🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Huyền thoại
Ebooks
Nhóm Zalo
HUYỀN THOẠI —★—
Tác giả: Marie Lu
Người dịch: Trịnh Ngân Chi Phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản Văn Học 2015 ebook©vctvegroup
LOS ANGELES, CALIFORNIA CỘNG HÒA MỸ
☆☆☆
DÂN SỐ: 20.174.282
PHẦN MỘT
☆☆☆
CHÀNG TRAI ĐI TRONG ÁNH SÁNG[1]
DAY
Mẹ nghĩ là tôi đã chết.
Rõ ràng là tôi vẫn chưa chết, nhưng cứ để mẹ nghĩ thế thì sẽ an toàn hơn cho bà.
Mỗi tháng ít nhất hai lần, tôi lại nhìn thấy ảnh của mình trong lệnh truy nã trên những màn hình khổng lồ rải rác khắp trung tâm Los Angeles. Trên đó trông nó hoàn toàn lạc lõng. Phần lớn những hình ảnh phát trên màn hình đều là những thứ vui vẻ: những đứa trẻ tươi cười đứng dưới bầu trời trong xanh, các du khách chụp ảnh trước di tích cầu cổng Vàng, những quảng cáo màu nê ông sặc sỡ của chính quyền Cộng hòa. Rồi cả những tuyên truyền chống lại Thuộc địa. ”Thuộc địa muốn đất của chúng ta,” mẩu quảng cáo tuyên bố. ”Chúng muốn thứ chúng không sở hữu. Đừng đế chúng xâm lược quê hương của các bạn! Hãy ủng hộ phe chính nghĩa!”
Nhưng rồi đến lượt bản báo cáo tội phạm của tôi. Nó sáng lên trên những màn hình khổng lồ trong muôn vàn ánh hào quang rực rỡ:
LỆNH TRUY NÃ CỦA CHÍNH QUYỀN CỘNG HÒA
HỒ SƠ SỐ: 462178-3233 “DAY”
TRUY NÃ VÌ TỘI HÀNH HUNG, PHÓNG HỎA, TRỘM CẮP, PHÁ HOẠI TÀI SẢN CHÍNH PHỦ VÀ CẢN TRỞ NỖ LỰC CHIẾN TRANH. THƯỜNG 200,000 ĐỒNG CỘNG HÒA CHO NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN BẮT GIỮ TỘI PHẠM.
Họ luôn đăng những tấm ảnh khác nhau trên lệnh truy nã tôi.
Đôi khi là một cậu thiếu niên đeo kính, đầu đầy những lọn tóc xoăn dày hoe hoe màu đồng. Đôi khi lại là một cậu choai choai có đôi mắt đen, đầu cạo trọc lốc. Có lúc tôi da đen, có lúc da trắng, có khi màu ô liu hoặc nâu, vàng, đỏ hay bất cứ màu gì khác mà họ có thể nghĩ ra.
Nói cách khác, chính quyền Cộng hòa không hề biết trông tôi như thế nào. Có vẻ như họ chẳng biết bất cứ điều gì về tôi, trừ việc tôi còn trẻ và khi quét dấu vân tay của tôi họ sẽ không tìm thấy kết quả nào trong hệ thống dữ liệu. Đó là lý do tại sao họ ghét tôi, tại sao tôi không phải là tội phạm nguy hiếm nhất đất nước nhưng lại là kẻ bị truy nã gắt gao nhất. Tôi khiến họ trông chẳng ra làm sao trong mắt dân chúng.
Mới chập tối nhưng bên ngoài đã tối đen như mực, có thể thấy hình ảnh phản chiếu của các màn hình khổng lồ trong những vũng nước trên đường. Tôi ngồi trên gờ cửa số ọp ẹp ở tầng ba, khuất sau những trụ thép gỉ sét. Đây từng là một tòa nhà chung cư nhưng từ lâu nó đã bị bỏ hoang. Những ô cửa giếng trời và mảnh kính vỡ vương vãi trên sàn nhà, trên tường là từng mảng sơn đang tróc ra. Ở một góc phòng, bức chân dung cũ nát của Cử tri Primo nằm ngửa mặt trên sàn. Tôi tự hỏi ai đã từng sống ở đây, không ai dở hơi đến nỗi để ảnh chân dung Cử tri lăn lóc trên sàn thế này cả.
Như thường lệ, tôi giấu mái tóc bên dưới chiếc mũ đã cũ sờn của trẻ bán báo. Đôi mắt tôi dán chặt vào ngôi nhà nhỏ một tầng phía bên kia đường, tay mân mê mặt dây chuyền.
Tess vừa tựa người vào khung cửa số còn lại vừa nhìn tôi. Tối nay tôi đang bồn chồn, và như mọi khi, cô bé có thể cảm nhận được điều đó.
Bệnh dịch đã ồ ạt tràn vào khu Lake của chúng tôi. Dưới ánh sáng từ những màn hình khổng lồ, Tess và tôi có thể nhìn thấy bọn lính ở cuối phố đang lục soát từng ngôi nhà, áo choàng đen của chúng trông sáng bóng và thùng thình trong hơi nóng. Tên nào
cũng đeo mặt nạ chống độc. Thỉnh thoảng, chúng bước ra và đánh một chữ X lớn màu đỏ tươi trên cánh cửa của một ngôi nhà. Sau đó thì không ai được phép ra vào căn nhà đó nữa, ít nhất là khi vẫn còn có người đang để ý.
“Vẫn chưa nhìn thấy họ à?” Tess thì thầm với tôi. Nét mặt của cô bé bị che khuất trong bóng tối.
Tôi cố làm mình sao nhãng bằng cách ngồi làm một khấu súng cao su tự chế từ ống nhựa PVC cũ. “Họ chưa ăn tối, mấy tiếng rồi chưa thấy ai ngồi ở bàn ăn.” Tôi đổi tư thế và duỗi bên chân bị thương ở đầu gối ra.
“Có thể mọi người không ở nhà?”
Tôi ném về phía Tess một cái nhìn khó chịu. Cô bé đang cố gắng xoa dịu tôi, nhưng tôi đang không có tâm trạng cho chuyện đấy. “Có người thắp đèn rồi, nhìn những ngọn nến kìa. Mẹ sẽ không bao giờ lãng phí nến nếu không có ai ở nhà.”
Tess tiến lại gần tôi. “Chúng ta nên rời khỏi thành phố trong vài tuần, được không?” Cô bé cố giữ cho giọng thật bình tĩnh nhưng vẫn không sao giấu nổi sự sợ hãi. “Bệnh dịch sẽ sớm cuốn gói, anh có thể trở lại thăm gia đình sau. Anh em mình thừa tiền mua hai vé tàu mà.”
Tôi lắc đầu. “Mỗi tuần một đêm, em nhớ chứ? Hãy để anh được biết tình hình của mọi người mỗi tuần một đêm thôi.” “Vâng. Tuần này anh mới chỉ hôm nào cũng đến kiểm tra tình hình thôi.”
“Anh chỉ muốn chắc chắn là mọi người ổn thôi.”
“Nếu anh bị ốm thì sao?”
“Anh sẽ chấp nhận thôi. Mà em cũng đâu cần phải đi với anh đâu. Em có thể đợi anh ở Alta mà.”
Tess nhún vai. “Ai đó phải để mắt đến anh chứ.” Ít hơn tôi hai tuổi, mặc dù vậy, đôi khi giọng cô bé nghe chẳng khác gì người
giám hộ của tôi.
Chúng tôi yên lặng nhìn đám lính đến gần ngôi nhà của gia đình tôi. Mỗi khi chúng dừng lại ở một ngôi nhà, một tên lính đập cửa thình thình trong khi tên còn lại rút sẵn súng đứng bên cạnh. Trong vòng mười giây nếu không có ai mở cửa, bọn lính sẽ đạp cửa xông vào. Tôi không nhìn thấy lúc chúng xộc vào mỗi nhà nhưng tôi biết trình tự của chúng: một tên lính sẽ lấy mẫu máu của từng người sống trong nhà, rồi cắm vào chiếc máy đọc kết quả cầm tay để kiểm tra dịch bệnh. Toàn bộ quá trình đó diễn ra trong mười phút.
Tôi đếm số nhà nằm giữa chỗ bọn lính đang khám xét và nhà mình. Sẽ phải đợi thêm một tiếng nữa tôi mới biết số phận của gia đình mình ra sao.
Một tiếng hét thất thanh chợt vang lên từ cuối phố. Mắt đảo ngay về phía có tiếng hét, theo bản năng tay tôi chộp lấy con dao gài ở thắt lưng. Tess hít một hơi sâu.
Một người mắc bệnh dịch. Hẳn là người phụ nữ này đã bị căn bệnh hủy hoại nhiều tháng nay, vì da bà ta đầy những vết lở loét và máu. Tôi tự hỏi tại sao bọn lính lại có thể bỏ qua người này trong những đợt kiểm tra trước đó. Bà ta bước đi loạng choạng, mất phương hướng, lao người về phía trước rồi vấp, khuỵu xuống hai đầu gối. Tôi liếc nhìn về chỗ bọn lính. Giờ chúng đã phát hiện ra bà ta. Tên lính đã rút sẵn súng tiến ra giữa phố, còn mười một tên kia chỉ đứng nhìn. Một nạn nhân bị dịch bệnh không phải mối đe dọa lớn đối với chúng. Tên lính nhấc súng lên ngắm. Một chùm tia lửa sáng lên quanh người phụ nữ nhiễm dịch.
Bà ta đổ sập xuống, nằm bất động. Tên lính thong dong quay lại chỗ đồng bọn.
Tôi chỉ ước chúng tôi được một lần chạm tay vào khẩu súng của bọn lính. Một thứ vũ khí đẹp như vậy bán ngoài thị trường cũng không đắt lắm - chỉ bốn trăm tám mươi đồng Cộng hòa, còn
rẻ hơn một chiếc bếp. Giống như những loại súng khác, nó có tâm ngắm định hướng bằng điện và nam châm và có thể bắn chuẩn xác từ khoảng cách ba dãy nhà. Theo như bố tôi kể thì đó là công nghệ lấy cắp được của quân Thuộc địa. Tuy vậy, hiển nhiên chính quyền Cộng hòa sẽ chẳng bao giờ thừa nhận điều đó. Tôi và Tess có thể mua năm khẩu nếu chúng tôi muốn... Nhiều năm nay, chúng tôi đã học cách dự trữ khoản tiền ăn trộm được và cất giấu vào nơi an toàn. Nhưng vấn đề thực sự không phải nằm ở tiền bạc, mà là với khẩu súng đó thì chúng tôi sẽ dễ dàng bị lần ra. Mỗi khẩu súng đều có thiết bị cảm biến báo về trung tâm hình dạng tay, dấu vân tay và vị trí của người dùng. Nếu cái đó mà còn không làm tôi bị lộ nữa thì chắc chẳng còn gì để mà nói rồi. Vậy nên tôi vẫn chỉ dùng vũ khí tự chế, ná thun làm bằng ống PVC và những thứ rẻ tiền khác.
“Chúng lại tìm thấy một nhà nữa rồi,” Tess nói. Cô bé nheo mắt để nhìn rõ hơn.
Tôi nhìn xuống thì thấy bọn lính bước ra từ một căn nhà khác. Một tên lắc bình xịt và sơn một chữ X khống lồ màu đỏ tươi lên cánh cửa. Tôi biết căn nhà này. Gia đình sống ở đó từng có một đứa con gái bằng tuổi tôi. Ba anh em tôi đã chơi với cô bé hồi còn nhỏ, trò đồ cứu và khúc côn cầu đường phố dùng que sắt và bóng giấy.
Tess cố làm tôi sao nhãng bằng cách hất đầu về phía bọc vải gần chân tôi. “Anh mang gì cho mọi người thế?”
Tôi cười rồi với tay tháo cái bọc ra. “Một vài thứ chúng ta tiết kiệm được tuần này. Nó sẽ là một món quà chúc mừng mọi người vượt qua cuộc kiểm dịch.” Tôi lục cái đống nho nhỏ những thứ hay ho chứa trong bọc rồi rút ra một cặp kính bảo hộ. Tôi kiểm tra lại để chắc rằng mặt kính không bị nứt. “Cái này là cho anh John. Một món quà sinh nhật sớm.” Cuối tuần này anh trai tôi sẽ tròn mười chín tuổi. Một ngày anh làm việc tới mười bốn tiếng tại lò
mài của nhà máy ở gần đây và luôn trở về nhà trong tình trạng phải dụi mắt vì khói. Cặp kính báo hộ này là món hời cuỗm được từ một đợt chuyển hàng tiếp viện quân sự.
Tôi đặt nó xuống và lật tung đống đồ còn lại lên. Hầu hết là thịt và khoai tây trộn đóng hộp mà tôi lấy trộm được trong căng tin một khinh khí cầu, và một đôi giày cũ đế còn lành lặn. Tôi ước mình có thể ở trong căn phòng đủ mặt mọi người khi tôi đưa những thứ này tới. Nhưng John là người duy nhất biết tôi còn sống, và anh đã hứa sẽ không kể với mẹ hoặc Eden.
Hai tháng nữa Eden sẽ tròn mười tuổi, điều đó cũng có nghĩa là hai tháng nữa thằng bé sẽ phải tham gia kỳ Sát hạch. Tôi đã trượt kỳ Sát hạch của mình khi tôi mười tuổi. Đó là lý do tôi lo lắng cho Eden, vì mặc dù thằng bé thông minh nhất trong ba anh em nhưng cách nó suy nghĩ lại chẳng khác gì tôi. Khi hoàn thành bài Sát hạch, tôi đã tự tin về những câu trả lời của mình đến mức thậm chí còn chẳng buồn để ý họ chấm điểm thế nào. Nhưng rồi ban quản lý dẫn tôi đến một góc của sân vận động Sát hạch cùng với một đám trẻ con khác. Họ đóng dấu gì đó vào bài kiểm tra của tôi và tống tôi lên một con tàu hướng thẳng về khu trung tâm. Tôi không được mang theo thứ gì trừ mặt dây chuyền đeo trên cổ mình. Tôi thậm chí còn không được nói lời tạm biệt.
Một vài điều khác biệt có thể xảy ra sau khi bạn tham gia kỳ Sát hạch.
Bạn đạt điểm số tuyệt đối 1500 điểm, chưa ai từng đạt nổi số điểm này, ờ thì, chỉ trừ mấy năm về trước có một đứa trẻ, nó đã làm quân đội om sòm cả lên. Ai mà biết chuyện gì sẽ xảy ra với đứa bé đạt điểm cao như vậy? Rất nhiều tiền và quyền lực chăng?
Bạn được từ 1450 đến 1499 điểm. Hãy tự chúc mừng mình đi vì bạn sẽ ngay lập tức được nhận vào học sáu năm ở trường trung học và rồi bốn năm ở một trong những trường đại học danh giá nhất của nước Cộng hòa: trường Stanford, trường Drake và trường
Brenan. Quốc hội sẽ tuyển bạn vào làm và bạn sẽ kiếm được rất nhiều tiền. Sau đó là sung sướng và hạnh phúc. Ít nhất đấy là theo lời của chính phủ Cộng hòa.
Bạn được điểm số tốt từ 1250 đến 1449 điểm. Bạn sẽ tiếp tục học lên trung học rồi được chỉ định vào học một trường cao đẳng nào đó. Thế cũng không tệ lắm.
Bạn vừa đủ điếm số tối thiểu khoảng 1000 đến 1249. Quốc hội sẽ cấm bạn học trung học. Bạn phải làm việc chân tay, như anh trai tôi, John. Và rồi có lẽ bạn sẽ chết đuối khi sửa chữa tua bin nước hoặc bị chết ngạt trong mấy cái nhà máy điện.
Bạn trượt.
Hầu hết trường hợp này đều là lũ trẻ con đến từ khu ổ chuột. Nếu bạn thuộc nhóm không may mắn này, chính phủ Cộng hòa sẽ cho người đến nhà bạn. Họ bắt bố mẹ bạn ký vào hợp đồng trao toàn quyền giám hộ bạn cho chính phủ. Họ nói rằng bạn đã được gửi đến trại lao động của chính quyên Cộng hòa và gia đình sẽ không được phép gặp lại bạn. Bố mẹ bạn buộc phải gật đầu chấp nhận. Một số gia đình thậm chí còn ăn mừng vì viên chức nhà nước cho mỗi nhà một ngàn đồng Cộng hòa coi như quà an ủi. Vừa bớt đi một miệng ăn vừa được cho tiền? Quả là một chính phủ chu đáo và ân cần.
Chỉ trừ một việc, tất cả đều là dối trá. Một đứa trẻ thấp kém với mã gen xấu là gánh nặng cho đất nước. Nếu bạn may mắn, Quốc hội sẽ để bạn được chết trước khi bị gửi đến phòng thí nghiệm để kiểm tra các khiếm khuyết.
Còn năm ngôi nhà nữa. Tess nhìn thấy vẻ căng thẳng trong ánh mắt của tôi và đặt một tay lên trán tôi. “Lại một cơn đau đầu nữa ạ?”
“Không. Anh không sao.” Tôi nhìn chăm chú vào khung cửa sổ mở nhà mình, rồi bỗng thấy một gương mặt thân quen. Eden bước qua, rồi nhòm ra ngoài cửa sổ nhìn đám lính đang tiến lại và chĩa
một thiết bị tự tạo kỳ lạ bằng kim loại về phía chúng. Rồi thằng bé khom người lại và biến mất khỏi tầm nhìn. Những lọn tóc xoăn của nó ánh màu bạch kim dưới ánh đèn lập lòe. Biết tính nó, tôi đoán chắc thằng bé làm cái máy đó để đo khoảng cách hoặc thứ gì đó tương tự.
“Thằng bé có vẻ gầy đi,” tôi lẩm bẩm.
“Nó còn sống và vẫn đi lại được, em thấy thế là may mắn rồi,” Tess nói.
Vài phút sau, chúng tôi nhìn thấy mẹ tôi và John qua cửa sổ, đang say sưa trò chuyện. Tôi và John trông khá giống nhau, mặc dù trông anh rắn rỏi hơn sau những ngày dài làm việc trong nhà máy. Tóc anh, giống như mọi người sống trong khu này, dài qua vai và buộc đơn giản ra đằng sau. Anh mặc chiếc áo khoác lấm lem vết đất sét đỏ. Tôi có thể thấy mẹ đang mắng anh về điều gì đó, có thể vì để Eden ngó ra ngoài cửa sổ. Mẹ hất tay anh John ra khi cơn ho mãn tính hành hạ mình. Tôi thở phào nhẹ nhõm, vậy ít nhất cả ba người đều khỏe mạnh và đi lại được, và kể cả nếu một người nhiễm dịch thì vẫn còn đủ thời gian để họ có thể hồi phục.
Tôi không thể ngừng tưởng tượng những điều sẽ xảy ra nếu bọn lính đánh dấu X lên cửa nhà mình. Gia đình tôi sẽ chết lặng trong phòng khách một lúc lâu sau khi bọn lính rời đi. Rồi mẹ sẽ cố tỏ ra cứng cỏi như mọi khi, để rồi lại ngồi một mình thâu đêm, lặng lẽ lau những giọt nước mắt chảy dài. Sáng hôm sau, họ sẽ bắt đầu nhận vài khẩu phần thức ăn ít ỏi rồi chỉ ngồi chờ đến lúc khỏi bệnh, hoặc chờ chết.
Tâm trí tôi trôi về số tiền ít ỏi mà tôi và Tess tích trữ được, hai ngàn năm trăm đồng Cộng hòa, đủ để chúng tôi ăn trong vài tháng... nhưng không đủ cho gia đình tôi mua những lọ thuốc chữa bệnh.
Từng phút chậm chạp trôi qua. Tôi cất chiếc ná cao su đi và chơi oẳn tù tì với Tess để giết thời gian (Tôi không hiểu sao Tess
lại chơi cực giỏi trò này). Vài lần tôi nhìn về cửa sổ nhà mình, nhưng không thấy ai đi ngang qua nữa. Mọi người chắc đang đứng tập trung ở cửa chính, sẵn sàng mở khi nghe tiếng đập cửa của bọn lính.
Và rồi cũng đến lúc. Tôi ngồi trên gờ cửa số nhoài hẳn người về phía trước đến mức Tess phải giữ chặt tay tôi lại để tôi không ngã xuống dưới. Tên lính đập cửa. Mẹ tôi ra mở cửa ngay lập tức và mời bọn lính vào nhà, sau đó cánh cửa đóng lại. Tôi căng tai ra nghe ngóng tiếng nói chuyện, tiếng bước chân hay bất cứ tiếng động nào phát ra từ nhà tôi. Việc này xong càng sớm thì tôi càng sớm được lén gửi món quà của mình đến anh John.
Sự yên lặng kéo dài. Tess thì thầm, “Không thấy tin gì thì lại là tin tốt phải không ạ?”
“Đùa hay đấy.”
Tôi nhẩm đếm từng giây trong đầu. Một phút trôi qua, rồi lại hai phút, bốn phút và cuối cùng là mười phút.
Mười lăm phút rồi hai mươi phút đã trôi qua.
Tôi nhìn về phía Tess, cô bé đáp lại bằng một cái nhún vai. “Có thế máy đọc kết quả bị hỏng,” em nói.
Ba mươi phút đã trôi qua. Tôi không dám rời mắt. Tôi sợ sẽ xảy ra một chuyện gì đó rất nhanh, khiến tôi không kịp nhìn thấy nếu tôi chớp mắt. Ngón tay tôi ngõ từng nhịp đều đều trên cán dao. Bốn mươi phút. Năm mươi phút. Tròn một tiếng.
“Đã có chuyện không hay rồi,” tôi thì thầm.
Tess mím môi. “Anh không thể biết được.”
“Có, anh biết. Làm sao có thể lâu như vậy được?”
Tess mở miệng định đáp trả, nhưng trước khi cô bé kịp nói thì bọn lính bước ra từ nhà tôi, từng tên một, khuôn mặt vô cảm. Khi tất cả bọn lính đã bước ra ngoài, tên cuối cùng đóng cửa lại và đưa tay lên thắt lưng để tìm thứ gì đó. Đột nhiên tôi thấy choáng váng.
Tôi biết chuyện gì sắp xảy ra.
Tên lính vươn tay phun lên cánh cửa nhà chúng tôi một đường chéo dài màu đỏ tươi. Rồi hắn phun thêm một đường chéo thứ hai tạo thành chữ X.
Tôi rủa thầm trong bụng và chuẩn bị quay đi thì bỗng tên lính lại làm một việc không ngờ đến, việc mà tôi chưa thấy bao giờ. Hắn xịt thêm một đường sơn thứ ba trên cánh cửa nhà tôi, thẳng từ trên xuống dưới chia đôi chữ X.
