🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ibosses - Thủ Lĩnh Số Thế Hệ Y Ebooks Nhóm Zalo DR. PATRICK KHOR Biên dịch: Nguyễn Như Uyển Linh iBosses: THỦ LĨNH THẾ HỆ Y FIRST NEWS Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc - Tổng Biên tập ĐINH THỊ THANH THỦY Chịu trách nhiệm nội dung: Phó Giám đốc - Phó Tổng Biên tập NGUYỄN TƯ TƯỜNG MINH Biên tập: Cao Bá Định Sửa bản in: Bích Thúy NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 62 Nguyễn Thị Minh Khai - Q.1 - TP. HCM ĐT: 38225340 - 38296764 - 38247225 - Fax: 84.8.38222726 Email: [email protected] Sách online: www.nxbhcm.com.vn Ebook: www.sachweb.vn NHÀ SÁCH TỔNG HỢP 1 62 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1, TP. HCM ĐT: 38 256 804 NHÀ SÁCH TỔNG HỢP 2 86 - 88 Nguyễn Tất Thành, Q.4, TP. HCM ĐT: 39 433 868 GIAN HÀNG M01 - ĐƯỜNG SÁCH TP. HCM Đường Nguyễn Văn Bình, Q. 1, TP. HCM Thực hiện liên kết Công ty TNHH Văn hóa Sáng tạo Trí Việt (First News) 11H Nguyễn Thị Minh Khai, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM In 4.000 cuốn khổ 14.5 x 20.5 cm tại Công ty TNHH TMSX Tân Lạc Thành (131/7 Mã Lò, P. Bình Trị Đông A, Q. Bình Tân, TP. HCM). Xác nhận đăng ký xuất bản số: 2788-2017/CXBIPH/02- 215/THTPHCM ngày 24/08/2017 - QĐXB số: 1078/QĐ THTPHCM-2017 cấp ngày 31/08/2017. ISBN: 978-604-58- 6881-2. In xong và nộp lưu chiểu quý IV/2017. LỜI GIỚI THIỆU T rong loạt bài nói chuyện với chủ đề “Cách mạng công nghiệp 4.0 – Cơ hội nào cho Startup?” gần đây, tôi cùng nhiều chuyên gia nhận định rằng cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra cơ hội công bằng cho tất cả cộng đồng và các thế hệ doanh nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp cũng có thể đón được làn sóng nếu có sự chuẩn bị kỹ càng và sẵn sàng đón nhận các cơ hội – những cơ hội số trong thời đại mới (DIGITAL ERA). Tuy nhiên, để Việt Nam có thể thành công trong thời đại công nghiệp 4.0, điều quan trọng nhất là sự thay đổi tư duy của chính người Việt chúng ta, của từng bạn trẻ. Tôi luôn nhắn nhủ hai chữ ‘‘tri thức’’ với những bạn trẻ, sinh viên bước trên con đường khởi nghiệp, vì điều quan trọng nhất của khởi nghiệp là phải tạo ra một lộ trình tri thức. Các em phải đóng gói tri thức từ nhà trường, từ xã hội, để khi bước ra lập nghiệp, các em mới thực sự vững vàng. Với những bạn đang làm công việc nghiên cứu, trí tuệ của các bạn phải nhanh chóng được chuyển dịch vào ứng dụng trong cuộc sống ở dạng “online”, chứ không phải chỉ để lấy tấm bằng nghiên cứu sinh hay tiến sĩ “giấy”. Công nghệ thông tin trong kỷ nguyên số sẽ là cầu nối tri thức nhanh nhất hỗ trợ các bạn, cuốn sách iBosses: THỦ LĨNH SỐ THẾ HỆ Y này sẽ giúp các bạn hiểu ra những điều còn lạ lẫm của kỷ nguyên số. Quyển sách iBosses: THỦ LĨNH SỐ THẾ HỆ Y là một giáo trình chuyên nghiệp và hay nhất về khởi nghiệp từ Singapore được phát hành với sự hợp tác giữa First News – Trí Việt và những người đầu tư tâm huyết vào Khởi nghiệp Số tại Việt Nam. Đất nước đang cần lắm những DOER – người tiên phong làm bánh đà cho Khởi nghiệp Số thời đại mới. Hãy tập trung vào những điều ta làm được ngay cho đất nước này. Chúng ta cần làm ngay, tự làm, tự đầu tư... cần những người đồng hành tâm huyết. Và trên tay các bạn chính là “người bạn” ấy. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh về hoàn cảnh khởi nghiệp theo cách phân chia thế hệ. Song, bối cảnh Việt Nam chúng ta có khác, chẳng hạn như chúng ta đã mất một, hai thế hệ vì chiến tranh, và phải mất thêm khoảng thời gian của chặng đường trước và sau thời kỳ Đổi mới, Việt Nam không có thế hệ Baby Boomers như Mỹ, Singapore dứt khoát phát triển theo mô hình Âu Mỹ ngay từ đầu… Đất nước chúng ta đã từng có một số lãnh đạo chưa có kỹ năng quản lý hiện đại, chỉ gần đây thế hệ X và thế hệ Y mới bước đầu làm kinh doanh. Thế hệ Y của Singapore tương đương với thế hệ 9X Việt trong bước đầu hội nhập và nắm bắt cơ hội của công nghệ mới, của trí tuệ toàn cầu. Mong rằng các bạn sẽ rút ra được nhiều bài học bổ ích từ tập sách này trên con đường khởi nghiệp của mình. - Henry Nguyễn Hữu Thái Hòa Đồng sáng lập iBosses Vietnam Ltd. LỜI TÁC GIẢ D oanh nhân là lực lượng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của một nền kinh tế, đặc biệt trong một thị trường đang phát triển như Singapore. Có rất ít nghiên cứu và thông tin về những ảnh hưởng cũng như yếu tố thúc đẩy một cá nhân tham gia vào việc kinh doanh trong bối cảnh ở Singapore. Cũng có rất ít những bài nghiên cứu nói về mối quan hệ giữa lý thuyết Thế hệ và việc Kinh doanh. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra sự tồn tại của những điểm khác nhau giữa những nhóm thế hệ khác nhau. Đặc biệt, cuốn sách này sẽ giới thiệu về kinh nghiệm thực tế của những doanh nhân thế hệ X và Y ở Singapore với giả thuyết về thế hệ Y khác biệt. Đầu tiên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về từ “thế hệ”. Trong suốt nhiều thập niên qua, định nghĩa về từ này vẫn còn mập mờ, khó nắm bắt. Khoảng cách của những nhóm thế hệ có thể chia ra theo từng chu kỳ 20 năm. Theo đó, mỗi thế hệ được xác định bằng năm họ được sinh ra và sự thật là những thành viên trong mỗi thế hệ có tầm nhìn và mục đích khác nhau, dựa vào kinh nghiệm sống khác nhau. Cuốn sách này cũng sẽ sử dụng lý thuyết Thế hệ để giải thích nguyên nhân vì sao những doanh nhân thế hệ Y lại khác biệt so với những thế hệ còn lại. Lý thuyết Thế hệ được lập ra dựa vào những kinh nghiệm cá nhân, cái chịu ảnh hưởng bởi những sự kiện lịch sử cũng như điều kiện sống nơi cá nhân ấy được sinh ra và lớn lên. Khi mỗi cá nhân trưởng thành, những trải nghiệm của họ được xem là kết quả tập hợp của những giá trị và tín ngưỡng được chia sẻ trong cộng đồng nơi họ sinh ra. Dựa vào kinh nghiệm cá nhân, cách nhìn thế giới cũng như cách chắt lọc thông tin của hầu hết mọi người, đều thông qua thấu kính của thế hệ họ. Sự phát triển những đặc điểm tính cách này thường dựa trên những kinh nghiệm họ có được trong suốt quá trình hình thành và phát triển bản thân. Baby Boomers là những cá nhân được sinh ra giữa những năm 1946 và 1964. Con cái của họ là những người thuộc thế hệ X. Những thành viên thuộc thế hệ X là những cá nhân sinh ra vào giữa những năm 1965 và 1979. Khái niệm thế hệ X trở nên phổ biến nhờ vào cuốn tiểu thuyết của Coupland 1991, Generation X: Tales for an Accelerated Culture. Những đứa trẻ thời kỳ này được xem là những thành viên năng động của tầng lớp lao động, cũng như trung thành với nhà tuyển dụng, thế hệ X học hỏi từ kinh nghiệm của bố mẹ họ và chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng phải sở hữu một doanh nghiệp của riêng họ. Thế hệ X được xem là thế hệ có “máu” kinh doanh nhất trong lịch sử, mãi cho đến khi thế hệ Y bắt đầu xuất hiện. Những thành viên thế hệ Y chính là những đứa con của thế hệ X. Họ được sinh vào giữa những năm 1978 và 2000. Cả hai thế hệ X và Y đều có một mối quan tâm to lớn đến kinh doanh. Tuy nhiên, những doanh nhân thế hệ X và Y có những thái độ khác nhau về vấn đề kinh doanh. Những người thuộc thế hệ X sống trong thời kỳ có tỷ lệ ly hôn tăng cao. Nhiều bài nghiên cứu đã chỉ ra rằng những thành viên thế hệ X có xu hướng tự lập, hay hoài nghi, dễ thích nghi với môi trường xung quanh, thường trông đợi có kết quả ngay sau hành động, và có cam kết lâu dài với công việc của họ. Hơn thế nữa, thế hệ X không đơn giản chỉ làm việc vì mục đích kiếm tiền. Thay vào đó, mục tiêu của họ nhắm vào việc cân bằng giữa cuộc sống và công việc, thách thức bản thân trong môi trường làm việc, sở hữu thời gian làm việc linh hoạt, và tự phát triển bản thân. Đây là những yếu tố mà một cá nhân không thể đạt được dưới phương diện một nhân viên làm công ăn lương, đó là lý do tại sao hầu hết những người thế hệ X tích lũy tiền để xây dựng sự nghiệp kinh doanh riêng của họ. Những thành viên thế hệ X thường lên kế hoạch chu đáo cho việc kinh doanh của họ, và được miêu tả là những người không thích chịu rủi ro vì họ luôn tìm cách chứng tỏ bản thân với gia đình mình. Họ muốn chứng minh rằng việc từ bỏ công việc làm công ăn lương và bắt đầu công việc kinh doanh riêng là đúng đắn. Ngược lại, thế hệ Y (còn được biết đến với cái tên Millenials, thế hệ Net, hay thế hệ Echo Boomers) sở hữu những đặc điểm khác nhau trong kinh doanh, mà về sau chính những đặc tính này đã thay thế dần những người của thế hệ Baby Boomers nay đã về hưu. Khía cạnh quan trọng nhất thế hệ Y được tiếp cận là sự phát triển của Internet và công nghệ tối tân. Các chuyên gia chỉ ra rằng những người ở thế hệ Y coi trọng việc được sống theo ý thích của họ, được đi du lịch và phát triển sự nghiệp. Cái họ muốn là sự tự do cá nhân cũng như sự thỏa mãn về mặt chuyên môn, nghề nghiệp. Thêm vào đó, thế hệ này luôn tham vọng hướng đến sự đổi mới và những thách thức mới. Những thành viên thế hệ Y cũng hứng thú tham gia vào việc kinh doanh. Tuy nhiên, những doanh nhân thế hệ Y có nhiều đặc điểm khác với thế hệ X. Những doanh nhân thế hệ Y thường hung hăng và liều lĩnh hơn vì hai lý do, một là nguồn vốn kinh doanh của họ thường đến từ bố mẹ, những người của thế hệ X, và bố mẹ họ cũng là nguồn động viên tinh thần, ủng hộ thế hệ Y lập nghiệp. Lý do thứ hai là các doanh nhân thế hệ Y thường tham gia vào môi trường kinh doanh ngay sau khi họ tốt nghiệp cao đẳng, đại học. Chính vì vậy, thế hệ Y ít phải bận tâm đến các nghĩa vụ và trách nhiệm như trả nợ hay làm chỗ dựa cho gia đình. Nói cách khác, họ không có gì để mất, vì nguồn vốn kinh doanh đến từ bố mẹ họ. Tuy nhiên, những doanh nhân thế hệ Y cũng không sở hữu nhiều kinh nghiệm làm việc vì họ chỉ mới chân ướt chân ráo rời khỏi giảng đường đại học, điều này khiến họ gặp nhiều rủi ro hơn trong kinh doanh. Vì những lý do đó, chúng ta dễ dàng thấy được những điểm khác nhau giữa những thành viên thế hệ X và Y. Dù vậy, cả hai thế hệ đều có những điểm chung, cũng như khác nhau, khi đề cập đến nguyên nhân cơ bản thúc đẩy họ khởi nghiệp. Những doanh nhân thế hệ Y thường bắt đầu với những công ty khởi nghiệp, ví dụ như Facebook. Xuyên suốt thế hệ của họ, có quá nhiều tiến bộ công nghệ mang tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền kinh doanh toàn cầu. Hoạt động kinh doanh từng không được đánh giá đúng đắn, chúng được xem như là một sự lựa chọn của những cá nhân làm việc không tốt trong tổ chức. Tuy nhiên, suy nghĩ này nay đã thay đổi, đặc biệt đối với những thành viên thế hệ Y. Trong một cuộc khảo sát được thực hiện năm 2009 bởi Trung tâm Doanh nhân của Trường Đại học Quốc gia Singapore (NUS), 18% trong số sinh viên đại học có mong muốn trở thành doanh nhân sau khi tốt nghiệp ra trường. Trong số những nghiên cứu về doanh nhân trước đây, có những nghiên cứu điều tra về ý định, cũng như khuynh hướng của một cá nhân khi họ bước chân vào con đường kinh doanh. Tuy nhiên, dù với hơn 40 năm nghiên cứu về đề tài này, nguyên nhân của việc vì sao một cá nhân dấn thân vào lĩnh vực kinh doanh vẫn còn quá đa dạng và chưa hoàn chỉnh. Những nghiên cứu trước đó kết luận rằng có hai mục cần đề cập đến để giải thích cho nguyên nhân trên: Mục đầu tiên bao gồm phân tích những lý do tạo nên sự thành công trong liên doanh dưới khía cạnh xã hội học của môi trường sống, cũng như hồ sơ một cá nhân. Các phân tích dẫn đến những điều kiện thuận lợi cho việc bắt đầu liên doanh. Kết quả cũng nhấn mạnh lý do đằng sau việc một cá nhân quyết định tham gia vào môi trường kinh doanh, đó là nắm bắt được cơ hội tốt, cũng như cảm thấy đây là một sự cần thiết. Mục thứ hai đặt trọng tâm vào vấn đề phân tích khía cạnh tính cách cụ thể của cá nhân. Nhiều phương diện đã được khám phá trong quá trình đi tìm kiếm lời giải cho ý định đầu tư kinh doanh của nhiều cá nhân, ví dụ như sự khao khát quyền lực hay khao khát tìm kiếm thành công, động lực nội tại hay quyết tâm bất chấp rủi ro. Nhiều nghiên cứu cho thấy quyết định tham gia vào mô hình liên doanh còn do chịu ảnh hưởng bởi tính cách cá nhân của những doanh nhân đó (thuộc tính tâm lý hay yếu tố nhân khẩu học), hoặc do yếu tố môi trường. Tính cách đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích quyết định khởi nghiệp kinh doanh của một cá nhân, và kết luận này đã được chứng minh bởi một vài nghiên cứu khác trước đó. Nhân cách đóng vai trò quan trọng, như là lời giải thích cho việc hình thành liên doanh mới, cũng như việc thành công trong kinh doanh của một cá nhân. Bằng cách này hay cách khác, chính tính cách gây ảnh hưởng đến quyết định dấn thân vào con đường khởi nghiệp cũng như quá trình kinh doanh. Ngược lại với những kết luận trên, không ít nghiên cứu cho rằng tâm lý học hay vấn đề tâm lý không đóng vai trò gì trong việc đưa ra quyết định khởi nghiệp của một cá nhân. Một vài nghiên cứu trước còn xem xét đến tầm ảnh hưởng của kinh nghiệm đối với việc đưa ra quyết định trở thành doanh nhân của người đó. Thông thường, mỗi cá nhân sẽ thu nhận được một vốn kinh nghiệm cụ thể qua mỗi môi trường làm việc họ đi qua trước khi họ đưa ra quyết định thay đổi công việc của mình. Gia tài tích lũy của một cá nhân được cho rằng bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh cũng như kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình làm việc. Nhờ vào những kinh nghiệm ấy, mỗi cá nhân có thể định hình được ước muốn của họ khi quyết định làm việc cho một doanh nghiệp hay thành lập công ty riêng. Cuốn sách này sẽ đề cập đến những thông tin liên quan đến những tính cách cá nhân và nhân tố môi trường như một yếu tố đằng sau quyết định khởi nghiệp của một cá nhân, khác với những thông tin có thể tìm thấy được trong một số tài liệu. Những doanh nhân đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt trong thị trường mới nổi như Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Là một thành viên của ASEAN, Singapore đang phải đương đầu với những thách thức từ các quốc gia đang phát triển khác trong khu vực. Mặc dù vậy, Singapore vẫn giữ vững vị thế của mình là một quốc gia đứng đầu về năng lực cạnh tranh và đổi mới. Chính phủ cũng khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho những ý tưởng khởi nghiệp phát triển. Mặc dù các doanh nghiệp nhỏ và các công ty khởi nghiệp đã nhấn mạnh quyết tâm và mong muốn phát triển kinh doanh, nhưng tỷ lệ thất bại của họ vẫn cao một cách đáng kể vì mô hình khởi nghiệp vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi trong hầu hết các tổ chức. Ở Singapore, việc khởi nghiệp đã đưa ra không ít thách thức cho những doanh nhân thế hệ Y. Mặc dù cũng có nhiều nghiên cứu nỗ lực giải thích cho mọi người hiểu về đặc tính và phẩm chất của những doanh nhân đó ngay từ đầu, nhưng việc xác định những yếu tố dẫn đến quyết định tham gia hoạt động khởi nghiệp của một cá nhân thật sự là một điều cần thiết. Cuốn sách này lấy cảm hứng từ sự khác nhau giữa trải nghiệm thực tế của những doanh nhân thế hệ X và thế hệ Y ở Singapore khi họ quyết định khởi nghiệp. Sau đây là một vài câu hỏi được xem là quan trọng trong lĩnh vực khởi nghiệp: 1. Những doanh nhân thế hệ Y diễn giải thế nào về lịch sử và kinh nghiệm của họ khi họ dấn thân vào con đường tự lập nghiệp? 