"Hướng Dẫn Kỹ Thuật Nuôi Trồng Thuỷ Sản Tập 2 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hướng Dẫn Kỹ Thuật Nuôi Trồng Thuỷ Sản Tập 2 Ebooks Nhóm Zalo HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng PGS.TS. NGUYỄN THẾ KỶ Phó Chủ tịch Hội đồng TS. HOÀNG PHONG HÀ Thành viên TRẦN QUỐC DÂN TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI TS. NGUYỄN AN TIÊM NGUYỄN VŨ THANH HẢO LỜI NHÀ XUẤT BẢN Nuôi trồng thủy sản Việt Nam những năm gần đây phát triển nhanh chóng, đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước, góp phần quan trọng vào việc khai thác tiềm năng đất đai, ao hồ, ruộng trũng; đồng thời, phát huy sức lao động sẵn có ở vùng nông thôn. Vai trò của nuôi trồng thủy sản thể hiện ở việc: Phục vụ thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; cung cấp chất đạm động vật rất tốt cho sức khỏe con người; bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm; tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo; chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn; tạo việc làm và tăng hiệu quả sử dụng đất đai; bảo đảm chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh, quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa, nhất là ở vùng biển và hải đảo. Để giúp cho các chủ trại và các hội nuôi trồng thủy sản có thêm những hiểu biết về kỹ thuật nuôi một số thủy sản hàng hóa có hiệu quả kinh tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phối hợp với Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xuất bản cuốn sách Hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, tập 2, do TS. Nguyễn Thanh Tùng, Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và ThS. Nguyễn Thị Thủy biên soạn. Nội dung cuốn sách giới thiệu một số tiến bộ kỹ thuật 5 đã được ứng dụng trong thực tế, những kiến thức cơ bản, cần thiết về nuôi một số loại thủy sản. Cuốn sách cũng trình bày khá chi tiết về đặc điểm sinh học của các loài thủy sản, chọn giống, kỹ thuật nuôi, chăm sóc, quản lý, thu hoạch, một số bệnh thường gặp và biện pháp phòng bệnh đối với các loại thủy sản đó. Những nội dung này được các tác giả qua thực tế nghiên cứu nhiều năm tổng kết lại. Nội dung nêu trong cuốn sách được trình bày ngắn gọn, cụ thể, dễ hiểu, có tính khoa học cao và sát thực tế. Cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích cho những người nuôi trồng thủy sản. Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 12 năm 2015 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT 6 Chương I VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN TRONG CÁC AO, HỒ NHỎ 1. Các yêu cầu về ao, hồ nuôi trồng thủy sản Trước khi tiến hành xây dựng một ao nuôi hay trại nuôi trồng thủy sản cần phải điều tra các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng. Đây là khâu quan trọng đầu tiên ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng hiệu quả sau này. Để chọn địa điểm làm ao nuôi thích hợp cần phải điều tra xem xét kỹ lưỡng hai yếu tố sau: Các yếu tố môi trường nơi định xây dựng ao nuôi và điều kiện kinh tế, xã hội, nơi định xây dựng ao nuôi. a) Nguồn nước Trong nuôi trồng thủy sản, nước giữ vai trò rất quan trọng vì nước là môi trường sống của thủy sinh vật. Xây dựng ao nuôi cần chọn nơi có nguồn nước sạch, phong phú, không bị ảnh hưởng bởi các nguồn nước thải. Trong trường hợp nguồn nước có nhiễm bẩn cần có biện pháp cải tạo cho phù hợp. b) Chất lượng nước Chất lượng nước được quyết định bởi các thành 7 phần của các chất hòa tan trong nước. Chất lượng nước tốt cung cấp cho cá đầy đủ thức ăn tự nhiên để lớn và cung cấp đủ ôxi cho cá thở. Nước tốt làm cho cá ăn nhiều, khỏe mạnh và lớn nhanh. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nước như: - Nhiệt độ nước Nhiệt độ đóng vai trò quan trọng cho quá trình sinh trưởng và phát triển của các loài nuôi trồng thủy sản. Các loài thủy sản được nuôi phổ biến ở nước ta đều sinh trưởng tốt trong phạm vi nhiệt độ từ khoảng 200C - 300C. Miền Bắc nước ta có mùa đông lạnh, nhiệt độ có khi xuống thấp dưới 200C làm chậm sinh trưởng của sinh vật nuôi và sinh vật làm thức ăn cho chúng. Nhiệt độ ảnh hưởng lên các quá trình sinh học và hóa học trong nước. Tốc độ phản ứng hóa học và sinh học tăng lên gấp đôi khi tăng nhiệt độ lên 100C. Do đó nhu cầu ôxi hòa tan của thủy sinh vật cao hơn trong nước ấm so với nước lạnh. Khi xử lý hóa chất cho ao nuôi cũng bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ. Phân bón hòa tan nhanh hơn trong nước ấm, thuốc cá cũng phân hủy nhanh hơn trong nước ấm và lượng tiêu thụ ôxi của sinh vật phân hủy hữu cơ cũng lớn hơn. - Màu nước, độ trong Màu nước trong ao hồ nuôi thủy sản được hình thành chủ yếu do các sinh vật nổi như là các loài 8 tảo, ấu trùng các loài giáp xác... Đối với ngành thủy sản, màu nước được xem là lý tưởng để nuôi tôm, cá tốt nhất là màu xanh nõn chuối và màu vàng vỏ đậu xanh. Trong các ao hồ nuôi thủy sản có màu nước này cho thấy ao nuôi rất nhiều thức ăn tự nhiên, phong phú về chủng loại thức ăn tự nhiên, cân bằng các yếu tố môi trường và ít các loài tảo độc, rong độc, giàu dưỡng chất. Màu nước được hình thành thông qua biện pháp bón phân để gây màu nước. Sử dụng đĩa Sechi để đo độ trong của nước. Trong ao nuôi các đối tượng thủy sản màu nước ao thích hợp từ 30 - 40 cm. Hình 1: Đĩa Sechi - pH pH là chỉ số đo đặc trưng về độ axít (chua) hoặc độ kiềm (chát) của nước. pH thấp chứa nhiều axít và pH cao chứa nhiều kiềm và pH = 7 được gọi là 9 trung tính, pH tốt cho nuôi thủy sản từ 7,5 đến 8,5. Trong nuôi trồng thủy sản, pH của nước thường xuyên biến động theo chu kỳ ngày đêm, biên độ biến động tăng dần từ đầu cho đến cuối vụ nuôi. pH của nước thường thấp ở vùng đất phèn hoặc pH giảm đột ngột sau những cơn mưa đầu mùa. Sự biến động pH quá lớn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tôm, cá như gây sinh trưởng chậm và làm giảm tỷ lệ sống. pH quá cao (vào buổi trưa) hay quá thấp (vào sáng sớm) còn có ảnh hưởng gián tiếp tới hàm lượng các khí độc. Khi pH cao sẽ làm tăng hàm lượng NH3, ngược lại pH thấp sẽ làm tăng hàm lượng H2S gây độc cho cá. Để đo độ pH nước có thể dùng máy đo pH, bộ dụng cụ đo nhanh hay giấy quỳ tím. Hình 2: Qùy tím và máy đo pH cầm tay - Ôxi hòa tan Ôxi là khí quan trọng nhất trong số các khí hòa tan trong môi trường nước. Khí ôxi rất cần đối với đời sống sinh vật đặc biệt đối với thủy sinh vật. Đối 10 với tôm, cá, hàm lượng ôxi hòa tan trong nước lý tưởng là trên 5 ppm, nuôi thủy sản, hàm lượng ôxi hòa tan phải luôn cao hơn 3mg/l. Tuy nhiên, nếu hàm lượng ôxi hòa tan ở mức bão hòa, tôm, cá sẽ bị bọt khí trong máu, làm tắt nghẽn các mạch máu dẫn đến não và tim, làm xuất huyết các vây và hậu môn. Thiếu ôxi sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình bắt mồi, tăng trưởng, sinh sản của tôm, cá. Ôxi thay đổi theo nhiệt độ và hoạt động của các sinh vật trong nước. Hàm lượng ôxi hòa tan tầng mặt cao hơn tầng đáy, ôxi hoà tan sẽ giảm khi nhiệt độ và độ mặn giảm. Về mặt chất lượng nước, hàm lượng ôxi hòa tan cao là dấu hiệu của vùng nước sạch, khi hàm lượng ôxi hòa tan giảm thấp sẽ kìm hãm tốc độ tăng trưởng của vật nuôi và thúc đẩy sự xuất hiện của các độc tố với thủy sinh vật. Ôxi hòa tan có thể đo bằng máy đo hiện trường hoặc bằng test đo nhanh, phương pháp Winkle. - Độ cứng Độ cứng của nước là số đo chỉ hàm lượng các chất khoáng hòa tan trong nước, chủ yếu là các muối có chứa ion calcium Ca2+ và magnesium Mg2+. Độ cứng gây ra bởi các ion Ca2+ và Mg2+ trong các muối cacbonat là độ cứng tạm thời (chúng có thể bị loại ra bằng cách đun nóng). Các ion Ca2+ và Mg2+ trong các loại muối clorua và sunphat rất khó loại khỏi nước nên độ cứng gây ra bởi các ion này còn gọi là độ cứng vĩnh cửu. 11 Độ cứng được tính bằng mg/l của CaCO3 trong nước và được phân chia: + Từ 0 - 75 ppm CaCO3 là nước mềm. + Từ 75 - 150 ppm CaCO3 là nước hơi cứng. + Trên 300 ppm CaCO3 là nước rất cứng. Độ cứng của nước trong ao, hồ thích hợp nuôi tôm, cá là 20 - 150 ppm. Nước có độ cứng cao hoặc mềm đều không có lợi cho cá. Cá sống trong môi trường nước cứng và kiềm lớn nhanh hơn trong môi trường nước mềm và axít. Độ cứng của nước ảnh hưởng đến tôm, cá nuôi thông qua vai trò điều hòa áp suất thẩm thấu, ảnh hưởng đến điều hòa lượng Ca+2 trong máu. Ngoài ra, độ cứng của nước còn ảnh hưởng đến độc tính của một số hóa chất và thuốc trừ sâu. Nước có hàm lượng Ca+2 cao có khả năng làm giảm tính độc của một số ion kim loại nặng và thuốc trừ sâu. - Độ kiềm Độ kiềm của nước được hiểu là khả năng thu nhận axít (H+) của nước do sự có mặt của các bazơ trong đó. Khi đưa axít vào nước, pH của nước giảm, mức độ giảm pH của nước (cùng lượng axít đưa vào) phụ thuộc vào loài và nồng độ bazơ trong nước. Độ kiềm trong nước ít có tác động trực tiếp đến đời sống của các loài thủy động vật mà tác động lên các yếu tố có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp và trạng thái của ao, hồ. Yếu tố tác động gián tiếp chính có thể là: Ảnh hưởng tới pH, ảnh hưởng tới 12 sinh trưởng của thủy thực vật và đặc tính của kim loại nặng trong nước. Độ kiềm giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì hệ đệm của môi trường nước. Độ kiềm được xem là một trong những chỉ tiêu quan trọng duy trì được sự biến động thấp nhất của pH nước ao nuôi, hạn chế tác hại của chất độc có sẵn trong ao nhằm không tạo ra các sốc bất lợi cho tôm, cá nuôi. Các yếu tố làm thay đổi độ kiềm trong ao nuôi thường là: ao bị phèn, lượng mưa nhiều, ao có nhiều ốc... Độ kiềm của ao, hồ nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào nguồn nước cấp và bản chất của nền đáy ao, hồ. Axít thấm ra từ đất của một số nền ao, hồ sẽ làm giảm độ kiềm của nước. Ngược lại, độ kiềm của nước tăng trong ao hồ có chứa đá vôi, đặc biệt với nguồn nước có độ cứng và độ kiềm ban đầu thấp. Sau khi nguồn nước đã ổn định, với ao, hồ mới sử dụng thì sự thay đổi lớn về độ kiềm chỉ xảy ra khi có pha loãng (mưa to), bốc hơi (hạn hán) hoặc đưa thêm các chất tạo axít hoặc bazơ vào ao, hồ. Tổng độ kiềm được đo bằng đơn vị mg/l CaCO3, giá trị thích hợp cho động vật nuôi thủy sản từ 75 đến 200 mg/CaCO3. - Amonia Amonia hiện diện trong các thủy vực chủ yếu có nguồn