JUNE
13:47
ĐẠI HỌC DRAKE, KHU BATALLA.
22 ĐỘ C.
Tôi đang ngồi trong văn phòng của thư ký chủ nhiệm khoa. Lại một lần nữa. Phía bên kia cửa kính mờ, tôi có thể thấy đám bạn cùng lớp (năm cuối, tất cả đều hơn tôi ít nhất bốn tuổi) đang lảng vảng ở bên ngoài để nghe ngóng xem chuyện gì đang xảy ra. Một vài đứa thấy tôi bị hai người lính gác đầy vẻ hăm dọa lôi đi khỏi buổi luyện tập chiều (bài học hôm nay: cách lên đạn và tháo đạn súng trường XM-621). Và bất cứ khi nào chuyện này xảy ra thì tin tức lại được lan truyền ra khắp trường.
Thần đồng bé nhỏ cục cưng của chính quyền Cộng hòa lại gặp rắc rối.
Văn phòng khá im ắng ngoại trừ tiếng rì rì nho nhỏ phát ra từ chiếc máy tính của thư ký chủ nhiệm khoa. Tôi đã ghi nhớ tất cả các chi tiết của căn phòng này (sàn đá cẩm thạch cắt bằng tay nhập từ Dakota, 324 ô nhựa lát trần, rèm cửa màu ghi dài sáu mét treo hai bên bức chân dung Cử tri vĩ đại ở bức tường phía xa trong văn phòng, màn hình ba mươi inch ở bức tường bên, tắt tiếng và đang hiện một dòng tin có nội dung: “NHÓM ‘ÁI QUỐC’ PHẢN BỘI ĐÁNH BOM TRẠM QUÂN SỰ ĐỊA PHƯƠNG, SÁT HẠI NĂM NGƯỜI,” tiếp theo là “QUÂN CỘNG HÒA GIÀNH THẮNG LỢI TRƯỚC QUÂN THUỘC ĐỊA TRONG TRẬN CHIẾN HILLSBORO”).
Arisna Whitaker, thư ký chủ nhiệm khoa, đang ngồi sau bàn của mình, gõ tay lên mặt kính, chắc chắn là đang đánh máy bản báo cáo về tôi. Đó sẽ là bản báo cáo thứ tám về tôi trong quý này. Tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng mình là sinh viên Drake duy nhất từng có đến tám bản báo cáo trong một quý mà không bị đuổi học.
“Bị đau tay ngày hôm qua phải không cô Whitaker?” Sau một lúc, tôi bắt đầu nói.
Cô ta ngừng đánh máy và nhìn tôi trừng trừng. “Điều gì khiến trò nghĩ vậy, trò Iparis?”
“Khoảng ngừng giữa các lần gõ phím của cô khá dài. Cô cũng đang chủ yếu dùng tay trái nữa.”
Cô Whitaker thở dài và ngả người lên ghế. “Đúng vậy, June. Hôm qua tôi bị trẹo cổ tay trong một trận kivaball.” “Rất tiếc vì điều đó. Cô nên cố đánh bằng lực cánh tay thay vì dùng lực cổ tay.”
Tôi chỉ có ý khẳng định một thực tế nhung câu nói lại nghe như một lời châm chọc và chẳng có vẻ gì làm cô ta vui lên. “Hãy thẳng thắn luôn nhé, trò Iparis,” cô ta nói. “Trò có thể nghĩ rằng mình rất thông minh. Trò có thể nghĩ điểm số tuyệt đối cho phép mình được đối xử đặc biệt. Trò thậm chí có thể nghĩ mình có người hâm mộ trong ngôi trường này, điều tạo ra cái cảnh vớ vẩn ngoài kia.” Cô ta ra hiệu về phía đám sinh viên tụ tập ngoài cửa. “Nhưng tôi đã cực kỳ mệt mỏi với những lần gặp nhau thế này ở văn phòng tôi rồi. Và tin tôi đi, khi trò tốt nghiệp và được giao cho bất kỳ chức vụ nào mà đất nước này chọn cho trò, những trò hề của trò sẽ không gây được ấn tượng gì cho cấp trên đâu. Trò hiểu tôi nói gì chứ?”
Tôi gật đầu, vì đó là những điều cô ta muốn tôi làm. Nhưng cô ta đã nhầm. Tôi không chỉ nghĩ mình thông minh. Tôi là người duy nhất trên toàn bộ đất nước Cộng hòa này đạt điểm tối đa 1500 trong kỳ Sát hạch. Tôi được chỉ định đến đây, đến trường đại học hàng đầu của đất nước này, khi mười hai tuổi, sớm hơn thông
thường bốn năm. Rồi tôi nhảy cóc vượt qua năm thứ hai. Tôi đạt điểm tuyệt đối ở Drake trong cả ba năm học. Tôi thực sự thông minh. Tôi có cái mà chính quyền Cộng hòa gọi là bộ gen tốt, và bộ gen tốt hơn làm nên những người lính tốt hơn, những người lính tốt hơn làm tăng cơ hội đánh thắng quân Thuộc địa, như các giáo sư của tôi vẫn nói. Và nếu tôi cảm thấy những buổi luyện tập chiều không dạy đủ cho mình về cách trèo tường khi mang vũ khí, thì... ừm, tôi không có lỗi khi phải leo lên một tòa nhà mười chín tầng với một khẩu XM-621 trên lưng. Đó là sự tự tiến bộ để phục vụ lợi ích của đất nước.
Người ta đồn rằng Day từng trèo lên năm tầng nhà chỉ mất chưa tới tám giây. Nếu tên tội phạm bị truy nã gắt gao nhất cái đất Cộng hòa này có thể đạt được mức đó thì làm sao chúng ta bắt được hắn nếu chúng ta không nhanh được như thế? Và nếu chúng ta thậm chí còn không thể bắt được hắn thì làm sao chúng ta thắng được cuộc chiến tranh này?
Bàn cô Whitaker phát ra ba tiếng bíp. Cô ta giữ chặt một nút bấm. “Vâng?”
“Đại úy Metias Iparis đang ở ngoài cổng,” một giọng nói trả lời. “Anh ta đến gặp em gái.”
“Tốt. Cho anh ta vào.” Cô ta nhả nút bấm ra và chỉ tay về phía tôi. “Tôi hy vọng anh trai trò sẽ bắt đầu làm tốt hơn cái công việc nhắc nhở trò, vì nếu trò lại một lần nữa đến văn phòng tôi trong quý này...”
“Metias đang làm tốt hơn cha mẹ quá cố của chúng tôi,” tôi đáp lời, có lẽ là gay gắt hơn dự định.
Chúng tôi rơi vào bầu không khí im lặng không thoải mái chút nào.
Cuối cùng, sau khoảng thời gian tưởng như vô tận, tôi nghe thấy tiếng huyên náo ngoài hành lang. Đám sinh viên chen lấn bên ngoài cửa kính đột nhiên dạt ra, bóng của họ tách sang hai bên để
nhường chỗ cho một hình bóng cao lớn. Anh trai tôi. Khi anh Metias mở cửa bước vào trong, tôi có thể thấy vài đứa con gái ngoài hành lang che miệng cười tủm tỉm. Nhưng anh Metias tập trung toàn bộ sự chú ý vào tôi. Chúng tôi có đôi mắt giống nhau, màu đen ánh vàng, đôi hàng mi dài và mái tóc đen cũng giống nhau nốt. Hàng mi dài cực kỳ hợp với anh Metias. Thậm chí khi cánh cửa đã đóng sau lưng anh, tôi vẫn có thể nghe thấy những tiếng thì thầm và tiếng cười khúc khích từ bên ngoài. Trông có vẻ như anh đi thẳng từ phiên tuần tra của mình về đây. Anh vẫn đang mặc nguyên cả bộ quân phục: áo khoác sĩ quan màu đen với hai hàng khuy vàng, găng tay (bằng cao su tổng hợp neoprene, lót sợi spectra, thêu quân hàm đại úy), cầu vai sáng lóa, mũ quân đội, quần đen, giày sáng bóng. Mắt tôi chạm mắt anh. Anh đang nổi giận.
Cô Whitaker tươi cười với anh Metias. “À, Đại úy!” cô thốt lên. “Rất vui được gặp anh.”
Metias đưa tay lên mũ, chào theo đúng phép lịch sự. “Thật không may vì một lần nữa ta lại gặp nhau trong tình cảnh thế này,” anh đáp. “Xin lỗi cô.”
“Không sao đâu, thưa Đại úy.” Thư ký chủ nhiệm khoa vẫy tay xua đi. Đúng là đồ nịnh bợ, đặc biệt là sau những gì cô ta vừa nói về anh Metias. “Đó hầu như không phải lỗi của anh. Em gái anh bị bắt khi đang trèo lên một tòa nhà cao tầng trong giờ ăn trưa hôm nay. Cô bé đi lang thang cách trường hai khu nhà để làm việc đó. Anh biết đấy, sinh viên chỉ được dùng tường trong trường để luyện thể lực và rời khỏi trường giữa ban ngày ban mặt là một việc bị cấm... “
“Vâng, tôi có biết điều đó,” anh Metias ngắt lời, liếc nhìn tôi. “Hồi trưa tôi thấy mấy cái trực thăng bay phía trên trường Drake nên chợt... nghi ngờ có lẽ June dính dáng đến việc này.” Đã có ba chiếc trực thăng. Không thể tự leo lên tòa nhà bắt tôi
xuống nên họ đã dùng lưới kéo tôi.
“Cảm ơn vì sự giúp đỡ của cô,” anh Metias nói với thư ký chủ nhiệm khoa. Anh búng ngón tay về phía tôi, ra hiệu cho tôi đứng lên. “Khi June quay lại trường, cô bé sẽ cư xử hết sức đúng mực.”
Tôi lờ nụ cười giả tạo của cô Whitaker đi khi tôi theo sau anh trai mình ra khỏi văn phòng bước vào hành lang. Ngay lập tức đám sinh viên đuổi theo. “June,” một anh chàng tên Dorian nói khi anh ta bám theo chúng tôi. Anh ta từng mời tôi (nhưng không thành công) đến dạ hội thường niên của trường Drake hai năm liền. “Có đúng không? Em leo cao được đến đâu?”
Anh Metias ngắt lời anh ta với một cái nhìn lạnh lùng. “June đang đi về.” Rồi anh giữ chặt một bên vai tôi và dẫn tôi đi khỏi đám bạn học. Tôi liếc nhìn phía sau và cố mỉm cười với họ.
“Mười bốn tầng,” tôi nói với lại. Thông tin đó lại làm họ xôn xao. Không hiểu sao, đây đã trở thành mối quan hệ gần gũi nhất mà tôi có với những sinh viên khác ở Drake. Tôi được tôn trọng, mọi người bàn tán và đưa chuyện về tôi. Nhưng họ không thực sự nói chuyện với tôi.
Đó chính là cuộc sống của một sinh viên năm cuối mười lăm tuổi trong một trường đại học cho đám mười sáu tuổi trở lên. Anh Metias không nói thêm một lời nào khi chúng tôi đi dọc hành lang, băng qua bãi cỏ xén tỉa cẩn thận của khu sân trong và tượng của Cử tri vĩ đại, và cuối cùng là xuyên qua một nhà thi đấu. Chúng tôi đi qua bãi luyện tập chiều mà đáng lẽ tôi cũng đang phải tham gia. Tôi quan sát đám bạn cùng lóp chạy dọc theo một đường chạy khổng lồ bao quanh là một màn hình 360 độ tái hiện một con đường tan hoang nào đó ngoài chiến trường. Họ đang ôm súng trường trước ngực, cố gắng vừa chạy vừa lên đạn và tháo đạn nhanh hết mức. Ở hầu hết các trường đại học khác, thường sẽ không có nhiều thiếu sinh quân, nhưng ở Drake, hầu như tất cả chúng tôi đều sẽ làm việc trong quân đội Cộng hòa. Một vài người
khác được chỉ định làm chính trị và làm trong Quốc hội, còn một số thì được chọn ở lại tham gia công việc giảng dạy. Nhưng Drake là trường đại học tốt nhất của nước Cộng hòa, và với việc những sinh viên xuất sắc nhất luôn được phân công nhập ngũ, phòng tập huấn của chúng tôi luôn chật kín sinh viên.
Đến lúc chúng tôi tới một con phố ở vòng ngoài khuôn viên Drake và tôi trèo lên ghế sau chiếc xe jeep quân đội đang đợi sẵn, anh Metias gần như không thể kiềm chế cơn tức giận được nữa. “Bị đình chỉ một tuần? Em có muốn giải thích gì với anh không?” Anh chất vấn.
“Anh trở về sau một buổi sáng phải giải quyết quân nổi dậy Ái quốc và anh đã nghe thấy gì chứ? Trực thăng ở cách Drake hai khu nhà. Một cô gái đang leo lên một tòa nhà chọc trời.”
Tôi trao đổi một ánh nhìn thân thiện với Thomas, người lính đang ngồi ở ghế lái. “Em xin lỗi,” Tôi lẩm bẩm.
Anh Metias quay lại từ ghế phụ phía trên và nheo mắt nhìn tôi. “Em nghĩ cái quái gì thế? Em có biết em đã bỏ ra khỏi khuôn viên trường không?”
“Có.”
“Tất nhiên rồi. Em mười lăm rồi đấy. Em leo mười bốn tầng...” Anh hít một hơi thật sâu, nhắm mắt và cố bình tĩnh lại. “Một lần này nữa thôi, anh sẽ rất biết ơn nếu em để anh thực hiện nhiệm vụ tuần tra hằng ngày của mình mà không phải lo lắng đến phát ốm xem em đang âm mưu làm gì.”
Tôi cố nhìn vào mắt Thomas lần nữa qua gương chiếu hậu, nhưng mắt anh vẫn nhìn đường. Tất nhiên, tôi không nên hy vọng sự giúp đỡ gì từ anh. Anh trông vẫn chỉn chu như mọi khi, với mái tóc bóng mượt hoàn hảo và bộ quân phục là lượt hoàn hảo. Không một sợi tóc hay đường chỉ nào đi lạc. Thomas hình như trẻ hơn anh Metias vài tuổi và là một thuộc cấp trong đơn vị của anh tôi, nhưng anh kỷ luật hơn bất kỳ ai mà tôi biết. Đôi khi tôi ước mình
cũng kỷ luật được như thế. Thomas có khi còn không chấp nhận cái trò tôi làm hơn cả anh Metias ấy chứ.
Chúng tôi bỏ lại khu trung tâm Los Angeles sau lưng và đi ngược con đường cao tốc uốn khúc trong im lặng. Khung cảnh thay đổi từ những tòa nhà một trăm tầng phía trong khu Batalla đến những tháp lính và khu chung cư chật ních, mỗi cái chỉ cao khoảng hai mươi đến ba mươi tầng, với những bóng đèn dẫn đường đỏ nhấp nháy trên mái, phần lớn đã bị tróc hết lóp sơn sau liên tiếp những trận bão đột ngột xuất hiện trong năm nay. Những thanh giằng kim loại đan chéo nhau trên tường. Tôi hy vọng họ sẽ sớm nâng cấp chúng. Cuộc chiến đang ngày càng khốc liệt, và vì hàng bao nhiêu thập kỷ qua nguồn kinh phí cho cơ sở hạ tầng đều được chuyển sang cung cấp cho mặt trận, tôi cũng không biết những tòa nhà này có chịu nổi thêm một trận động đất nữa hay không.
Sau vài phút, anh Metias tiếp tục với giọng nhẹ nhàng hơn. “Hôm nay em thực sự làm anh sợ đấy,” anh nói. “Anh sợ họ nhầm em với Day và sẽ bắn hạ em.”
Tôi biết anh không có ý khen nhưng tôi vẫn không thể không mỉm cười. Tôi nghiêng người về phía trước để tựa hai tay vào ghế của anh. “Này,” Tôi nói và kéo tai anh như tôi vẫn từng làm khi còn bé, “Em xin lỗi vì làm anh lo lắng.”
Anh cười khẩy vẻ không quan tâm nhưng tôi có thể thấy cơn giận của anh đã dần biến mất. “Ừ. Lần nào em chẳng nói thế hả June-bọ. Hay là việc học ở trường Drake không đủ để em phải luôn động não? Nếu không thì anh cũng chẳng biết cái gì sẽ là đủ với em nữa.”
“Anh biết đấy... nếu anh chỉ cần đưa em theo trong một số nhiệm vụ của anh, em có thể sẽ học được nhiều hơn nữa và tránh xa khỏi những rắc rối.”
“Có cố gắng đấy. Nhưng em sẽ không đi đâu cả cho đến khi em
tốt nghiệp và được phân công vào một đơn vị quân của riêng mình.”
Tôi cắn phải lưỡi. Anh Metias đã chọn tôi một lần, một lần, trong một nhiệm vụ năm ngoái, khi tất cả sinh viên năm ba của Drake phải đến theo dõi một doanh trại quân đội được chỉ định trước. Chỉ huy giao cho anh nhiệm vụ tiêu diệt một tù nhân chiến tranh vượt ngục từ lãnh thổ Thuộc địa. Vì thế nên anh Metias đã đưa tôi đi cùng, và chúng tôi đã cùng nhau truy đuổi tên tù chiến tranh này ngày càng sâu vào trong lãnh thổ Cộng hòa, rời xa khỏi những hàng rào chia cắt và dải đất chạy từ Dakota đến Tây Texas phân chia giữa Cộng hòa và Thuộc địa, rời xa khỏi chiến trường nơi lấm chấm những khinh khí cầu đang bay trên bầu trời. Tôi đuổi theo hắn đến một con ngõ ở thành phố Yellowstone, Montana, và anh Metias đã bắn hắn.
Trong suốt cuộc truy đuổi, tôi bị gãy ba cái xương sườn và bị một con dao đâm vào chân. Bây giờ thì anh Metias từ chối đưa tôi đi bất kỳ đâu.
Rồi cuối cùng anh Metias cũng chịu nói tiếp, giọng anh tò mò một cách miễn cưỡng. “Này, nói anh nghe,” anh thì thầm. “Em trèo mười bốn tầng nhà đó nhanh đến mức nào?”
Thomas hắng giọng tỏ vẻ không đồng tình, nhưng tôi thì cười toe toét. Dông bão đã qua. Anh Metias lại yêu quý tôi rồi. “Sáu phút,” tôi thì thầm đáp lời anh. “Và bốn mươi bốn giây. Anh thấy được không?”
“Có vẻ cũng là kỷ lục đấy. Nhưng nhớ rằng, điều đó không có nghĩa là em được phép làm như thế đâu.”
Thomas dừng xe ngay trước vạch đèn đỏ và hướng về anh Metias một ánh mắt bực bội. “Thôi nào, Đại úy,” anh nói. “June... à... cô Iparis sẽ chẳng học được bài học nào nếu anh cứ tiếp tục tán dương những trò vô kỷ luật của cô ấy.”
“Thoáng tí đi Thomas.” Metias với tay qua vỗ nhẹ vào lưng anh.
“Chắc chắn lâu lâu vô kỷ luật một lần là có thể tha thứ được, đặc biệt nếu cậu làm thế để nâng cao kỹ năng của mình vì lợi ích của nước Cộng hòa. Chiến thắng quân Thuộc địa. Phải không?”
Đèn chuyển sang xanh. Thomas lại quay lại nhìn đường (hình như anh còn đếm nhẩm từ một đến ba trước khi cho chiếc jeep phóng đi). “Đúng vậy,” anh lẩm bẩm. “Anh vẫn nên cẩn thận với những gì mình đang khuyến khích cô Iparis làm, đặc biệt khi cha mẹ anh đều đã mất.”
Miệng anh Metias mím lại và một vẻ căng thẳng quen thuộc lại xuất hiện trong đôi mắt anh.
Bất kể trực giác của tôi có sắc bén thế nào, bất kể tôi học ở Drake tốt ra sao hoặc tôi đạt điểm số hoàn hảo đến mức nào về tự vệ, bắn súng và cận chiến thì ánh mắt anh Metias vẫn luôn ánh lên nỗi sợ hãi ấy. Anh lo rằng một ngày nào đó chuyện gì đó có thể xảy ra với tôi, giống như vụ tai nạn xe đã cướp mất cha mẹ chúng tôi. Nỗi lo sợ ấy không bao giờ biến mất trên khuôn mặt anh. Và Thomas biết điều đó.
Tôi không được sống với cha mẹ đủ lâu để có cảm giác nhớ nhung như anh Metias. Những khi tôi khóc vì nhớ cha mẹ thì thực chất đó là khóc vì tôi không có bất kỳ ký ức nào về cả hai. Chỉ là những hồi tưởng mờ nhạt về những đôi chân người lớn thật dài di chuyển quanh căn hộ của chúng tôi và những bàn tay bế tôi lên khỏi ghế ăn. Chỉ có thế. Tất cả những ký ức khác của tuổi thơ tôi, có mặt ở khán phòng khi tôi nhận một giải thưởng hoặc nấu xúp khi tôi bị ốm hoặc bị người lớn mắng mỏ hoặc đắp chăn cho tôi đi ngủ, đều là với anh Metias cả.
Chúng tôi lái xe đi qua nửa khu Batalla và qua một vài khu dân nghèo. (Mấy người ăn xin này không thể tránh xa xe jeep của chúng tôi thêm một chút được sao?) Cuối cùng chúng tôi cũng đến những khu nhà cao tầng long lanh nằm san sát của khu Ruby, và chúng tôi về đến nhà. Anh Metias xuống xe trước. Khi tôi bước
theo sau, Thomas trao cho tôi một nụ cười nhẹ.
“Hẹn gặp lại sau cô Iparis,” Anh nói, tay chạm nhẹ vào mũ. Tôi đã thôi không cố thuyết phục anh gọi tôi là June nữa, anh sẽ chẳng bao giờ thay đổi đâu. Dẫu sao, cũng không quá tệ khi được gọi tên theo đúng phép lịch sự. Có thể khi tôi lớn hơn và anh Metias không bị ngất trước cái ý tưởng rằng tôi sẽ hẹn hò... “Chào, Thomas. Cảm ơn đã cho đi nhờ.” Tôi mỉm cười đáp lại anh trước khi bước xuống xe.
Anh Metias đợi cho đến khi cánh cửa hoàn toàn đóng lại mới quay sang tôi thì thầm. “Anh sẽ về muộn tối nay đấy,” anh nói. Lại có nét căng thẳng trong ánh mắt anh. “Đừng ra ngoài một mình. Tin tức từ chiến trường báo rằng họ sẽ cắt điện sinh hoạt tối nay để tiết kiệm năng lượng cho các khu sân bay. Nên cứ ở nhà nhé, được không? Phố xá sẽ tối hơn bình thường đấy.”