2. Trong quá trình lập nghiệp, bằng cách nào những doanh nhân thế hệ Y tìm kiếm và nhận biết, cũng như nắm bắt được cơ hội khi họ tìm phương hướng gây dựng và phát triển sự nghiệp? 3. Tính chất doanh nhân nào mà các doanh nhân thế hệ Y cảm thấy ngưỡng mộ và được coi là hình mẫu lý tưởng khi quyết định tham gia khởi nghiệp? 4. Kết quả kinh doanh hay thành tựu cá nhân mà họ nhận được khi tham gia vào quá trình khởi nghiệp là gì? Nhiều học giả đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau đã nghiên cứu về khái niệm “khởi nghiệp”. Tuy nhiên, cũng có không ít tranh cãi xoay quanh lĩnh vực này. Cho dù hiện nay số nghiên cứu về khái niệm “khởi nghiệp” đã tăng đáng kể, thì việc nghiên cứu sâu hơn về phương diện lý thuyết cũng như thực hành liên quan đến lĩnh vực khởi nghiệp trong môi trường kinh doanh vẫn được xem là vô cùng cần thiết. Singapore đang trải qua xu hướng lựa chọn công việc theo định hướng kinh doanh, điều đó cho thấy sự hiện diện của nền văn hóa doanh nghiệp. Chính phủ Singapore đã và đang thực hiện những cam kết với mục đích hỗ trợ cho nhu cầu theo đuổi việc hình thành doanh nghiệp riêng (Young Entrepreneurs Scheme for Start-ups [YES! Start-ups] được thực hiện bởi đại diện chính phủ Singapore – SPRING Singapore). Thêm vào đó, cũng đã có không ít những chương trình được thực hiện ở các cấp bậc tiểu học, trung học cũng như các trường đại học, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong hoạt động khởi nghiệp của họ. Những điều tra về kinh nghiệm khởi nghiệp của những doanh nhân thế hệ X và Y cũng sẽ được giới thiệu trong quyển sách này, mang đến một cái nhìn gần gũi và có chiều sâu hơn về các doanh nhân ở mức độ cá nhân. Ngoài ra, thông tin về kinh nghiệm cá nhân của những doanh nhân thế hệ X và Y cũng sẽ được trình bày, đặc biệt tập trung vào lý do vì sao họ quyết định tham gia vào môi trường khởi nghiệp ở Singapore. Cụ thể hơn, cuốn sách này sẽ nhấn mạnh và giải thích lý do vì sao những doanh nhân thế hệ Y là khác biệt. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định theo đuổi con đường khởi nghiệp của một cá nhân. Hầu hết các tài liệu đều cho rằng tính cách mỗi cá nhân cũng như nhân tố môi trường là yếu tố quan trọng nhất trong việc quyết định trở thành doanh nhân của một cá nhân. Nhiều hướng tiếp cận đã được cân nhắc. Khi các học giả nghiên cứu về các doanh nhân và những hoạt động khởi nghiệp, họ đã cân nhắc nhiều hướng tiếp cận cũng như khám phá những đặc tính cấu thành nên một doanh nhân. Cho dù vậy, bức tranh toàn cảnh về doanh nhân, đặc biệt từ phương diện thế hệ Y, vẫn chưa hiện lên rõ ràng, cụ thể. Một bài kiểm tra về những kinh nghiệm mơ hồ, khách quan mang tính cá nhân của các doanh nhân thế hệ Y có thể cung cấp cái nhìn khác về những mô hình kinh doanh mới, cũng như mức độ gắn kết với việc khởi nghiệp mà các chủ sở hữu doanh nghiệp thế hệ Y đang trải nghiệm qua. LÝ THUYẾT THẾ HỆ L ý thuyết về Thế hệ không phải chưa từng gặp những tranh luận và ý kiến trái ngược, đặc biệt những phần liên quan đến tính hợp lệ của việc phân nhóm thế hệ, cũng như dự đoán về niềm tin và hành vi của các thành viên trong từng thế hệ đó. Có không ít người đưa ra lý thuyết về thế hệ, họ thể hiện những phiền muộn khi nhắc đến sự thay đổi của những giá trị và thái độ của những thế hệ gần đây, trong khi những người khác lại cho rằng những thay đổi này không đáng báo động. Theo đó, phần tiếp theo đây sẽ đưa ra định nghĩa về khái niệm và lý thuyết Thế hệ. Ranh giới chính xác giữa mỗi thế hệ luôn là vấn đề gây tranh cãi. Đặc biệt, các nhà nghiên cứu cho rằng, sử dụng sự kiện lịch sử làm phương pháp phân biệt thế hệ này với thế hệ khác là phương án tối ưu nhất. Vì lý do đó, lằn ranh chính xác giữa mỗi thế hệ sẽ khác nhau tùy thuộc vào đất nước và nền văn hóa, vì mỗi khu vực và vùng miền trải qua nhiều sự kiện khác nhau ở từng thời điểm khác nhau. Lý thuyết Thế hệ lần đầu tiên được giới thiệu bởi Mannheim vào năm 1928 nhằm tìm hiểu và phân loại mỗi thế hệ theo đặc trưng riêng của mỗi nhóm người, dựa vào năm sinh của những thành viên trong thế hệ ấy. Lý thuyết Thế hệ được mô tả như là một quá trình nắm bắt những nhóm người trong cùng thế hệ thông qua phương diện xã hội học. Thế hệ không phải là một công trình thuần túy từ quá trình học thuật; chính xác hơn, thế hệ chịu ảnh hưởng nặng nề từ văn hóa phổ biến vào thời kỳ đó, từ thị trường và truyền thông. Vì lý do này, lý thuyết Thế hệ dựa trên niềm tin cho rằng những sự kiện lịch sử và điều kiện cá nhân là tác nhân gây ảnh hưởng lớn trong sự hình thành chuỗi giá trị, niềm tin và thái độ khi cá nhân đó trưởng thành. Ba điểm chính để phân biệt từng thế hệ: 1. Độ tuổi và giai đoạn sống của những thành viên; 2. Điều kiện môi trường sống (kinh tế, xã hội và chính trị); 3. Những kinh nghiệm hay sự kiện cụ thể ở một khoảng chu kỳ xác định trong những năm trưởng thành của những cá nhân đó. Một thế hệ là “khoảng thời gian trung bình giữa ngày sinh của bố mẹ và ngày sinh của con cái họ (với tuổi sinh sản trung bình khoảng 20 - 22 năm), và một vòng đời dài gấp bốn lần khoảng cách thế hệ đó”. Những người thuộc cùng một thế hệ chia sẻ một khoảng năm sinh gần như nhau, điều này có thể ảnh hưởng đến sự giống nhau về trải nghiệm của một thế hệ – dựa trên sự giống nhau về những hình thái xã hội và kinh tế. Những giá trị, tín ngưỡng và thái độ của những cá nhân trong một thế hệ thường phát triển trong những năm phát triển nhân cách, và nó có thể chịu ảnh hưởng bởi những tác nhân bên ngoài. Cụ thể, có bốn giai đoạn đặc biệt trong quá trình phát triển nhân cách: (a) thu nhận, (b) thử nghiệm, (c) khẳng định và (d) chuyển giao, được thể hiện chi tiết hơn trong bảng dưới đây. Bảng 1 Bốn giai đoạn của cuộc sống (Benckendor, Moscardo và Pendergast, 2010) Các thế hệ dịch chuyển như một tập hợp qua xã hội, vượt qua bốn giai đoạn của cuộc sống, nhưng vẫn luôn duy trì bốn loại thế hệ khác biệt nhau: (a) Loại lý tưởng, (b) Loại phản kháng, (c) Loại khoa trương và (d) Loại nghệ sĩ. Theo các tác giả, các loại thế hệ này sẽ ứng với từng nhóm thế hệ theo một vòng tuần hoàn nhất định. Dựa vào yếu tố này, những đặc điểm tính cách trên xuất hiện liên tục trong suốt những thế hệ kế tiếp nhau. Những đặc trưng tính cách của mỗi loại thế hệ được nhấn mạnh trong bảng 2. Bảng 2 Đặc trưng tính cách của 4 loại thế hệ (Dựa theo nghiên cứu của Strauss và Howe, 2000) Loại Lý tưởng Loại Lý tưởng thể hiện những tính cách của một nhà tiên tri bởi những cá nhân này đánh giá cao sự thật. Khi còn nhỏ, họ được nuôi dạy trong một môi trường thoải mái. Đến giai đoạn thanh thiếu niên, họ có thể được miêu tả như một nhóm phản ánh thời đại. Thái độ thời trung niên của họ được cho là những người thích phán xét, trong khi về già họ lại là những người thông thái và có tầm nhìn xa. Những thành viên nhóm này sở hữu những tính cách tích cực, như: sống đúng chuẩn mực quy tắc, cũng như là những người kiên quyết. Tuy nhiên, họ cũng có những mặt tiêu cực như ích kỷ, cứng nhắc và vô tình. Loại Phản kháng Nhóm thế hệ này mang trong mình sự trầm cảm và tính nay đây mai đó một cách tự nhiên. Tính cách cơ bản của nhóm thế hệ này là họ thích sự thuyết phục. Họ không nhận được nhiều sự quan tâm chăm sóc từ gia đình khi còn bé. Trong giai đoạn thanh thiếu niên, họ thường có tính ganh đua trong khi bố mẹ họ lại thường bảo bọc quá mức. Đến những năm trung niên, thái độ của họ thường cạn kiệt. Bước vào thời kỳ lão niên, những thành viên trong nhóm này thường có khả năng thuyết phục và thực tế. Tính cách tích cực của nhóm này là có hiểu biết, sống thực tế và biết quan tâm. Những tính cách tiêu cực của nhóm thế hệ này là thực dụng và phi luân lý. Loại Khoa trương Những thành viên của thế hệ loại Khoa trương chủ yếu sống dựa vào quyền lực. Họ được nuôi dưỡng trong một môi trường nghiêm khắc từ khi còn bé, nhưng dần phát triển và trở nên thoải mái hơn khi họ bước vào thời kỳ thanh thiếu niên. Trong khoảng thời gian trung niên, họ luôn tràn đầy năng lượng. Phong cách lãnh đạo của họ là rộng rãi và toàn diện. Họ thường được cho là rất bận rộn và tự tin. Đặc điểm tích cực của họ là hiểu biết và tài năng, trong khi đặc điểm tiêu cực là thiếu tinh tế, thiếu cân nhắc và quá táo bạo. Loại Nghệ sĩ Thế hệ mang tính cách nghệ sĩ thuộc nhóm dễ hòa nhập. Nhóm này sống dựa vào tình yêu. Họ được nuôi dưỡng và lớn lên trong môi trường được bảo vệ quá mức khi còn nhỏ và dần dần chuyển sang môi trường thiếu sự chăm sóc khi bước qua tuổi thanh thiếu niên. Vào thời kỳ trung niên, họ được xem là những người từng trải. Phong cách lãnh đạo của nhóm này được mô tả là đa tính cách và linh hoạt. Những người thuộc nhóm này thường biết quan tâm và có tư tưởng thoáng. Tuy nhiên, họ cũng thiếu quyết đoán và có khuynh hướng dễ sa vào lầm lỗi. Những nhà sử học đã phát triển khái quát lý thuyết Thế hệ. Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, Strauss và Howe đã nghiên cứu những động lực thế hệ dựa vào những thay đổi xảy ra trong lịch sử Anh - Mỹ. Những công trình của Strauss và Howe về động lực thế hệ có ý nghĩa đáng kể trong lĩnh vực marketing và truyền thông, giúp tìm hiểu cách giao tiếp với một thế hệ xác định. Mặt khác, không có nhiều nghiên cứu định lượng về tập tính nhóm thế hệ. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho rằng có nhiều sự khác nhau giữa những nhóm thế hệ. Nguyên tắc cơ bản là một nhóm thế hệ chia sẻ cùng một vị trí thế hệ đồng nghĩa với việc cùng chia sẻ một chuỗi những kinh nghiệm cụ thể và đặc trưng trong suốt những năm hình thành tính cách, bao gồm chuỗi những điều kiện cụ thể về xã hội và kinh tế. Những kinh nghiệm đó ảnh hưởng đến những thành viên của một thế hệ và định hình giá trị, thái độ và niềm tin của họ. Thêm vào đó, những thành viên của cùng một thế hệ trải nghiệm những sự kiện tương tự nhau trong cùng giai đoạn cuộc sống. Những nhóm thế hệ có thể kéo dài một chu kỳ từ 20 đến 22 năm; mỗi thế hệ được xác định bằng năm sinh và những thành viên có tiểu sử, tính cách khác nhau – có thể do ảnh hưởng bởi những kinh nghiệm sống khác nhau. Không có phạm vi năm sinh chắc chắn nào để xác định rõ đặc trưng của mỗi nhóm thế hệ. Tuy nhiên, nhiều học giả xem Baby Boomers, thế hệ X và thế hệ Y nằm trong những phạm vi năm sinh sau: Baby Boomers là những người sinh từ 1943 - 1960 Thế hệ X là những người sinh từ 1961 - 1981 Thế hệ Y là những người sinh từ 1982 - 2002 Baby Boomers, Thế hệ X và Thế hệ Y không cùng chia sẻ những chuỗi giá trị và thái độ phản ứng với cùng một tình huống khác nhau. Những điểm khác nhau giữa ba thế hệ dựa vào những yếu tố sau: (a) niềm tin và giá trị, (b) động lực, (c) quyết định, (d) thu nhập và chi tiêu, (e) phương thức học tập, (f ) phương thức marketing và giao tiếp, (g) môi trường rèn luyện và (h) phương thức quản lý và lãnh đạo. Bảng 3 sau đây cung cấp tóm tắt danh sách những điểm khác nhau trên. Bảng 3 Khác biệt giữa các thế hệ Khi đề cập đến niềm tin và giá trị, đạo đức nghề nghiệp và sự an toàn là mối quan tâm của thế hệ Baby Boomers. Thế hệ X lại đặt nặng giá trị vào sự đa dạng và tự do, trong khi thế hệ Y coi trọng phong cách sống và sự vui thú. Liên quan đến vấn đề động lực, Baby Boomers chịu sự thôi thúc bởi sự tiến bộ và trách nhiệm; thế hệ X thì bị thúc đẩy bởi chủ nghĩa cá nhân, trong khi những người thuộc thế hệ Y lại chịu sự thúc đẩy từ việc tự khám phá bản thân và những mối quan hệ xung quanh. Đối với thế hệ Baby Boomers, việc đưa ra