung kính vâng mệnh. Vua Trần đọc: - Viên ngoại ba tiêu, vô phu quân, tứ thời hữu kết. Nghĩa là: Cây chuối ngoài vườn, không có chồng mà bốn mùa kết trái. Cụ Đào Toàn Bân ứng đối ngay: - Mộc tại nguyệt thiên, vô thổ bồi, bát nguyệt giai xuân. Nghĩa là: Cây mọc ở cung trăng, không có đất bồi, mà vẫn cứ tốt tươi. Nghe xong vua lại khen ngợi hết lời, rồi ban cho bức trướng có đề năm chữ “Phụ tử đồng đăng khoa”. Vì sự kiện này mà người ta vẫn gọi cụ Đào Toàn Bân là Trạng nguyên, vì khoa thi ấy Đào Sư Tích đỗ Trạng nguyên nên cụ cũng được phong luôn danh vị ấy. 47 4. Văn tài và đức độ Sau khi đỗ Trạng nguyên, Đào Sư Tích được giữ chức Nhập nội hành khiển, sau được phong tước Mậu quốc công. Tháng 12 năm Quý Hợi (1383) đời vua Trần Phế Đế (1377 - 1388), Đào Sư Tích được Thượng hoàng Trần Nghệ Tông tin yêu giao cho viết bài tựa tập sách Bảo hòa dư bút gồm tám quyển nhằm răn dạy vua nối ngôi. Lúc này vua Trần rất tin dùng Hồ Quý Ly1. Hồ Quý Ly giữ ngôi thái sư, đã có ý lộng quyền, cướp ngôi vua. Năm 1392, ông ta viết sách Minh đạo gồm mười bốn thiên, dâng lên vua, tỏ ý muốn sắp xếp lại bài vị của Khổng Tử thờ ở Văn Miếu vì theo Hồ Quý Ly, Khổng Tử chưa phải là tiên thánh nên không được ngồi chính giữa là vị trí của thiên tử. Sách Minh đạo còn tỏ ý nghi ngờ Khổng Tử, phê phán một số nhà hiền triết của Trung Quốc cổ đại. Nhận thấy đây là một âm mưu của Hồ Quý Ly, chối bỏ cả đạo nghĩa vua tôi, nhiều vị đại thần trong triều đã dâng thư can Thượng hoàng không nên nghe theo Hồ Quý Ly. Hồ Quý Ly bèn lập mưu hãm _______________ 1. Hồ Quý Ly (1336-1407) người làng Đại Lại, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thanh Hóa, nay thuộc Thanh Hóa. Năm 1400, Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, lên làm hoàng đế, đổi tên nước thành Đại Ngu. 48 hại. Đào Sư Tích vì có liên quan đến việc này mà bị Hồ Quý Ly giáng chức. Chán cảnh nghịch thần chuyên quyền, Đào Sư Tích cáo quan về quê dạy học. Năm 1394 nhà Minh có dã tâm xâm chiếm nước ta, đưa ra rất nhiều yêu sách, bắt cống nạp nhiều lễ vật. Vua Trần biết Đào Sư Tích là người có tài ứng xử, học nhiều hiểu rộng, biết cách bang giao liền xuống chiếu cho mời ông về triều và cử đi sứ sang nhà Minh. Bằng tài năng của mình, Đào Sư Tích đã thuyết phục được vua Minh xóa bỏ các lệ cống nạp hằng năm giữa nước Việt với nhà Minh. Ngày 4 tháng 9 năm 1396 Đào Sư Tích qua đời đột ngột trong thời gian đi sứ. Thi hài ông được đưa về nước mai táng tại phủ Thiên Trường. Tưởng nhớ công lao của ông, nhân dân vùng Cổ Lễ đã lập đền thờ thờ ông cùng với cha là Đào Toàn Bân, gọi là Đào Sư Tích từ. Ông được phong phúc thần. Tác phẩm của ông đến nay chỉ còn lại Văn sách thi đình (Bài văn thi đình), Cảnh tinh phú (Bài phú sao Cảnh) và bài thơ Quy điền do dòng tộc sưu tầm được. Tương truyền, ông làm bài thơ Quy điền khi nhận lệnh triều đình đi chiêu dân lập ấp tại vùng Đông Trang, nay thuộc Hoa Lư, Ninh Bình. Nhiều địa phương ở đó đã tôn ông làm Thành hoàng làng. Dưới đây là bài thơ Quy điền của Đào Sư Tích: 49 QUY ĐIỀN Lam Sơn chí thử duyên sinh kế Canh giá vô ưu bão noãn thân Ngư võng tuỳ triều thu tiểu lợi Tàm tang cần tác hữu lương nhân Hạnh phùng quan lộ nhưng đa họa Bất thức nhân hòa đại thất chân Điều lý tảo hồi quan cúc kính Thiện hành di phúc hậu lai nhân. Dịch thơ: VỀ VỚI RUỘNG ĐỒNG Núi Lam này đến duyên sinh kế Cày cấy lo gì thiếu thốn đâu Lợi nhỏ tuỳ giăng triều lưới vó Ân nhiều bởi gắng lứa tằm dâu Chen vào quan lộc lo canh cánh Chẳng thấu lẽ người mất lớn lao Sớm tỉnh đồng quê về lối tắt Thiện đường để phúc mãi muôn sau. (Duy Phi dịch) 50 TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN TRỰC* (1417 - 1473) Nguyễn Trực người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, Hà Tây (nay là Hà Nội), nhưng ông lại được sinh ra và lớn lên ở quê mẹ là làng Nghĩa Bang, huyện An Sơn (nay thuộc huyện Quốc Oai, Hà Nội). Ông đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442), đời vua Lê Thái Tông. Làm quan trải các chức Thư Trung lệnh, Tri Tam quán sự, Thừa chỉ viện Hàn lâm kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Trong cuốn Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, có chép việc nhân khi đi sứ nhà Minh, gặp khoa thi, ông bèn ứng thí và đỗ Trạng nguyên, nên ông còn được gọi là Lưỡng quốc Trạng nguyên. Đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Trực là một ngôi đền cổ, dựng bên cạnh chùa Bối