🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hương vị của đất - Văn Lang Dị Sử Ebooks Nhóm Zalo Mục lục 01. Dòng sông nước ngọt......................................................................3 02. Trăm trứng......................................................................................12 03. Chuyến đi........................................................................................20 04. Chuyến đi (II) .................................................................................32 05. Văn Lang .........................................................................................43 06. Nồng mặn .......................................................................................50 07. Bánh chưng.....................................................................................63 08. Hạt gieo ngày trước.......................................................................71 09. Nón gậy ảo hóa ..............................................................................79 10. Thiên tướng ngựa sắt....................................................................92 11. Xung đột..........................................................................................99 12. Du thuyết ......................................................................................115 13. Thành ốc........................................................................................130 14. Ông Trọng.....................................................................................140 15. Chìm châu.....................................................................................148 16. Để tạm kết thúc ............................................................................158 2 | Mục lục 01. Dòng sông nước ngọt Thuở xưa, khi trời đất còn mịt mờ, chưa có ánh sáng, có một con chim lớn bay tới đậu trên mặt đất. Hai cánh chim lớn như hai màn đêm, phủ trọn mặt đất. Trong một khoảng thời gian không biết mấy trăm triệu năm, chim Hồng Bàng nằm yên trong tư thế ấy. Rồi một lúc kia, chim đặt xuống trên đất hai chiếc trứng vĩ đại, và thong thả bay đi. Tiếng đập cánh của chim vun vút tạo thành gió, làm cho không gian rung chuyển. Một vạn năm sau, có ánh sáng chiếu ra từ chiếc trứng lớn. Đây là chiếc trứng màu đỏ hồng. Ánh sáng càng ngày càng tỏ, soi sáng hằng vạn dặm chung quanh và xua đuổi những đám sương mù dày đặc bao vây đồi núi trong vùng. Dần dần, chiếc trứng thứ hai cũng phát ra ánh sáng. Đây là một chiếc trứng màu ngà, nhỏ hơn chiếc trứng thứ nhất. Ánh sáng do chiếc trứng này phát ra thì dịu dàng và êm mát hơn. Chiếc trứng màu ngà nở trước chiếc trứng màu đỏ hồng. Trước hết, chiếc trứng rung động. Rồi những tiếng rắc rắc vang lên trong không gian yên tĩnh. Vỏ trứng vỡ tan thành từng mảnh. Một con thiên nga lớn từ trong trứng bay ra, uyển chuyển, vượt lên, vượt lên cao. Ánh sáng của chim thiên nga trải xuống mặt đất, dịu dàng và hiền hậu. Đột nhiên có tiếng nổ lớn như sấm sét: chiếc trứng màu đỏ hồng vừa nở. Ánh sáng rực trời, rực đất, chói chang, nóng bỏng. Một con quạ vàng sáng rực như lửa vỗ cánh bay lên, phát ra những tiếng kêu liên tiếp như sấm động. Quạ vàng không bay theo hướng chim thiên nga, lại bay về hướng ngược lại. Cả hai con chim vĩ đại tiếp tục đường bay của mình. Chim thiên nga vẫn uyển chuyển phát ra ánh sáng dịu dàng. Còn chim quạ vàng, suốt trên đường bay của nó, vẫn còn tiếp tục phát ra những tiếng kêu như sấm nổ. Đôi cánh lửa của nó, trong khi đập mạnh, làm tóe ra những đốm lửa sáng ngời bay tản mác trong không gian. Những đốm lửa này lơ lửng trên trời cao, không tắt, và long lanh như những hạt kim cương. 3 | 01. Dòng sông nước ngọt Mặt đất từ hàng triệu năm qua đã chịu cảnh lạnh lẽo u tịch. Ánh sáng đem lại sự ấm áp và vui tươi. Chiếc vỏ trứng vĩ đại của quạ vàng, sau khi chim nở, đã bốc cháy dữ dội, và cháy trong bảy năm mới tắt. Mặt đất, trên một diện tích mấy vạn dặm, đã cháy xém theo chiếc vỏ trứng. Lửa cháy trong bảy năm, khiến đất đá trong vùng cháy thành cát mịn, và cả vùng biến thành sa mạc. Ánh sáng và sức nóng sưởi ấm mặt đất, và làm bốc hơi từ biển cả, sông hồ. Những đám mây dịu dàng bắt đầu xuất hiện, che bớt ánh sáng chói chang. Từ mặt đất, một mùi thơm dìu dịu bốc lên. Hương của đất nồng nồng, say say và làm cho cả không gian ngây ngất. Ánh sáng dọi tới tầng trời thứ ba mươi sáu của Phạm Thiên. Một bầy tiên nữ vén mây nhìn xuống, thấy mặt đất hồng chói rạng hào quang, bỗng có ý muốn bay xuống khám phá đất mới. Tiên nữ trẻ nhất và xinh nhất trong bọn đề nghị cả bầy biến thành chim Lạc. Cả bọn tức thời biến thành một bầy chim Lạc trắng như tuyết, vỗ cánh bay sà xuống trên mặt đất màu hồng. Thật là một cuộc khám phá kỳ diệu. Trước hết, bầy chim trắng bay qua đại dương xanh biếc. Thấy bóng mình rợp trên mặt biển, bầy chim tưởng là đại dương có ý trêu ghẹo; có ngờ đâu đó chỉ là hình ảnh của chính mình tạo ra do ánh sáng của quạ vàng chiếu xuống. Ánh sáng sao mà ấm áp dễ chịu lạ thường. Bầy chim say sưa lướt cánh trên những núi đồi màu hồng, và cuối cùng sà xuống đậu trên một cánh đồi đất mịn. Con chim đầu đàn vừa đặt chân chạm đất đã nghiêng cánh biến thành một nàng tiên nữ. Lập tức tất cả bầy chim đều nhất loạt hiện hình tiên nữ. Trên mặt đất chưa bao giờ có sự hân hoan tươi vui đến thế. Các cô cười nói, nắm tay nhau đi dạo trên đất, hoặc sắp hàng với nhau cùng chạy trên dốc đồi thoai thoải. Đất dưới chân họ mềm dịu như bông. Một lát sau, bầy tiên nữ quy tụ lại một nơi. Các cô cùng nhảy múa. Lần đầu tiên, trên mặt đất được biểu diễn những vũ khúc tuyệt vời chỉ thấy ở từng trời thứ mười ba. Nàng tiên trẻ nhất, đẹp nhất bỗng ngừng nhảy múa: cô quỳ hai chân xuống đất, hai tay vốc một nắm đất đưa lên nhìn. Đất sao mà thơm ngạt ngào. 4 | 01. Dòng sông nước ngọt Các cô khác cũng ngừng nhảy múa và cũng vốc đất đưa lên nhìn ngắm. Bỗng một cô la lớn: - Cơ! Âu Cơ! Đừng làm thế! Mọi người quay nhìn cô tiên nữ đẹp nhất và trẻ nhất có tên là Âu Cơ. Cô này thấy hương đất ngạt ngào quá đã đưa lên miệng nếm. Khi người chị tiên nhận thấy và kêu lên, thì đã trễ quá rồi. Âu Cơ đã nếm và ăn hết một nắm đất nhỏ thơm ngon ấy. Người tiên nữ có vẻ là chị ấy đưa tay vạch các bạn tiên ra và chạy tới, cầm tay nàng Âu Cơ trẻ tuổi: - Em dại dột quá. Cõi của chúng là cõi Sắc, không phải cõi Dục. Chị sợ em đã phạm vào một lỗi lầm không thể nào chuộc lại được. Nghe nói vậy cả bầy tiên nữ đều để rơi nắm đất hồng và phủi sạch những bàn bay xinh đẹp của họ. Rồi cả bầy tiên xúm quanh Âu Cơ. - Bây giờ phải làm thế nào? Một cô hỏi. - Thì lên trên ấy đừng nói cho một ai hay biết, một cô khác trả lời. Nhưng ánh sáng trên mặt đất bỗng mờ nhạt hẳn đi. Bầy tiên giật mình. Quạ vàng trên đỉnh núi sắp sửa bay khuất sau núi. Ánh sáng rồi sẽ bay mất theo quạ vàng. - Chúng ta phải trở về trước khi quạ vàng xuống khuất sau núi. Một nàng tiên nói như vậy, và nghiêng mình biến thành chim Lạc. Cả bầy tiên còn lại cũng bắt chước theo, tất cả đều nghiêng mình biến thành những con chim trắng muốt, vỗ cánh bay lên. Những cánh chim vỗ nhanh trên trời cao như những bàn tay vẫy về mặt đất nuối tiếc. Ánh sáng tắt hẳn, vì quạ vàng đã bay khuất. Nhưng chẳng bao lâu, trên không, chim thiên nga đã bay về. Ánh sáng của thiên nga dọi xuống, mát rượi và dịu dàng, thay cho ánh sáng chói lọi và đôi khi gay gắt của quạ vàng lúc trước. Ngày đầu tiên của mặt đất đã đi qua, 5 | 01. Dòng sông nước ngọt dài khoảng bảy năm. Bây giờ là bắt đầu đêm đầu tiên trên mặt đất. Một đêm dịu hiền, có ánh sáng êm mát của thiên nga chiếu xuống. Dưới ánh sáng ấy, có một con chim Lạc bay bơ vơ. Con chim này đã không thể cùng bay lên trời với đồng bọn. Con chim này đã ở lại vì hồi chiều khi bay lên tới mây thì hai cánh trĩu nặng, chim không thể bay lên cao hơn nữa. Nàng Âu Cơ xinh đẹp, vì nếm phải hương vị đất mới, đã đánh mất thần túc. Nàng phải bay trở về mặt đất. Nàng ở lại trên mặt đất trong đêm đầu tiên, bơ vơ như chưa bao giờ từng bơ vơ. Hiện hình thành tiên nữ, nàng ngồi gục đầu trên một tảng đá và khóc. Nước mắt nàng chảy thành một con sông dài. Trong đêm, con sông nước mắt tìm ra tới biển, hòa vào nước biển. Dưới biển sâu có loài thủy tộc bỗng nếm phải những dòng nước mới này, những dòng nước có hương vị đất mới ngọt ngào và thơm tho. Hàng vạn loài cá tôm sò ốc chuyền nhau tin lạ. Hoàng tử con của Long Vương, vì đang đi chơi và không ở trong cung điện thủy phủ nên nhận được tin ấy rất sớm. Chàng hóa thân thành một con cá nhỏ, ngược theo dòng nước ngọt để mong tìm ra nguồn gốc của nó. Chàng bơi rất nhanh, và khi tìm được đến cửa một dòng sông thì đêm đầu tiên trên mặt đất cũng chấm dứt – dù rằng cái đêm sầu khổ nhất của nàng tiên Âu Cơ ấy dài tới bảy năm. Khi hoàng tử con của Long Vương ngoi đầu lên mặt nước thì quạ vàng đã bay trở lại trên hư không. Chưa bao giờ chàng thấy mặt biển đẹp như vậy. Màu xanh trên mặt biển thắm thiết hơn màu bích ngọc của cung điện phụ hoàng dưới đáy biển. 6 | 01. Dòng sông nước ngọt Từng đợt sóng xô nhau tung tóe, bọt trắng như tuyết. Chàng nhảy lên, cao khỏi mặt biển, vào hẳn trong không khí. Không khí sao mà mềm nhẹ trong trẻo và bao la quá. Bầu trời cũng xanh như nước biển. Xa xa thấp thoáng đất liền và núi đồi. Tất cả giống hệt như dưới đáy biển, chỉ khác là thế giới trên đất là có vẻ rộng rãi hơn, nhẹ nhàng hơn và trong suốt hơn. Hoàng tử nhảy lên bờ cát và hiện thành một chàng trai tuấn tú, mắt sáng như sao, trán rộng, chân dài. Chàng dạo chơi trên bờ biển. Biết bao nhiêu cảnh đẹp làm chàng chú ý. Những ngọn núi cao chớn chở, những ghềnh đá nối nhau soi minh xuống đại dương. Chàng rời bờ biển đi sâu vào lục địa, ngắm nhìn con sông nước chảy trong veo, thứ nước ngọt thơm mà lần đầu loài thủy tộc được nếm. Chàng men theo bờ dòng sông, đi ngược lên tìm suối nước. Càng đi chàng càng thấy đẹp. Hai bên bờ sông rêu lên xanh mướt. Chàng thấy những bờ cỏ xanh rờn, thỉnh thoảng có điểm những bông hoa nhỏ màu vàng, màu tím. Chưa bao giờ chàng thấy một sự màu nhiệm như vậy. Dưới đáy biển tuy rằng có thảo mộc lả lướt, và nhiều loại hoa cỏ thơm tho, nhiều loại san hô kỳ lạ nhưng chưa bao giờ chàng thấy những tấm thảm xanh điểm những bông hoa đủ màu sắc như vậy. Chàng chắc hẳn đây là phép lạ của dòng nước ngọt, bởi phía trên kia không có ngọn đồi nào cũng như trái núi nào có được màu xanh kỳ diệu như ở ven sông. Đây là ngày thứ hai trên mặt đất. Hoàng tử bỗng thấy đàn bướm nhỏ xuất hiện trên bờ cỏ xanh non. Những con bướm sặc sỡ như những cánh hoa, và nếu chúng không bay, có lẽ chàng đã tưởng chúng là những cánh hoa. Dưới thủy cung chàng chưa bao giờ thấy một loài sinh vật mỏng manh như thế. Những con bướm nhẹ nhàng như khí trời, chở đầy ánh nắng trên đôi cánh và cứ quanh quẩn bên các bông hoa. Có lẽ chúng tưởng các bông hoa kia cũng là đồng loại của chúng. Hoàng tử bắt đầu leo lên một trái núi, bởi vì chàng nhận thấy dòng sông đã từ núi chảy xuống. Nước bây giờ róc rách kêu, mơn man từng 7 | 01. Dòng sông nước ngọt tảng đá giữa lòng suối. Những đám rêu xanh bao quanh nhiều tảng đá; và ở hai bên bờ suối, cỏ non và các bụi cây cũng đã thấy xuất hiện. Bỗng hoàng tử ngạc nhiên dừng lại. Một cảnh chưa từng có đang xảy ra trước mắt chàng. Trên một tảng đá lớn phủ rêu xanh, một thiếu nữ đang gục đầu nằm khóc. Thiếu nữ không có xiêm y; thân hình nàng xinh đẹp như chưa có một sinh vật nào dưới thủy cung đã từng xinh đẹp. Nàng như một chiếc hoa mới nở. Cánh tay trắng nõn của nàng kê dưới trán, tóc nàng dài xanh buông xõa xuống suối, suối tóc xuôi theo dòng nước cuộn. Đó là Âu Cơ, người tiên nữ vì nếm phải đất thơm cho nên mất thần túc và phải ở lại hạ giới. Nàng đã khóc từ đầu hôm ngày hôm qua cho đến sáng hôm nay, nghĩa là trong khoảng thời gian mười mấy năm trời. Hoàng tử không tiến thêm bước nào nữa. Chàng đứng nhìn một lát, rồi đọc một bài thơ để thức nàng dậy: Nắng reo trên đất mới Trời xanh như nước xanh Theo sông dài tìm tới Thấy bướm hồng lượn quanh Người đã từ đâu lại? Vì sao khóc một mình? Thức nàng dậy? Không phải, vì tiên nữ không ngủ. Nàng đang gục đầu trên cánh tay mà khóc và chỉ ngửng lên nhìn khi nghe tiếng nói của hoàng tử thủy cung. Tiên nữ chớp mắt nhìn người con trai cao lớn. Nàng ngồi dậy và lau nước mắt bằng mớ tóc. Nàng trả lời hoàng tử, mắt nàng nhìn thẳng vào mắt chàng. Quạ vàng soi sáng Đất mới thơm lừng Một bầy chim Lạc Lưng trời xuống thăm Nếm nhằm đất mới Mất đi thần thông 8 | 01. Dòng sông nước ngọt Chị em về hết Một mình ngồi trông Bơ vơ cảnh lạ Khóc thành dòng sông. Rồi Âu Cơ kể cho hoàng tử nghe từng chi tiết cuộc khám phá táo bạo của bầy tiên nữ, từ lúc chị em vén mây nhìn xuống cho đến khi nàng không bay lên khỏi tầng mây thấp nhất và phải trở về mặt đất. Hoàng tử ngồi xuống một tảng đá bên cạnh và kể cho nàng nghe đời sống dưới thủy cung, nơi phụ vương chàng ngự trị, và duyên cớ nào chàng tìm được đến nơi đây. Chàng kể, giọng ấm áp và dịu dàng; mỗi khi nhắc tới ánh sáng, quạ vàng, không gian xanh biếc và núi đồi thơm ngát, mắt chàng lại sáng lên. Hai người cùng nhìn lên trời xanh, cùng nhìn ra đất đỏ và cùng cúi xuống quan sát những cỏ cây rong rêu mọc trong lòng và bên bờ suối. Hoàng tử cố an ủi tiên nữ; chàng nói rằng các chị em có thể xuống thăm nàng hôm nay hoặc ngày mai, rằng thế nào các tiên nữ cũng tìm được cách đưa nàng lên thượng giới. Hai người cùng nói chuyện rất lâu và nàng Âu Cơ, lây cái vui của hoàng tử thủy cung, đã nói cười trở lại như tai họa của nàng chưa bao giờ từng xảy tới. Họ nắm tay nhau đi bên dòng suối, tìm xuống đồng bằng. Bỗng hoàng tử nhận thấy nước sông đã gần cạn. Hai bên bờ, dưới gót chân họ, cỏ hoa đã héo úa. Đàn bướm đã biến mất. Đi một chặng nữa, họ nhận thấy cỏ dưới chân mình đã khô cháy. Trên đầu họ, quạ vàng ném xuống những tia nắng nóng bỏng. Bóng của hai người rút ngắn lại: ngày đã trưa. - Mặt đất chỉ xanh và đẹp khi được tưới bằng nước mắt nàng. Trên bờ biển, ta không thấy có cây cối và hoa cỏ như hai bên dòng sông này. Như vậy, nước biển chắc chắn là không làm cho cây cỏ trên đất xanh tốt. Để ta dùng một ít nước còn lại dưới dòng kia để làm mưa. Nàng Âu Cơ không biết làm mưa là gì, toan hỏi, thì người trai trẻ đã đi xuống gần lạch nước nhỏ còn chảy mỏng manh giữa lòng cát trắng. Chàng vốc nước vào tay và uống ba lần. Khi trở lên, chàng nói: 9 | 01. Dòng sông nước ngọt - Chúng ta hãy tạm ngồi xuống đây. Ta sẽ làm cho mặt đất tẩm ướt thứ nước dịu ngọt và kỳ diệu này. Nàng hãy yên lặng và đừng nói lên một lời nào trước khi có mưa. Hãy nhìn trên mặt biển và nếu thấy gì lạ đừng nên lấy làm kinh quái. Nếu nàng là giống tiên, thì ta là giống rồng, không nên vì sự khác lạ mà khiếp đảm. Nói xong từ triền đồi thoai thoải chàng chạy nhanh xuống bờ biển. Từ đồi cao, nàng trông thấy chàng hoàng tử chấp tay lại như một búp sen và chao mình một cái, biến mất vào trong biển cả. Một lát sau, Âu Cơ thấy mây khói hiện ra trên mặt biển cuồn cuộn. Cuồn cuộn, từng đám mây bay trên trời cao, không ngớt. Đây là những đám mây màu xám, không phải những đám mây trắng tinh có sẵn trên những tầng cao. Phút chốc mây đen đã che kín bầu trời xanh. Ánh sáng của quạ vàng chiếu xuống chỉ còn lại mờ nhạt đủ để nàng trông thấy cảnh vật… Bỗng có tiếng ầm ầm dưới biển cả. Một con rồng lớn, dài hàng mấy mươi dặm, sắc vàng chói, từ biển cả tung mình bay lên không gian, thân hình rồng uốn lượn uyển chuyển và kỳ diệu. Phút chốc rồng đã bay khuất trong mây. Đột nhiên, có tiếng sấm nổ vang động. Một tia chớp lòe lên trên bầu trời đen kịt. Âu Cơ nghe tiếng rào rào bốn phía. Nàng hoảng hốt đứng dậy, nhìn nhưng không thấy gì lạ. Bỗng nhiên nàng có cảm giác trên da thịt mình: một cảm giác ướt, mịn, mát mẻ và dễ chịu. Nước rơi trên người nàng muôn ngàn giọt. Hoàng tử long cung đã làm mưa. Hoàng tử long cung đã làm ra mưa ! Tiếng mưa rơi đều đều và êm êm như tiếng hát. Tiếng mưa vỗ về, an ủi như giọng nói ấm áp và chậm rãi của người trai trẻ ban nãy đã cùng nàng ngồi trên bờ suối nói chuyện. Nàng đưa hai cánh tay lên đón những giọt mưa mát rượi. Nàng đưa đầu, đưa tóc, đưa vai và đưa thân thể nàng ra đón những rọt mưa mát rượi. Bỗng nàng nhận ra rằng dưới chân nàng, cỏ non đã mọc trở lại. Nhìn xuống dòng sông nàng thấy nước đã ngập đầy. Mưa như thế không biết trong bao lâu. Đến khi hầu hết các đám mây đã tan, ánh sáng đã chan hòa đây đó 10 | 01. Dòng sông nước ngọt mặt đất thì rồng vàng, còn ẩn trên một đám mây, đưa mắt nhìn xuống. Đây đó, có rất nhiều dòng sông đã được khơi thành. Không những hai bên bờ các con sông cỏ xanh đã mọc lên tươi tốt, mà khắp nơi, trên núi đồi, dưới đồng bằng, cỏ cây cũng đã mọc lên xanh um. Những bông hoa tím, vàng, hồng, trắng… hiện ra khắp nơi. Mặt đất đẹp lên một cách diệu kỳ. Và kia, xuôi theo những nét đẹp uyển chuyển của những dòng sông, có hình dáng của Âu Cơ nằm duỗi chân dài bên bờ đại dương, tóc xõa lên cả một vùng núi đồi, hình dáng nàng nổi bật trên màu xanh của một