gốc từ quá trình phân hủy các protein của xác các động, thực vật thủy sinh, các sản phẩm bài tiết của động, thực vật hay từ phân bón vô cơ, hữu cơ. 13 Hình 3: Test đo nhanh môi trường Trong nước, amonia tồn tại dưới hai dạng amonia tự do (NH3) và ion amonium (NH4+) trong trạng thái cân bằng phụ thuộc vào pH và nhiệt độ. NH3 là dạng độc nhưng NH4+ lại không độc, chúng rất dễ chuyển đổi cho nhau theo công thức: NH3 + H2O = NH4+ + OH Tỷ phần NH4+ và NH3 phụ thuộc vào nhiệt độ nước và pH, NH3 dạng độc sẽ tăng khi nhiệt độ nước và pH tăng. Độ độc của NH3 sẽ tăng khi ôxi hòa tan thấp và sẽ giảm khi ôxi hòa tan cao. Vì vậy, việc quản lý amonia hiệu quả cần chú ý đến pH và sự thay đổi pH. NH3 ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ sống, sinh trưởng đối với thủy sinh vật. NH3 trong máu và các mô tăng làm pH máu tăng dẫn đến rối loạn những 14 phản ứng xúc tác của enzyme và độ bền vững của màng tế bào, làm thay đổi độ thẩm thấu của màng tế bào có thể gây chết tôm, cá vì không điều khiển được quá trình trao đổi muối giữa cơ thể và môi trường bên ngoài. NH3 cao cũng làm tăng tiêu hao ôxi của mô, làm tổn thương mang và làm giảm khả năng vận chuyển ôxi của máu. Ngoài ra, khi hàm lượng amonia cao nhưng chưa tới ngưỡng gây chết cho động vật thủy sinh chúng sẽ gây một số ảnh hưởng như: Gia tăng tính mẫn cảm của động vật thủy sản, ức chế sự sinh trưởng bình thường, giảm khả năng sinh sản, giảm khả năng chống bệnh. NH4+ trong nước rất cần thiết cho sự phát triển của các sinh vật làm thức ăn tự nhiên, nhưng nếu hàm lượng NH4+ quá cao sẽ làm cho thực vật phù du phát triển quá mức không có lợi cho cá. Amonia là khí rất độc cho nuôi trồng thủy sản, nên kiểm soát chúng ở một mức độ phù hợp để bảo đảm cho ao nuôi. Tuy nhiên, việc đo trực tiếp amonia là không khả thi do đó cần đo TAN (tổng amoni - cả NH3 và NH4+) rồi thông qua pH và nhiệt độ của ao nuôi có thể dễ dàng tính ra được giá trị NH3 và NH4+. Ở giá trị pH từ 7 đến 8, nồng độ amoni (TAN) lên đến 4 hoặc 5 mg/l có thể không gây độc trong ao. Tuy nhiên, ở pH từ 8,5 - 9,5 hàm lượng 4-5 mg/l NH3 có thể gây độc. Ao nuôi ít khi nào chứa hàm lượng NH3 vượt quá 4 hoặc 6 mg/l. NH3 sinh ra từ quá trình phân hủy protein và 15 bài tiết của động vật cho nên để quản lý hàm lượng NH3 cần chú ý đến một số vấn đề sau: - Cải tạo ao tốt trước mỗi vụ nuôi (loại bỏ vật chất hữu cơ tích tụ trong ao). - Duy trì mật độ nuôi thích hợp. - Không cho thức ăn quá thừa và bón phân quá liều. - Khống chế mức dao động pH nước ao theo ngày đêm không quá 1,0. - Thay nước khi hàm lượng amonia vượt quá mức cho phép. - Bón phân khi hàm lượng amonia quá thấp. - Nitrite (NO2) Nitrite là một hợp chất trung gian trong quá trình ôxi hóa nitơ amonia thành nitrate do vi khuẩn nitrat hóa trong đất và nước, độc hơn nitrate (NO3) nhiều. Nitrite hình thành từ chất thải của con nuôi, sự phân hủy thức ăn thừa, cây cỏ và động vật thối rữa. Nitrite đi vào cơ thể động vật thủy sinh qua mang, và các vết xước lở. Nitrite tác dụng với máu, gây bệnh máu nâu, ngăn không cho cơ thể hấp thụ ôxi nên ảnh hưởng mạnh đến các loại máu đỏ. Hàm lượng NO2 cần nhỏ hơn 0,5mg/l trong nuôi thủy sản. Một số biện pháp quản lý nitrite: - Không để thức ăn thừa và bón phân quá liều. - Không nuôi thủy sản với mật độ quá dày. - Thay nước khi hàm lượng nitrite vượt quá mức cho phép. 16 - Bổ sung ôxi hoà tan. - Lọc nước. - Sulfur (H2S) Khí H2S tích tụ dưới nền đáy các thủy vực chủ yếu là do quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh, thường hay gặp ở hầu hết các thủy vực nước ngọt. Hoặc H2S sinh ra trong quá trình phản sulfate hóa với sự tham gia của các vi khuẩn yếm khí, thường gặp ở thủy vực nước lợ, mặn như biển và đại dương nơi có nhiều ion SO42- trong nước. H2S được hình thành trong điều kiện nhiệt độ cao và trong thủy vực có nhiều hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh. H2S có mùi đặc trưng đó là mùi trứng thối. H2S là một chất khí cực độc đối với thủy sinh vật, tác dụng độc của nó là liên kết với sắt trong thành phần của hemoglobine trong máu, không có sắt thì hemoglobine không có khả năng vận chuyển ôxi cung cấp cho các tế bào, thủy sinh vật sẽ chết vì thiếu ôxi. Độ độc của H2S đối với cá phụ thuộc vào nhiều yếu tố như pH, nhiệt độ của nước. Trong mùa hè, khí H2S thường được hình thành nhiều ở nền đáy thủy vực, hạn chế sự phát triển của nhiều loại động vật đáy, hạn chế thức ăn tự nhiên của một số loài cá, năng suất cá nuôi bị giảm. Vào mùa đông, sự tích lũy khí H2S ở đáy ao nhiều bùn gây nên hiện tượng thiếu ôxi có thể dẫn đến cá chết, nhất là các ao nước tù. 17 Hình 4: Máy đo H2S Hàm lượng H2S khoảng 0,01mg/l có thể gây chết tôm, cá. Trong môi trường nước nuôi thủy sản, yêu cầu hàm lượng H2S phải nhỏ hơn 0,003mg/l. Để tránh sự hình thành nhiều khí H2S gây độc cho các ao nuôi cần hạn chế sự tích lũy hữu cơ ở đáy ao và tình trạng yếm khí, cụ thể như: - Cải tạo ao tốt đầu vụ nuôi. - Quản lý tốt thức ăn và hạn chế thức ăn thừa. - Khi sử dụng phân bón, nhất là phân hữu cơ nên hóa thành dung dịch tưới khắp mặt ao. Lá dầm (phân xanh) trong ao phải được giữ ở tầng mặt và thường xuyên đảo trộn để chúng phân hủy nhanh. - Ao phải thoáng để làm tăng ôxi hòa tan của nước nhằm tránh hiện tượng yếm khí. - Các ao nuôi thâm canh nên có sục khí để làm H2S thoát ra không khí nhanh hơn. - Sử dụng một số sản phẩm vi sinh để xử lý. 18 c) Chất đất Chất đất quyết định đến mặt đáy của ao nuôi và ảnh hưởng rất nhiều đến chất nước. Những năm đầu mới xây dựng, đáy ao thường nghèo dinh dưỡng, những năm sau do quá trình nuôi và bón phân tạo nên lượng bùn đáy ổn định thì ảnh hưởng của chất đất giảm dần. Có các loại chất đất sau: Đất sỏi, đất cát, đất sét pha cát, đất sét pha thịt, đất thịt pha cát, đất sét, đất thịt, đất mùn hữu cơ. Đất đào ao nuôi cá nên chọn nơi có đất sét pha cát, đất thịt, đất sét pha thịt vì các loại đất này giữ nước tốt, thấm nước vừa phải và bờ ao có kết cấu bền vững. d) Vị trí ao Vị trí ao nuôi cá nên chọn nơi gần sông, suối để dễ lấy nước và tháo cạn. Nếu chọn được nơi có nguồn nước cung cấp cho ao quanh năm là tốt nhất. Hướng ao: Xây dựng sao cho tiếp nhận được ánh sáng nhiều nhất. Tùy theo điều kiện từng nơi mà hướng ao có thể khác nhau, thông thường là hướng đông - tây. Ở một số vùng nên tránh làm ao nuôi do các đặc tính sinh thái chung hoặc thổ nhưỡng, như các vùng trồng đước hoặc nơi có đất phèn tiềm tàng hoặc nước bị ô nhiễm cao. Ngoài ra, các đặc điểm của đất, địa thế và chất lượng nước ở mọi vị trí trong tương lai nên được cẩn thận đánh giá về các mặt hạn chế hiện có mà chưa rõ ràng qua kiểm tra trực quan. 19 Nếu đã xác định được các hạn chế, nhược điểm của vị trí xây dựng ao thì các phương pháp giảm thiểu nên cần được đánh giá mức độ khả thi về mặt kinh tế và kỹ thuật. Nếu khả năng giảm thiểu một trong những hạn chế nghiêm trọng này không thể thực thi được thì nên tránh xây dựng ao ở các vị trí này. đ) Địa hình Nên chọn nơi xây dựng ao có địa hình bằng phẳng để dễ xây dựng. Khu vực trũng, chứa nước lâu năm nền đáy thường nhão, bờ không chắc chắn. Nếu chọn vùng hay ngập lụt bờ cần phải cao. Cần chú ý đến cả nguồn cung cấp thức ăn, phân bón và nhất là khả năng lợi dụng nguồn nước thải không bị nhiễm chất độc, có điều kiện mở rộng để phát triển chăn nuôi. e) Diện tích Diện tích ao thích hợp cho nuôi cá nên từ 3.000 - 7.000m2. Với những hộ nuôi có ao nuôi nhỏ thì diện tích cũng phải từ 200m2 trở lên. Những ao nhỏ không có điều kiện mở rộng chỉ nên nuôi các loài cá có đặc điểm sinh học thích hợp như cá trê, cá rô phi. Ao quá nhỏ thì năng suất thấp, ao lớn quá sẽ khó chăm sóc và quản lý. Tuy nhiên ao có diện tích lớn thì môi trường nước tương đối ổn định so với ao nhỏ, cá thường lớn nhanh hơn cá nuôi trong ao nhỏ. Tuy nhiên, ao lớn, lượng giống thả nhiều nên 20 khó quản lý chất lượng nước và thu hoạch phức tạp. Ao nhỏ thì lượng cá giống thả ít hơn nên dễ bón phân gây màu nước ao, chăm sóc và thu hoạch dễ dàng hơn. Hình dạng ao không ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cá, nên có thể tận dụng mọi địa hình để xây dựng ao. Song, thiết kế ao hình vuông hay hình chữ nhật để dễ chăm sóc, quản lý và thu hoạch. g) Độ sâu và bùn đáy Độ sâu của ao cũng rất quan trọng, độ sâu của ao không nên quá 3m, vì ở độ sâu 3m trở lên thường thiếu ôxi, sinh vật đáy không phát triển, cá cũng không sống ở đó và cũng khó chăm sóc, quản lý ao. Ngược lại, ao nông lượng nước ít thì các yếu tố môi trường biến động lớn, gây khó khăn trong việc quản lý các yếu tố môi trường. Vậy nên độ sâu của ao phải từ 0,8 - 3m, thích hợp nhất là từ 1,5 - 2m. Ao ương cá giống thì độ sâu thấp, ao nuôi thương phẩm độ sâu cao hơn. Trong phạm vi từ 0,8 - 3m, năng suất cá nuôi tỷ lệ thuận với độ sâu (là chiều sâu của mực nước được giữ thường xuyên). Ao sâu có nhiều thức ăn tự nhiên hơn, lượng cá thả cũng nhiều hơn nên năng suất thường cao hơn ao đào nông. Tuy nhiên, một số vùng nếu đào sâu, đất bị chua phèn, để cải tạo sẽ tăng chi phí xây dựng công trình nên tùy theo điều kiện để đào ao có độ sâu hợp lý. Đáy ao cần có lớp bùn từ 10 - 30cm để giữ nước 21 không bị ngấm đi và ngăn không cho phèn ở tầng đáy tác động vào. Với lớp bùn này, các loài sinh vật sống đáy cũng phát triển tốt, nhất là khi được bón phân cải tạo ao. Tuy nhiên, sau mỗi vụ nuôi thâm canh và bán thâm canh cần phải vét bớt lớp bùn đáy ao để tăng độ sâu cho ao, loại bỏ các vi sinh vật gây hại, chất độc, khí độc như CH4, H2S thải vào nước. Lớp bùn đáy dày khiến cho axít bùn tích tụ nhiều khiến nước ao bị chua, lớp bùn dày ở đáy ao còn khiến những muối dinh dưỡng tích tụ ở tầng bùn sâu không có điều kiện hòa tan vào môi trường nước ao. Với các ao có diện tích và độ sâu lớn mà gặp khó khăn trong việc nạo vét bùn đáy thì sau 2 - 3 năm cũng nên tiến hành nạo vét. Trái lại, với ao đáy trơ, lượng bùn ít thì cần bón nhiều phân hữu cơ, cày bừa và bón vôi cải tạo đáy để đáy ao là nơi điều hòa muối dinh dưỡng cho ao. h) Điều kiện giao thông Ao nuôi thủy sản phải có giao thông thuận lợi, đi lại dễ dàng để thuận tiện cho việc vận chuyển giống, thức ăn, phân bón, vật tư và tiêu thụ sản phẩm. i) Khả năng nuôi