Trái tim tôi bỗng chùng xuống. Tôi ước chính quyền Cộng hòa sẽ tăng tốc và giành chiến thắng trong cuộc chiến này để ít nhất một lần chúng tôi thực sự có nguyên một tháng không bị cắt điện. “Anh đi đâu thế? Em đi cùng được không?”
“Anh đang giám sát phòng thí nghiệm ở Trung tâm Los Angeles. Họ đang vận chuyển những lọ virus đột biến đến đó, chắc không mất cả đêm đâu. Và anh đã bảo em là không rồi mà. Không nhiệm vụ nào cả.” Anh Metias ngập ngừng. “Anh sẽ về nhà sớm nhất có thể. Chúng ta còn nhiều điều cần trao đổi lắm đấy.” Anh đặt hai tay lên vai tôi, lờ đi cái nhìn hoang mang của tôi, và hôn nhanh lên trán tôi. “Yêu em, June-bọ,” anh nói, kiểu chào tạm biệt đặc trưng của anh. Anh quay lại và trèo lên xe jeep.
“Em sẽ không thức đợi anh đâu,” tôi gọi với theo anh, nhưng lúc này anh đã ngồi vào và chiếc xe jeep lăn bánh đưa anh đi. “Cẩn thận nhé,” tôi thì thầm.
Nhưng nói ra bây giờ cũng vô nghĩa rồi. Anh Metias đã ở quá xa không thể nghe thấy tôi.
DAY
Năm tôi bảy tuổi, bố tôi từ chiến trường trở về nhà nghỉ phép một tuần. Công việc của ông là dọn dẹp thu xếp cho những người lính Cộng hòa, nên ông thường xuyên không có nhà và mẹ phải một mình nuôi dạy ba anh em chúng tôi. Lần đó khi ông trở về, quân tuần tra thành phố tiến hành kiểm tra nhà chúng tôi như thường lệ, rồi lôi bố đến đồn cảnh sát địa phương để tra hỏi. Họ thấy gì đó khả nghi, tôi đoán vậy.
Cảnh sát đưa ông về với hai cánh tay bị bẻ gãy, khuôn mặt đầy máu và vết bầm.
Vài đêm sau đó, tôi đã nhúng một quả cầu băng vụn vào can xăng, để xăng đông lại thành lớp vỏ dày bọc quanh khối băng rồi đốt. Sau đó tôi dùng súng cao su bắn quả cầu vào cửa sổ trụ sở cảnh sát địa phương. Tôi nhớ ngay sau đó xe cứu hỏa hú còi inh ỏi quanh góc phố và chái nhà phía Tây của trụ sở cảnh sát chỉ còn lại một đống tro tàn. Họ không bao giờ tìm ra kẻ làm chuyện này và tôi cũng không bao giờ tự thú. Xét cho cùng, không có bằng chứng nào cả. Tôi đã thực hiện phi vụ đầu tiên của mình một cách hoàn hảo.
Mẹ tôi từng hy vọng tôi sẽ vươn lên khỏi nguồn gốc thấp kém của mình. Trở thành người thành công hoặc thậm chí là nổi tiếng. Giờ thì tôi nổi tiếng rồi nhưng tôi không nghĩ đây là điều mà mẹ đã hy vọng.
Màn đêm lại buông xuống, đã bốn mươi tám giờ kể từ khi đám
lính đánh dấu lên cánh cửa nhà tôi.
Tôi đứng đợi trong bóng tối của một con ngõ cách Bệnh viện Trung tâm Los Angeles một dãy phố, quan sát nhân viên tràn vào và đổ ra từ cổng chính. Đêm nay trời nhiều mây không nhìn thấy mặt trăng, và tôi thậm chí không thể nhìn ra biển hiệu đổ nát của Tháp Ngân hàng trên đỉnh tòa nhà. Đèn điện sáng ở từng tầng, một thứ xa hoa mà chỉ những tòa nhà chính phủ và nhà những kẻ giàu có mới có được. Xe jeep của quân đội nối đuôi nhau xếp dọc phố trong khi từng chiếc một chờ để được phép đi vào bãi đỗ xe ngầm. Có người kiểm tra thẻ căn cước của các lái xe. Tôi dán mắt vào cổng chính, vẫn không hề nhúc nhích.
Đêm nay trông tôi khá ngầu. Tôi đi một đôi giày xịn, một đôi ủng làm từ da sẫm màu mà thời gian đã làm cho mềm ra, có dây buộc chắc chắn và mũi bọc thép. Tôi mua đôi ủng hết một trăm năm mươi đồng Cộng hòa từ số tiền cất giấu được. Tôi giấu một con dao mỏng vào đế mỗi chiếc ủng. Mỗi bước chân, tôi đều có thể cảm nhận được cái lạnh của kim loại chạm vào da thịt mình. Tôi mặc quần màu đen, ống giắt vào trong ủng, mang theo một đôi găng và để thêm chiếc khăn tay màu đen trong túi. Chiếc áo dài tay sẫm màu thắt quanh hông tôi. Mái tóc buộc hờ chạm xuống vai. Lần này tôi nhuộm mái tóc vàng sáng của mình thành màu đen huyền như thể vừa nhúng đầu vào dầu thô. Sáng sớm nay, Tess đã dùng năm đồng mua một xô máu lợn lùn từ con ngõ đằng sau một căn bếp. Tôi bôi hết lên hai cánh tay, bụng và cả khuôn mặt. Tôi còn trát thêm bùn lên hai gò má.
Bệnh viện trải khắp mười hai tầng của tòa nhà nhưng tôi chỉ quan tâm duy nhất đến tầng không có cửa sổ. Đó là tầng ba, phòng thí nghiệm, nơi mẫu máu và thuốc chữa bệnh được cất giữ. Nhìn từ bên ngoài, tầng ba hoàn toàn bị che khuất sau những tác phẩm điêu khắc bằng đá và những lá cờ Cộng hòa sờn rách. Đằng sau mặt tiền đó là một tầng rộng lớn nhưng không có hành lang hay
cửa ra vào, chỉ có một căn phòng khổng lồ, bác sĩ và y tá mang mặt nạ trắng, ống nghiệm và pi pét, lồng ấp và băng ca. Tôi biết điều này bởi trước kia tôi từng tới đó. Tôi ở đó vào cái ngày bị trượt kỳ Sát hạch của mình, cái ngày mà đáng lẽ tôi đã phải chết.
Mắt tôi quét dọc theo mặt bên cùa tòa tháp. Đôi lần tôi có thể đột nhập vào một tòa nhà bằng cách leo lên từ bên ngoài, nếu có ban công để bật nhảy và gờ cửa sổ để giữ thăng bằng. Có lần tôi đã leo bốn tầng nhà trong vòng chưa hết năm giây. Nhưng tường của tòa tháp này quá phẳng, không có chỗ để chân. Tôi sẽ phải tiếp cận phòng thí nghiệm từ phía trong. Tôi hơi rùng mình dù trời đang ấm và ước giá mà tôi rủ Tess đi cùng. Nhưng hai kẻ đột nhập thì dễ bị bắt hơn là một. Hơn nữa, cũng không phải gia đình cô bé đang cần thuốc chữa. Tôi kiểm tra để chắc chắn mình đã nhét mặt dây chuyền vào trong áo.
Một chiếc xe cứu thương quân đội duy nhất đỗ lại đằng sau những chiếc jeep, vài tên lính xuống xe chào các y tá trong khi những tên khác mở những chiếc hộp trên xe. Thủ lĩnh nhóm là một tên trẻ tuổi, tóc đen và từ đầu đến chân mặc toàn đồ đen, chỉ trừ hai hàng khuy bạc trên chiếc áo khoác sĩ quan của hắn. Tôi căng tai ra để nghe xem hắn gì nói với các y tá.
“... từ xung quanh bờ hồ.” Hắn kéo chặt đôi găng tay. Tôi thoáng thấy khẩu súng ở thắt lưng hắn. “Đêm nay người của tôi sẽ gác ở các lối vào.”
“Vâng, thưa Đại úy,” cô y tá nói.
Người đàn ông đưa tay lên mũ. “Tên tôi là Metias. Nếu có điều gì muốn hỏi, cô hãy đến gặp tôi.”
Tôi đợi đến khi bọn lính tản ra quanh vòng ngoài bệnh viện và người đàn ông tên Metias mải nói chuyện với hai cấp dưới. Thêm vài chiếc xe cứu thương quân sự đến và đi, thả xuống các lính tráng, vài kẻ gãy chân tay, vài tên có vết rách trên đầu và vết thương ở chân. Tôi hít một hơi sâu, rồi bước ra khỏi bóng tối,
loạng choạng đi về cổng bệnh viện.
Một y tá nhìn thấy tôi đầu tiên, ngay phía ngoài dãy cửa chính. Đôi mắt cô ta liếc nhanh thấy vết máu trên mặt và cánh tay tôi. “Cho tôi nhập viện được không, chị gái?” tôi gọi với về phía cô ta. Tôi nhăn nhó giả vờ đau. “Tối nay còn phòng không? Tôi sẽ trả tiền.”
Cô ta nhìn tôi chẳng chút thương xót trước khi viết nguệch ngoạc mấy chữ vào tập giấy. Có lẽ cô ta không đánh giá cao hiệu ứng của từ “chị gái”. Chiếc thẻ căn cước đu đưa trước cổ cô ta. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?” cô ta hỏi tôi.
Tôi gập người khi đến gần cô ta rồi quỳ sụp xuống. “Tôi vừa đánh lộn,” tôi vừa nói vừa thờ hổn hển. “Tôi nghĩ là tôi bị đâm.” Cô y tá không nhìn tôi thêm lần nào nữa. Cô ta đã viết xong và gật đầu với một tên lính canh. “Khám người cậu ta.” Tôi ở yên tại chỗ để hai tên lính kiểm tra vũ khí trên người. Tôi la oai oái khi chúng chạm vào tay và bụng tôi. Chúng không tìm thấy hai con dao tôi giấu dưới ủng. Nhưng chúng lại lấy đi túi tiền nhỏ tôi đeo bên hông, tiền để được nhập viện. Tất nhiên.
Nếu tôi là một thằng của nợ đến từ khu giàu có, tôi sẽ nhập viện mà chẳng mất đồng nào. Hoặc họ sẽ cho bác sĩ đến thẳng nơi tôi ở để khám miễn phí.
Khi tên lính giơ ngón tay cái ra dấu đồng ý, y tá chỉ tôi về hướng cửa bệnh viện. “Phòng chờ ở bên tay trái. Hãy vào đó ngồi chờ.”
Tôi cảm ơn cô ta rồi loạng choạng đi về phía cửa trượt. Người đàn ông tên Metias quan sát tôi khi tôi đi qua. Anh ta đang kiên nhẫn lắng nghe một thuộc cấp nhưng tôi thấy anh ta dò xét khuôn mặt tôi như một phản xạ. Tôi cũng ghi nhớ khuôn mặt anh ta.
Bên trong bệnh viện phủ một màu trắng rất ma quái. Tôi trông thấy phòng chờ ở bên tay trái, giống như cô y tá đã nói, một không gian rộng lớn chật ních những người bị chấn thương biến chứng
với đủ các hình dạng và kích cỡ. Nhiều người rên rỉ kêu đau, một người nằm bất động trên sàn nhà. Tôi không muốn đoán xem một vài người đã phải ở đây bao lâu, hoặc họ đã phải trả bao nhiêu để được vào đây. Tôi để ý đến tất cả những nơi bọn lính đang đứng, hai tên bên cửa số phòng thư ký, hai tên đứng ở phía xa bên cửa phòng bác sĩ, một số gần thang máy, mỗi tên đều đeo thẻ căn cước, sau đó tôi đưa mắt nhìn xuống sàn nhà. Tôi lê chân đến chiếc ghế gần nhất và ngồi xuống. Lần đầu tiên, cái đầu gối đau đã hỗ trợ cho màn cải trang của tôi. Tôi giữ tay ép vào bên sườn để tăng thêm hiệu ứng.
Tôi nhẩm đếm mười phút trong đầu, đủ lâu để có thêm vài bệnh nhân mới vào phòng đợi và đám lính không còn quan tâm đến tôi nữa. Sau đó, tôi đứng lên, giả vờ vấp ngã và đi lảo đảo về phía tên lính gần nhất. Tay hắn theo phản xạ đặt lên khấu súng.
“Về chỗ ngồi đi,” hắn nói.
Tôi vấp và ngã nhào vào người hắn. “Tôi cần phải đi vệ sinh,” tôi thì thầm, giọng khàn đặc. Tay tôi run rẩy khi cố nắm chặt chiếc áo choàng đen của hắn để đứng vững. Tên lính nhìn tôi ghê tởm trong khi một số khác cười khẩy. Tôi thấy các ngón tay của hắn đang lần mò cò súng, nhưng một người lính khác lẳng lặng lắc đầu. Không được bắn người trong bệnh viện. Tên lính liền đẩy tôi ra và chĩa súng về phía đầu kia hành lang.
“Ở đằng kia kìa,” hắn cấm cảu. “Lau mấy cái vết bẩn trên mặt mày đi. Và mày còn chạm vào người tao một lần nữa, tao sẽ bắn mày nát người đấy.”
Tôi thả hắn ra và gần như khuỵu gối xuống. Rồi tôi quay lại và lảo đảo đi về phía nhà vệ sinh. Đôi ủng da của tôi rít lên khi cọ vào gạch lát sàn. Tôi có thể cảm thấy ánh mắt tên lính dõi theo mình khi tôi vào phòng vệ sinh và khóa cửa lại.
Không có vấn đề gì. Chúng sẽ quên tôi ngay sau một vài phút. Và sẽ mất thêm vài phút nữa thì tên lính tôi đã tóm lấy mới nhận
ra hắn bị mất thẻ căn cước.
Ngay khi vào phòng vệ sinh, tôi từ bỏ dáng vẻ đau ốm của mình. Tôi táp nước lên mặt và chà mạnh cho đến khi hầu hết máu lợn và bùn được rửa sạch. Tôi kéo khóa ủng và gỡ bỏ đế giày bên trong để lộ hai con dao rồi nhét chúng vào thắt lưng. Tôi đi lại đôi ủng vào chân. Sau đó, tôi cởi chiếc áo sơ mi màu đen đang quấn quanh hông rồi mặc vào người, cài tất cả các nút lên đến tận cổ và xơ vin vào trong quần. Tôi buộc tóc trở lại thành kiểu đuôi ngựa thật chặt, giắt đuôi tóc vào trong áo để nó ép phẳng vào lưng.
Cuối cùng, tôi đi găng tay vào, buộc chiếc khăn tay màu đen che kín mũi và miệng. Nếu ai bắt được tôi bây giờ, tôi sẽ buộc phải chạy thoát thân ngay. Tốt hơn hết là giấu mặt đi.
Xong xuôi, tôi lấy mũi dao vặn ốc tháo nắp đường ống thông gió trong nhà vệ sinh. Sau đó, tôi lấy thẻ căn cước của tên lính ra kẹp vào dây chuyền của mình và chúi đầu bò vào đường ống.
Không khí trong ống có mùi lạ, và tôi ngay lập tức biết ơn chiếc khăn đang quấn quanh mặt. Tôi vận hết tốc lực nhích từng phân một. Tính theo chiều nào thì đường ống thông gió cũng không thể rộng quá sáu mươi phân. Mỗi khi kéo người về phía trước tôi phải nhắm mắt lại mà nhắc mình hít thở, và rằng những bức tường kim loại xung quanh tôi không phải đang đóng chặt lại. Tôi không cần đi xa, không có đường ống nào dẫn đến tầng ba. Tôi chỉ cần đi đủ xa để đột nhập vào một trong những cầu thang của bệnh viện, ngoài tầm nhìn của những tên lính canh gác tầng một. Tôi tiếp tục tiến lên. Tôi nghĩ về khuôn mặt của Eden, về loại thuốc mà thằng bé, anh John và mẹ tôi cần và về chữ X đỏ tươi kỳ lạ có thêm đường thẳng cắt dọc qua.
Sau vài phút, đột ngột tôi đi đến cuối đường. Tôi nhìn qua lỗ thông hơi, và qua những dải sáng tôi có thể thấy một phần của chiếc cầu thang uốn lượn. Sàn nhà mang một màu trắng tinh khiết, gần như tuyệt đẹp, và quan trọng nhất là đang không có một bóng
người. Tôi thầm đếm đến ba, sau đó kéo tay ra xa nhất có thể rồi tung một cú đấy hết lực vào nắp ống thông hơi. Cái nắp văng ra. Tôi có thể nhìn toàn cảnh cầu thang, một buồng hình trụ lớn với những bức tường thạch cao và cửa sổ nhỏ xíu. Một hệ thống cầu thang xoắn ốc khổng lồ.
Giờ thì tôi đang di chuyển hết tốc lực và không còn lén lút nữa. Chạy ngay. Tôi chen người thoát ra ngoài ống thông hơi và phi lên cầu thang. Được nửa chừng, tôi bám lấy lan can và phi thân đến các vòng cung lan can tiếp theo. Các camera an ninh chắc hẳn đang tập trung vào tôi. Tiếng còi báo động có thế phát ra bất cứ lúc nào. Tầng hai rồi tầng ba. Tôi đang cạn dần thời gian. Khi đến cửa tầng ba, tôi tách chiếc thẻ căn cước khỏi dây chuyên và dừng đủ lâu để quét nó qua máy đọc trên cửa. Các camera an ninh không kịp kích hoạt báo động để khóa cầu thang. Chốt cửa kêu một tiếng cạch, tôi đã vào được trong. Tôi mở toang cánh cửa.
Tôi đang ở trong một căn phòng rộng mênh mông chứa đầy các hàng băng ca và hóa chất sục sôi dưới những nắp đậy kim loại. Các bác sĩ và bọn lính canh nhìn tôi với khuôn mặt kinh ngạc.
Tôi tóm lấy người đầu tiên mình nhìn thấy, một bác sĩ trẻ đứng gần cửa. Trước khi bất kỳ tên lính nào kịp chĩa súng về phía chúng tôi, tôi rút nhanh một con dao kề cổ họng người đàn ông. Các bác sĩ và y tá khác đứng im bất động. Một số còn la hét.
“Cứ bắn đi, các người sẽ bắn nhầm hắn đấy,” tiếng tôi thách thức bọn lính vang lên từ bên dưới chiếc khăn. Lúc này súng của bọn chúng đều đang chĩa vào người tôi. Gã bác sĩ đang run rẩy trong vòng tay tôi.
Tôi nhấn dao mạnh hơn vào cổ anh ta nhưng cẩn thận không để lưỡi dao cắt vào da. “Tôi sẽ không làm anh đau,” tôi nói thầm với anh ta. “Nói cho tôi biết thuốc chữa bệnh dịch ở đâu.”
Anh ta phát ra một tiếng rên nghèn nghẹt và tôi có thể cảm thấy anh ta đang túa mồ hôi trong vòng tay mình. Anh ta chỉ về
phía tủ lạnh. Những tên lính vẫn đang lưỡng lự, nhưng một tên đe dọa tôi.
“Thả bác sĩ ra!” hắn hét lên. “Giơ tay lên.”
Tôi muốn cười quá. Tên này chắc hẳn là lính mới. Tôi băng qua phòng cùng gã bác sĩ rồi dừng lại ở chỗ mấy cái tủ lạnh. “Chỉ cho tôi đi.” Gã bác sĩ run rẩy đưa một tay lên mở tủ lạnh. Một luồng không khí lạnh toát thổi vào chúng tôi. Tôi tự hỏi không biết gã bác sĩ có cảm thấy tim tôi đang đập nhanh thế nào không nữa.
“Đó,” anh ta thì thầm. Tôi rời mắt khỏi đám lính đủ lâu để thấy gã bác sĩ chỉ về phía cái giá cao nhất trong tủ lạnh. Một nửa số lọ trên giá được dán nhãn chữ X ba vạch: Thể đột biến của virus T. Filoviridae. Một nửa còn lại dán nhãn Thuốc giải 11.30. Nhưng tất cả các lọ đều trống không, chúng đều bị dùng hết rồi. Tôi rủa thầm. Tôi nhìn thoáng qua các giá khác, trên đó chỉ có thuốc kiềm chế bệnh dịch và thuốc giảm đau. Tôi lại rủa thầm. Giờ thì quá trễ để quay lại rồi.
“Tôi sẽ thả anh ra,” tôi nói thầm với gã bác sĩ. “Cúi đầu xuống.” Tôi buông tay đẩy anh ta ngã khuỵu gối.
Những tên lính nổ súng. Nhưng tôi đã chuẩn bị trước, tôi nấp sau cánh cửa tủ lạnh đang mở tung khi đạn bắn thia lia bật khỏi nó. Tôi vơ lấy vài lọ thuốc kiềm chế bệnh dịch nhét vào áo. Tôi lao đi. Một loạt đạn sượt qua người tạo ra những vết thương bỏng rát trên cánh tay tôi. Tôi đã gần đến được lối thoát hiểm rồi.
Tôi xông ra cửa cầu thang cùng lúc nghe thấy chuông báo động réo lên. Một loạt các tiếng lách cách của tất cả cửa vào cầu thang bị khóa từ bên trong. Tôi đã bị mắc kẹt. Đám lính vẫn có thể đi qua bất cứ cánh cửa nào, nhưng tôi thì không thể đi ra. Tiếng hò hét và tiếng bước chân vang lên từ bên trong phòng thí nghiệm. Một trong những giọng nói hét lên, “Hắn trúng đạn rồi!”
Tôi phóng tầm mắt đến các cửa sổ nhỏ trên những bức tường thạch cao của cầu thang. Chúng quá xa để tôi với đến nếu đứng từ
cầu thang. Tôi nghiến răng và rút thêm con dao thứ hai, vậy là tôi đã có mỗi tay một con dao. Tôi cầu nguyện là thạch cao đủ mềm, rồi nhảy ra khỏi cầu thang phi người về phía bức tường.
Tôi đâm một con dao thẳng vào bức tường thạch cao. Cánh tay bị thương trào máu và tôi hét lên vì nỗ lực này. Tôi đang lơ lửng lưng chừng giữa cầu thang và khung cửa sổ. Tôi đu đưa qua lại thật mạnh.
Thạch cao trên tường đang bong ra.
Tôi nghe từ đằng sau mình tiếng cửa phòng thí nghiệm bật mở và binh lính tràn ra ngoài. Đạn nổ khắp xung quanh tôi. Tôi đu người về phía cửa sổ và buông tay khỏi con dao đang cắm trên tường.
Cửa sổ vỡ tan và đột nhiên tôi lại ở ngoài trời đêm và tôi đang rơi, rơi xuống, rơi như một ngôi sao xuống tầng một. Tôi phanh chiếc sơ mi dài tay ra để cho nó bay phấp phới đằng sau trong lúc những suy nghĩ vụt qua đầu mình. Đầu gối gập lại. Đặt bàn chân xuống trước. Thư giãn cơ bắp. Chạm sàn bằng đầu xương bàn chân. Cuộn người lại. Mặt đất đang lao thẳng về phía tôi. Tôi thu hết can đảm.