Khê. _______________ * Xem Vũ Ngọc Khánh: Kho tàng về các ông Trạng Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010; Từ điển Văn học Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004; Trần Hồng Đức (Biên soạn): Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều đại phong kiến, Sđd. 51 Cha Nguyễn Trực là Nguyễn Thì Trung người làng Bối, có lẽ nơi dựng lều là nền nhà cũ của gia đình họ Nguyễn có danh vọng từ thời Trần Trùng Quang (1409-1413). Ông tổ của Nguyễn Trực là Nguyễn Hữu, dưới triều Trần giữ chức Hàn lâm thị giảng kiêm Thẩm lĩnh viện sứ. Ông nội là Nguyễn Bính giữ chức Nho học huấn đạo. Nguyễn Thì Trung là người có tài văn học, nối dõi được gia phong. Đương lúc đời nhuận Hồ, quân nhà Minh tiến sang xâm lược. Nguyễn Thì Trung không hợp tác với giặc, lánh về phía Tây ở thôn Tiểu Động Mộng, làng Nghĩa Bang (xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội ngày nay). Sau khi Lê Lợi bình định được cả nước, hạ chiếu tìm những người hiền tài còn bị bỏ sót, biết Nguyễn Thì Trung là người có văn tài đức hạnh, nhà vua mời về kinh sư nhận chức Thư khố ở Quốc Tử Giám. Sau cụ già yếu xin về dạy học trò, giảng sách cho con là Nguyễn Trực. Gần xa nhiều người theo học. Mẹ Nguyễn Trực họ Đỗ ở làng Nghĩa Bang. Nguyễn Trực được mẹ sinh ra ở am núi Phật Tích (là núi Sài Sơn ngày nay). Trên núi có chùa và động. Đằng trước có hồ lớn, phía sau có lầu treo chuông. Có quả chuông của thầy chùa Từ Đạo Hạnh đúc vào năm Long Phù nguyên hóa thứ 9 triều Lý Nhân Tông (1109) nơi mà Tĩnh Đô Vương đã ngợi ca: “Ta thích chỗ này vì núi không cao lắm mà đẹp đẽ, nước không sâu lắm mà trong mát”. Nguyễn Trực ảnh 52 hưởng ở truyền thống gia đình, được sống bên cạnh núi non kỳ vĩ ấy, nên ông hiếu học từ bé. Gia đình tuy vào bậc công thần nhưng rất thanh bạch. Nhà nghèo, Nguyễn Trực thường chăn trâu giúp đỡ cha mẹ. Lúc bé thông minh, học giỏi, xem rộng các sách. Nhiều khi ngồi trên mình trâu mà tay không rời cuốn sách. Vừa chăn trâu vừa treo sách vào sừng trâu học (ngưu giác quải thư) không biết mệt mỏi. Mười hai tuổi giỏi văn, mười tám tuổi đỗ đầu thi Hương ở Sơn Tây. Ngày mồng 8 thi trường nhất đỗ loại ưu; ngày 18 thi trường nhì đỗ loại giỏi, ngày 24 thi trường ba đỗ cao; và ngày 24 tháng 8 thi trường tư đỗ xuất sắc. Cứ thế cho đến năm Đại Bảo thứ 3 (1442), đời vua Lê Thái Tông tháng ba thi Hội, thi Đình lấy tam khôi: Nguyễn Trực thi đỗ đệ nhất Tiến sĩ, bảng vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa, đứng đầu 33 Tiến sĩ khoa thi năm ấy. Ông được phong là Trạng nguyên mở đầu cho triều Lê sơ. Vua Lê Thái Tông ban áo mũ và ngựa tốt vinh quy về làng. Đến đời vua Lê Nhân Tông (1443-1459), niên hiệu Thái Hòa năm Quý Hợi, ông nổi tiếng về văn chương, nên được bổ làm Trực học sĩ Viện Hàn Lâm kiêm Vũ kỵ đô úy. Ít lâu sau được thăng An phủ sứ phủ Nam Sách, khi về triều được bổ chức Thị giảng, thăng đến Trung thư thị lang (phẩm trật vào hàng tòng tam phẩm) ở sảnh Trung thư. Sau, ông được nhà Lê cử đi sứ nhà Minh, gặp khoa thi, Nguyễn Trực muốn cho nhà Minh biết 53 tài học của dân ta, nên xin dự thi. Vua Minh phải khen ngợi “đất nào cũng có nhân tài”, lại cho đỗ Trạng, nên đời bấy giờ gọi Nguyễn Trực là Trạng nguyên hai nước (Lưỡng quốc Trạng nguyên). Năm Diên Ninh thứ 2 (1454) đời vua Lê Nhân Tông, gặp lúc triều đình rối ren về chuyện tranh quyền đoạt vị, nhân lúc có đại tang, Nguyễn Trực xin cáo quan về quê. Hàng ngày làm thuốc, đọc sách không biết mệt mỏi, và mở trường dạy học trò. Bấy giờ học trò trong hạt theo học có đến hàng nghìn. Sau khi mãn tang, sứ Minh sang, vua vời ông về kinh giữ việc tờ bồi qua lại với sứ Minh. Ông họa thơ lưu biệt sứ Minh 50 vận, làm vẻ vang cho quốc thể. Sứ Minh là Hoàng Gián, rất mực thán phục văn chương uyên bác, tài trí hơn người của Nguyễn Trực. Tác phẩm của ông gồm có Trừ Liêu tập (tập thơ Trừ Liêu); Ngu nhàn tập (tập thơ Vui nhàn); Kinh nghĩa chư văn tân tập (tập sách mới về các bài văn kinh nghĩa), nhưng hiện nay đã thất lạc. Nhà sử học Phan Huy Chú trong tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí đã đánh giá thơ Nguyễn Trực là “Lời và ý đều thanh nhã, đáng ưa”. Vua Lê Nhân Tông sai trung sứ cùng thợ vẽ tới nhà Nguyễn Trực vẽ truyền thần, để bên cạnh chỗ ngồi của vua, để tỏ rằng vua yêu dấu không lúc nào quên được. Khi vua Lê Nhân Tông băng hà, Nguyễn Trực thảo văn tế, lời lẽ thống thiết, nói lên công đức 54 của các tiên đế đã