tổng hợp của trại Khi xây dựng ao nuôi cá cần nghiên cứu khả năng nuôi tổng hợp, kết hợp với chăn nuôi để tận dụng nguồn phân bón, thức ăn. Cần nghiên cứu vị trí xây dựng chuồng trại để lợi dụng tối đa nguồn chất thải để tiết kiệm công vận chuyển cho ao nuôi. 22 Khi kết hợp nuôi cá với trồng trọt cần bố trí ao và cây hỗ trợ cho nhau, không ảnh hưởng đến nhau. Ví dụ mô hình VAC, là một mô hình kết hợp cá-gia súc và cá-hoa màu, trong đó phân động vật và bùn ao từ mô hình kết hợp cá-gia súc được dùng làm phân và các sản phẩm thu từ vườn được dùng làm thức ăn cho cá và gia súc. Các mô hình VAC hay gặp nhất là mô hình cá - cỏ - lợn (heo) và cá - lợn (heo) - hoa màu. 2. Xây dựng ao nuôi Khi tiến hành xây dựng ao nuôi cần phải bảo đảm các nguyên tắc: - Xác định cao trình ao nuôi: Xác định cao trình ao nuôi để xây dựng ao nuôi nhằm giảm đến mức thấp nhất chi phí nguyên liệu, tiền điện phục vụ bơm cấp, thoát nước. Xác định cao trình ao nuôi dựa vào: + Quy luật giao động của thủy triều, dựa vào quy luật của thủy triều ta có thể chọn cao trình ao nuôi hợp lý đảm bảo cấp đầy, tháo cạn nước trong ao nuôi. + Dựa vào khả năng cấp, thoát nước của các công trình thủy nông tưới tiêu nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. + Dựa vào khả năng tự chảy của các dòng suối, hoặc nước trong các khe núi, vách núi. - Chuẩn bị mặt bằng và đào đắp: 23 + Sau khi đã chọn cao trình ao nuôi thích hợp, tiến hành khoanh vùng để xây dựng ao nuôi. + Dùng máy ủi hoặc nhân công tiến hành đào đắp ao. Toàn bộ đất đào ao được tận dụng để đắp bờ ao, nếu có điều kiện nên kè bờ ao. + Bờ ao phải đủ cao để chống ngập úng, bờ ao phải cao hơn mức nước cao nhất bên ngoài hoặc mực nước trong ao tối thiểu 0,5m. Bề mặt bờ ao rộng 1,5m, chân bờ 3,5m, hệ số mái >1 là tốt nhất. - Hệ thống cống cấp, thoát nước: + Xây dựng hai cống cấp, thoát nước riêng biệt ở hai bờ đối diện nhau. Đáy ao nghiêng về cống thoát nước. Nên dùng cống xây hoặc cống bê tông để thuận tiện cho việc sử dụng. Riêng đối với ao nuôi lợi dụng dao động của thủy triều để cấp, thoát nước, việc xây dựng khẩu độ cống sao cho cấp đầy hoặc tháo cạn trong vòng 4 - 5giờ. - Hệ thống máy quạt nước, máy sục khí: - Đối với những ao có diện tích lớn nuôi với mật độ dày, năng suất cao nên bố trí hệ thống máy quạt nước hoặc dùng máy sục khí. 3. Xử lý nước a) Xử lý trước khi nuôi Yếu tố quyết định thành công trong nuôi thủy sản phải kể trước tiên đó là nguồn nước. Chính vì vậy, việc xử lý và quản lý nguồn nước phải được đặt lên hàng đầu. Nước dùng trong nuôi trồng thủy sản thường chứa nhiều loại tác nhân gây bệnh, vì 24 vậy trước khi sử dụng để nuôi trồng thủy sản, cần xử lý nước để tiêu diệt tác nhân gây bệnh. b) Xử lý bằng phương pháp cơ học và vật lý Xử lý nước bằng phương pháp cơ học là đưa nước vào ao chứa để lắng lọc, hay cho nước chảy qua các bể lọc xuôi hoặc ngược để loại bỏ các chất vẩn hữu cơ lơ lửng có trong nước. Trên các vẩn hữu cơ này có nhiều sinh vật gây bệnh. Hình thức lọc thô này không thể tiêu diệt triệt để các loại tác nhân gây bệnh nên có thể dùng phương pháp vật lý. Xử lý nước bằng phương pháp vật lý là dùng đèn cực tím ở bước sóng từ 240 - 280nm để kìm hãm khả năng sinh sản của vi khuẩn và nấm. Cách dùng đèn cực tím để kìm hãm vi khuẩn và nấm tốt hơn so với dùng các loại hóa chất diệt khuẩn và diệt nấm. Nên xử lý nước bằng phương pháp lọc cơ học trước khi sát trùng nước bằng đèn cực tím thì hiệu quả sẽ cao hơn. c) Phương pháp hóa học Đây là phương pháp dùng các loại hóa chất, thuốc sát trùng khác nhau như iodine, chlorine, thuốc tím, formol... nhằm diệt khuẩn, diệt các vi sinh vật có hại và tảo. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp này có thể tiêu diệt luôn cả hệ vi sinh vật có lợi, diệt tảo trong nguồn nước và cũng ảnh hưởng không tốt tới môi trường và sức khỏe con người. d) Xử lý trong khi nuôi Trong quá trình nuôi tôm cá cần luôn theo dõi 25 để phát hiện tôm, cá bị bệnh kịp thời để xử lý ngay. Không được tháo nước của ao đang bị bệnh ra ngoài kênh mương. Tiến hành sử dụng các thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học để xử lý bệnh của tôm, cá và môi trường nuôi. đ) Phương pháp sinh học Phương pháp này thường áp dụng trong các hệ thống nuôi tuần hoàn và bán tuần hoàn để xử lý nước đã sử dụng. Sử dụng các chế phẩm sinh học để cạnh tranh chiếm chỗ, kìm hãm sự phát triển của các vi khuẩn gây bệnh tồn tại trong môi trường nước. 4. Các loại phân sử dụng cho nuôi trồng thủy sản a) Phân hữu cơ Phân hữu cơ bao gồm phân chuồng, chất phế thải hữu cơ trong sinh hoạt, sản xuất và phân xanh. Phân chuồng là các loại phân gia súc, gia cầm như phân trâu, phân bò, phân lợn, phân gà... Phân xanh gồm các loại thân lá cây không đắng, không độc như: muồng, điền thanh, cúc tần, tăm hôi, cộng sản... được bó lại từng bó, dìm xuống ao. Sau một thời gian lá cây mục rữa sẽ làm phân bón cho ao. Phân hữu cơ có tác dụng chậm nhưng lâu bền hơn (do cần quá trình phân giải từ từ) so với phân vô cơ nhưng thành phần và hàm lượng chất dinh dưỡng không ổn định bằng. 26 Hình 5: Ủ phân hữu cơ Phân chuồng và chất thải hữu cơ khi bón xuống ao, chỉ có một phần được cá sử dụng làm thức ăn trực tiếp. Phần lớn loại phân hữu cơ sau khi bón xuống ao phải trải qua quá trình phân huỷ của các loại vi sinh vật thành các chất dinh dưỡng vô cơ. Sau đó các chất dinh dưỡng vô cơ này mới được tảo và thực vật thủy sinh hấp thụ để phát triển làm thức ăn cho động vật phù du hay các loại động vật thủy sinh khác và cá nuôi. Trước khi bón, phân chuồng nên được ủ kỹ, để làm giảm quá trình phân giải các chất hữu cơ xảy ra trong ao, hạn chế gây ô nhiễm môi trường nuôi cá. Phân hữu cơ nên được trộn với 1 - 2% vôi bột, chất thành đống, phủ kín bằng lớp bùn ao mỏng trong khoảng 1 tháng để diệt mầm bệnh. 27 b) Phân vô cơ: N, P, K Các loại phân vô cơ là phân có những muối dinh dưỡng như: đạm (N), lân (P), kali (K)... Vôi sống (CaO), ngoài tác dụng diệt trùng còn được coi như một loại phân bón cung cấp canxi cho sinh vật và làm giảm độ chua của ao, tăng cường hoạt động của vi khuẩn cố định đạm. Phân vô cơ có hàm lượng dinh dưỡng cao và ổn định. Tác dụng của phân vô cơ nhanh chóng, chỉ sau 1 - 2 ngày đã có hiệu quả, lại tiêu hao ít ôxi trong nước. Tuy nhiên, phân vô cơ có hạn chế là tác dụng trong thời gian ngắn nên không giữ được màu nước ao ổn định và chỉ chứa một số muối dinh dưỡng nhất định. Để khắc phục nhược điểm này của phân vô cơ nên dùng xem kẽ giữa phân hữu cơ và vô cơ. Nên bón phân làm nhiều lần, bón vào buổi sáng, ngày nắng và không bón vào ngày âm u. 5. Các loại vôi sử dụng trong nuôi trồng thủy sản Trong nuôi trồng thủy sản, việc sử dụng vôi là rất phổ biến và cần thiết, từ khâu cải tạo đến quản lý môi trường nước, tạo điều kiện cho đối tượng nuôi phát triển tốt. Vôi là một trong những chất dùng để xử lý môi trường khá rẻ tiền, có nhiều tác dụng và hiệu quả cũng rất cao, được khuyến cáo sử dụng rộng rãi để cải tạo ao đầm nuôi tôm, cá. Vôi được sử dụng rất rộng rãi để nâng pH nước (đặc biệt khi mưa lớn), tăng độ kiềm, khử phèn trong 28 đất và nước, diệt tạp, giảm tảo, sát khuẩn bờ ao, đáy ao, làm trong nước, giảm CO2, phân hủy mùn bã hữu cơ ở đáy ao, tạo môi trường kiềm giúp tôm cứng vỏ... Lượng vôi cần bón cho ao phụ thuộc vào mục đích sử dụng, diện tích ao và độ pH của ao. Có bốn loại vôi thường sử dụng trong nuôi trồng thủy sản. Trộn 10% vôi trong nước cất và đo pH của dung dịch sẽ xác định được vôi sử dụng là loại vôi gì. a) Vôi nông nghiệp/đá vôi hoặc vỏ sò xay (CaCO3): Nguồn gốc từ đá vôi, san hô, vỏ sò... được xay nhuyễn. Loại vôi này được sử dụng để làm tăng khả năng đệm của nước và có thể được sử dụng với số lượng lớn vì nó không gây ảnh hưởng nhiều đến pH của nước. b) Vôi tôi (Ca(OH)2): Loại vôi này được sản xuất từ việc nung đá vôi ở nhiệt độ cao 800 - 9000C. Sau khi nung thì cho nước vào để làm cho vôi mịn ra. Vôi tôi được dùng để cải tạo ao, làm tăng pH nước hoặc pH đất. Vôi tôi có thể gây ảnh hưởng lớn đến pH nước nên tránh bón vôi cho ao vào buổi chiều vì khi đó pH ao thường cao nhất. c) Vôi sống (CaO): Loại vôi này cũng được sản xuất bằng cách nung đá vôi ở nhiệt độ cao nhưng không cho nước vào. Dạng vôi này có hoạt tính cao nên ảnh hưởng rất lớn đến pH của nước nên không dùng để bón cho những ao đang nuôi tôm mà chỉ nên sử dụng để cải tạo ao, điều chỉnh pH đất khi chuẩn bị ao. 29 d) Vôi đen hay vôi dolomite (CaMg(CO3)2): Có nguồn gốc từ đá vôi đen (dolomite), có khoảng 4% magiê, có tác dụng hạ phèn, tăng hệ đệm trong ao nuôi và ít ảnh hưởng tới pH của môi trường. Tuy nhiên do giá thành cao nên loại vôi này ít được sử dụng. Trong nuôi thủy sản tùy từng điều kiện mà ta sử dụng: - Nếu cải tạo ao nuôi: dùng vôi nông nghiệp CaCO3 hay vôi tôi Ca(OH)2, sử dụng từ 7 - 10 kg/100m2, vùng phèn có thể tăng lượng vôi. - Nếu dùng để hạ phèn: Vào mùa mưa hay ở những vùng đất phèn thường có hiện tượng rữa trôi phèn sau những trận mưa và xì phèn từ đáy ao. Trong trường hợp này thường dùng vôi bột CaCO3 với liều lượng từ 1 - 3 kg/100m3 nước, hòa với nước để nguội lấy nước trong tạt đều khắp ao. Đối với bè nuôi cá: liều dùng từ 2 - 4 kg/10m3 nước trong bè, treo thành bịch nhỏ đầu dòng chảy của bè. - Vôi đưa xuống ao làm lắng chìm các chất hữu cơ dạng keo lơ lửng trong nước làm cho nước sạch. Qua thực tế sau mỗi trận mưa, nước dồn xuống ao nuôi, nước có nhiều phù sa và nước ao bị đục, hạn chế sự chiếu sáng vào nước, cản trở sự quang hợp của thực vật thủy sinh, ao bị thiếu ôxi cho tôm, cá. Dùng vôi CaCO3 để điều chỉnh độ trong của nước ao, liều lượng 1 - 2 kg/100m3 hòa với nước tạt khắp ao, độ trong sẽ trở lại bình thường. - Ngoài ra trong suốt quá trình nuôi cá tôm, định kỳ 10 - 15 ngày vào mùa mưa hoặc 25 - 30 ngày 30 vào mùa nắng nên dùng vôi nông nghiệp (CaCO3) ngâm lấy nước trong tạt đều khắp ao một lần, liều lượng từ 1 - 2 kg/100m3 nước (đối với bè thì treo túi vôi liều lượng 2 - 4 kg/10 m3 nước bè), vì đây là hình thức phòng bệnh cho cá, tôm hữu hiệu và rẻ tiền nhất. Nếu thường xuyên áp dụng biện pháp này thì cá, tôm sẽ ít bị bệnh. Trong những ao nuôi tôm định kỳ có thể sử dụng vôi đen để ổn định môi trường. 6. Hình thức nuôi cá Dựa vào đối tượng nuôi trong ao người ta chia làm hai loại: a) Nuôi đơn: Chỉ nuôi một đối tượng. Hình thức nuôi đơn thường áp dụng để nuôi chuyên một loài cá có giá trị kinh tế nào đó hoặc nuôi chuyên một loài cá trong ao có điều kiện môi trường không thuận lợi cho các loài cá khác như: Bống tượng là cá dữ chỉ ăn mồi động vật lớn hay cá tra được nuôi trong môi trường nuôi cá tra các loài cá khác không sống được. Tuy nhiên nuôi đơn sẽ không tận dụng hết cơ sở thức ăn tự nhiên có trong ao. Để tăng sản lượng cá trên một đơn vị diện tích ao nuôi, chỉ có một cách duy nhất là tăng mật độ cá thể và tăng đầu tư thức ăn. b) Nuôi ghép: Là nuôi từ hai đến nhiều loài cá trong ao với một số đối tượng chính và đối tượng phụ (ghép), trong cùng một thời điểm. Cá nuôi được lựa chọn theo đặc điểm dinh dưỡng và tập 31 tính sống của từng loại cá. Thành phần và số lượng cá được thả theo một tỷ lệ nhất định (thích hợp) để tận dụng hoàn toàn cơ sở thức ăn tự nhiên có trong ao, tận dụng tối đa diện tích ao nuôi nhằm tăng sản lượng cá nuôi trên một đơn vị diện tích ao lên cao nhất. 7. Cải tạo ao Cải tạo ao nhằm mục đích nâng cao cơ sở thức ăn tự nhiên và tạo điều kiện môi trường sống thích hợp cho cá nuôi. Nếu việc cải tạo ao làm đúng kỹ thuật có thể làm giảm chi phí từ 5-15% và tăng tỷ lệ sống của cá nuôi thương phẩm từ 10-30%. Đối với ao mới đào: Cần tát cạn tháo rửa chua từ 1-2 lần sau đó bón vôi làm tăng pH đất, tháo rửa 1-2 lần nữa sau đó lấy nước vào sao cho pH ổn định ở mức trên 6,5. Tiếp đến tiến hành gây màu nước bằng phân chuồng, lượng phân bón với ao mới đào cần bón đủ lượng sao cho màu nước luôn ổn định không bị mất màu đột ngột. Đối với ao cũ: Tát cạn ao, tu sửa bờ cống cấp thoát nước, vét bùn đáy chỉ để lại mức 10-20cm bùn đáy, nhằm làm tăng độ sâu nước ao và giảm sự biến động nhiệt độ trong ngày, đồng thời cải tạo nền đáy. a) Dọn thực vật thủy sinh: Trong ao nuôi cá nếu để thực vật thủy sinh phát triển mạnh thì nó làm nghèo muối dinh dưỡng trong nước ao, chiếm mất một khoảng không gian hoạt động của cá, gây 32 ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước và sức khoẻ của cá nuôi. Chính vì vậy một trong những biện pháp rất cần thiết trong cải tạo ao là diệt trừ thực vật thuỷ sinh. b) Bón vôi: Vôi được rắc vôi quanh bờ ao và đáy ao, lượng vôi bón cho các ao được tính theo chỉ số pH của đất đáy ao: Bảng 1. Định mức lượng vôi bón tính theo pH đất của đáy ao (100kg/ha) pH đất đáy ao Loại đất Bùn và sét nặng Sét Cát < 4,0 42 22 17,5 4,0 - 4,5 32 17 14,5 4,51 - 5,0 27 14,5 12 5,01 - 5,5 17 12 7,0 5,51 - 6,0 12 7 4,5 6,01 - 6,5 7 5 2,0 c) Phơi ao: Dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời, nguồn chất hữu cơ còn lại trong đáy ao (thức ăn thừa, chất thải của cá) sẽ bị phân hủy thành các chất vô cơ ít gây ảnh hưởng đến ao nuôi, giải phóng các chất độc tích tụ trong đất. Thời gian phơi ao phụ thuộc vào thời tiết khí hậu để bảo đảm ao có thể đạt tiêu chuẩn phơi khô. Thời gian phơi đáy tối thiểu 7 ngày đến khi đáy ao khô, nứt chân chim. d) Cấp nước vào ao: Nước cấp vào ao yêu cầu nguồn nước phải sạch, không bị ô nhiễm, giàu ôxi, pH từ 7-8,5. Cấp nước vào ao với mực nước 0,3-0,5m. 33 Nước cấp vào ao phải được lọc qua túi lọc gắn vào cửa cống hoặc đầu ra của máy bơm, để tránh cá tạp, cá dữ xâm nhập vào ao. Hình 6: Cải tạo ao đ) Bón phân gây màu nước: Bổ sung muối dinh dưỡng tăng cường số lượng vi khuẩn và chất hữu cơ hòa tan trong vùng nước. Lượng phân bón vào ao phụ thuộc vào diện tích ao và liều lượng bón của từng loại phân. Phân chuồng bón từ 30-50 kg/100m2, phân xanh bón 30- 50 kg/100m2, phân vô cơ: 0,2-0,4 kg/100m2 với tỷ lệ đạm/lân là 2:1. Cách bón phân: Phân chuồng đã được ủ hoai và rải đều ra khắp mặt ao. Phân xanh: Dùng dây bó thành từng bó lỏng tay, mỗi bó khoảng 5-10 kg. Dùng cọc cố định bó cây phân xanh sao cho bó lá phải ngập trong nước. Sau 34 khi dầm cây phân xanh được 4-5 ngày tiến hành đảo bó lá. Khi phân xanh phân hủy, tiến hành vớt toàn bộ phần không phân hủy được lên bờ. Phân vô cơ: Hòa tan vào nước và tạt đều khắp mặt ao, tuyệt đối không được bón trực tiếp phân vô cơ vào nền đáy ao. Đối với ao nuôi công nghiệp tùy đối tượng nuôi ta chỉ nên dùng phân hóa học hoặc phân vi sinh để bón ao tạo cơ sở thức ăn tự nhiên ban đầu tránh dùng các loại phân hữu cơ, lá dầm để hạn chế ô nhiễm đáy ao sau này. 8. Kỹ thuật nuôi cá lóc đen a) Một số đặc điểm sinh học Hiện nay nuôi cá lóc đen đã được người dân phát triển mạnh theo hướng nuôi thâm canh trên quy mô lớn với chi phí đầu tư cao và đem lại thu nhập cao cho người nuôi. Nuôi cá lóc có thể nuôi đơn trong ao, bè, bể xi măng, ruộng, hay nuôi trong mô hình VAC, thường được nuôi theo phương thức bán thâm canh hay thâm canh. Cá lóc hay còn gọi là cá quả (miền Bắc), cá tràu (miền Trung) là loài cá sống phổ biến ở đồng ruộng, kênh, rạch, ao, hồ, đầm. Cá có tốc độ sinh trưởng nhanh, thích nghi với mọi môi trường nước (đục, tù, nóng) có thể chịu đựng được ở nhiệt độ cao tới 39 - 400C. Cá thích sống nơi có thực vật thủy sinh (rong, cỏ, bèo...) để thuận lợi cho việc rình và bắt 35 mồi. Cá có thể sống trong cả môi trường nước ngọt và lợ (8 -12‰), pH thích hợp 6,3 -7,5. Hình 7: Cá lóc đen Cá có cơ quan hô hấp phụ trên mang, ngoài việc sử dụng ôxi có trong nước, cá còn có khả năng lấy ôxi trực tiếp từ ngoài không khí (khí trời) với điều kiện chỉ cần ẩm ướt toàn thân. Cá sống chủ yếu ở nước ngọt, nhưng cũng gặp ở nơi nước lợ 5-7‰. Do đặc điểm này nên có thể nuôi cá với mật độ cao trong mô hình nuôi thâm canh trong ao, vèo và bể bạt. Cá có tập tính rình mồi và đuổi bắt các thức ăn là động vật sống, cá, tép... có kích thước nhỏ hơn chúng. Cá lớn cũng thích ăn thức ăn động vật chết như cá, tép, cua, ốc, phụ phẩm lò mổ. Rất khó tập cho chúng ăn thức ăn chế biến. Thịt cá quả ngon, bổ dưỡng nên rất được người tiêu dùng ưa chuộng. Bên cạnh đó, cá quả thích ứng với môi trường rất mạnh, ít bệnh tật, sinh trưởng 36 nhanh nên được nhiều người nuôi lựa chọn. Nuôi sau 8 tháng đến 1 năm có thể đạt tới 1,2-1,5kg. Ao nuôi cá lóc có diện tích 50 - 500m2 là phù hợp. Độ sâu nước ao từ 1,5 - 2m. Cá lóc trưởng thành có khả năng phóng cao hơn 1m khỏi mặt nước. Vì thế, để đề phòng mất mát, bờ ao phải cao, chắc chắn và được bao lưới quanh bờ (dùng lưới khổ 1,6 - 1,8m), nhất là đoạn bờ gần cống cấp nước vào, vì, khi có nước mới vào hoặc sau các cơn mưa, cá sẽ tìm cách phóng đi. Mặt khác, cống cấp thoát nước cho ao cũng phải được bao lưới sắt. Trên mặt ao, nên thả lục bình, rong, bèo chiếm 30 - 50% diện tích mặt nước ao nuôi. Nên thả bèo ở quanh ao, dọc theo chiều dài bờ, để vừa hạn chế ô nhiễm nước ao, vừa che mát cho cá, vừa là chỗ cho cá trú ẩn, cũng vừa hạn chế cá phóng ra ngoài. b) Chọn giống và thả giống Chọn cá có cỡ giống từ 8 - 10cm (giống càng lớn, cá càng lớn nhanh và ít hao hụt), giống đồng đều, không bị bong vẫy, trầy sướt ở đầu, mình, màu sắc sáng bóng. Cá lóc có thể nuôi ở mật độ 20 con/m2, tuy nhiên, khi tính toán đến mật độ thả cần tính đến khả năng cung cấp thức ăn cho cá trong thời gian nuôi dài. Cá lóc có thể thả nuôi ghép với một số loài cá khác: hường, rô phi, tai tượng, sặc rằn... (các loài cá ghép nên thả mật độ 1 - 2 con/m2 và chú ý đến cỡ giống thả phải lớn hơn cá lóc). 37 Thả vào lúc trời mát, bao giống được ngâm trong ao 20 - 30 phút, khi thả mở miệng bao để cá lội nhẹ nhàng ra ao. c) Cho ăn Cá lóc có thể ăn các loại thức ăn như sau: - Thức ăn tận dụng từ các loại cá rẻ tiền, các phụ phế phẩm từ nhà máy chế biến thủy sản, lò mổ gia súc, gia cầm, cần rửa sạch, cắt nhỏ (phù hợp với cỡ cá) nấu chín rồi mới cho cá ăn. Hoặc cho cá ăn cá tạp giá rẻ, tép nhỏ, cua, ốc băm nhỏ. - Thức ăn tự chế biến: 75 % đầu tôm, cá xay + 25% cám gạo, xay nhuyễn, nấu chín, trộn vitamin, khoáng, vo viên cho cá ăn. - Ngoài ra ở những địa phương có nhiều nguồn phân trâu, phân bò có thể kết hợp nuôi giun quế để làm thức ăn bổ sung đạm cho cá nuôi cũng như các động vật nuôi khác. Thời điểm mới thả giống thức ăn cá tạp cần được xay nhuyễn để vừa với cỡ miệng của cá hoặc hấp chín rồi lấy phần thịt cho cá ăn. Khi cá lớn hơn thì chỉ cần cắt cá tạp vừa với cỡ miệng của cá. Không sử dụng các loại thức ăn đã ươn thối để cho cá ăn. Trong hai tháng nuôi đầu lượng thức ăn 7 - 8 % trọng lượng thân. Sau hai tháng nuôi lượng thức ăn giảm còn 5 - 6 %, giai đoạn cuối lượng thức ăn chỉ còn 3 - 4 %. Khi cá còn nhỏ, cho ăn ngày 3 - 4 lần, sau hai tháng cho ăn hai lần. Để hiệu quả hơn, một số vùng người nuôi 38 đã luyện cho cá lóc ăn cám công nghiệp từ nhỏ. Điểm đáng chú ý là cá lóc có tập tính ăn tạp nên hoàn toàn có thể chuyển đổi sử dụng thức ăn công nghiệp và cá tạp vào bất cứ lúc nào trong suốt vụ nuôi sau khi đã tập được cho cá ăn thức ăn công nghiệp. Nhờ đó, người nuôi sẽ chủ động về nguồn thức ăn, đồng thời giảm chi phí về thức ăn cho cá. Trường hợp nửa chừng buộc phải cho cá ăn bằng thức ăn công nghiệp do hết nguồn cá tạp, khi cá nuôi được khoảng một tháng người nuôi có thể luyện cá bằng cách bỏ cá nhịn đói một ngày. - Luyện cá ăn thức ăn công nghiệp từ giai đoạn cá giống Khẩu phần thức ăn hằng ngày bằng 10% trọng lượng đàn cá. Phối trộn theo tỷ lệ: 70% cá tạp tươi + 30% cám công nghiệp. Nếu cám ở dạng bột nên trộn chung với cá tạp theo tỷ lệ trên rồi xay nhuyễn, trường hợp cám viên thì ngâm qua nước cho mềm sau đó trộn chung với cá tạp tươi mới xay nhuyễn để cá với cám trộn đều vào với nhau. Sau đó bảy ngày, phối trộn 50% cá tạp với 50% cám công nghiệp và đồng thời cho cá tập ăn cám công nghiệp dạng viên, để dần chuyển sang cho cá ăn cám viên hoàn toàn. Để tập cho cá làm quen với cám viên, mỗi ngày trộn thêm 5% thức ăn viên đúng độ tuổi của cá (ngâm cám viên vào nước cho mềm) vào hỗn hợp 50% cá tạp - 50% cám công nghiệp nói trên. Những ngày đầu, cá có thể nhả viên thức ăn ra nhưng 39 người nuôi vẫn cần tiếp tục cho cá ăn thêm 2-3 ngày như vậy cho đến khi cá không còn nhả các viên thức ăn ra. Nên cho cá ăn trong các sàng ăn. Những ngày sau đó tiếp tục cho tăng 10% lượng thức ăn viên có ngâm nước cho mềm trước khi cho ăn. Thông thường khi cá đã nuôi được một tháng sẽ không cần ngâm thức ăn trước khi cho ăn. Lúc