🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hướng dẫn đọc Tam Tạng Kinh Điển
Ebooks
Nhóm Zalo
Hướng dẫn đọc
TAM TẠNG KINH ĐIỂN
Gs. U KO LAY (1984)
Tỳ-khưu-ni HUYỀN CHÂU dịch (2003)
Vesion: 8/10/2019 6:52 AM
Pháp thí thắng mọi thí
Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti
Bình Anson hiệu đính và trình bày dạng ebook PDF Nguồn:
https://budsas.net/uni/u-tamtang/tt-00.htm
MỤC LỤC
Lời Mở Đầu
CHƯƠNG I: THẾ NÀO LÀ TẠNG LUẬT? .................. 20 a. Bảy Loại Vi Phạm Tội
b. Khi Nào và Lý Do Tại Sao Đức Phật Đặt Ra Giới Luật
c. Chấp Thuận Giáo Đoàn Có Tỳ Khưu Ni
CHƯƠNG II: TẠNG LUẬT ........................................... 25 1. Bất Cộng Trụ
a. Các Tội Bất Cộng Trụ và Những Hình Phạt b. Mười Ba Tội Tăng Tàn
c. Hai Tội Bất Định
d.Ba Mươi Tội ưng Xả Đối Trị& Những Hình Phạt 2. Ưng Đối Trị
a. Chín Mươi Hai Tội Ưng Đối Trị & Hình Phạt b. Bốn Tội Ưng Phát Lồ
c. Bảy Mươi Lăm Điều Ưng Học Pháp về Cách Cư Xử Lịch Sự
d. Bảy Cách Dàn Xếp Tranh Tụng
3. Đại Phẩm
4. Tiểu Phẩm
5. Tập Yếu
iv
CHƯƠNG III: THẾ NÀO LÀ TẠNG KINH? ................ 38 CHƯƠNG IV: TẠNG KINH - TRƯỜNG BỘ KINH ..... 45 a. Phẩm Giới
1. Kinh Phạm Võng
2. Kinh Sa Môn Quả
3. Kinh Ambattha
4. Kinh Soṇadanḍa
5. Kinh Kūtadanta
6. Kinh Mahāli
7. Kinh Jāliya
8. Đại Kinh Sư Tử Hống
9. Kinh Poṭṭhapāda
10. Kinh Subha
11. Kinh Kiên Cố
12. Kinh Lohita
13. Kinh Tam Minh
b. Đại Phẩm
1. Đại Kinh Bổn Duyên
2. Đại Kinh Về Duyên
3. Đại Kinh Bát Niết Bàn
4. Đại Kinh Thiện Kiến Vương
5. Kinh Janavasabha
6. Đại Kinh Điền Tôn
7. Kinh Đại Hội
8. Kinh Thiên Vương Sở Vấn
9. Đại Kinh Niệm Xứ
10. Kinh Pāyāsi
v
c. Phẩm Pāthika
1. Kinh Pāthika
2. Kinh Udumbarika
3. Kinh Chuyển Thánh Vương
4. Kinh Khởi Thế Nhân Bổn
5. Kinh Tự Hoan Hỷ
6. Kinh Thanh Tịnh
7. Kinh Tướng
8. Kinh Giáo Thọ Singāla
9. Kinh Āṭānāṭiya
10. Kinh Phúng Tụng
11. Kinh Thập Thượng
CHƯƠNG V: TRUNG BỘ KINH ................................... 69 (a) Năm Mươi Bài Kinh, Tập 1
I. Phẩm Pháp Môn Căn Bản
1. Kinh Pháp Môn Căn Bản
2. Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc
3. Kinh Thừa Tự Pháp
4. Kinh Sợ Hãi và Khiếp Đãm
5. Kinh Không uế Nhiễm
6. Kinh Ước Nguyện
7. Kinh Ví Dụ Tấm Vải
8. Kinh Đoạn Giảm
9. Kinh Chánh Tri Kiến
10. Kinh Niệm Xứ
II Phẩm Sư Tử Hống
1. Tiểu Kinh Sư Tử Hống
vi
2. Đại Kinh Sư Tử Hống
3. Đại Kinh Khổ Uẩn
4. Tiểu Kinh Khổ Uẩn
5. Tiểu Kinh Tư Lượng
6. Kinh Tâm Hoang Vu
7. Kinh Khu Rừng
8. Kinh Mật Hoàn
9. Kinh Song Tầm
10. Kinh An Trú Tầm
III. Phẩm Ví Dụ
1. Kinh Ví Dụ Cái Cưa
2. Kinh Ví Dụ Con Rắn
3. Kinh Gò Mối
4. Kinh Trạm Xe
5. Kinh Bẩy Mồi
6. Kinh Thánh Cầu
7. Tiểu Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi 8. Đại Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi 9. Đại Kinh Ví Dụ Lõi Cây
10. Tiểu Kinh Ví Dụ Lõi Cây IV. Phẩm Đại Song Đối
1. Tiểu Kinh Khu Rừng Sừng Bò 2. Đại Kinh Khu Rừng Sừng Bò 3. Đại Kinh Người Chăn Bò 4. Tiểu Kinh Người Chăn Bò 5. Tiểu Kinh Saccaka
6. Đại Kinh Saccaka
vii
7. Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái
8. Đại Kinh Đoạn Tận Ái
9. Đại Kinh Xóm Ngựa