Cú va chạm khiến lồng ngực tôi như bị rút sạch không khí. Tôi lăn bốn vòng và đâm sầm vào bức tường phía bên kia đường. Trong một khoảnh khắc tôi nằm ở đó mù lòa và hoàn toàn bất lực. Từ trên cao, tôi nghe thấy những giọng nói giận dữ phát ra từ cửa sổ tầng ba khi những tên lính nhận ra chúng phải quay lại phòng thí nghiệm lần nữa để tắt chuông báo động. Các giác quan của tôi dần dần rõ nét hơn - lúc này tôi đã nhận thức được cơn đau bên sườn và cánh tay. Tôi chống cánh tay còn lành lặn xuống, đỡ người dậy và ngay lập tức nhăn mặt vì đau. Tim tôi đập thình thịch. Tôi nghĩ mình đã gãy xương sườn. Khi cố gắng đứng dậy, tôi nhận ra mình còn bị bong gân ở mắt cá chân. Tôi không biết có phải adrenaline đã làm tôi mất cảm giác về những ảnh hưởng khác của
cú ngã hay không nữa.
Tiếng hò hét phát ra từ phía góc tòa nhà. Tôi buộc mình phải suy nghĩ. Lúc này tôi đang ở gần mặt sau của tòa nhà, và một vài con ngõ nhỏ phía sau tôi tách ra rồi chìm trong bóng tối. Tôi khập khiễng lẩn mình vào bóng đêm.
Liếc nhìn ra sau, tôi thấy một nhóm lính nhỏ vội vàng chạy đến nơi tôi đã ngã và phát hiện ra những mảnh kính vỡ lẫn các vết máu của tôi. Một trong số đó là tay đại úy trẻ mà tôi đã nhìn thấy trước đó, người đàn ông tên Metias. Anh ta ra lệnh cho cấp dưới tỏa ra tìm kiếm. Tôi rảo bước nhanh hơn, cố gắng phớt lờ cơn đau. Tôi khom vai để màu đen của bộ trang phục và mái tóc giúp mình lẩn vào bóng tối. Mắt nhìn xuống dưới đất. Tôi phải tìm cho ra một chiếc nắp cống.
Giờ thì tầm nhìn ngoại vi của tôi đang mờ đi. Tôi áp tay vào tai để kiểm tra xem có máu chảy ra không. Chưa có gì, điềm lành rồi. Ngay sau đó, tôi thấy một nắp cống trên đường. Tôi thở phào, chỉnh lại chiếc khăn đen che mặt, và cúi xuống, nhấc nắp cống lên. “Đứng im. Không được nhúc nhích.”
Tôi quay lại và thấy Metias, tay đại úy trẻ khi nãy đứng ở lối vào bệnh viện, giờ đang đối diện với tôi. Anh ta chĩa khẩu súng nhắm thẳng vào ngực tôi, nhưng thật ngạc nhiên là anh ta không nổ súng. Tôi siết chặt con dao còn lại. Có điều gì đã thay đổi trong mắt anh ta, tôi biết anh ta nhận ra tôi, chàng trai đã giả loạng choạng đi vào bệnh viện. Tôi mỉm cười, giờ thì tôi đã có rất nhiều vết thương cho bệnh viện điều trị rồi đây.
Metias nheo mắt. “Giơ tay lên. Cậu đã bị bắt vì tội trộm cắp, phá hoại và xâm nhập trái phép.”
“Anh sẽ không bắt sống được tôi đâu.”
“Tôi sẵn lòng bắt cậu khi đã chết, nếu cậu muốn như thế.” Những gì xảy ra tiếp sau đều mờ ảo. Tôi thấy Metias chuẩn bị bóp cò. Tôi dùng hết sức bình sinh phi con dao về phía anh ta.
Trước khi anh ta kịp bắn, dao của tôi cắm mạnh vào vai và anh ta ngã ngửa ra sau. Tôi không đợi anh ta ngồi dậy. Tôi cúi xuống, nhấc chiếc nắp cống lên, cúi người trèo xuống thang và lẩn vào bóng tối. Khi đã chui vào trong, tôi kéo nắp cống trở lại đúng vị trí cũ.
Vết thương của tôi bắt đầu phát tác. Tôi loạng quạng trong đường ống cống ngầm, tầm nhìn lúc tỏ lúc mờ, một tay tôi ép chặt vào bên mạng sườn. Tôi cẩn thận không chạm vào tường. Từng hơi thở đều đau. Chắc hẳn tôi đã bị gãy xương sườn. Tôi đủ tỉnh táo để nghĩ xem mình đang đi hướng nào và tập trung tiến về khu Lake. Tess sẽ ở đó. Cô bé sẽ tìm thấy tôi và giúp tôi đến nơi an toàn. Tôi nghĩ là mình nghe thấy tiếng ầm ầm của những bước chân ngay trên đầu mình, tiếng hò hét của những toán lính. Không nghi ngờ gì nữa, có người đã phát hiện ra Metias và thậm chí giờ họ đã đi xuống hệ thống cống ngầm cũng nên. Chắc họ đang lần theo tôi cùng với một đàn chó. Tôi cố ý đi đổi hướng vài lần và lội trong nước cống bấn thỉu. Ở phía sau, tôi nghe nước bắn tóe và giọng người nói vang vang. Tôi đổi hướng nhiều hơn. Tiếng nói gần hơn một chút, sau đó lại xa hơn. Tôi vẫn giữ nguyên hướng đi đã xác định ban đầu.
Sẽ chẳng ra làm sao, đúng không nhỉ, nếu cố thoát khỏi bệnh viện chỉ để chết ở đây, lạc trong cái mê cung cống ngầm khốn nạn này.
Tôi đếm nhẩm từng phút để không bị bất tỉnh. Năm phút, mười phút, ba mươi phút, một giờ. Bước chân phía sau tôi nghe xa hơn, như thế họ đang trên một con đường khác. Đôi khi tôi nghe thấy âm thanh lạ, một tiếng gì đó giống như ống nghiệm sủi bọt và tiếng thở dài của ống dẫn hơi nước, một hơi thở của không khí. Âm thanh đến và đi. Hai tiếng. Hai tiếng ba mươi phút. Khi tôi nhìn thấy cầu thang tiếp theo dẫn lên mặt đất, tôi nắm lấy cơ hội và kéo người mình lên. Tôi có nguy cơ bị ngất xỉu ngay lúc này.
Tôi dùng hết sức lực còn lại để kéo lên mình lên trên con phố. Tôi đang ở trong một con ngõ tối tăm. Khi thở được bình thường trở lại, tôi chớp mắt để nhìn rõ cảnh vật xung quanh.
Tôi có thể thấy ga Union cách đấy vài tòa nhà. Không còn xa nữa rồi. Tess sẽ ở đó, chờ đợi tôi.
Còn ba khu nhà. Còn hai khu nhà nữa.
Chỉ còn một khu nữa. Tôi không thể cầm cự được nữa rồi. Tôi tìm thấy một góc tối trong ngõ và ngã gục xuống đất. Điều cuối cùng tôi nhìn thấy là bóng của một cô gái phía đằng xa. Có lẽ cô ta đi về phía tôi. Tôi cuộn tròn và bắt đầu ngất lịm đi.
Trước khi nhắm mắt, tôi nhận thấy mặt dây chuyền không còn trên cổ mình nữa.
JUNE
Tôi vẫn còn nhớ ngày hôm đó anh trai tôi đã bỏ lỡ buổi lễ kết nạp quân đội Cộng hòa.
Một buổi chiều Chủ nhật. Nóng và ẩm thấp. Những đám mây màu nâu bao phủ bầu trời. Tôi bảy tuổi và Metias đã mười chín. Chú cún chăn cừu màu trắng của tôi, Ollie, đang ngủ trên sàn đá cẩm thạch mát lạnh trong căn hộ của chúng tôi. Tôi nằm sốt phừng phừng trên giường trong khi anh Metias ngồi bên cạnh, lông mày nhíu lại vì lo lắng. Bên ngoài, chúng tôi nghe thấy loa vang lên bài tuyên thệ quốc gia của nước Cộng hòa. Khi họ đọc đến phần nói về tổng thống của chúng tôi, anh Metias đứng dậy chào hướng về phía thủ đô. Cử tri Primo lừng lẫy của chúng tôi vừa đắc cử thêm một nhiệm kỳ tổng thống bốn năm. Đây sẽ là nhiệm kỳ bốn năm lần thứ bảy của ông.
“Anh không cần phải ngồi ở đây với em, anh biết mà,” tôi nói với anh khi bài tuyên thệ kết thúc. “Đến lễ kết nạp đi. Đằng nào em cũng đã ốm rồi.”
Anh Metias lờ đi và thay một chiếc khăn mát khác lên đầu tôi. “Đằng nào thì anh cũng được kết nạp thôi,” anh nói. Anh cho tôi ăn một miếng cam tím. Tôi nhớ đã quan sát anh bóc cam cho mình; anh cắt một đường cắt dài, liền mạch trên vỏ cam rồi tách nguyên xi lớp vỏ ra.
“Nhưng đó là Chỉ huy Jameson.” Tôi chớp chớp đôi mắt sưng mọng. “Bà ấy đã chiếu cố phân công anh không phải ra tiền tuyến... Bà ấy sẽ không hài lòng nếu anh bỏ lễ kết nạp đâu. Bà ấy không ghi chuyện đó vào hồ sơ của anh chứ? Anh không muốn bị
tống cổ như một gã lưu manh đường phố đâu.”
Anh Metias gõ vào mũi tôi vẻ không bằng lòng. “Đừng gọi người ta như thế, June-bọ. Như thế là hỗn đấy. Và bà ấy cũng không thể đuổi anh khỏi đội chỉ vì bỏ buổi lễ đâu. Hơn nữa,” anh vừa nói vừa nháy mắt, “anh luôn có thể đột nhập vào cơ sở dữ liệu của họ và xóa sạch hồ sơ mà.”
Tôi cười. Một ngày nào đó, tôi cũng muốn được kết nạp vào quân đội, để khoác lên mình chiếc áo choàng đen của lính Cộng hòa. Thậm chí nếu may mắn tôi sẽ được phân công phục vụ dưới quyền một chỉ huy nổi tiếng như anh Metias đã được chọn. Tôi mở miệng để anh đút cho tôi một miếng cam. “Anh nên trốn đi Batalla thường xuyên hơn. Có thể anh sẽ có thời gian để tìm bạn gái đấy.”
Anh Metias cười. “Anh không cần bạn gái. Anh có một cô em gái để chăm sóc rồi.”
“Thôi nào. Rồi một ngày nào đó anh sẽ có bạn gái thôi mà.” “Rồi xem. Anh kén cá chọn cạnh lắm đấy.”
Tôi dừng lại để nhìn thẳng vào mắt anh. “Anh Metias, mẹ có chăm em khi em ốm không? Mẹ có làm những việc thế này không ạ?”
Anh Metias với tay gạt những sợi tóc ướt đẫm mồ hôi ra khỏi khuôn mặt tôi. “Đừng có ngốc, June-bọ. Tất nhiên mẹ đã chăm sóc em. Và mẹ chăm sóc em tốt hơn anh nhiều.”
“Không. Anh chăm sóc em là tốt nhất rồi,” tôi thì thầm. Mí mắt của tôi nặng dần.
Anh trai tôi mỉm cười. “Anh rất vui vì em nói vậy.” “Anh sẽ không bỏ rơi em như thế chứ? Anh sẽ ở lại bên em lâu hơn bố mẹ chứ?”
Anh Metias hôn lên trán tôi. “Mãi mãi như vậy nhóc à, đến khi em phát ốm lên vì phải gặp anh thì thôi.”
00:01.
KHU RUBY.
NHIỆT ĐỘ PHÒNG 22 ĐỘ C.
Tôi biết có chuyện không ổn ngay khi Thomas xuất hiện trước cửa nhà tôi. Điện ở tất cả các chung cư đều bị cắt, như anh Metias đã báo trước, và chỉ có ánh đèn dầu thắp sáng căn hộ. Ollie sủa điên cuồng. Tôi đang mặc đồng phục tập luyện và áo gi lê đỏ đen với đôi bốt buộc dây và mái tóc thắt đuôi ngựa thật chặt. Trong thoáng chốc, tôi thật lòng mừng vì anh Metias không phải người đứng chờ ngoài cửa. Anh sẽ thấy đồ tôi mặc và biết là tôi sắp một mình chạy ra đường. Không nghe lời anh một lần nữa.
Khi tôi mở cửa, Thomas hắng giọng đầy vẻ lo lắng trước vẻ mặt bất ngờ của tôi và giả vờ mỉm cười. (Có một vệt dầu đen trên trán anh, có lẽ là từ ngón trỏ của anh mà ra. Vậy là tối nay anh vừa đánh bóng súng trường và nhóm của anh sẽ đi tuần vào ngày mai.) Tôi khoanh tay. Anh lịch sự chạm nhẹ vành mũ.
“Xin chào cô Iparis,” anh nói.
Tôi hít một hơi sâu. “Em ra đường đây. Anh Metias đâu rồi ạ?” “Chỉ huy Jameson yêu cầu cô đi với tôi đến bệnh 46 viện càng sớm càng tốt.” Thomas ngập ngừng một thoáng. “Đây giống một mệnh lệnh hơn là một lời yêu cầu.”
Tôi bỗng cảm thấy nôn nao trong dạ. “Tại sao bà ấy không gọi cho em?” Tôi hỏi.
“Bà ấy muốn tôi đưa cô đến đó hơn.”
“Tại sao?” Giọng tôi bắt đầu lên cao. “Anh trai em đâu?” Giờ đến lượt Thomas hít một hơi sâu. Tôi đã biết trước điều anh định nói. “Tôi rất tiếc. Metias đã bị giết.”
Đó là lúc trời đất quanh tôi như im bặt.
Như là từ rất xa, tôi có thể thấy Thomas vẫn đang nói gì đó,
khua chân múa tay, kéo tôi lại để ôm. Tôi ôm lại anh mà không biết mình đang làm gì. Tôi không cảm thấy gì hết. Tôi gật đầu khi anh đỡ tôi và đề nghị tôi làm gì đó. Đi theo anh. Anh quàng một tay qua vai tôi. Một chú cún cọ cái mũi ướt vào tay tôi. Ollie chạy theo tôi ra khỏi nhà, và tôi bảo nó đi bên cạnh mình. Tôi khóa cửa, bỏ chìa vào túi rồi để Thomas dẫn cả hai qua bóng tối về phía cầu thang. Anh nói liên tục, nhưng tôi không nghe được gì. Tôi nhìn chăm chăm vào họa tiết trang trí lấp loáng bằng kim loại viền dọc theo cầu thang, vào những hình ảnh phản chiếu méo mó của tôi và Ollie.
Tôi không biết mình đang biểu cảm thế nào. Thậm chí tôi không chắc mình có đang biểu cảm gì không nữa.
Đáng lẽ anh Metias phải cho tôi đi cùng. Đây là ý nghĩ mạch lạc đầu tiên của tôi khi xuống tầng dưới cùng của tòa nhà và ngồi vào một chiếc jeep đang chờ sẵn. Ollie nhảy lên ghế sau và thò đầu ra cửa sổ. Mắt chú mở to. Chiếc xe bốc mùi ẩm thấp (như mùi cao su, kim loại và mồ hôi mới, chắc hẳn một nhóm người vừa ngồi đây). Thomas ngồi vào ghế lái và kiểm tra xem tôi đã cài dây an toàn chưa. Thật là một hành động tủn mủn ngu ngốc.
Đáng lẽ anh Metias phải cho tôi đi cùng.
Tôi nghĩ đi nghĩ lại điều này trong đầu. Thomas không nói gì với tôi nữa. Anh để tôi nhìn đăm đắm ra ngoài thành phố đang dần tối đen lại lúc chúng tôi đi, thỉnh thoảng liếc nhìn tôi do dự. Một phần nhỏ trong tôi ghi nhớ sẽ xin lỗi anh sau.
Tôi đờ đẫn nhìn những tòa nhà quen thuộc khi chúng tôi đi ngang qua. Người (chủ yếu là công nhân từ khu ổ chuột) đứng kín các gian hàng ở tầng một dù đã mất điện, chúi đầu vào những bát thức ăn rẻ tiền trong các quán ăn tầng trệt. Từng đám hơi nước lơ lửng ở đằng xa. Màn hình khổng lồ, luôn bật, bất chấp tình trạng thiếu năng lượng, đang chiếu những cảnh báo mới nhất về lũ lụt và kiểm dịch. Một số là về quân Ái quốc, lần này là một vụ đánh
bom khác đã giết chết nửa chục lính ở Sacramento. Một vài thiếu sinh quân, mười một tuổi với những sọc vàng trên tay áo, nấn ná ngoài thềm một học viện, hàng chữ Nhà hát Walt Disney cũ kỹ đã hầu như hoàn toàn biến mất. Vài xe jeep quân sự khác cắt ngang chỗ chúng tôi, và tôi thấy những khuôn mặt trống rỗng của đám lính trên xe. Một số đeo những cặp kính bảo hộ màu đen nên tôi không nhìn thấy mắt họ chút nào.
Bầu trời nhiều mây hơn thường lệ, báo hiệu một cơn dông. Tôi kéo mũ lên che đầu, phòng khi mình có thể quên mất lúc xuống xe. Khi hướng sự chú ý trở lại cửa sổ, tôi thấy phần trung tâm thành phố nằm trong khu Batalla. Đèn trong khu quân đội thảy đều
bật sáng. Tòa tháp bệnh viện sừng sững chỉ còn cách mấy dãy nhà. Thomas thấy tôi vươn cổ lên để nhìn rõ hơn. “Sắp đến nơi rồi,” anh nói.
Khi chúng tôi đến gần, tôi có thể thấy những dải băng vàng đan chéo quanh chân tháp, nhiều nhóm lính tuần thành (tay áo có sọc đỏ giống anh Metias), cũng như mấy người chụp ảnh và cảnh sát đường phố, xe thùng đen và xe cứu thương quân sự. Ollie bật ra tiếng rên.
“Em đoán họ chưa bắt được gã đó,” tôi nói với Thomas. “Sao em biết?”
Tôi hất đầu về phía tòa nhà. “Tay đó giỏi thật,” tôi tiếp tục. “Sống sót khi nhảy qua hai tầng rưỡi xuống đất và vẫn còn sức chạy trốn.”
Thomas nhìn tòa nhà và cố thấy điều tôi thấy, cửa sổ cầu thang tầng ba bị vỡ, khu vực chăng các dải băng vàng ngay dưới đó, binh lính sục sạo các ngõ nhỏ, không thấy xe cấp cứu dân sự. “Ta chưa bắt được hắn,” anh thừa nhận sau một lúc. Vết dầu lau súng trên trán làm anh trông lúng túng. “Nhưng không có nghĩa ta sẽ không tìm thấy xác hắn.”
“Anh sẽ không tìm thấy nó nếu giờ này anh vẫn còn chưa tìm
ra nó.”
Thomas mở miệng định nói gì đó, song lại thôi, rồi quay lại tập trung lái xe. Khi chiếc xe jeep dừng hẳn, Chỉ huy Jameson rời nhóm lính gác đi về hướng cửa xe phía tôi.
“Anh rất tiếc,” Thomas đột ngột nói với tôi. Tôi thấy nhói lên cảm giác tội lỗi vì thái độ lạnh lùng của mình và quyết định gật đầu đáp lại anh. Cha anh từng là bảo vệ của khu chung cư cao tầng của chúng tôi trước khi ông mất, còn người mẹ quá cố của anh là đầu bếp ở trường tiểu học của tôi. Anh Metias chính là người đã tiến cử Thomas (người có điểm số cao trong kỳ Sát hạch) vào những đơn vị tuần thành có tiếng, mặc dù xuất thân của anh khá khiêm tốn. Thế nên anh chắc phải cảm thấy chết lặng không khác gì tôi.
Chỉ huy Jameson đã đứng cạnh cửa xe và gõ hai lần vào cửa sổ để gọi tôi. Đôi môi mỏng tô sắc đỏ giận dữ, và trong bóng tối mái tóc màu nâu đỏ của bà sẫm lại, gần chuyển màu đen.
“Nhanh lên, Iparis. Chúng ta không có nhiều thời gian đâu,” bà liếc nhìn Ollie ở ghế sau. “Đó không phải một con chó cảnh sát, cô bé.” Cách hành xử của bà không mảy may suy suyển ngay cả trong tình cảnh này.
Tôi xuống xe và chào bà theo kiểu nhà binh. Ollie nhảy xuống cạnh tôi. “Bà gọi tôi, thưa Chỉ huy,” tôi nói.
Chỉ huy Jameson không thèm chào lại. Bà quay đi và tôi bắt buộc phải chạy theo bên cạnh, vất vả hòa nhịp bước cùng bà. “Anh trai cô, Metias, đã chết,” bà nói. Giọng bà không thay đổi. “Theo tôi biết thì cô sắp hoàn thành khóa huấn luyện đặc vụ, đúng vậy không? Cô cũng đã hoàn thành các khóa học về lần theo dấu vết?”
Tôi cố thở bình thường. Người thứ hai xác nhận cái chết của Metias. “Vâng, thưa Chỉ huy,” tôi nói.
Chúng tôi đi vào bệnh viện. (Phòng chờ trống trơn; tất cả bệnh nhân đã được chuyển đi; nhiều nhóm lính canh đứng gần lối lên
cầu thang; đó có thể là hiện trường đầu tiên của vụ án.) Chỉ huy Jameson nhìn thẳng về phía trước, tay chắp sau lưng. “Cô được bao nhiêu điểm trong kỳ Sát hạch?”
“Một ngàn năm trăm, thưa Chỉ huy.” Tất cả mọi người trong quân đội đều biết điểm của tôi. Nhưng Chỉ huy Jameson thích giả vờ không biết hoặc không quan tâm.
Bà không hề dừng bước. “À, đúng rồi,” bà nói, như thể đây là lần đầu bà nghe thấy điều đó. “Có thể cô cũng được việc đấy. Tôi đã gọi cho Drake và bảo họ cô được cho nghỉ học. Dẫu sao thì cô cũng gần hoàn thành chương trình học rồi.”
Tôi nhăn mặt. “Chỉ huy?”
“Tôi nhận được bảng tổng kết quá trình học của cô. Tất cả đều là điểm tuyệt đối, cô đã hoàn thành hầu hết các môn chỉ với nửa thời gian yêu cầu, phải không? Họ cũng nói cô thích gây rắc rối. Có đúng không?”
Tôi không hiểu bà ấy muốn gì ở mình. “Thỉnh thoảng, thưa Chỉ huy. Tôi gặp rắc rối gì? Họ đuổi học tôi ạ?”