vùng cỏ cây xanh tốt, mát và tươi như đất mới. Âu Cơ xinh đẹp, đầy đặn và đầy sinh lực như lòng đất. Rồng bay xuống và hiện lại thành người con trai tuấn tú, tay cầm một bông sen trắng. Chàng thao thức muốn gặp lại người con gái mà chàng đã đem lòng yêu từ phút đầu mới gặp. Còn Âu Cơ, nàng cũng thao thức hồi hộp đợi chờ phút trở về của chàng hoàng tử thủy cung hùng dũng và xinh đẹp, có giọng nói như nắng sớm sưởi ấm lòng nàng. 11 | 01. Dòng sông nước ngọt 02. Trăm trứng Lạc Long ngồi trên một ghềnh đá cao, nhìn xuống biển. Chàng thấy một đoàn ngư dân đang kéo lưới trên bãi cát. Thân hình họ rám nắng, khỏe mạnh và xinh đẹp. Nghe lời chàng, họ đã vẽ hình giao Long trên ngồi để mỗi khi lặn xuống nước, các loài thuỷ quái biết họ cũng có thân tộc với loài rồng mà không làm hại. Thật không còn gì đẹp bằng một buổi sáng trên bờ đại dương. Chân trời màu xanh lam nối tiếp với mặt biển màu xanh thẳm. Mặt trời đã lên tới một con sào. Ánh nắng rực rỡ đổ xuống mặt biển, những vầng hào quang đỏ thắm, chói lọi. Vài ngư dân hạ thủy một chiếc thuyền đánh cá. Loài người quả thật là thông minh và quả cảm. Sự thông minh này họ đã thừa hưởng được của bên mẹ vốn là dòng dõi tiên nữ. Sự quả cảm kia, họ đã thừa hưởng được của bên cha, vốn là dòng dõi loài rồng, dòng dõi của chàng. Hoàng tử long cung được mọi người trong vương quốc Âu Lạc gọi là Lạc Long. Không biết theo năm tháng dưới thủy cung, thì chàng đã vắng mặt dưới đó bao lâu rồi. Chàng chỉ biết rằng từ khi cùng với tiên nữ Âu Cơ phối hợp, bảy ngàn năm đã đi qua trên mặt đất. Âu Cơ vẫn còn xinh đẹp như hồi nào vì nàng là tiên nữ, không chịu luật già chết như sinh vật sinh trưởng trên mặt đất. Nhưng trong bảy ngàn năm, loài người đã sinh sôi nảy nở và trở nên đông đảo. Trong buổi đầu của đời sống văn minh loài người, Âu Cơ và chàng đã có mặt để dạy dỗ và che chở. Vương quốc nay đã đông đảo. Nhiều thế hệ người đã lớn lên và mất đi, nhưng dân chúng vẫn còn tiếp tục suy tôn tiên nữ Âu Cơ là nữ chúa và lấy hình chim Lạc của nàng làm biểu tượng giống nòi. Tất cả đều lấy chữ Lạc làm họ. Chính chàng, chàng cũng được dân chúng gọi là Lạc Long. Những lúc thân mật họ gọi chàng là bố. Bảy nghìn năm đó. Đối với đời sống dưới thủy cung, có lẽ thời gian đó chỉ dài chừng năm bảy tháng nhưng ở trên mặt đất xinh đẹp này, bao nhiêu biến chuyển và tiến bộ đã xảy ra trong khoảng thời gian đó. Chàng hồi tưởng lại ngày đầu tiên bước chân lên mặt đất, theo dòng 12 | 02. Trăm trứng sông ngọt tìm tới Âu Cơ. Chàng nhớ tới trận mưa đầu tiên mà chàng đã làm rơi trên mặt đất bao la. Nước mắt của tiên nữ Âu Cơ là nguồn sống của cây cỏ và mọi sinh vật khác trên mặt đất. Đó là một chất nước ngọt ngào, uống vào mát gan mát ruột. Có nhiều khi chàng nghĩ Âu Cơ chính là mặt đất tươi mát xanh rờn, chứa trong lòng nàng bao nhiêu con suối ngọt không bao giờ khô cạn. Cuộc gặp gỡ giữa chàng và Âu Cơ là một cuộc gặp gỡ mầu nhiệm. Âu Cơ là sự xinh đẹp. Âu Cơ là nguồn sống. Âu Cơ là đất mát đầy sinh lực mầu nhiệm. Từ lúc hai người gặp nhau, chàng thấy tình yêu xuất hiện. Ăn ở với nhau không lâu, thì nàng hạ sanh được một bọc trứng. Chàng nghĩ nếu cả hai người đều cùng là loài rồng thì chắc hẳn trứng rồng sẽ nở con rồng. Nhưng đây chắc không phải vậy. Đây là cuộc phối hợp giữa rồng và tiên nữ. Cuộc phối hợp này sẽ đi đến kết quả nào, chàng phải chờ đợi nhiều ngày mới biết. Họ ở với nhau trong một cái động ở trên một ngọn núi gọi là núi Long Trang. Để đàn con sau này được hấp thụ tinh hoa của đất trời, họ đem bọc trứng ra để ở ngoài đồng cỏ xanh mát. Trong chín năm, ngày nào hai người cũng đi ra ngoài động thăm bọc trứng. Họ ngồi trên cỏ mướt, dưới ánh thiên nga, hoặc trong nắng ấm dưới ánh quạ vàng, lắng nghe tiếng cỏ cây, lắng nghe tiếng gió rì rào mầu nhiệm. Ngôn ngữ của họ phần lớn được làm bằng sự yên lặng, nhưng sự thông cảm giữa hai người luôn được thiết lập dễ dàng. Chàng có thể đọc ý nàng khi nhìn vào hai mắt đẹp. Và những bàn tay chàng, khi đưa lên để diễn tả bằng hình tượng, đã là một thứ ngôn ngữ nhiệm màu, như hình tượng rồng vàng uốn khúc trên không trung. Một buổi sáng kia, gió hòa nhạc trong cây. Khi hai người ra tới đồng cỏ xanh thì bọc trứng đã nở lớn như một ngọn đồi. Bọc trứng nở ra: một trăm chiếc trứng trắng như tuyết nằm trên cỏ xanh. Khi nắng lên ấm, những chiếc trứng bắt đầu nở. Từ mỗi chiếc trứng, một hài nhi bụ bẫm sinh ra. Hai người ngạc nhiên và vui mừng hết sức. Họ tới ẵm những chú bé và cô bé hồng hào xinh đẹp trên tay. Một trăm đứa bé mà đứa nào 13 | 02. Trăm trứng cũng đưa tay về phía hai người. Lạc Long và Âu Cơ đem các con về động, dùng các loại cỏ cây mềm dịu như tơ để nuôi cho các con, và săn sóc từng đứa. Tinh hoa của đất trời màu nhiệm quá, sinh lực của tiên và rồng phong phú quá, bầy trẻ thơ không cần bú mớn mà đứa nào cũng lớn mau như cỏ hoa ngoài đồng nội. Âu Cơ để gần hết ngày giờ ra săn sóc một trăm đứa bé xinh xắn của nàng. Nâng niu từng đứa trong hai tay, nàng nhìn ngắm không chán kết quả của Tình Yêu. Nàng thấy được làm mẹ là một diễm phúc lớn. Nàng yêu mặt đất, yêu cây cỏ, yêu sự sống mới. Thỉnh thoảng nàng vẫn nghĩ đến chị em tiên nữ của nàng, nhưng nỗi mong nhớ không còn mãnh liệt như trước. Các tiên nữ chưa bao giờ trở lại, có lẽ họ đã không được quyền trở lại trên mặt đất. Nàng nhớ chị em nhưng nàng chấp nhận sự sống trên mặt đất, xem mặt đất là quê hương của nàng. Lạc Long không nghĩ đến chuyện về thủy phủ. Chàng ở lại trên mặt đất, xây dựng cuộc sống êm đềm bên Âu Cơ. Bọn trẻ đã lớn, thân hình cũng như trí tuệ phát triển một cách mau chóng lạ thường. Chàng dạy cho con biết nói. Chàng phối hợp tiếng nói của trời Phạm Thiên và tiếng nói của nước Long Hải để làm thành ngôn ngữ dạy cho các con. Chàng dạy các con gọi mình là Bố. Và, cũng như ngón tay lớn trong một bàn tay được gọi là ngón tay cái, Hoàng tử dạy các con gọi Âu Cơ bằng một cái tên gọi rất đẹp: Cái. Các con gái của nàng, thường gọi nàng một cách nũng nịu: “Cái ơi, cho chúng con lên đồi hái hoa, Cái nhé?” 14 | 02. Trăm trứng Cùng với Âu Cơ, hoàng tử dùng ngôn ngữ mới đặt tên cho những sự vật trên mặt đất và những sự vật đã sinh trưởng trong rừng sâu hoặc dưới đồng nội. Họ gọi những vùng cây cao mọc chi chít sát nhau là rừng. Họ gọi những vùng đất vĩ đại ngất trời là núi. Họ gọi quạ vàng là Mặt Trời, thiên nga là Mặt Trăng. Họ cũng gọi các hiện tượng thiên nhiên và các loài chim để đặt tên cho một trăm đứa con của họ: núi, nước, rừng, trăng, mai, lê, đào, lý…. Một trăm đứa con nhưng hai người vẫn nhớ được tên của từng đứa. Khi các con đã lớn, họ dạy cho các con biết vào rừng hái quả, biết đẽo gọt những dụng cụ bằng đá để săn bắn trong rừng, biết đan những cái lưới thô sơ để bắt tôm cá trong sông. Chàng nhớ lại một đêm lạnh lẽo kia Âu Cơ nằm mộng thấy một thần nhân sáng trên ngời, trên tay cầm một con quạ vàng tóe tung những lửa. Lửa cháy làm nàng cảm thấy ấm áp. Thần xưng là A Nhi. Thần chỉ vào những dụng cụ bằng đá và nói: - Khi nào lạnh lẽo thì các ngươi có thể gọi ta. Ta là con của Mặt trời gửi xuống giúp các ngươi. Ta ở trong những tảng đá này. Thức dậy, Âu Cơ đã kể cho chàng nghe giấc mộng. Cả hai người đến lật những dụng cụ bằng đá lên xem nhưng không thấy gì. Chợt nhớ ra rằng trong khi đẽo gọt những dụng cụ này, chàng và các con trai chàng đã làm léo ra những tia sáng giống hệt như nàng đã thấy trong mộng. Âu Cơ bèn nhắc chàng. Hoàng tử đập những tảng đá vào nhau tóe lửa. Họ dùng bùi nhùi để bắt lửa. Từ đó họ có lửa để nấu nướng và sưởi ấm. Chàng dạy con đốn cây làm những chiếc nhà sàn để ở. Trời rét, chàng bảo Âu Cơ đi tước vỏ cây, đập nát xe lại thành sợi và đan thành những tấm áo choàng. Các con gái của Âu Cơ đều giúp nàng, và trong một thời gian không lâu, mọi người đều có áo mặc. Họ bứt cỏ ống, phơi khô, dệt thành chiếu để lót trên sàn nhà nằm cho ấm. Cá tôm chài lưới được và cầm thú săn bắn được, nếu ăn không hết thì họ dạy đem phơi khô. Nhưng công việc mà Âu Cơ thích hơn cả là trồng lúa nếp. Họ lấy dụng cụ bằng đá để cày cấy, gieo hạt lúa nếp. Ở những 15 | 02. Trăm trứng khu đất thấp, họ mở đường mương để lấy nước tưới ruộng. Hoàng tử dạy các con bỏ gạo nếp trong ống tre, lấy bùn trát lại, và quẳng vào đống lửa. Sau khi bùn đã cháy, chẻ ống tre ra, họ có cơm nếp rất thơm và rất ngon. Cứ như thế sự sống mầu nhiệm đã diễn ra trên mặt đất. Hàng ngàn năm đã đi qua. Thế hệ các con đã lớn, thế hệ các cháu ra đời. Rồi thế hệ các cháu đã lớn, chuẩn bị cho những thế hệ kế tiếp. Loài người tuy là con rồng cháu Tiên, nhưng mỗi con người chỉ sống trên mặt đất khoảng vài trăm năm. Có những con người tập phép trường sinh theo cha mẹ, cũng trở thành bất tử về sống ở thủy cung hoặc lên tiêu dao trên những cảnh nước non thanh tú không có dấu vết sinh diệt. Phần đông đều sống cuộc đời vài trăm năm trên trái đất và khi chết thì linh hồn đi về cõi Âm, nơi đó thỉnh thoảng những người sống cũng được viếng thăm. Những trẻ em khi lớn lên, được dựng vợ gả chồng. Mỗi khi có một cuộc gả cưới như thế, chú rể và cô dâu được các anh chị và xóm làng đem tặng rất nhiều cơm nếp. Nếu một gia đình nào muốn gả chồng cho con gái thì dùng muối để đến nhà trai làm lễ hỏi. Đến ngày cưới, chú rể được rước về nhà cô dâu và vĩnh viễn thuộc về gia đình này. Hai vợ chồng mới được ở một phòng riêng. Lễ hợp cẩn rất đơn giản: hai vợ chồng mới cùng ăn cơm nếp với nhau: Muối dùng trong lễ hỏi tượng trưng cho sự mặn mà, và cơm nếp ăn trong lễ hợp cẩn tượng trưng cho sự keo sơn bền chắc. Ở những đám cưới lớn, người ta còn đem tới tặng bánh làm bột cây quang lang và cây soa đồng. Tất cả những tập tục này, chàng nhớ, đều do Âu Cơ dạy bảo. Các cặp vợ chồng này không sinh ra những bọc trứng nữa. Họ sinh ra mỗi lần một hài nhi bé bỏng. Buổi đầu bà chúa Âu Cơ dạy họ lấy lá chuối tươi lót cho đứa bé nằm và cách thức nuôi dưỡng, bú mớm. Trước kia, vì muối là một thức hiếm, Âu Cơ dạy các con lấy rễ gừng để làm muối. Sau này, chàng đã dạy các con phơi nước biển cho khô để làm muối. Nhờ có muối, họ làm được đủ thứ mắm và nước mắm để dành. Trong buổi đầu, Âu Cơ cũng đã dạy cho các con những khúc múa và những bài hát. Bây giờ, có những đêm dân chúng trong vương quốc tổ chức những cuộc múa hát sáng đêm. Những đêm múa hát thường được tổ chức tưng bừng quanh một đống lửa lớn. Nhạc 16 | 02. Trăm trứng khí đầu tiên được phát minh là trống, làm đơn sơ bằng gỗ và da thú vật. Những người tham dự, lớn hay bé, đều trang sức trên đầu bằng những chiếc lông chim trắng để tự nhận là dòng giống chim Lạc. Đệm theo tiếng trống tưng bừng là tiếng chày đá giã gạo đều đều. Từng cặp hai người, một trai và một gái, cầm những chiếc chày dài bằng đá cao tới vai, phía trên có trang sức lông chim. Họ giã chày vào một cái cối đá, tiếng giã thình thịch theo nhịp của những người đang múa hát xung quanh đống lửa. Các thế hệ sau đó đã khám phá ra chất đồng, và thay thế những chiếc trống gỗ đơn sơ bằng những chiếc trống đồng, âm thanh vang như sấm động. Tiếng hát của dân chài từ bãi biển vọng lên, làm Lạc Long chú ý nhìn xuống, trong lưới, hàng ngàn con cá bạc lấp loáng dưới ánh mặt trời. Ngư dân vừa đánh được một mẻ cá lớn. Bỗng nhiên, Lạc Long thấy cánh tay phải rung động. Chàng giật mình. Đúng rồi, đây là dấu hiệu phụ vương chàng, vua của loài rồng, từ thủy phủ gọi. Chàng biết đã tới thời hạn phải về thủy cung để lên ngôi Long Vương. Phụ vương chàng đã đến lúc muốn ẩn cư tu luyện và muốn trao ngôi báu cho chàng. Đã lâu quá, chàng không về thăm nơi cung điện. Lạc Long xao xuyến khi nghĩ đến lúc phải từ giã mặt đất để trở về dưới nước. Có một bàn tay đặt nhẹ trên vai chàng. Lạc Long nhìn lên. Chàng thấy Âu Cơ đã đến và đứng tự bao giờ trên ghềnh đá. Nàng hỏi, tay vẫn để trên vai Lạc Long: - Chàng suy nghĩ gì vậy? Lạc Long đứng dậy, cầm tay nàng: 17 | 02. Trăm trứng - Phụ vương dưới thủy cung gọi ta về, ta phải đi ngay, nàng ở lại bảo vệ các con. Ta về thủy cung chịu lễ truyền ngôi, rồi sẽ trở lên sớm. - Chàng cho em về cùng được không? - Trời tròn, đất vuông, nước và lửa tương khắc. Nàng là giống tiên, ta là giống rồng. Tuy cuộc phối hợp chúng ta rất đẹp đẽ trên mặt đất này, nhưng ta không thể lên thăm cõi trời Phạm Thiên, cũng như nàng không thể xuống thăm thủy phủ. Ta ao ước được mời nàng xuống thăm cung điện dưới nước, chỉ tiếc là nàng không xuống được đấy thôi. - Thiếp cũng biết điều đó. Nhưng sau này các con của chúng ta, loài người, có thể xuống thủy cùng được không? - Các con chúng ta, tuy thuộc về giống tiên, nhưng chúng cũng thuộc về giống rồng, vì vậy có thể xuống thăm thủy cung. Tuy vậy, nếu một trai một gái cùng đi sẽ dễ dàng, ít xung khắc hơn. Sau khi đã sắp đặt công việc dưới ấy xong xuôi, ta sẽ trở lên. Trong trường hợp cấp bách, muốn gọi ta, nàng hãy cho hai đứa xuống thủy cung tìm, người nào cầm trong tay vật này là có thể đi tới cung điện của ta, không sợ nguy hiểm. Nói xong, Lạc Long nhả ra trên tay một viên ngọc sáng ngời, trao cho Âu Cơ. Chàng nói tiếp: - Phụ vương lại giục nữa rồi, ta phải đi ngay mới được. Từ ghềnh đá, chàng cầm tay Âu Cơ đưa nàng xuống bãi cát trắng. Trời đã đứng bóng; ngư dân đã về xóm. Lạc Long ngước nhìn bầu trời xanh bao la. Trời xanh quá. Trưa im lặng. Trong chiều sâu của không gian, chàng thấy bảy năm qua mau như một giấc mộng. Chàng cầm tay Âu Cơ, nhìn nàng trong hai mắt một hồi lâu. Và bỗng chàng cúi xuống hôn trên hai má nàng, rồi nghiêng mình biến thành một con cá nhỏ, lội vào biển xanh. Âu Cơ đứng ngẩn ngơ một hồi. Bỗng nàng ngước mắt nhìn ra biển xanh và gọi lớn tên chàng: 18 | 02. Trăm trứng - Nāga! Nāgajāra Nhưng Lạc Long đã đi. Chàng đã đi xa. Đáp lại lời gọi của nàng, chỉ có tiếng sóng biển mỗi lúc mỗi trở thành rào rạt. 19 | 02. Trăm trứng 03. Chuyến đi Chưa bao giờ, từ khi Âu Cơ và Lạc Long dựng nước, mà trời lại nắng khô lâu ngày đến như thế. Có hơn sáu tháng rồi trời không mưa. Các dòng sông và các dòng suối đã hầu cạn. Cỏ trên đồng cháy vàng. Lúa nếp thiếu nước không mọc được nữa. Lúa còn non mà đâu đâu cũng đã thấy cây lúa úa vàng như rơm rạ. Nắng thiêu đốt đến nỗi đó đây đất nứt nẻ ra trông rất thảm thương. Dân chúng phải chạy vào rừng trốn nắng vào những buổi trưa nóng bức nhất. Gió cũng ít thổi. Trời im phăng phắc. Có một cái gì đè nặng trên không khí, ai cũng thấy ấm ức. Ẩn cư tận trên đỉnh núi từ ngày Lạc Long bỏ về thủy phủ, bà Âu Cơ cũng đã tìm về đồng bằng vì nghe tiếng kêu khóc của dân chúng. Thấy con cháu rên siết vì nắng hạn, bà đau lòng. Bây giờ chỉ có một cách là cho người đi gọi Lạc Long. Hiện giờ chàng đã lên ngôi Long Vương rồi; không biết vì sao mà lâu quá chàng chưa trở lại. Là dòng giống Tiên thuần túy bà không thể xuống Long cung được, nhưng con cháu bà vì cũng là dòng giống Rồng, nên có thể đi xuống thủy phủ. Viên ngọc quí mà Long Quân đã trao cho bà trước khi từ giã, bà đang còn giữ. Bà trao lại cho một người trai trẻ tên là Lạc Hùng, và dạy chàng tìm cách xuống long cung cầu Long Vương lên làm mưa cứu nạn. Hùng là người con trai can trường nhất và thông minh nhất của thôn Hạc Trắng. Thôn Hạc Trắng nổi tiếng là miền văn nhã của vương quốc. Ở đây có nhiều trai thanh gái lịch. Ở đây lại có một cây chiên đàn sống đã bốn nghìn năm, cao tới ngàn tầm, ngọn cây thường lẫn vào mây trắng. Tàn lá rộng che phủ cả một vùng. Có rất nhiều chim hạc đậu và làm tổ trên cây. Bà chúa Âu Cơ mỗi lần từ núi cao về hay tới dưới gốc cây để gặp gỡ dân chúng. Hùng được cả thôn yêu mến. Bà chúa đã giao chàng sứ mệnh xuống thủy cung, nhưng chàng chưa biết cách gì xuống được thủy cung. Bà chúa cũng đã trao cho chàng một viên ngọc và dặn dò chàng nên cùng đi xuống thủy phủ với một người con gái. 20 | 03. Chuyến đi Lạc Hùng có quen biết một cô con gái cùng tuổi. Nàng tên là Mỵ. Theo chàng, Mỵ là cô gái duyên dáng nhất trong thôn. Hùng nghĩ rằng đi với một người con gái như Mỵ xuống thủy phủ là một niềm vui, nàng thông minh và lanh trí, có thể giúp chàng được trong lúc đi đường. Nhưng đi với một cô gái, dù là cô gái mình yêu mến nhất, cũng là một gánh nặng. Nếu gặp những hiểm hay nguy bất trắc, sức lực của một thiếu nữ làm sao chống cự được với ác loài thủy quái hiểm độc? Trên con đường đến nhà Mỵ, Hùng băn khoăn không biết sẽ khởi hành cách nào. Đành rằng bà Âu Cơ có bảo rằng mang viên ngọc quí trong mình thì có thể rẽ nước đi xuống biển; nhưng đại dương bao la như thế, biết hướng nào mà đi, di trong bao lâu cho tới thủy cung? Bỗng có người hỏi: - Hùng suy nghĩ gì vậy? Hùng ngửng nhìn lên. Mỵ đón đường chàng, tươi cười. Nàng nói tiếp, dáng điệu có vẻ bí mật: - Mỵ biết anh nghĩ gì rồi. Rồi nàng hạ thấp giọng: - Có phải anh đang nghĩ tìm xuống thủy cung phải không? Nếu thế thì em biết, em sẽ chỉ cho. Hùng mở mắt lớn nhìn Mỵ: - Làm sao cô biết được chuyện đi thủy cung? Bà chúa mới giao cho anh việc đó hồi sáng đây mà. Ai bảo cho cô hay vậy? Mỵ cầm lấy tay Hùng và dắt chàng lên ngọn đồi gần đó: - Lên trên này ngồi, em sẽ nói hết đầu đuôi câu chuyện cho anh