quyết định còn dựa trên sự trung thành và họ có xu hướng rất quả quyết trong quyết định của mình. Thế hệ X thì dựa vào khả năng chuyên môn của bản thân nhiều hơn kinh nghiệm thâm niên khi đưa ra quyết định. Mặt khác, thế hệ Y lại xem mối quan hệ bạn bè là một yếu tố quan trọng trong việc đưa ra quyết định và đặt giá trị vào lòng tin. Thế hệ Baby Boomers có xu hướng tiết kiệm trong chi tiêu. Họ thường trả trước mỗi khi cần phải chi một khoản nào đó. Những thành viên thế hệ X lại có xu hướng quan tâm đến việc sử dụng tín dụng (như thẻ tín dụng, hay các khoản nợ) và thường sử dụng tiền để đầu tư. Trong khi đó, thế hệ Y lại không chắc chắn về việc họ nên sử dụng tiền như thế nào. Về vấn đề phương pháp học tập, Baby Boomers học tốt hơn thông qua việc vận dụng khả năng thính giác; họ chú trọng vào nội dung và độc thoại. Những người thuộc thế hệ X chuộng sử dụng cả thính giác và thị giác để phục vụ cho việc học tập; họ thường phát triển bản thân trong môi trường mà đối thoại được khuyến khích. Những thành viên thế hệ Y lại chủ yếu học tập thông qua phương tiện thị giác. Trong môi trường rèn luyện, thế hệ Baby Boomers thoải mái với môi trường lớp học hơn, nơi có không khí nghiêm túc và yên tĩnh. Những thành viên thế hệ X lại hài lòng với việc thảo luận bàn tròn nơi có không khí thoải mái hơn. Thế hệ Y lại ưa chuộng một môi trường không gò bó, khuôn mẫu và có nhiều tương tác. Khi nhắc đến phương thức quản lý và lãnh đạo, thế hệ Baby Boomers coi trọng việc kiểm soát và nắm thẩm quyền. Những thành viên thế hệ X lại là những người dám nghĩ dám làm, có tinh thần hợp tác và có năng lực. Thế hệ Y lại đánh trọng tâm vào sự đồng lòng và khả năng sáng tạo trong phong cách lãnh đạo của họ. Tóm lại, lý thuyết Thế hệ mang đến cả bốn yếu tố chính trong việc tìm hiểu những thành viên của mỗi thế hệ: (a) những xu hướng lặp đi lặp lại dựa vào loại thế hệ, (b) nhìn nhận rằng những năm hình thành tính cách bắt đầu từ giai đoạn tuổi thơ rất quan trọng vì nó là giai đoạn cuộc sống của một cá nhân khi cá nhân đó trải nghiệm nhiều và tiếp xúc với nhiều yếu tố bên ngoài khác nhau, (c) sự công nhận giai đoạn chu kỳ sống, và (d) thế hệ ở thời điểm cá nhân đó sinh ra và những đặc điểm tính cách đặc thù của thời điểm đó. Để hiểu về sự khác nhau giữa các thế hệ, lý thuyết Thế hệ là một công cụ vô cùng quan trọng. Bảng 4 dưới đây tóm tắt lại định nghĩa về thế hệ và lý thuyết Thế hệ đã được đề cập trong phần này. Sự khác nhau giữa các thế hệ là một tác nhân quan trọng tạo nên sự đa dạng trong giới kinh doanh, tuy nhiên tác nhân này thường bị coi nhẹ. Sự tương tác giữa các thế hệ có thể tích cực hoặc tiêu cực, tùy thuộc vào cách họ xử lý vấn đề. Thời đại thông tin tạo ra khoảng cách to lớn giữa thế hệ Baby Boomers và thế hệ Y. Bảng 4 Tóm tắt lý thuyết Thế hệ Để nắm bắt toàn diện ưu điểm của lý thuyết Thế hệ, điều quan trọng là liên kết những yếu tố khác lại với nhau. Bảng 5 sau đây mô tả năm nhóm thế hệ chính hiện đang tồn tại trong xã hội. Bảng 5 Năm nhóm thế hệ chính (Benckendor, Moscardo, & Pendergast, 2010, trang 2 - 5) Thế hệ Baby Boomers, những người nhận dạng bản thân là thế hệ duy tâm, hiện đang bước vào giai đoạn tuổi già. Không ít người thuộc thế hệ này hiện đang nắm giữ các vị trí lãnh đạo trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, cả của nhà nước sở hữu và tư nhân. Thế hệ “du mục” hiện tại chính là thế hệ X, thế hệ bị coi là chán nản, bi quan. Thế hệ X đang ở tuổi trung niên và sắp tới họ sẽ bước vào giai đoạn nắm quyền trong vòng đời của mình. Những người thuộc nửa đầu thế hệ X hiện đang chuyển dần vào các vị trí lãnh đạo thay cho những người tiền nhiệm sắp về hưu của thế hệ Baby Boomers. Thế hệ Y hiện là thế hệ người hùng, và thế hệ người hùng thường sở hữu những vị lãnh đạo có sức ảnh hưởng mãnh liệt ở phạm vi toàn cầu. Thế hệ tiếp nối thế hệ người hùng chính là thế hệ nghệ thuật, và hiện giờ đó là danh hiệu thuộc về thế hệ Z nằm ở cuối vòng tuần hoàn thế hệ. Tất cả những yếu tố kể trên của thuyết Thế hệ cho ta một phương pháp cụ thể để ngẫm lại quá khứ. Bên cạnh đó, nếu biết cách áp dụng hiệu quả, phương pháp đó cũng sẽ cho ta nhận thức sâu sắc cũng như giúp ta xác định các phương hướng kinh doanh trong tương lai. Trong chương sau, ta sẽ bàn sâu hơn về các đặc điểm của thế hệ Baby Boomers. THẾ HỆ BABY BOOMERS N ửa trước của thế hệ Baby Boomers sinh từ năm 1946 đến 1951, và nửa còn lại sinh từ năm 1952 đến 1964. Quan niệm về hưu trí của thế hệ này là “một phong cách làm việc chứ không phải phong cách sống”. Bối cảnh xã hội định hình nên thế hệ Baby Boomers Khuynh hướng và định hướng của thế hệ Baby Boomers được đẽo gọt chủ yếu bởi chiến tranh Việt Nam, vụ Watergate, các hoạt động nhân quyền, The Space Race(1) cùng cuộc cách mạng giới tính. (1) The Space Race: cuộc chạy đua vào vũ trụ là một phần của Chiến tranh Lạnh. Đây là cuộc cạnh tranh thám hiểm vũ trụ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô từ 1957 – 1975. Đặc thù của thế hệ Baby Boomers Thế hệ Baby Boomers rất tài năng và khéo léo. Họ cũng tin rằng những đổi thay trên thế giới có ảnh hưởng đến họ. Họ lớn lên thành những người độc lập và luôn phấn đấu để nắm quyền kiểm soát số phận của mình. Họ cũng có khuynh hướng thách thức chính quyền. Họ nghĩ họ có một thẩm quyền nhất định, và họ kỳ vọng về sự tưởng thưởng trong tương lai. Bên cạnh những đặc điểm đó, họ cũng được biết đến với những đặc điểm như khả năng làm việc nhóm, nhiều tham vọng, lạc quan và chu đáo trong mọi việc. Thái độ và Hành vi của thế hệ Baby Boomers John F. Kennedy, Gandhi, Martin Luther King, Malcolm X và Mẹ Teresa là những nhà lãnh đạo được thế hệ Baby Boomers yêu thích nhất. Thế hệ Baby Boomers ở Singapore hình dung rằng khi về già, mình sẽ dành nhiều thời gian cho gia đình và những đam mê riêng, sẽ gặp gỡ nhiều người hơn, và sẽ chăm sóc sức khỏe bản thân tốt hơn. Thế hệ Baby Boomers khá đông đảo. Cũng vì đặc điểm này mà thế hệ Baby Boomers có sức ảnh hưởng khá lớn trong phạm vi kinh tế và xã hội. Thế hệ này cũng thường xem bản thân đặc biệt hơn các thế hệ khác. Ở vai trò nhân công, thế hệ Baby Boomers đã phải chịu sự suy thoái kinh tế. Nền kinh tế yếu đi khiến họ mất những công việc họ đã làm cả đời. Đối với công ty chủ quản của mình, những nhân viên thế hệ Baby Boomers rất đề cao sự trung thành. Thế hệ này thích được làm việc càng lâu càng tốt. Họ muốn tiết kiệm phần thu nhập đó cho tuổi già, vì họ tin rằng tuổi thọ con người càng lúc càng kéo dài nhờ vào công nghệ và y học tiên tiến. Trong 3.000 người thuộc thế hệ Baby Boomers ở Singapore, có đến hơn nửa muốn được làm việc khi còn có thể. Trong số đó, cứ mười người thì có ba người mong muốn được về hưu ở tuổi 65 – tận ba năm sau tuổi nghỉ hưu 62 của Singapore. Thế hệ Baby Boomers coi mình là trung tâm và luôn chủ động với các quyết định. Họ dựa vào nỗ lực và kỹ năng của chính bản thân để thăng tiến trong công việc. Cuốn sách này sẽ không đi sâu vào phân tích các nhà kinh doanh thuộc thế hệ Baby Boomers. THẾ HỆ X T hế hệ X gồm những người sinh từ năm 1965 – 1980. Tuy nhiên, theo Barney, thế hệ X bao gồm cả những người sinh năm 1963 – 1977. Phần lớn mọi người đều cho rằng thế hệ này chính thức bắt đầu sau năm 1964, cũng là lúc sự tăng trưởng tỷ lệ sinh chính thức chấm dứt. Nhiều người khác lại xét theo các đặc điểm tính cách chung để kết luận rằng khởi điểm của thế hệ này rơi vào khoảng 1960 – 1964. Thế hệ X là con cái của thế hệ Baby Boomers, và họ là “sản phẩm” của kỷ nguyên Tin học. Một vài sự kiện khó quên với thế hệ X là vụ nổ tàu con thoi Challenger, vụ bắt giữ Rodney King, bệnh AIDS và sự tan rã của Liên bang Xô viết. Bối cảnh xã hội định hình nên thế hệ X Không ít người thuộc thế hệ X là con cái của những người mẹ phải đi làm kiếm tiền thay vì ở nhà làm nội trợ. Vào những năm 70 và 80, khi thế hệ X vẫn còn ở tuổi trẻ em, thanh thiếu niên đã có nhiều sự kiện đáng kể như vụ khủng hoảng con tin Iran, Tổng thống Nixon từ chức, vụ khủng hoảng dầu mỏ, tỷ lệ ly hôn tăng cao, chiến dịch Milk-carton Kids(1) và việc cắt giảm nhân sự ở các công ty lớn. (1) Chiến dịch in hình trẻ em mất tích lên vỏ hộp sữa giấy, bắt đầu từ năm 1985 ở Mỹ vì thời đó chưa có hệ thống dò tìm trẻ em mất tích toàn quốc. Thời thế hệ X trưởng thành là thời của nhiều thay đổi, cũng như sự bấp bênh về cả tài chính lẫn các vấn đề gia đình. Lúc này, sự đa dạng, phong phú trong nhiều lĩnh vực xã hội phát triển mạnh khiến tầm quan trọng của các giá trị truyền thống bị giảm đi không ít. Ở một góc nhìn khác, có ý kiến cho rằng thế hệ X đã được trưởng thành trong sự ổn định tương đối, vì khi đó quân đội Mỹ đang sở hữu một số ít phần lãnh thổ hải ngoại. Đặc thù của thế hệ X Vì xã hội ngày càng ổn định, thế hệ X đã không thừa hưởng được các đặc điểm nổi bật của thế hệ phụ huynh, như: tham vọng cao hay sự siêng năng. Đổi lại, sự không chắc chắn, bấp bênh và những thay đổi liên tục đã khơi dậy tính hoài nghi, giễu cợt trong họ. Thế hệ này rất ghét những mô tả trên. Thế hệ này còn được gọi là thế hệ thứ mười ba vì họ là thế hệ thứ mười ba tính từ khi hiến pháp Mỹ được phê chuẩn. Thế hệ X được tiếp xúc với công nghệ vi tính, và đó là lý do cho tác phong xử lý thông tin như vi tính của họ. Tương tự như máy vi tính, họ cũng có khả năng đa nhiệm hoặc xử lý song song nhiều thông tin. Họ có thể nhận thông tin từ nhiều nguồn cùng lúc. Nhiều người thuộc thế hệ X đã học cách dựa vào những kỹ năng tự thu thập của bản thân hơn là chương trình giáo dục chính thức. Thế hệ này được nhận mức giáo dục thấp hơn thế hệ Già và thế hệ Baby Boomers. Thế hệ X nói chung chính là những kẻ sống sót qua khó khăn; họ biết cách tự lo cho bản thân. Thế hệ X rất coi trọng gia đình. Dù họ có bận đến mấy, họ vẫn sẽ dành được thời gian cho gia đình của mình. Thái độ và Hành vi của thế hệ X Khi những người sinh từ 1925 đến 1942 ngừng làm việc và thế hệ Baby Boomers bắt đầu về hưu, những thành viên thế hệ X dần dần thay thế những vị trí quản lý và lãnh đạo từ người tiền nhiệm của họ. Một số tấm gương tiêu biểu của thế hệ X làm lãnh đạo như Bill Gates, George Bush, Nelson Mandela và Ronald Reagan. Trong hầu hết các vấn đề, những người thuộc thế hệ X thường được mô tả rằng họ không có mối dây liên kết nào giữa Baby Boomers và thế hệ Y. Họ là thế hệ số đầu tiên vì sự phát triển công nghệ có một bước cải tiến vượt bậc trong thời đại của họ. Những thành viên của thế hệ này lớn lên khi công nghệ máy tính đang phát triển. Tandy và Apple bắt đầu quảng bá máy tính của họ vào năm 1976. Một số thành viên nổi lên nhờ việc sống sót thành công qua thời đại số như Mark Andreessen của Netscape, Michael Dell của công ty máy tính Dell, Je Bezos của Amazon.com, cùng Jerry Yang và David Filo của Yahoo! Có khoảng 51 đến 52 triệu người thuộc thế hệ X hiện đang thuộc lực lượng lao động của Mỹ. Vì những người này đã chứng kiến nhiều lần tổ chức lại nhân sự và tái cấu trúc trong công ty bố mẹ họ từng làm nên họ phát triển thái độ làm việc trung bình và mục tiêu hướng tới của họ là làm việc để sống. Những người thế hệ X mong muốn sự linh hoạt và động lực trong công việc của họ. Nếu công việc nhàm chán hay thiếu tính thử thách, họ có xu hướng thay đổi công việc, điều này dẫn đến việc sự thiếu an toàn trong công việc. Trái ngược với thế hệ Baby Boomers, những người thế hệ X cố gắng hết sức để được chọn vào vị trí có khả năng nhận được những cơ hội thăng tiến, mang tính cạnh tranh, mạo hiểm, bổng lộc cao, cùng sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống. Ưu tiên hàng đầu của những người thế hệ này là có sự cân bằng trong cuộc sống và công việc trong những năm làm việc chính thức. THẾ HỆ Y T hế hệ Y gồm những người sinh từ năm 1981 – 1998. Thế hệ này còn được gọi bằng cái tên khác là thế hệ Mạng. Thế hệ này cũng có số thành viên đông đảo nhất, chỉ sau thế hệ Baby Boomers. Bối cảnh xã hội định hình nên thế hệ Y Góc nhìn của thế hệ này bị tác động rất nhiều bởi những dạng khủng bố khác nhau, cũng như sự sẵn sàng mọi lúc của thông tin. Thế hệ Y được cho là khác biệt hẳn so với các thế hệ trước, và điều này là kết quả của sự ảnh hưởng từ công nghệ tân tiến đến cuộc sống của từng người. Bốn yếu tố trọng yếu nhất tác động đến thế hệ này là tội ác, truyền thông, các vấn đề kinh tế, và sự thay đổi về hình thái gia đình. Thế hệ Y được tạp chí Newsweek gọi là “Thế hệ 9 - 11” – theo vụ khủng bố gây nên trận khủng hoảng báo hiệu sự kết thúc của thời kỳ hòa bình. Không ít tác giả (Arhin & Johnson-Mallard, 2003; Billings & Kowalski, 2004; Martin, 2005; Murray, 2004; Nussbaum, 2003; Rodriguez et al., 2003; Zemke et al., 2000) đã từng đặt tên chothế hệ Y là thế hệ Millenial, thế hệ Nexter, thế hệ MTV, thế hệ Tiếng vang của Boomers, thế hệ Internet, thế hệ Kỹ thuật số, thế hệ Mạng, thế hệ Tiếp theo, thế hệ WWW, thế hệ E, N Gens, thế hệ Nintendo, thế hệ Tại sao, thế hệ Y2K, thế hệ O(1). (1) Obese: béo phì. Đây là thế hệ đầu tiên được sinh ra trong thời đại Thông tin. Thế hệ này như là thế hệ đầu tiên bắt buộc phải đương đầu với tỷ lệ gia đình tan vỡ cao hơn; vì theo số liệu năm 1993, gần một phần ba thế hệ Y thuộc gia đình đơn thân mà hầu hết là vắng bóng người cha. Có phân nửa số người thuộc thế hệ Y đã từng trải qua cảnh cha mẹ ly thân hoặc ly hôn. Điều này tạo