Chỉ huy Jameson mỉm cười. “Không phải. Họ cho cô tốt nghiệp sớm. Đi theo tôi, tôi muốn cho cô thấy một thứ.”
Tôi muốn hỏi về anh Metias, về chuyện xảy ra ở đây. Nhưng thái độ lạnh lùng của bà ngăn cản tôi làm việc đó.
Chúng tôi đi xuôi một dãy hành lang tầng một đến cửa thoát hiểm cuối hành lang. Ở đó, Chỉ huy Jameson khoát tay ra hiệu lính gác cho tôi qua. Tiếng gầm gừ phát ra từ cổ họng Ollie. Chúng tôi ra ngoài trời, lần này là sân sau tòa nhà. Tôi nhận ra chúng tôi đang ở trong khu vực chăng băng vàng. Vài chục lính đứng quanh chúng tôi.
“Nhanh lên,” Chỉ huy Jameson quát tôi. Tôi đi nhanh hơn. Một lúc sau tôi nhận ra cái bà ấy muốn tôi thấy, và nơi chúng tôi đang đi tới. Không xa phía trước chúng tôi là một vật phủ vải trắng. (Dài lm83, giống người; tứ chi trông nguyên vẹn dưới tấm
vải phủ; chắc chắn không phải tự nhiên rơi như vậy, chắc ai đó đã đặt anh nằm ở đấy.) Tôi bắt đầu run rẩy. Khi tôi nhìn xuống Ollie, lông nó dựng đứng. Nó không muốn đến gần hơn. Tôi gọi nó vài lần, nhưng nó nhất quyết không đi, nén tôi phải đi theo Chỉ huy Jameson và để nó lại.
Anh Metias hôn lên trán tôi. “Mãi mãi như vậy nhóc à, đến khi em phát ốm lên vì phải gặp anh thì thôi.”
Chỉ huy Jameson dừng trước tấm vải trắng rồi cúi xuống lật nó sang một bên. Tôi nhìn chằm chằm vào xác chết một người lính mặc quân phục đen, một con dao vẫn đang cắm vào ngực. Vệt máu đen loang lổ trên áo, vai, tay người lính và trên những đường rãnh nơi cán dao. Mắt anh nhắm nghiền. Tôi quỳ xuống bên cạnh và gạt mấy sợi tóc đen khỏi khuôn mặt anh. Kỳ lạ. Không có chi tiết nào lọt vào đầu tôi. Tôi không cảm thấy gì, ngoài sự tê tái sâu thẳm.
“Cho tôi biết chuyện gì có thể đã xảy ra ở đây, học viên,” Chỉ huy Jameson nói to. “Coi như đây là bài kiểm tra đột xuất. Danh tính người lính này sẽ tạo thêm động lực để cô trả lời đúng.”
Tôi thậm chí chẳng mảy may suy suyển trước sự chua chát trong giọng nói của bà. Các manh mối ùa về, tôi bắt đầu nói ngay. “Người tấn công anh ấy bằng con dao này hoặc đâm ở cự ly gần hoặc ném dao rất khỏe. Thuận tay phải.” Tôi rà ngón tay trên cán dao máu đã đóng cục lại. “Ngắm rất chuẩn. Tôi đoán con dao cùng đi với một con dao khác thành một cặp. Bà thấy phần trang trí cuối lưỡi dao không? Nó không đầy đủ.”
Chỉ huy Jameson gật đầu. “Con dao thứ hai cắm trên tường cầu thang.”
Tôi nhìn về con ngõ tối mà chân anh tôi đang chỉ hướng đó và thấy cái nắp cống cách chỗ tôi vài mét. “Đó là nơi hắn chạy thoát,” tôi nói. Tôi ước lượng hướng nắp cống được đậy xuống. “Hắn thuận cả tay trái. Thú vị thật. Hắn thuận cả hai tay.”
“Tiếp tục đi.”
“Từ đây, hệ thống cống sẽ đưa hắn vào sâu hơn trong thành phố hoặc theo hướng Tây ra biển. Hắn sẽ chọn thành phố, hắn có thể bị thương nặng nên không còn đường nào khác. Giờ việc theo dấu vết hắn một cách chính xác là bất khả thi. Nếu khôn ngoan, hắn sẽ liên tục đổi hướng và làm thế trong nước cống. Hắn không dại gì sờ vào tường. Chúng ta sẽ không có dấu vết để lần theo.”
“Tôi sẽ để cô ở đây một lúc, cho cô bình tâm lại. Hai phút nữa gặp tôi trên cầu thang tầng ba, để mấy tay chụp ảnh xong việc đã.” Bà liếc nhìn xác anh Metias trước khi quay đi, trong một thoáng ngắn ngủi, vẻ mặt bà dịu lại. “Thật là phí phạm một người lính tốt.” Rồi bà lắc đầu và bỏ đi.
Tôi nhìn theo bước chân bà. Mấy người xung quanh tôi cố tránh xa ra, có vẻ như họ thiết tha muốn tránh một cuộc đối thoại gây khó xử. Tôi lại nhìn xuống mặt anh trai mình. Thật ngạc nhiên làm sao, trông anh có vẻ thanh thản. Làn da anh rám nắng, không trắng toát như những gì tôi mặc định về làn da người chết. Tôi gần như chờ đợi mắt anh chớp chớp, miệng anh mỉm cười. Một ít máu khô dính vào tay tôi. Tôi cố phủi nó đi, nhưng càng phủi nó càng dính chặt vào da. Tôi không biết có phải chính điều này làm tôi điên lên không. Hai tay tôi bắt đầu run lên bần bật, đến mức tôi phải nắm chặt áo anh Metias cho đỡ run. Đáng lẽ giờ tôi phải phân tích hiện trường vụ án... nhưng tôi không thể tập trung được.
“Đáng lẽ anh phải đưa em đi cùng,” tôi thì thầm với anh. Rồi tôi dựa vào đầu anh và bắt đầu khóc. Trong đầu tôi hứa thầm với kẻ giết anh mình.
Tao sẽ tìm ra mày. Tao sẽ lùng sục tìm mày khắp hang cùng ngõ hẻm ở Los Angeles. Tìm khắp cả nước Cộng hòa này nếu cần. Tao sẽ đánh bẫy mày, sẽ lừa bịp, dối trá và trộm cướp để tìm ra mày, dụ mày ra khỏi hang ổ, đuổi theo đến khi mày không còn chỗ nào để trốn. Tao thề có trời đất chứng giám: mạng sống của mày thuộc về tao.
Rất nhanh sau đó, vài người lính đến đưa thi thể anh Metias đến nhà xác.
03:17.
CĂN HỘ CỦA TÔI.
CÙNG ĐÊM ĐÓ.
MƯA BẮT ĐẦU RƠI.
Tôi nằm trên đi văng ôm Ollie trong vòng tay. Chỗ anh Metias thường ngồi giờ trống không. Chồng album ảnh cũ và nhật ký của anh chất đống trên bàn nước. Anh luôn yêu cái lối nệ cổ của cha mẹ chúng tôi, giữ những cuốn nhật ký viết tay giống như cái cách họ lưu giữ tất cả những tấm ảnh giấy. “Em không thể lần tìm hoặc theo dấu chúng trên mạng,” anh luôn nói vậy. Thật mỉa mai khi điều đó được nói ra bởi một tin tặc bậc thầy.
Có thật là mới chiều nay anh còn đón tôi về từ Drake? Anh đã muốn nói với tôi chuyện gì đó quan trọng, ngay trước khi đi. Giờ thì tôi sẽ không bao giờ biết được anh muốn nói gì. Các giấy tờ và báo cáo vương vãi trên bụng tôi. Một tay tôi nắm chặt mặt dây chuyền, vật chứng tôi xem xét được một lúc rồi. Tôi nheo mắt nhìn bề mặt nhẵn nhụi không chi tiết của nó. Rồi tôi thả tay xuống thở dài. Đầu tôi đau quá.
Trước đó tôi nghe ngóng được lý do Chỉ huy Jameson lôi tôi ra khỏi Drake. Bà đã theo dõi tôi từ lâu. Giờ đây khi đội của anh Metias đột ngột mất một người, bà muốn thêm vào đó một trinh sát. Thời điểm hoàn hảo để tóm cổ tôi trước khi những người tuyển dụng khác kịp ra tay. Bắt đầu từ mai, Thomas sẽ tạm thời thay thế vị trí anh Metias, và tôi sẽ tham gia vào đội trong vai trò trinh sát điều tra tập sự.
Nhiệm vụ lần dấu đầu tiên của tôi: Day.
“Chúng ta đã thử nhiều chiến thuật khác nhau để bắt Day, nhưng không có cái nào thành công,” Jameson nói trước khi cho tôi về nhà. “Vậy nên giờ ta sẽ làm thế này. Tôi sẽ tiếp tục các dự án của đội tuần tra. Với cô, tôi muốn kiểm tra các kỹ năng thực địa của cô. Hãy cho tôi thấy kế hoạch lần theo Day. Có thể cô sẽ làm được gì đó. Cũng có thể không. Nhưng cô có cái nhìn mới mẻ và nếu cô gây ấn tượng với tôi, tôi sẽ thăng chức cho cô làm trinh sát chính thức trong đơn vị này. Tôi sẽ làm cô nổi tiếng, trinh sát trẻ tuổi nhất trong lịch sử.”
Tôi nhắm mắt cố suy nghĩ.
Day đã giết anh tôi. Tôi biết thế vì chúng tôi tìm được thẻ căn cước bị đánh cắp trên cầu thang tầng ba. Thẻ này dẫn tới người lính có ảnh trên đó, anh ta lắp bắp đưa ra một bản mô tả nhận dạng của hắn. Mô tả của anh ta không khớp với bất kỳ mô tả nào mà chúng tôi có trong hồ sơ về Day, nhưng sự thật là chúng tôi cũng biết rất ít về bề ngoài của hắn, trừ việc hắn còn trẻ, giống với thằng bé ở bệnh viện tối nay. Các dấu vân tay trên thẻ căn cước khớp với những vân tay tìm được tháng trước từ một hiện trường vụ án có liên quan đến Day, những dấu vân tay không khớp với bất kỳ người dân thường nào mà chính quyền Cộng hòa còn lưu hồ sơ.
Day đã ở đó, trong bệnh viện. Hắn bất cẩn đánh rơi thẻ căn cước lại hiện trường.
Chi tiết này làm tôi thấy lạ. Day đột nhập vào phòng thí nghiệm tìm thuốc với một kế hoạch liều mạng giờ chót đầy sơ hở. Chắc hẳn hắn lấy đi thuốc kiềm chế bệnh dịch và thuốc giảm đau vì hắn không tìm được thuốc mạnh hon. Với cách hắn thoát thân, chắc chắn bản thân hắn không mắc dịch bệnh. Như vậy ai đó quen biết hắn đã bị bệnh, ai đó hắn quan tâm đến độ có thể liều cả mạng sống mang thuốc về. Người đó sống ở Blueridge, Lake, Winter, hoặc Alta, các khu mới bùng phát dịch gần đây. Nếu tôi suy luận
đúng, Day sẽ không trốn ngay khỏi thành phố. Hắn phải ở lại đây vì mối liên hệ này, vì bị thúc đẩy bởi cảm xúc.
Cũng có thể Day được thuê để làm việc này. Nhưng bệnh viện là nơi nguy hiểm và người đó sẽ phải trả hắn rất nhiều tiền. Nếu có nhiều tiền như vậy, chắc chắn hắn sẽ lên kế hoạch kỹ càng hơn và biết được thời điểm chuyến hàng chở thuốc chữa dịch tiếp theo được chuyển đến. Bên cạnh đó, trong các lần phạm tội trước đây, Day chưa bao giờ là lính đánh thuê. Hắn đơn độc tấn công vào các tài sản của quân đội Cộng hòa, làm chậm tiến độ tiếp tế ra chiến trường và phá hủy khinh khí cầu, máy bay chiến đấu. Hắn dường như có kế hoạch ngăn chúng tôi giành chiến thắng trước quân Thuộc địa. Có lúc chúng tôi đã nghĩ hắn làm cho quân Thuộc địa, nhưng những phi vụ của hắn khá thô, không có những thiết bị công nghệ cao hoặc khoản tài trợ đáng kể nào chống lưng. Không phải thứ mà người ta chờ đợi từ kẻ thù của chúng tôi. Hắn chưa từng được thuê để thực hiện các phi vụ theo như tôi biết, và cũng không có vẻ gì là hắn sẽ bắt đầu làm thế lúc này. Ai sẽ thuê một tay lính chưa được thử thách bao giờ? Một khả năng nữa là quân Ái quốc, nhưng nếu Day từng làm việc cho bọn chúng thì đến giờ, kẻ nào của phe Ái quốc sẽ phải vẽ lá cờ hiệu của bọn chúng (mười ba vạch trắng đỏ, với năm mươi chấm trắng trên nền chữ nhật màu xanh lam) lên một bức tường nào đó ở gần hiện trường vụ án rồi. Chúng sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội tuyên bố chiến thắng đâu.
Nhưng điều khó hiểu nhất mà tôi chưa thông là: Day chưa giết ai bao giờ. Đó là một lý do khác mà tôi không tin hắn có liên hệ với quân Ái quốc. Trong một vụ trước đây, trên đường đột nhập vào một khu cách ly hắn trói một viên tuần cảnh. Người cảnh sát này không bị một vết xước nào (trừ một bên mắt thâm đen). Một lần khác, hắn đột nhập vào một két sắt ngân hàng và bốn tay bảo vệ ở cửa sau không bị sao hết, dù hơi choáng váng. Có lần hắn đốt một loạt chiến đấu cơ đang đậu trên đường băng không người giữa đêm hôm khuya khoắt và hai lần khác cho khinh khí cầu “tiếp
đất” bằng cách phá hỏng động cơ. Hắn từng phá hoại bên sườn một tòa nhà quân sự. Hắn ăn trộm tiền, đồ ăn, hàng hóa. Nhưng không bao giờ đặt bom ven đường, không bắn binh lính. Hắn không cố gắng ám sát ai bao giờ. Tóm lại Day không giết người.
Vậy tại sao giết anh Metias? Day có thể chạy thoát mà không cần giết anh ấy. Có thù oán gì giữa hai người chăng? Anh tôi đã làm gì hắn trước đây sao? Đó chắc chắn không phải một tai nạn, con dao găm thẳng vào tim anh Metias.
Xuyên qua trái tim thông minh, ngu xuẩn, cứng đầu, bảo vệ em gái quá mức của anh.
Tôi mở mắt, giơ mặt dây chuyền lên xem xét tiếp. Nó là của Day, vân tay cho biết điều đó. Nó là một cái đĩa hình tròn và không có gì khắc trên đó, được tìm thấy trên cầu thang bệnh viện cùng với thẻ căn cước bị đánh cắp. Nó không thuộc về tôn giáo nào tôi biết. Nó không phải vật có giá trị, làm bằng đồng mạ ni ken rẻ tiền, phần vòng cổ làm bằng nhựa. Vậy có thể nói hắn không ăn cắp nó, và nó có ý nghĩa khác với hắn, đến mức hắn mang theo bên mình dù nó có thể bị rơi hoặc mất. Có thể là bùa may mắn. Có thể người thân nào đó đã cho hắn cái này. Có thể cũng chính người đó là lý do hắn liều mạng đánh cắp thuốc. Vật này chứa một bí mật; tôi chỉ chưa biết nó là gì thôi.
Những kỳ công của Day từng cuốn hút tôi. Nhưng giờ hắn là kẻ thù xứng tầm, là mục tiêu của tôi. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi. Tôi suy nghĩ trong hai ngày liền. Ngày thứ ba, tôi gọi Chỉ huy Jameson. Tôi có một kế hoạch.
DAY
Tôi đang mơ rằng mình lại được về nhà. Eden ngồi trên sàn, vẽ mấy hình ngộ ngộ trên ván sàn. Thằng bé chỉ khoảng bốn năm tuổi, đôi má vẫn phúng phính. Cứ vài phút nó lại đứng dậy và nhờ tôi phê bình tác phẩm của nó. John và tôi ngồi co chân trên đi văng, hoài công cố sửa cái đài đã tồn tại trong nhà chúng tôi hàng bao nhiêu năm trời. Tôi vẫn nhớ ngày bố mang nó về nhà. Nó sẽ cho ta biết khu nào có dịch để tránh, ông nói. Nhưng giờ nằm la liệt trong lòng chúng tôi là những linh kiện đã mòn vẹt và hỏng gần hết của nó. Tôi nhờ Eden giúp nhưng thằng bé chỉ cười và bảo chúng tôi tự đi mà làm lấy.
Mẹ đứng một mình trong căn bếp bé xíu, cố gắng nấu bữa tối. Đây là một cảnh quá quen với tôi rồi. Cả hai bàn tay mẹ quấn băng dày, mẹ chắc đã bị đứt tay vì một mảnh chai vỡ hoặc một cái lon rỗng khi dọn dẹp các thùng rác ở ga Union hôm nay. Mẹ nhăn mặt khi rã đông hạt ngô bằng sống dao. Đôi tay băng bó của mẹ run lên.
Mẹ nghỉ đi. Con làm cho. Tôi cố đứng dậy nhưng hai bàn chân như bị dính xuống đất.
Sau một lúc, tôi ngẩng đầu lên xem Eden đang vẽ gì. Ban đầu tôi không nhìn ra hình dạng gì, chúng có vẻ là những hình vẽ bừa lộn xộn từ bàn tay mải miết của thằng bé.
Khi nhìn gần hơn, tôi nhận ra thằng bé vẽ mấy tên lính xông vào nhà chúng tôi. Nó vẽ bằng bút sáp đỏ như máu. Tôi giật mình tỉnh giấc. Những dải ánh sáng xám mờ nhạt lúc bóng xế xuyên qua một ô cửa sổ gần đó. Tôi nghe có tiếng mưa
khe khẽ. Tôi đang ở trong một căn phòng trông giống phòng ngủ của trẻ con bị bỏ không. Giấy dán tường màu xanh da trời và vàng, bị bong ở góc. Hai ngọn nến thắp sáng căn phòng. Tôi cảm thấy chân mình được treo lên cuối giường. Dưới đầu tôi có gối. Khi trở mình, tôi bật ra tiếng rên và nhắm nghiền mắt lại.
Giọng Tess vọng về phía tôi. “Anh nghe được em nói không?” cô bé nói.
“Không rõ lắm em ạ.” Lời tôi thì thầm qua cặp môi khô. Đầu tôi nện như búa bổ vì cơn đau đầu nhói buốt. Tess nhận ra vẻ đau đớn trên khuôn mặt tôi và im lặng khi tôi cứ nhắm nghiền hai mắt đợi cơn đau qua đi. Cơn đau vẫn tiếp tục như một cái cuốc cứ không ngừng bố xuống phía sau đầu tôi.
Sau một khoảng thời gian tưởng như vô tận, cơn đau đầu cuối cùng cũng dịu đi. Tôi mở mắt. “Đây là đâu? Em ổn không?” Tôi thấy mặt Tess dần rõ hơn. Cô bé tết tóc ngắn sau đầu, môi hồng và đang cười mỉm. “Em ổn không á?” em nói. “Anh bất tỉnh hơn hai ngày nay rồi. Anh cảm thấy thế nào?”
Cơn đau kéo đến như sóng dồn, lần này là từ những vết thương hẳn là chi chít trên người tôi. “Tuyệt vời.”
Nụ cười của Tess héo đi. “Anh suýt chết đấy, chỉ một xíu nữa thôi. Nếu em không tìm được ai cho chúng ta trốn nhờ, có lẽ anh đã chết rồi đấy.”
Đột nhiên ký ức ùa về trong tôi. Tôi nhớ lối vào bệnh viện, thẻ căn cước đánh cắp và cầu thang và phòng thí nghiệm, cú rơi dài, con dao tôi ném vào tay đại úy, đường cống ngầm. Những lọ thuốc.
Những lọ thuốc. Tôi cố ngồi dậy, nhưng tôi cử động quá nhanh và phải cắn môi vì đau. Tay tôi sờ lên cổ, không có mặt dây chuyền nào để nắm lấy cả. Ngực tôi nhói đau. Tôi làm mất nó rồi. Bố đã tặng tôi mặt dây chuyền đó, và giờ tôi đã bất cẩn làm mất nó.
Tess cố xoa dịu tôi. “Yên nào.”
“Gia đình anh có sao không? Có lọ thuốc nào nguyên vẹn khi anh nhảy xuống không?”
“Có, một số còn dùng được.” Tess đỡ tôi nằm xuống rồi chống khuỷu tay lên giường tôi. “Em nghĩ thuốc kiềm chế dịch vẫn tốt hơn không có gì. Em đưa đến nhà mẹ anh rồi, cùng với bọc quà của anh. Em đi qua lối sau và đưa cho anh John. Anh ấy nhắn là cảm ơn anh.”
“Em không nói với John chuyện gì xảy ra chứ?”
Tess đảo mắt. “Anh nghĩ em giấu được anh John chuyện đó à? Tất cả mọi người giờ đã biết về vụ đột nhập bệnh viện rồi, và anh John biết anh bị thương. Anh ấy rất giận vì chuyện đó đấy.” “Anh ấy có nói ai ốm không? Eden à? Hay là mẹ?”
Tess cắn môi. “Là Eden. Anh John nói những người khác bây giờ vẫn ổn. Nhưng Eden có thể nói và dường như vẫn còn đủ tỉnh táo. Em ấy cố ra khỏi giường giúp mẹ anh sửa chỗ rò nước ở dưới bồn rửa, cố chứng tỏ là mình vẫn khỏe, nhưng tất nhiên là mẹ anh bắt em ấy quay lại giường. Mẹ anh xé đi hai cái áo để làm khăn chườm sốt cho Eden, nên anh John nói nếu anh tìm được thêm quần áo vừa cỡ mẹ thì tốt quá.”
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Eden. Tất nhiên là Eden rồi, vẫn giống như một kỹ sư tí hon kể cả khi bị bệnh. Ít nhất tôi cũng lấy được một ít thuốc. Mọi việc rồi sẽ ổn thôi. Eden sẽ tạm ổn thêm một thời gian nữa, và tôi cũng không ngại bài giáo huấn của anh John. Còn về mặt dây chuyền bị mất, chà... trong một thoáng tôi cảm thấy nhẹ lòng vì mẹ không thể biết về điều đó, vì chuyện ấy sẽ làm mẹ buồn lắm.
“Anh không thấy thuốc chữa lành bệnh và anh cũng không có thời gian tìm kỹ hơn.”
“Không sao mà,” Tess nói. Cô bé chuẩn bị thay băng cho tay tôi. Tôi thấy chiếc mũ cũ sờn của mình treo sau ghế Tess ngồi. “Gia đình anh có thêm chút thời gian. Chúng ta sẽ có thêm cơ hội.”