nghe. Rồi nàng bắt đầu kể: 21 | 03. Chuyến đi “Trưa hôm qua trời nắng quá em lội xuống sông, vốc nước rửa mặt. Anh biết không, nước sông đã gần cạn, chỉ còn một lạch nước nhỏ giữa dòng mà thôi. Nước cũng không được trong bởi vì đáy sông có bùn. Em vừa vốc nước trên hai tay, định đưa lên phả vào mặt thì bỗng thấy trong lòng bàn tay một chú cá nhỏ màu hồng, bằng nửa ngón tay út của em đây mà thôi. Con cá thật đẹp, mình có vẩy óng ánh, hai mắt sáng như hai viên ngọc nhỏ. Em bèn không rửa mặt nữa, cứ bụm hai tay như thế mà đem chú cá vào nhà. Em bỏ cá vào một cái bát lớn, đổ đầy nước, rồi đi dệt vải. Một lát sau nghe tiếng quẫy mạnh, em đi tới nhìn thì thấy cái bát đã nghiêng đổ, và Bố ơi, em thấy con cá đã lớn lên gấp trăm lần, to bằng bắp tay của anh đấy. Em ngạc nhiên quá nhưng cũng đem cá thả vào cái thạp nước trước nhà, nghĩ rằng như thế cá sẽ đủ nước để sống, Sáng nay thức dậy, em ra thăm cá, thì anh ơi, cá đã lớn đến nỗi không còn chỗ trong thạp mà vẫy vùng. Em biết đây là một con cá thần nên nói: “Thôi để ta đem ngươi thả xuống dòng sông trở lại”. Bỗng cá trả lời em: “Không, ta không thể biến thành nhỏ lại được nữa, vì thời hạn được phép lên đất chơi đã hết. Bây giờ chỉ có thể lớn dần lớn dần cho thành nguyên hình mà thôi. Nếu ngươi muốn cứu ta, thì xin thả ta xuống biển. Ta sẽ đền ơn ngươi. Em nghe nói, sợ quá, liền ẵm cá chạy về phía biển. Hai cánh tay em thế này mà có lúc mang không nổi cá; mỏi quá em phải ngồi nghỉ, đặt cá xuống cỏ trước khi có thể tiếp tục mang cá ra biển. Đến bờ biển, cá nói: “Em là công chúa thủy cung. Em cám ơn chị đã cứu mệnh. Đáng lý em không nên liều lĩnh lội ngược một dòng nước cạn như vậy. Nhưng nay thì tai nạn đã qua. Để đền ơn chị, em xin báo tin cho chị biết vì trời nắng hạn như thế này, thế nào bà chúa Âu Cơ cũng gởi người xuống thủy phủ tìm đức Long Quân, Em không dám xen vào chuyện người lớn. Nhưng em có thể mách chị: muốn xuống tới long cung, phải có một viên ngọc quý của Long Quân. Lại phải có hai người trẻ tuổi: một trai và một gái. Phải đi đường Đông Hải là đường ngắn nhất. Nhưng như vậy thì phải đi qua hang Ngư Tinh. Đức Long Quân chưa biết rằng ở Đông Hải, đã có một loài thủy quái hiện đang tàn phá giết chóc ngư dân trú gần đó. Bản lĩnh ngư tinh cao cường lắm, em cũng không có thể đối địch với nó, huống hồ một hai người chưa biết gì là pháp thuật. Tuy nhiên, em sẽ dạy cho chị một bài linh 22 | 03. Chuyến đi chú, đi ngang qua hàng ngư tinh mà chị đọc bài linh chú ấy lên thì ngư tinh sẽ sợ hãi để cho chị đi qua mà không quấy phá. Bài linh chú này em học được của đức Long Quân”. - Thế rồi cô có học thuộc bài linh chú ấy không? Hùng vội hỏi. - Mỵ có học thuộc; để lát nữa em sẽ dạy lại cho anh cùng học thuộc. Bây giờ thì hãy để em kể tiếp những lời nói của công chúa thủy phủ đã. Cá thần nói: Người được giao sứ mệnh xuống thủy cung là một chàng trai. Người ấy sẽ phải đi với một cô gái. Em biết chị có quen biết với người con trai kia. Vậy những điều em báo tin cho chị đây sẽ khiến cho chị trở thành người con gái duy nhất biết đường về thủy phủ. Những người đầu tiên được xuống thủy cung sẽ có tương lai rạng rỡ sau này trên mặt đất. Những điều em dặn đây chị hãy ghi nhớ cho kỹ. Vào buổi mai khi mặt trời mới mọc, hãy nhắm đúng hướng mặt trời mà đi xuống biển. Đưa viên ngọc qúy của đức Long Vương ra cầm trên tay thì một con đường sẽ được tẻ ra dưới nước. Nhưng đi sâu xuống chừng năm trăm trượng thì sẽ không còn thấy ánh sáng soi đường. Để ý cho rõ là dưới chân phải có cát vàng. Nếu bước lên trên một tảng đá, trên một thảm rêu hoặc trên bùn đất, đó là đã đi lạc đường. Những lúc thấy lạc đường phải dừng ngay lại, cầm bảo châu soi ra xung quanh. Thấy hướng nào có màu vàng ánh tới thì đi về phía ấy. Phải tránh những hướng có tím, màu xanh và màu đỏ; nếu không sẽ đi lạc vào những hang động thủy quái. Đi chừng một ngày đường sẽ bắt đầu thấy ánh sáng. Đó là ánh sáng từ các cung điện bằng pha lê chiếu ra. Sau đó, sẽ gặp rất nhiều loại thủy tộc, tất cả đều dưới quyền thống lãnh của đức Long Quân. Nếu gặp những sinh vật cổ quái dữ tợn thì đừng sợ hãi. Hãy nói lớn: Đây là sứ giả đưa tin cho Nāgajāra! Nạt như thế thì sẽ không bị chúng cản đường hay xâm phạm tới. Nội cung của phụ hoàng không có ai canh giữ, vì người không muốn ai đến phiền nhiễu người trong giờ tĩnh tâm 23 | 03. Chuyến đi và làm việc. Cứ tìm vào, và xưng danh hiệu. Nếu đức Long Quân muốn tiếp kiến thì người tự hiện hình. Mỵ ngừng lại một lát để thở rồi tiếp: - Chưa hết, công chúa thủy cung còn nói: “Trước khi đi, phải tìm cho ra nước suối trong và ngọt để múc một bình đem theo. Phụ hoàng cần có nước ấy mới làm mưa được. Kho mây ở ngay dưới thủy cung; chìa khóa do phụ hoàng giữ, Nhưng có nước trong thì mới có mưa tốt. Nước các dòng sông đã vẩn đục. Em biết có một cái giếng sâu cách bờ Đông Hải bảy dặm. Giếng nước ấy đã cạn. Nhưng dưới đáy giếng có một con đường đi thông ra một dòng suối trong lòng đất. Suối này còn giữ được nhiều nước ngọt rất trong ở một hốc đá lớn. Theo lòng suối cạn mà đi thì tới Đông Hải, khỏi phải leo lên miệng giếng”. Hùng nghĩ bụng: sáng sớm mai ta phải khởi hành, và phải cùng đi với Mỵ. Chàng nhắc lại những điều chàng vừa nghe cho Mỵ, để chắc rằng chàng đã ghi nhớ được hết mọi chi tiết. Trong khi nói chàng nhìn Mỵ như dò hỏi xem coi những điều chàng nhắc lại có đúng hay không và luôn luôn hai con mắt của Mỵ chứng tỏ là chàng đã ghi nhận rất đúng. - Bây giờ đến câu linh chú, hãy đọc lên để anh cùng học thuộc. Sợ chỉ một người biết thì có thể quên, và người kia không thể nhắc được. Bài linh chú ấy như thế này: Thủy tộc vạn loài thống lãnh Quyền oai vang động dưới trên Chúa tể Nāga dũng mãnh Đại dương nép phục mọi miền Giây phút Long Vương xuất hiện Độc long yêu quái nằm yên Gate paragate! 24 | 03. Chuyến đi Cả hai người cùng đọc linh chú với nhau cho đến khi Hùng chắc chắn là mình đã thuộc. Họ hẹn sáng ngày mai lúc tờ mờ sương sẽ gặp nhau ở đầu ngõ để cùng khởi hành. Đêm hôm ấy, Mỵ đem câu chuyện ra thưa với mẹ nàng. Bà chăm chỉ nghe, thỉnh thoảng chắc lưỡi tỏ vẻ lo ngại. Nghe xong, bà đứng dậy đi vào chỗ cất chứa những vật dụng quý giá của gia đình, và lấy ra một chiếc bình nhỏ, trong đó có chừng mười mấy hạt trắng như hạt đậu. Bà nói: - Đây là bình thuốc tiên mà ngày xưa bà Chúa đã cho ngoại. Bà đã hái và luyện thuốc này trên núi một mình. Trong thời ấy bà còn lên xuống thế gian rất thường, không ẩn hình hẳn trên cảnh tiên non cao như bây giờ. Ngoại đã đem tiên dược này cho mẹ uống một lần, hồi mẹ ốm nặng gần chết. Thuốc rất hay. Con đi chuyến này với công tử, tuy là hiểm nguy nhưng đây là một việc làm cứu dân cứu nước; con hãy mang theo bình linh dược này, cất chặt trong túi áo. Có thể công tử và con sẽ phải dùng tới nó. Hai mẹ con thức cho tới khuya để tâm sự. Cuối cùng Mỵ nghe lời mẹ đi nghỉ để sáng mai có sức lên đường. Sáng hôm sau, lúc Mỵ gặp Hùng ở đầu ngõ, lời đầu tiên nàng hỏi là chàng còn thuộc lời linh chú không. Hùng gật đầu. Chàng giắt theo bên lưng một cái bình làm bằng trái bầu khô. Vai chàng vác một cuộn dây thừng lớn. Hai người yên lặng đi trong sương sớm. Lá khô xao xác kêu dưới chân họ. Trời còn mát. Hùng đưa mắt nhìn những đám ruộng khô cháy bên đường và thở dài. Nếu chuyến đi này bất thành thì thiên hạ sẽ không thoát khỏi một cơn đói khát cùng cực. Nhiều gia đình đã bỏ làng, tản cư lên miền Bắc, mong tìm được một địa phương mát mẻ hơn, ít bị hạn hán hơn. Chính gia đình Mỵ cũng đã sửa soạn để di cư lên miền Bắc. Chàng không chắc di cư lên miền Bắc thì sự tình sẽ khá hơn. Bởi vì hy vọng tìm được những hồ chứa nước lớn có thể dùng để tưới tẩm cho hoa mầu là một hy vọng mong manh. Gia đình chàng 25 | 03. Chuyến đi nhất định không đi, quyết ở lại sống chết với mảnh đất này. Nếu gia đình Mỵ đi thì Mỵ sẽ phải đi theo mà như vậy trời đất mênh mông, biết đâu mà tìm Mỵ sau này. Chắc hẳn là nếu trường hợp đó xảy ra, chàng sẽ mất Mỵ, Bởi Mỵ yêu chàng và chàng đã nói riêng với Mỵ nếu gia đình Mỵ có ý muốn cưới chàng về với Mỵ thì chàng sẽ bằng lòng. Nhưng hai người đã tìm ra được tới giếng nước. Nhìn xuống giếng thăm thẳm sâu, Mỵ chẳng trông thấy gì. Hùng cũng lắc đầu tỏ vẻ e ngại. Nhưng chàng vẫn thản nhiên tháo cuộn dây thừng, buộc một đầu thừng vào thân cây to lớn bên thành giếng, và buông thõng đầu dây kia vào giếng. Chàng níu vào dây nhảy xuống. Trong chốc lát chàng đã biến mất vào lòng giếng đen ngòm. Mỵ chờ một lát không thấy gì, nóng ruột. Nàng chờ thêm một hồi lâu nữa vẫn không thấy động tĩnh gì. Nàng cúi xuống giếng, hốt hoảng gọi: - Hùng ơi, Hùng ơi! Âm thanh vang vào thành giếng dội ngược trở lại. Nàng không nghe tiếng trả lời của Hùng. Mãi một lúc sau mới có tiếng Hùng, nhưng âm thanh không rõ lắm. Rồi Hùng trở lên, leo ngồi ở thành giếng. Chàng nói: Giếng sâu lắm. Tối om om. Nhưng nhờ có viên bảo châu ta có thể thấy đường được. Bây giờ anh phải tìm cách đưa Mỵ xuống. Chàng bảo Mỵ ôm choàng lấy cổ chàng. Rồi chàng tháo một sợ dây vải bên người buộc Mỵ vào thắt lưng lớn của chàng. Chàng bảo Mỵ ôm cổ chàng thật vững và đừng sợ, nếu cần thì nhắm mắt lại. Lần theo sợ dây, chàng leo xuống giếng. Mỵ nhắm mắt lại, nhưng vẫn biết là hai người đang tuột dần xuống giếng. Hai cánh tay vững mạnh của Hùng bám chắc vào sợi dây lớn, chân chàng lần vào từng hốc đá của thành giếng, từ từ leo xuống. 26 | 03. Chuyến đi Giếng sâu thăm thẳm như không bao giờ có đáy. Mỵ mở mắt ra nhìn thử. Nàng ngạc nhiên thấy ánh sáng tỏ ra từ viên ngọc mang ngang lưng Hùng. Hai tay nàng ôm chặt xung quanh cổ Hùng. Cuối cùng hai người xuống tới đáy giếng. Hùng đặt Mỵ đứng xuống. Chàng nghỉ một vài giây để thở. Không khí đáy giếng nặng nề và ẩm mục. Chàng đưa viên ngọc ra soi quanh thành giếng. Quả có một cửa hang rộng. Chàng cúi xuống chui vào hang. Qua khỏi cửa hang, chàng nhận thấy đây là một cái động khá lớn, trần động cao hơn đầu người. Lấy viên ngọc soi lên trần, chàng thấy vô số thạch nhũ trắng tinh. Chàng gọi Mỵ, bảo nàng chui qua cửa hang. Hai người đi theo thạch động một lát quả thấy có một dòng suối khô cạn đi ngang. Hùng và Mỵ theo lời dặn của cá thần, hướng về phía trên suối mà đi. Chân hai người đạp trên cát mịn. Đi một hồi dưới chân thấy mát. Họ trèo qua những tảng đá lớn. Bỗng họ nghe tiếng nước róc rách chảy. Nhìn lên trần chỉ thấy thạch nhũ rủ xuống như từng lớp màn buông. Phía trước từng tảng đá xanh chồng lên nhau che lấp cửa suối. Dưới chân họ là cát ướt. Nước rỉ ra dưới chân thành đá. Hùng bảo Mỵ đứng đợi. Chàng leo thoăn thoắt lên tường đá rồi cúi mình dưới muôn ngàn giọt thạch nhũ, trườn vào phía trong. “Nước”, chàng la lên như thế, và trở lại đỡ Mỵ cùng leo lên. Chui qua được trần thạch nhũ, Mỵ thấy một cảnh tượng diệu kỳ. Một hồ nước bao la lặng im không một gợn sóng. Nhờ ánh sáng của viên ngọc, nàng thấy bốn phía thạch nhũ rủ xuống mặt hồ, và đâu đó có tiếng nước chảy róc rách êm ái. Yên lặng quá. Nàng có cảm tưởng dù trên mặt đất có cháy khô thì dưới này nước vẫn còn được cất chứa. Và nàng nghĩ tới bà Chúa Âu Cơ. Mỵ tháo trái bí khô nơi lưng của Hùng và cúi xuống dìm nhẹ chiếc bình xuống nước. Khi nước đã tràn đầy, nàng rút lên, đậy chặt nút, và đeo bình trở lại vào lưng của Hùng như cũ. Hai người leo xuống thành đá, theo lối cũ trở ra, và tự nhiên trong lòng thấy yêu thương tràn ngập. Họ thoăn thoắt chạy trên cát; không mấy chốc mà đã đi ngang qua chỗ đường hầm thông qua đáy giếng. Thay 27 | 03. Chuyến đi vì trở lui về giếng, họ tiếp tục đi xuống và tin chắc rằng mình đang hướng dần về phía biển Đông. Đường đi là lòng suối, có cát, dễ đi. Nhưng một lát sau, có những tảng đá hiện ra giữa lòng suối và hai bên suối. Rồi bỗng nhiên đá hiện ra rất nhiều và cuối cùng chắn mất lối đi. Hai người phải leo qua nhiều tảng đá để tiến bước. Mỵ bỗng ngửi thấy một mùi xú uế. Nàng đưa mắt nhìn Hùng định hỏi xem chàng có ngửi thấy gì không, thì mùi hôi trở nên nồng nặc và Hùng đã nói: - Hôi quá. Hai người chợt phát giác dưới chân mình một bộ xương người. Đây là lần đầu tiên họ thấy một bộ xương người. Mỵ rú lên. Nàng thấy rải rác đây đó những bộ xương người khác. Hùng bỗng ngừng bước, nắm tay Mỵ: - Hang ngư tinh. Em hãy coi chừng. Hãy định tâm và bình tĩnh. Nhớ lại câu linh chú. Mỵ nhẩm đọc trong đầu câu linh chú. Nàng hồi hộp lo sợ. Nhưng nàng vững tâm thấy mình còn thuộc lòng bài kệ mà cá thần đã dạy. Hai người rón rén tìm đường tiến tới phía trước. Họ đi tới một hầm đá rộng, trần rất cao, có ánh áng tờ mờ từ trên chiếu xuống. Có tiếng sóng chạm vào ghềnh đá ầm ầm. Họ biết họ đã tới bờ Đông Hải, và gần sát động của ngưu tinh. Đột nhiên, từ một hốc đá lớn đen ngòm phía trước, Ngư tinh xuất hiện, miệng ngậm một con người. Đó là một con quái ngư đầu lớn bằng đống rơm cao ngất trước sân nhà của Mỵ, thân hình nó dài tới hàng chục trượng có nhiều khoang trắng và đen. Đuôi của yêu quái, toàn một màu trắng, quật vào vách động như muốn làm vỡ tan thành đá. Hùng buông Mỵ, đẩy nàng về tường động phía sau và xông tới. Với tất cả sức lực của mình, chàng nhảy lên đưa cả hai chân đá vào cổ 28 | 03. Chuyến đi họng của yêu quái. Đòn của chàng có hiệu quả lập tức: ngư tinh nhả ngay thân người đang ngậm. Nó quật đuôi lần thứ hai đánh rầm vào thành đá và hướng đến Hùng. Miệng của yêu tinh há rộng, hai hàm răng trông như hai hàng gươm giáo. Mỵ hét lên, nhưng Hùng đã nhảy lên phía hông của ngư tinh, tránh thoát đòn đầu tiên của quái vật. Chàng la lớn: Mỵ bình tĩnh đọc linh chú. Chàng biết sức mình không địch nổi ngư tinh nên chỉ cố lách tránh những đòn hiểm độc của nó. Sau khi tránh xong đòn thứ tư của ngư tinh, chàng mới nghe tiếng Mỵ, vững mạnh, vang lên trong hang đá: Thủy tộc vạn loài thống lãnh Quyền oai vang động dưới trên Chúa tể Nāga dũng mãnh Đại dương khép phục mọi miền Tiếng Mỵ vừa đọc đến đó, đột nhiên ngư tinh dừng lại, ngơ ngác nhìn. Thấy vậy, Hùng cất cao giọng đọc tiếp những câu cuối cùng của linh chú. Giọng chàng uy mãnh lạ thường: Giây phút Long Vương xuất hiện Độc long yêu quái nằm yên Gate! Paragate! Những tiếng Gate! Paragate vang vọng lên như sấm được vách đá chuyền đi vang động cả trong ngoài… Ngư tinh bỗng quay đầu lại phía hốc đá, và nhanh như chớp, luồn ra khỏi hang động. Linh chú đã có hiệu nghiệm. Khi Hùng và Mỵ quay lại để nhìn người vừa làm nạn nhân cho ngư tinh thì đã thấy người này bò dậy. Họ vui mừng nhận thấy người đó còn sống. Đây là người đàn ông làm nghề đánh cá. Trên thân hình ông ta có vẽ hình rồng, những thủy quái đã vẫn cứ làm hại. Hùng và Mỵ xem xét thân hình của người ngư phủ thấy có những dấu răng cắm phủng vào. Ông ta rên xiết đau đớn. Hùng đặt ông ta nằm 29 | 03. Chuyến đi xuống, bảo nằm nghỉ một lát. Mỵ tháo bình tiên dược. Một mùi thơm lan ra ngát cả hang động làm cả ba người sảng khoái. Nàng bỏ vào miệng ngư phủ một viên thuốc tiên, bảo người này nuốt. Một lát sau, mọi thương tích tự nhiên lành lặn, và người ngư phủ vùng đứng ngay dậy. Ông ta mở miệng định nói mấy lời để tạ ơn, nhưng không làm sao nói được một lời. Hùng nói: - Chúng cháu không phải là tiên thánh gì mà chỉ là người thường như Bác đấy thôi. Xin bác đừng tạ ơn mà tội. Chúng cháu được bà Chúa phái về thủy cung cầu đức Long Vương làm mưa và mời Ngài về lo việc nước. Đi ngang đây, chúng cháu biết thế nào cũng phải đối phó với ngư tinh. May mà cứu được bác, chúng cháu rất mừng. Ba người tìm lối ra khỏi cửa động. Tìm mãi chỉ thấy một lối ra duy nhất, đó lối ngư tinh vừa tẩu thoát. Họ can đảm đi ra bằng phía ấy, và cuối cùng tìm cách trèo lên được một ghềnh đá. Hùng và Mỵ sung sướng thở không khí mát lành của buổi sáng trên bờ Đông Hải. Mặt trời đã lên tới một con sào, trễ hơn thì giờ dự định. Chàng dặn bác ngư phủ: - Xin bác về báo tin với đồng bào miền duyên hải ngừng công việc chài lưới gần động ngư tinh. Cũng xin báo cho họ biết là đã có sứ giả đi xuống long cung cầu cứu đức Long Vương. Thế nào đức Long Vương trở lên, ngài cũng trừ khử được yêu nạn này. Bác cứ yên tâm tìm đường về xóm, cháu chắc yêu tinh còn sợ thần lực của linh chú, chưa dám trở lại ngay đâu. Hai người chào bác ngư phủ và leo xuống bờ cát. Họ đứng hướng về phía mặt trời, chân họ chấm nước biển. Người con trai đưa ra phía trước một viên ngọc sáng ngời. Bỗng nhiên, nước biển trước mặt hai người rẽ ra một đường rộng. Hai người đi xuống, nước bèn khép lại phía trên. 30 | 03. Chuyến đi Chứng kiến cảnh tượng diệu kỳ đó, bác ngư phủ đứng trên ghềnh đá há miệng kinh ngạc. Từ lúc được ngư tinh nhả ra, được cô gái cho uống thuốc linh dược, cho đến khi từ biệt hai người, ông đã không nói được một lời nào. Kinh hoàng và cảm động đã làm cho ông không thể mở miệng. Ông rời ghềnh đá và im lặng tìm về ngư thôn, nao nức biết mình còn sống. 31 | 03. Chuyến đi 04. Chuyến đi (II) Hùng và Mỵ đi chưa đầy vài mươi dặm thì ánh sáng mặt trời đã trở nên mờ tối. Hùng và Mỵ nương theo ánh sáng của viên ngọc tỏa chiếu mà đi. Thật là một viên ngọc dị thường. Nước hai bên trong như pha