nên cảm xúc tức giận trong họ, và họ bước vào tuổi trưởng thành với cảm xúc tiêu cực đó cùng phức cảm tự ti, do vào khoảng thời gian họ trưởng thành, năm 1987, gần 70% những người làm mẹ phải để những đứa con tuổi đi học ở nhà khi ra ngoài làm việc. Bối cảnh này cũng chính là lý do khiến thế hệ Y thường thích có mẹ ở nhà làm nội trợ hơn. Thế hệ Y như là những người có thái độ tích cực và sở hữu những giá trị đạo đức khác với những thế hệ trước. Những khoảnh khắc mang tính xây dựng căn tính đối với những người thuộc thế hệ Y bao gồm thảm họa ngày 11/9, vụ bê bối Clinton Lewinsky, và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ. Các yếu tố mạnh mẽ nhất góp phần định hình nên thế hệ Y là: - Những thay đổi nhanh chóng do tác động của công nghệ sinh ra sự bàng quan trước những giá trị truyền thống và sự ổn định - Sự thiếu hụt quan tâm từ cộng đồng - Sự bội thực thông tin từ truyền thông - Quá trình trưởng thành thiếu sự dẫn dắt của thế hệ đầu tiên - Vai trò giới tính bị phân định rạch ròi - Chất lượng cuộc sống đi xuống Một số “ký ức tuổi thơ” của những người thuộc thế hệ Y bao gồm: cuộc tuần hành biểu tình The Million Man March, những buổi họp mặt của hội thánh Tin Lành Promise Keepers, phiên tòa của O. J. Simpson và kênh truyền hình MTV. Robert Pittman, người sáng lập kênh MTV, đã nói rằng những em bé sinh vào thế hệ này có thể vừa xem ti-vi, vừa làm bài tập và nghe nhạc cùng một lúc. Thế hệ Y bị tác động rất nhiều bởi mạng Internet, và rằng khi bàn luận về phong cách nhận thức của họ, ta không thể không xét tới những ảnh hưởng không nhỏ của MTV và Nintendo trong quá trình họ trưởng thành. Từ trong tiềm thức, thế hệ Y đã hoàn toàn sáp nhập và tiếp thu sự tồn tại của thế giới mạng vào cuộc sống của mình. Việc đón nhận và thành thạo công nghệ thông tin từ sớm của thế hệ Y chính là bước đệm cho sự chuyển giao quyền lực thế hệ, giúp họ vượt qua thế hệ X – những người lớn lên trong khi công nghệ thông tin chỉ mới bắt đầu thành hình. Thế hệ Y là “những người đầu tiên sinh ra trong những gia đình đã cài đặt sẵn máy vi tính và được làm quen với trò chơi điện tử từ bé”. Đặc thù của thế hệ Y Khi nhìn vào bối cảnh xã hội, vào các yếu tố điển hình và những tập tính có thể được dự đoán qua tính tuần hoàn của thế hệ, ta có thể xác định được một vài đặc điểm chính của thế hệ Y. Thế hệ Y có bảy đặc điểm tính cách chính. Xét tổng thể, họ đặc biệt, được bảo bọc, tự tin, thích làm việc theo nhóm, tuân thủ quy ước chung, thường bị áp lực, và rất quyết tâm thành công. Những người thuộc thế hệ Y luôn nghĩ rằng bản thân đặc biệt vì được ra đời vào thời đại kỹ thuật số. Họ tự hào về khả năng vận dụng công nghệ của mình. Hầu hết những người thuộc thế hệ Y cũng thuộc những gia đình không đông con. Và thế hệ này thường nhận được sự kỳ vọng cao. Thế hệ Y là thế hệ được bảo bọc bởi những chính sách mới ra đời vì sự an nguy của họ. Mũ bảo hiểm đối với xe hai bánh và đai an toàn đối với ô-tô là những quy định bắt buộc với họ. Ngoài ra còn có những ý tưởng khác như việc lắp đặt hàng rào quanh hồ bơi được nêu lên để bảo đảm sức khỏe và phúc lợi của họ. Đây là những luật lệ áp dụng với mọi người, nhưng thời điểm ra đời của chúng lại chính là những năm tháng hình thành tính cách của thế hệ Y. Thế hệ này cũng lo lắng về những vấn đề an ninh, như bạo lực học đường, tội ác hay khủng bố. Những người thuộc thế hệ Y là những người tự tin. Họ biết chấp nhận những điều mơ hồ. Họ đã trải qua nền tảng kinh tế tốt đẹp, nên ngay cả những dao động kinh tế gần đây cũng không thể tác động đến mức độ tự tin của họ. Với họ, điều duy nhất chắc chắn trên thế giới này chính là khái niệm mơ hồ, không chắc chắn. Họ được trải nghiệm nhiều hoạt động nhóm trong những năm tháng tuổi trẻ hơn các thế hệ khác. Cụ thể, trường lớp rất khuyến khích các hoạt động theo đội nhóm. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng việc họ thích làm việc theo nhóm không có nghĩa là họ biết cách làm việc nhóm hiệu quả. Thế hệ Y có những hoài bão rất bình thường, gần gũi về sự nghiệp, sự cân bằng giữa công và tư, cũng như về quyền công dân. Những hoài bão này chính là hệ quả của thế hệ trước, thế hệ của những người thường tập trung vào công việc hơn là sự hài hòa trong gia đình. Thế hệ Y được cho là luôn luôn cảm thấy áp lực. Hầu hết các bậc cha mẹ có con thuộc thế hệ Y đều đặt vào con mình những kỳ vọng cao xa và suốt ngày yêu cầu con cái phải tham gia các hoạt động ngoại khóa. Thế hệ Y chính là thế hệ trí tuệ nhất từ trước đến nay. Không ít người thuộc thế hệ Y coi tri thức là thành công. Ngoài ra, thế hệ này cũng là thời điểm các phương pháp giảng dạy mới và tiến bộ hơn được áp dụng. Những sự kiện chính trong những năm quyết định đối với thế hệ Y cùng những tác động của chúng lên hành vi của thế hệ này đã được tổng hợp trong Bảng 6 bên dưới. Bảng 6 Những sự kiện chính và hành vi của thế hệ Y (Yeoman et al., 2011) Thế hệ Y là thế hệ Tại sao và sự xuất hiện của thế hệ này là “cuộc xâm lăng của người ngoài hành tinh”. Thế hệ này cũng được mô tả như sau: thiếu kiên nhẫn, dễ thích nghi, sáng tạo, năng suất cao, cảm xúc tê liệt, đa nghi, khó nản lòng, thiếu tôn trọng, thái độ thẳng thừng, giỏi chịu đựng và tận tâm. Một trong những khác biệt lớn nhất ở thế hệ này chính là thông tin và công nghệ giao tiếp. Thái độ và Hành vi của thế hệ Y Thế hệ Y đã chuyển trọng tâm của mình từ “thực sự chất lượng” sang “thực sự thoải mái trong tâm hồn”, hay nói cách khác, mục tiêu của họ là tìm đến lối sống bớt căng thẳng, và động cơ có thể là vì họ đã thấy bố mẹ, ông bà mình từng chú tâm quá nhiều vào công việc và bỏ mặc những khía cạnh khác của cuộc sống. Về công nghệ, tầm ảnh hưởng của nó đến thế hệ Y không dừng lại ở cách nó thay đổi nhận thức về không gian và thời gian của họ. Các nhà nghiên cứu từ Đại học Nam California và Viện Công nghệ Massachusetts cho rằng công nghệ còn tác động đến khả năng nhập và xử lý thông tin từ nhiều nguồn khác nhau cùng lúc của thế hệ Y. Công nghệ cũng ảnh hưởng tích cực đến kỹ năng vận động, khả năng cảm nhận không gian và khả năng lên chiến lược của thế hệ Y, khiến họ vượt trội hơn thế hệ X.Công nghệ được ví như là không khí đối với thế hệ Y. Trẻ em chính là những “nhà cầm quyền”: chúng kiểm soát lĩnh vực công nghệ kỹ thuật số ở nhà. Thế hệ Y cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ các loại hình âm nhạc (ví dụ như nhạc rap, R&B, gospel, hip-hop) và thời trang mang tính xây dựng cá tính. Họ phát triển nhiều loại ngôn ngữ. Họ cũng tin vào sự đặc biệt của bản thân, thế nên họ thường tự cho mình là trung tâm. Thế hệ Y không hồi đáp lại bất cứ điều gì nằm ngoài phạm vi thực tại của bản thân, và họ liên tục chịu tác động từ thế giới thời trang và âm nhạc. Thế hệ Y đã trở thành những người tiêu dùng “khó chiều”. Vào năm 1998, thế hệ này chính là lý do khiến nhiều công ty đã đầu tư đến 168 tỷ đô-la vào những chiến dịch quảng cáo nhắm tới đối tượng khách hàng ở độ tuổi 4 – 19. Thế hệ Y có sức ảnh hưởng vô cùng lớn đến ngành công nghiệp quảng cáo. Mỗi sản phẩm được họ bàn luận tới đều tạo được hiệu ứng lan tỏa. Các phóng viên, những chiến dịch kích thích suy nghĩ và sự mong đợi ở thế hệ Y, cũng có sức ảnh hưởng không nhỏ. Các nghệ sĩ và vận động viên cũng tác động đến thế hệ này. Mỗi sản phẩm mà họ quảng cáo đều sẽ được tiêu thụ bởi các khách hàng thế hệ Y. Mỗi thế hệ đều có những đặc điểm tính cách riêng. Thế hệ Già đã nghỉ hưu, vị trí của họ ở các công ty, tập đoàn bị bỏ trống; thế hệ Baby Boomers cũng đang về hưu dần; thế hệ X lại không đông. Vì vậy, thế hệ Y có lẽ đã sẵn sàng tác động đến các mô hình kinh doanh cũng như tái định nghĩa lại hệ thống tổ chức. Nếu thế hệ X được gọi là thế hệ lạc thì thế hệ Y chính là thế hệ tìm thấy, với ý rằng thế hệ này dường như thừa hưởng được rất nhiều tố chất tốt đẹp của ba thế hệ đi trước. Thế hệ Y thừa hưởng và phát triển những niềm tin truyền thống, sự lạc quan, sự tin tưởng, sự quyết tâm và tinh thần trượng nghĩa của thế hệ Già. Họ cũng sở hữu ý thức làm việc nhóm của thế hệ Baby Boomers cũng như những năng lực về kỹ thuật của thế hệ X. Thái độ khi làm việc của thế hệ Y có thể được mô tả như sau: tích cực theo tập thể; lạc quan, bền bỉ, có khả năng đa nhiệm, và nhạy bén với công nghệ. Tuy nhiên, thế hệ Y vẫn có một số điểm yếu như: cần sự quản lý, kèm cặp của cấp trên; cần cấu trúc có sẵn; cũng như thiếu kinh nghiệm giải quyết những đối tượng hoặc vấn đề khó khăn. Mỗi thế hệ đều chịu tác động từ sự thức tỉnh về tâm linh và những sự kiện xã hội, cũng như sự tồn tại hiển nhiên của tình trạng “tuyệt giao hoàn toàn với những đặc điểm thường được cho là đặc trưng của thế hệ X”. Khi bàn về công nghệ trong thế hệ Y, phải công nhận rằng ảnh hưởng trực tiếp của công nghệ tới thế hệ này không bao quát toàn thế hệ. Những yếu tố tác động khác – như các sự kiện, tình hình kinh tế, cách nuôi dạy con cái – không tác động tới mọi thành viên của một thế hệ. Tuy công nghệ kỹ thuật số đã thâm nhập vào rất nhiều khía cạnh của xã hội, nhưng không phải cả cộng đồng đều có thể truy cập vào công nghệ một cách dễ dàng. Tuy gia đình, bạn bè và thành tích cá nhân rất quan trọng với thế hệ Y, họ vẫn đặt trải nghiệm ở cấp độ quan trọng hơn. Thế hệ Y sống trong nền văn hóa tốc độ cao. Thông tin luôn sẵn sàng ở khắp nơi. Họ có những mối quan hệ linh động và những niềm tin luôn thay đổi. Sự đa dạng mang lại ý nghĩa và sự tươi trẻ cho cuộc sống của giới trẻ. Đây chính là trải nghiệm tuyệt vời nhất. Thế hệ Y không dễ dàng chấp nhận những quy trình lặp lại, hay nói đúng hơn là họ hoàn toàn không muốn. Nếu được lựa chọn, họ sẽ không chọn cách sống đơn điệu như vậy. Cái họ muốn là sự khó lường đưa họ đến những trải nghiệm tuyệt vời. Phần lớn (cụ thể là 53%) thế hệ Y có quan điểm rằng mục tiêu chính của cuộc sống là tận hưởng nó, cũng như đạt được các thành tựu cá nhân. Giới trẻ luôn háo hức được tạo nên những thay đổi tích cực cho thế giới, và họ cho rằng thế giới thực sự cần những thay đổi vững chắc. Cụ thể, khoảng 40% thế hệ Y thể hiện rằng họ sẵn sàng giúp đỡ những đối tượng cần họ. Họ sẵn sàng đóng góp thời gian và tiền bạc cho các tổ chức phúc lợi xã hội, các dịch vụ y tế hay các tổ chức cứu trợ và phát triển. Gu thời trang của thế hệ Y không những hợp mốt mà còn thể hiện tinh thần cộng đồng. Những món đồ họ khoác lên người kết nối họ với một nền tiểu văn hóa cụ thể. Thế hệ Y được gọi tên là thế hệ Mosaic vì họ là thế hệ đầu tiên thể hiện lối suy nghĩ phi tuyến tính qua cách sống đa sắc, làm mọi việc theo bất cứ cách nào mình chọn. Thế hệ Y rất hào phóng và cởi mở khi thể hiện lòng nhiệt huyết đối với các chương trình nhân đạo. Cuộc khảo sát giữa nhiều thế hệ đã cho thấy thế hệ G. I. (sinh vào khoảng năm 1901 – 1924), và thế hệ Y có nhiều quan điểm tương đồng về lòng trắc ẩn, sự khéo léo và đạo đức nghề nghiệp. Tính cách và thái độ của thế hệ Y bị tác động bởi công nghệ nhiều hơn thế hệ X. Không ít tài liệu đã thể hiện mối liên hệ giữa thế hệ Y với công nghệ. Máy vi tính là một phần thiết yếu trong cuộc sống của những người thuộc thế hệ Y. Tuy chưa chắc họ đã có khả năng ra trận, nhưng họ vẫn không xa lạ gì với súng đạn, chất gây nghiện và bạo lực. Thế hệ Y là thế hệ thông thạo công nghệ nhất, vì cứ mười thiếu niên lại có ít nhất chín em sở hữu máy vi tính có kết nối mạng ở nhà. Chưa kể, hơn 50% các em ở độ tuổi từ 12 – 17 sở hữu điện thoại di động. Các em thiếu niên rất nhạy bén với công nghệ và khi được giao nhiệm vụ, các em thường chọn được làm việc theo nhóm. Theo tạp chí Fortune (Meet the Future, 2000), các em thiếu niên rất giỏi tạo trang web cũng như hướng dẫn nhau cách “vận động hành lang” để người lớn thông qua những đạo luật các em muốn. Chỉ mới vài năm trước, ta khó mà tưởng tượng được rằng thế hệ này lại giỏi công nghệ đến vậy ở thế kỷ 21. Ngoài công nghệ, góc nhìn khác nhau về thế giới và đức tin cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến thế hệ này. Trong vài năm vừa qua, thế hệ Y đã bắt đầu đến tuổi đi làm. Điểm khác biệt rõ rệt của thế hệ Y so với các thế hệ khác ở sự thẳng thắn khi bày tỏ nguyện vọng của mình ngay cả trong môi trường làm việc. Họ ghét bị quản lý quá chi li và thích mô hình làm việc không phân cấp nhân viên. Qua dữ liệu về số người thuộc thế hệ Y dự định chuyển công tác vào các công ty, tổ chức trong tương lai, thế hệ Y được dự đoán là có khả năng tác động đến thị trường nhân công tương tự như thế hệ Baby Boomers. Thế hệ Y cũng không trung thành với cấp trên bằng thế hệ X - phụ huynh của mình. Những mục tiêu của thế hệ Y cũng không khác các thế hệ trước là bao. Thế hệ Y hay bông đùa và không nghiêm túc với công việc. Ngoài thừa hưởng bản năng thúc đẩy thay đổi của bố mẹ mình, họ còn sở hữu trí thông minh có khả năng thay đổi vật chất một cách kín đáo. Thế hệ Y thích giao tiếp qua email và tin nhắn hơn là nói chuyện qua điện thoại bàn. Họ cũng ưu tiên điện thoai di động để tìm kiếm thông tin trong cuộc sống hàng ngày. Thế hệ Y thích làm việc trong môi trường khuyến khích cách giao tiếp cởi mở hai chiều với cấp trên. Nhiều người thuộc thế hệ Y rất sẵn sàng đón nhận lời nhận xét; họ cũng độc lập, suy nghĩ đa diện và năng tìm kiếm cơ hội để sáng tạo. Thế hệ Y trân trọng sự đa dạng và khác biệt giữa con người với nhau, vì