từng chiến thắng quân Minh, giữ nền độc lập cho xã tắc. Khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi, Nguyễn Trực càng được vua yêu quý. Vua Lê Thánh Tông là ông vua chuộng văn chương, đứng đầu “Tao đàn nhị thập bát tú”, tự xưng là Tao đàn Đô Nguyên súy, Thân Nhân Trung, Đông các Đại học sĩ là Tao đàn Phó Nguyên súy, đã từng ca ngợi Nguyễn Trực “Lấy văn chương được các triều trí ngộ mà khiêm tốn kính cẩn giữ vẹn trước sau”. Lê Thánh Tông cho người đem bộ Thiên nam dư hạ tập đến tận chỗ ở của Nguyễn Trực để Nguyễn Trực đọc và phẩm bình. Điều này cho thấy nhà vua quý trọng Nguyễn Trực đặc biệt như thế nào! Năm đầu Quang Thuận (1460) Nguyễn Trực được bổ Tuyên phụng đại phu, Trung thư lệnh, ở hàng quan văn rất to. Mấy lần xin về trí sĩ, vua không cho về. Nhân dịp này, ông làm một bài thơ, phần để tạ ơn vua, phần để tỏ nỗi nhớ tiếc không được ngắm cảnh cày bừa đầu xuân ở quê hương: Bệnh thừa ân chiếu hứa lưu kinh, Quy kế như kim nhất vị thành. Hà nhật tây sơn, sơn hạ lộ, Soa y tiểu lạp khán xuân canh. Dịch nghĩa: Có bệnh, nhờ ơn vua lưu lại ở kinh, Tính đường về mà đến giờ vẫn chưa về được. Biết ngày nào được đi con đường ở núi phía Tây, Đội nón nhỏ, mặc áo tơi đi xem cày ruộng ngày xuân. 55 Nguyễn Trực thường khuyên can vua những điều nên làm và không nên làm, Lê Thánh Tông có lúc giận, nhưng thấy ông là người trung trực nên cũng rất nể vì, vẫn giữ ông ở lại triều đình. Nguyễn Trực bèn than thở: Đại đình tằng đối tam thiên tự, Phù thế hư kinh ngũ thập niên. Bất thị vô tâm lai cấm tỉnh, Chí nhân đa bệnh ức điền viên. Dịch nghĩa: Ở sân vua từng làm bài đối sách 300 chữ, Trải 50 năm trời ta sống không toại nguyện, Không phải là vô tâm với nơi cung cấm nhà vua, Vì chưng lắm bệnh, nhớ cảnh ruộng vườn. Nguyễn Trực là người đỗ đại khoa mà không màng công danh phú quý, thường muốn về với mảnh ruộng, góc vườn, dạy học, làm thuốc cứu giúp nhân dân. Cho đến khi mất ông vẫn giữ được tấm lòng trong sạch. Trạng nguyên Nguyễn Trực mất năm 1473, đúng vào lúc tài năng đang ở độ chín muồi. 56 TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN NGHIÊU TƯ* Nguyễn Nghiêu Tư tự Quân Trù, hiệu Tùng Khê, người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Phù Lương, xã Phù Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh). Ông đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1448), đời vua Lê Nhân Tông. Làm quan đến chức Thượng thư chưởng lục bộ. Hiện tác phẩm của ông còn lại hai bài thơ chữ Hán chép trong ʺToàn Việt thi lụcʺ1. GIAI THOẠI VỀ TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN NGHIÊU TƯ 1. Lớn lên con sẽ làm Trạng Tương truyền, cha của Nguyễn Nghiêu Tư làm _______________ * Chưa rõ năm sinh, năm mất của Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư. 1. Toàn Việt thi lục: Bộ hợp tuyển thơ chữ Hán do nhà bác học Lê Quý Đôn biên soạn. 57 nghề thịt lợn, cậu lại đẻ vào tháng Hợi, năm Hợi nên được đặt tên là Trư. Cậu bé Trư bản tính thông minh, nhanh nhẹn. Thuở nhỏ, có lần cùng bố đi bắt lợn, dọc đường, gặp kiệu một ông Nghè vinh quy bái tổ, cậu hỏi: - Kiệu của ai mà đẹp thế hả cha? Người cha đáp: - Kiệu quan Trạng đấy con ạ! Trư nói: - Thế thì lớn lên con cũng làm quan Trạng. Từ đó, mỗi lần đi chơi, cậu lại nói với lũ trẻ trong xóm: - Tớ là quan Trạng! Một hôm, có người khách đến chơi, nghe được câu nói của cậu bé, liền độp một câu: - Là Trạng dở hay Trạng nguyên? Cậu đáp ngay: - Tưởng khách lạ hóa khách quen! Câu ứng khẩu của cậu bé tự nhiên hóa thành vế đối chỉnh, khá hay. Cạnh làng Phù Lương là làng Yên Đình, đây là đất học, có cụ đồ sang chơi ra cho Trư vế đối, đố Trư đối lại: - Lợn cấn ăn cám tốn. Lợn cấn tức lợn nái, ý nói lợn nái ăn nhiều cám. Nhưng Cấn và Tốn cũng là hai quẻ trong bát quái. Chỉ trong chớp mắt, Trư đối ngay: - Chó khôn chớ cắn càn. 58 Câu đối xấc xược làm cụ đồ rất tức giận, song vế đối chỉnh quá. Ý câu đối nói, chó khôn đừng cắn bậy, mà Khôn và Càn lại là hai quẻ lớn nhất trong bát quái chỉ trời và đất. Tuy giận nhưng thầy đồ cũng rất mừng vì thấy quê mình có một cậu bé quá thông minh, thầy đồ khuyên bố mẹ cậu nên cho cậu đi học và chính thầy đồ là người đầu tiên dạy dỗ cậu. Nguyễn Nghiêu Trư học rất giỏi, học một biết mười, lễ phép chuyên cần. Nhiều bạn học lớn hơn cậu vài tuổi vẫn học kém cậu. Bạn bè ai cũng mến yêu cậu. Những ngày mưa trơn, họ còn cõng cậu qua chỗ lội. Khi ở nhà lúc nào cậu cũng chăm lo đèn sách, khi ra ao rửa bèo, ra vườn hái rau, tay vẫn cầm cái que nhọn vạch xuống đất hoặc vào lá chuối, lá khoai những chữ khó nhớ. Đến lúc học được khá nhiều kiến thức của thầy đồ làng, Trư được gửi ra theo học Tiến sĩ Vũ Mộng Nguyên1 ở thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du. 2. Vinh quy bái tổ Năm Mậu Thìn đời vua Lê Nhân Tông, Nguyễn Nghiêu Trư thi đỗ Trạng nguyên. _______________ 1. Vũ Mộng Nguyên: Hiệu là Vị Khê và Lạn Kha, đỗ tiến sĩ năm 1400. 