lê, thông suốt tới hàng mấy trượng nhờ có ánh sáng của nó. Phía trước, nước tiếp tục rẽ ra trước bước chân của hai người, màu cát vàng luôn luôn ảnh chiếu. Trên đầu họ, nước ở cao chừng một sải tay, xanh biếc. Còn ở hai bên, mầu sắc biến ảo rất dị kỳ: lúc thì đen ngòm, lúc thì đỏ chói như máu, có lúc tím, lại có lúc trắng nhờ, đường rất dễ đi. Hùng và Mỵ không sợ lạc, bởi vì màu vàng dẫn đạo phía trước rất rõ. Với lại hai người rất cẩn thận, không dám để lạc đường, sợ phải đối đầu với những thủy quái hiểm độc như ngư tinh hồi sáng. Nhưng Mỵ đã cảm thấy mệt; bước chân nàng không mạnh dạn như trước. Một hồi sau, nàng phải vịn vào Hùng mà đi. Bước chân của hai người chậm lại. Cuối cùng Hùng phải dừng lại cho Mỵ nghỉ. Hai người ngồi trên cát. Một lát sau hai người lại đứng dậy đi. Sức Mỵ đã yếu, nên Mỵ thấy mệt mau chóng. Hùng bèn ôm xốc Mỵ để trên vai chàng, và mạnh dạn đi tới. Đi một khoảng khá xa. Hùng cũng bắt đầu thấy mệt. Trên vai chàng, Mỵ nói chuyện để cho chàng vui bước quên mệt… Họ nói chuyện về bà ngoại của Mỵ và do đó Mỵ nhớ tới bình tiên dược nhỏ xíu. Nàng bảo Hùng dừng bước. Nàng lần áo lấy ra bình tiên dược, mở nắp. Hương thơm kỳ diệu của tiên dược làm hai người cảm thấy khỏe khoắn. Nàng lấy cho nàng một viên và Hùng một viên. Viên thuốc vừa ngậm vào miệng, cả hai đều thấy khỏe khoắn lạ thường; bao nhiêu mệt nhọc tan biến hết. Sức khỏe của họ còn như được gia tăng. Hai người hăng hái trỗi dậy, tiến bước. Họ đi rất mau, một phần vì khỏe, một phần vì con đường dốc đi xuống. Màu vàng càng lúc càng lớn, rồi đột nhiên đổi sang màu bích ngọc. Hai người dừng lại, thấy như lạc đường. Bốn phía đều là màu bích ngọc. Họ chưa biết đi đâu thì bỗng nghe tiếng của một người con gái băng bẳng bên tai: 32 | 04. Chuyến đi (II) - Hãy đi theo em Cả hai ngơ ngác nhìn quanh nhưng không thấy bóng người. Hai người lại nghe có tiếng cười khúc khích, rồi giọng nói trong trẻo của thiếu nữ vẳng lên. - Em ở ngay trước mặt mà chị không nhận ra được sao, chị Mỵ? Mỵ định thần nhìn kỹ thì thấy trước mặt nàng có một con cá hồng lớn bằng nửa ngón tay, tung tăng bơi lội. Nhận ra cá thần, nàng mừng rõ. Mỵ nói: - Chúng em lạc đường, nhờ thần ngư đưa lối hộ. - Anh và chị cứ đi theo em. Cá thần trả lời rồi tung tăng lội đi trước. Hai người theo sau. Nước chung quanh hai người trong suốt như pha lê. Ánh sáng trong suốt như ban ngày Hùng và Mỵ không cần tới ánh sáng của viên ngọc nữa. Ánh sáng của cung điện thủy phủ đủ để soi sáng hàng chục dặm quanh đó. Cảnh tượng mầu nhiệm lạ lùng. Hai người không ngờ dưới thủy cung mà cảnh tượng lại đẹp đến thế. Hàng vạn cây san hô đủ màu đủ sắc, trình bày thiên hình vạn trạng. Có những loại cây giăng ra những màn lưới màu sữa bằng hàng triệu cánh lá vươn dài như những cánh tay nhỏ xíu của chúng, vuốt ve những đàn cá đủ màu bơi lội ra vào trong lòng cây. Có những loài cỏ rong xanh mướt cao tới năm bảy trượng uốn éo linh động trong nước giống hệt những cành tơ liễu phất phơ trong gió. Có cả những bông hồng, những bông hồng không giống lắm với những bông hồng trên đất, nhưng sắc tươi sáng lạ kỳ. Mỵ nghĩ rằng trong những chặng đường vừa qua sở dĩ hai người không trông thấy cảnh đẹp nào chung quanh có lẽ là tại vì ánh sáng viên ngọc của hai người chỉ đủ để soi đường, và có lẽ cũng vì hai người đã sợ lạc đường quá nên không dám nhìn kỹ hai bên. Bây giờ đây chân hai người đã bước trên một con đường lát bằng pha lê. Hai bên con đường pha lê là sạn trắng. Khúc đường nào cũng có kỳ hoa dị thảo. 33 | 04. Chuyến đi (II) - Tội nghiệp cho anh và chị! Đi xuống thủy cung mà vẫn phải mang theo một nắm không gian để thở. Để vào gần tới cung, em cho mỗi người một viên thuốc lọc không khí ra khỏi nước. Hai người đi qua những cung điện pha lê có các loài kình ngư canh gác. Có công chúa thủy cung đi trước nên không ai xét hỏi cản ngăn. Bộ hạ của Long Vương có những dị tướng mới trông ai cũng có thể chết khiếp: những loài có hàng chục cánh tay dài vươn ra trong nước, mỗi cánh tay có mang nhiều vũ khí; những loài cá có trang bị một thanh gươm dài hơn ba trượng phía trước mõm. Gươm vừa nhọn vừa có răng cưa. Những loài kỳ dị như thế, tuy vậy, chỉ là thiểu số. Hùng và Mỵ thấy biết bao nhiêu loài tôm cá đẹp đẽ, thân hình duyên dáng và đủ hết màu sắc. Nhiều loài trông thấy rất hiền hòa, không có ý muốn làm hại ai. Khi gặp nhau họ ngừng lại, những chiếc vây thông thả bơi. Họ còn kề miệng trao đổi ý kiến với nhau. Âm thanh của những câu chuyện này hai người nghe được nhưng lại không hiểu gì hết. Lại có những con rồng có chân và có vảy, sắc bạc, sắc xanh, sắc trắng, tung mình lượn quanh, dáng điệu uyển chuyển xinh đẹp lạ thường, Thấy hai người, nhất là Hùng trên ngực có vẽ hình rồng, những con rồng trẻ kia có vẻ tò mò hướng về chàng, và sau đó lại quẫy đuôi đi xa. Hai người có cảm tưởng là những con rồng kia mỗi khi quẫy đuôi đi xa như thế hình như có nhoẻn miệng mỉm cười. Mỵ nói: - Họ cười chúng mình đó, anh Hùng. Hùng cười: - Không phải đâu, cái miệng của loài rồng ngậm lại trông giống như cười, chắc đâu họ đã cười. Thực ra chỉ có công chúa thủy cung đi trước là đang cười khúc khích khi nghe câu chuyện ngộ nghĩnh của hai người. Bỗng cá thần dừng lại. Cá nói: 34 | 04. Chuyến đi (II) - Đã đến cung điện của đức Long Vương. Anh chị nhìn xem: qua khỏi tòa kiến trúc pha lê có ba cửa lớn, anh chị sẽ đến một chiếc sân rộng bao la, trên sân có nhiều khoảng trồng kỳ hoa dị thảo, những loại cây cỏ quý nhất có thể tìm được dưới nước. Đi khỏi sân này là tới cung điện. Em không dám vào, bởi em không được phép vào cung nếu không có thánh chỉ gọi. Em sẽ chờ ở ngoài ngày. Cá thần bỗng biến thành một thiếu nữ diễm tuyệt. Tóc xõa rộng, phất phơ theo dòng nước. Màu trắng trên thân hình ảnh chiếu màu xanh của lâu đài bằng pha lê; phía dưới thân hình nàng là một đuôi cá đang quẫy đi quẫy lại dịu dàng như một cây quạt. Mỵ thấy công chúa thủy cung đẹp quá. Ban đầu nàng hơi e ngại vì có mặt người yêu tại đó; nhưng sau đó nàng lại yên tâm khi thấy công chúa không có hai chân như loài người. Công chúa hình như thấu rõ tư tưởng ấy. Nàng nhìn Mỵ mỉm cười. Mỵ thẹn quá; máu trong người nàng dâng lên nóng bừng cả mặt. Nhưng công chúa đã cười hiền dịu: - Cái đuôi của em cũng có thể biến thành hai chân được, nhưng biến thành hai chân thì khó đi trong nước lắm. Anh và chị mỗi người ngậm một viên thuốc này thì sẽ không cần đến cái bầu không khí chung quanh nữa. Và mỗi người sẽ có một cái đuôi như em để dùng tạm. Khi muốn có chân trở lại thì chỉ việc lấy viên ngọc của phụ vương ra, tự khắc đuôi biến đi, và bầy không gian xung quanh hiện ra trở lại. Thôi em chúc hai người may mắn. 35 | 04. Chuyến đi (II) Mỵ và Hùng nhận thuốc bỏ vào miệng. Bầu không khí bao quanh hai người biến mất và hai người thấy đuôi mình đang ve vẩy trong nước một cách tự nhiên. Mũi hai người thở tự nhiên trong nước không khác gì trong không gian vậy. Họ gật đầu đáp lễ dáng chào thanh tao của công chúa và hướng về phía cổng tòa pha lê. Họ ngạc nhiên thấy mình quen thuộc với cái đuôi cá, và đi rất mau. Chẳng mấy chốc họ vượt khỏi lâu đài, đi qua chiếc sân bao la có trồng hoa cỏ đủ màu đủ sắc. Phút chốc họ đã vào trong cung điện trang nghiêm và mỹ lệ của Long Vương. Mỵ nhìn lên cao: nàng không thấy trần nhà ở đâu, chỉ thấy phía trên thăm thẳm cao như bầu trời có sương bao phủ. Nhũng dãy cột lớn bằng cẩm thạch chạm trổ hình rồng cũng cao vút lẫn trong mây khói như thế, không thấy được ngọn. Gian phòng mà Hùng và Mỵ đang đứng quẫy đuôi là một gian phòng rộng thênh thang, trần thiết bằng san hô, xà cừ, mã não, trân châu, hổ phách, nghĩa là tất cả mọi thứ khoáng sản đẹp đẽ nhất có thể tìm ra dưới đáy biển và trong lòng đất đá. Sát cạnh những bức tường pha lê, các loại cây rong lá dài vươn cao uốn éo xanh rờn trông rất mỹ lệ. Cung điện hoàn toàn lạnh ngắt. Hai người đi sang những gian phòng lớn khác, nhưng ở đâu cũng im lặng như tờ, ở đâu cũng trang trí cực kỳ diễm lệ. Tới gian phòng rộng rãi và mỹ lệ nhất, có lẽ nằm giữa cung điện, hai người thấy một chiếc ngai vàng lớn - lớn bằng cả một căn nhà của ngoại Mỵ - bằng cẩm thạch, trang trí rất hoa mỹ nhưng trên ngai cũng không có người. Mỵ nhìn Hùng, không nói. Chàng hội ý, ra đứng đối diện trước ngai, cung kính nói lớn: Đất quằn quại rên siết Nguồn sống đã cạn dần Con cháu về trước điện Xin Long Phụ hiện thân Giọng của chàng vang lên từng âm một dội rõ vang vào vách pha lê, dư âm vang dội suốt mấy tòa cung điện. Thoáng nghe có tiếng thì thào như gió thoảng. Nhưng rồi đâu đấy lại trở thành yên lặng. Hùng 36 | 04. Chuyến đi (II) đưa mắt nhìn Mỵ. Nàng ra đứng trước ngai, bên cạnh Hùng. Nhìn chú mục vào phía trước nàng cất cao giọng, đọc rành mạch ý nghĩ của nàng: Lạc Long Quân uy dũng Xin lắng lời cháu con Chúa Âu Cơ mong đợi Chúng con tuân lệnh Cái Mời Bố về cứu dân Bỗng nhiên hai người nghe có tiếng thở dài. Tiếng thở dài kéo dài thêm mãi, rồi biến thành tiếng gió thổi ù ù. Tiếp theo là những tiếng động lớn không biết từ phương nào đưa lại. Rồi thoạt nhiên Hùng và Mỵ thấy Lạc Long Quân hiện ra đứng sững trước mặt. Ngài có râu dài, mặt hồng hồng, hai mắt sáng quắc, mặc vương phục long cung thêu rồng, ngực đính toàn bằng ngọc mã não và hổ phách. Ngài đứng thẳng trước mặt hai người trẻ tuổi, cao lớn, uy phong lẫm lẫm. Nhưng hai người không sợ hãi, vì khi nhìn lên họ thấy Ngài có vẻ hiền lành và độ lượng. Thấy cái nhìn của Ngài hơi bỡ ngỡ, Mỵ nhìn Hùng gợi ý. Chàng con trai liền lấy trong túi viên bảo châu đưa ra. Lập tức hai người trở lại hình hài như cũ, bao bọc bởi một bầu không gian. Một nụ cười nở trên miệng Lạc Long Quân. Ngài bảo hai người trẻ tuổi, giọng dịu dàng: - Ta nghe tiếng của hai con thì đã biết hai con từ trên đất xuống. Ta hơi bỡ ngỡ vì thấy các con bơi lội được như loài thủy tộc. Viên ngọc kia, đúng rồi, ta đã có lần đưa cho mẹ. Các con có chuyện gì cần đến ta ? Tức thì Hùng và Mỵ kể hết mọi sự tình đã xảy ra trên đất, những đau khổ mà dân chúng phải chịu đựng về hạn hán và yêu quái, những khổ đau ly biệt, đã gây ra do sự thiếu ăn mà phải tản cư lên miền Bắc, cuộc hành trình của hai người từ trên đất xuống thủy phủ, và những viên thuốc mà công chúa thủy phủ đã cho để có thể bơi lội dễ dàng dưới nước. Nghe đến đấy, Long vương cười: - Lại con bé tinh nghịch ấy nữa. 37 | 04. Chuyến đi (II) Vua cầm tay hai người và dắt vào nội cung. Họ đi qua nhiều lớp cửa, đi ngang qua nhiều hành lang rộng, và cuối cùng đến một nơi có vẻ như là một sảnh đường dùng để tụ họp và tiếp khách. Ở đây có kê rất nhiều cẩm đôn, giường và sập ngự. Vua cầm lấy một bình ngọc rót ra một thứ nước hồng, đưa cho mỗi người một ly nhỏ và bảo hai người ngồi xuống bên giường ngự, gần Ngài: - Uống đi các con, đây là thứ thần tửu chế tạo bằng những hoa trái quý nhất dưới biển. Rượu này sẽ làm cho các con tỉnh táo lại. Hai người cung kính nâng cốc uống, và cảm thấy sảng khoái lạ kỳ. Rượu này hương vị và thần hiệu không thua gì tiên dược của bà chúa Âu Cơ. Công việc của ta dưới này bề bộn; thời gian trên đất lại đi mau hơn trước nhiều quá. Ta đã không ngờ. Các con đã thuộc về thế hệ thứ bảy mươi hai của giống người Lạc Long. Tiên nữ Âu Cơ là loài tiên, còn ta là loài rồng, cho nên trường sinh bất tử. Ta hận là đã không sắp đặt thật chu đáo trước khi ta về đây khiến cho thiên hạ bàng dân trên đó đã chịu bao nhiêu đau đớn khổ sở. Ta mệt vừa thiếp đi một giấc, ai dè là giấc ngủ của ta đã dài hơn sáu tháng trên mặt đất. Ta đã dặn dừng ai đánh thức ta dậy trừ con gái ta khi có chuyện cần thiết lắm. Các con đã gặp mặt Long Nữ Sitā rồi phải không? Tại sao nó không đánh thức ta cho mau lẹ? Rồi ngài lớn tiếng gọi: - Sitā, con! Công chúa thủy cung không đợi gọi đến lần thứ hai. Cô hiện hình thiếu nữ, có đủ hai chân như loài người và ngồi xuống một cẩm đôn đối diện với Mỵ, ánh mắt nhìn Mỵ tinh nghịch làm Mỵ cũng cười. - Con không dám đánh thức Long Phụ, bởi vì Ngài đã dặn chỉ đánh thức khi có việc cấp bách xảy ra giữa các loài thủy tộc. Với lại con biết có chị Mỵ. Chị có thể đánh thức phụ vương bằng giọng nữ, như đã dự định. 38 | 04. Chuyến đi (II) - Các con nghe đây. Bây giờ việc cấp bách là phải làm mưa trước đã. Nhưng ta chưa có một giọt nước nào thành ra trước hết phải trở lên đất tìm, thế nào cũng còn nước ngọt ở những con suối ẩn dưới mặt đất. Mỵ vội đưa bình nước suối bằng trái bầu khô ra. Long vương gật đầu, và tỏ ý hài lòng. Ngài uống một hớp nước trong bình, và uống như vậy đến ba lần, rồi bảo mọi người: - Các con hãy theo ta vào cung mây! Bốn người bước sang cung mây. Đây là một gian rộng, cột cẩm thạch rất nhiều và cao, cao khuất trong một lớp sương dầy đặc. Long Vương niệm chú lầm thầm, từ miệng Ngài một tia nước phóng thẳng lên trên trần mây thăm thẳm ấy. Bỗng nghe tiếng lao xao nổi dậy, mây cuộn trên cao từng lớp dầy đặc. Long Vương đưa tay vẫy nhẹ. Từng đám mây lớn thoát và lách qua khỏi cung mây ra ngoài. Cứ như thế, mây đen tuôn ra không ngớt từ cung điện. Long Vương đưa cánh tay dài thẳng phía trước, bảo ba người mỗi người vịn một tay lên cánh tay Ngài. Ngài đưa ba người bay khỏi thủy cung. Phút chốc họ đã trồi lên mặt biển. Long Vương rút một chiếc giày thả xuống nước. Giầy biến thành một chiếc thuyền rộng. Cả bốn người bước lên thuyền. Mặt trời khuất đâu đó dưới màn mây đen nghịt. Trời chuyển động. Có tiếng sấm nổ; có tia chớp lóe lên… Trên thuyền Long Vương biến mất, nhưng trên mây có sự chuyển động dồn dập. Một tiếng sét lớn, mưa bắt đầu rơi xuống xối xả. Một lúc sau, Mỵ thấy Long Vương hiện trở lại ngồi trên thuyền. Rồi thuyền đi rất nhanh dưới cơn mưa lớn. Bốn người ai cũng để cho mưa rơi ướt áo, ướt đầu. Long Vương cũng vậy. Hiền giờ Ngài đã hiện ra thân hình bình thường, với y phục đơn giản của một ngư dân trên mặt đất… Khi thuyền của bốn người đi tới gần bờ thì mưa đã tạnh. Long Vương bảo ba người rằng mưa như thế là đã quá đầy đủ. Thuyền đi tới gần hang ngư tinh, thì bỗng nhiên sóng gió nổi dậy, mùi xú uế nổi lên 39 | 04. Chuyến đi (II) kinh khiếp. Long Vương niệm chú, bảo Thủy Dọa Xoa làm cho sóng lặng. Thuyền của bốn người thản nhiên vượt tới. Hùng nhận thấy cảnh vật ở đây có thay đổi lớn, không giống như hồi sáng. Nhiều tảng đá lớn bằng nóc nhà trên ghềnh đã được tháo ra chồng lên trên núi từ bao giờ. Một con kinh núp bão đang thực hiện lỡ dở, gần hoàn thành. Nếu con kinh này hoàn thành, ngư dân sẽ có đường đi tắt, vừa tránh được gió bão, vừa khỏi phải đi ngang hang ngư tinh. Bàn tay của ai mà hùng mạnh có thể tháo gỡ được những tảng đá lớn như thế kia mà chồng lên núi trong vòng một buổi sáng? Chàng còn đương suy nghĩ thì bỗng thấy ngư tinh xuất hiện. Lần này ngư tinh hiện ra rất lớn, mình dài hơn năm mươi trượng, hai bên mình có nhiều chân giống như một loài rết, miệng há ra với những hàm răng nhọn hoắc kinh khiếp. Ngư tinh vùng vẫy khiến cho sóng gió nổi dậy ầm ầm, nhưng chiếc thuyền của bốn người vẫn bình thản từ từ đi tới. Đến gần ngư tinh, Lạc Long Quân, trong hình dáng ngư dân, bình thản đứng dậy. Ngài ôm ngang hông long nữ Sitā, và làm như sắp liệng nàng vào miệng yêu quái đã mở rộng. Công chúa long cung không hề sợ hãi và không hét lên tiếng nào hết. Bỗng một khối sắt nướng đỏ lớn như cái trống đồng từ tay long vương được liệng ngay vào miệng cá tinh. Cá vùng vẫy nhảy đến định lật úp thuyền. Long Vương hiện hình to lớn, cầm gươm thần chém ngang lưng cá. Một khúc đuôi dài tới khoảng mười trượng đã được cắt đứt. Yêu tinh trông thấy long vương thì không dám chống cự. Nó biến thành một con hải cẩu chạy trốn xuống vũng sâu. Long vương dùng tay gỡ từng tảng đá lớn ném xuống vũng sâu… Ngư tinh phải trồi lên. Long Vương chém đứt đầu chó biến. Trừ xong yêu quái, Long Vương vớt khúc đuôi dựng lên trên đỉnh núi, cầm khúc đầu liệng vào ghềnh đá. Khúc mình của yêu quái đã trôi từ từ vào vịnh Man Cầu. Bốn người lên bộ. Mặt trời chiếu rạng rỡ trên cảnh vật. Mưa đã tạnh. Đồng lúa đã lên xanh. Cỏ non trên đồi đã xanh um như lá mạ. Có tiếng trống nhịp 40 | 04. Chuyến đi (II) từng hồi rộn rã xen trong tiếng kèn, tiếng sáo, tiếng giã gạo và tiếng reo hò. Bốn người tìm tới phía những tiếng vui nhộn đó. Khắp ngư thôn, nam phụ lão ấu ra đứng đầy đường. Trẻ con mặc toàn áo mới. Những hương án được đặt ra rải rác trên đường, trầm đốt xông lên thơm ngát. Mỵ dừng lại hỏi một bà mẹ đang nhìn hai đứa trẻ của mình tung tăng nhảy bên bờ cỏ mướt: - Hôm nay là ngày gì mà vui vậy thưa bác? Thiếu phụ tỏ vẻ ngạc nhiên nhìn nàng: - Cháu không biết hay sao? Cháu ở đâu mới đến đây? Hôm nay thế nào đức Lạc long cũng về nên dân chúng họp nhau nhảy múa, ca hát và đặt hương án trên dường chào đón Ngài. Hồi sáng sớm tinh sương, có sứ giả bà Chúa Âu Cơ gởi về thủy phủ. Trưa hôm nay đức Long Quân đã làm mưa. Ngài chắc chắn sẽ về ngang qua đây. Các cháu hãy lên đồi mà xem múa hát. Vừa nói thiếu phụ vừa chỉ tay lên ngọn đồi gần đó. Bốn người thấy dân chúng tụ họp đông đảo trên đồi. Tiếng hò tiếng hát cùng tiếng