này, thức ăn viên được đưa thẳng xuống ao khi cho cá ăn, không cần cho ăn trên sàng. Để cá nhanh quen với cám viên và thích ăn cám nên trộn thêm dầu mực vào cám. Dầu mực giúp cá dễ bắt mối, kích thích cá ăn và làm cá dễ tiêu hóa. Hình 8: Thức ăn viên công nghiệp - Luyện cá ăn thức ăn công nghiệp khi cá đã nuôi được 1 tháng Khi cá nuôi được một tháng bắt đầu luyện cá ăn thức ăn công nghiệp. Lúc này cá đã lớn vì vậy trộn 40 cám viên đã ngâm nước với cá tạp đã xay nhuyễn theo tỷ lệ 70% cá tạp và 30% cám viên rồi tăng dần lượng cám viên lên. Thời gian để cá quen với việc ăn bằng thức ăn viên công nghiệp mất từ 3 - 5 ngày. Cách cho ăn: Nên bố trí nhiều sàng ăn trong ao để cho cá ăn, đặc biệt là đối với thức ăn tự chế biến hay các loại thức ăn tận dụng khác, vì cá ăn thức ăn có thành phần nguyên liệu là thịt động vật bậc cao nên dễ gây ô nhiễm nước ao. Cách cho cá ăn trên sàng vừa tiết kiệm chi phí thức ăn vừa quản lý được sức ăn của cá cũng như vừa tiết kiệm được năng lượng tìm kiếm thức ăn cho cá và đề phòng ô nhiễm nguồn nước. Chú ý: Không cho ăn quá thừa hay thiếu, cá lóc rất phàm ăn nên sau khi cho ăn 20 phút, thấy thức ăn trong ao vẫn còn tức là thức ăn đã bị nhiều, cần vớt bỏ và giảm lượng thức ăn cho lần sau. Định kỳ cho thêm Vitamin C vào thức ăn bảo đảm nguồn dinh dưỡng, tăng sức đề kháng bệnh cho cá. Ngoài ra lượng thức ăn phải được theo dõi và điều chỉnh hằng ngày dựa vào điều kiện thời tiết, sức ăn của cá. Nếu trời mưa gió, âm u cần giảm một nửa lượng thức ăn trong ngày của cá hoặc không cho ăn. Tuyệt đối không để thức ăn bị ôi thiu, chỉ nên chế biến cho ăn trong ngày, thức ăn tươi cần được bảo quản kỹ. 41 d) Chăm sóc và quản lý Thường xuyên thăm ao, kiểm tra cống bọng, bờ, lưới bao, nhất là vào mùa mưa bão để đề phòng cá ra ngoài. Sử dụng lưới hoặc phên tre để rào quanh bể cá nuôi tránh trường hợp cá nhảy ra khỏi bể và ngăn không cho cá thoát ra ngoài khi bị ngập lụt. Cá lóc háu ăn nên rất dễ câu, cần đề phòng trộm câu cá vào ban đêm. Nếu trong ao có thả bèo, lục bình nên định kỳ vớt bỏ các bèo, lục bình già, tránh ô nhiễm nước ao và phòng bệnh cho cá. Khi thấy nước ao bị đục hay có màu xanh đậm cần tăng cường thay nước. Lượng nước thay từ 30 - 60% tùy theo diễn biến màu nước. Khi trời quá nóng hay lạnh cần châm thêm nước vào ao sao cho mực nước ít nhất 1,5m để cá có thể xuống sâu tránh nóng, tránh rét. Định kỳ hai tuần bón vôi (đá vôi CaCO3) để ổn định môi trường nước, đồng thời phòng ngừa bệnh cho cá nuôi với lượng 2 - 4 kg/100m2. đ) Một số bệnh thường gặp - Bệnh do vi khuẩn: Là các bệnh nhiễm trùng huyết, bệnh lở loét, bệnh đốm đỏ... Nguyên nhân: Do vi khuẩn thường xuyên có mặt trong ao nuôi cá gây ra (Aeromonas sp.; Pseudomonas sp.; Streptococcus spp.; Mycobacterium sp.;...). Cá bị nhiễm khuẩn có các triệu chứng như da cá sậm màu hơn bình thường hoặc bị mất màu, 42 hiện tượng xuất huyết ở bụng, ở vây, ở quanh miệng, nắp mang; bị tróc vẩy, da bị lở loét, kể cả trên đầu; đuôi, vây bị hoại tử. Phòng bệnh: Ngoài việc bảo đảm các yếu tố kỹ thuật nuôi, để phòng bệnh nhiễm khuẩn có thể dùng các sản phẩm chuyên dùng để sát trùng nước nuôi định kỳ; cung cấp khoáng và vitamin, đặc biệt Vitamin C vào thức ăn bảo đảm nguồn dinh dưỡng, tăng sức đề kháng bệnh cho cá. Để điều trị các bệnh do vi khuẩn, có thể dùng các loại thuốc: Ciprotrim plus, Kana ampicol, Osamet fish, Rifato, Colimycine trộn vào thức ăn (Với liều lượng theo hướng dẫn của nhà cung cấp) cho cá ăn liên tục 5 - 7 ngày. Bệnh lở loét Khi bị lở loét cá sẽ ít ăn hoặc bỏ ăn, bơi nhô đầu khỏi mặt nước, da sậm xuất hiện những vết loét màu đỏ, khi bị nặng các vết loét ăn sâu đến xương, thịt thối và cá chết. Để trị bệnh có thể dùng các cách sau: - Dùng lá xoan khoảng 30kg /100m2 diện tích ao, lá xoan được bó thành từng bó dìm xuống ao. - Dùng cây nghể răm 15 - 20kg cho 100m2 diện tích ao. - Bệnh nấm thuỷ mi Trên da xuất hiện những vùng trắng xám, trên đó có sợi nấm nhỏ, mềm, tua tủa như túm bông. Sau vài ngày sợi nấm phát triển đan chéo vào nhau thành túi trắng như bông có thể nhìn thấy bằng mắt thường. 43 Để trị bệnh có thể làm như sau: - Dùng Xanh methylen 2-3g/m3, liên tục tạt xuống ao 2-3 lần/tuần. - Dùng thuốc tím 2-5 ppm tắm cho cá trong khoảng 10 phút. - Dùng Biodine 1 lít cho 8.000 - 10.000m3 nước. 9. Kỹ thuật nuôi cá trê vàng lai a) Một số đặc điểm sinh học Cá trê vàng lai là kết quả của lai giống bằng phương pháp sinh sản nhân tạo giữa cá trê phi và cá trê vàng. Cá trê vàng lai có ngoại hình tương tự như cá trê vàng, da trơn nhẵn, đầu bẹp, thân hình trụ, dẹp ở phía đuôi. Cá trê vàng lai rất mau lớn, trong điều kiện nuôi với mật độ thích hợp thức ăn đầy đủ, sau 3-4 tháng nuôi cá sẽ đạt trọng lượng trung bình từ 150 - 200 g/con. Cá sống trong môi trường nước hơi phèn và trong điều kiện nước hơi lợ (độ mặn < 5‰). Cá phát triển tốt trong môi trường nước có độ pH trong khoảng từ 5,5 - 8,0. Do cá có cơ quan hô hấp phụ nên cá trê vàng lai sống được trong ao, đìa nước tù, chịu đựng được cả những khi hàm lượng ôxi trong nước xuống thấp (1 - 2 mg/l). Cá trê vàng lai hoạt động, bơi lội, ăn mạnh vào buổi chiều tối hoặc ban đêm, lúc trời mờ sáng, vì vậy việc kéo lưới thu hoạch cá (cá giống và thịt) nếu thực hiện vào những thời gian kể trên sẽ đạt hiệu quả cao. 44 Hình 9: Cá trê vàng lai Cá trê vàng lai nuôi ít bị bệnh, chúng thường chui rúc đào hang dễ làm hỏng bờ ao. Khi mặt nước ao nuôi cao xấp xỉ bờ ao, cá thường phóng lên bờ. Cá trê vàng lai hoạt động bơi lội và ăn mạnh vào chiều tối và mờ sáng. Cá trê vàng lai ăn tạp, rất háu ăn. Thức ăn dùng nuôi cá gồm các loại phụ phế phẩm đông lạnh như đầu vỏ tôm, da cá, đầu lòng cá, ốc, cua..., cám, thức ăn gia súc, cám gạo, bột bắp,... Có thể nuôi cá bằng ao đất bình thường hoặc bể xi măng có đáy là bùn đất. Ao có hình chữ nhật (để dễ kéo lưới khi thu hoạch), diện tích ao thích hợp để nuôi cá trê từ 1.000-3.000m2, độ sâu mức nước trong ao từ 1,2-1,5m. Bờ ao phải cao hơn mực nước cao nhất là 0,6m và được đầm nén thật chặt, không để nước rò rỉ hoặc chảy thành dòng từ mặt bờ xuống ao. Điều này là bởi vì đặc điểm của cá trê, 45 chúng thường dùng hai ngạnh cứng của vây ngực để bò, kết hợp đầu bẹt và đuôi quạt rất mạnh để chui và đào ngoáy chỗ rò rỉ thành hang ổ để trú hoặc đi sang ao khác. Cá có thể bò hàng giờ trên cạn và bò theo ngược dòng nước rất nhanh. Do đó để chống cá đi ta phải cho chảy rót thẳng xuống ao hoặc dẫn đường ống cấp nước vào trong lòng ao, đầu 2 cống cấp và thoát nước phải có bọc nilon hoặc lưới sắt không cho cá đi. Xung quanh ao không nên có cây cối che phủ. b) Chọn giống và thả giống Chọn giống cá: Chọn cỡ cá đồng đều, khoẻ mạnh, không bị xây xát, không nhiễm bệnh, bơi lội nhanh nhẹn. Chọn giống có chiều dài từ 4 - 6 cm, thả với mật độ 40 - 50 con/m2. Phương pháp thả giống tương tự như nuôi cá lóc. Cá trê lai có thể nuôi đơn hoặc nuôi ghép với các loài cá khác, loài cá ghép thích hợp nhất là rô phi với tỷ lệ ghép là 10%. c) Cho ăn Cá trê rất háu ăn và ăn tạp, khả năng tiêu hóa mạnh. Có thể sử dụng các loại thức ăn như cám gạo, gạo kém phẩm chất, ngô, bã rượu, bột cá nhạt, tôm, cua, ốc, phế phẩm lò mổ, phân gia súc, gia cầm... để cho cá ăn. Có thể dùng thức ăn tổng hợp viên có bán trên thị trường. Trong tháng đầu khi mới thả cá còn nhỏ nên băm thức ăn để vừa với cỡ miệng của cá và thức 46 ăn nên được nấu chín. Dùng thức ăn dạng bột như cám nhuyễn, bột cá, bột đậu nành rải trên mặt nước hoặc cám tổng hợp cho gia súc. Hoặc dùng cá tạp xay nhỏ trộn với cám gạo đặt vào sàng cho ăn. Lượng cho ăn bằng 20-30% trọng lượng cá. Cho cá ăn 2 lần/ngày. Tháng 2 đến tháng 4: Nếu cho ăn thức ăn tươi (đầu tôm, lòng ruột cá...) lượng thức ăn cho ăn trong 1 ngày bằng 10 - 15% tổng trọng lượng thân. Nếu dùng thức ăn tinh như cám, bắp... lượng thức ăn cho cá ăn trong 1 ngày bằng 5 - 7% trọng lượng thân. Trường hợp nuôi ghép chung với các loại cá khác (chép, trắm, trôi...) thì nên dùng kết hợp thức ăn tinh với thức ăn tươi theo tỷ lệ 1/1. Nếu cá ghép trong ao đã lớn thì có thể cho ăn bắp hột (xay thô) ngâm nước mà không cần phải nấu chín. Có thể sử dụng công thức chế biến thức ăn như sau: + Cám gạo : 35% + Bột cá : 50% + Rau xanh : 10% + Khoáng chất, vitamin, men tiêu hóa : 5% Tháng 5 đến tháng 6: Cho ăn với khẩu phần ăn là 5% trọng lượng thân, thức ăn có thể phối trộn theo tỷ lệ sau: + Cám gạo : 40% + Bột cá : 55% + Rau xanh : 10% + Khoáng chất, vitamin, men tiêu hóa : 5% 47 Cách chế biến thức ăn: Các loại bột nấu chín trộn với dầu cá, vitamin, men tiêu hóa xay ép thành viên hoặc nắm thành nắm cho ăn. d) Chăm sóc và quản lý Cho ăn ở những vị trí cố định trong ao để theo dõi hoạt động bắt mồi của cá. Thường xuyên phải theo dõi và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Tránh trường hợp cho ăn quá dư thừa làm thối bẩn nước ao tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển. Trong thời gian nuôi thường xuyên theo dõi hoạt động của cá và màu nước của ao để kịp thời xử lý những sự cố kịp thời, điều chỉnh thức ăn phù hợp cho cá. Cá trê vàng lai chịu đựng được ở môi trường nước bẩn và hàm lượng ôxi thấp nhưng ở môi trường sạch thông thoáng cá phát triển nhanh hơn nên cần thay nước thường xuyên. Tháng đầu chỉ cấp nước bù hao hụt, tháng hai trở đi định kỳ thay nước 5-7 ngày/lần, thay từ 20-40%. Sử dụng nhiều thức ăn tươi thì cần chú ý thay nước thường xuyên hơn. Trong quá trình nuôi nên định kỳ 1 tuần/1 lần bổ sung thêm Vitamin C với lượng 5 - 10g/10 kg thức ăn cho cá trong ngày. Bón vôi bột (CaCO3) 1 - 2 kg/100m2 định kỳ 15 ngày/lần. Khi có mưa lớn theo dõi bờ bao phòng, chống cá đi trong mưa, đồng thời rắc vôi bột ở bờ ao 10kg/100m2 để hạn chế phèn trên bờ ao theo nước mưa trôi xuống ao. 48 Thường xuyên kiểm tra các lỗ rò rỉ, cống ao phòng trường hợp cá trê đi khỏi ao. Theo dõi phòng trừ địch hại như chim, rắn... ăn cá. đ) Thu hoạch Sau 2-3 tháng nuôi, cá đạt kích cỡ 150-250g/con có thể tiến hành thu tỉa những cá lớn. Khoảng 15 ngày sau có thể tiến hành thu đợt 2. Sau bốn tháng nuôi cá đạt kích cỡ thương phẩm có thể thu hoạch toàn bộ. 10. Kỹ thuật nuôi cá rô đồng a) Một số đặc điểm sinh học Cá rô đồng là loài cá sống ở môi