“Chúng ta đang ở nhà ai vậy?”
Vừa nói dứt lời, tôi nghe tiếng cửa đóng và tiếng chân người trong phòng bên cạnh. Tôi hoảng hốt nhìn Tess. Cô bé chỉ gật đầu và nói tôi yên tâm.
Một người đàn ông bước vào, lắc lắc cái ô cho hết nước mưa bẩn. Ông cầm một cái túi giấy nâu trong tay. “Cháu tính rồi à,” ông nói với tôi. “Tốt rồi.” Tôi nhìn khuôn mặt ông. Da ông trắng bệnh và người ông hơi mập, lông mày rậm và đôi mắt hiền từ. “Cô gái,” ông nói, nhìn về phía Tess, “cháu nghĩ cậu ta có thể rời đi trước tối mai không?”
“Chúng cháu sẽ đi trước lúc đó.” Tess cầm một lọ nước trong suốt, tôi đoán là cồn, và thấm ướt viền miếng gạc. Tôi nhăn mặt khi cô bé chấm chấm vết thương trên tay do đạn sượt qua. Tôi thấy như có lửa đốt trên da. “Một lần nữa xin cảm ơn chú, vì đã cho chúng cháu tá túc.”
Ông ậm ừ, vẻ ngập ngừng, rồi gật đầu ngượng nghịu. Ông nhìn xung quanh phòng như đang tìm kiếm vật gì đã mất. “Ta e rằng chỉ cho các cháu ở được có vậy thôi. Bọn kiểm dịch sắp đi rà soát lần nữa rồi.” Ông ngập ngừng rồi lấy hai cái hộp từ trong túi giấy để lên tủ ngăn kéo. “Có ít bò xay xốt ớt cho hai đứa đây. Không phải loại ngon nhất, nhưng cũng no bụng đấy. Ta sẽ đi lấy ít bánh mì.” Trước khi chúng tôi kịp mở miệng, ông đi nhanh ra khỏi phòng với chỗ thực phẩm còn lại.
Giờ tôi mới nhìn xuống người mình. Tôi đang mặc quần nâu quân đội, ngực và tay băng bó. Cả một bên chân cũng vậy. “Tại sao chú ấy lại giúp chúng ta?” tôi thì thầm hỏi Tess.
Đang thay băng tay cho tôi, cô bé ngẩng đầu lên. “Đừng đa nghi quá. Chú ấy từng có một con trai ra mặt trận. Con chú ấy mất vì dịch bệnh mấy năm trước.” Tôi rên rỉ khi Tess buộc chặt nút cuối cùng. “Anh hít vào đi.” Tôi làm theo lời cô bé. Một vài cơn đau nhói lên khi cô bé nhẹ nhàng ấn ngón tay lên những chỗ khác nhau
trên ngực tôi. Má cô bé hồng lên khi làm việc đó. “Có vẻ anh bị nứt một dải xương sườn, nhưng chắc chắn không gãy. Anh sẽ lành nhanh thôi. À mà chú ấy không hỏi tên chúng ta nên em cũng không hỏi lại. Không biết là tốt nhất. Em kể cho chú ấy vì sao anh bị thương. Em nghĩ anh làm chú ấy nhớ đến con mình.”
Tôi ngả đầu xuống gối. Tôi đau ê ẩm từ đầu đến chân. “Anh làm mất hai con dao rồi,” tôi nói thầm, không muốn ông nghe thấy ở phòng bên. “Cả hai con đều tốt cả.”
“Em rất tiếc, Day à,” Tess nói. Cô bé vén sợi tóc trên mặt rồi nghiêng về phía tôi. Em giơ túi nilon có ba viên đạn bạc lên. “Em tìm thấy chúng kẹt trong nếp gấp quần áo của anh và đoán anh có thể muốn dùng chúng với súng cao su hay gì đấy.” cô bé nhét cái túi vào một trong những túi áo của tôi.
Tôi mỉm cười. Lần đầu tôi gặp Tess ba năm về trước, cô bé mới mười tuổi, gầy gò, mồ côi cha mẹ, hằng ngày đi bới thùng rác trong khu Nima. Ngày đó em cần tôi giúp nhiều đến mức thỉnh thoảng tôi quên mất giờ tôi dựa vào em nhiều đến mức nào.
“Cảm ơn em,” tôi nói. Cô bé thì thầm gì đó mà tôi không hiểu và rồi quay mặt đi.
Một lúc sau tôi chìm vào giấc ngủ sâu. Khi tỉnh dậy, tôi không biết mình đã ngủ được bao lâu rồi. Cơn đau đầu đã hết và bên ngoài trời cũng đã tối. Có lẽ vẫn chưa hết ngày, dù tôi cảm thấy mình ngủ lâu hơn thế. Không binh lính, không cảnh sát. Chúng tôi vẫn sống. Tôi nằm yên một lúc, hoàn toàn tỉnh táo trong bóng tối. Nghe chừng người giúp đỡ chúng tôi chưa báo cho chính quyền. Chưa thôi.
Tess đang gối đầu lên tay và ngủ ngon lành bên cạnh giường. Đôi khi tôi ước mình có thể tìm cho cô bé một ngôi nhà tử tế, một gia đình tử tế sẵn sàng nhận nuôi em. Mỗi lần như vậy, tôi lại xua cái ý nghĩ đó đi, vì nếu Tess là thành viên một gia đình thực sự, em sẽ lại chịu sự kiểm soát của chính quyền Cộng hòa. và cô bé sẽ bị
bắt làm bài Sát hạch vì em chưa làm nó bao giờ. Tệ hơn, chúng có thể biết mối liên hệ giữa cô bé với tôi và tra khảo em. Tôi lắc đầu. Quá ngây thơ, quá dễ bị thao túng. Tôi sẽ không thể giao phó cô bé cho ai cả. Vả lại... tôi sẽ nhớ em lắm. Hai năm đầu tiên tôi bỏ đi lang thang một mình là hai năm thực sự cô độc.
Tôi xoay cổ tay hết sức nhẹ nhàng. Trừ việc hơi cứng ra thì nó không đau lắm, không rách cơ, không sưng, vết đạn bắn vẫn bỏng rát và vết đau ở sườn đôi khi dữ dội, nhưng lần này tôi đủ khỏe để ngồi dậy bình thường. Tay tôi tự động sờ lên đầu và thấy tóc mình không buộc mà để xõa qua vai. Chỉ với một tay, tôi kéo tóc lên thành một búi lộn xộn và xoắn nó thành một nút thật chặt. Sau đó tôi vươn người về phía Tess, lấy chiếc mũ trẻ bán báo sờn cũ trên ghế đội lên đầu. Oái. Hai tay tôi bỏng rát vì gắng sức.
Tôi ngửi thấy mùi bò xốt ớt và bánh mì. Có một cái bát bốc khói nghi ngút đặt trên tủ ngăn kéo cạnh giường và một ổ bánh mì nhỏ đặt cân bằng trên mép bát. Tôi nghĩ đến hai chiếc lon mà ân nhân của chúng tôi đặt trên tủ ngăn kéo.
Dạ dày tôi kêu ọc ọc. Tôi ăn sạch sành sanh.
Khi tôi liếm những giọt xốt ớt cuối cùng trên ngón tay mình, tôi nghe tiếng đóng cửa ở đâu đó trong nhà và ngay sau đấy là tiếng chân bước vội về phía phòng chúng tôi. Tôi chợt căng thẳng. Ở bên cạnh, Tess giật mình tính dậy và nắm lấy tay tôi.
“Gì vậy?” em thốt lên. Tôi giơ ngón tay lên miệng ra dấu. Ân nhân của chúng tôi bước vội vào phòng, ông khoác chiếc áo choàng tơi tả ngoài bộ đồ ngủ. “Các cháu phải đi thôi,” ông thì thào. Mồ hôi túa ra trên trán. “Chú vừa nghe về một kẻ đang tìm cháu.”
Tôi bình tĩnh nhìn ông. Tess nhìn tôi hoảng loạn. “Sao chú lại biết?” tôi hỏi.
Người đàn ông bắt đầu dọn dẹp căn phòng, cầm chiếc bát rỗng và thu dọn mặt tủ. “Tên này nói với mọi người rằng hắn có thuốc
kháng dịch cho người cần nó. Hắn cũng nói hắn biết cháu đang bị thương. Hắn không nói rõ tên nhưng ta biết hắn đang nói về cháu.”
Tôi ngồi thẳng dậy và khua chân về bên kia giường. Giờ không còn cách nào khác. “Đúng là hắn nói cháu đấy,” tôi đồng ý. Tess chộp lấy vài chiếc băng sạch nhét vào áo sơ mi. “Đó là một cái bẫy. Chúng ta phải rời khỏi đây ngay.”
Người đàn ông gật đầu. “Các cháu có thể đi bằng cửa sau. Đi thẳng xuống hành lang rồi rẽ trái.”
Trong giây lát tôi nhìn vào mắt người đàn ông. Ngay lập tức, tôi nhận ra ông biết chính xác tôi là ai. Chỉ là ông không nói ra mà thôi. Như những người khác trong khu này đã nhận ra và giúp đỡ chúng tôi hồi trước, ông không hoàn toàn phản đối rắc rối tôi gây ra cho chính quyền Cộng hòa. “Chúng cháu rất biết ơn,” tôi nói.
Ông không đáp lại. Tôi nắm tay Tess ra khỏi phòng ngủ, đi dọc hành lang và qua cửa sau. Hơi ẩm của đêm tối xộc thẳng vào người tôi. Tôi chảy nước mắt vì đau.
Chúng tôi đi xuyên qua những con ngõ tĩnh mịch suốt sáu dãy nhà cho tới khi cuối cùng cũng đi chậm lại. Những vết thương của tôi bỏng rát. Tôi với tay cố chạm vào mặt dây chuyền để bình tâm nhưng rồi nhớ ra nó không còn ở trên cổ nữa. Dạ dày tôi trào lên cảm giác khó chịu. Nếu chính quyền phát hiện ra đó là gì thì sao? Liệu họ có phá hủy nó? Giả sử họ lần ngược ra gia đình tôi thì sao?
Tess ngồi sụp xuống đất, đầu dựa vào tường. “Chúng ta phải ra khỏi thành phố,” cô bé nói. “Ở đây quá nguy hiểm anh Day à. Anh biết mà. Vùng Arizona và Colorado an toàn hơn, hay thôi nào, thậm chí là Barstow. Em không ngại vùng ngoại ô đâu.”
Ừ, ừ. Anh biết chứ. Tôi nhìn xuống. “Anh cũng muốn đi mà.” “Nhưng anh sẽ không đi. Em có thể thấy điều đó trên khuôn mặt anh.”
Chúng tôi im lặng một lúc. Nếu chỉ có mình tôi, tôi sẽ đi dọc đất nước một mình và trốn sang vùng Thuộc địa ngay khi có cơ hội. Tôi không sợ phải mạo hiểm mạng sống của bản thân. Nhưng có cả tá lý do khiến tôi không thể bỏ đi, và Tess biết điều đó. Mẹ và anh John không thể cứ thế bỏ việc rồi bỏ trốn cùng tôi mà không gây chú ý. Eden cũng không thể cứ thế bỏ học. Trừ phi họ cũng muốn trở thành kẻ bỏ trốn như tôi.
“Cứ để xem đã,” cuối cùng tôi nói.
Tess nở một nụ cười méo xệch với tôi. “Anh nghĩ ai đang truy đuối anh?” sau một lúc em hỏi. “Sao họ biết chúng ta đang ở khu Lake?”
“Anh không biết. Có thể một kẻ bán thuốc lậu nào đó đã nghe về vụ đột nhập bệnh viện. Chắc họ nghĩ chúng ta có nhiều tiền hay giữ thứ gì giá trị. Cũng có thể một tên lính nào đó. Hoặc thậm chí là gián điệp. Anh đã đánh mất dây chuyền ở bệnh viện, anh cũng không biết chúng sẽ dùng nó để tìm anh như thế nào, nhưng mọi chuyện luôn có thể xảy ra.”
“Nếu vậy anh định sẽ làm gì?”
Tôi nhún vai. Vết thương do đạn bắn của tôi bắt đầu nhói lên, tôi phải đứng dựa vào tường. “Anh thề là sẽ không gặp hắn cho dù hắn là ai, nhưng anh phải công nhận anh tò mò muốn biết hắn muốn nói gì. Nếu hắn thực sự có thuốc chữa dịch thì sao?”
Tess nhìn chằm chằm vào tôi. Cũng khuôn mặt đó vào cái hôm đầu tiên tôi gặp cô bé, vừa tò mò vừa hy vọng pha chút sợ hãi, tất cả trong một. “Ừ thì... còn gì nguy hiểm hơn vụ đột nhập điên rồ vào bệnh viện của anh nữa chứ?”
JUNE
Tôi không biết liệu có phải tại Chỉ huy Jameson thầm thương hại tôi hay bà thực sự cảm thấy mất mát khi không còn anh Metias, một trong những người lính tài năng nhất của bà, nhưng bà đã giúp tôi chuẩn bị đám tang cho anh, mặc dù từ trước đến giờ bà chưa từng làm điều này vì một người lính nào. Bà từ chối nói ra lý do vì sao bà lại làm vậy.
Những gia đình giàu có như chúng tôi luôn tổ chức đám tang rất kỹ lưỡng, đám tang của anh Metias diễn ra trong một tòa nhà có những hành lang mái vòm kiểu ba rốc cao vút, cửa sổ lắp kính màu. Họ phủ lên sàn nhà những tấm thảm trắng tinh; khắp phòng là những bàn tiệc tròn màu trắng đặt đầy hoa tử đinh hương trắng. Những sắc màu duy nhất đến từ những lá cờ Cộng hòa và huy hiệu tròn bằng vàng của nước Cộng hòa treo phía sau bàn thờ trước của căn phòng, bức chân dung của Cử tri vĩ đại choán một khoảng rộng ở phía trên cao.
Mọi người đến đưa tang đều mặc đồ lịch sự màu trắng. Tôi mặc một chiếc váy dài cầu kỳ màu trắng, đáp ren và ôm ngực, với chân váy lụa phủ ngoài và những diềm xếp nếp ở phía sau. Một chiếc trâm nhỏ bằng vàng trắng hình huy hiệu nước Cộng hòa cài lên phần vạt áo của chiếc váy. Người làm tóc búi cao tóc tôi lên, để thả những lọn tóc trên vai và một bông hồng trắng cài sau tai. Một chiếc vòng ngọc trai bó khít quanh cổ tôi. Mí mắt tôi lấp lánh màu nhũ trắng và hàng mi như chìm trong tuyết, quầng sưng đỏ dưới mắt được che đi bằng phấn trắng. Tất cả những thứ trên người tôi lúc này như bị tước đi tất cả màu sắc, cũng như anh Metias đã bị
tước đi khỏi cuộc đời tôi.
Anh Metias từng nói với tôi rằng trước kia không như thế này, rằng chỉ đến sau những trận lụt và những lần núi lửa phun trào đầu tiên, sau khi chính quyền Cộng hòa dựng lên tường rào ở mặt trận để ngăn những kẻ đào tẩu từ vùng Thuộc địa xâm nhập bất hợp pháp vào lãnh thổ của chúng ta thì người ta bắt đầu để tang cho người chết bằng cách mặc đồ trắng. “Sau những lần phun trào đầu tiên,” anh nói, “tro núi lửa phủ trắng bầu trời trong hàng tháng trời. Người chết và kẻ hấp hối đều bị phủ lên màu trắng đó. Vì thế nên mặc đồ trắng bây giờ là cách để tưởng nhớ người chết.”
Anh nói với tôi điều đó vì tôi từng hỏi anh về đám tang của cha mẹ chúng tôi.
Tôi đi lang thang giữa các vị khách, lạc lõng, vô định, đáp lại những lời quan tâm của mọi người xung quanh bằng những câu trả lời thích hợp đã chuẩn bị sẵn. “Tôi rất tiếc vì mất mát của cháu/em/bạn,” mọi người đều nói. Tôi nhận ra vài giáo sư, đồng đội và cấp trên của anh Metias. Thậm chí còn có một vài bạn học cùng lớp với tôi ở Drake. Tôi bất ngờ khi thấy họ, tôi chưa bao giờ giỏi cái khoản kết bạn trong suốt ba năm đại học, xét về tuổi tác cũng như khối lượng học tập nặng nề của mình. Nhưng họ đang ở đây, một số từ lớp huấn luyện chiều, số khác từ lớp Lịch sử Cộng hòa 421. Họ nắm lấy tay tôi và lắc đầu. “Đầu tiên là bố mẹ, và giờ đến lượt anh trai. Mình không tưởng tượng được hết sự khó khăn của bạn.”
Không, mấy người không thể hiểu được đâu. Nhưng tôi lại gật đầu và mỉm cười ân cần, vì tôi hiểu họ có ý tốt. “Cảm ơn mọi người đã đến viếng,” tôi nói. “Điều đó thật ý nghĩa biết bao. Tôi biết anh Metias sẽ tự hào vì đã hy sinh cho đất nước của mình.”
Đôi khi tôi bắt gặp một ánh nhìn ngưỡng mộ của một người có thiện chí trong gian phòng, nhưng tôi lờ đi. Tôi không coi trọng những tình cảm như vậy. Trang phục của tôi không phải dành cho
họ. Chỉ vì anh Metias tôi mới mặc chiếc váy cầu kỳ không cần thiết này, để anh ấy biết tôi yêu quý anh ấy đến nhường nào. Một lúc sau, tôi ngồi vào một chiếc bàn gần phía mặt tiền căn phòng, đối diện với bàn thờ rắc hoa mà lát nữa thôi sẽ có một dòng người đứng đọc lời ca tụng của họ dành cho anh trai tôi. Rồi tôi cúi đầu thành kính trước quốc kỳ nước Cộng hòa. Mắt tôi lơ đãng nhìn về phía chiếc quan tài màu trắng bên cạnh dòng người. Từ đây tôi chỉ có thể thấy một phần người nằm bên trong. “Trông em xinh lắm, June à.”
Tôi ngước lên thấy Thomas cúi chào, sau đó ngồi vào ghế bên cạnh tôi. Anh thay bộ quần áo quân nhân bằng bộ vét thanh lịch màu trắng và tóc vừa cắt kiểu mới. Tôi có thể nói rằng bộ vét này là mới tinh. Chắc nó đắt tiền lắm. “Cảm ơn. Anh cũng vậy.”
“Đó là... ý anh là trông em vẫn ổn trong hoàn cảnh này, sau bao nhiêu việc xảy ra như thế.”
“Em hiểu ý anh mà.” Tôi với tay đặt nhẹ lên tay anh để xoa dịu. Anh mỉm cười. Trông anh như muốn nói thêm điều gì nhưng rồi lại quyết định không nói nữa và nhìn đi hướng khác.
Phải mất nửa tiếng để tất cả mọi người tìm chỗ ngồi của mình và nửa tiếng nữa để những người phục vụ bắt đầu dọn những đĩa thức ăn ra. Tôi không ăn gì cả. Chỉ huy Jameson ngồi đối diện tôi phía xa bên kia của bàn tiệc, ngồi giữa bà và Thomas là ba bạn học của tôi từ Drake. Tôi cười gượng với họ. Bên trái tôi là một ông tên Chian, người tổ chức và giám sát tất cả các kỳ Sát hạch diễn ra tại Los Angeles. Ông ta là giám khảo lần tôi thi. Tôi không hiểu tại sao ông ta lại đến đây, tại sao ông ta lại quan tâm đến cái chết của anh Metias. Ông ta là một người quen cũ của bố mẹ tôi, ông ta xuất hiện cũng không có gì bất ngờ, nhưng tại sao lại chọn ngồi ngay cạnh tôi?
Sau đó, tôi nhớ rằng Chian đã chỉ dạy cho anh Metias trước khi anh gia nhập đội của Chỉ huy Jameson. Anh Metias ghét ông ta.
Ông ta giờ đang nhíu cặp lông mày rậm rạp và vỗ một tay lên bờ vai trần của tôi. Tay ông ta nán lại một lúc. “Cháu cảm thấy thế nào rồi, cháu thân mến?” ông ta hỏi. Lời nói làm biến dạng những vết sẹo trên khuôn mặt của ông ta, một vết chạy ngang qua sống mũi, một vết khác hình răng cưa chạy từ tai xuống tận dưới cằm.
Tôi cố gắng nở nụ cười. “Tốt hơn cháu nghĩ.”
“Chà, ta cũng nghĩ vậy.” Ông ta phát ra một tiếng cười làm tôi rúm người. Ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân. “Chiếc váy làm cháu nổi bật như một bông hoa tuyết mới nở vậy.”
Tôi phải gồng mình kiềm chế để giữ nguyên được nụ cười trên môi. Bình tĩnh nào, tôi tự nhủ. Chian không phải là người để gây thù chuốc oán.
“Ta rất yêu quý anh của cháu, cháu biết đấy,” ông ta tiếp tục với vẻ đồng cảm quá trớn. “Tôi biết anh cháu từ hồi cậu ấy còn là một đứa trẻ, có lẽ cháu phải nhìn thấy cậu ấy hồi đó cơ. Cậu ấy thuờng chạy vòng quanh phòng khách nhà bố mẹ cháu, giả bộ tay mình là một khẩu súng. Có lẽ số phận đã sắp xếp cho cậu ấy vào đội của chúng ta.”
“Cảm ơn, thưa ngài,” Tôi nói.
Chian cắt một miếng thịt bò lớn và tống vào miệng. “Metias là một cậu lính rất cần mẫn trong suốt thời gian tôi chỉ dạy cho cậu ấy. Một thủ lĩnh bẩm sinh. Cậu ấy đã bao giờ kể chuyện đó với cháu chưa?”
Một ký ức vụt qua tâm trí tôi. Đêm mưa khi anh Metias mới bắt đầu làm trong đội của Chian. Anh đã đưa tôi và Thomas, lúc đó vẫn đang đi học, ra khu Tanagashi, nơi tôi đã ăn bát thịt lợn nấu đậu đầu tiên của mình, với mì spaghetti và bánh mì hành ngọt. Tôi nhớ hai người họ mặc đầy đủ đồng phục, anh Metias phanh áo khoác và áo trong để ngoài quần; Thomas cài khuy áo cẩn thận, mái tóc gọn gàng chải ngược ra sau. Thomas trêu chọc tôi vì mái tóc buộc hai cái đuôi sam rối bù của tôi, nhưng anh Metias lại im
lặng. Một tuần sau, thời gian tập sự của anh với Chian đột ngột kết thúc. Anh Metias đã điền vào một bản yêu cầu, và anh đã được điều về đội của Chỉ huy Jameson.