59 Tương truyền, trước ngày yết bảng thi Đình, vua nằm mộng thấy có thần nhân đến báo mộng rằng khoa này lợn trúng Trạng nguyên. Đến lúc treo bảng, tên người trúng là Trư. Lúc vào yết kiến vua hỏi nguyên do, Nghiêu Trư tâu rằng: - Muôn tâu bệ hạ, vì thần sinh vào tháng Hợi, năm Hợi nên cha mẹ mới đặt tên là Trư ạ! Nghe tâu, vua gật gù: - Quả thật ứng với giấc mộng của ta. Nói rồi vua ban thưởng, xong lại đổi tên cho Trạng là Nguyễn Nghiêu Tư. Phong cho chức Hàn lâm trực học sĩ, sau chuyển sang làm Án phủ sứ Tân Hưng. Còn dân gian khi xem yết bảng về, vẫn truyền nhau rằng “Long đầu lợn - Nguyễn Nghiêu Trư” (Tức: Lợn đầu rồng, Nguyễn Nghiêu Trư) chỉ việc Nghiêu Trư đỗ Trạng. Khi vinh quy bái tổ, nhân dân làm nghè ở chợ Phù Lương để đón ông. Đến thời kháng chiến chống Pháp, nghè vẫn còn, nhân dân vẫn gọi là Nghè quan trạng. 3. Văn võ toàn tài Dương Thái sư có một người con gái đến tuổi kén chồng, nhân năm ấy Nghiêu Tư đỗ Trạng, thấy chàng mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, Thái sư rất ưng ý, muốn đem con gái gả cho. Nhưng Nghiêu Tư lấy cớ khước từ vì chàng đã có ước hẹn với nàng Phan Khanh, con 60 gái của Bùi Tướng công - người mà từ lâu Dương Thái sư đã có hiềm khích nhưng chưa có dịp báo thù. Nhân việc này Thái sư càng vì thế mà đem lòng thù ghét hơn. Rồi thời cơ đến, nhân ở hai xứ Nghệ An, Thanh Hóa có giặc nổi lên. Dương Thái sư nghĩ cách báo thù, bèn họp với triều thần, tâu lên vua rằng: - Nghệ An, Thanh Hóa là hai xứ hiểm yếu. Duy có Bùi Tướng công là võ tướng am hiểu việc quân, lại thêm Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư văn võ toàn tài. Có hai người ấy đi dẹp loạn thì triều đình mới an lòng. Vua nghe xong, thuận lòng chuẩn tấu, lập tức giáng chỉ sai Bùi Tướng công và Trạng cầm quân vào Thanh Hóa - Nghệ An diệt giặc. Nhờ sự dũng cảm cộng với việc phủ dụ dân chúng một cách nhân từ, khôn khéo, Bùi Tướng công và Trạng đã đem lại bình yên cho dân hai xứ Thanh Hóa – Nghệ An. 4. Đi sứ Năm Canh Thìn (1460), Nguyễn Nghiêu Tư được cử làm Chánh sứ sang nhà Minh. Lần đi sứ này là để cầu phong vương cho vua Lê Nghi Dân. Khi đoàn sứ thần tới cửa ải Nam Quan, đợi mãi mà không thấy viên quan coi cửa ải mở cửa. Thì ra, nhà Minh cậy mình nước lớn không chịu đón tiếp 61 sứ thần nước Nam mà chỉ treo lên cánh cửa một chữ thập to tướng. Cả phái đoàn ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu ra sao, duy có Trạng Nghiêu Tư ung dung nói: - Ý các người coi nhà Minh là “Tung hoành vũ trụ”, thì nước Nam ta sẽ “Bao quát càn khôn”. Nói rồi Trạng Nghiêu Tư sai người bện một vòng tròn lớn bằng lụa rồi mắc lên đầu chữ thập. Cả chữ thập lọt trong vòng tròn ấy. Viên quan coi ải thầm khiếp phục, vội vã mở cửa ải, nghênh đón đoàn sứ giả. Đến Yên Kinh, Trạng Nghiêu Tư vào yết kiến vua Minh. Vua Minh hỏi về việc Lê Nghi Dân giết em để giành ngôi, tỏ ý không bằng lòng: - Vua nước Nam sao lại dám giết em để giành ngôi, thế là trái với đạo. Trạng Nghiêu Tư đáp lại ngay: - Ngày xưa Đường Thái Tông giết anh là Kiên Thành, em là Nguyên Cát. Việc ấy vẫn còn ghi lại trong sử sách của thiên triều, thì việc nước thần không có gì lạ cả. Thấy lý lẽ của Trạng Nghiêu Tư sắc sảo như vậy, không bắt bẻ vào đâu được, nhà Minh đành nhận phong vương. Vua Minh muốn thử tài sứ giả, mới sai làm một phòng thật đẹp, thật lộng lẫy. Ở giữa treo hai chữ Kính thiên, bên dưới bày đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh bày biện đồ vật sang trọng như chỗ 62 giường ngủ của vua, rồi mời Trạng đến xem có dám ngồi đó không. Quân lính đưa Trạng Nghiêu Tư cùng với phó sứ đi dạo thăm một vòng quanh cung điện rồi mới mời hai người vào dự yến tiệc ở trong căn phòng đã bày biện sẵn. Bước vào phòng, Trạng Nghiêu Tư đưa mắt ngắm một lượt rồi bảo phó sứ cùng ngồi lên sập thất bảo. Thấy vậy, viên quan nhà Minh đi cùng vội nói: - Không được! Không được! Cớ sao sứ thần lại ngược ngạo, vô lễ đến thế. Hãy nhìn lên trên xem đây là chỗ nào? Trạng Nghiêu Tư bình thản thưa: - Thưa ngài, ngài lấy cớ gì mà bảo chúng tôi ngạo ngược vô lễ? Biển đề hai chữ Kính thiên, mà chữ Thiên là trời, chữ Thiên tách ra là hai chữ nhị nhân. Nhị nhân tức là hai người. Vậy cứ theo cách chiết tự ấy, Kính thiên tức là kính hai người. Bản quốc đã hậu đãi như vậy, chúng tôi phải băn khoăn gì nữa! Viên quan nhà Minh không nói được câu gì, mặt đỏ bừng lên. Trạng Nghiêu Tư lại ung dung nói tiếp: - Cổ nhân đã nói: “Đãi người phương xa cốt lấy bụng thực”. Tôi lại nghe Thánh triều lấy lòng thành tín đãi người ngoại quốc. Thế mà sứ giả từ xa tới, Minh triều lại đem bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng, dẫu có lòng thực hướng mộ, cũng sinh nghi mà không tới nữa. Viên quan nhà Minh thấy Trạng Nghiêu Tư nói vậy, vội vàng nói: 63 - Ngài quả thật thông minh xưa nay hiếm có. Trong thời gian ở Trung Quốc, ông lập được nhiều công lớn, nhất là việc dạy hoàng tử học, được vua Minh rất đỗi quý phục, phong là Lưỡng quốc Trạng nguyên. Khi về nước, ông được thăng chức Thượng thư, Chưởng Hàn lâm viện. * * * Truyện kể về Trạng Nghiêu Tư (hay còn gọi là Trạng Lợn), sử sách ghi chép không nhiều nhưng được truyền miệng nhiều trong dân gian, nghe chuyện ai ai cũng phải thán phục trí thông minh hiếu học, ham hiểu biết, tài ứng đối linh hoạt của ông. Giai thoại lưu truyền trong dân gian về Trạng Lợn1. Tương truyền, hai nước giao hảo, qua lại lẫn nhau, vua nhà Minh phái sứ thần sang thăm. Tới nơi, sứ nhà Minh muốn đọ trí cao thấp bèn xin với vua Lê cho mở hội đánh cờ. Vua Lê lấy làm lo ngại, bèn cho vời Trạng đến để hỏi mẹo. Trạng Lợn thưa: - Cứ phúc thư nhận lời, định ngày hội đấu, hạ thần xin dâng người cao cờ. Người ấy họ Nguyễn, hiện đang giữ chức Thị lang. _______________ 1. Xem Trần Hồng Đức (Biên soạn): Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam, Sđd. 64 - Thế Trạng làm mẹo gì? - Muôn tâu, bệ hạ cứ yên lòng! Đến ngày hội đấu cờ, Trạng xin đem bàn cờ để trong sân rồng, để vua Lê đọ trí với sứ nhà Minh và ghé tai vua: Cứ thế, cứ thế. Rồi đem lọng dùi thủng một lỗ, sai quan Thị lang đứng che lọng cho vua. Đến lúc thi đấu, Thị lang xoay lọng, bóng nắng chiếu vào chỗ nào thì vua nhấc quân đi vào chỗ đấy. Quả nhiên sứ nhà Minh bị chiếu dồn, không nước gỡ phải bó tay, chịu thua. Vua Lê mừng lắm, gia phong cho Thị lang là Trạng Cờ, khen Trạng Lợn là “Tiểu Vũ Hầu”1 và trọng thưởng. Thua keo này bày keo khác, sứ nhà Minh bèn nghĩ mẹo, cho bào nhẵn cây gỗ, gốc ngọn bằng nhau, rồi cho sơn đen toàn thân cây, đề ba chữ trắng vào cây gỗ rằng: “Hồ bất thực”. Hỏi quần thần không ai đoán được, hỏi Trạng, Trạng ứng đối tức thì: - Hồ bất thực là “cáo chẳng ăn”. Cáo chẳng ăn thời cáo đói. Cáo đói thời cáo gầy. Cáo gầy là cây gạo. Không tin bổ cây gỗ ra mà xem. Bổ ra, quả gỗ gạo thực. Thấy thế sứ nhà Minh mồ hôi tuôn ra như tắm mà than rằng: - Người nước Nam tài giỏi như vậy, còn lấy trí thuật mà đấu thế nào được! _______________ 1. Vũ Hầu tức Gia Cát Lượng (Khổng Minh) - một người lừng danh giỏi mưu trí, ý vua Lê khen Trạng Lợn như một Gia Cát Lượng thứ hai. 65 Một lần, Trung Quốc hạn hán kéo dài, nhân có Trạng Lợn sang thăm, vua Minh mời Trạng cầu đảo để thử tài. Trạng Lợn nhận lời, yêu cầu dựng đàn uy nghi để ông cầu đảo. Mục đích là để kéo dài thời gian. Khi thấy cỏ gà lang, Trạng bèn lên đàn làm lễ. Ông khấn theo cách nói lái: Hường binh, hòa bình, tam tinh, kẹo tinh, bát tinh, linh tinh tinh... Vua Minh nghe thấy khiếp đảm, bái phục Trạng uyên thâm, tỏ tường thiên văn, thuộc hết ngôi thứ các vị tinh tú trên trời. Khóa lễ vừa xong, lập tức mưa như trút nước, khiến vua quan nhà Minh đã phục lại càng phục hơn. Trạng Lợn - Nguyễn Nghiêu Tư được vua Lê Nhân Tông ngợi khen: “Người như thế thực là ông Mạc Đĩnh Chi của trẫm”. Đến khi Nguyễn Nghiêu Tư về trí sĩ, vua thấy ông có nhiều công lớn với xã tắc, bèn gia phong là “Thượng quốc công trí sĩ” và vợ quan Trạng được phong là “Nhất phẩm phu nhân”. Đình nguyên, Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư, mà dân gian quen gọi với hai tiếng thân thương là Trạng Lợn - một người nổi tiếng hiếu học, ham hiểu biết, ứng đối thông minh, thể hiện lòng tự tôn dân tộc, tính cách ngạch trực, in đậm truyền thống văn hiến đất Kinh Bắc và cốt cách Việt Nam. 66 TRẠNG NGUYÊN LƯƠNG THẾ VINH (1441-1496) Lương Thế Vinh tự Cảnh Nghị, hiệu Thụy Hiên. Ông quê làng Cao Hương, huyện Thiên Bản (nay thuộc