kèn tiếng trống vẳng lại từ trên ấy. Mỵ cám ơn thiếu phụ. Bốn người thong thả theo con đường đưa lên đồi. Long Nữ Sitā có dáng mừng rỡ của một đứa bé được đi xem hội. Nàng nói: - Trên đất vui quá đi thôi ! Long vương bảo: - Chúng ta không nên ở lâu nơi đây vì sợ bác ngư phủ hồi sáng sẽ nhận ra Hùng và Mỵ và như vậy sẽ phải ở đây suốt đêm hôm nay với dân nàng. Phải về làng Hạc Trắng sớm. Các con hãy xem hội sơ qua rồi đi. Hùng với Mỵ hóa trang lại một chút. Ngài đưa tay vuốt tóc ba người. Hùng, Mỵ và Sitā thoạt biến thành những đứa bé nhà quê. Những đứa bé nhà quê đi theo một người Bố ngư dân lên đồi dự hội. Họ đi xuyên qua đám người hân hoan. Tiếng trống đồng vang dội. Những vũ công mang những chiếc vòng đồng 41 | 04. Chuyến đi (II) sáng loáng ở cổ tay và cổ chân, đầu đội mũ có trang điểm những chiếc lông chim hạc trắng toát. Những vò rượu nếp có cần dài được đặt nơi hàng ghế danh dự của các hàng bô lão. Sân khấu dựng ở trung tâm, trang trí bằng lá dừa, bằng những dây bông đá quấn thành hình rồng, và bằng lông chim kết thành hình chim Lạc. Tới đâu Long Nữ Sitā cũng xuýt xoa. Bốn người lên đường đi Bạch Hạc khi trời đã xế chiều. Sau trận mưa lớn, mọi loài đều được thấm nhuần ơn đức. Đất nước đẹp quá. Hùng và Mỵ nhìn mà thấy lòng tràn ngập hân hoan. Long Vương nhìn cảnh vật, nhìn đàn con trẻ và mỉm cười. Ngài khoác trên mình một mảnh vải đơn sơ như mảnh áo vải của những ngư dân mà ngài vừa gặp. 42 | 04. Chuyến đi (II) 05. Văn Lang Khắp nơi trong xứ, dân chúng treo đèn kết hoa để chuẩn bị đón mừng vương quốc mới và hoàng đế mới. Người ta biết vương quốc mới sẽ lấy tên là Văn Lang và vị hoàng đế chính thức đầu tiên của họ là Hùng Vương, do toàn dân suy tôn. Lễ đăng quang của vua Hùng sẽ được chứng kiến bởi cả tiên mẫu Âu Cơ và Long Phụ Nāgajāra. Khắp nơi, dân chúng mở hội từ mười hôm trước lễ đăng quang. Tiếng trống đồng và tiếng múa hát vang dậy. Dân chúng được mùa, thóc lúa đầy bồ, cá tôm đầy thuyền ăn không hết. Rượu nếp đã được cất rất nhiều để dành cho những ngày đại hội. Ngày đăng quang của vua Hùng còn đánh dấu một sự thay đổi lớn trong chế độ gia tộc: chế độ mẫu hệ được chuyển thành chế độ phụ hệ. Từ nay con sẽ lấy họ cha, và người con gái sau đám cưới thì về ở nhà chồng. Người mẹ Tiên nữ và người cha Long Vương của dân tộc đã đề ra mẫu mực cho sinh hoạt toàn dân: nước Văn lang cũng như người Văn lang phải đẹp và hiền. Đẹp tức là sáng tỏ, bỏ thói thô bạo, tạo nên nếp sống thuần nhã, tươi sáng, văn minh. Như vậy gọi là Văn, con Lang nghĩa là hiền hậu, nhân từ bỏ những hành vi cường bạo, độc ác. Văn Lang, cái tên vương quốc mới lạ và đầy đủ ý nghĩa làm sao. Vì chế độ mẫu hệ được đổi ra chế độ phụ hệ, nên vua sẽ được gọi là Hùng Vương chớ không phải Lạc Vương. Nghe đâu Hùng Vương hồi còn trẻ đã từng đi xuống thủy cung để đón đức Long Vương về làm mưa cho thế gian. Ai cũng từng nghe tiếng con người quả cảm và thông minh này. Đó là người lãnh đạo vương quốc của họ, là người dòng giống chính thống con rồng cháu tiên, được cả Long Phụ, Tiên Mẫu và cả dân chúng Phong Châu tin cậy. Hoàng hậu vốn là một cô gái con nhà nghèo tên Mỵ, đã từng giúp vua trong chuyến đi về thủy phủ. Bây giờ lên làm hoàng hậu, mọi người đều gọi nàng là Mỵ. Có người lại gọi nàng là nàng Mỵ, hay là Mỵ Nương, để tỏ vẻ tôn quí. 43 | 05. Văn Lang Từ nay, con cháu sẽ lấy tên của cha. Ngày xưa Âu Cơ đã thường lấy tên hoa cỏ, sông núi để đặt tên cho một trăm đứa con đầu: Sơn, Thủy, Mai, Lê, Đào, Lý, vân vân; một trăm con thoát thai từ trăm trứng đã có một trăm tên khác nhau. Bây giờ đây, những tên đó trở thành họ, tiêu biểu cho phụ hệ, và nước Văn Lang có tới trăm họ truyền nối đời đời. Thành Phong Châu xây ngay ở thôn Bạch Huệ, quê hương của Hùng và Mỵ, nơi có cây chiên đàn cao tới ngàn tầm, đọt lá khuất trong mây. Ở phía nam ngoại ô thành; có một nhà trí thức họ Lưu. Ông là một trong những người sốt sắng muốn làm sáng tỏ chủ trương văn hóa của Long Vương và Âu Cơ. Họ Lưu là người giao thiệp rộng, biết nói và biết viết tới bốn thứ tiếng. Đó là tiếng của người phương Bắc sống phía bên kia bờ biển Động Đình, tiếng của người phương Nam ở nước Hồ Tôn Tinh, tiếng của người phương Tây ở nước Lão Qua và tiếng Phạn của những người từ Tây Vực sang buôn bán bằng thuyền buồm. Họ Lưu cũng là giáo sư của trẻ em trong châu quận. Khách khứa và học trò của ông thường nhìn ông và tỏ vẻ khâm phục, mỗi khi nghe ông ngồi nói chuyện bằng tiếng ngoại quốc với những người tới từ phương xa. Họ đồn ông có viên ngọc quý của vua Hùng ban cho nên có thể nghe, hiểu và nói được tiếng người nước ngoài. Trước lễ đăng quang một hôm, giáo sư họ Lưu tiếp một người khách quý. Đó là một vị Quan Lang con nuôi của vua Hùng, được vua ban cho họ Cao. Họ Cao có hai người con trai tuấn tú, tên là Cao Tân và Cao Lang, là anh em sinh đôi, giống hệt nhau, chỉ có cha mẹ hai người mới phân biệt được dễ dàng. Hai chàng đã lên mười bốn tuổi, và họ Cao rất muốn hai con được theo đòi văn học. Hai chàng cùng theo cha đến trình diện giáo sư họ Lưu ngày hôm ấy, và đã được nghe câu chuyện rất say mê giữa những người lớn. Tân nghe giáo sư Lưu nói với cha mình như sau: - Chuyển sang chế độ phụ hệ, cũng hay. Người đàn ông nhiều sức lực, tháo vát và thường hay bình tĩnh, nên có nhiều khả năng bảo vệ gia đình hơn. Ngài Quan Lang hãy xét xem, bà 44 | 05. Văn Lang chúa Âu Cơ tuy rằng trong mấy trăm năm qua là chúa tể của vương quốc, nhưng sự thực bà đã trao hầu hết trách nhiệm cho những người nam nhi tuấn tú xem sóc bảo vệ nhân dân. Thiếu mặt đức Lạc Long Quân, là một sự thiếu thốn quá lớn, nếu trong vương quốc không có một vị hoàng đế như vua Hùng. Mà đức Long Quân đâu có thể ở mãi trên đất; lãnh thổ của ngài là ở dưới biển. Biết bao nhiêu công việc còn chờ đợi ngài dưới đó. Chính đức bà Âu Cơ cũng không thể ở mãi trong xã hội nhiều tiếng động và bụi bặm của nhân quần. Bà là cốt tiên, cho nên bà cứ có khuynh hướng trở lên ẩn cư trên những đỉnh núi, nơi cảnh trí nước non mỹ lệ diệu kỳ không kém cảnh trời quê hương của bà là mấy. Trên những đỉnh núi thanh tịnh, có hoa, có tuyết, có suối, có động ấy, bà ưa tiêu dao với những con người con cháu đã có cùng một khuynh hướng siêu thoát. Bà chỉ về Bạch Hạc khi có những chuyện cần thiết nhất. Tôi được nghe kể lại là có một đêm kia, nghe tin ngư dân bên bờ Đông Hải bị một con yêu quái sát hại, bà đã xuống tới biển cùng với năm bảy người tiên mà bà đã cầu được từ thượng giới. Bầy tiên theo sự yêu cầu của bà, đã ra tay tháo những tảng đá lớn to bằng nóc nhà ở đầu nghềnh, chồng lên đỉnh núi, mở một con kinh để cho thuyền ngư dân tránh sóng gió và khỏi đi ngang qua hang yêu tinh. Công việc sắp xong thì ngư tinh biết. nó hóa thành một con gà trắng, gáy lên. Chư tiên nghe tiếng gà gáy tưởng là trời đã sáng, liền bay lên trời hết, bởi họ không được phép lưu lại hạ giới ban ngày. Nghe nói thuở khai thiên lập địa, một lần chư tiên có xuống ban ngày; nhưng từ khi bà Âu Cơ bị đọa vì ăn nhằm đất mới, chư tiên chỉ có thể xuống lén ban đêm. Con kinh được khai thông nửa chừng phải bỏ dở. May thay, sau đó đức Long Quân đã trở lên, giết được yêu quái. Nay con kinh vẫn còn đó và gọi là “Kinh Tiên Đào”. Đấy, ngài Quan Lang hãy nghĩ xem. Dân mình phải tự lập lấy, không thể ỷ lại nơi cha mẹ tiên rồng mãi. Các vị là những kẻ bất tử, còn chúng ta thì lại có sinh có diệt. Ngài Quan Lang thường 45 | 05. Văn Lang thân cận đức vua Hùng, có nghe ngài nói về chuyện này hay không? Vị Quan Lang họ Cao gật đầu: - Tôi nghe nói chuyện này rất rõ. Đầu đuôi cũng do phụ vương Hùng tôi kể lại. Ngài nói rằng, một hôm đức bà Âu Cơ và đức ông Lạc Long ngồi bàn việc nước, ngài có được tham dự. Đức bà nói: “Long Quân xin hãy ở lại với thường với chúng dân, đừng về thủy phủ hoài để mẹ con ta trông nhớ”. Đức Long Vương trả lời: “Ta thuộc loài rồng, ở chốn thủy cung; nàng là giống tiên, ở nơi thiên cung; nguồn gốc chúng ta rất là khác biệt, nhưng kết quả của tình yêu chúng ta thì rất là đẹp đẽ. Tuy nhiên vì nguồn gốc khác nhau đó, ta và nàng không thể ở chung hoài được, điều đó, lâu nay thường thấy rõ. Nàng là cốt tiên nên ít chịu đời sống náo nhiệt, bụi bặm, thường ưa chọn cảnh sơn lâm, tạo nên non Bồng nước Nhược mà tiêu dao tự tại. Còn ta vì có cốt rồng cho nên phải trở về thủy giới lo cho công việc của người chăn dân. Vậy nên ta phải khuyên con cháu tự lo lấy vận mệnh của chúng; còn chúng ta, chúng ta chỉ có thể thỉnh thoảng tới lui để giúp đỡ và bảo vệ mà thôi”. Một hồi sau, đức Long Vương nói tiếp: “Các con cháu của chúng ta, vì nhận chịu hai nguồn gốc tiên và rồng, nên tính khí của chúng cũng không đồng… có đứa thì ưa miền núi non cao nguyên ít náo động, có đứa thì lại chuộng miền sông biển, hoạt động không ngừng. Vậy ta nghĩ rằng trong dòng họ của trăm đứa, những ai có tính khí chuộng yên tĩnh thì trấn cư miền núi non và cao nguyên; còn những ai có tính khí chuộng hoạt động sông hồ thì về ở miền biển và hạ nguyên. Nàng để mắt phía núi, ta để mắt phía biển. Tuy tạm phân ra như thế nhưng không phải chia rẽ; ai muốn lên núi hay xuống nước tùy ý, có việc phải cùng nghe nhau, bàn chung với nhau, giải quyết cùng nhau, thân thiết không được bỏ nhau. Vị Quan Lang nói tiếp: 46 | 05. Văn Lang - Chính vì quyết định ấy nên mới có sự thành lập vương quốc mới mà kinh đô đặt tại Phong Châu, có thể gọi là nơi môi giới của hai miền núi nước, và vua Hùng mới được nhân dân suy tôn lãnh đạo vương quốc. Tôi rất am tường cách thức vua Hùng tổ chức triều đình. Vua nói rằng dù đã tổ chức theo phụ hệ, nhưng phải giữ mãi dấu hiệu chim Lạc để nhớ đến nguồn gốc tiên bên mẹ. Do đó, những tướng văn đều được gọi là Lạc Hầu, chọn trong những anh em thông minh nhất. Còn võ thì gọi là Lạc Tướng trong số những anh em vũ dũng nhất. Tôi không hiểu sao vua Hùng chưa mời bác vào những Lạc Hầu của triều đình nhỉ, bởi vì bác cũng thuộc về hạng tài ba lỗi lạc nhất nước… Vị giáo sư họ Lưu khiêm nhượng: - Vua Hùng không mời tôi là phải đấy, thưa ngài Quan Lang. Bởi tính tôi lười, chỉ biết dạy học, không ham trị nước. Với lại tôi nghĩ dạy học cũng là một cách dựng nước, thưa ngài. Thì cố nhiên công việc giáo dục con em quan trọng lắm rồi. Nếu không tôi đâu có dám đường đột tìm tới hôm nay. Để tôi nói tiếp chuyện tổ chức triều đình hầu ngài nghe. Tôi kể đến đâu rồi nhỉ? Phải rồi, quan văn thì gọi là Lạc Hầu, quan võ thì gọi là Lạc Tướng. Những hoàng tử con trai của vua thì gọi là Quan Lang; tôi là con nuôi nhưng cũng được lạm nhận danh nghĩa ấy - các công chúa con gái vua đều được gọi là Mỵ Nương, đó là theo ý muốn của hoàng hậu. Còn các quan làm việc ở Hữu ty thì gọi là bố chính. Vua gọi chức vụ thần tử là khôi, một cách thân mật, lấy cớ là tất cả đều anh em trong một nhà. Tôi thấy hai thánh và vua Hùng sắp đặt như vậy thật là hoàn hảo. Tôi hâm mộ tiêu chuẩn Văn Lang, và muốn góp sức phần nào xây dựng kỷ cương của vương quốc mới. Này hai cháu, con của ngài Quan Lang, ở ngay trong thành Phong Châu này thì cũng gần, khỏi cần phải ở lại học xa. Hai cháu cứ sáng đến chiều về cũng đủ theo học được rồi. Ngài Quan Lang đừng lo ngại. 47 | 05. Văn Lang Tôi có một cháu gái cũng trạc tuổi hai cháu, tôi cũng muốn cho cháu học chữ nghĩa. Biết đâu sau này nó lại không giúp nước giúp dân được. Để tôi gọi nó lên chào ngài Quan Lang. Thảo ơi, lên rót nước mời khách quý của bố đi con. Từ phía sau rèm, một thiếu nữ đoan trang và thùy mị bước ra. Tóc nàng đen huyền buông xuống quá vai. Dáng người nàng thanh nhã; da nàng trắng như tuyết, hai mắt đen lay láy. Thiếu nữ cúi chào mọi người rồi thoăn thoắt đi soạn ra trước khách những cái chén uống nước màu đất hồng. Thấy hai người con trai thanh tú giống nhau, trang phục cũng y hệt như nhau, nàng ngạc nhiên nhìn lâu một lúc. Khi mắt nàng chạm mắt của hai người, nàng e lệ nhìn xuống. - Con gái của bác đây, phải không? Thật là xinh quá đi mất. Không hổ tí nào với cái nguồn gốc tiên rồng của cháu. Vị Quan Lang nói thế rồi nâng tách trà lên uống, trong khi nàng thiếu nữ thẹn thùng đứng nhìn xuống đất, bên cạnh cha nàng. Ông giáo sư họ Lưu âu yếm nhìn con: - Ngày mai, thế nào con cũng được đi xem lễ đăng quang của vua Hùng. Nước có vua, như nhà có nóc ! Thế nào ngày mai thiên hạ khắp nước lại không mở hội suốt cả ngày đêm! Tôi rất mong được thấy giờ phút vua Hùng ngồi lên ngài vàng, sau khi đã được hai Thánh đội cho vương niệm có đính hình chim Lạc. Vị quan lang đứng dậy cáo từ: - Rồi bác sẽ thấy chiếc ngai vàng chạm rồng. Thật là đẹp hết chỗ nói. Nhưng mà trong một cái lễ đăng quang như thế, nếu đức Long Vương hiện hình rồng vàng phía trên cao thì dân chúng mới thật là hả hê đấy, có phải không ông giáo sư? Thôi chúng tôi xin cáo từ. Chào giáo sư đi hai con, chúng ta còn phải về sửa soạn để ngày mai đi dự hội nữa chứ ! Sau khi tiễn khách ra khỏi cổng trúc, giáo sư họ Lưu trở vào, nét mặt tươi như hoa. Ông lẩm bẩm: “Đức Long Quân hiện hình rồng vàng trên trời, ngay trên ngai vàng của hoàng đế! Tại sao lại không có 48 | 05. Văn Lang chuyện đó được? Mình muốn gì thì mình cứ nói, nói lớn lên, thế nào cũng được toại nguyện, chứ sao?” Thấy bố hân hoan như một đứa trẻ con, nàng thiếu nữ có tên là Thiên Thảo mỉm cười một mình. 49 | 05. Văn Lang 06. Nồng mặn Đã hơn bảy ngày nay, Thiên Thảo đi tìm chồng. Tân đã bị biệt tích từ hai tuần lễ. Trời nắng chang chang. Đôi dép cỏ của nàng đi đã rách nát không còn dùng được nữa. Đôi chân nàng đi trên con đường nhiều sỏi đá đã sưng vù lên. Mỗi bước chân đi trở nên một cực hình. Mồ hôi nàng đã vã ra như tắm. Tóc nàng bết xuống mặt. Hành trang của nàng gồm có một tay nải xách thức ăn và một chiếc nón lá. Không buồn ăn uống, nàng đã liệng chiếc tay nải. Bây giờ nàng chỉ còn lại mỗi chiếc nón lá để che đầu. Thiên thảo ghé vào bên đường, dưới bóng một cây sung già, ngồi nghỉ trên một tảng đá. Nàng thở hổn hển. Thân thể nàng rã rời, nàng không còn đủ sức lực để phe phẩy chiếc nón trên mặt cho bớt nóng. Linh tính báo cho nàng biết rằng tất cả những gì nàng đã nghĩ sẽ xảy ra giống in như hệt. Những gì đã xảy ra cho Tân chồng nàng, và những gì đã xảy ra cho Lang, người em trai của chồng mà cả hai vợ chồng đều yêu mến. Lang đã bỏ nhà ra đi trước. Sau đó mười hôm, Tân cũng bỏ nhà đi tìm. Và bây giờ đây, đến lượt Thiên Thảo bỏ nhà đi tìm chồng, cũng mười ngày sau khi chồng ra đi. Nàng nhớ lại những ngày Tân và Lang còn là học trò thường đến học ở nhà nàng. Cha nàng là ông giáo sư họ Lưu. Ông giáo dạy một lớp hai mươi bốn người, trong đó chỉ có nàng là gái. Tân và Lang là anh em, giống nhau như hai giọt nước, dù Tân lớn hơn Lang một tuổi. Hồi đó, giữa nàng và hai chàng chỉ có tình bạn học đằm thắm. Họ học hành, đàm luận và cười nói với nhau tự nhiên như con một nhà. Lúc đầu thật khó mà phân biệt được ai là Tân và ai là Lang. Hai anh chàng luôn luôn mặc một thứ áo, cắt một kiểu tóc. Một hôm trời mưa, Tân và Lang lại không về, Thiên Thảo dọn 50 | 06. Nồng mặn cháo cho hai bạn. Nàng múc cháo ra hai bát, nhưng nghịch ngợm chỉ mang ra một bát và một đôi đũa trên mâm. Nàng đặt mâm xuống bàn, và đi vào bếp nhìn qua khe cửa lên nhà trên. Nàng thấy một chàng nhường cho chàng kia ăn trước. Nàng biết người ăn trước là anh, liền mang ra một bát cháo và một đôi đũa nữa cho người em. Nhân dịp đó, nàng quan sát kỹ lưỡng, và nhận thấy một dấu hiệu khác nhau giữa hai người. Chỉ có Lang, người em mới có một nút ruồi nhỏ xíu nơi trái tai bên phải. Ngoài ra, nàng không tìm ra được điểm nào khác nhau nữa về hình thức. Thiên thảo bằng lòng với sự khám phá của mình. Nàng thường hay làm cho cha và các bạn học phục lăn vì tài phân biệt của nàng. Cuốn vở làm văn của Tân không bao giờ nàng phát cho Lang. Mỗi khi Tân hoặc Lang vào lớp nàng chào họ bằng tên, trong khi ai cũng còn bỡ ngỡ không biết đây là người anh hay người em thuộc cặp anh em ngộ nghĩnh đó. Dần dần Thiên Thảo khám phá thêm được rằng Tân thì vui cười hoạt động còn Lang thì hơi đăm chiêu và mơ mộng. Lúc khám phá ra điều này, nàng có thể nhìn vào mắt mà khám phá ra được rằng ai là anh ai là em, không cần phải nhìn vào trái tai bên phải nữa. Cả đến những buổi chạng vạng tối trời, lúc nhà chưa thắp đèn, nghe giọng nàng cũng có thể phân biệt được. Thật ra, giọng hai người rất giống nhau, sở dĩ Thiên Thảo phân biệt được đó là nhờ nàng đọc được tánh tình của mỗi người trong giọng nói. Cuộc đời học trò đi tới với bao nhiêu trao đổi, mơ mộng và dự đoán. Cho đến một hôm, nàng nhớ đó là một ngày đầu năm, khi Tân và Lang theo lệ đến mừng tuổi giáo sư Lưu, thì nàng biết Tân yêu nàng. Làm sao mà biết? Nàng không thể cắt nghĩa được. Duy có một điều chắc chắn là hôm đó nhìn và mắt Tân nàng biết chắc người con trai ấy đã đem lòng yêu dấu nàng. Còn Lang? Nàng đã choáng váng vì cái nhìn của Tân nên không còn bình tĩnh để nhận xét phản ứng của Lang nữa. Rồi một hôm thân phụ và thân mẫu Tân đem muối đến làm lễ hỏi nàng cho Tân. Cha mẹ nàng nhận lời, nàng tiếc gia đình không còn theo chế độ mẫu hệ để Tân