trường nước ngọt, nước lợ và rất phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thịt cá béo, thơm, dai, ngon và có giá trị cao nên được tiêu thụ khá mạnh cả ở nông thôn và thành phố. Cá rô đồng lớn nhất khoảng 300g/con, nhưng cỡ cá được tiêu thụ rộng rãi từ 7-15 con/kg. Hình 10: Cá rô đồng 49 Ngoài tự nhiên, cá sống trong sông, rạch, ao, hồ... ngoài ra cá còn có thể sống ở cửa sông lớn. Trong điều kiện nuôi cá rô đồng sống được tốt ở ao mương có diện tích nhỏ và nuôi với mật độ cao nhờ có cơ quan hô hấp trên mang sử dụng khí trời. Cá dễ thích nghi với khí hậu nhiệt đới, lúc khô hạn cá có thể sống chui rúc trong bùn mấy tháng và có thể ra khỏi mặt nước đi một quãng tương đối xa để tìm nơi sinh sống, có thể lên đất khô tìm mồi ăn. Khi nuôi cá rô thâm canh hay bán thâm canh, xung quanh ao nên rào lưới để phòng cá đi, không nên chọn hình thức nuôi trong vèo vì cá rô đồng có một số đặc điểm không thích hợp với vèo lưới, nên sẽ không hiệu quả khi nuôi thương phẩm. Cá rô là loài động vật ăn tạp. Chúng có thể ăn cả các loài động vật thân mềm, cá con và thực vật, kể cả cỏ, phân gia súc, gia cầm. Chúng có thể ăn lẫn nhau trong trường hợp đói. Vì vậy phân cỡ rất quan trọng. Quá trình cải tạo ao nuôi được thực hiện tương tự như ở phần ương cá. b) Chọn giống và thả giống Nên chọn mua con giống ở những trại giống có uy tín, con giống có nguồn gốc sinh sản nhân tạo và phải được loại bỏ cá nhỏ. Không nên sử dụng con giống đánh bắt tự nhiên vì chất lượng sẽ không tốt. Chọn giống cá rô đồng từ: 300 - 500 con/kg. Cá đều cỡ, khỏe mạnh, không bị xây xát hay mất nhớt. 50 Nếu khi vận chuyển, cá bị yếu cần được nhốt nuôi riêng khi thật khỏe mạnh mới nuôi chung. Mật độ nuôi 10 con/m2 nơi có thức ăn đủ, nước tốt, nuôi tốt mật độ nuôi từ 30-50 con/m2. Có thể thả ghép cá hường giống 1 con/5-10 m2, cá mè trắng 1con/5-10 m2 để tận dụng thức ăn rơi rớt và làm sạch môi trường nước, không được thả cá mè vinh, chép, trê phi tranh mồi ăn của cá rô đồng. Ao nuôi cá có diện tích tốt nhất từ 500 - 1.000m2, sâu 1,8 - 2,0 m, giữ được nước quanh năm. c) Cho ăn Có thể sử dụng thức ăn công nghiệp hoặc thức ăn tự chế (cá tạp + cám gạo) cho cá ăn. Cá rô đồng là loài cá ăn động vật nên để cá nuôi cần sử dụng thức ăn có độ đạm cao, thức ăn công nghiệp sử dụng loại có độ đạm từ 25-30% trong suốt vụ nuôi. Thức ăn tận dụng sản phẩm trong nông nghiệp gồm: Cám gạo, thóc mầm, thóc nình, cám ngô, khô dầu, lạc v.v. được nấu chín. Kết hợp với thức ăn giàu đạm như cá vụn, tôm tép nhỏ, cá tạp, ốc bươu vàng, phụ phẩm lò mổ. Thành phần thức ăn: Chất bột chiếm 60 - 80%, thức ăn giàu đạm 20 - 40%. Trộn thêm vitamin và Premit. Có thể cho 10% rau muống đã thái nhỏ và nấu mềm nhừ trộn lẫn với thức ăn trên. Thức ăn có độ đạm càng cao cá lớn càng nhanh, từ cá giống lên cá 7-15 con/kg khoảng 4 tháng. 51 Khi còn nhỏ cá chưa phân đàn, cho cá ăn bằng sàng treo ở đầu ao, cứ khoảng 50 - 80m2 đặt một sàng ăn. Kiểm tra thức ăn sử dụng còn hay hết bằng cách kiểm tra sàng ăn sau 2 - 3h thấy hết là vừa. Khi cá lớn, dùng sàng cho ăn thì cá lớn vào ăn trước, cá nhỏ vào ăn sau, cá lớn không đều. Vì vậy sau một tháng nuôi nên rải thức ăn đều ao cho cá ăn để cá lớn nhỏ đều được ăn. Khi cá còn nhỏ cho ăn khoảng 7% trọng lượng thân. Khi cá được một tháng cho ăn 5% trọng lượng thân. Khi cá được hai tháng trở lên, cho ăn 3-5% trọng lượng cá. Khi cá còn nhỏ cho ăn ngày hai lần, 8 - 9h sáng và 4 - 5h chiều, cá lớn hơn có thể cho ăn ngày 1-2 lần. Thường xuyên kiểm tra tình hình thức ăn của cá để điều chỉnh hợp lý. Cá rô đồng có thể ăn trực tiếp phân heo, gà, cút. Vì vậy, có thể tạo nguồn thức ăn tự nhiên trong vùng nước cho cá bằng các loại phân này. Ao từ 500 - 1.000m2 có thể sử dụng phân heo làm thức ăn cho cá, bổ sung thêm 50% thức ăn tự chế. Tùy thực tế xem sức ăn của cá mà tăng hoặc giảm lượng thức ăn. Trước khi thu hoạch 2-3 tháng, ngưng bón phân cho ao, mà cho cá ăn bằng thức ăn chế biến để cá sạch, béo. Thức ăn chế biến 3-5% trọng lượng cá, tùy lượng cá ăn để tăng hay giảm. d) Chăm sóc và quản lý Hằng ngày kiểm tra tình hình hoạt động của cá 52 để sớm phát hiện cá bệnh. Thường xuyên kiểm tra cống, lưới bao quanh bờ ao nếu có hư rách phải vá ngay, đặc biệt chú ý vào giai đoạn mang trứng, cá có thể dùng nắp mang leo lên bờ thoát ra ngoài. Trên mặt nước thả 1/10 diện tích rau muống hay cây củ ấu để hấp thu dinh dưỡng dư thừa, hạn chế ô nhiễm môi trường trong nước ao. Bổ sung chế phẩm vi sinh phân hủy các chất thải hữu cơ của ao Nước trong ao rất dễ nhiễm bẩn do thức ăn tạo nên, do đó định kỳ 10-15 ngày thay phân nửa lượng nước trong ao. Trong thời gian nuôi, cá phân đàn, cá lớn thì lớn nhanh, cá nhỏ chậm lớn vì không được ăn đều. Cần kiểm tra sau 4-6 tháng nuôi, dùng lưới kéo bắt cá lớn để vào ao nuôi vỗ riêng, bán. Cá nhỏ còn lại tiếp tục nuôi và cá có phân đàn nuôi riêng. đ) Một số bệnh thường gặp - Bệnh nấm thủy mi Tác nhân gây bệnh là nấm thủy mi gây ra, nấm bám vào cơ thể cá thành từng mảng trắng giống như bông gòn nên người nuôi cá hay gọi bệnh này là bệnh bọ gòn, nấm da, mốc nước. Nấm bám vào cơ thể hút máu và sinh trưởng rất nhanh, nhất là khi cá bị nhiều vết thương. Nguyên nhân gây ra bệnh chủ yếu do tiết trời thay đổi và môi trường nước ao nuôi cá bị ô nhiễm, tạo điều kiện cho nấm thủy mi sinh sôi phát triển. Cá bị bệnh bơi lội không bình thường do cơ thể 53 bị ngứa nên cá cọ sát vào các vật thể trong nước làm xây xát lại càng tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm có cơ hội phát triển khiến bệnh nặng hơn. Khi cá bị bệnh nặng, cá ít ăn nên cơ thể suy yếu, sức đề kháng giảm càng làm cho bệnh trên cá phát triển mạnh. Cá bị bệnh yếu ớt, bỏ ăn, bơi lội lờ đờ và chết sau vài ngày. Trong trường hợp ao nuôi bị nhiễm bệnh trầm trọng sẽ làm chết cá nhiều. Bệnh này, cần sử dụng hóa chất khử trùng nước, kết hợp với trộn kháng sinh vào thức ăn cho cá ăn để điều trị bệnh. Có thể dùng nước muối 2-3% tắm cá trong 10 phút hoặc dùng vôi để khử trùng nước ao. - Bệnh lở loét Bệnh lở loét do trùng mỏ leo gây ra. Trên thân cá xuất hiện các đốm đỏ, viêm loét quan sát bằng mắt thường cũng thấy một loại ký sinh trùng cắm vào thân cá, chiều dài của trùng 10 - 20mm. Khi cá bị bệnh, cá ít ăn hoặc bỏ ăn, hoạt động lờ đờ, bơi nhô đầu lên mặt nước, da cá xẫm lại, có vết mòn màu xám hoặc các đốm đỏ phát triển ở đầu, thân và các vây. Những vết loét dần dần lan rộng thành những vết loét rộng, vẩy rụng, xuất huyết và viêm. Cá bị bệnh nặng các vết loét lõm sâu tới xương. Giải phẫu các cơ quan nội tạng hầu như không biến đổi. Cách phòng trị: Dùng vôi tạt xuống ao với liều lượng 2 kg/100m3, 2 tuần 1 lần. Có thể dùng muối ăn với liều lượng 2 - 3% tắm cho cá từ 5 - 15 phút. 54 Hoặc dùng thuốc tím với liều lượng 10g/m3 tắm cho cá trong thời gian 10 - 30 phút. 11. Kỹ thuật nuôi cá lăng nha a) Một số đặc điểm sinh học Lăng nha là loài cá da trơn, có hình dáng giống cá trê, thân thuôn dài về hướng đuôi. Cá có miệng rộng, răng thuộc loài răng lá mía, có hai râu hàm trên màu trắng kéo dài đến vây hậu môn, hai râu hàm dưới cũng màu trắng. Lăng nha là loài cá nước ngọt, thịt trắng chắc, không xương dăm, mùi vị thơm ngon, giá trị thương phẩm cao. Cá sống thành từng đàn ở tầng đáy nơi có nước chảy nhẹ, cá thích sống sạch, do cá không có cơ quan hô hấp phụ nên đòi hỏi hàm lượng ôxi hòa tan phải cao. Nếu nuôi cá trong ao thì chúng thích sống ở nơi có nhiều giá thể để trú ẩn và hoạt động bắt mồi về đêm. Là loài cá ăn tạp thiên về động vật, cá thường chui rúc vào các hốc cây để tìm thức ăn. Trong tự nhiên cá thích ăn các loài cá nhỏ và giáp xác, trong quá trình nuôi có thể tập cho cá ăn thức ăn nổi. Cá sinh trưởng tốt ở nước ngọt, lợ với độ mặn từ 5 - 7ppt, pH nước từ 6,5 - 7,5. Năm thứ nhất cá lớn chậm hơn năm thứ 2, cá 1 năm tuổi đạt trọng lượng 0,7 - 1 kg, 2 năm tuổi đạt 1,5 - 3 kg. Cá nuôi bè tốt hơn nuôi ao. 55 Hình 11: Cá lăng nha b) Chọn giống và thả giống Chọn cá không mất nhớt, đuôi và râu không bạc màu, cá giống đồng đều, màu sắc tươi sáng, không bị bệnh hay dị tật. Nên mua giống tại các cơ sở uy tín để bảo đảm chất lượng. Tắm cho cá giống bằng muối 2 - 3% trước khi thả xuống ao. Kích cỡ thả giống: Tùy theo thời gian nuôi mà chọn kích cỡ giống khác nhau. Nếu nuôi thời gian ngắn (6 tháng) nên thả giống cỡ lớn từ 0,5 kg/con trở lên. Nếu nuôi trong ao bán thâm canh (nuôi ghép) thì mật độ từ 4 -5 con/m2 (trong đó cá lăng nha chiếm 20-30% tổng số cá thả). Nếu nuôi cá lăng nha thâm canh (nuôi đơn), mật độ thả từ 6-8 con/m2. Ngoài ra, cần thả thêm 3-5% cá rô phi thường để làm thức ăn cho cá. Nếu nuôi trong bè, mật độ 60- 70 con/m3. 56 Để nuôi cá lăng nha đạt hiệu quả, có thể áp dụng hình thức nuôi bán thâm canh trong ao hoặc trong bè. Tuy nhiên, nuôi trong bè cá lớn nhanh hơn. Nếu nuôi bè, bè phải có thể tích 10m3 trở lên, đặt ở nơi có dòng chảy vừa phải. Ao nuôi có diện tích từ 1.000 m2 trở lên, ao nuôi có diện tích từ 2.000 - 3.000 m2 là thích hợp nhất. Độ sâu ao từ 1,5 - 2m. Độ che phủ mặt nước không quá 30%. Lớp bùn dày 10 - 15cm, có thể chủ động cấp, thoát nước. Bờ ao chắc chắn, ao có cống cấp và thoát đầy đủ, đáy ao bằng phẳng, nghiêng về phía cống thoát. Ao nuôi gần nguồn nước sạch, chủ động cấp và thoát nước. Thả giống tương tự kỹ thuật nuôi cá lóc đen. c) Thức ăn và cho ăn Cho cá ăn thức ăn tươi sống hoặc thức ăn công nghiệp. Thức ăn tươi sống dùng cá tạp tươi, phụ phế phẩm lò mổ. Thức ăn tươi cần được cắt nhỏ cho phù hợp với kích cỡ miệng cá. Cũng có thể tự chế thức ăn cho cá với công thức 50% cám + 50% cá tạp. Hoặc có thể sử dụng thức ăn công nghiệp với độ đạm ít nhất 30%. Khi cá còn nhỏ cho ăn 7 - 8% trọng lượng thân, khi cá 2 tháng tuổi cho ăn khoảng 5-6% trọng lượng thân. Cá sau 3 tháng cho ăn từ 2-3% trọng lượng thân. Khi cá còn nhỏ cho ăn 3 lần/ngày (sáng, chiều và tối). Bữa tối chiếm 40-50% tổng lượng thức ăn. 57 Khi cá lớn hơn, cho ăn ngày 2 lần vào buổi sáng từ 7 - 8 giờ và buổi chiều từ 4 - 5 giờ. Hình 12: Cá tạp cắt khúc để nuôi cá Nên cho thức ăn vào sàng ăn để kiểm tra lượng thức ăn (ao 2.000 m2 nên đặt 4 sàng ăn). Trong quá trình cho ăn cần quan sát lượng mồi thừa thiếu trong sàng mà điều chỉnh tăng hay