vậy họ thường giỏi giao tiếp cộng đồng, qua đó thi đua để thành công ở tầm quốc tế. Tuy vậy, với những đặc điểm tính cách như đòi hỏi cao, tự tin, thích được khen, thích kết quả và quyền hạn tức thì, chưa kể cách xử lý mối quan hệ của họ, ta có thể kết luận rằng thế hệ Y khá khó kiểm soát. Những người thuộc thế hệ Y làm việc để sống chứ không sống để làm việc. Thế hệ Y rất thực tế. Họ cũng có nhiều kinh nghiệm với công nghệ và công nhận rằng nó là một phần cơ bản của cuộc sống từ khi họ ra đời. Những người thuộc thế hệ Y là những nhân viên thông thái, biết học hỏi trong công việc, có khả năng giao tiếp, trải nghiệm và xây dựng hệ thống kiến thức của mình. Dù ở độ tuổi nào, họ đều đề cao những ý tưởng mới của bản thân. Quan niệm của họ là chừng nào còn sống, họ sẽ luôn học hỏi. Một khi công việc hiện tại không còn khiến họ thấy hứng thú hay không có cơ hội phát triển, những nhân viên thế hệ Y sẽ đổi việc khác. Tuy thế hệ Y rất giỏi công nghệ nhưng trong các mối quan hệ, họ vẫn thích giao tiếp giữa người và người hơn, cụ thể là họ thích làm việc cho bạn bè hoặc cho những người cố vấn của mình hơn. Điều này có lẽ là do thế hệ Y không làm việc chỉ vì đồng lương, mà mục tiêu của họ là thử thách bản thân để tìm ra ý nghĩa cuộc sống. Họ cũng trân trọng thành tựu cá nhân hơn là những phần thưởng bên ngoài. Thế hệ Y cân bằng cuộc sống và công việc bằng sự linh động trong lịch làm việc của mình. Họ cũng thích được thỏa mãn cấp tốc. Thế hệ Y không e sợ những danh hiệu trong công việc, và họ luôn muốn được nhìn nhận là một cộng sự đáng tin cậy. Các “binh lính” của “quân đoàn” thế hệ Y là những người có trách nhiệm và giỏi làm việc đa nhiệm. Tuy nhiên, họ phân bổ thời gian rất kém và dễ chán những công việc tầm thường vô vị. Khái niệm về tốc độ của họ bị kiểm soát bởi công nghệ. Sự sẵn có và nhanh chóng của việc tải nhạc, tải thông tin, cũng như nhắn tin cho nhau khiến họ đòi hỏi sự cấp kỳ nhiều hơn. Tính cách này tác động không nhỏ tới kế hoạch lâu dài của thế hệ Y. Họ không đủ kiên nhẫn để theo đuổi những dự định dài hạn, ví dụ như một kế hoạch năm năm. Nhiều người trong số họ chỉ nhìn xa được đến mười hai tháng tới mà thôi. Điện thoại di động không chỉ là một công cụ giao tiếp cá nhân mà còn là một phụ kiện thời trang, và giờ đây nó đã trở thành một biểu tượng cho thế hệ này. Với một sinh viên 19 tuổi, chiếc điện thoại chẳng khác nào một phần thân thể của cậu, giúp cậu kết nối với mọi thứ. Với khả năng kết nối cấp kỳ trong tầm tay, công nghệ đã tác động đến quan niệm của thế hệ Y về thời gian và không gian. Thế hệ Y chính là thế hệ ưu tú tiếp theo. Thế hệ Y là những công dân toàn cầu thực thụ đầu tiên. Các nhà nghiên cứu quả là luôn có lý do cho những lời khẳng định hay phân loại của mình. Thế hệ Y trưởng thành trong nền kinh tế rộng lớn của thế kỷ 20. Thế giới tuổi thơ của họ có sự tồn tại của bệnh AIDS, của những trận xả súng ở trường học, bắt cóc trẻ em, bạo lực trên ti-vi, trong cuộc sống, trong trò chơi điện tử và chất gây nghiện tổng hợp. Thế hệ Y rất thích các hoạt động nhóm. Họ cũng thích được dẫn dắt, chỉ bảo. Họ giao tiếp toàn cầu, nhưng không dừng lại ở đó, nhờ những tiến bộ công nghệ mà chính bản thân họ cũng là thế hệ đa chủng tộc nhất từ trước tới giờ. So với các thế hệ trước, thế hệ Y rất hiếm khi chấp nhận người khác. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng thế hệ Y là thế hệ được khen ngợi, cung phụng, che chở và bảo vệ nhất. THẾ HỆ X & THẾ HỆ Y T hế hệ X và thế hệ Y có rất nhiều điểm tương đồng, và bên cạnh đó cũng có không ít khác biệt. Những điểm tương đồng và khác biệt này thường rất trái ngược nhau. Lý do cho hiện tượng này có thể là những sự kiện xã hội và lịch sử đã xảy ra ở thời kỳ hình thành tính cách – giữa độ tuổi thiếu niên và trưởng thành trong cuộc đời những người thuộc hai thế hệ này. Những sự kiện này định hình nên thái độ, đặc điểm và các giá trị của một thế hệ. Những kỳ vọng và thái độ đối với công việc mà cụ thể là với sự lãnh đạo, đạo đức và các giá trị nghề nghiệp của mỗi thế hệ đều khác nhau. Không ít nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh được điều này. Khoảng thời gian thế hệ X bắt đầu đi làm cũng là lúc nền kinh tế suy thoái nặng nề. Khi ấy, việc các sinh viên vừa ra trường phải nhận các công việc tạm thời hay không liên quan đến ngành học của mình không phải là chuyện lạ. Thế hệ X phải chứng kiến bố mẹ mình gánh chịu hậu quả từ việc outsource(1) cũng như tình trạng cắt giảm hay tối ưu hóa quy mô công ty. Vì vậy, họ khá chua cay với chủ đề bảo hộ việc làm và sự trung thành của công ty, trái ngược với các thế hệ trước. Họ làm việc với tinh thần của khẩu hiệu “Do more with less”(2) và của những loạt truyện tranh như “Dilbert”(3). Thế hệ X có tinh thần kinh doanh rất mạnh mẽ. Những người không khởi nghiệp đều vào làm trong những công ty lớn, rồi sau đó họ cũng nghỉ việc để khởi nghiệp hoặc để đến công ty khác nhỏ hơn nhưng nhiều tiềm năng kinh doanh hơn. (1) Outsource: thuê nhân công ngoài. (2) Tăng hiệu quả, giảm chi phí. (3) Loạt truyện tranh biếm họa của Mỹ xoay quanh nhân vật kỹ sư Dilbert, khắc họa thế giới văn phòng của các ông chủ và nhân viên. Mặt khác, thế hệ Y lại được tôi luyện trong một nền kinh tế phát triển chưa từng thấy ở một kỷ nguyên thịnh vượng. Thế hệ Y trưởng thành trong “thập kỷ Trẻ em”, khi các phương pháp tránh thai, các loại thuốc tăng khả năng sinh sản, các bộ luật bảo vệ trẻ em trở nên phổ biến, và những thuyết nhân văn về tâm lý trẻ em trong giáo dục ở trường và ở nhà bắt đầu xuất hiện. Sự đói khát không khoan nhượng của truyền thông khiến thế hệ Y trở thành chứng nhân cho những sự kiện thảm khốc, như: vụ xả súng Columbine, vụ khủng bố ngày 11 tháng 9, và vụ ở thành phố Oklahoma, cùng vụ luận tội Clinton. Thế hệ Y cũng chưa từng sống thiếu máy vi tính, kênh MTV, kênh CNN, đĩa CD, trò chơi điện tử, máy nghe nhạc Walkman, truyền hình cáp, máy fax hay máy rút tiền ATM. Thế hệ Y rất nhạy bén với truyền thông, không giống những thế hệ đi trước, và nguyên nhân chính là sự sẵn sàng 24/7 của truyền thông trên toàn thế giới. Nhờ đó mà mối quan hệ giữa con cái và bố mẹ được củng cố, và phần lớn những người thuộc thế hệ Y rất thân thiết với bố mẹ mình. Những kênh truyền hình như Nickelodeon sinh ra để dành cho thế hệ Y. Tạp chí American Demographics đã kết luận rằng trong 24 giờ, thời gian thế hệ Y tiêu tốn cho công nghệ lên đến... 31 giờ đồng hồ – đó là nếu cộng riêng từng khoảng thời gian họ lướt mạng Internet, xem ti-vi, nghe đài phát thanh và đọc tạp chí. Tuy nhiên, họ lại làm tất cả những việc này cùng lúc, hay còn được gọi là hiện tượng “đa nhiệm truyền thông”. Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng nhờ ảnh hưởng của sự phát triển công nghệ, thế hệ Y đã được lớn lên với những công cụ giúp tiết kiệm thời gian cũng như sự thoải mái sáng tạo. Cũng nhờ công nghệ, họ đã thay đổi các yếu tố sinh lý của cách họ học tập. Thế hệ Y được mô tả là “trung tâm cuộc sống của bố mẹ họ” và là thế hệ “nóng” nhất thế kỷ vừa qua, khác hoàn toàn với những đứa trẻ bị bỏ mặc ở nhà của thế hệ X. Sự quan tâm thái quá của các bậc phụ huynh dành cho những đứa con thế hệ Y của họ vượt hẳn ngưỡng tối đa mà các nhà nghiên cứu đã dự đoán lúc đầu. Gần 60% thanh niên thế hệ Y chọn về sống với bố mẹ sau khi tốt nghiệp đại học, và 32% trong số đó ở nhà bố mẹ tới hơn một năm. Nhóm thanh niên này được gọi tên là “những đứa trẻ boomerang”. Thế hệ X vs Thế hệ Y: tương đồng và khác biệt Cả hai thế hệ đều có thái độ làm việc, các giá trị quan trọng và nhiều hành vi tương tự nhau. Cả hai thế hệ đều có bản năng giải quyết vấn đề. Mặt khác, cả hai thế hệ X và Y đều khá thiếu kiên nhẫn. Hai thế hệ này rất giỏi thích ứng. Cả hai thế hệ đều thích môi trường vui vẻ, thoải mái, không quá cứng nhắc và những công việc có ý nghĩa. Thế hệ Y không để công việc định nghĩa bản thân mình, thường không tuân theo luật lệ và quy định. Thế hệ Y thường tìm kiếm những công cụ và công nghệ mới nhất. Thế hệ Y rất cạnh tranh và thích làm việc freelance(4) hơn. (4) Làm việc tự do. Thế hệ Y đang dần trở thành những người đưa ra quyết định trong các doanh nghiệp. Họ rất coi trọng sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống riêng, giỏi đa nhiệm và luôn hết lòng vì mục tiêu học hỏi cả đời và tích lũy những kỹ năng có thể trao đổi. Họ thường muốn nghe nhận xét ngay tức thì và họ giỏi chung sống với sự đa dạng trong và ngoài công sở. Thế hệ X và thế hệ Y có rất nhiều điểm tương đồng về thái độ làm việc, các giá trị họ coi trọng và nhiều hành vi. Vì vậy, không ít nhà nghiên cứu có quan điểm rằng họ chỉ thuộc cùng một thế hệ mà thôi. Theo Pew Research Center for the People & the Press (2007), cả hai thế hệ đều thông thái và đa chủng tộc nhất. Cụ thể, hai xu hướng này tăng dần đều từ thế hệ X đến thế hệ Y. Nhiều người coi thế hệ X là thế hệ chuyển giao vì họ bắt đầu chấp nhận và áp dụng những khái niệm “Kinh tế mới” như: đa nhiệm, công việc có ý nghĩa, học hỏi cả đời, cân bằng công và tư, cũng như tâm lý tự quản. Tất cả những khái niệm này đều được thế hệ Y đưa lên một tầm cao mới. Nhưng dù có không ít điểm tương đồng, ví dụ như việc cả hai thế hệ đều coi trọng sự nghiệp, thế hệ X và thế hệ Y vẫn có vài điểm khác biệt nổi bật. Thế hệ X đặt nặng sự độc lập trong việc thực hành công việc, còn thế hệ Y lại luôn đòi hỏi được chỉ dẫn, muốn có cấu trúc công việc rạch ròi, và cần sự giám sát liên tục. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng thế hệ Y có rất nhiều mong muốn đối với công ty của mình. Mặt khác, thế hệ X coi bổng lộc là động cơ phấn đấu, và mục tiêu của họ là mức lương hấp dẫn. Thế hệ X thường cảm thấy không chắc chắn, và họ được “lập trình” để chấp nhận rằng mình sẽ khó mà dư dả được bằng bố mẹ mình. Ngược lại, thế hệ Y khá tự tin, lạc quan và luôn có thái độ “tất cả đều khả thi”. Mỗi thế hệ đều bị ảnh hưởng bởi những sự kiện lịch sử và các hoàn cảnh xã hội mà họ từng trải qua trong quá trình trưởng thành. Những điều kiện này tạo nên nhiều thay đổi trong họ về các giá trị họ coi trọng cũng như các hành vi, và những thay đổi này tác động đến hệ thống giá trị và cách họ phản ứng với các tình huống cụ thể. Những nghiên cứu về nhóm thế hệ đã chỉ ra rằng bên cạnh những điểm tương đồng về các giá trị họ coi trọng, về thái độ và đặc điểm tính cách, giữa hai thế hệ vẫn có nhiều điểm khác biệt. Rất tiếc, những nghiên cứu hiện có chỉ tập trung chủ yếu vào việc phác họa toàn cảnh về hai thế hệ này mà bỏ qua những ảnh hưởng đến sự khác biệt giữa hai thế hệ đến mức đa dạng trong thế giới thương mại. Phần lớn nhân công Mỹ thuộc thế hệ X hoặc thế hệ Y, và nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hai thế hệ này có tinh thần kinh doanh cao hơn hẳn. Tuy nhiên, lại chưa có nhiều nghiên cứu thực nghiệm hoặc định lượng thể hiện được cách những khác biệt giữa hai thế hệ này tác động đến cách họ nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh của mình. Phần lớn tài liệu chỉ tập trung vào mô tả hai thế hệ này trong vai trò nhân công chứ không chú trọng đến những kinh nghiệm ở vai trò nhà kinh doanh của họ. Tóm lại, một khi ta có cái nhìn sâu về động cơ tiềm ẩn của từng cá nhân, được định hình bởi thế hệ họ thuộc về, ta mới có thể kiểm chứng các hoạt động kinh doanh. Và “cá nhân” ở đây cụ thể chính là những thành viên của hai nhóm thế hệ X và Y, không tính tới các yếu tố biến thiên khác. Bảng 7 Những điểm Tương đồng và Khác biệt giữa thế hệ X và thế hệ Y VĂN HÓA & THẾ HỆ V ăn hóa là cách sống của một người. Những người có sự tương đồng về văn hóa cũng có hoàn cảnh nền giống nhau và cách sống giống nhau. Những người khác văn hóa thường có tiêu chuẩn, đức tin và các giá trị khác nhau. Hơn nữa, những người đa văn hóa cũng thường suy nghĩ và phân tích đa chiều khi phải đưa ra quyết định, và việc tham gia kinh doanh chính là một trong những quyết định kiểu này. Thời gian gần đây, sự thiếu hiểu biết về kiến thức thế hệ từ cộng đồng, các tổ chức lợi nhuận và phi lợi nhuận, từ chính phủ và quân đội nhiều hơn bao giờ hết. Sự thiếu hụt kiến thức này thể hiện qua nhiều cách, vào nhiều thời điểm khá cốt yếu và thậm chí là bất ngờ. Khoảng thời gian bốn năm tại nhiệm của một bộ máy chính quyền có rất nhiều khác biệt, đến mức họ thực sự thể hiện được ý nghĩa của sự đa cộng đồng. Cách nhìn sự việc, nhìn thế giới, thời thơ ấu, các tập quán và quan điểm (vốn là các yếu tố xây dựng nên một nền văn hóa) của họ đều khác nhau về căn bản. Sự giảm mạnh gần như toàn bộ các yếu tố đa thế hệ chính là bức tường ngăn cách kỹ thuật số mới giữa những người sinh trước năm 1980 và những người còn lại. Những người sinh ra trước năm 1980 nhận thấy được những tiến bộ về kỹ thuật. Họ chấp nhận điều đó, họ sử dụng nó, họ thích nó hoặc/và không thích nó (thường là cả hai). Còn những người sinh sau năm 1980 hoàn toàn không hề nhận thấy những tiến bộ kỹ thuật, bởi với họ, điều đó thuộc về bản chất rồi, như là khí ô-xy vậy. Cũng như nhiều yếu tố khác của cuộc sống, văn hóa có nhiều điểm khác biệt giữa thế hệ X và thế hệ Y. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những điểm khác biệt rõ rệt giữa những giá trị được thế hệ X coi trọng với những giá trị của thế hệ Y qua cách sống của hai thế hệ. Thế hệ X coi trọng sự độc lập trong phương pháp làm việc, còn thế hệ Y lại coi trọng sự hướng dẫn, hệ thống làm việc và sự giám sát liên tục. Một yếu tố khác tác động đến văn hóa của hai thế hệ chính là kỹ thuật công nghệ. Thế hệ X thích công nghệ cũng như những lợi thế nó mang lại cho việc kinh doanh, nhưng họ vẫn có thể sống tốt mà không nhờ cậy đến nó. Trái lại, thế hệ Y yêu công nghệ vì họ đã lớn lên cùng nó. Thực tế, hầu hết những dự án khởi nghiệp của các doanh nhân thế hệ Y đều liên quan đến chủ đề công nghệ hay mạng Internet. Trong phần này, ta sẽ bàn về ngành kinh doanh và những thuyết khởi nghiệp. ĐỊNH HƯỚNG KINH DOANH & MỤC ĐÍCH KINH DOANH N hững tranh luận xoay quanh chủ đề kinh doanh hiện hữu mọi lúc mọi nơi. Không ít học giả và chuyên gia đã lên tiếng, cũng như viết về ngành kinh doanh và sức ảnh hưởng của nó đến mọi cộng đồng ở mọi nơi trên thế giới. Tất cả những học giả ấy đều đồng tình rằng: sự tồn tại của ngành kinh doanh là rất quan trọng đối với phúc lợi của nền kinh tế. Đã có nhiều nghiên cứu ghi lại cách ngành kinh doanh tạo ra công ăn việc làm và xóa nghèo cho một đất nước. Vô số định nghĩa về ngành kinh doanh không quá khác biệt so với định nghĩa về người làm kinh doanh. Ngành kinh doanh được định nghĩa bởi Venkataraman (1997) như sau: “một lĩnh vực uyên thâm với mục tiêu tìm hiểu cách những cơ hội tạo nên sản phẩm và dịch vụ tương lai được phát hiện, áp dụng và khai thác, bởi ai và có những hệ quả gì”. Theo từ điển kinh doanh, ngành kinh doanh là “khả năng và sự sẵn sàng phát triển, sắp xếp và điều hành một dự án kinh doanh cùng bất kỳ rủi ro kèm theo nào của nó với mục tiêu là thu được lợi nhuận” (Entrepreneurship, 2013). Ví dụ rõ rệt nhất của khái niệm trên chính là việc khởi nghiệp. Trong lĩnh vực kinh tế, bên cạnh đất đai, tài nguyên quốc gia, nhân công và vốn, ngành kinh doanh cũng là một nhánh tạo ra lợi nhuận. Những nhà kinh doanh tư nhân hoặc trực thuộc công ty, tổ chức đều nhờ vào ngành kinh doanh để nuôi dưỡng và duy trì khả năng cạnh tranh của mình trước các đối thủ. Khi mục tiêu của người kinh doanh là nắm bắt được đúng giá trị dự đoán của các cơ hội kinh doanh, hoạt động kinh doanh sẽ phát triển. Để đạt được giá trị đó, họ sẽ cung cấp cho thị trường một sản phẩm thu hút người tiêu dùng hơn những sản phẩm trước đó. Đã có nhiều tài liệu tách riêng nhóm những người sử dụng kinh doanh để tạo ra giá trị với mục tiêu là tiền với nhóm những người sử dụng kinh doanh để chế tạo hay cải tiến các sản phẩm đem lại lợi ích cho xã hội. Dù lý do mỗi người tham gia kinh doanh là gì, quá trình kinh doanh của họ về cơ bản vẫn như nhau: họ bắt đầu nhận thức được nhu cầu của một nhóm cụ thể, rồi họ khám phá và tận dụng các cơ hội để đi đến quyết định bắt đầu một loại hình kinh doanh mới. Quá trình kinh doanh bắt đầu với một cá nhân nhiệt huyết và có chủ ý vẽ nên tương lai dựa trên những gì mình nhận định là thị trường có nhu cầu. Thông thường, đó sẽ là những cơ hội từng bị bỏ qua hoặc không để ý tới. Một khi cá nhân này nhận thấy được những cơ hội bị bỏ qua, họ sẽ cải tiến chúng thành những hoạt động kinh doanh có triển vọng. Cá nhân kể trên nên nhận thức được cả nhu cầu thị trường lẫn các cơ hội để phát triển hình thức kinh doanh mới. Khả năng này được cho là chịu ảnh hưởng từ các kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm của cá nhân đó. Sau khi nhận ra cơ hội và quyết định theo đuổi nó, cá nhân nêu trên sẽ bắt đầu thu thập những tài nguyên cần thiết để tạo nên giá trị dự đoán của cơ hội. Giai đoạn này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro (như thiệt hại về tài chính hay các khoản đầu tư không thể hồi lại được), cũng như những điều chưa chắc chắn vì thiếu khả năng dự đoán chính xác thị trường hoặc những thay đổi về các yếu tố môi trường, đường đi nước bước của đối thủ. Để phát triển một công ty, các nguồn tài nguyên sẵn có cũng như nguồn phản hồi tốt từ thị trường phải được tận dụng hiệu quả. Về khía cạnh chuyên môn kinh doanh, doanh nhân cần nắm bắt được cơ hội và đưa ra quyết định giới thiệu sản phẩm cho thị trường rộng hơn. Quá trình đưa ra quyết định đó có liên quan đến hai khái niệm: định hướng kinh doanh và mục đích kinh doanh. Định hướng kinh doanh Định hướng kinh doanh (Entrepreneurial Orientation - EO) là “quá trình, phương pháp và các hoạt động quyết định dẫn đến sự gia nhập thị trường”. Vì vậy, nếu quá trình dẫn đến quyết định cuối cùng có tốn nhiều thời gian thì cũng hoàn toàn hợp lý. Định hướng kinh doanh bắt nguồn từ các tài liệu về quá trình lên kế hoạch, chiến lược. Việc hoạch định chiến lược là một hoạt động kết hợp việc lên kế hoạch, phân tích, đưa ra quyết định với nhiều khía cạnh khác của văn hóa và sứ mệnh của một tổ chức, công ty. Hoạch định chiến lược là một bước vô cùng quan trọng, nhất là khi nó liên quan đến các quyết định của một công ty. EO chính là các thủ tục và chính sách tạo nền tảng cho các quyết định và hành động trong kinh doanh. Khi áp dụng định hướng kinh doanh, doanh nhân sẽ sử dụng các đặc điểm tính cách điều hành để lên chiến lược sao cho lần kinh doanh này sẽ mới mẻ, sáng tạo và có khả năng cạnh tranh. Đã có không ít công trình nghiên cứu đặt EO làm chủ đề, và hầu hết đều phân tích tầm ảnh hưởng của EO lên thành tích của công ty. Đã có những nghiên cứu về vai trò của EO trong việc tác động đến các hành vi của công ty, tổ chức và tìm được bằng chứng rằng các mô hình kinh doanh đơn chiều có thể dự báo khả năng thu lợi nhuận, cũng như các thay đổi về giá trị ròng của công ty. EO có thể được coi là một công cụ hữu ích để xác định cách các nhà kinh doanh thế hệ X và thế hệ Y áp dụng kinh nghiệm của mình vào công việc. Đây cũng là một yếu tố dẫn họ đến quyết định cuối cùng – quyết định bước vào việc kinh doanh. Ngoài ra, EO còn có thể được sử dụng để xác định cách thế hệ X và thế hệ Y tham gia vào quá trình kinh doanh, bao gồm các công đoạn như: xử lý cơ hội, tìm kiếm, nhận diện và gia nhập, qua đó phát triển việc kinh doanh của mình. Mục đích kinh doanh Mục đích kinh doanh (Entrepreneurial Intent - EI) được xem là một trong những bước đầu tiên của quá trình dài hơi nhằm khởi động một dự án kinh doanh. Hành động bắt đầu một dự án kinh doanh của một người luôn là hành động có chủ đích của người đó, được áp dụng sau nhiều nghiên cứu và tìm hiểu. Những nghiên cứu được giới thiệu trong cuốn sách này là về các hoạt động kinh doanh của thế hệ X và thế hệ Y. Bên cạnh đó, cuốn sách này cũng tập trung bàn luận về EI của các doanh nhân thế hệ X và Y, cũng như lý do phía sau quyết định bắt đầu dự án kinh doanh của họ. Đồng thời, cuốn sách còn phân tích EI của hai thế hệ vì mục đích cho mỗi động thái có chủ ý rất có thể chính là tiền đề quyết định của động thái đó. Việc hiểu rõ các yếu tố tác động đến EI là điều kiện chính để ta hiểu được quyết định của doanh nhân khi họ bắt đầu một dự án kinh doanh mới. Trong nghiên cứu về mối liên hệ giữa đặc điểm đối tượng khách hàng với EI, tính cách và các đặc điểm kinh tế chính là yếu tố thúc đẩy EI. Còn riêng với cuốn sách này, trọng tâm được đặt ra là xác định trên thế hệ X và Y thuộc phạm vi Singapore những yếu tố có khả năng tác động đến sự hình thành EI. Trong một cuộc khảo sát nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa những kỹ năng kinh doanh của một người với EI và hành động của họ, kết quả của cuộc nghiên cứu hoàn toàn đồng tình với các nghiên cứu trước, dẫn đến kết luận rằng đúng là bối cảnh văn hóa có vai trò nhất định trong các dự án kinh doanh. Ngành kinh doanh và nền kinh tế Các nhà kinh doanh vốn luôn giữ vai trò đem lại sự thịnh vượng và sự phát triển về kinh tế cho xã hội thông qua việc khởi động các dự án kinh doanh đa dạng. Những dự án này sẽ đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế cũng như quá trình tạo ra của cải, vì chính chúng sẽ là tiền đề cho các dự án mới. Những đóng góp tích cực của chúng mang tầm địa phương hoặc quốc gia. Các hoạt động kinh doanh đóng góp và tác động trực tiếp đến GDP của một quốc gia. Ở tầm địa phương, mỗi dự án kinh doanh mới sẽ mang lại nhiều cơ hội việc làm cho người dân địa phương. Nhiều việc làm đồng nghĩa với việc tài sản địa phương cũng sẽ tăng lên, và điều này sẽ ảnh hưởng tích cực tới nền kinh tế. Không những thế, các nhà kinh doanh cũng sẽ là tấm gương cho những người mơ ước trở thành nhà kinh doanh, nhà khởi nghiệp. Đã có không ít nghiên cứu về sự tăng trưởng kinh tế thành công có liên quan đến các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều ảnh hưởng khác từ các hoạt động kinh doanh đến một quốc gia chưa được khám phá hết. Chính phủ Singapore đã áp dụng nhiều chương trình khích lệ người dân Singapore khởi xướng các dự án kinh doanh của riêng mình. Công nghệ cũng là một phần không nhỏ khiến các hoạt động kinh doanh khắp nơi trên thế giới ngày một tăng. Điều này hầu hết là do sự xuất hiện của máy vi tính cá nhân, mạng Internet và điện thoại thông minh. Chính những “tài nguyên đang sử dụng”, chứ không phải số lượng, là yếu tố xác định tiềm năng tạo nên giá trị. Nhiều nghiên cứu khác đã kết luận rằng sự tồn tại của các nhà kinh doanh là vô cùng cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, ngành kinh doanh cũng có hình thái vô cùng đa dạng tùy vào từng quốc gia. Tuy vậy, có ý kiến cho rằng mỗi quốc gia lại khai thác các cơ hội kinh doanh khác nhau tùy thuộc vào tình trạng sẵn có của tài nguyên. Nếu không thể thu thập các tài nguyên cần thiết cho yêu cầu kinh doanh, dự án kinh doanh đó vẫn có thể thích nghi với nguồn tài nguyên sẵn có nhờ vào khả năng sáng tạo cố hữu của người làm kinh doanh. Thông thường, khi đã có sẵn trong tay các tài nguyên hữu hình và sức người, ta thường hay xem nhẹ các tài nguyên cơ bản như kiến thức và khả năng. Hiện tại, chúng đang trở nên hiếm hoi ở các nước phát triển. Tuy nhiên, ở Singapore lại không hề thiếu hụt nguồn tài nguyên này, và vì thế Singapore đang có điều kiện vô cùng thuận lợi cho các dự án khởi nghiệp. Rất khó để có thể nghiên cứu những tác động trực tiếp của các hoạt động kinh doanh đến nền kinh tế của một quốc gia, vì hoàn cảnh diễn ra quá trình kinh doanh trong từng trường hợp đều khác nhau. Muốn hiểu cặn kẽ về tương quan giữa hoạt động kinh doanh với nền kinh tế, ta phải nghiên cứu các nhà kinh doanh và mục tiêu riêng của họ, để từ đó kết luận được rằng những đặc điểm và tính cách đó ảnh hưởng thế nào đến các hoạt động kinh doanh (EO và EI). NHÀ KINH DOANH LÀ AI? Đ ầu tiên, ta phải định nghĩa được khái niệm “nhà kinh doanh”. Từ entrepreneur (nhà kinh doanh) bắt nguồn từ tiếng Pháp và xuất hiện từ thế kỷ 18. Từ đó đến nay, ý nghĩa của từ này đã mở rộng thành “người đảm nhiệm một dự án nào đó”. Jean-Baptiste Say, một doanh nhân thế kỷ 19, đã nói rằng vai trò của các nhà kinh doanh là “chuyển các tài nguyên kinh tế từ lĩnh vực năng suất thấp sang lĩnh vực có năng suất và tiềm năng sinh lời cao hơn”. Ở thời hiện đại, khái niệm “nhà kinh doanh” cũng có nhiều nghĩa đa dạng hơn. Từ điển Oxford nói nhà kinh doanh là “người đối mặt với nhiều rủi ro tài chính hơn bình thường để sắp xếp và điều hành một hoặc nhiều công ty”. Từ điển Thương mại lại định nghĩa nhà kinh doanh là “người thường xuyên khởi xướng và tổ chức các dự án kinh doanh để nắm bắt lợi thế của một cơ hội. Họ cũng là người đưa ra quyết định về loại hình, phương pháp và số lượng sản xuất mỗi sản phẩm và dịch vụ”. Bên cạnh đó, nhà kinh doanh cũng là người chủ động đối mặt với rủi ro, là người kiểm soát và giám sát các hoạt động kinh doanh. Cũng theo từ điển Thương mại, nhà kinh doanh được phân loại theo nhiều hình thái doanh nghiệp: doanh nghiệp đơn, doanh nghiệp hợp danh, hoặc các nhà kinh doanh nắm giữ phần lớn cổ phần ở một công ty. Dưới góc nhìn kinh tế học, nhà kinh doanh là người ghép nguồn tài nguyên, nhân lực và các tài sản khác thành một, để từ đó tạo ra giá trị lớn hơn tổng giá trị riêng lẻ của những yếu tố đó. Nhà kinh doanh cũng là người tạo nên sự thay đổi và sự tiến bộ cho một lĩnh vực hoặc cộng đồng. Các học giả và nhà nghiên cứu đã nghiên cứu nhiều về nhà kinh doanh, về động lực và tính cách của họ, cũng như về các nguồn tài nguyên họ sử dụng trong quá trình điều hành và duy trì một doanh nghiệp. Dưới góc nhìn tâm lý học, một nhà kinh doanh là người được thúc đẩy bởi những động lực nhất định như khao khát đạt được một điều gì đó, khao khát quyền lực hoặc khao khát có uy tín và thẩm quyền. Theo nhà kinh tế học Joseph Alois Schumpeter, về cơ bản, các nhà kinh doanh không coi lợi nhuận là động lực, mà lợi nhuận chỉ là cầu nối cho họ đạt được thành tựu và thành công. Schumpeter đã kết luận rằng các nhà kinh doanh: Rất có lòng tin vào bản thân Luôn nhắm tới sự xuất sắc Vô cùng lạc quan (nếu không thì họ sẽ chẳng khởi xướng dự án nào cả) Luôn ưu tiên các thử thách có mức độ rủi ro trung bình (không quá dễ, không quá khó) Nhà kinh doanh còn là người kiến tạo và sáng chế thành thói quen, nhằm mục đích xây dựng những điều có giá trị nhất định từ những cơ hội họ nhận thấy. Nhà kinh doanh chính là trung tâm của mỗi dự án. Nguồn vốn của họ không những đến từ các tài sản có giá trị tiền bạc mà còn từ các tài sản tri thức và hữu hình khác. Họ xây dựng nguồn của cải của mình bằng cách phát hiện và chuyển hóa các cơ hội thành dự án