đến ở luôn nhà nàng và để nàng khỏi phải 51 | 06. Nồng mặn xa lìa cha mẹ. Ngày đón dâu, nàng khóc hết nước mắt. Lang đi làm phù rể bên Tân, chàng mặc một chiếc áo màu khác với mầu đọt chuối của Tân. Thảo về ở nhà chồng. Nàng nhận thấy hai anh em thương quý nhau rất mực. Điều này làm cho nàng càng quý chuộng Tân và Lang. Ít khi nào có một cuộc vui như du ngoạn, thưởng trăng, uống trà, đi ngựa hay đánh cờ mà Tân chỉ đi riêng với nàng. Luôn luôn chàng mời em cùng đi. Còn Lang thì nhiều khi vì muốn cho hai vợ chồng có phút giây riêng tư, nên chàng hay từ chối. Tuy nhiên, với Tân, ít khi nào Lang từ chối được. Lang chiều theo ý anh, và cố tình làm ra vẻ say mê những cuộc vui trong đó có mình tham dự. Nhưng lắm khi chàng ao ước được ngồi riêng một mình; chàng ao ước có sự cô đơn, một sự cô đơn bề ngoài có thể xét ra là trống lạnh nhưng thật ra rất ấm áp với chàng. Chính sự cô đơn ấy mà chàng cần có; nhưng Tân vì thương em lại không bao giờ muốn cho em cô đơn. Thành ra nhiều khi cuộc vui trở thành giả tạo. Thiên Thảo rất tinh ý về điều này. Nàng nhận thấy có một chút gì bất ổn. Nàng bàn riêng với chồng nên để cho Lang có những giây phút cô đơn của chàng. Nhưng Tân ít tế nhị hơn; chàng ngắt lời nàng, và cho rằng tình huynh đệ sâu sắc của hai chàng bảo đảm sẽ không có chuyện gì xảy ra một cách đáng lo ngại. Thảo không đồng ý với chồng, nhưng nàng không dám ép quá. Điều làm nàng lo sợ hơn hết là một sự khám phá mới: Lang cũng yêu nàng. Một tình yêu âm thầm chứa trong lòng có sức nóng của một trái núi lửa, nhưng bên ngoài thì có vẻ lạnh nhạt. Không ai hay biết điều này. Chỉ trừ một người có nhận thức tinh tế không ai có được. Người ấy là Thảo. Một hôm Lang cười nói với anh là muốn làm nhà riêng trên núi, tiêu diêu thoát tục, trồng rau trồng hoa, và làm thơ ca tụng cuộc đời. Nhận thấy tất cả sự tình, Thảo mong ước chồng tán thành ý kiến đó. Nhưng lại vì tình thương gắn bó, Tân không muốn rời em, không cho phép em đi. Một buổi chiều nhá nhem, khi anh em đi thăm đồng ruộng trở về, vì không may mà thảo đã vô tình phạm lỗi lầm tai hại. Trong bóng chiều, thấy Lang bước vào nàng tưởng là chồng, đưa hai tay ôm lấy chàng. Lang tháo gỡ ra khỏi vòng tay Thảo. Trong lúc ấy thì Tân về tới. 52 | 06. Nồng mặn Sáng ngày mai, sau khi ăn cháo sớm, Lang nhìn anh và nhìn thảo, nói rằng sẽ đi chơi một mình một ngày dài cho thoả chí. Chàng cười trong khi nói câu ấy. Nhưng Thảo thấy nụ cười kia buồn bã làm sao. Nàng đã trao hết tình yêu cho Tân, nàng là người vợ trọn vẹn của Tân, nhưng nàng xót xa cho Lang quá, bởi tình bạn hữu của nàng đối với Lang cũng thân thiết quá. Lang đi, rồi Lang không về. Mười ngày trôi qua, mười ngày trôi qua không có tin tức. Đến lượt Tân bỏ nhà đi tìm em. Chàng bắt đầu thoáng thấy một sự thực chưa bao giờ chàng ngờ tới. Chàng lấy làm lo sợ. Tân đi, và mười ngày nữa lại trôi qua. Không có tin tức. Mười ngày trôi qua trong nỗi khắc khoải và lo sợ của Thảo. Đến lượt nàng khăn gói đi tìm chồng. Nàng đã theo con đường mà chồng nàng đã đi hôm trước, con đường đưa đi tới của Nam thành Phong Châu. Khi ra khỏi thành, nàng thấy con đường rẽ làm hai chiều, một chiều lên núi, một chiều xuống biển. Nàng lưỡng lự rồi chọn con đường lên cao nguyên. Ngồi nghỉ một lát trên phiến đá, nàng lại đi. Đi mãi cho đến khi trời ngả hẳn về chiều. Hai chân nàng rướm máu. Nàng có linh cảm rằng chính trên con đường này Tân và Lang đã đi qua, và nàng can đảm xé vạt áo buộc bàn chân lại để đi cho bớt đau. Nhưng kìa, trước mặt lại là một con sông chảy ngang, nước xoáy cuồn cuộn. Trời chiều, màu trời tím ngắt, nước sông cũng tím thẫm. Có lẽ, vì hoàng hôn đã xuống nên không còn thấy bóng một chiếc đò ngang nào. Nhìn qua bên kia xa tắp, nàng chỉ thấy mịt mờ sương khói. Bên này bờ, lá cành xào xạc. Chim bay trên đầu nàng, kêu rối rít. Trời đã sắp tối. Đêm nay có lẽ nàng phải ngủ bờ ngủ bụi bên dòng sông. Bỗng nàng thấy thấp thoáng qua cành lá một ngôi nhà sàn nhỏ cách chỗ nàng chừng vài trăm trượng, đứng bên này bờ sông. Nàng đứng dậy, lần đi tới căn nhà đó để cầu xin ở lại một đêm. 53 | 06. Nồng mặn Gió bỗng nhiên thổi mạnh. Lá khô và bụi đất bay rạt rào và mịt mù bốn phía. Nhìn lên nàng thấy mây đã phủ đen nghịt. Một làn chớp giật. Trời sắp có cơn giông bão lớn. Nàng leo lên chiếc cầu thang, gọi cửa. Người mở cửa cho nàng là một thiếu phụ chừng bốn mươi. Người đàn bà này nhìn nàng bằng cái nhìn kỳ lạ, nàng không thể nào hiểu nổi. Thiếu phụ dắt tay nàng vào trong, cất nón cho nàng, bà bảo nàng ngồi nghỉ chân chiếc chõng tre dài, gia đình thiếu phụ đang ăn bữa cơm chiều trên sàn nhà có trải chiếu cói. Nàng nghiêng đầu làm lễ người nông dân miền cao nguyên rồi ngồi xuống chõng tre, nhìn đứa bé kháu khỉnh đang há miệng để bố nó gắp thức ăn đút cho nó. Thiếu phụ lấy thêm một cái bát và một đôi đũa, nhưng Thảo thấy mệt quá không thể nào ăn được, liền lễ phép khước từ. Tuy nhiên, nàng nhận bát nước vối còn nóng của thiếu phụ đưa ra và thong thả nâng bát uống từng ngụm nhỏ. Mưa đã tuôn xuống rào rạt bên ngoài và gió tiếp tục thổi mạnh. Nàng nghe tiếng gầm thét của đất trời, lắng nghe điệu nhạc uy hùng của mưa bão, thấy rằng cơn vũ bão của thiên nhiên làm dịu được cơn vũ bão của lòng mình, diễn tả được những đau xót khôn cùng của lòng mình. Nhà đã thắp đèn. Đĩa đèn dầu phụng hai bấc soi quanh căn nhà một cách yêu ớt. Đứa bé đã được mẹ nó đưa vào nôi. Một giọng ru hời dìu dịu, khuất trong tiếng mưa gió. Thiếu phụ trở ra. Ba người ngồi bên đĩa đèn dầu nói chuyện: - Hai anh chị có thấy cách đây chừng mười hôm một người đàn ông dáng học trò, mình mặc áo xanh, đi nang qua vùng này không? Em đang đi tìm người ấy. Vợ chồng bác nông dân trẻ không ai vội trả lời. Bác trai nhìn Thảo – ôi cái nhìn giống hệt cái nhìn kỳ lạ hồi nãy của người vợ - Thảo cảm thấy hoảng sợ. Nàng hỏi dồn dập: - Sao, anh chị có thấy không? Thấy không? 54 | 06. Nồng mặn Bác nông phu chậm rãi: - Có, chúng tôi có thấy. Không những chúng tôi thấy người đàn ông mặc áo xanh, mà trước đó chúng tôi đã thấy một người đàn ông khác, cũng dáng người y như thế, nhưng lại mặc áo trắng. Trời mưa gió lắm, thím cứ ở lại đây nghỉ; sáng mai sớm nên quay về thì hơn, chúng tôi chắc thím chẳng tìm được hai người đâu. Nghe những câu nói này, Thiên Thảo thấy một luồng khí lạnh chạy theo dọc xương sống. Nàng bàng hoàng, nàng có cảm giác hình như đã thấy rõ được mọi chuyện. Nhưng người thiếu phụ đã bắt đầu ôn tồn kể lại câu chuyện: - Thím ngồi gần lại đây chút nữa kẻo bên đó có gió lọt vào khe cửa lạnh. Để tôi kể đầu đuôi những gì chúng tôi biết cho thím nghe. Chiều hôm ấy, cách đây cũng đã gần một tháng, chúng tôi thấy người áo trắng từ xa đi đến. Ông ta không có nón, cũng không có áo tơi. Ông ta đi hai tay không. Nhà tôi đi rẫy chưa về, tôi muốn chạy ra cho ông ta biết giờ ấy không còn đò ngang nữa, nhưng bận cháu thành không đi xuống được. Tôi thấy ông ta đứng thơ thẩn nhìn trời, nhìn đất, hết nhìn phía trước lại nhìn đằng sau. Ông ta ngồi xuống bên bờ cỏ một lúc lâu. Chợt tôi trông thấy ông ta lấy hai tay che mặt, cả người cả vai rung lên. Ông ta khóc. Tôi ái ngại quá, thầm mong bố cháu về để ông ta lên nhà nghỉ. Rồi trời mưa. Mới đầu thì mưa giăng giăng thôi, ông ta cũng ngửng đầu lên nhìn nhưng lại cúi xuống nức nở. Trời mưa còn nhẹ hạt cho nên tôi còn trông thấy hình dáng ông ta. Tôi thấy ông ta đứng dậy ngước nhìn trong mưa như vừa trông thấy bóng ai đi tới. Ông ta đưa hai tay ra ôm lấy một cái bóng người tưởng tượng. Rồi ông ta té nhào trên bờ đất. Mưa càng lúc càng lớn, tôi không trông thấy rõ ràng nữa. Chỉ thấy ông ta còn đứng trân trân giữa mưa như một cái tượng đá mà thôi. Rồi giông bão nổi dậy. Trong lúc đó thì bố nó đội mưa chạy về. Tôi đưa hai chiếc tơi cá cho bố nó, bảo ra đón ông khách lỡ 55 | 06. Nồng mặn bộ đường kia vào. Bố nó sốt sắng đi ngay. Nhưng lát sau bố nó trở về một mình. Bác nông dân đưa bát nước lên uống một hơi, rồi đặt bát nước xuống nói: - Tôi ra thì thấy ông ta ngồi bó gối trên bờ sông, bất chấp cả gió mưa. Tôi mời ông ấy vào, nhưng ông ấy lắc đầu. Tôi năn nỉ ông ta vẫn lắc đầu. Tôi đưa chiếc áo tơi cho ông ta, ông ta cũng không nhận. Tôi liền bỏ chiếc áo tơi lại và trở lên, bởi vì trời mưa gió lớn quá. - Đêm ấy mưa gió suốt đêm, trời giông bão ầm ầm, cũng như đêm nay vậy - người thiếu phụ nói tiếp. Chúng tôi nằm trong nhà, cứ nghĩ mãi đến ông khách đi đường kỳ lạ kia mà chẳng chợp mắt đi được. Cứ mong ông ta mang áo tơi vào rồi trở về đường cũ. Chờ suốt đêm dưới mưa bão thì chắc là ốm to phải không thím. Cuối cùng tôi cũng ngủ thiếp đi. Sáng ra, trời hết gió nhưng vẫn còn mưa. Tôi ra cửa thì thấy ông ta ngồi một đống trong màn mưa dầy đặc. Cháu còn ngủ. Tôi lấy tơi nón, buộc giải cẩn thận, ra ngoài. Tới gần ông kia, tôi mới biết cái đống trắng lù lù hồi nãy không phải là ông ta, mà là một tảng đá vôi trắng toát. Bên cạnh, còn thấy chiếc áo tơi cá của nhà tôi để lại hôm qua lăn lóc. Trong khi đó, trời vẫn mưa. Bác nông phu đỡ lời vợ: - Lạ quá thím ạ. Tảng đá vôi trắng tinh đó, trước kia có bao giờ tôi trông thấy nằm ở đó đâu. Bên bờ này vốn không có hòn đá lớn nào, nhất là loại đá trắng đẹp như vậy. Không có lý mà trong đêm khuya, cái ông khách đi đường kỳ lạ kia lại đi khuân ở đâu tới để đặt vào chỗ đó một tảng đá lớn như thế. Tảng đá đó, thím à, tôi tưởng bốn người lực lưỡng như tôi với quang gánh đầy đủ chưa chắc đã khiêng nổi… không lý tự nó dưới đất trồi lên trong giữa khuya. Còn ông khách, có lẽ ông ta đã trở về đường cũ, hoặc có thể đã trầm mình trong dòng sông rồi. Mẹ thằng cu 56 | 06. Nồng mặn cũng nghĩ như thế đó, nhưng tôi thì không nghĩ sự tình lại bi thảm quá đến vậy. Nói xong câu đó, người nông phu trầm ngâm lấy thuốc nhét vào điếu cày, châm lửa hút. Vợ bác kể tiếp: - Cách mươi ngày sau, thì cái ông áo xanh đến. Ông áo xanh đến nhìn ngơ ngác một hồi, rồi tìm tới leo lên nhà chúng tôi. Ông áo xanh hỏi thăm chúng tôi về ông áo trắng. Trong khi bố nó kể cho ông ta nghe câu chuyện tôi vừa kể, ông ấy ôm mặt khóc nức nở. Đến khi bố nó kể chuyện tảng đá, ông ta la lớn lên: “em tôi hóa thành tảng đá rồi! Em tôi hóa thành đá rồi!” Và ông ta bỏ chạy ra ngoài bờ sông, tìm tới tảng đá. Trong khi đó thì trời lại nổi cơn mưa. Mưa lớn dần và cũng có dông bão nữa, y như kỳ trước. Bố nó cũng chạy ra, cũng đem tơi nón mời ông ta trở vào. Ông ta cũng không trở vào, cứ ngồi gục đầu bên tảng đá mà gào thét. Rút cuộc bố nó cũng phải trở lên lại một mình. Rồi giông bão tiếp tục mãi; chúng tôi nằm trong nhà mà trong dạ lại cũng không yên. Sáng hôm sau trời tạnh; khi chúng tôi tới thì ông áo xanh không còn nữa. Bên cạnh tảng đá chúng tôi thấy mọc lên một cây mới, cao bằng một em bé lên mười, thân cây và lá cây xanh rờn. Cây gì mà mọc lên mau quá như thế không biết! Tôi nói: chắc cái ông áo xanh chết lúc nửa đêm, và đã biến thành cái cây xanh mới này. Đây chắc là hai anh em một nhà nào đó và có lẽ là thương yêu nhau lắm. Nhưng không biết vì duyên cớ gì mà cơ sự lại xảy ra như vậy. Bố nó cũng bắt đầu nghĩ như tôi. Còn thím, thím có bà con gì với hai người ấy không mà lại đi tìm? Tối nay trời lại giông bão nữa, giống hệt như hai lần trước. Tôi sợ lắm. Tôi van thím hãy cứ ở trong nhà đừng có đi ra ngoài. Đợi sáng mai đã rồi có đi hãy đi; bây giờ thì nhất thiết là thím phải ngủ lại đây với chúng tôi đã. Thiên Thảo ngước nhìn thiếu phụ, mắt nàng ướt đẫm. Nhưng để an lòng hai người, nàng lấy áo lau nước mắt, gượng cười. Nàng nói nhỏ nhẹ làm như thể sự việc xảy ra không có gì là quan trọng đối với nàng: 57 | 06. Nồng mặn - Không sao đâu thưa anh chị. Em là nội trợ của người áo xanh, em đi tìm anh ấy. Còn người áo trắng là chú Lang, em ruột của nhà em. Có lẽ chú ấy và cả anh ấy đều đã sang sông trong buổi sáng sớm; anh chị không biết đấy mà thôi. Sáng mai, em cũng sẽ sang sông đi tìm và thế nào cũng gặp được hai người. Anh chị nghĩ xem, đi đâu thì cũng quanh quẩn trong xứ mình. Không đi tìm thì thôi chứ đi tìm thì thế nào cũng tìm ra được. Em xin anh chị đừng lo. Em sẽ không đi ra ngoài trời giông bão đâu. Em sẽ xin ngủ một đêm tại đây, để sáng mai còn sang sông sớm. Thế rồi Thiên Thảo xin một chiếc chiếu trải ra sàn để ngủ, và một chiếc khác để đắp. Hai vợ chồng người nông phu cũng trở vào phòng trong nghỉ ngơi, trong khi mưa gió bên ngoài tiếp tục thét gào dữ dội. Thiên Thảo cuộn mình trong một lớp chiếu, lắng nghe tất cả mọi âm thanh dồn dập trong trận mưa bão dữ dội. Rồi nàng yên lặng khóc. Nước mắt của nàng chảy ướt cả mấy lần chiếu. Vợ chồng bác nông phu có lẽ đã ngủ say. Ngọn đèn dầu lạc chỉ còn lại một bấc, loe lét trong gian phòng, ngọn lửa sáng chao qua chao lại dưới ảnh hưởng của những cơn gió tạt qua khe cửa hở. Có lúc sét nổ lớn quá rung chuyển cả đất trời. Thảo tưởng như cả đất trời bên ngoài đều đã tan thành tro bụi. Rồi sấm rền như một chiếc xe chuyển đi rầm rộ trên mây, lăn mãi tới phương trời xa. Gió tạt ào ào vào vách gỗ. Mưa xối xả như cả bầu trời đều tan thành nước trút xuống mặt đất. Lâu lắm, vào khoảng giữa khuya, mưa gió dịu dần, rồi cuối cùng tắt hẳn. Bên ngoài, sự yên lặng gần như tuyệt đối, đã trở về. Nhè nhẹ, 58 | 06. Nồng mặn Thiên thảo dở chiếu, ngồi dậy. Nàng se sẽ rút then chốt cửa, hé liếp thoát ra ngoài, leo từng nấc thang xuống đất. Khi chân nàng chấm đất, nàng thấy ánh trăng soi chiếu rõ ràng cảnh vật bên bờ sông. Nhìn lên, nàng thấy mảnh trăng khuya nằm trên một khung trời rải rác những đám mây ánh. Phía trước mặt là tảng đá trắng mà vợ chồng bác nông phu đã nói tới hồi hôm. Nàng thong thả bước về phía ấy. Quả như lời của hai vợ chồng bác nông phu hiền hậu, tảng đá trắng nằm yên lặng và thanh thản bên một gốc cây lên xanh, phía trên những bẹ lá xòa ra như tỏ ý chở che đùm bọc. Nàng quỳ xuống đất bên cạnh mảnh đá trắng, hai tay ôm lấy thân cây tròn trĩnh, đầu tóc nép vào những cuống lá thuông dài. Nước mắt nàng nhỏ xuống tảng đá. Những giọt nước mắt nóng cho đến nỗi mỗi khi rơi xuống chỗ nào trên mặt đá thì chỗ ấy sôi lên và sủi bọt trắng xóa. Nàng khóc cho đến khi quỵ hẳn xuống, hai đầu gối lún sâu vào lòng đất mềm, hai tay vẫn còn quấn lấy thân cây và tảng đá. Sáng ra, vợ chồng nông phu thấy thiếu phụ không còn trong nhà mình nữa. Họ ra bến thì vừa lúc ông lái đò ngang vừa đưa đò cập bến. Họ hỏi thăm có phải bác vừa chở một thiếu phụ áo xanh sang sông không, bác lái đò trả lời: - Đây là chuyến đầu, tôi chưa chở được người khách nào hết. Hỏi vào khoảng mười hôm về trước có chở một anh chàng áo xanh không có hành lý nào không, ông ta cũng nói không. Hai vợ chồng trở lại quan sát tảng đá vôi trắng và cái cây xanh đứng thẳng có tán lá xòe rộng phía trên. Họ thấy cây đã lên cao quá đầu họ. Họ lại thấy tự dưới đất, một dây leo đã mọc lên tự bao giờ. Rễ của dây leo cũng bắt đầu từ dưới chân tảng đá, dây leo bám lấy thành đá leo lên, cuốn quanh lấy thân cây, những lá cây xanh mướt và duyên dáng ôm ấp lấy thân cây đứng thẳng. Họ ngắt thử một cọng lá nhỏ và đưa lên mũi ngửi: một hương vị nồng nồng cay cay mà đậm đà làm cho họ bâng khuâng nghĩ tới người thiếu phụ có cái nhìn sâu thẳm tối qua. 59 | 06. Nồng mặn Một buổi trưa tháng bảy trời nắng chang chang; trên bờ sông, một đàn người ngựa có vẻ sang quý dừng bước. Vua Hùng Vương đệ nhị cùng đàn tùy tùng nhìn quanh tìm một nơi có bóng mát để nghỉ ngơi, trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Họ thấy cách đó không xa có một ngôi đền xinh xắn núp dưới bóng mấy cây đại thụ. Đoàn người ngựa tiến về phía ngôi đền. Sau khi giải khát, vua Hùng ngồi nghỉ trên một phía đá trắng, phe phẩy chiếc quạt nan. Một người cận vệ đến gần tỏ ý muốn hầu quạt cho vua, nhưng Hùng Vương mỉm cười khoát tay bảo thôi. Ngài chỉ mấy cây cao đứng thẳng tắp gần đó, hỏi người cận vệ: “cây gì mà có nhiều trái thế, chú nhỉ? Người cận vệ tâu rằng không biết. Vua hùng muốn biết hương vị của những trái cây treo lủng lẳng trên buồng cao. Người cận vệ đi tìm một sợi dây để kiếm cách leo lên cây, hái một vài quả cho vua nếm thử. Vua Hùng nhìn quanh, một lát sau lại hỏi một vị cận thần: khanh có biết đền thờ ai đây không? Vị cận thần vừa mới mở miệng tâu vua rằng không, thì người cận vệ vừa từ trên cây tuột xuống. Anh ta dâng vua hai trái vừa hái được trên cây, tâu rằng trái này là trái mới, ít ai biết, nên không biết gọi là gì. Nhưng anh cũng tâu vua rằng anh biết đền thờ này là đền thờ ai, và giữa ngôi đền kia với trái cây này, có những liên hệ mật thiết nào. Nghe nói thế, vua chưa cắn vào trái cây vội. Ngài bảo người cận vệ ngồi xuống một tảng đá thấp hơn bên cạnh, và kể hết câu chuyện cho ngài nghe. Người cận vệ kể chuyện anh em Tân, Lang cùng chuyện Thiên Thảo một cách rành mạch như là ông ta đã được vợ chồng bác nông phu ngày xưa kể lại cho nghe đủ mọi chi tiết: Tâu đức vua kính mến, hòn đá trắng mà chính đức vua đang ngồi đây là thuộc loại với hòn đá vôi trắng mà ngày xưa người con trai họ Cao tên Lang đã biến thành, sau khi chết. Còn những trái cây mà