huyện Vụ Bản, Nam Định). Ông đỗ Trạng nguyên khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4 (1463), đời vua Lê Thánh Tông. Sau khi thi đỗ, ông ra làm quan, trải các chức Hàn lâm viện Thị giảng Chưởng viện sự, Nhập thị kinh diên, Tri sùng văn quán. Các văn thư, từ lệnh bang giao với nhà Minh đều do ông soạn thảo. Khi mất, ông được phong Phúc thần tại quê nhà. GIAI THOẠI VỀ TRẠNG NGUYÊN LƯƠNG THẾ VINH Thuở nhỏ, Lương Thế Vinh thông minh khác người, dân quanh vùng đều biết tiếng cậu bé Vinh, vừa học giỏi, lại vừa láu lỉnh, đối đáp với người lớn đâu ra đấy. Và Thần đồng là cái tên mọi người đặt cho cậu bé. Lương Thế Vinh tính vốn ham chơi, đá bóng, 67 thả diều, tắm ao, tắm rộc đều là những trò mà cậu yêu thích. Có lần, cậu mang một trái bưởi ra chỗ thả trâu, làm bóng để cùng chơi với các bạn. Bọn trẻ đang hăng say đá thì quả bưởi lăn xuống một cái hố, cái hố vừa sâu, vừa hẹp, không làm sao xuống được, cũng không thò tay vớt lên được. Bọn trẻ bắt đầu nản chí, xịu mặt xuống, tưởng thế là mất đồ chơi. Lúc ấy, Lương Thế Vinh ngẫm nghĩ một lát, rồi hớn hở rủ bạn đi mượn vài chiếc gầu giai đi múc nước đổ xuống hố. Bọn trẻ không hiểu Vinh làm thế để làm gì. Nhưng lát sau, thấy nước dâng lên đến miệng hố, quả bưởi cũng theo đó nổi lên bập bềnh, bọn trẻ mới ồ lên sửng sốt phục tài của Lương Thế Vinh. Từ đó, tụi trẻ trong làng cứ gặp nhau là lại thì thào kể cho nhau nghe rằng Lương Thế Vinh là thần đấy, là thần thì mới có câu thần chú hay đến thế, có thể gọi những vật vô tri vô giác (như quả bưởi) từ xa lại với mình. Lương Thế Vinh nghe thế chỉ tủm tỉm cười, vì có một bí mật mà chỉ mình cậu mới biết. Số là, lúc Lương Thế Vinh trèo lên cây bưởi cạnh bờ ao để hái bưởi, cậu sảy tay làm rơi quả bưởi xuống nước tưởng mất. Nhưng khi nhìn thấy bưởi nổi lên trên mặt ao, Vinh lấy cành tre khều vào và đem ra bãi chơi. Lúc quả bưởi lăn xuống hố, cậu đã chợt nhớ lại và nghĩ cách lấy nước đổ xuống cho bưởi nổi lên. Trong đầu cậu, lúc nào cũng ăm ắp những bài đồng dao dân dã, nên khi chờ bưởi, cậu lẩm nhẩm đọc: 68 Bưởi ơi bưởi Nghe tao gọi Lên đi nào Đừng quên lối Đừng bỏ tao Bưởi ơi bưởi... ... Năm 1463, Lương Thế Vinh đậu Trạng nguyên dưới triều vua Lê Thánh Tông. Vua Lê Thánh Tông vốn nổi tiếng là vị vua hay chữ, trọng hiền tài, thấy Trạng nguyên Lương Thế Vinh kiến thức uyên bác như vậy thì rất yêu mến, thường giữ ở bên mình, giao cho ông trọng trách thi từ, quan hệ bang giao với nhà Minh. Những văn thư ngoại giao này đều được nhà Minh hết lời khen ngợi. Trạng nguyên Lương Thế Vinh là một tài năng lỗi lạc, ông không chỉ chú tâm vào văn thơ và sách vở thánh hiền, mà ông còn quan tâm đến nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, đặc biệt là toán học. Sinh ra ở nông thôn, nên Trạng nguyên Lương Thế Vinh rất gần gũi với người nông dân một nắng, hai sương, đổ bát mồ hôi lấy bát cơm ăn. Ông thấu hiểu nỗi vất vả ấy và thấy rằng đo đạc ruộng đất sao cho chính xác là điều có lợi cho nhân dân. Ông lấy dây rừng làm thước, đo vẽ các thửa ruộng rồi lại cặm cụi ghi chép tính toán. Ông đã tìm ra các quy tắc tính toán và viết ra cuốn Đại thành toán pháp, trình bày cách tính diện tích của các hình phẳng, phép cửu chương, bình phương, khai phương, phân số... 69 Trong mỗi phương pháp tính ông đều làm một bài thơ Nôm để tóm tắt từng công thức cho mọi người dễ nhớ. Ông mở đầu cuốn sách bằng bốn câu thơ khuyên mọi người học toán: “Trước thời biết cách thương lường Tính toán bình phân ở cửu chương Thông hay mọi nhẽ điều vinh hiển Học lấy cho tinh giúp thánh vương”. Dân chúng yêu mến ông, thường gọi ông bằng cái tên nôm na là Trạng Lường (nghĩa là ông trạng về đo đạc). Bằng sự sáng tạo và tài năng của mình, ông cũng chính là người chế tác ra bàn tính gẩy cho người Việt. Ban đầu, mới chỉ làm bằng đất, sau tiến lên một bước làm bằng gỗ, bằng trúc, sơn nhiều màu sắc khác nhau, vừa đẹp vừa dễ tính, từ người bình dân đến thành thị, ai cũng dùng được. Tài năng như thế, nên tiếng tăm của ông bay ra ngoài biên giới trời Nam. Tuy nhiên, ngày xưa, vua quan nhà Minh thường cậy thế nước lớn, coi thường nước ta, gọi dân ta là man di, mọi rợ. Nhưng một lần, sứ nhà Minh sang nước ta, Trạng nguyên Lương Thế Vinh được vua Lê Thánh Tông sai ra tiếp sứ, ông đã làm cho chúng một phen “bạt vía kinh hồn” mà không dám coi thường nước ta nữa. Sứ nhà Minh tên là Chu Hy, đã nghe tiếng Trạng nguyên Lương Thế Vinh không những