mới. Khi một người quyết định trở thành nhà kinh doanh, đó chính là quyết định có chủ đích. Ta phải hiểu rõ sự khác biệt giữa một người làm kinh tế với một nhà kinh doanh. Bất kỳ ai cũng có thể phát huy sự sáng tạo của mình trong công việc và cách sống. Tuy nhiên, tập tính kinh doanh này lại có thể được áp dụng gói gọn trong vài trường hợp cụ thể mà nhà kinh doanh phải tự mình tìm ra. Qua những định nghĩa nêu trên, ta rút ra được rằng nhà kinh doanh là người xây dựng nên điều gì đó mới mẻ, khác biệt qua việc kinh doanh của mình, và họ luôn thể hiện những đặc tính kinh doanh như sáng tạo và cách tân. Không phải ai cũng có thể trở thành nhà kinh doanh, nhưng bất kỳ ai cũng nên được khuyến khích rằng biết đâu mình cũng có khả năng. Người đầu tiên xác định tầm quan trọng của sự phát triển kinh tế, cũng như vai trò của một nhà kinh doanh trong chủ đề này chính là Cantillon. Ông định nghĩa nhà kinh doanh là “những người sẵn sàng mua vào với một cái giá nhất định và bán ra ở mức giá không xác định”. Ông cho rằng nhà kinh doanh phải là người chấp nhận rủi ro đến mức hoàn toàn sẵn lòng giao phó bản thân cho một bên thứ ba dù chưa xác định được mình sẽ nhận lại những gì. Ông cũng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của sự không xác định và những rủi ro trong nghiên cứu về kinh nghiệm kinh doanh của mình. Một nhà kinh tế học khác là Jean-Baptiste Say cũng đã rất hứng thú với các sự kiện kinh doanh. Ông nhận thấy các nhà kinh doanh chính là những người chủ động đối mặt với rủi ro; họ đầu tư tiền của và nguồn tài nguyên của chính mình vào việc sản xuất. Họ tạo nên và phát triển các hoạt động kinh tế vì mục tiêu lợi nhuận. Mỗi nhà kinh doanh hiện đại đều là đầu tàu cho sự phát triển của từng quốc gia. Các nhà kinh doanh biết nhận ra nhu cầu và nắm bắt cơ hội chuyển hóa các cộng đồng và nền kinh tế toàn cầu. Tuy khái niệm “nhà kinh doanh” không có riêng một định nghĩa nào, nhưng chắc chắn ai cũng đồng tình rằng họ chính là những người nắm giữ vị trí trọng yếu trong quá trình kinh doanh. Phần tiếp theo của cuốn sách này sẽ nghiên cứu và bàn luận về ngành kinh doanh từ góc nhìn lịch sử cũng như lý thuyết. Ngoài ra, phần này cũng sẽ phân biệt những kiểu nhà kinh doanh khác nhau bằng các thuyết về ngành kinh doanh khác nhau. Từ những năm 80, hơn 90% của cải của Singapore là phần đóng góp của lĩnh vực kinh doanh. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về mối tương quan giữa kinh doanh với nền kinh tế là vô cùng quan trọng. Trong phần sau, ta sẽ tranh luận về các thuyết kinh doanh khác nhau. LÝ THUYẾT KINH DOANH K hông có bất kỳ một định nghĩa rõ ràng nào để giải thích cho từ “kinh doanh”. Kinh doanh là một lĩnh vực nhỏ của nghiên cứu bao gồm nhiều môn như kinh tế, tâm lý học và xã hội học. Kinh doanh là một khái niệm đa chiều, trong đó bao gồm hành vi, chức năng và nghề nghiệp. Nghiên cứu về kinh doanh có thể được chia ra làm ba nhóm chính: (a) lý thuyết kinh doanh dựa trên nền tảng kinh tế học, (b) lý thuyết kinh doanh dựa theo từng cá nhân và (c) lý thuyết kinh doanh dựa theo quá trình. Mỗi lý thuyết trên sẽ được thảo luận lần lượt trong những phần sau. Thuyết kinh doanh kinh tế học Nền tảng lịch sử của việc kinh doanh có thể bắt nguồn từ kinh tế với mục đích kiểm soát hệ thống kinh tế bằng cách dịch chuyển đến gần hoặc xa khỏi thế cân bằng. Kinh doanh dựa vào nền tảng kinh tế tập trung vào một số chức năng – như làm thế nào doanh nghiệp có thể thúc đẩy thị trường nói riêng và nền kinh tế nói chung. Khi bàn về chủ đề thực tiễn trong hoạt động kinh doanh mà không tính đến các điều khoản thực tế trong hiểu biết của những người hoạt động trong lĩnh vực đó, ta có thể truy ngược về nền văn minh Hy Lạp. Xenephon, một triết gia người Hy Lạp, đã mô tả một kịch bản thường thấy vào thời gian đó khi những công dân được tự do tham gia vào các hoạt động kinh doanh. Những hoạt động này tương tự với cách các ngành nghề kinh doanh hoạt động hiện nay, bao gồm cả người lao động và lợi nhuận. Xét về phương diện kinh tế, các doanh nhân đóng ba vai trò cơ bản là người chấp nhận hoặc quản lý rủi ro, người đưa ra đường hướng cải cách và biết nhanh chóng nắm bắt thời cơ. Kinh doanh và động lực lợi nhuận Cantillon, người đặt ra thuật ngữ “entreprende” (đảm đương), định nghĩa doanh nhân như là những người sẵn sàng mua tại một cái giá nhất định và bán tại một cái giá không xác định. Khái niệm của Cantillon về kinh doanh liên quan đến những quá trình trong lao động và sản xuất, và lợi nhuận đi kèm với việc bán sản phẩm tại một cái giá không xác định. Kinh doanh và rủi ro về vốn Weber đã bình luận vào năm 1898: “Kinh doanh nắm quyền kiểm soát một phần sự phát triển kinh tế và đạt được kỳ vọng của người đó thông qua việc đánh đổi lợi ích và rủi ro kinh tế của chính bản thân”. Sự phát triển kinh tế về sau này đều chịu ảnh hưởng bởi khái niệm cơ bản của Cantillon. Jean-Baptiste Say thu gọn khái niệm kinh doanh thành sản xuất và những hoạt động quản lý trong lĩnh vực kinh doanh, xa rời suy nghĩ kinh tế gắn liền với lợi nhuận. Khái niệm của Smith về kinh doanh tập trung vào rủi ro về vốn với mục đích thu hút lợi nhuận. Theo Ricketts, khái niệm cổ xưa của Anh Quốc về kinh doanh chuyển dịch từ sự tập trung vào các hoạt động quản lý của Say. Hiện nay, định nghĩa về kinh doanh bao gồm sự kết hợp giữa hoạt động quản lý và sự hiệu quả trong thu hút lợi nhuận, đó cũng là ý chính trong định nghĩa về kinh doanh trước đây của Peneder. Sẵn sàng chấp nhận rủi ro là một trong những thành phần cốt lõi trong định nghĩa kinh doanh. Nhiều bài nghiên cứu và ngành kinh doanh sử dụng định nghĩa về một doanh nhân như một nền tảng, chỉ tập trung vào đặc tính theo xu hướng chấp nhận rủi ro của kinh doanh hoặc khả năng nắm bắt cơ hội trong quá trình làm việc của một doanh nhân. Doanh nhân là người dám đối đầu với rủi ro, hay thử thách của việc làm chủ bản thân bằng cách sở hữu và điều hành một doanh nghiệp. Frank Knight đã đưa ra một lập luận toàn diện về phương diện chấp nhận rủi ro trong kinh doanh. Theo Knight, những doanh nghiệp khởi nghiệp điều hành dưới một giả định rằng rủi ro là điều cần có nhằm đảm bảo có được lợi nhuận trong tương lai. Mặc dù sự không chắc chắn thường gắn liền với rủi ro, nhưng nó được vận dụng trong bối cảnh của sự tự tin và kiến thức. Knight cho rằng trái ngược với tầm ảnh hưởng của rủi ro trong kinh doanh, nó không phải định nghĩa đặc trưng của kinh doanh vì nó cũng xuất hiện trong những khái niệm khác. Cạnh tranh là một mảng quan trọng khác của ngành kinh doanh. Carl Merger, một nhà kinh tế học người Áo, phản bác suy nghĩ về vai trò của rủi ro trong kinh doanh. Ông cho rằng nên tập trung vào vai trò của cạnh tranh trong việc tìm ra những cơ hội kinh doanh mới. Streissler trích dẫn hai thành phần quan trọng của việc cạnh tranh cần được nghiên cứu thêm: chức năng thông tin của giá cả và cảnh giác trước những cơ hội mới. Giá cả thị trường có khả năng cung cấp thông tin một cách đáng kể cho phương diện cạnh tranh trong kinh doanh vì thông tin thị trường sẽ được các doanh nhân sử dụng để hoàn thành việc định giá. Quyết định thay đổi việc cung ứng hàng hóa dựa vào những thông tin có sẵn trên thị trường. Chính những thông tin này có thể thúc đẩy việc tối đa hóa lợi nhuận. Thông tin thị trường cũng được các doanh nhân sử dụng để điều chỉnh giá cả hàng hóa của họ để phù hợp với thị trường chung. Thành phần thứ hai của tính chất cạnh tranh trong kinh doanh là khả năng nhận thức và nắm bắt những cơ hội mới. Nhận thức là khả năng phân biệt được những cơ hội kinh doanh không có động lực tích cực của các doanh nhân trong quá trình tìm kiếm những cơ hội đang hiện diện sẵn trên thương trường. Khả năng phân biệt cơ hội dựa vào những sai lầm trước đó, giúp cho một doanh nhân có thể đưa ra quyết định liên quan đến giá và lợi nhuận một cách đúng đắn hơn trong tương lai. Ngành kinh doanh và nguồn vốn xã hội Turner và Nguyen đã tiến hành một nghiên cứu chi tiết với những doanh nhân trẻ ở Hà Nội, và loại bỏ khả năng nguồn vốn xã hội là một phương tiện trọng yếu để đạt được những nguồn tài nguyên, ý tưởng và thông tin. Chow đã tiến hành một nghiên cứu khác vào năm 2006 chỉ ra vai trò của doanh nhân có tầm ảnh hưởng thế nào đến khả năng sinh lời của công ty nếu công ty đó có phần trăm nhân viên đạt trình độ đại học cao hơn. Bảng phân tích dữ liệu của Dun và Bradstreet đã chỉ ra rằng sau năm năm, những doanh nghiệp nhỏ có trung bình sáu đến bảy nhân viên, và 81% những chủ doanh nghiệp là nữ thì không có nhân viên nào. Theo Bee, trong vòng 20 năm qua, 67% việc làm được tạo ra nhờ các công ty nhỏ với mỗi công ty có khoảng ít hơn 100 nhân viên. Wilkinson tiến hành một nghiên cứu khác dựa vào tính hiệu quả của những văn phòng thương mại nước ngoài ở Mỹ có liên quan đến chi tiêu cho các cơ quan thương mại, xuất khẩu và mức xuất khẩu của một bang so với doanh nghiệp nhà nước. Xuất khẩu là một ngành kinh doanh nhiều rủi ro, vì vậy chính phủ Mỹ đưa ra những chương trình thúc tiến xuất khẩu (EPP) để làm cầu nối thu hẹp khoảng cách giữa các doanh nghiệp và những cơ hội đến từ thị trường nước ngoài và để tìm kiếm sự phát triển kinh tế trong lĩnh vực này. Những phát hiện này bổ trợ cho lý thuyết cho rằng môi trường kinh doanh của một bang củng cố mối quan hệ tích cực giữa các văn phòng thương mại nước ngoài và việc xuất khẩu trong bang đó. Pasanen đã nghiên cứu và tìm ra các doanh nghiệp liên kết sở hữu nhiều công ty trên diện rộng, so với những công ty sở hữu bởi một doanh nghiệp đơn lẻ. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng 22% những công ty có những doanh nhân sở hữu nhiều công ty có khả năng sinh lời cao. Một nghiên cứu được tiến hành bởi Bates nhằm tìm kiếm sự bền vững của những doanh nghiệp nhỏ khám phá ra rằng những doanh nghiệp ít có khả năng tồn tại nhất là những doanh nghiệp trẻ. Những doanh nhân với trình độ giáo dục đại học bốn năm (hoặc hơn) sở hữu những công ty có khả năng tồn tại cao nhất. Hầu hết những doanh nhân từ 55 tuổi trở lên là những người có khả năng dừng kinh doanh, và những công ty có vốn đầu tư tài chính đáng kể và khởi nghiệp một cách bền vững thì vượt qua được những khó khăn trong khoảng thời gian làm nghiên cứu này. Một nghiên cứu của Galloway được thực hiện khi chính phủ tuyên bố tầm quan trọng của mình đến việc xây dựng văn hóa kinh doanh. Siems và Ratner dẫn đầu một cuộc nghiên cứu để tìm ra, trong nền kinh tế dựa trên nền tảng kiến thức thế giới hiện nay, điều tối quan trọng trong việc duy trì một nền kinh tế phát triển mạnh. Những tác giả đưa ra kết luận rằng nền kinh tế thế giới phát triển là nhờ vào sự đổi mới và các doanh nghiệp. Theo Orhan và Scott, các doanh nhân có một tầm ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế Mỹ, vì vậy chính phủ liên tục ủng hộ và thúc đẩy các doanh nghiệp. Cộng đồng kinh doanh nhấn mạnh vào việc thu hút đầu tư mạo hiểm nhằm thúc đẩy sự phát triển những ngành kinh doanh mới, nhắm vào xã hội có khả năng sinh lời. Mặc dù nền kinh tế được thúc đẩy một cách đáng kể bởi những doanh nghiệp nhỏ, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có cơ hội phát triển theo thời gian. Theo Headd, nhiều người có quan niệm sai lầm cho rằng chín trong mười doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ sẽ phất lên trong năm đầu tiên hoạt động. Headd cũng nhận ra sự gia tăng của những doanh nghiệp thành công là nhờ vào mức độ trưởng thành của những doanh nhân, sự tồn tại của những người chủ, hay kinh nghiệm trước đó của chủ doanh nghiệp. Nghiên cứu cũng chỉ ra sự tồn tại của những doanh nghiệp có phụ thuộc vào nguồn vốn có sẵn của những doanh nghiệp khởi nghiệp, trình độ học vấn của doanh nhân, và liệu nhân viên có cống hiến cho công việc hay không. Nghiên cứu của Bann nhấn mạnh tầm quan trọng của những hỗ trợ sẵn có cho doanh nghiệp nhằm giúp họ nhận ra những gì cần cho sự phát triển của doanh nghiệp mới. Schumpeter đề xuất rằng ngành kinh doanh xuất phát từ những tình huống kinh tế mới nhất: những sản phẩm mới, những phương thức sản xuất mới, thị trường mới, nguồn nguyên liệu mới, hay những tổ chức mới. Doanh nhân được xem là nét đặc trưng trung tâm của sự phát triển kinh tế. Doanh nhân là những người tiên phong trong việc đưa ra những thay đổi sáng tạo và những hành động khởi đầu. Bản chất của ngành kinh doanh là nắm bắt những cơ hội mới trong thế giới kinh doanh và biến chúng thành thế mạnh hay lợi nhuận, và nó sẽ luôn có điều gì đó phải làm với việc quốc hữu hóa. Vì vậy, doanh nhân sẵn sàng chịu rủi ro trong đổi mới, đặc biệt bằng cách thúc đẩy những việc liên doanh có hiệu quả cao. Baron và Markman đã nhận ra rằng khả năng tương tác của một cá nhân với những người xung quanh ảnh hưởng to lớn đến thành công của cá nhân đó. Thái độ hòa đồng khi tương tác mặt đối mặt với nhau trong doanh nghiệp, như khi tương tác với những nhân viên khác, những nhà đầu tư hay khách hàng tiềm năng, có ảnh hưởng đến thành công. Họ nhận ra những kỹ năng đó cũng giúp doanh nhân trong việc mở rộng mạng lưới quan hệ kinh doanh và xã hội một cách thành công. Baron và Ensley khám phá ra rằng kinh nghiệm làm việc có thể giúp cho doanh nhân xác định và kịp thời nắm bắt những cơ hội kinh doanh mới. Bằng cách liên kết một cách thông minh những sự kiện hay xu hướng có vẻ không liên quan đến nhau, và sau đó phân biệt những khuôn mẫu trong những mối dây liên kết đang kích thích những ý tưởng dẫn đến những sản phẩm hay dịch vụ mới, những doanh nhân dày dặn kinh nghiệm với sự hiểu biết được xác định rõ ràng hơn về cơ hội kinh doanh có khả năng thành công cao hơn những doanh nhân mới vào ngành. Những nhà nghiên cứu “đặt doanh nhân vào vị trí trung tâm” bắt đầu dịch chuyển từ những suy nghĩ thông thường sang phương pháp tiếp cận mang tính cá nhân hơn và tập trung vào từng cá nhân để tìm ra những doanh nhân cần phải làm gì và bằng cách nào để làm giàu kinh nghiệm kinh doanh của bản thân, và đó là bối cảnh tổng thể mà nghiên cứu này dựa vào. Khi cho những doanh nhân một tiếng nói, điều đó đồng nghĩa với việc cung cấp sự hiểu biết cái cách họ hệ thống những kinh nghiệm kinh doanh của mình. Công cụ được sử dụng để tạo ra việc làm và sự tự tin, cũng như thúc đẩy nền kinh tế một đất nước, đó là tự làm chủ hay thành lập một doanh nghiệp riêng, điều này vốn từ lâu đã được coi là một cách khó khăn. Kinh doanh cũng là một công cụ giúp cá nhân nhận ra mơ ước của mình, làm giàu vốn xã hội và thúc đẩy cơ hội nghề nghiệp. Một số người lựa chọn việc tự kinh doanh vì có định kiến với công việc, và để giảm sự phân biệt, kỳ thị trong nền kinh tế. Mặc dù vậy, một số khác lựa chọn xây dựng cơ ngơi bằng việc tự lập nghiệp. Ngành kinh doanh và giới tính Theo Westhead và Birley, sự khác nhau liên quan đến giới tính giữa những người nghiệp dư và những doanh nhân điển hình là không lớn. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác tìm ra rằng có nhiều nam doanh nhân giàu kinh nghiệm hơn là nữ. Sự khác biệt to lớn về giới tính đã được đưa ra thảo luận bởi Rosa và Scott. Dựa vào dữ liệu từ những nghiên cứu trước đó về giới tính, Rosa và Hamilton phát hiện ra rằng phụ nữ có xu hướng ít thay đổi cơ hội kinh doanh của mình hơn là những nam đồng nghiệp. Đây là lý do vì sao có nhiều nhà đầu tư là nam hơn. Tuy vậy, nếu không xét về vấn đề giới tính, một nghiên cứu về tiểu sử và “gien” kinh doanh của nhiều nhà thành lập doanh nghiệp cho thấy rằng có một sự khác biệt lớn nằm chính trong tiểu sử của họ. Hầu hết các công ty kinh doanh bắt đầu với những khởi đầu nhỏ và những người chủ vận hành công ty của họ một mình, hoặc với ít hay thậm chí không có nhân viên nào. Chưa có lý giải nào cho việc khác nhau trong việc tuyển dụng theo giới tính của những chủ doanh nghiệp. Ngành kinh doanh và trình độ học vấn Zeithaml và Rice tiến hành một nghiên cứu thử nghiệm thông thường để liên kết giáo dục đại học quốc gia trong ngành kinh doanh hay các công ty nhỏ ở Mỹ. Phát hiện này cho thấy tỷ lệ người trả lời cao trong ngành kinh doanh và các doanh nghiệp nhỏ, cũng như có sự gia tăng trong việc hứng thú với kinh doanh. Clouse tiến hành một nghiên cứu để đánh giá cách một khóa học giới thiệu về kinh doanh có thể gây ảnh hưởng đến ý kiến của những sinh viên đại học trong việc xác định tính khả thi của một doanh nghiệp mới, đặc biệt quan tâm hơn đến hành vi của những sinh viên đó. Kết quả thống kê chỉ ra rằng khóa học giới thiệu về kinh doanh thật sự có ảnh hưởng lớn đến hầu hết các sinh viên. Tuy nhiên, sự giới hạn của nghiên cứu này là số lượng người tham gia làm khảo sát không nhiều. Tại Rensselear Retreat, giáo sư ngành kinh tế Fiet đề nghị rằng những doanh nhân tham vọng nên được dạy về kinh doanh. Matlay đã đề cập những hạn chế về giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề ở nhiều nước, và việc thiếu đi nó có thể tạo ra những cản trở thành công trong việc chuyển đổi kinh tế - xã hội ở những nước này. Levenburg, Lane và Schwartz đã nghiên cứu về những đặc tính trong kinh doanh, hứng thú trong kinh doanh và mối liên hệ giữa những ngành học ở những sinh viên đại học liên ngành. Các nghiên cứu khẳng định rằng một tỷ lệ lớn những sinh viên của đại học này có tham vọng hướng đến việc kinh doanh, thậm chí với cả những sinh viên có ngành học ngoài những trường kinh tế. Một cuộc kiểm tra tiến hành bởi Maidment nhằm tìm ra chương trình liên kết của cao đẳng cộng đồng trong kinh doanh và các doanh nghiệp nhỏ, được liệt kê trong cuốn hướng dẫn cao học hai năm của Peterson, khám phá ra rằng cao đẳng cộng đồng là nơi cung cấp giáo dục kinh doanh tốt hơn. Peterman và Kennedy đã đưa ra một dự án nhằm nghiên cứu cách nhìn của những học sinh trung học phổ thông về phương diện giáo dục kinh doanh trong phương diện khả thi và mong muốn thành lập một doanh nghiệp riêng. Một khóa học về kinh doanh nhỏ bao gồm bốn mô-đun đã được thực hiện sau giờ học với sự tham gia của 17 trường trung học phổ thông trong khoảng thời gian gần năm tháng. Schmitt-Rodermund và Vondracek sắp xếp một nghiên cứu nhằm tìm ra những doanh nhân trẻ với độ tuổi 14 đến 17 tuổi và là học sinh lớp 10. Thái độ về kinh doanh cùng với ý chí quyết tâm phấn đấu, có thể là một điểm kỳ vọng quan trọng của các doanh nhân trẻ trong tương lai. Những nhà nghiên cứu đã giới thiệu những hình thức nghề nghiệp trong những giai đoạn sớm ở thanh thiếu niên. Kết quả là, những chương trình củng cố cả kiến thức về sự nhiệt tình của bản thân có thể giúp ích cho học sinh. Kết luận Những lý thuyết từ những nhà kinh tế học đã chỉ ra vai trò của ngành kinh doanh trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hầu hết các nghiên cứu nhấn mạnh vai trò của tính cách trong kinh doanh và tính cách của mỗi cá nhân các doanh nhân là những yếu tố có thể quyết định một doanh nghiệp sẽ thành công hay thất bại. Một doanh nghiệp thành công có thể nhờ vào đặc điểm tính cách, kinh nghiệm làm việc hay nền văn hóa, tất cả những thứ trên thay đổi tùy thuộc vào mỗi người. Để một doanh nghiệp thành công, sự ủng hộ là vô cùng cần thiết. Cuối cùng, người ta cũng tìm ra rằng có nhiều doanh nhân nam hơn so với doanh nhân nữ, mặc dù vậy có ít sự lý giải cho hiện tượng này. Thuyết kinh doanh cá nhân Thuyết kinh doanh cá nhân hình thành để mang lại cái nhìn sâu hơn về nền tảng tâm lý và xã hội, các đặc điểm riêng, động lực và hành vi của nhà kinh doanh, cũng như để tìm kiếm một nét đặc trưng cụ thể nào đó của họ. Nét đặc trưng này có thể được phát hiện trong một hoặc một bộ đặc điểm tính cách của họ. Những chuyên gia về khoa học hành vi con người đã có rất nhiều công trình nghiên cứu để phân tích và tìm hiểu tính cách của nhà kinh doanh. Trong lĩnh vực nghiên cứu về ngành kinh doanh, nhu cầu tìm hiểu về các động lực thúc đẩy thành công đã trở nên cụ thể hơn, chuyển từ phạm vi ngành/xã hội xuống phạm vi từng cá nhân. Động lực thúc đẩy thành công đã tăng đến mức cao nhất vào những năm 1980, và đây cũng là giai đoạn triết lý tính cách được nghiên cứu nhiều nhất. Weber là một trong những chuyên gia đầu tiên thể hiện hứng thú với giới doanh nhân, và ông luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống giá trị họ coi trọng. Ngành kinh doanh và các rủi ro Knight coi hoạt động kinh doanh là quá trình đối đầu với những rủi ro mơ hồ. Những người khác lại coi kiến thức và các phát kiến về kinh doanh là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Các dự án kinh doanh và cách tiếp cận chúng của các nhà kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào các rủi ro. Các tài liệu trước đây đã ghi rằng nhà kinh doanh là người biết cách nhận diện và kiểm soát sự mơ hồ một cách hiệu quả. Wright định nghĩa nhà kinh doanh là người sẵn sàng đối đầu với rủi ro, cũng như các thử thách của xã hội để hiện thực hóa các ý tưởng. Tuy đặc điểm và tính cách là hai khái niệm có vẻ giống nhau nhưng giữa chúng lại có sự khác biệt rất rõ rệt. Tính cách là cách một người hiểu và phản ứng lại thế giới bên ngoài, còn đặc điểm là những yếu tố cấu thành một con người. Theo McClelland, chính một vài tính cách nhất định chứ không phải các đặc điểm bẩm sinh quyết định vai trò nhà kinh doanh của một cá nhân. Chúng quyết định cách một nhà lãnh đạo dẫn dắt và kết nối với mọi người, vì vai trò của nhà lãnh đạo là làm việc hiệu quả và hướng dẫn cấp dưới. Đã có không ít nhà nghiên cứu học theo góc nhìn này và kết hợp theo nhiều cách các yếu tố thuộc về khuynh hướng hành vi mạo hiểm, bao gồm: nhu cầu thành công cao, quỹ đạo kiểm soát nội tại, hứng thú với sự cải tiến và sức chịu đựng sự mơ hồ. Baron và Ensley đã phân tích sức ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài lên sự thành công trong kinh doanh, và các yếu tố bên ngoài quan trọng nhất bao gồm kinh nghiệm làm việc của nhà kinh doanh cũng như môi trường và nền tảng văn hóa của họ. Hopkins đã có rất nhiều bài nghiên cứu đi đến cùng một kết luận rằng các khía cạnh quan trọng cho thành công của một dự án kinh doanh bao gồm lòng nhiệt huyết, sự bền bỉ và đạo đức tốt. Vì tính chất môi trường làm việc luôn thay đổi và nhiều thử thách, các nhà kinh doanh mới thường phải ứng biến khá nhiều trong quá trình lên kế hoạch và học hỏi. Quá trình làm việc và các hành vi có mục đích sinh lợi nhuận sẽ ảnh hưởng đến mục đích làm việc và hành động của một cá nhân. Luôn tồn tại một mức rủi ro nhất định, dù là trong kế hoạch hay do ứng biến; càng có cách nghĩ tập trung vào lợi nhuận, nhà kinh doanh càng có khả năng mạo hiểm cao hơn trong quá trình khám phá các cơ hội. Ngành kinh doanh và sự cải tiến Lĩnh vực kinh doanh từ xa xưa đã cho rằng các quy tắc về quản lý và cải tiến được bao hàm trong các dạng suy nghĩ của nhà kinh doanh. Quan điểm này tách bạch người quản lý với nhà kinh doanh bằng mức độ sáng tạo và phong thái thể hiện bản thân. Schumpeter đã miêu tả sự cải tiến là một trong những yếu tố thiết yếu của ngành kinh doanh, đồng thời cũng là mức độ sáng tạo được nhà kinh doanh thể hiện ra. Tuy ý niệm cơ bản về ngành kinh doanh đã khá phổ biến, nhưng góc nhìn và định nghĩa cụ thể về ngành kinh doanh đã thay đổi theo thời gian. Trong quá khứ, các nỗ lực và hoạt động kinh doanh không được coi là đường lối, học thuyết hay là điều thường gặp. Một cách khác để định nghĩa về ngành kinh doanh là thông qua ý nghĩa của sự cải tiến từ bên trong, và định nghĩa này bắt nguồn từ truyền thống của cả Đức và Áo. Theo định nghĩa này, nhà kinh doanh được coi là những nhà sáng chế. Góc nhìn này về ngành kinh doanh chú trọng vào khả năng tạo điều kiện và giới thiệu các sản phẩm tân tiến cho thị trường. Nó khác xa những góc nhìn trước đây về ngành kinh doanh, vốn chú trọng vào sự kết hợp giữa lợi nhuận và các yếu tố thị trường, để tập trung hơn vào việc đưa những sản phẩm mới vào thị trường. Xu hướng sáng tạo của các nhà kinh doanh góp phần đẩy cán cân thị trường khỏi vị trí cân bằng. Quá trình tìm tòi sáng tạo ra các sản phẩm mới không thể thiếu sự xuất hiện của các rủi ro. Schumpeter cho rằng nếu muốn các nhà kinh doanh tiếp tục theo đuổi một dự án cải tiến nào, dự án đó phải có tiềm năng lợi nhuận đáng kể. Viễn cảnh trong mơ về khoản lợi nhuận béo bở chính là động lực khiến các nhà kinh doanh tiếp tục phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới mẻ. Khi quan sát ngành kinh doanh qua lăng kính cải tiến từ bên trong, ta thấy lợi nhuận dự kiến và quá trình tạo ra những sản phẩm tiến bộ có liên quan mật thiết với nhau. Ngành kinh doanh và động lực McClelland đã phân tích hai ý niệm kinh tế này và kết luận rằng tài sản kinh tế quốc gia được xây dựng một phần qua những động lực thành công khác nhau. Thuyết của ông rất được chú ý trong lĩnh vực nghiên cứu kinh doanh. McClelland cho rằng khái niệm động lực thành công có liên quan đến ngành kinh doanh và sự phát triển về kinh tế, tuy những nghiên cứu tương tự không dẫn đến các hiệu ứng liên quan. McClelland đã đúc kết nên triết lý “khát khao thành công” với nền tảng nghiên cứu lý thuyết vững chắc. Nhu cầu thành công của một nhà kinh doanh thành công chính là đặc điểm tính cách vốn vẫn được nghiên cứu rất chuyên sâu. McClelland là một trong những người đầu tiên khẳng định rằng một nhà kinh doanh thành công sẽ biểu lộ được sự xuất sắc trong các hoạt động kinh doanh của mình. Qua một quá trình quan sát, McClelland đã kết luận được rằng những người dốc sức cố gắng để đạt được thành tựu thường dành nhiều thời gian cho việc trau dồi khả năng làm việc của bản thân hoặc để hoàn thành những việc quan trọng, và đó là đặc điểm khiến McClelland phân loại nhóm người thành đạt này khỏi đám đông. Những công trình nghiên cứu trước đây đã cho những nhà kinh doanh là những người có trách nhiệm với các công việc và hoạt động của mình, và họ cũng chủ động thu thập phản hồi về biểu hiện làm việc của bản thân. Nhóm nhà kinh doanh được cho là nhóm tài nguyên con người có chức năng thúc đẩy những nhu cầu đã được xác định chuyển hóa thành nhu cầu được thỏa mãn thông qua nỗ lực của những cá nhân tự trị có khả năng thích ứng với rủi ro vốn có trong mọi cơ hội. Rotter cho rằng những nhà kinh doanh thành công luôn có một tổ hợp động lực thành công và quỹ đạo kiểm soát nội tại – hay còn gọi là những động lực tự nhiên. Những động lực này thường có ở những nhà kinh doanh tự lực cánh sinh, chủ động trong quá trình đưa ra quyết định và hành động thay vì chờ đợi phản hồi và động lực từ bên ngoài. Rotter chỉ ra rằng những nhà kinh doanh sở hữu quỹ đạo kiểm soát nội tại thường có niềm tin là mình kiểm soát số mệnh của chính mình, ngược lại với những