đức vua kính mến đang cầm trên tay, là trái của cái cây mà ngày xưa người con trai họ Cao tên Tân đã hóa thân. Còn những giây leo xanh tốt có những lá hình trái tim đang leo quanh cây, là chính hiện thân của Lưu Thị, sau khi đi tìm chồng thấy chồng đã hóa thành cây và em chồng 60 | 06. Nồng mặn đã hóa thành đá. Người ta nói phiến đá trắng như lòng trong trắng của người em; thân cây cao thẳng mọc gần tảng đá có những tàu lá dài vươn ra là người anh, một lòng muốn gần gũi thương yêu, bao bọc và che chở cho em. Còn dây leo xanh tốt kia là người vợ, trinh thuận và khả ái. Sau khi chết vẫn nương tựa quấn quít bên chồng. Sau khi ba người đã hóa thân, nhà họ Cao và họ Lưu cũng tìm tới chỗ này, và nhờ vợ chồng bác nông phu mà hỏi ra được cớ sự. Hai gia đình mới cùng nhau lập nên ngôi đền này để thờ ba người. Nhân dân vùng này, từ đó, không bao giờ ngưng việc hương khói. Hùng Vương nghe nói, hết nhìn hai trái cây trong tay, lại ngước nhìn thân cây cao vút và những dây lá cuốn quanh thân cây có những ngọn lá hình trái tim đuôi thon dài xinh xắn. Rồi ngài đứng dậy nhìn tảng đá, lấy tay vỗ vào tảng đá nhẹ nhàng như vỗ vai một trẻ thơ. Vua có vẻ cảm động. Cuối cùng ngài đưa một trái cây trong tay và bảo nhỏ người cận vệ: - Ta thấy nhạt miệng, khanh thử bổ trái này cho ta nếm thử. Người cận vệ lấy dao gọt vỏ; cắt chủm, và bổ trái cây ra làm tám miếng nhỏ đem dâng vua. Bên trong là sắc trắng, mỗi miếng mang theo một phần hạt hơi ánh ánh màu hồng. Vua nếm thử một chút, thấy hơi ngòn ngọt và chan chát. Vua bỏ hẳn một miếng vào miệng nhai, và thấy tuy không ngọt sắc như trái cam trái ổi, nhưng trái cây mới này có một chất chát làm cho cảm giác nhàn nhạt trong miệng vua biến tan mất. Vua đứng lại gần cây leo, ngắt một mảnh lá bỏ vào miệng để nhai chung, thì thấy mùi vị cay cay thơm bốc lên mũi rất là dễ chịu. Nhai một lát, ngài thấy vui miệng; và vì thấy ngon miệng, nước miếng ngài ứa ra. Ngài nhổ bớt nước bọt xuống đất, bên cạnh tảng đá.. Bỗng ngài nhận thấy một vài giọt vướng trên tảng đá biến thành màu đỏ. Đức vua cúi xuống để quan sát, quả thấy đó là những giọt đỏ như những giọt máu. Ngài nhìn xuống đất thì đám nước bọt ngài vừa nhổ chỉ có màu đen thẫm, đưa ngón tay chấm vào miệng để nhìn thử, ngài cũng không thấy có màu đỏ. Ngài liền bảo người tùy tùng lấy lưỡi 61 | 06. Nồng mặn gươm cạo cho ngài một chút bột đá, và lấy chút bột đá đó bỏ vào miệng nhai. Phút chốc môi ngài đỏ tươi, hồng đẹp như môi của một thiếu nữ. Ngạc nhiên với khám phá mới, đức vua mời mọi người nhai thử một phần tám trái cây, một phần ba cuốn lá và một chút bột đá vôi trắng. Người nào cũng vui vẻ bắt chước đức vua và ai cũng đồng ý rằng nhai những thứ này thấy vui và mặn miệng, ai cũng có đôi môi hồng đỏ. Đức vua nghiêm trang nói: - Tình anh em và nghĩa vợ chồng của ba người trẻ tuổi này quả thật là thắm thiết và nồng đượm. Nồng đượm như hương vị của cây lá mà ta đang nhai, thắm thiết như màu son mà ta thấy trên môi các vị. Thôi, ta quyết định thế này: ta đặt tên cây này là cây Cao, lá cây này là lá Lưu, và mỗi khi có lễ cưới hỏi, dân ta sẽ dùng trái Cao và lá Lưu để thay thế cho tục dùng muối. Muối thì mặn mà thật, nhưng chưa mặn mà thắm thiết và nồng đượm như hương vị của trái cây và dây lá này, nhất là khi ăn với một chút đá vôi. Tình vợ chồng và tình anh em của ba người trẻ tuổi họ Cao và họ Lưu sẽ là một hình ảnh đẹp đẽ còn mãi trong đời sống tình cảm của dân tộc này. Mọi người cúi đầu lãnh mệnh. Cây Cao và dây Lưu được dân Văn Lang đem gieo giống khắp nơi trong nước, sau này có người đọc trại tiếng Cao ra tiếng Cau và tiếng Lưu ra tiếng Trầu. Cao Lưu hay Cau Trầu gì cũng là để gọi những cây có hương vị đậm đà thơm cay mà vua Hùng đệ nhị là người thứ nhất đã được nếm đến. Còn đá vôi thì, ở đâu có cau trầu, ở đấy cũng có đá vôi. 62 | 06. Nồng mặn 07. Bánh chưng Ngày tết đã đến, các Lạc Hầu, Lạc Tướng, Quan Lang và Mỵ Nương hôm nay được mời vào hoàng cung cùng với thân thích của họ để xem vua Hùng gói bánh chưng và làm bánh dầy cúng Tết. Ngày mai là ngày mùng một. Vua Hùng vương đệ nhị là một ông vua rất vui tính. Sở dĩ vua có được nhiều người hiền tài ra giúp vua làm việc nước cũng nhờ đức tính hoan hỉ ấy. Vua cũng rất là độ lượng nữa: rất nhiều người lỗi lầm đã nhờ đức độ lượng ấy mà cải hóa và trở nên những người dân tốt. Vua sửa sang pháp độ, thiết lập nhiều thuần phong mỹ tục, làm cho nếp sống người Văn Lang càng ngày càng thanh nhã, sáng đẹp và nhân hậu thêm. Ai cũng biết là chính do quyết định của vua mà dân Văn Lang biết ăn cau trầu và dùng cau trầu trong các lễ cưới xin và thù tạc. Miếng trầu trở nên quan trọng và cần thiết; miếng trầu khiến cho không khí giao tiếp giữa mọi người trở nên vui tươi, đằm thắm và mặn mà hơn lên. Câu chuyện của hai người nhờ có miếng trầu trở nên đậm đà; thiếu miếng trầu hình như là thiếu sự đằm thắm: câu chuyện có thể trở nên lạt lẽo. Vì vậy, người ta nói: miếng trầu là đầu cây chuyện và ngạc nhiên thấy những tục lệ mới được vua Hùng đặt ra làm cho cuộc sống tươi thắm và đáng yêu hơn lên. Đã năm sáu năm nay, dân chúng bắt chước vua Hùng làm bánh chưng và bánh dầy mỗi năm để cúng tổ tiên Lạc Long. Tục lệ này đã phổ biến khắp xứ. Nhà nào cũng đã biết làm bánh Chưng và bánh Dầy. Nhưng người ta đồn: bánh chưng do chính tay vua Hùng gói mới là bánh chưng đẹp. Các Lạc Hầu và Lạc Tướng tâu lại với vua lời đồn đãi ấy của dân chúng. Vua Hùng cười. Ngài mời các Quan Lang, các Mỵ Nương, các Lạc Hầu và Lạc Tướng cùng thân quyến họ tới dự một cuộc vui trong cung và chính ngài sẽ gói và nấu bánh Chưng trước mặt mọi người. Nhưng ngài ra điều kiện: những người tham dự phải ở lại cho đến khi bánh làm xong và nấu chín. Mọi người được yêu cầu có mặt trong cung từ giờ tan chầu buổi chiều để cùng ăn cơm với vua trước khi dự vào cuộc vui. 63 | 07. Bánh chưng Các em bé được tham dự rất lấy làm sung sướng. Chính những cháu nhỏ còn được ẵm trên tay cũng được phép đến dự cuộc vui. Những em bé đã lớn đều mặc áo đẹp và đi hài cỏ mới. Khi những người khách đầu tiên đến thì Hoàng hậu và Mỵ Nương Thanh Dung cũng đã sắp đặt xong mọi việc. Mỵ Nương Thanh Dung là công chúa yêu nhất của Hùng Vương. Dung nhan nàng diễm lệ không kém gì dung nhan của một tiên nữ. Cùng với mẹ, nàng đã trang hoàng cung điện rất tráng lệ trong dịp lễ đầu năm này. Tay nàng ôm một quả trầu sơn đỏ; khách nào tới nàng cũng mở nắp quả để mời trầu. Còn với các em bé nàng đem theo kẹp dừa và bánh chuối của nàng làm ra để đãi các em. Bọn trẻ tíu tít quanh nàng như một bầy chim. Khách đã đến đông đủ, mỗi người đều có ghế ngồi. Mọi người đều ăn trầu. Ai nấy mặt mày rất tươi và câu chuyện nở như bắp rang. Đây đó trong sảnh đường có những chiếc ống nhổ xòe miệng bằng đồng sáng loáng. Các ông các bà thỉnh thoảng lại kê miệng nhổ nước cốt trầu vào những ống nhổ cao lớn ấy. Bổng có tiếng của cận vệ vọng lên: - Đức vua Hùng ngự giá. Mọi người đều đứng dậy. Trẻ em cũng im phăng phắc. Từ cửa ngoài, Hùng Vương bước vào phòng, theo sau là một vị Lạc Hầu phụ tá. Vua mặc áo đại triều rất đẹp, trên ngực có thêu rồng. Chiếc mũ của vua lóng lánh châu ngọc kết thành hình chim Lạc. Áo vua màu vàng, chân vua đi hài đỏ. Vua đưa hai tay mời mọi người: - Xin mời các vị ngồi xuống, cứ tiếp tục chuyện trò vui vẻ như bình thường. Mọi người tuân lệnh. Không khí trong sảnh đường vui nhộn trở lại, nhưng có một vài người đưa mắt theo dõi cử chỉ của vua Hùng. Ngài đi khắp sảnh đường, hỏi thăm từng Lạc Hầu, Lạc Tướng, nói chuyện với từng phu nhân, vuốt tóc từng em bé. Giọng ngài ôn tồn và hòa nhã. Cuối cùng ngài đến ngồi ở ghế dành cho ngài nơi giữa sảnh 64 | 07. Bánh chưng đường. Thức ăn được quân hầu mang ra từ nhà bếp ngự. Đây là bữa ăn đơn giản chỉ gồm có một món xôi đậu phụng và một món cháo. Đức vua cũng dùng cùng một món như tất cả mọi người. Cơm xong, thị vệ dọn ra giữa sảnh đường một bàn dài, trên đó có các vật dụng làm bánh được trình bày sẵn sàng. Khách đến quan sát thì cũng chỉ thấy những vật liệu thông thường: lá dong và lá chuối rất xanh, gạo nếp còn nguyên những hạt dài vút sạch và để ráo nước, nhân bánh bằng các thứ đậu màu vàng đã được làm sẵn. Những vật liệu này, ai cũng đã biết, là để dùng làm bánh chưng cúng Tết; ai cũng chỉ thao thức muốn học cách gói bánh khéo của vua mà thôi. Bỗng thấy thị vệ khiêng ra giữa sảnh đường một chiếc thùng lớn, và thiết lập bếp lửa ngay tại giữa gian phòng rộng bao la. Hỏi ra mới biết vua Hùng định luộc bánh chưng ngay tại giữa sảnh đường. Bếp lửa đốt lên; không khí càng trở nên ấm áp tươi vui. Mùa đông ở Phong Châu khá lạnh. Vua Hùng xuất hiện bên cạnh bếp lửa, lần này ngài đã thay áo, gọn gàng và giản dị. Mọi người yên lặng khi ngài mở lời: “Các Lạc Hầu, Lạc Tướng, các vị phu nhân, các anh, chị, em, các con và các cháu: hôm nay ta mời quý vị đến đây để kể lại một câu chuyện xưa, câu chuyện đã làm cho ta và quý vị trở nên thân thiết như ngày hôm nay. Làm thức ăn để cúng giỗ tổ tiên, việc đó người nội trợ nào cũng biết làm, cũng có thể làm; cho đến làm bánh Chưng và bánh Dầy, quý vị cũng đã biết. Ta biết có thể ta không làm bánh đẹp và ngon được bằng các bà nội trợ ngày nào cũng quen tay với việc bếp núc; sở dĩ hôm nay ta mời quý vị là cốt để bày tỏ một tình cảm mà ta tin rằng đất nước chúng ta và dân tộc chúng ta cần phải bồi đắp và duy trì: đó là sự yêu thương. “Hồi ta còn bé, vì mẹ ta nghèo, nên tuy là con vua mà ta chẳng được sống đầy đủ về mặt vật chất như các anh chị khác. Mẹ ta lại không cần đến sự giàu sang nên không hề than nghèo với vua cha… Bà lại còn dạy ta nên sống đơn giản để có thì giờ tìm học những gì hay và đẹp trong cuộc đời. 65 | 07. Bánh chưng “Một hôm vua cha ra lệnh cho tất cả Quan Lang là người nào cũng phải biện ra những phẩm vật để đem đến hoàng cung cúng giỗ tổ tiên, dặn rằng phẩm vật phải được chế biến và soạn sửa rất chu đáo để tỏ lòng hiếu kính và biết ơn những vị đã khai sáng ra trăm họ. Phẩm vật phải được mang tới hoàng cung sáng mồng một Tết. “Có cả thảy hai mươi vị Quan Lang, con trai của vua, mà có một vài vị hiện đang có mặt hôm nay trong sảnh đường này, dự vào hàng Lạc Hầu và Lạc Tướng, đang cùng góp sức với ta để giữ gìn việc nước. “Ta là người Quan Lang nghèo nhất, lại không ở gần cung điện, cho nên được lệnh rất trễ. Thêm nữa, mẹ ta vừa mới mất, nên ta không có ai để thưa hỏi về những việc liên hệ tới triều đình. “Ta nghĩ: vua cha ra lệnh này giống như là bắt con cháu dự vào một cuộc thi; hễ ai biện được phẩm vật quý giá nhất và ngon lành nhất để cúng dâng tổ tiên là người ấy được ban khen, chưa chừng còn được truyền ngôi báu cho nữa. Ta hơi buồn cười, tự bảo mình chẳng nên dự vào cuộc thi này, một cuộc thi có tính chất khoe khoang sự giàu sang và sự khéo léo về nghề nấu nướng. Quốc gia có đẹp đẽ và hùng mạnh hay không là nhờ những người có lòng, có đức, có hiểu biết, chớ không phải là nhờ những người có nhiều tiền bạc có thể sắm đủ các thứ trân cam mỹ vị và có tài làm bếp khéo. Nghĩ vậy ta bèn bỏ đi chơi, rồi chiều về nhịn đói mà ngủ, trong lòng hơi buồn vì cuộc thi mà vua cha đã đặt ra. Ta nghĩ dù ta có hải vị quý giá vào bậc nhất, ta cũng sẽ chẳng tham dự vào cuộc thi đầu năm tại triều đình. “Nhưng đêm ấy trong giấc mộng, ta thấy mẹ ta. Mẹ ta cười rất hiền, và nói với ta: “Này Liêu, con đã hiểu lầm ý phụ vương. Cha con không đòi hỏi sự giàu sang, cũng không đòi hỏi một tài nấu bếp khéo. Cha con chỉ đòi hỏi một tấm lòng, và con thì mẹ biết con có tấm lòng đó.” “Ta định hỏi thêm ý mẹ, nhưng mẹ chỉ mỉm cười, một tay chỉ vào đồng lúa, và một tay chỉ lên trời xanh, không nói thêm gì. Rồi ta tỉnh dậy. 66 | 07. Bánh chưng “Ta suy nghĩ lại lời mẹ, và thấy rằng mẹ ta có lý. Một ông vua thông minh và hiền đức như cha ta, há lại không có chủ tâm sâu xa trong cuộc thi tài mà bề ngoài có vẻ tầm thường như thế? Ta liền nghĩ: mở nước, dựng nước là công trình của tổ tiên, làm sao để có thể tỏ bày lòng biết ơn đó đối với tổ tiên, đồng thời biểu lộ ý chí muốn giữ gìn và bảo vệ đất nước mà tổ tiên đã gây dựng ra? Không lẽ bỏ tiền mua sơn hào hải vị là có thể làm được việc đó? “Ta bỗng nhớ lại dáng điệu của mẹ ta, một tay trỏ vào đồng lúa nếp xanh rờn, một tay trỏ vào bầu trời xanh ngắt. Đúng rồi, đồng lúa vuông vắn kia là biểu hiện của đất, vòm xanh kia là biểu hiện của trời. Trời thì che, đất thì chở, đó là vốn liếng của tổ tiên để lại. Ta phải chứng tỏ được là ta có khả năng tiếp nhận và bảo vệ gia sản đó của cha ông. “Ta ngồi bên bờ ruộng, trầm ngâm hết buổi sáng. Đến giữa trưa ta bỗng thấy tâm tư bừng sáng. Ta đứng dậy, đi về nhà, đem gạo nếp ra chọn lấy toàn những hạt nếp còn nguyên vẹn và ngâm nước. Ta cũng đi ngâm các thứ đậu. Và ta đi ra rừng, hái rất nhiều ngọn lá dong to bản, thật xanh. Ta muốn làm một thứ bánh hình vuông, tượng trưng cho đất, gói bằng lá xanh, tượng trưng cho màu cây cỏ xanh tươi trên mặt đất. Bánh làm bằng gạo nếp, là thứ thực phẩm quý nhất, nhưng cũng là phổ thông nhất trong dân gian, ai cũng có và nghèo đến mấy cũng có. Ở giữa bánh, ta để nhân đậu và các thứ hành thơm, tượng trưng cho những sản phẩm mà đất mẹ cung hiến cho con người. Ta gói 67 | 07. Bánh chưng bánh lại rất vuông, rồi dùng lạt tre để cột bánh. Xong, ta bỏ vào nồi lớn và luộc cho chín. “Trong khi nồi bánh đang sôi, ta đi nấu cơm nếp. Nấu chín, ta bỏ cơm vào cối gỗ, lấy chày gỗ giã thật nát, thật nhuyễn. Sau đó ta lấy cơm nếp ra, nắn thành bánh hình tròn đẹp, tượng trưng cho trời. Ta cắt lá tròn để lót ở dưới cho xinh đẹp. Cả hai thứ bánh đều làm bằng những vật liệu không tốn kém, những vật liệu cần thiết cho sự sống của dân chúng Văn Lang. “Khi bánh chín, ta bóc thử một chiếc để xem. Màu xanh của lá đã in một lớp xanh trên màu trắng của nếp. Tét bánh ra bằng một sợi lạt tước nhỏ, ta thấy nếp và nhân bánh đưa lên một mùi thơm rất quen thuộc và ngon lành. Ta biết cái bánh này có thể tượng trưng cho đất mẹ một cách xứng đáng, và rất hài lòng. Khi cầm đến chiếc bánh tròn màu trắng, ta thấy nó đã cứng chắc lại. Màu trắng tinh tuyền của nếp và hình thái tròn trịa của bánh làm cho bánh có tính cách tinh khiết tròn đầy của bầu trời. Ta chọn mỗi thứ mười chiếc, để riêng ra rồi đi ngủ. “Đêm ấy, ta lại nằm mơ thấy mẹ ta. Bà không nói gì, chỉ nhìn ta mỉm cười, có vẻ bằng lòng. “Sáng hôm sau, ngày mồng một Tết, ta mặc áo chỉnh tề, bỏ bánh vào hai chiếc rổ, và gánh vào triều chào vua cha. Ta thấy các anh ta nhiều vị đã đến trước, và trình bày lên nhiều loại phẩm vật rất là tinh tươm. Ta nghĩ ta là đồ khùng, đã đem đến những phẩm vật có thể làm cho mọi người phì cười khi trông thấy. “Nhưng giờ cúng giỗ đầu năm đã đến. Ta cũng liều dâng các thứ bánh của ta lên bàn thờ và lùi xuống để cho Phụ Hoàng bắt đầu mở đầu cuộc hành lễ. “Sau buổi lễ, người ta mang xuống từng phẩm vật để cho Vua Cha thẩm xét, như đã định trước. Đức Phụ Hoàng đã dừng lại tỷ mỷ hỏi về lai lịch của từng phẩm vật một. Có thứ chỉ có thể tìm ra trong rừng sâu núi cao; có thứ chỉ có thể kiếm được dưới lòng sông đáy biển. Khi 68 | 07. Bánh chưng phụ vương thấy những chiếc bánh ngài hỏi của ai, và ta thưa là do chính tay ta làm lấy. Ngài hỏi tỷ mỉ về những chi tiết, cách làm ý nghĩa của hình vuông, hình tròn, và ngài nhìn ta rất lâu, khiến ta phát thẹn. Ta ăn mặc chẳng được tươm tất lắm, có đâu được như các vị Quan Lang khác. Ngài bảo cắt hai thứ bánh cho ngài nếm thử, và gật đầu khen ngon. Thế rồi ngài tiếp tục đi khảo sát các phẩm vật khác, tới đâu cũng hỏi thăm tỷ mỷ. “Sau đó một tháng, ta được chiếu chỉ của ngài triệu vào cung. Ngài bảo ta là người có lòng, có hiếu, và có khả năng giữ gìn đất nước nối nghiệp tổ tiên, và sẽ được ngài truyền ngôi giữ nước. Ta ngạc nhiên hỏi lại vì sao. Ngài bảo chính những chiếc bánh Chưng và bánh Dầy mà ta làm và đem dâng cúng hôm Tết đã giúp cho ngài đi đến quyết định chọn lựa ta để trao truyền ngôi báu. Ngay chiều hôm ấy ngài ban chiếu cho thần dân biết về quyết định truyền ngôi. Trong các hàng Quan Lang, không có vị nào tỏ ý gì ganh ghét. “Bây giờ đây, trong lúc chúng ta có mặt giữa chốn cung điện thì trên khắp nước Văn Lang nhà nào nhà nấy đang chuẩn bị cúng lễ tổ tiên. Ta biết nhà nào cũng bắt chước nấu bánh Chưng và làm bánh Dầy để sáng mai này dâng cúng. Ta đã ban chiếu về việc làm bánh Chưng và bánh Dầy, cũng như ta đã ban chiếu về việc dùng cau trầu trong các hôn lễ. Mấy năm nay, việc dâng cúng bánh Chưng bánh Dầy đã trở nên tập tục. “Tuy nhiên ta muốn các khanh hiểu rằng chính lòng hiếu kính, niềm tin tưởng, sự yêu thương đất nước và ý nguyện bảo vệ đất nước mới chính là những phẩm vật quý giá nhất mà ta có thể dâng cúng lên tổ tiên. Làm bánh Chưng và bánh Dầy dù đẹp hoặc ngon đến mấy nhưng nếu không đủ lòng hiếu kính, niềm tin tưởng, sự yêu thương và ý bảo vệ thì cũng vẫn chưa đẹp và chưa ngon như ta mong ước. “Vậy tối nay, các lạc hầu, lạc tướng, các anh chị, các con và các cháu hãy cùng ta, đem lòng yêu thương mà gói bánh chưng, giã bánh dầy để sáng mai