nổi tiếng về văn chương, âm nhạc mà còn tinh thông về toán học, bèn hỏi: 70 - Có phải ông là người làm ra sách Đại thành toán pháp, định thước đo ruộng đất, chế ra bàn tính của nước Nam đó không? Trạng nguyên Lương Thế Vinh đáp: - Không sai! Người đó chính là tôi. Nhân có con voi đang kéo gỗ bên sông, Chu Hy bảo: - Trạng thử cân xem con voi kia nặng bao nhiêu! - Xin vâng! Dứt lời, Trạng nguyên Lương Thế Vinh xăm xăm cầm cân đi cân voi. Sứ Tàu cười nói: - Tôi xem chiếc cân của ông hơi nhỏ so với con voi đấy! - Thì chia nhỏ con voi ra! - Lương Thế Vinh thản nhiên trả lời! Chu Hy lại châm chọc: - Ông định mổ thịt voi à? Để phần tôi một miếng nhé! Trạng nguyên Lương Thế Vinh tỉnh khô không đáp. Đến bến sông, Trạng chỉ chiếc thuyền bỏ không, sai lính dắt voi xuống. Thuyền đang nổi, do voi nặng nên đầm sâu xuống. Trạng nguyên Lương Thế Vinh cho lính lội xuống đánh dấu mép nước trên mạn thuyền, rồi dắt voi lên. Kế đó, Trạng ra lệnh cho đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến khi thuyền đầm xuống tới đúng dấu cũ thì ngưng đổ đá. 71 Thế rồi Trạng bắc cân lên cân đá. Rồi nói với sứ thần nhà Minh: - Ông ra mà xem số cân nặng của voi! Sứ thần trông thấy cả sợ, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra bình tĩnh. Khi xong việc, Chu Hy nói: - Ông thật là giỏi! Tiếng đồn quả không ngoa. Ông đã cân được voi to, vậy ông có thể đo được tờ giấy này dày bao nhiêu không? Sứ nói rồi xé một tờ giấy bản rất mỏng từ một cuốn sách dầy đưa cho Lương Thế Vinh. Sứ lại đưa luôn một chiếc thước. Giấy thì mỏng mà li chia ở thước lại quá to, Trạng nghĩ giây lát rồi nói: - Ngài cho tôi mượn cuốn sách! Sứ đưa ngay sách cho Trạng nguyên Lương Thế Vinh, mỉm cười vẻ đắc thắng. Trạng Lương Thế Vinh lấy thước đo cuốn sách, nhẩm tính một lát rồi nói bề dày tờ giấy. Kết quả rất khớp với con số đã viết sẵn ở nhà. Nhưng sứ chưa tin tài Trạng Lương Thế Vinh, cho là ông đoán mò. Khi nghe ông nói việc đo này rất dễ, chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ giấy là ra ngay kết quả thì sứ ngửa mặt lên trời than: “Danh đồn quả không sai. Nước Nam thật có lắm người tài!”. Trạng nguyên Lương Thế Vinh quả là kỳ tài, ông nghĩ ra cách giải toán hóc búa ngay trong những tình huống bất ngờ, cần ứng đối nhanh. Gặp vật to 72 thì ông chia nhỏ, gặp vật nhỏ thì ông gộp lại. Phải chăng, sáng kiến của Trạng Lương Thế Vinh là mầm mống của phép tính vi phân (chia nhỏ) và tích phân (gộp lại) mà ngày nay là những phép tính không thể thiếu được trong toán học hiện đại. Ngoài tính thông minh, hoạt bát, Trạng Lương Thế Vinh còn là người có tiết tháo, không ham công danh phú quý mà thích cuộc sống điền viên, bình dị. Khi còn làm quan, tính tình ông thẳng thắn, cương trực, gặp việc không phải là phản đối ngay. Tính ông tuy cứng rắn mà lại hay khôi hài. Đến giờ vẫn còn lưu truyền lại nhiều giai thoại lý thú về mối quan hệ giữa ông với vua Lê Thánh Tông. Vua Lê Thánh Tông biết rõ hồi nhỏ, Trạng Lương Thế Vinh nổi tiếng nghịch ngợm, hay tắm ao, hồ nên bơi lội rất giỏi. Một hôm, đi chơi thuyền có Trạng Lương Thế Vinh và các quan theo hầu, vua liền giả vờ say rượu đẩy ông rơi tùm xuống sông, rồi lệnh cho quân tiếp tục chèo thuyền đi. Không ngờ, Trạng Lương Thế Vinh rơi xuống liền lặn một hơi đi thật xa, đến một chỗ vắng lên bờ ngồi núp vào một bụi rậm không ai trông thấy. Vua Lê Thánh Tông chờ mãi không thấy Lương Thế Vinh trồi đầu lên, bấy giờ mới hoảng hồn, vội cho quân lính nhảy xuống tìm vớt, nhưng tìm mãi cũng chẳng thấy đâu. Vua hết sức ân hận vì lối chơi đùa quá quắt của mình, chỉ muốn khóc, thì tự nhiên thấy Lương Thế Vinh từ dưới nước ngóc 73 đầu lên lắc đầu cười ngất. Khi lên thuyền rồi, Lương Thế Vinh vẫn còn cười. Vua Lê Thánh Tông ngạc nhiên hỏi mãi, cuối cùng Lương Thế Vinh mới tâu: - Thần ở dưới nước lâu là vì gặp phải một vụ việc rất kỳ lạ và thú vị. Thần gặp cụ Khuất Nguyên, cụ hỏi thần xuống làm gì? Thần nói dối là thần chán đời muốn chết. Nghe qua cụ Khuất Nguyên tròn xoe mắt, mắng thần: “Ngươi điên rồi! Ta gặp Sở Hoài Vương và Khoảnh Tương Vương hôn quân vô đạo, mới phải bỏ nước bỏ dân trẫm mình ở sông Mịch La. Chứ ngươi gặp được bậc thánh quân minh đế, còn định vớ vẩn cái gì?”