“Anh ấy nói tất cả đều là tối mật,” tôi nói dối.
Chian cười. “Một chàng trai tốt, Metias luôn như vậy. Một lính tập sự có khả năng. Cháu có tưởng tượng nổi tôi đã thất vọng thế nào khi cậu ấy được bố trí lại vào đội tuần thành không. Cậu ấy nói với tôi là cậu ấy không đủ thông minh để làm giám khảo kỳ Sát hạch hoặc sắp xếp những đứa trẻ đã hoàn thành kỳ thi. Thật khiêm tốn. Cậu ấy luôn luôn thông minh hơn những gì cậu ấy nghĩ, giống như cháu vậy.” Ông ta mỉm cười với tôi.
Tôi gật đầu. Chian bắt tôi thi đến hai lần vì tôi đạt điểm tuyệt đối trong thời gian kỷ lục (một tiếng mười phút). Ông ta nghĩ tôi đã gian lận. Không chỉ có số điểm tuyệt đối duy nhất trong nước, tôi có lẽ cũng là đứa trẻ duy nhất từng thi đến hai lần. “Ngài thật tốt bụng,” tôi trả lời. “Anh trai cháu giỏi lãnh đạo hơn cháu rất nhiều.”
Chian phẩy tay bảo tôi ngừng nói. “Vớ vẩn, cháu yêu của ta,” ông ta nói. Rồi ông ta cúi người lại sát sàn sạt đến mức khó chịu. Ông ta có vẻ gì đó giả tạo và thật khó ưa. “Cá nhân ta cảm thấy suy sụp vì cái cách cậu ấy chết,” ông ta nói. “Dưới bàn tay của thằng nhãi kinh tởm đó. Thật đau đớn!” Chian nheo mắt làm đôi lông mày trông còn rậm rạp hơn trước. “Ta rất hài lòng khi Chỉ huy Jameson nói với ta rằng cháu được giao nhiệm vụ lần theo dấu hắn. Vụ của hắn cần một đôi mắt tươi trẻ và cháu chính là người phù hợp nhất để làm việc này. Thật là một bài kiểm tra trình độ không thể chuẩn hơn, phải không?”
Tôi căm hận lão ta đến tận xương tủy. Thomas nhận ra sự không tự nhiên ở tôi, vì tôi cảm thấy tay anh đang đặt lên tay mình dưới gầm bàn. Kệ nó đi, anh đang cố gắng nói với tôi. Khi Chian cuối cùng cũng quay đi để đáp lời một người đàn ông bên cạnh
ông ta, Thomas nghiêng người về phía tôi.
“Chian có một mối thù cá nhân với Day,” anh thì thầm. “Thật vậy ạ?” tôi thì thầm đáp lời.
Anh gật đầu. “Em nghĩ ai gây ra vết sẹo cho ông ta?” Day làm? Tôi không thể giấu nổi vẻ mặt ngạc nhiên. Chian là một người đàn ông khá cao to và tôi nhớ ông ta làm việc ở Hội đồng Sát hạch cũng đã lâu. Ông ta là một giám khảo lão luyện. Sao một thiếu niên có thể làm ông ta thương nặng như vậy? Mà vẫn trốn thoát được? Tôi liếc về phía Chian xem xét vết sẹo của ông ta. Một vết cắt gọn bằng lưỡi dao sắc cạnh. Chắc cắt cũng rất nhanh bởi đường cắt thẳng tắp, tôi không thể tưởng tượng nổi Chian chịu đứng yên để cho kẻ khác chém như vậy. Trong chốc lát, khoảng vài giây, tôi đứng về phe Day. Tôi quay về phía Chỉ huy Jameson, người đang nhìn chằm chằm tôi như thể bà biết tôi đang suy nghĩ gì. Điều đó làm tôi thấy không thoải mái.
Tay Thomas chạm tay tôi lần nữa. “Này,” anh nói. “Day không thể trốn chính quyền mãi được, sớm hay muộn chúng ta sẽ tìm được con chuột tinh ranh đấy và xử hắn làm gương. Hắn không đọ được em đâu, nhất là khi em dồn hết tâm trí vào việc này.”
Nụ cười ân cần của Thomas làm tôi yếu mềm, đột nhiên tôi cảm thấy như anh Metias đang ngồi cạnh và nói với tôi rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi, cam đoan với tôi rằng chính phủ Cộng hòa sẽ không làm tôi thất vọng. Anh từng hứa sẽ ở bên tôi mãi mãi. Tôi không nhìn Thomas nữa mà quay về phía bàn thờ để anh không nhìn thấy những giọt nước trong mắt tôi. Tôi không thể mỉm cười đáp lại. Tôi thậm chí không nghĩ mình còn có thể cười được nữa.
“Cố vượt qua đi,” tôi tự nhủ.
DAY
Chiều muộn rồi nhưng trời vẫn nóng phát điên. Tôi lê bước trên những con phố dọc theo đường ranh giới giữa khu Alta và khu Winter, men theo hò và đi giữa trời, hòa cùng dòng người xuôi ngược, vết thương của tôi vẫn đang lành lại. Tôi mặc quần quân đội của ân nhân cho cùng với chiếc áo sơ mi mỏng Tess tìm thấy trong một thùng rác. Mũ kéo thấp, tôi thêm vào lớp cải trang của mình một miếng băng che mắt trái. Không có gì là thực sự khác thường. Nhất là ở giữa một biển công nhân với những vết thương nghề nghiệp như thế này. Hôm nay tôi ra ngoài một mình, Tess đang ẩn nấp cách đó vài con phố, thu mình trên một gờ tường tầng hai khuất xa tầm nhìn. Chẳng có lý do gì để mạo hiểm cả hai nếu không phải tình huống bắt buộc.
Những tiếng ồn quen thuộc bao quanh tôi: người bán hàng rong gọi khách qua đường, họ bán trứng ngỗng luộc, bánh rán và bánh mì xúc xích. Người phục vụ lần lữa ở cửa ra vào các cửa hàng tạp hóa và tiệm cà phê, cố gắng giành thêm khách. Một chiếc xe hơi hàng chục năm tuổi lọc xọc đi qua. Các công nhân làm ca hai đang chậm rãi về nhà. Vài cô gái để ý thấy tôi rồi đỏ mặt khi tôi nhìn họ. Những chiếc thuyền lượn quanh hồ, cẩn thận tránh các tua bin nước khổng lồ đang khuấy dọc bên rìa ngoài hồ nước, còi báo động lũ của bờ biển vẫn lặng thinh và không phát sáng.
Một số khu vực đang bị chặn lại. Tôi tránh xa những khu ấy, đám lính đã đánh dấu chúng là khu cách ly.
Những chiếc loa phóng thanh treo dọc mái các tòa nhà phát ra những tiếng lục bục, và màn hình khổng lồ dừng chiếu những
đoạn quảng cáo, hoặc trong một vài trường hợp là những cảnh báo về một cuộc tấn công nữa của quân nổi dậy Ái quốc, để phát một đoạn phim có hình lá quốc kỳ. Tất cả mọi người trên phố dừng lại và đứng yên khi lời thề bắt đầu cất lên.
Tôi xin thề trung thành với lá cờ của nước Cộng hòa Mỹ vĩ đại, với Cử tri Primo của chúng ta, với quốc gia vinh quang của chúng ta, với công cuộc đoàn kết chống lại Thuộc địa, với chiến thắng cận kề của chúng ta!
Khi tên của Cử tri Primo vang lên, chúng tôi đưa tay chào về phía thủ đô. Tôi lầm bầm lời thề, nhưng im lặng ở hai vế cuối khi tên tuần cảnh không nhìn về phía tôi. Tôi tự hỏi trước khi chúng ta có cuộc chiến tranh với Thuộc địa thì lời thề là như thế nào.
Khi lời thề kết thúc, cuộc sống lại tiếp tục. Tôi chọn một quán bar Trung Quốc vẽ đầy những hình graffiti. Tiếp viên ở cửa cười toe toét, nụ cười bị mất vài chiếc răng, và nhanh nhảu dẫn tôi vào. “Hôm nay chúng tôi có bia Tsingtao xịn,” anh ta thì thầm với tôi. “Những két bia thừa từ hàng nhập khẩu dành riêng cho Cử tri vĩ đại của chúng ta. Phục vụ đến sáu giờ.” Mắt anh ta lo lắng đảo xung quanh khi nói câu đó. Tôi nhìn anh ta chằm chằm. Bia Tsingtao sao? Đúng rồi. Cha tôi sẽ cười chết mất. Chính quyền Cộng hòa không đời nào ký hợp đồng nhập khẩu với Trung Quốc (hoặc như chính quyền Cộng hòa thường khẳng định, “chiếm đóng Trung Quốc và giành luôn việc kinh doanh của chúng”) để rồi gửi lô hàng nhập khẩu chất lượng đó đến khu ổ chuột cả. Nhiều khả năng gã này đang thiếu quá nhiều tiền thuế chính quyền thu định kỳ hai tuần một lần. Ngoài ra thì chằng có lý do gì để mạo hiểm dán nhãn bia Tsingtao giả lên loại bia cây nhà lá vườn của gã.
Tôi vẫn cảm ơn người đàn ông và bước vào trong. Đây là một nơi lý tưởng để khai thác tin tức.
Quán tối. Không khí có mùi khói tẩu, mùi thịt chiên và đèn khí đốt. Tôi len người qua đống lộn xộn bàn ghế, chộp lấy đồ ăn từ vài
chiếc đĩa không ai để ý khi tôi đi qua rồi nhét vào trong áo, cho đến khi tôi tới quầy bar. Phía sau tôi, một vòng tròn lớn khách hàng đang cổ vũ một trận đấu Skiz. có vẻ quán bar này cho phép đánh cược trái pháp luật. Nếu thông minh thì họ sẽ phải luôn sẵn sàng trích một phần tiền thắng cược để đút lót cho tuần cảnh, trừ phi họ sẵn lòng thừa nhận công khai là mình đang trốn thuế.
Phục vụ quầy bar không buồn kiểm tra tuổi của tôi. Cô ta thậm chí còn không nhìn tôi. “Cậu dùng rượu gì?” Cô ta hỏi. Tôi lắc đầu. “Lấy cho tôi cốc nước thôi,” Tôi nói. Ở phía sau, tôi nghe thấy tiếng thét cổ vũ khi một đấu sĩ gục ngã.
Cô ta nhìn tôi hoài nghi. Đôi mắt cô ta ngay lập tức chuyển sang miếng băng trên mặt tôi. “Mắt cậu bị sao vậy, nhóc?” “Tai nạn thôi. Tôi chăn bò mà.”
Mặt cô ta tỏ vẻ kinh tởm, nhưng bây giờ lại có vẻ quan tâm đến tôi. “Thật đáng tiếc. Cậu có chắc là không muốn uống bia để quên đi chuyện này không? Vết thương chắc đau lắm đấy.”
Tôi lắc đầu một lần nữa. “Cảm ơn, em gái, nhưng tôi không uống rượu. Tôi muốn giữ mình tỉnh táo.”
Cô ta mỉm cười với tôi. Cô ta khá xinh dưới ánh đèn lập lòe, với phấn màu xanh lá lấp lánh trên đôi mắt một mí và mái tóc đen ngắn cắt kiểu bốp. Một hình xăm dây leo quấn dọc cổ và biến mất trong chiếc áo corset của cô ta. Một cặp kính bảo hộ mờ bẩn, có lẽ để bảo vệ mắt khỏi những cuộc ẩu đả trong quán bar, đeo ở cổ. Thật đáng tiếc. Nếu không bận săn tin thì tôi đã dành thời gian cho cô gái này, tán chuyện phiếm và có lẽ sẽ lấy được vài ba nụ hôn từ cô ta.
“Trai vùng Lake à?” cô ta hỏi. “Vừa quyết định xông vào đây làm tan vỡ trái tim một vài cô gái à? Hay là cậu muốn đánh nhau?” Cô ta hất đầu về phía trận đấu Skiz.
Tôi cười nhăn nhở. “Tôi nhường cô đấy.”
“Điều gì làm cậu nghĩ tôi đánh nhau?”
Tôi hất đầu về phía những vết sẹo trên cánh tay và vết bầm tím trên bàn tay cô ta. Cô ta chậm rãi cười với tôi.
Sau một lát tôi nhún vai. “Tôi sẽ không chết trên cái võ đài đó đâu. Chỉ tránh nắng một lát thôi. Cô là một người đồng hành lý tưởng đấy. Ý tôi là, miễn là cô không bị nhiễm dịch bệnh.”
Câu đùa xưa như trái đất nhưng cô ta vẫn cười. Cô ta dựa người vào quầy. “Tôi sống ở rìa của vùng này. Khá an toàn cho đến lúc này.”
Tôi nghiêng người về phía cô ta. “Vậy thì cô may mắn đấy,” tôi nói giọng nghiêm túc. “Một gia đình tôi biết vừa bị đánh dấu lên cửa.”
“Rất tiếc khi nghe vậy.”
“Tôi muốn hỏi cô điều này, chỉ là hơi tò mò thôi. Cô có nghe điều gì về một người đàn ông ở đây vài ngày trước, cái người bảo rằng mình có thuốc chữa dịch ấy?”
Cô ta nhướng mày nhìn tôi. “Có, tôi có nghe nói về chuyện này. Có cả một đám người đang đi tìm ông ta.”
“Cô có biết hắn đã nói những gì với mọi người không?” Cô ta ngập ngừng một lúc. Tôi nhận thấy cô ta có một vài nốt tàn nhang nhỏ trên mũi. “Tôi nghe kể ông ta nói với mọi người rằng ông ta muốn đưa một liều thuốc kháng bệnh cho một người nào đó, duy nhất một người. Rằng người này sẽ biết ông ta đang nói đến ai.”
Tôi vờ tỏ vẻ thích thú. “Kẻ đó may mắn, nhỉ?”
Cô ta cười. “Không đùa đâu. Ông ta muốn người đó gặp ông ta lúc nửa đêm, tối nay, tại nơi mười-giây.”
“Nơi mười-giây?”
Cô nàng phục vụ quầy bar nhún vai. “Quỷ tha ma bắt nếu tôi biết cái đó nghĩa là gì. Cũng chẳng ai khác biết.” Cô ta nghiêng người lại gần, thì thầm. “Biết tôi nghĩ gì không? Tôi nghĩ rằng ông
ta bị điên.”
Tôi cười với cô ta, nhưng tâm trí tôi quay cuồng. Giờ thì tôi không còn nghi ngờ gì nữa, người này đang tìm kiếm tôi. Gần một năm trước đây, tôi đã đột nhập vào ngân hàng Arcadia qua con ngõ chạy phía sau nó. Một trong những nhân viên bảo vệ đã cố gắng giết tôi. Khi ông ta phỉ nhổ tôi và nói tôi rồi sẽ bị laze trong hầm ngân hàng cắt ra thành từng mảnh, tôi đã chế giễu ông ta. Tôi nói với ông ta rằng mình chỉ mất mười giây để đột nhập vào cái két sắt đó. Ông ta không tin tôi... nhưng vấn đề là, không ai tin những gì tôi nói cho đến khi tôi thực sự làm xong việc đó. Tôi mua cho mình một đôi ủng ngon lành bằng tiền ngân hàng, và thậm chí sắm một quả bom điện từ chợ đen, vũ khí có khả năng vô hiệu hóa súng ống trong phạm vi nổ của nó. Rất có ích khi tôi tấn công một căn cứ không quân. Và Tess có hẳn một bộ mới, áo sơ mi, quần và giày mới tinh, băng gạc và cồn sát trùng cùng một chai aspirin nhỏ. Chúng tôi mua một lượng thực phẩm kha khá cho cả hai. Phần còn lại tôi mang cho gia đình mình và vài người thân quen ở Lake.
Sau vài phút tán tỉnh, tôi nói lời tạm biệt với cô nàng phục vụ quầy bar rồi bỏ đi. Mặt trời vẫn còn trên bầu trời, và tôi có thể cảm thấy những giọt mồ hôi thấm đẫm trên mặt mình. Giờ thì tôi đã biết đủ. Chính phủ chắc hẳn đã tìm thấy thứ gì đó ở bệnh viện và bây giờ muốn lùa tôi vào bẫy. Họ sẽ cử một gã đến nơi mười giây lúc nửa đêm, và sắp xếp binh sĩ dọc theo con ngõ phía sau đấy. Tôi cá là họ nghĩ tôi thực sự tuyệt vọng.
Nhưng có lẽ họ sẽ vẫn mang theo thuốc chữa dịch để dụ tôi lộ diện. Tôi mím chặt môi suy nghĩ. Rồi tôi đổi hướng đi. Đến khu tài chính.
Tôi có một cuộc hẹn phải có mặt.
JUNE
23:29.
KHU BATALLA
NHIỆT ĐỘ PHÒNG 22 ĐỘ C.
Đèn điện trong dinh cơ Batalla đều là đèn huỳnh quang lạnh. Tôi thay đồ trong một phòng tắm ở tầng quan sát và phân tích. Tôi mặc áo dài tay màu đen bên trong một chiếc gi lê sọc đen, quần đen ống bó giắt vào trong ủng, và một chiếc áo choàng dài màu đen khoác trên vai phủ lên nguôi tôi như một tấm chăn. Một đường sọc trắng đi qua chính giữa chiếc áo và chạy thẳng xuống sàn. Một chiếc mặt nạ đen che lấy khuôn mặt tôi và cặp kính hồng ngoại bảo vệ mắt. Ngoài ra, tất cả những thứ tôi có là một micro siêu nhỏ và một chiếc tai nghe thậm chí còn nhỏ hơn. Và một khẩu súng. Chỉ là để đề phòng.
Tôi cần phải trông không rõ giới tính, chung chung, không nhận dạng được. Tôi cần phải trông giống như một dân phe ngoài chợ đen, một kẻ đủ tiền để mua thuốc chữa dịch.
Anh Metias sẽ lắc đầu khi thấy tôi. Em không thể đi một mình trong một nhiệm vụ mật thế này, ]une à, anh sẽ nói như vậy. Em có thể sẽ bị thương đấy. Thật mỉa thay.
Tôi thắt chặt nút cài giữ áo choàng (bằng thép mạ đồng, có lẽ được nhập khẩu từ Tây Texas), sau đó đi về phía cầu thang dẫn ra ngoài dinh cơ Batalla về phía ngân hàng Arcadia nơi tôi dự định sẽ gặp Day.
Anh trai tôi đã chết được 120 giờ. Vậy mà tôi cảm thấy như đã rất rất lâu rồi. 70 giờ trước, tôi được sử dụng mạng Internet và tìm thông tin về Day nhiều nhất có thể. 40 giờ trước, tôi đưa ra một kế hoạch lần theo Day cho Chỉ huy Jameson. 32 giờ trước bà chấp thuận. Tôi ngờ là bà còn không nhớ nổi nội dung kế hoạch. 30 giờ trước, tôi đã gửi đến mỗi khu bị nhiễm dịch ở Los Angeles một trinh sát - khu Winter, Blueridge, Lake và Alta. Họ loan tin: có người có thuốc kháng bệnh cho anh, hãy đến chỗ mười-giây. 29 giờ trước, tôi dự tang lễ của anh trai mình.
Tôi không định bắt Day vào đêm nay. Tôi thậm chí không định gặp hắn. Hắn sẽ biết chính xác nơi mười-giây ở đâu, và cũng biết tôi nếu không phải đặc vụ do chính phủ cử tới thì cũng là người do dân phe chợ đen nhưng trả thuế cho chính phủ sai đi. Hắn sẽ không lộ diện. Thậm chí Chỉ huy Jameson, người thử thách tôi trong nhiệm vụ đầu tiên này, cũng biết chúng tôi sẽ chẳng thấy tăm hơi nào của hắn.
Nhưng tôi biết hắn sẽ đến. Hắn cần thuốc chữa dịch lắm rồi. Và việc hắn xuất hiện là tất cả những gì tôi cần vào đêm nay, một manh mối, một điểm khởi đầu, một hướng điều tra hẹp hơn, một điều gì đó cá nhân về tên tội phạm trẻ này.
Tôi cẩn thận không đi bộ dưới đèn đường. Trên thực tế, tôi sẽ đi trên mái nhà nếu điểm đến không phải khu tài chính, nơi có bảo vệ xếp hàng trên mái nhà. Khắp xung quanh tôi các màn hình khổng lồ om sòm phát đi những chiến dịch vận động đầy màu sắc, âm thanh của những quảng cáo bị bóp méo và rung lên từ các loa phát thanh thành phố. Một trong số đó chiếu hồ sơ cập nhật của Day, lần này là hình một chàng trai với mái tóc đen dài. Bên cạnh các màn hình khổng lồ là những bóng đèn đường nhấp nháy, và ở phía dưới là những nhóm công nhân làm ca đêm, cảnh sát và dân buôn. Thỉnh thoảng, một chiếc xe tăng đi ngang qua, theo sau là vài trung đội lính. (Đường sọc màu xanh lam trên tay áo của họ, đó
là những người lính trở về từ tiền tuyến, hoặc lính được xoay tua đưa ra tiền tuyến. Họ bồng súng bằng cả hai tay, giữ sát ở bên hông.) Với tôi tất cả đều trông giống anh Metias, và tôi phải hít thở khó nhọc một chút, đi nhanh hơn một chút, bất kỳ điều gì giữ cho mình tập trung.
Tôi chọn con dường dài hơn đi qua Batalla, qua những con đường phụ và những tòa nhà bỏ hoang trong vùng, không dừng lại cho đến khi đã cách xa khu căn cứ quân sự.
Cảnh sát địa phương sẽ không biết tôi đang làm nhiệm vụ. Nếu họ thấy tôi ăn mặc như thế này, được trang bị kính hồng ngoại, chắc chắn họ sẽ hỏi thăm.
Ngân hàng Arcadia nằm trên một con phố yên tĩnh. Tôi đi xung quanh mặt sau của ngân hàng cho đến khi dừng lại trước bãi đậu xe nằm ở cuối một con ngõ. Ở đó, tôi chờ đợi trong bóng tối. Cặp kính mắt tôi đeo xóa đi hầu hết màu sắc của cảnh vật. Tôi nhìn quanh và thấy những dãy loa phát thanh của thành phố nằm dọc theo các mái nhà, một con mèo hoang đuôi co quắp trên nắp thùng rác, một ki ốt bỏ hoang với những bản tin cũ kỹ có nội dung chống phe Thuộc địa dán khắp tường.