này các phẩm vật xứng đáng dâng lên tổ tiên của giống nòi. Ta tin rằng chúng ta sẽ làm được những chiếc bánh rất đẹp.” 69 | 07. Bánh chưng Vua Hùng nói xong, mời mọi người đến gói bánh. Ai cũng cảm động, ai cũng thấy mình cùng chung một giống nòi, một đất nước. Vua tôi đều cười vang trong không khí cởi mở của một gia đình lớn. Năm ấy, tất cả các lạc hầu, lạc tướng, Quan Lang, Mỵ Nương và thân quyến đã ở lại trong hoàng cung suốt đêm. Họ đã đợi cho bánh Chưng chín, vớt đem lên bàn thờ để dâng cúng một lần với bánh Dầy. Mọi người đã cùng với đức Vua thân yêu của họ cúng lễ giao thừa trong niềm hân hoan và tin tưởng ở tương lai đất nước. 70 | 07. Bánh chưng 08. Hạt gieo ngày trước An Tiêm nắm tay con trai là bé Hảo chạy chơi trên bãi cát mịn. Hảo mới lên sáu tuổi. Hai cha con còn chờ mẹ của Hảo từ trên chòi xuống để cùng đi thăm vườn dưa. Chạy một lát mệt, Hảo bắt bố ngồi xuống trên cát. Đứa bé hỏi bố: - Chừng nào thuyền của người ta mới trở lại nữa, hả bố? Thuyền đây là thuyền buôn ngoại quốc. Từ ngày hai vợ chồng An Tiêm và đứa con ra ở đảo này, cách đây đã một năm, chỉ mới có một chiếc thuyền buôn ghé đảo. Lúc đó Hảo được gặp thật nhiều người; những người khách buôn nói tiếng nói rất lạ chỉ có bố nó mới hiểu được, còn má nó và nó chẳng hiểu được trời đất gì hết. Tuy vậy nó rất mong có thuyền ghé lại đảo để trông thấy nhiều người. Ở đảo chẳng có ma nào hết, chỉ trừ bố mẹ nó và nó. Đây là chiếc đảo nhỏ cách của biển Nga Sơn khoảng ba trăm hải lý. Trước khi vợ chồng An Tiêm tới hải đảo, không có ai đặt chân tới đây làm gì, bởi trên đảo đã không có nguồn lợi gì mà cũng không có dân cư sinh hoạt. Hơn một tháng trước đây có một thuyền buôn ngoại quốc ghé tới để sửa chữa cột buồm bị gãy, vì thế mà gia đình nhà An Tiêm mới có dịp được thấy mặt, người trên đất liền. An Tiêm không trả lời con vì chàng đang nghĩ tới mẹ của đứa bé mà hai cha con đang trông đợi. Nàng đang may nốt những đường chỉ cuối cùng để hoàn tất chiếc áo của Hảo, trước khi xuống bãi cùng hai cha con đi thăm vườn dưa say trái. Nàng là con nuôi của vua Hùng Vương thứ ba. Nàng tên là Oanh và cũng được tước hiệu Mỵ Nương của các công chúa con vua. Vậy mà bây giờ nàng phải gánh chịu một cuộc đời vất vả cơ cực vì chàng, vì sự “cứng cổ cứng đầu” của chàng. Thế nhưng chưa bao giờ nàng tỏ ý trách móc chồng. Nàng khuyến khích và an ủi An Tiêm khiến chàng cảm thấy có thể chịu đựng hết mọi gian lao để có thể đi tới thành công. Hai vợ chồng đã bị vua Hùng đày ra đảo sống trơ trọi với đứa con sáu tuổi. An Tiêm nhớ lại quãng đời thơ ấu của chàng, và cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng, không 71 | 08. Hạt gieo ngày trước trách cứ ai, giận dỗi ai. Đối với vua Hùng, người đã đày gia đình chàng ra hải đảo này, chàng cũng không thấy có niềm oán hận. Hồi bảy tuổi, nghĩa là vào tuổi con chàng bây giờ, An Tiêm đã mất cả cha lẫn mẹ. Chàng được cho đi theo thuyền buôn để học nghề thủy thủ. Chàng thông minh, lanh lợi nên được mọi người yêu mến. Thuyền buôn thường đem theo vải, lụa, thuốc men, đường, v.v… đến bán tại cửa biển nước Văn Lang và mua trầm, quế, hạt đồi, hạt tiêu, v.v… để mang về. An Tiêm được đi theo những người chủ thuyền lên ra mắt vua Hùng. Vua thấy An Tiêm diện mạo đoan chính, lại nghe nói chàng mồ côi cha mẹ, nên đem lòng thương yêu, nuôi làm con nuôi. Lớn lên, An Tiêm được vua đem Oanh gả cho làm vợ. Chàng nói tiếng Văn Lang giỏi như người Văn Lang. An Tiêm được vua tin dùng trong công việc giao tiếp với những nhà buôn ngoại quốc thành thạo. Chàng giao thiệp rộng rãi, lại có địa vị trong triều đình, nên trở nên giàu có rất mau chóng. Tuy vậy chàng không bao giờ nhận những tiền của phi nghĩa, chỉ muốn phát triển cơ nghiệp trên khả năng và sức làm việc của mình mà thôi. Vậy mà cũng có người ganh ghét chàng, cho rằng sở dĩ chàng làm nên cơ nghiệp đó là hoàn toàn nhờ dựa vào vua, chứ riêng chàng, thì chẳng có tài cán gì hết. Một hôm vua Hùng triệu chàng vào cung hỏi: - An Tiêm, có người nói với ta rằng con là một người vô ơn bạc nghĩa, bởi vì con đã từng nói với họ: con có địa vị ngày hôm nay không phải vì do ta giúp đỡ và gây dựng. Có phải vậy chăng? An Tiêm tâu vua: - Thưa vua cha, con của vua cha không phải vô ơn bạc nghĩa. Con biết con đã nhờ ơn đức của cha mẹ nuôi mới có được ngày nay. Nhưng con nói rằng: những gì con hưởng trong kiếp này cũng là do những việc làm của con trong kiếp trước. Con nhớ hồi nhỏ đã được học bài kệ sau bằng tiếng Phạn: Muốn biết hạt đời trước Thì xem trái đời này 72 | 08. Hạt gieo ngày trước Muốn biết trái đời sau Thì xem hạt đời này Con còn nhớ mãi bài kệ đó và hiện giờ con vẫn còn tin ở luật nhân quả. - Vậy con có tin rằng sở dĩ con được gặp ta và được ta nuôi nấng trong đời này là vì con đã gây hạt giống tốt trong đời trước của con chăng? - Tâu Vua Cha, con nghĩ như vậy. Vua Hùng suy nghĩ một lát rồi nói: - Vậy giả sử ta cho con ra một cái đảo vắng ngoài khơi mà ở với vợ con, lại không cho mang con theo một người giúp việc nào, thì con nghĩ con có thể sống được hay không? Nếu quả đời trước con có gieo hạt tốt thì đời này, dù ở ngoài đảo hoang một mình, con cũng có thể gặt hái những trái đẹp, có phải vậy không? - Tâu Vua Cha, con nghĩ như vậy. - Vậy thì ta cho con, vợ con và con con ra ở ngoài đảo Sa Châu, ngoài khơi cửa biển Nga Sơn trong một thời gian một năm, thử xem con có chứng minh được cái thuyết “hạt trái” của con hay không. An Tiêm cương quyết thưa: - Con xin vâng mệnh. Thế là vợ chồng chàng bị đày ra hoang đảo. Vua Hùng ra lệnh cho chàng khởi hành trong ngày kế đó. Ngày mai, khi An Tiêm cùng vợ con lên thuyền đi đày, chàng nhận thấy trên thuyền có một số lương khô đủ để gia đình chàng sống trong vòng bốn tháng ngoài đảo hoang. Thuyền đưa gia đình chàng lên tới bến cát mỏm đảo. Sau khi thủy thủ khiêng xuống những thùng lương khô của vua ban, thuyền lập tức lên buồm chạy trở lại đất liền. 73 | 08. Hạt gieo ngày trước Oanh đã khóc như mưa sau giờ phút ấy. Nhưng An Tiêm không nao núng. Chàng bảo nàng: - Em chớ nên lo. Nếu chúng ta đã gieo hạt tốt thì chúng ta cũng sẽ gặt trái tốt. Còn nếu chúng ta đã gieo hạt xấu thì dù than khóc đến mấy chúng ta cũng không thay đổi được tình trạng. Chúng ta còn bàn tay và trí khôn; thế nào chúng ta cũng sống. Với lại em không nghe người ta nói: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ” hay sao? Nhưng Oanh chỉ khóc có một lần ấy mà thôi. Nàng vốn có đức tin nơi chồng. Hai người khuân những thùng lương tìm chỗ cất giấu cho khỏi ướt, và chặt cây gác thành một túp lều để trú ngụ. Tối hôm ấy trời mưa, mái lều còn đơn sơ, nên mọi người bị ướt, nhưng ngày mai lại, An Tiêm cùng vợ đã chặt nhiều lá kè và lợp được hai mái lều rất kín đáo. Họ ăn lương khô, và đi thám thính quanh đảo. Không có một loài trái cây nào có thể giúp cho gia đình sinh sống. Không có một loại rau nào, cũng không có một loại hạt nào có thể thay thế cho hạt lúa hạt đậu. Hai người vẫn kiên tâm tìm kiếm. Họ tìm ra được phương pháp chài lưới. Họ tìm được đá lửa. Họ tìm được cách phơi khô hoặc un khói những cá tôm đánh được. Điều họ ao ước nhất là có một ít hạt giống để có thể trồng tỉa và gặt hái. Đến tháng tư, lương khô đem theo gần cạn, họ chỉ mới tạo được thêm một ít tôm và cá khô, bù lại được phần nào cho sự tiêu thụ. Đang lo lắng thì bổng một buổi trưa họ khám phá ra một đám dây leo xanh lá to bản mọc trên bãi cát phía tây hoang đảo. Tới gần họ nhận ra đấy là một loại dưa rất lạ. Họ khám phá thấy đám dưa đã có mấy mươi trái, trái nào cũng lớn bằng hai hoặc ba trái dừa. Mừng rỡ, họ bổ thử một trái ra xem; ruột dưa đỏ như son, hạt dưa đen tuyền. Nếm thử, An Tiêm thấy mùi vị thơm tho ngọt ngào, ăn vào sảng khoái cả tinh thần. An Tiêm đưa cho Oanh và Hảo cùng nếm. Ba 74 | 08. Hạt gieo ngày trước người ăn hết cả một trái dưa lớn. Trời nắng chang chang, nhưng ba người cảm thấy mát mẻ và khỏe khoắn lạ thường. An Tiêm nhớ lại cách đây mấy tháng, một hôm có mấy con chim hạc trắng từ phương Tây bay lại. Chúng kêu mấy tiếng khiến chàng và vợ chàng chú ý, và nhả xuống sáu bảy cái hạt đen xuống bãi cát. Ai ngờ đó là những hạt dưa quý báu, một loại dưa trước đây chưa bao giờ chàng được nếm qua, ở đất nước chàng sinh ra cũng như ở đất nước chàng nhận làm quê hương. Chiều hôm đó hai vợ chồng tìm một khoảng đất rộng có lẫn nhiều cát, và đi gieo những hạt dưa đen nhánh. Thì vài hôm sau đó, chiếc thuyền buôn Tây Vực ghé vào đảo để chữa lại cột buồm gãy. Một trận bão đã xảy ra lúc giữa đêm vào khi thuyền đi ngang qua đảo. Cột buồm gãy, thủy thủ tìm cách cho thuyền ghé bến. An Tiêm đã nói chuyện với những người ngoại quốc da ngăm ngăm đen. Chàng giúp họ vật liệu để sửa chữa cột buồm, giúp họ làm đầy nước ngọt các bình chứa nước trong thuyền. Chàng hái một trái dưa lạ, bổ ra và cắt thành nhiều khoanh để khoản đãi các thủy thủ. Người nào cũng tỏ vẻ ngạc nhiên khi được nếm dưa. Ai cũng công nhận đây là một thứ dưa thơm ngon lạ kỳ. Họ hỏi chàng còn nhiều dưa chăng? Chàng nói còn độ ba chục quả. Họ đề nghị đổi gạo, đậu, bột, muối, đường và các thứ khác để lấy dưa. Chàng vui mừng nhận lời ngay. Chàng nói với họ rằng nếu bốn tháng sau họ ghé đến, chàng có thể giao cho họ ít ra là năm trăm quả dưa. Họ có thể đem ngũ cốc và các hóa phẩm khác tới đổi dưa để đem bán. Họ nhận lời. Chàng trân trọng dặn họ kỳ sau nhớ đem cho chàng hạt giống lúa nếp và đậu xanh. Sau khi nhận lời giao kết, họ căng buồm ra đi. Giờ đây ruộng dưa đã chín, đúng vào thời kỳ mà thuyền trở lại. Không những chàng đã trồng thêm dưa, chàng lại đã trồng thêm một ít lúa mạch và đậu đỏ, những thứ hạt mà chàng đã đánh đổi được trong chuyến ghé đầu tiên của chiếc thuyền buôn. Dù thuyền không 75 | 08. Hạt gieo ngày trước trở lại thì gia đình chàng cũng đã nắm được tương lai sống còn trong tay rồi. Chàng lại có phương tiện đánh cá; chàng có thể canh tác trồng lúa mạch và đậu đỏ; chàng lại có bao nhiêu dưa trong ruộng. Chàng thấy tương lai mình đã được bảo đảm. Chàng nhìn con và mỉm cười nói với vợ: - Ta sẽ đặt tên cho thứ dưa lạ này. Ta sẽ lấy tên con để đặt cho dưa. Phải rồi, con ta là ngày mai, mà chính trái dưa này đã bảo đảm ngày mai cho chúng ta, nên ta sẽ đặt cho dưa này là “dưa Hảo”. Oanh đồng ý với chồng. Nàng nhớ nhà, nhớ nước, nhớ người. Nhưng nàng tin tưởng nơi chồng. Nàng cũng tin như chàng là một ngày kia vợ chồng nàng và con nàng sẽ được trở về đoàn tụ với xã hội. Với cuộn vải đổi được của thuyền buôn, nàng may áo cho chồng, cho con và cho nàng. - Bố ơi, chừng nào thuyền mới ghé nữa, hở bố? An Tiêm giật mình. Chàng vẫn chưa trả lời câu hỏi của con, vì nhìn ra biển, chàng thấy một chấm đen hiện ra ở chân trời. Chàng đứng dậy đưa tay che trán để nhìn cho rõ. Trong khi đó, Oanh chạy như bay từ trên đồi xuống, tay cầm mảnh áo đang khâu dở của Hảo. Nàng kêu lên: - Thuyền đến! Thuyền đến! Hảo cũng đứng dậy nhìn theo bố mẹ ra phía cửa biển. Chiếc thuyền càng lúc càng thấy lớn dần. Cả ba người đưa tay lên vẫy. Chẳng mấy chốc chiếc thuyền ghé bến. An Tiêm gặp những người quen cũ. Chàng mời họ lên đảo, cùng đi thăm vườn dưa. Những trái dưa nằm khuất trong lá, tròn trĩnh trên đất cát mịn, da xanh màu ngọc thạch. Họ hái dưa, sắp lại thành đống lớn và đếm được trên sáu trăm trái. 76 | 08. Hạt gieo ngày trước Kỳ đấy, An Tiêm đổi được hạt giống, nhiều loại thực phẩm và vật dụng cần thiết khác. Tất cả chàng đều khiêng vào cất chứa trong một động đá. Những ruộng dưa trên đảo từ ngày đó trở đi càng ngày càng được mở rộng. Đất trên đảo rất thích hợp với loại dưa này. Thuyền buôn từ đây cứ mỗi tháng ghé một lần để mua dưa và bán hàng hóa. Dưa rất được ưa chuộng, có bao nhiêu bán hết bấy nhiên. Chẳng bao lâu, An Tiêm đã làm được nhà cửa to lớn, khai khẩn được nhiều đất đai để trồng lúa tỉa đậu, nuôi được nhiều loại gia súc và thuê được từ đất liền một vài người ra giúp việc. Một lần, chàng gửi theo thuyền buôn hai mươi quả dưa thật lớn, thật đẹp, để dâng lên vua Hùng, nhắn rằng đấy là quà của con nuôi vua từ đảo gửi về tiến ngự. Bận việc triều chính ngày này sang ngày khác, vua Hùng đã quên đi việc An Tiêm bị đày. Thấy những quả dưa màu xanh như ngọc và nghe nhắc tới An Tiêm, vua bỗng giật mình. Hơn bốn năm trời đã đi qua từ khi vua đày An Tiêm ra đảo Sa Châu. Lập tức ngài ra lệnh cho thuyền ra đảo để xem tình trạng của An Tiêm ra sao. Sau khi nghe nói An Tiêm đã lập nên sự nghiệp phồn thịnh ngoài đảo, vua lẩm bẩm một mình: “Những lời nó nói về hạt và trái ba đời quả là đúng. Đây không phải là sự vong ơn mà chỉ là một niềm tin của con người nơi trách nhiệm hành động của mình.” 77 | 08. Hạt gieo ngày trước Vua bèn ra lệnh triệu gia đình An Tiêm về, phục cho chức cũ. Từ đó giống dưa Hảo được gieo khắp xứ Văn Lang. Và câu chuyện về nhân quả tiền thân của An Tiêm được mọi người nhắc lại mỗi khi ăn dưa. Lâu ngày, người ta đọc dưa Hảo trại đi thành dưa Hấu. Đảo hoang mà ngày xưa An Tiêm ở được gọi là đảo Sa Châu An Tiêm, và những người ngoại quốc lần đầu tiên được ăn dưa ở phía bãi Tây của đảo thì gọi là dưa Tây, và gọi An Tiêm là “bố mẹ của dưa Tây”, danh xưng của chàng được truyền tụng và tồn tại với giống dưa vỏ xanh, ruột đỏ thắm và hạt đen nhánh như răng mới nhuộm của các cô thiếu nữ. 78 | 08. Hạt gieo ngày trước 09. Nón gậy ảo hóa Hà Lõa là khu buôn bán rất phồn thịnh. Các nhà buôn nước ngoài thường hay ghé lại đây, không lúc nào là không có. Hà Lõa không xa biển mấy, nhưng lại cách kinh đô Phong Châu rất xa. Thuyền buồm nước ngoài ghé lại cửa biển có khi neo lại hàng năm sáu tháng. Khách buôn nước ngoài đi thẳng lên Hà Lõa để cư trú và buôn bán trong những tháng ở lại Văn Lang. Ở đây có đủ mọi tiện nghi; người ta muốn mua gì cũng có. Lại có nhiều người biết tiếng ngoại quốc, có thể thông dịch bất cứ tiếng nào. Vải bô và thuốc men do thuyền buôn ngoại quốc đưa tới được bày bán giữa chợ và trong các gian hàng quanh chợ. Người tứ xứ đến mua sỉ để đem về địa phương bán lại cho dân chúng. Có một điều lạ là một thị trấn quan trọng như vậy mà không có một quân lính canh giữ. Người ta chưa nghe nói đến một vụ trộm cướp hay giết người nào xảy ra tại đây… Ai cũng nói rằng sở dĩ dân chúng được an cư lạc nghiệp như vậy là do đức độ của Mỵ Nương Tiên Dung và Đồng Tử Chữ Xá. Mỵ Nương Tiên Dung là con gái vua Hùng Vương thứ tư, nàng cùng Đồng Tử họ Chữ kết duyên sinh sống tại đây mà không về Phong Châu. Chính hai người đã làm cho làng Hà Lõa từ một làng nhỏ lơ thơ mấy chục nóc tranh biến thành một thị trấn phồn thịnh như ngày nay. Cơ sở của hai người lớn lao hơn hết ở thị trấn: nhà cửa cao lớn, kho lẫm hàng hóa chất đầy, người tay chân ra vào tấp nập. Nhưng nay tất cả những tài sản đó đã được họ hiến tặng cho dân nghèo. Bao nhiêu hàng hóa đều được đem bán; tiền bạc thâu được đã đem chia cho hàng ngàn gia đình nghèo khổ để làm vốn kiếm ăn. Những nhà 79 | 09. Nón gậy ảo hóa cửa đồ sộ kia cũng đã được bán đi để lấy tiền cấp dưỡng những người ốm đau tàn tật. Mỵ Nương và Đồng Tử không giữ lại một vật gì hết ngoài áo quần mà họ đang mặc trên người. Họ chỉ giữ lại một cây gậy, một chiếc nón với một chiếc bát. Đi đâu họ cũng mang theo ba món ấy, và họ ăn dưới bóng cây, ngủ dưới gốc cây. Sáng hôm nay, dân chúng Hà Lõa xôn xao kinh khiếp vì một tin dữ vừa mới bay tới: triều đình gởi đại binh tới Hà Lõa để chiếm cứ thị trấn, bởi vì có người báo cáo với vua Hùng là Tiên Dung và Đồng Tử đã lấy Hà Lõa làm cứ điểm thành lập một nước mới để chống chọi với Phong Châu. Chỉ trong một hôm nữa là binh đội của triều đình ập tới. Nhiều nhà đã sửa soạn để rời khỏi Hà Lõa. Tất cả thị trấn xôn xao như một đàn ong vỡ tổ. Mỵ Nương Tiên Dung và Chữ Đồng Tử tiếp nhận tin này một cách bình tĩnh. Hai người biết dân chúng Hà Lõa không thể di tản được hết trong vòng một đêm, mà nếu vậy thì nhiều người sẽ kẹt vào giữa vòng tên đạn, dù không có ai có ý chống lại triều đình. Các bô lão của thị trấn đã đi khắp làng để tìm Tiên Dung và Đồng Tử. Họ gặp hai người ở đầu làng. Họ thấy Đồng Tử đang ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây. Tiên Dung nói với họ là chàng đang định thần để tìm ra phương pháp tránh đổ máu cho dân chúng. Nàng đứng nói chuyện với các bô lão. Ở Hà Lõa ai cũng từng nghe nói chuyện về cuộc nhân duyên kỳ lạ giữa Tiên Dung và Đồng Tử làng Chữ Xá. Ngày xưa khi Đồng Tử còn bé; ông ta ở với người bố tên là Chữ Vi Vân ở làng Chữ Xá. Mẹ của Đồng Tử mất sớm. Ông bố của chàng nuôi và dạy chàng. Thấy con trai thông minh, hiền lành, lại có hiếu, ông rất yêu mến. Nhà nghèo ông phải đánh cá từ sáng đến chiều mới có đủ cá để bán lấy tiền mua gạo, mắm và rau. Đồng Tử lớn lên và bắt đầu có thể giúp bố trong việc chài lưới. Một hôm, trong khi hai cha con đang lặn lội dưới sông thì chiếc nhà lá của họ bốc cháy. Lúc trở lên thì căn nhà chỉ còn là một đống tro lớn: tất cả mọi vật dụng đều cháy hết. Đồng Tử không có một mảnh vải che thân, còn cha chàng thì còn lại được trên mình một chiếc khố vải. 80 | 09. Nón gậy ảo hóa