. Thế rồi cụ đá thần một cái, thần mới về tới đây! Vua Lê Thánh Tông nghe xong, biết là Lương Thế Vinh nịnh khéo mình, nhưng cũng rất hài lòng, thưởng cho Trạng Lương Thế Vinh thật nhiều vàng lụa. Lần khác, vua đi kinh lý vùng Sơn Nam Hạ, ghé thăm làng Cao Hương - quê của Trạng Lương Thế Vinh - lúc bấy giờ cũng đang theo hầu vua. Vua là người mộ đạo, lại thấy phong cảnh chùa làng đẹp, bèn đến thăm. Khi ấy sư cụ đương bận tụng kinh bỗng đánh rơi chiếc quạt xuống đất. Vẫn tiếp tục tụng, sư cụ lấy tay ra hiệu cho chú tiểu cúi xuống nhặt, nhưng một vị quan tùy tùng của vua Lê Thánh Tông đã nhanh tay nhặt đưa cho sư ông. Vua Lê Thánh Tông trông thấy vậy, liền nghĩ ra một vế câu 74 đối, rồi trong bữa tiệc hôm đó thách các quan đối. Vế ấy như sau: Đường thượng tụng kinh, sư sử sứ... Nghĩa là: Trên bục đọc kinh, sư khiến sứ (nhà sư sai khiến được quan). Câu này oái oăm ở ba chữ sư sử sứ. Các quan đều chịu chẳng ai nghĩ ra câu gì. Trạng nguyên Lương Thế Vinh cứ để cho họ suy nghĩ chán chê. Ông ung dung ngồi uống rượu chẳng nói năng gì. Vua Lê Thánh Tông quay lại bảo đích danh ông phải đối, với hy vọng đưa ông đến chỗ chịu bí. Nhưng ông chỉ cười trừ. Một lúc, ông cho lính hầu chạy ngay về nhà mời vợ đến. Bà trạng đến, ông lấy cớ quá say, xin phép vua cho vợ dìu mình về. Thấy Vinh là một tay tài ứng đối mà hôm nay cũng đành phải đánh bài chuồn, nhà vua lấy làm đắc ý lắm, liền giục: “Thế nào? Đối được hay không thì nói đã rồi hẵng về chứ?”. Vinh gãi đầu gãi tai rồi chắp tay ngập ngừng: - Dạ... muôn tâu. Thần... đối rồi đấy chứ ạ! Vua và các quan lấy làm lạ bảo Trạng Lương Thế Vinh thử đọc xem, Vinh cứ một mực: “Đối rồi đấy chứ ạ!” hoài. Sau nhà vua gạn mãi, Vinh mới chỉ tay vào người vợ đang dìu mình mà đọc rằng: Đình tiền túy tửu, phụ phù phu. Nghĩa là: 75 Trước sân say rượu, vợ dìu chồng. Nhà vua cười và thưởng cho rất hậu. * * * Vì tài năng lỗi lạc và những đức tính đáng quý ấy mà khi Trạng nguyên Lương Thế Vinh mất, vua Lê Thánh Tông thương tiếc lắm, khóc ông bằng bài thơ Nôm rất hay: Chiếu thượng thư để xuống đêm qua Gióng khách chương đài kiếp tại nhà Cẩm tú mấy hàng về động ngọc Thánh hiền ba chén ướt hồn hoa. Khí thiên đã lại thu sơn nhạc Danh lạ còn truyền để quốc gia Khuất ngón tay than tài cái thế Lấy ai làm Trạng nước Nam ta!. 76 TRẠNG NGUYÊN VŨ KIỆT (1453 - ?) Vũ Kiệt người xã Yên Việt, phủ Thuận Thành, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Cửu Yên, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ông đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 3 (1472) đời vua Lê Thánh Tông. Sau khi thi đỗ, ông ra làm quan, trải các chức Hàn lâm thị thư, Thị lang kiêm Đông các học sĩ. Vũ Kiệt được người đời khen là bậc hiền tài. Con cháu ông cũng nối tiếp nhiều đời khoa bảng. VỀ BÀI VĂN SÁCH THI ĐÌNH CỦA TRẠNG NGUYÊN VŨ KIỆT1 Các sĩ tử xưa đỗ cao, trúng cách trong kỳ thi Hương rồi thi Hội mới được vào thi Đình. Đây là kỳ _______________ 1. Xem Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh: Văn hiến Kinh Bắc, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1997, t.1; Trần Hồng Đức (Biên soạn): Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam, Sđd. 77 thi đặc biệt để xếp hạng các tiến sĩ theo giáp đệ, tổ chức ngay trong sân điện nhà vua vì vậy gọi là thi Đình (Đình thí) hay thi Điện (Điện thí). Khác với thi Hội và thi Hương, thí sinh phải qua bốn kỳ, thi Đình chỉ thi một bài văn sách nên gọi là Đình đối sách văn (Văn sách thi Đình) và gọi tắt là đối sách hay Đình đình đối. Bài văn sách thi Đình do vua trực tiếp phê duyệt, lấy đỗ và xếp hạng. Để đạt cao trong kỳ thi Đình mà cao nhất là Trạng nguyên, sĩ tử cần phải có vốn kiến thức và tài năng về Hán học, sử học và văn học (đó cũng là điều kiện để vượt qua hai kỳ thi Hương và thi Hội) và phải có sự hiểu biết tình hình của đất nước và vận dụng tri thức của mình để lý giải và đề ra kế sách giải quyết những vấn đề của thực tế. Vũ Kiệt đã vượt qua kỳ thi Đình đối với bài văn sách dài hơn chục nghìn chữ, vượt xa mức quy định tối thiểu (là ba nghìn chữ) nhiều lần, tất nhiên trong phạm vi thời gian một ngày, lại bị cắt đoạn bằng nhiều nghi thức, và bị khống chế ở những câu hỏi, bài Đình đối sách văn không thể phản ánh đầy đủ tư tưởng trí tuệ của người thi nhưng trong phạm vi một bài văn, Vũ Kiệt đã đạt tới đỉnh cao nhất của khoa cử, thể hiện tài năng “kinh bang tế thế” của ông. Mở đầu bài văn sách Đình đối, Vũ Kiệt đã đề cập đến những vấn đề chung nhưng theo ông đó là cái “cốt lõi của việc thịnh trị đất nước”. “Thần nghe: Muốn tìm hiểu đường lối trị nước cần phải tìm cái cốt yếu của việc trị nước. Muốn 78