Đồng hồ trên mắt kính tôi đeo hiện 23:53. Tôi giết thời gian bằng cách buộc mình rà soát lại lý lịch của Day. Trước vụ cướp ngân hàng này, Day đã xuất hiện trong hồ sơ lưu của chúng tôi ba lần. Mà đó chỉ là những vụ mà chúng tôi tìm thấy dấu vân tay thôi đấy, tôi chỉ có thể đoán số lượng các vụ án khác hắn từng thực hiện. Tôi quan sát kỹ hơn con ngõ cạnh ngân hàng. Làm thế nào mà hắn đột nhập được vào ngân hàng này trong mười giây, với bốn bảo vệ được vũ trang ở cửa sau? (Con ngõ hẹp. Có lẽ hắn đã tìm được đủ chỗ đặt chân để trèo tường lên đến tầng hai hoặc tầng ba, đồng thời sử dụng vũ khí của những người bảo vệ để chống lại chính họ. Có lẽ là làm họ bắn vào nhau. Có lẽ hắn đã đập vỡ một ô cửa sổ để vào trong. Làm điều đó chỉ mất vài giây. Hắn
làm gì tiếp theo khi vào được bên trong tòa nhà thì tôi không đoán ra.)
Tôi đã biết độ nhanh nhẹn của Day đạt đến mức nào. Sống sót sau cú rơi qua hai tầng rưỡi đã chứng minh điều đó. Nhưng đêm nay hắn sẽ không có cơ hội làm thế. Tôi không quan tâm chân hắn nhanh đến mức nào, người ta không thể cứ nhảy ra khỏi các tòa nhà rồi mong chờ bản thân có thể đi lại bình thường ngay sau đó. Day sẽ không thể trèo tường hay leo cầu thang ít nhất trong một tuần nữa.
Đột nhiên, tôi thấy căng thẳng. Giờ đã qua nửa đêm được hai phút rồi. Một tiếng cạch vọng lại từ nơi nào đó phía xa, và con mèo ngồi trên thùng rác nghe thấy bèn bỏ chạy. Đó có thể là tiếng một chiếc bật lửa, tiếng cò súng, tiếng loa, hoặc tiếng một bóng đèn đường nhấp nháy; nó có thể là bất cứ thứ gì. Tôi liếc nhanh qua các mái nhà. Chưa có gì cả.
Nhưng tóc gáy của tôi vẫn dựng hết lên. Tôi biết hắn ở đây. Tôi biết hắn đang quan sát tôi.
“Ra đi,” tôi nói. Chiếc micro nhỏ trên miệng khiến giọng tôi nghe như giọng của một người đàn ông.
Im lặng. Thậm chí không một tờ tin nào dán trên ki ốt chuyển động. Đêm nay không có một ngọn gió nào.
Tôi rút lọ thuốc nhỏ từ bao da đeo ở thắt lưng ra. Tay kia tôi vẫn không rời báng súng. “Tôi có thứ anh cần,” tôi nói, và vung vẩy chiếc lọ để nhấn mạnh ý mình.
vẫn không có gì. Tuy nhiên lần này, tôi nghe thấy những âm thanh như tiếng thở dài thật nhẹ. Một hơi thở. Mắt tôi liếc nhanh về dàn loa dọc các mái nhà. (Đó chính là nơi phát ra tiếng cạch. Hắn đã nối lại dây các loa để có thể nói chuyện với tôi mà không bị lộ vị trí.) Tôi mỉm cười đằng sau chiếc mặt nạ. Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy.
“Tôi biết anh cần thứ này,” tôi nói, chỉ vào chiếc lọ một lần
nữa. Tôi xoay nó trong tay và giơ cao hơn cho hắn xem. “Nó vẫn đủ nhãn chính hãng, con dấu xác thực. Tôi đảm bảo với anh là hàng thật.”
Một hơi thở nữa.
“Người anh quan tâm chắc chắn sẽ muốn anh đi ra để nói chuyện với tôi.” Tôi nhìn vào thời gian trên cặp mắt kính. “Đã qua nửa đêm năm phút rồi. Tôi sẽ cho anh hai phút. Sau đấy tôi sẽ đi.”
Con ngõ chìm trong im lặng một lần nữa. Thỉnh thoảng tôi nghe thấy một hơi thở nhẹ nhàng khác từ các loa phóng thanh. Tôi chuyển hướng nhìn từ đồng hồ trên mặt kính sang những chỗ tối trên mái nhà. Hắn rất thông minh. Tôi không thể biết hắn đang nói từ đâu. Có thể là trên con phố này, cũng có thể là ở cách đây vài dãy nhà, từ một tầng cao hơn. Nhưng tôi biết vị trí của hắn đủ gần để tận mắt quan sát tôi.
Thời gian hiện trên kính tôi là 00:07. Tôi quay đi, giắt lọ thuốc trở lại thắt lưng và bắt đầu bước đi.
“Ông muốn đổi thuốc kháng bệnh lấy thứ gì chứ ông anh?” Giọng nói gần như là thì thầm, nhưng qua hệ thống loa âm thanh nghe như bị vỡ và khá nổi bật, lại có cả tiếng tanh tách nên tôi khó mà hiểu nổi hắn nói gì. Ngay lập tức các chi tiết vụt qua tâm trí tôi. (Đàn ông. Hắn nói ngữ điệu nhẹ, không phải người vùng Oregon, Nevada, hoặc Arizona hay New Mexico hay Tây Texas hay bất kỳ bang nào khác của nước Cộng hòa. Giọng bản địa vùng Bắc California. Hắn sử dụng cách xưng hô ông anh, kiểu mà dân khu Lake thường dùng. Hắn ở đủ gần để nhìn thấy tôi cất lọ thuốc đi. Nhưng lại không quá gần để hệ thống loa có thể bắt được rõ tiếng hắn. Chắc chắn hắn phải ở một khu nhà liền kề với một địa thế thuận lợi, ở một tầng cao.)
Đằng sau những chi tiết vụt qua tâm trí là một cảm giác căm ghét đen tối dâng trào. Đây là tiếng nói của kẻ đã giết anh trai tôi. Đây có thể là giọng nói cuối cùng mà anh trai tôi nghe thấy.
Tôi chờ hai giây trước khi lại lên tiếng. Khi tôi trả lời, giọng nói trôi chảy, bình tĩnh và không có dấu hiệu nào của sự giận dữ. “Tôi muốn gì ư?” tôi hỏi hắn. “Còn tùy. Anh có tiền không?” “Một ngàn hai trăm đồng Cộng hòa.”
(Đồng Cộng hòa, không phải tiền vàng Cộng hòa. Hắn cướp của tầng lớp thượng lưu nhưng không có khả năng cướp của những người cực kỳ giàu có. Chắc hắn hoạt động một mình.) Tôi cười lớn. “Một ngàn hai trăm đồng Cộng hòa thì anh không thể mua chiếc lọ này rồi. Còn gì khác không? Vật có giá trị hay đồ trang sức chẳng hạn?”
Im lặng.
“Hay anh có kỹ năng đặc biệt để đem ra trao đổi, vì tôi chắc chắn rằng anh có đấy...”
Tiếng nói trên loa rõ ràng hơn một chút. “Tôi không làm việc cho chính phủ.”
Điểm yếu của hắn. Quả nhiên. “Không có ý gì đâu. Tôi chợt hỏi vậy thôi. Và làm sao anh biết được tôi không làm việc cho một kẻ nào khác? Anh không nghĩ rằng mình đang đổ lên đầu chính phủ quá nhiều trách nhiệm sao?”
Ngập ngừng đôi chút. Sau đó, tiếng nói lại cất lên. “Nút thắt trên áo choàng của ông. Không rõ là gì nhưng chắc chắn nó không phải của dân thường.”
Điều này làm tôi ngạc nhiên đôi chút. Nút thắt áo choàng của tôi thực ra là loại nút thắt Canto, một kiểu thắt nút chắc chắn mà các sĩ quan quân đội hay sử dụng. Rõ ràng Day cũng có hiểu biết chi tiết về đồng phục của chính phủ. Con mắt quan sát ấn tượng. Tôi nhanh chóng che đậy sự do dự của mình. “Thật tốt khi tìm thấy một người cũng biết về kiểu thắt Canto. Nhưng tôi đi du lịch rất nhiều, bạn của tôi ạ. Tôi gặp và quen biết rất nhiều người, những người mà tôi có thể không có nhiều liên hệ.”
Im lặng.
Tôi chờ đợi, lắng nghe một hơi thở khác qua tiếng loa. Không có gì. Thậm chí không một tiếng cạch. Tôi đã hành động không đủ nhanh, một chút do dự trong giọng nói của tôi đã đủ khiến hắn thấy không thể tin tưởng tôi rồi. Tôi buộc chặt chiếc áo choàng đang mặc và nhận ra mình đã bắt đầu đổ mồ hôi trong hơi ấm của màn đêm. Trống ngực tôi nện thình thịch.
Một giọng nói khác chợt vang lên trong đầu tôi. Lần này phát ra từ chiếc tai nghe nhỏ xíu của tôi. “Cô có ở đấy không, Iparis?” Đó là Chỉ huy Jameson. Tôi có thể nghe thấy tiếng rì rầm của những người khác trong văn phòng.
“Hắn bỏ đi rồi,” tôi thì thầm. “Nhưng hắn đã để lại manh mối.” “Cô đã mách nước cho hắn biết cô đang làm việc cho ai, phải không? Thôi, đó cũng là nhiệm vụ đầu tiên cô thực hiện. Có gì thì tôi cũng ghi lại cả rồi. Hẹn gặp lại tại dinh cơ Batalla.” Lời khiển trách của bà hơi châm chích tôi. Trước khi tôi có thể trả lời, tín hiệu đã bị cắt.
Tôi đợi thêm một phút, chỉ để chắc chắn rằng Day đã thực sự bỏ đi. vẫn im lặng. Tôi quay gót và bắt đầu đi xuôi con ngõ. Tôi đã muốn nói với Chỉ huy Jameson giải pháp đơn giản nhất là gì, chỉ đơn giản là quây tất cả mọi người trong khu Lake có cửa nhà bị đánh dấu lại. Việc đó sẽ thu hút Day ra khỏi chỗ ẩn nấp. Nhưng tôi có thể đoán được lời vặn lại của Chỉ huy Jameson. Hoàn toàn không được, Iparis. Cách này quá tốn kém và sở chỉ huy sẽ không chấp nhận. Cô phải nghĩ cách khác thôi. Tôi ngoái nhìn lại một lần nữa, có phần mong đợi sẽ nhìn thấy một bóng người theo đuôi mình. Nhưng con ngõ trống không.
Tôi sẽ không được phép tiến hành ép Day đến gặp tôi, vậy chỉ còn một lựa chọn. Tôi sẽ phải đến gặp hắn.
DAY
“Anh ăn gì đi, được không?”
Giọng Tess lôi tôi ra khỏi phiên gác của mình. Tôi rời mắt khỏi hồ nước, nhìn thấy cô bé cầm ra một miếng bánh mì kẹp pho mát, ra hiệu bảo tôi cầm lấy. Đáng lẽ tôi phải thấy đói. Tôi chỉ ăn nửa quả táo kể từ cuộc gặp gỡ đêm qua với tay đặc vụ chính phủ kỳ lạ kia. Nhưng không hiểu sao bánh mì kẹp pho mát, vẫn còn mới khi được đem về từ cửa hàng nơi Tess tốn vài đồng quý giá để mua, lại trông chẳng hấp dẫn chút nào.
Tôi vẫn cầm lấy. Không đời nào tôi bỏ phí thức ăn ngon, đặc biệt khi cần phải tiết kiệm mọi thứ chúng tôi có để mua thuốc kháng dịch.
Tess và tôi đang ngồi trên cát bên dưới một cầu tàu, nằm trong phần hồ cắt qua khu vực của chúng tôi. Chúng tôi giữ cho mình nằm áp sát mặt cát nhất có thể để những tên lính nhàn rỗi và công nhân say rượu ở phía trên không thể nhìn xuyên qua đám cỏ đá kia và thấy chúng tôi. Chúng tôi hòa vào bóng tối. Từ nơi chúng tôi ngồi có thể nếm được vị muối trong không khí và nhìn thấy ánh sáng của trung tâm thành phố Los Angeles phản chiếu trên mặt nước. Đống đổ nát của những tòa nhà cũ lấm chấm trên mặt hồ, ấy là những tòa nhà bị chủ và cư dân bỏ lại khi nước lũ dâng cao. Những bánh xe nước khổng lồ và tua bin khỏa nước bên bờ hồ phía sau bức màn khói. Đây có lẽ là khung cảnh yêu thích của tôi ớ khu Lake đẹp đẽ nhếch nhác này.
Tôi xin rút lại lời đó. Thực ra nó vừa là cảnh yêu thích vừa là cảnh ít yêu thích nhất của tôi. Bởi vì trong ánh đèn điện lung linh
đẹp đẽ của trung tâm thành phố, tôi cũng nhìn thấy sân vận động tổ chức kỳ Sát hạch hiện ra lờ mờ ớ phía Đông.
“Anh vẫn còn thời gian,” Tess nói với tôi. Cô bé ngồi đủ gần để tôi có thể cảm thấy cánh tay trần của em dựa vào tay tôi. Mái tóc em có mùi bánh mì và quế của cửa hàng. “Có thể một tháng hoặc hơn. Chúng ta sẽ tìm thấy thuốc kháng dịch trước cả lúc đó, em chắc chắn đấy.”
Đối với một cô gái không gia đình, không chốn ở, Tess lạc quan đến đáng ngạc nhiên. Tôi cố gắng mỉm cười vì em. “Có lẽ vậy,” tôi nói. “Có thể bệnh viện sẽ nới lỏng việc canh gác sau vài tuần.” Nhưng trong lòng, tôi hiểu rõ hơn ai hết.
Sáng sớm hôm nay, tôi đã liều nhìn trộm vào nhà để xem mọi người thế nào. Chữ X kỳ lạ vẫn nằm trên cửa nhà tôi. Mẹ tôi và anh John dường như không sao, ít nhất cũng đủ khỏe để đứng và đi lại bình thường. Nhưng Eden... lần này Eden đang nằm trên giường với một miếng vải trên trán. Mặc dù nhìn từ xa, tôi cũng biết thằng bé đã gầy đi vài cân. Da nó xanh xao còn giọng nói thì yếu và khô khốc. Khi tôi gặp anh John ở sau nhà, anh bảo rằng Eden đã không ăn gì kể từ lần trước tôi ghé qua. Tôi nhắc anh John nên tránh xa phòng của Eden khi nào có thể. Ai mà biết được cái thứ bệnh dịch dở hơi này truyền nhiễm như thế nào. Anh John đã cảnh báo tôi đừng hành động nguy hiểm như vậy nữa, nếu không chằng mấy rồi tôi sẽ tự đưa mình vào chỗ chết thôi. Tôi đã cười anh. Anh John sẽ không bao giờ nói thẳng với tôi điều này, nhưng tôi biết mình là cơ hội duy nhất của Eden.
Bệnh dịch có thể lấy đi mạng sống của Eden thậm chí trước khi nó có cơ hội tham gia kỳ sát hạch.
Có thể trong cái rủi lại có cái may. Vào ngày sinh nhật thứ mười, Eden sẽ không bao giờ phải ra khỏi nhà, chờ xe buýt đưa đến sân vận động tố chức kỳ Sát hạch. Thằng bé sẽ không phải đi theo hàng chục đứa trẻ khác lên cầu thang sân vận động vào vòng
tròn bên trong sân, hoặc chạy để các giám khảo Sát hạch nghiên cứu hơi thở và tư thế, hoặc trả lời hàng trang dài dằng dặc những câu hỏi trắc nghiệm ngu ngốc, hoặc sống sót qua cuộc phỏng vấn với cả một đám giám khảo thiếu kiên nhẫn. Thằng bé cũng sẽ không bao giờ phải chờ đợi ở một trong những nhóm mà chằng biết sau đó nhóm nào sẽ trở về nhà, nhóm nào sẽ bị đưa đi đến những nơi gọi là “trại lao động”.
Tôi không biết nữa. Trong tình huống xấu nhất, có khi dịch bệnh lại là một cách nhân đạo hơn để ra đi.
“Eden rất hay bị ốm, em biết đấy,” một lúc sau tôi lại nói. Rồi tôi cắn một miếng bánh mì kẹp pho mát lớn. “Thằng bé suýt chết khi còn nhỏ. Nó bị bệnh đậu mùa, bị sốt, phát ban và gào khóc trong một tuần liền. Đám lính suýt thì đã đánh dấu cửa nhà anh rồi. Nhưng rõ ràng đây không phải bệnh dịch mà cũng không ai khác có vẻ gì là mắc bệnh này.” Tôi lắc đầu. “Anh và John không bao giờ bị ốm.”
Lần này Tess không mỉm cười. “Tội nghiệp Eden.” Sau một thoáng ngập ngừng, cô bé lại nói. “Lần đầu gặp anh, em cũng rất ốm yếu. Nhớ em trông nhem nhuốc thế nào không?”
Đột nhiên, tôi cảm thấy có lỗi khi nói quá nhiều về rắc rối của mình trong mấy ngày qua. Ít ra tôi cũng có một gia đình để quan tâm, lo lắng. Tôi khoác tay lên vai cô bé. “Ừ, lúc đó trông em đến là kinh.”
Tess cười lớn, nhưng đôi mắt cô bé vẫn tập trung vào những ánh đèn từ khu trung tâm. Em dựa đầu vào vai tôi. Em vẫn luôn dựa vào tôi như thế kể từ tuần đầu tiên tôi gặp em, khi tôi nhìn thấy em tại một con ngõ ở khu Nima.
Tôi vẫn không biết điều gì đã khiến tôi dừng lại nói chuyện với cô bé vào buổi chiều hôm ấy. Có lẽ sức nóng đã làm tôi mềm lòng, hoặc có thể chỉ là tôi đang vui vì vừa tìm thấy một nhà hàng vứt nguyên toàn bộ bánh sandwich cũ còn lại trong ngày.
“Này,” tôi gọi cô bé.
Hai cái đầu nữa nhô lên khỏi thùng rác. Tôi ngập ngừng vì ngạc nhiên. Hai trong số họ, một phụ nữ lớn tuổi và một cậu thiếu niên, ngay lập tức bò ra khỏi đống rác chạy vào con ngõ. Người thứ ba, một cô bé chưa đến mười tuổi, vẫn đứng yên tại chỗ, run rẩy khi nhìn thấy tôi. Người em như que củi, mặc bộ quần áo rách tơi tả. Mái tóc ngắn và lởm chởm, cắt cụt lủn ngay dưới cằm em, đỏ hoe dưới ánh mặt trời.
Tôi chờ đợi một lúc, không muốn dọa em như tôi đã làm với hai người kia. “Này,” tôi nhắc lại, “anh làm cùng được không?” Cô bé nhìn chằm chằm lại tôi không nói một lời. Tôi hầu như không thể nhìn ra khuôn mặt của cô bé vì nó nhem nhuốc bồ hóng. Khi cô bé không trả lời, tôi nhún vai và bắt đầu đi về phía em. Có lẽ tôi có thể tận dụng được thứ gì đó hữu ích từ thùng rác. Ngay khi tôi tiến lại cách ba mét, cô bé phát ra một tiếng kêu nghèn nghẹt và chạy vụt đi. Cô bé chạy quá nhanh nên bị vấp, ngã đập tay và đầu gối xuống đường. Tôi khập khiễng bước về phía em. Hồi đó vết thương cũ trên đầu gối đau hơn bây giờ, và tôi nhớ mình đã suýt vấp vì vội vã. “Này!” tôi nói. “Em có sao không?” Cô bé giật lùi lại, giơ cánh tay trầy xước của mình lên che mặt. “Làm ơn,” cô bé nói. “Làm ơn, làm ơn.”
“Làm ơn gì chứ?” Rồi tôi thở dài, bối rối vì thái độ bực tức của mình. Tôi đã nhìn thấy nước mắt trào lên trong mắt em. “Đừng khóc nữa. Anh sẽ không làm em đau đâu.” Tôi quỳ xuống bên cạnh cô bé. Lúc đầu, cô bé thút thít và cố gắng bò đi, nhưng khi tôi không di chuyển, cô bé dừng lại nhìn chằm chằm vào tôi. Hai đầu gối của cô bé bong cả mảng da, lộ ra lớp thịt đỏ tươi phía dưới.
“Em ở gần đây à?” tôi hỏi cô bé.
Cô bé gật đầu. Sau đó, như thể nhớ ra điều gì, cô bé lắc đầu. “Không,” em nói.
“Anh đưa em về nhà nhé?”
“Em không có nhà.”
“Em không có à? Vậy bố mẹ em ở đâu?”
Cô bé lắc đầu một lần nữa. Tôi thở dài và bỏ túi vải xuống đất, rồi đưa tay về phía em. “Đi nào,” tôi nói. “Em không muốn hai đầu gối nhiễm trùng đâu. Anh sẽ giúp em rửa sạch rồi em có thể lại đi đâu tùy thích. Em cũng có thể lấy một chút đồ ăn của anh. Nghe cũng được phải không?”
Phải mất lúc lâu em mới để tay lên tay tôi. “Vâng,” cô bé thì thầm, khẽ đến độ tôi hầu như không nghe được.
Đêm đó, chúng tôi cắm trại đằng sau một cửa hàng cầm đồ nơi có một đôi ghế cũ và một chiếc trường kỷ rách tung nằm trong con ngõ. Tôi rửa sạch đầu gối cô bé bằng rượu lấy trộm từ một quán bar, để một miếng giẻ cho em cắn nhằm tránh tiếng kêu rên gây sự chú ý. Trừ những lúc tôi chăm sóc các vết trầy cho cô bé ra, em không bao giờ chịu cho tôi đến gần. Cứ khi nào tay tôi vô tình quệt vào tóc hoặc tình cờ chạm vào tay cô bé, thì em lại rúm người như phải bỏng vậy. Cuối cùng tôi đành từ bỏ nỗ lực bắt chuyện với cô bé. Tôi để em ngủ trên trường kỷ, trong khi tôi gấp áo của mình làm gối và cố gắng nằm thoải mái trên vỉa hè.
“Nếu sáng mai em muốn bỏ đi thì cứ đi đi,” tôi nói với cô bé. “Em không cần phải đánh thức anh dậy để tạm biệt hay đại loại như vậy đâu.” Mí mắt tôi nặng dần, nhưng cô bé vẫn hoàn toàn tỉnh táo, nhìn tôi chằm chằm không chớp mắt, ngay cả lúc tôi ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau em vẫn ở đó. Em đi theo khi tôi nhặt nhạnh thùng rác, chọn ra quần áo cũ và thức ăn thừa còn ăn được. Tôi đã thử đuổi em đi. Tôi thậm chí đã quát em. Một đứa trẻ mồ côi đi theo sẽ vô cùng bất tiện. Nhưng mặc dù tôi đã khiến em khóc vài lần, khi liếc nhìn đằng sau tôi vẫn thấy em ở đó, lẽo đẽo theo sau tôi.
Hai đêm sau, khi chúng tôi ngôi cạnh nhau bên đống lửa sơ sài,