giảm lượng thức ăn cho mỗi ngày. Hằng ngày kiểm tra lượng thức ăn để điều chỉnh cho phù hợp. Những ngày trời âm u, mưa gió thì không cho cá ăn, những ngày ao xử lý thuốc hay cá có dấu hiệu bị bệnh cần giảm lượng thức ăn cho cá còn 50%. d) Chăm sóc và quản lý Thường xuyên theo dõi hoạt động của cá, nhất là vào sáng sớm để xử lý kịp thời. Định kỳ (15 - 20 ngày) 58 thay nước ao một lần. Nếu dùng thức ăn tươi sống thì phải thường xuyên thay nước, mỗi lần thay từ 20 - 30% lượng nước ao nuôi. Từ tháng thứ hai trở đi, định kỳ 10 -15 ngày tiến hành khử trùng nước và khử khí độc ở đáy ao bằng vôi 2 - 3 kg/100m3 hay chế phẩm vi sinh. Tăng cường ôxi cho cá vào những khi thời tiết bất thường hoặc cá có dấu hiệu nổi đầu. Thường xuyên vệ sinh sàng ăn bảo đảm sạch sẽ. Định kỳ hằng tháng trộn thuốc, vitamin vào thức ăn phòng bệnh cho cá. đ) Một số bệnh thường gặp Cá lăng nha hay gặp một số bệnh như bệnh nấm thủy mi, bệnh viêm ruột. Bệnh nấm thủy mi tương tự như nuôi cá rô đồng. Bệnh viêm ruột: Cá bị bệnh viêm ruột bụng trương to, có ban đỏ, hậu môn lồi và sưng đỏ. Khi bệnh nặng, vây cá bị tổn thương, xoang bụng tích nước, thành ruột bị tụ máu. Toàn bộ ruột có màu đỏ thâm, ruột không có thức ăn, xuất hiện dịch mủ màu vàng nhạt. Để phòng trị bệnh này, cần bảo đảm thức ăn tươi, không bị ôi thiu. Vệ sinh sàng ăn và thức ăn thừa sạch sẽ. Định kỳ dùng vôi tạt xuống ao xử lý môi trường nước. Khi cá bị bệnh dùng vôi bột hoặc hóa chất xử lý nước ao, kết hợp sử dụng kháng sinh trị bệnh cho cá. 59 e) Thu hoạch Sau thời gian nuôi từ 5 - 6 tháng (nếu thả giống lớn) thì có thể thu hoạch. Cho cá nhịn ăn một ngày trước khi thu hoạch để bảo đảm sức khỏe cho cá, nhất là vận chuyển cá đi xa. 12. Một số đối tượng nuôi ghép cá nước ngọt phổ biến a) Một số đặc điểm sinh học - Cá mè vinh (Barbodes gonionotus) Cá phân bố ở Inđônêxia, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam. Chúng phân bố rộng rãi ở nhiều loại hình thủy vực nước ngọt Đồng bằng sông Cửu Long, có thể sống ở nước lợ 7‰. Đầu nhỏ dạng hình nón, mõm tù ngắn, có hai đôi râu, mắt to, thân dẹp hình thoi, vẩy phủ khắp thân, vi lưng xám, vi bụng và vi hậu môn vàng, rìa đuôi vàng cam, vi ngực vàng lợt. Nuôi được trong ao nhỏ, không sống được trong vùng nhiễm phèn pH thấp hơn 5. Cá mè vinh sống ở cả tầng đáy và tầng giữa, ăn tạp thiên về thực vật (lá, rau, v.v.), ăn cả mùn bã hữu cơ, thức ăn chế biến và thức ăn viên, phân gia súc. Cá có tốc độ sinh trưởng tương đối chậm, trong điều kiện nuôi bình thường một năm có thể đạt từ 200 - 400g. Nuôi trong ao, chúng sử dụng tốt thức ăn tự chế biến và thức ăn công nghiệp. Cá thích nghi tốt với môi trường, có thể sống được ở những nơi nước tù đọng với hàm lượng ôxi hoà tan thấp 60 tới 0,64mg/l. Mè vinh là một trong những đối tượng nuôi phù hợp nhất trong ruộng lúa. Hình 13: Cá mè vinh - Cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis) Cá sặc rằn phân bố ở các nước Nam Á và Đông Nam Á như Ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam. Cá sặc rằn ở nước ta được nuôi chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long. Cá có thân hình bầu dục dài, dẹp ngang, miệng nhỏ, đầu gần như phủ vẩy hoàn toàn. Vi hậu môn dài. Cá trưởng thành tia mềm vi lưng con đực kéo dài đến gốc vi đuôi, giữa hông có các vạch đen đậm. Ở cá cái các sọc đen liên tục từ đầu đến đuôi, các chấm đen ở nắp mang hiện rõ. Đây là loài cá có giá trị kinh tế. Cá thích hợp ở vùng nước chảy chậm hoặc nước tĩnh, cá có thể sống được ở vùng nước lợ. Cá có cơ quan hô hấp phụ (thở khí trời) nên sống được ở 61 thủy vực có lượng ôxi thấp, nước phèn nhẹ, chịu đựng được pH = 4. Nhiệt độ nước thích hợp từ 28 - 320C và pH thích hợp từ 6-8. Cá ăn tạp thiên về thực vật, chúng ăn thực vật thủy sinh, các chất hữu cơ lơ lửng trong nước, tảo... Tốc độ sinh trưởng của cá sặc rằn tương đối chậm. Cá nuôi trên ruộng lúa với mật độ 25 - 50 con/100 m2 và cho ăn bổ sung thì đạt khối lượng 80 - 90 g/con sau 6 tháng nuôi. Hình 14: Cá sặc rằn - Cá chép (Cypinus carpio) Cá chép là một loài cá có vùng phân bố rất rộng, chúng có mặt ở hầu khắp tất cả các nước trên thế giới. Cá chép gồm có nhiều loài: chép vảy, chép kính, chép trần, chép đỏ... Ở nước ta, loài cá chép được nuôi phổ biến nhất là loài chép vảy hay còn gọi là chép trắng. Từ năm 1972 đến nay, nước ta đã nhập thêm một số loài cá chép từ các nước khác để nuôi 62 và lai tạo với cá chép Việt Nam. Ví dụ: cá chép kính, cá chép trần được nhập từ Hunggari; cá chép đỏ, cá chép vảy được nhập từ Inđônêxia. Tất cả các loài cá chép đều có đặc điểm sinh học gần giống nhau. Cá chép có thể sống ở sông, ngòi, ao, hồ, ruộng. Cá có nhiều loại như: Cá chép trắng, chép cẩm, chép hồng, chép đỏ, chép lưng gù, chép thân cao, chép Bắc Kạn, v.v. là loài cá có giá trị kinh tế cao. Nhiệt độ thích hợp cho cá sinh trưởng và phát triển khoảng 22 - 320C và pH từ 7 - 8. Chúng sống ở tầng nước đáy và giữa, có khả năng chịu đựng ngưỡng ôxi tương đối thấp. Thức ăn ưa thích của cá chép như giun, ấu trùng côn trùng, nhuyễn thể, giáp xác..., ngoài ra cá còn ăn thêm củ, quả, hạt, mầm thực vật. Trong ao nuôi, cá chép có thể sử dụng thức ăn tự chế biến và thức ăn công nghiệp. Trong mô hình nuôi kết hợp cá - lúa, tỷ lệ thả ghép 10 - 20% quần đàn, mật độ thả 1 - 2 con/m2, sau 6 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 300 - 600g/con. Hình 15: Cá chép 63 Các loài cá chép lai nuôi nhanh lớn hơn cá chép trắng Việt Nam. Trong điều kiện nuôi trong ao cá có thể đạt từ 0,5 - 1,0kg/năm. Cá chép ở nước ta phát dục thành thục lần đầu khá sớm khoảng 1+, con đực thường phát dục thành thục sớm hơn cá cái một năm. Cá đẻ tự nhiên trong ao, hồ, đầm, sông, ruộng. Nhiệt độ đẻ trứng thích hợp dao động từ 20, 22oC - 32oC. Cá chép là loài cá đẻ trứng dính, trứng đẻ ra sau khi thụ tinh sẽ tự dính vào các loại giá thể như: rong, rễ béo, cỏ ở trong nước... Cá chép ở nước ta đẻ hầu như quanh năm nhưng tập trung rộ nhất vào hai vụ chính: vụ xuân từ tháng 2 - 4 và vụ thu từ tháng 8 - 9. - Cá hường (Helostoma temmincki) Cá hường thích sống ở nơi nước tĩnh và sống ở các tầng nước mặt và nước giữa. Nhiệt độ thích hợp cho cá từ 25 - 300C. Cá hường có cơ quan hô hấp phụ nên có thể sống trong môi trường thiếu ôxi trong khoảng thời gian nhất định. Cá ăn cả động và thực vật phù du, mùn bã hữu cơ, các loại động vật không xương sống như giun, côn trùng, bèo tấm, tảo... Trong ao nuôi, cá có thể ăn thức ăn tự chế biến và thức ăn công nghiệp. Cá tăng trưởng chậm, trung bình đạt kích cỡ 100 - 150 gam/con sau 10 tháng nuôi. Cá có thể đẻ trong ao, ruộng lúa, nơi có dòng nước chảy nhẹ. 64 Hình 16: Cá hường - Cá mè trắng (Hypophthalmichthys harmandi) Hiện nay ở Việt Nam có hai loại mè trắng: Cá mè trắng Việt Nam (Hypophthalmichthys harmandi) và cá mè trắng Hoa Nam (Trung Quốc) (Hypophthalmichthys molitrix, C&V). Cá mè trắng Trung Quốc vây nhỏ hơn, số vảy đường bên nhiều hơn, đẻ sớm hơn, đẻ nhiều, cỡ cá nhỏ hơn. Cá mè trắng Việt Nam phân bố chủ yếu ở sông Hồng, sông Thái Bình, có ít ở sông Mã, sông Lam. Chúng có thể đạt chiều dài 1m và trọng lượng 16kg. Ngoài tự nhiên chúng sống thành đàn, sống ở tầng nước giữa và tầng mặt, nhiệt độ thích hợp từ 20 - 320C, pH = 7,0 - 7,5, hàm lượng ôxi hoà tan trên 3mg/l. Cá mè trắng chủ yếu ăn thực vật phù du như rong, tảo. Cá mè trắng là một trong những loài cá sinh trưởng tương đối nhanh. Trong tự nhiên cá 1 tuổi đạt trọng lượng 780 - 885g/con, cá 2 tuổi đạt trọng lượng từ 1,4 - 1,5kg, nuôi trong ao sau một năm cá thường có trọng lượng từ 0,5 - 0,7kg. Ở tuổi 2+ đến 3+ chúng phát dục thành thục lần 65 đầu, mùa vụ sinh sản tự nhiên thường vào tháng 5 - 6, đến mùa sinh sản cá di cư ngược lên thượng nguồn đến các bãi đẻ tự nhiên. Trứng cá mè trắng là loại trứng bán trôi nổi, sau khi đẻ ra trứng được thụ tinh, trương nước và trôi nổi theo dòng chảy. Hình 17: Cá mè trắng - Cá mè hoa (Aristichthys nobilis Rich) Ở Việt Nam, chỉ tìm thấy cá mè hoa ở sông Kỳ Cùng (Lạng Sơn). Cá mè hoa nuôi hiện nay là loài mè hoa Trung Quốc được di nhập vào nước ta từ năm 1958. Năm 1963 - 1969, chúng ta cho đẻ nhân tạo thành công cá mè hoa từ đó đến nay chúng được nuôi phổ biến ở khắp mọi nơi, đây là một loài cá nuôi khá phổ biến hiện nay trong các ao nước tĩnh và hồ chứa nước. Cũng giống như cá mè trắng, cá mè hoa sống ở tầng nước giữa và tầng nước mặt, thức ăn chủ yếu là động vật phù du như luân trùng, daphnia, ấu trùng các loại... Cá mè hoa sinh trưởng nhanh hơn cá mè trắng. Nuôi ở các hồ chứa giàu sinh vật phù du cá mè hoa lớn rất nhanh, cá 1 tuổi có thể 66 đạt 3 - 5kg, cá 2 tuổi đạt 5 - 15kg. Cá mè hoa 2 - 3 tuổi có thể phát dục thành thục và di cư đi đẻ ở thượng nguồn các sông lớn. Cá mè hoa nuôi trong ao cũng phát dục thành thục nhưng không thể đẻ được trong ao. Hình 18: Cá mè hoa - Cá trôi ta (Cirrhinus molitorella Cuvier & Valencienes, 1844) Cá trôi ta phân bố rộng trên hệ thống sông Hồng, sông Mã. Cá sống ở tầng nước giữa và đáy, chui rúc xuống bùn, thích nước chảy, ưa hoạt động. Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng, sinh sản và phát triển của cá trôi ta dao động từ 20 - 30oC, thích hợp nhất 26 - 28oC; pH=7 - 8; hàm lượng ôxi hoà tan trên 2mg/l. Cá trôi ta chịu lạnh kém, ở nhiệt độ dưới 10oC cá ít hoạt động. Đây là loài cá điển hình ăn mùn bã hữu cơ, các loài tảo, rêu bám trên đá, trên nền đáy cứng, tảo silic, tảo sợi là những loại thức ăn ưa thích. Cá trôi ta là loài có tốc độ sinh trưởng chậm, 67 khi có đầy đủ thức ăn: Cá trôi ta 1 tuổi nặng 150 - 250g, 2 tuổi nặng 250 - 250g. Cá trôi ta phát dục thành thục lần đầu đối với con cái thường ở tuổi 3+, còn con đực thường sớm hơn 1 tuổi. Mùa vụ sinh sản của cá trôi ta kéo dài từ tháng 5 - 9 hằng năm. Cá thường đẻ ở những nơi có dòng chảy, vào ban đêm hay sáng sớm nhưng không đẻ được trong ao. Hình 19: Cá trôi ta - Cá trôi Ấn Độ (cá rôhu) (Labeo rohita) Cá rôhu là một loài cá thuộc họ cá chép được di nhập vào nước ta vào năm 1982 và 1986. Cá trôi Ấn là loài sống gần đáy, thích ở nơi nước ấm, cá chết rét khi nhiệt độ hạ xuống 6 - 7oC, chịu được nhiệt độ cao đến 42,5 - 43oC, ngưỡng ôxi thấp 0,32mg/l, là loài rộng muối. Cá trôi Ấn Độ có thể sống và phát triển ở nồng độ muối tới 14%o. Cá Rôhu thành thục sinh dục vào cuối năm thứ 2, với cỡ cá bố mẹ 1 - 1,2kg. Mùa vụ sinh sản chính thường vào tháng 68 5 - 6 hằng năm. Nuôi trong ao, cá phát dục nhưng không tự đẻ được. Cá trôi Ấn có thể sống và phát triển ở độ mặn tới 14‰. Loài cá này ăn tạp, khi còn nhỏ ăn động vật phù du là chủ yếu, càng lớn lên cá càng ăn nhiều mùn bã hữu cơ. Cá có tốc độ sinh trưởng nhanh. Trong điều kiện nuôi thích hợp, thức ăn đầy đủ, sau 1 năm nuôi cá có thể đạt được 0,5 - 1kg. Hình 20: Cá trôi rôhu b) Kỹ thuật nuôi ghép - Chọn giống và thả giống Nuôi cá ao muốn đạt nước cao thì phải nuôi ghép nhiều loài cá có phổ thức ăn khác nhau để chúng không cạnh tranh thức ăn với nhau mà còn tận dụng được tối đa thức ăn tự nhiên và thức ăn bổ sung. Khi nuôi ghép thường lấy 1 - 2 loài cá làm đối tượng nuôi chính, những loài cá khác được ghép vào nhằm tận dụng diện tích mặt nước và nguồn 69 thức ăn trong ao. Một số công thức nuôi ghép phổ biến như sau: Công thức 1 (Nuôi cá mè trắng là chính): Mè trắng 60% hoặc 60% Mè hoa 5% 2% Trắm cỏ 3% 20% Trôi ta 25% 10% Chép 7% 8% Công thức 2 (Nuôi cá trắm cỏ là chính): Trắm cỏ 50% hoặc 50% Mè trắng 20% 27% Mè hoa 2% 3% Trôi ta 18% 10% Chép 4% 0% Rô phi 6% 10% Công thức 3 (Nuôi cá rô phi là chính): Rô phi 45% hoặc 45% Mè trắng 20% 30% Mè hoa 5% 5% Trôi ta 20% 10% Trắm cỏ 4% 4% Chép 6% 6% Công thức 4 (Cá rôhu và mrigan là chính): Rôhu 30% Mrigan 25% Mè trắng 10% Mè hoa 5% Trắm cỏ 3% Chép 7% Trôi ta 20% 70 - Khi xác định đối tượng nào là chính người ta phải dựa vào nhiều yếu tố: nguồn cá giống sẵn có, diện tích ao, chất đất nơi đào ao, nguồn nước, nguồn thức ăn tự nhiên, nhu cầu thị trường... + Những ao có diện tích từ 1.000m2 trở lên, độ sâu 1,5 - 2,0m, nguồn nước tốt nên chọn cá mè làm đối tượng chính. + Những ao đất thịt pha cát, đáy bùn cát nên chọn cá trôi làm đối tượng nuôi chính. + Những ao có diện tích tương đối rộng có nhiều rong bèo, thực vật thủy sinh và nguồn thức ăn xanh đầy đủ, dễ tìm nên chọn cá trắm cỏ nuôi chính. + Những ao nuôi gần cơ sở chăn nuôi, nhận nước thải từ các trại chăn nuôi đổ xuống nên chọn cá rô phi làm đối tượng nuôi chính. - Cỡ cá thả ở các loài như sau: + Cá mè: 10 - 12cm. + Cá trắm cỏ: 12 - 15cm. + Cá chép, trôi ta, rôhu, mrigan: 7 - 10cm; rô phi: 4 - 6cm. Không nên thả các giống quá nhỏ vì như thế tỷ lệ hao hụt sẽ lớn. Cá thả phải khoẻ mạnh, kích cỡ đồng đều, không nhiễm bệnh, thả cá lúc sáng sớm hoặc chiều mát tùy theo từng vùng và mùa vụ. Các vận chuyển ở xa đến cần phải để nhiệt độ giữa ao nuôi và phương tiện vận chuyển cân bằng trước khi thả cá ra. Nên thả nuôi từ tháng 2 đến tháng 9 hằng năm, đối với những ao không ngập lụt có thể thả nuôi quanh năm. 71 - Thức ăn và kỹ thuật cho ăn + Ao nuôi cá mè trắng Thức ăn chủ yếu cho cá là sinh vật phù du cho nên chỉ cần bón phân để thúc đẩy sự phát triển của thức ăn tự nhiên. Lượng phân bón cho các tháng nuôi từ đầu vụ cho đến cuối vụ như sau: Bảng 2. Lượng phân bón cho ao nuôi cá mè Tháng nuôi Phân chuồng (kg/ha) Phân xanh (kg/ ha) Phân đạm (kg/ ha) Phân lân (kg/ha) 3 - 5 600 600 18 12 6 - 8 700 700 25 15 9 - 11 800 800 20 14 12 - 2 600 400 40 20 - Kỹ thuật bón phân: + Phân chuồng một tháng bón bốn lần rải đều khắp ao. + Phân xanh một tháng bón 6 lần, bó thành từng bó dìm ở góc ao hay xung quanh ao. + Phân đạm và lân bón theo tỷ lệ 2 đạm:1 lân hay 1,5 đạm:1 lân, hòa tan vào nước rồi té đều khắp ao. + Ao nuôi cá trắm cỏ Thức ăn chính là bèo tấm, bèo hoa dâu, rong, cỏ, rau muống, cây bắp, lá mì.... Ngoài thức ăn xanh cá còn sử dụng các loại thức ăn: Cám, bã đậu, khô dầu, khoai lang... Khẩu phần thức ăn hằng ngày bằng 10 - 25% khối lượng cá trong ao. Thường xuyên theo dõi 72 cường độ bắt mồi của cá trong ao để điều chỉnh lượng cho ăn thích hợp. Thức ăn xanh cho vào khung nổi đặt cách bờ 1,5 - 2,0m. Các loại thức ăn khác (cám, bã đậu, khô dầu...) nên nấu chín, trộn với nước và nắm thành từng nắm cho xuống sàng đặt ở đáy ao. - Quản lý chăm sóc ao nuôi cá. Hằng ngày kiểm tra ao để biết màu nước, sức ăn của cá để điều chỉnh cho phù hợp. Phải thường xuyên duy trì mức nước trong ao đúng yêu cầu kỹ thuật, hằng ngày kiểm tra bờ, cống ao. Vào mùa lũ cần chuẩn bị các đăng cọc, lưới chắn cá để phòng cá thất thoát. Hằng tuần vớt sạch rác và thức ăn dư thừa dưới ao, cấp thêm nước bù lượng nước rò rỉ và bay hơi. Thường xuyên theo dõi màu nước và hoạt động của cá trong ao, nếu có hiện tượng bất thường thì xử lý kịp thời. Vào mùa nắng sinh vật phù du phát triển quá mạnh, nước béo, cá dễ nổi đầu do thiếu ôxi vào lúc sáng sớm. Cần thay nước hoặc thêm nước mới khi thấy cá nổi đầu, bơi lội lờ đờ, phản xạ kém, đồng thời cũng ngừng bón phân và cho cá ăn đến khi cá trở lại bình thường. Kiểm tra đột xuất khi có mưa to, gió lớn hoặc thời tiết thay đổi bất thường để có biện pháp khắc phục kịp thời cho ao nuôi. Ao nuôi, khi thấy mực nước trong ao thấp thì tiến hành bơm cấp nước bổ sung để bảo đảm duy trì mực nước từ 1,2 m trở lên. Tháng đầu thả nuôi không thay nước, sau đó định kỳ 15- 20 ngày thay một lần, với lượng nước thay từ 30- 50% lượng nước 73 trong ao. Tuy nhiên, tùy thuộc vào màu nước và mức nước mà có chế độ thay nước hoặc cấp nước vào ao cho phù hợp. Định kỳ hàng tuần kiểm tra các yếu tố môi trường: pH, nhiệt độ, độ sâu và độ trong bằng bộ dụng cụ đo môi trường để có biện pháp điều chỉnh kịp thời cho ao nuôi. Định kỳ 15 ngày hoặc sau khi thay nước tiến hành bón vôi cho ao nuôi với lượng từ 2 - 3 kg/100m2 nhằm xử lý nước và phòng bệnh cho cá. Bổ sung Vitamin C vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng và phòng bệnh cho cá. Khoảng 1 lần/tháng kiểm tra cá bằng cách kéo lưới để kiểm tra tốc độ sinh trưởng của cá để điều chỉnh lượng thức ăn hằng ngày cho hợp lý. Ngoài ra thường xuyên kiểm tra rào chắn ao nuôi nhằm phòng, chống các loại địch hại trực tiếp của cá như: rái cá, rắn, chim... bắt trộm cá. - Thu hoạch Hình 21: Thu hoạch cá 74 Sau khi nuôi được 4 - 6 tháng, có thể dùng lưới đánh tỉa những con đạt kích cỡ thương phẩm, riêng cá rô phi sau bốn tháng nuôi có thể thu hoạch được. Mùa vụ thu hoạch tùy theo điều kiện cụ thể của người nuôi và nhu cầu của thị trường, thường thu hoạch vào những thời gian sau: + Cá thả nuôi vào tháng 2 - 5, tháo cạn thu hoạch toàn bộ vào tháng 12 - 2. + Cá thả nuôi vào tháng 8 - 9, thu hoạch toàn bộ vào tháng 9 - 10 năm sau. Trước khi thu hoạch 10 ngày phải ngừng bón phân và ngừng cho ăn trước 1 ngày. Khi thu hoạch tùy theo lượng cá trong ao và khả năng tiêu thụ mà có thể thu 1 lần hoặc kéo dài vài ba ngày. Nên dùng lưới kéo bớt cá, sau đó mới xả cạn thu toàn bộ. Ao nuôi cá gia đình nên đánh tỉa thả bù thường xuyên khi cá đạt kích cỡ thương phẩm, sau hai năm mới tát cạn thu toàn bộ và cải tạo lại ao. 75 Chương II KỸ THUẬT NUÔI CÁ TRONG RUỘNG LÚA 1. Lợi ích nuôi cá ruộng lúa Nuôi cá trên ruộng trồng lúa là mô hình nuôi kết hợp lúa - cá hay nuôi luân canh lúa - cá. Mô hình này được nuôi phổ biến ở các nước Đông Nam châu Á như: Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia... Ở Việt Nam, mô hình nuôi cá trên ruộng lúa được nuôi nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long và miền núi phía Bắc. Mô hình nuôi cá trên ruộng lúa đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho người nuôi. Ruộng lúa cung cấp thức ăn cho cá như: Cỏ dại, rơm rạ mục, thóc rụng, hạt cỏ, sâu bọ, các loại động vật khác trong ruộng... để tiết kiệm chi phí thức ăn cho cá. Cá góp phần cải tạo điều kiện sống cho cây lúa: Các loại chất thải của cá có tác dụng như một phần phân bón làm tăng độ mùn cho ruộng lúa. Cá thường xuyên tìm kiếm thức ăn bằng cách sục bùn làm cho ruộng lúa thoáng khí, cá ăn các loại sâu bọ, côn trùng làm giảm dịch hại cho ruộng nên 76 giảm chi phí thuốc trừ sâu. Ở đồng bằng sông Cửu Long vào mùa nước lũ ruộng không thể trồng lúa, có thể được tận dụng nuôi tôm, cá. Vì vậy, mô hình lúa - cá giúp nông dân giảm chi phí nhân công, chi phí bảo vệ thực vật, tăng thu nhập trên cùng đơn vị diện tích và mang lại hiệu quả cao. 2. Chọn lựa địa điểm nuôi a) Các mô hình sản xuất kết hợp lúa - cá - Mô hình trồng lúa kết hợp nuôi cá (xen canh): Nuôi xen canh là nuôi kết hợp lúa và cá trên một diện tích đất, tận dụng mặt nước và thức ăn sẵn có trên ruộng lúa để tăng thêm thu nhập. Nhưng nhược điểm của mô hình này là mật độ thả nuôi cá rất thấp từ 0,5 - 1 con/m2 nên năng suất cá nuôi cũng thấp, khoảng từ 300 - 400 kg/ha. Các giống lúa canh tác hiện nay phần lớn dễ nhiễm sâu rầy, do đó việc sử dụng thuốc trừ sâu trong canh tác lúa ảnh hưởng lên cá là điều khó tránh khỏi. Bên cạnh đó mức nước trên mặt ruộng lúa chỉ khoảng 10 - 20cm, với mức nước này sẽ gây ra biến động chất lượng nước. - Mô hình sản xuất luân canh lúa - cá: Mô hình này thường áp dụng ở những vùng vào mùa lũ không cấy lúa được thì sử dụng ruộng để nuôi luân canh cá. Mô hình này mang lại lợi nhuận từ nuôi cá cao hơn canh tác lúa và giảm chi phí cho việc chuẩn 77 bị ruộng và phân bón cho vụ Đông - Xuân. Tuy nhiên, nhược điểm của mô hình này là chi phí đầu tư ban đầu lớn cho công trình, đê bao quanh và lưới chắn xung quanh ruộng. Vốn đầu tư cao về con giống cũng như thức ăn, chăm sóc và bảo vệ so với mô hình xen canh. Mô hình này cũng đòi hỏi người nuôi phải hiểu biết về đối tượng nuôi và quy trình kỹ thuật ứng dụng. b) Chọn vị trí nuôi kết hợp lúa - cá Chọn vị trí nuôi là khâu rất quan trọng, ruộng nuôi phải bảo đảm: (i) Có nguồn nước cấp tốt và chủ động khi cấp, thoát nước; (ii) phải nắm được biến động của mực nước lũ hàng năm để có biện pháp phòng chống; (iii) chọn đất có cơ cấu giữ nước tốt, ít bị nhiễm phèn; (iv) khu vực nuôi cá phải không tiếp xúc với khu vực canh tác hoa màu để hạn chế nguy cơ nhiễm thuốc trừ sâu khi cấp nước nuôi cá; (v) có đường đi lại thuận tiện cho việc chăm sóc và quản lý. c) Thiết kế mô hình sản xuất kết hợp lúa - cá Thiết kế mô hình sản xuất kết hợp lúa - cá thực chất là thiết kế diện tích, mương và bờ. Diện tích ruộng khoảng từ 0,3ha trở lên, thích hợp nhất là từ 0,5 - 1ha. Ruộng lúa phải có ao ương liền kề và có mương bao xung quanh chiếm khoảng 20 - 30% diện tích ruộng. 78 """