10. Tiểu Kinh Xóm Ngựa
V. Phẩm Tiểu Song Đối
1. Kinh Saleyyaka
2. Kinh Verañjaka
3. Đại Kinh Phương Quảng
4. Tiểu Kinh Phương Quảng
5. Tiểu Kinh Pháp Hành
6. Đại Kinh Pháp Hành
7. Kinh Tư Sát
8. Kinh Kosambiya
9. Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh 10. Kinh Hàng Ma
(b) Năm Mươi Bài Kinh, Tập 2 I. Phẩm Gia Chủ
1. Kinh Kandaraka
2. Kinh Bát Thánh
3. Kinh Hữu Học
4. Kinh Potaliya
5. Kinh Jīvaka
6. Kinh Upāli
7. Kinh Hạnh Con Chó
8. Kinh Vương Tử Vô Uý
9. Kinh Nhiều Cảm Thọ
10. Kinh Không Gì Chuyển Hướng
viii
II. Phẩm Tỳ Khưu
1. Kinh Giáo Giới La Hầu La ở Ambalatthika 2. Đại Kinh Giáo Giới La Hầu La
3. Tiểu Kinh Malukya
4. Đại Kinh Malukya
5. Kinh Bhaddali
6. Kinh Ví Dụ Con Chim Cáy
7. Kinh Catuma
8. Kinh Nalakapana
9. Kinh Gulissani
10. Kinh Kitagira
III. Phẩm Du Sĩ
1.Kinh Vaccha Về Tam Minh
2. Kinh Vaccha Về Lửa
3. Đại Kinh Vacchagotta
4. Kinh Trưởng Lão
5. Kinh Magaṇḍiya
6. Kinh Sandaka
7. Kinh Sakuludāyi
8. Kinh Samaṇamuṇḍika
9. Tiểu Kinh Sakuladāyi
10. Kinh Vekhanassa
IV. Phẩm Vương
1. Kinh Gaṭikāra
2. Kinh Raṭṭhapāla
3. Kinh Maghadeva
4. Kinh Madhura
ix
5. Kinh Vương Tử Bồ Đề
6. Kinh Angulimāla
7. Kinh Ái Sanh
8. Kinh Bāhitika
9. Pháp Trang Nghiêm
10. Kinh Kaṇṇakatthala
V. Phẩm Phạm Thiên
1. Kinh Brahmāyu
2. Kinh Sela
3. Kinh Assalayana
4. Kinh Ghot.amukha
5. Kinh Cankī
6. Kinh Esukarī
7. Kinh Dhanañjāni
8. Kinh Vasetha
9. Kinh Subha
10. Kinh Sangārava
(c) Hơn Năm Mươi Bài Kinh, Tập 3 I. Phẩm Devadaha
1. Kinh Devadaha
2. Kinh Năm Và Ba
3. Kinh Nghĩ Như Thế Nào 4. Kinh Sama
5. Kinh Thiện Tinh
6. Kinh Bất Động Ích
7. Kinh Gaṇaka Moggallāna 8. Kinh Gopaka Moggallana
x
9. Đại Kinh Mãn Nguyệt
10. Tiểu Kinh Mãn Nguyệt
II. Phẩm Anupada
1. Kinh Bất Đoạn
2. Kinh Sáu Thanh Tịnh
3. Kinh Chân Nhân
4. Kinh Nên hành Trì, Không Nên Hành Trì 5. Kinh Đa Giới
6. Kinh Isigili
7. Đại Kinh Bốn Mươi
8. Kinh Quán Niệm Hơi Thở
9. Kinh Thân Hành Niệm
10. Kinh Hành Sanh
III. Phẩm Tánh Không
1. Tiểu Kinh Tánh Không
2. Đại Kinh Tánh Không
3. Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Vi Pháp 4. Kinh Bākula
5. Kinh Điều Ngự Địa
6. Kinh Bhūmiya
7. Kinh Anuruddha
8. Kinh Tuỳ Phiền Não
9. Kinh Hiền Ngu
10. Kinh Thiên sứ
IV. Phẩm Phân Biệt
1.Nhất Dạ Hiền Giả
2. Ānanda - Nhất Dạ Hiền Giả
xi
3. Mahā Kaccāna - Nhất Dạ Hiền Giả
4. Lomasakangiya - Nhất Dạ Hiền Giả
5. Tiểu Kinh Nghiệp Biệt
6. Đại Kinh Nghiệp Biệt
7. Kinh Phân Biệt Sáu Xứ
8. Kinh Tổng Thuyết Và Biệt Thuyết
9. Kinh Vô Tránh Phân Biệt
10. Kinh Giới
11. Kinh Phân Biệt Về Sự Thật
12. Kinh Phân Biệt Cúng Dường
V. Phẩm Sáu Xứ
1. Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc
2. Kinh Giáo Giới Channa
3. Kinh Giáo Giới Puṇṇa
4. Kinh Giáo Giới Nandaka
5. Tiểu Kinh Giáo Giới Rāhula
6. Kinh Sáu Sáu
7. Đại Kinh Sáu Xứ
8. Kinh Nói Cho Dân Chúng Nghe
9. Kinh Khất Thực Thanh Tịnh
10. Kinh Căn Tu Tập
CHƯƠNG VI: TƯƠNG ƯNG BỘ KINH ......................116 a) Thiên Có Kệ
b) Thiên Nhân Duyên
c) Thiên Uẩn
d) Thiên Sáu Xứ
e) Đại Phẩm
xii
CHƯƠNG VII: TĂNG CHI BỘ KINH ..........................149 1. Chương Một Pháp
2. Chương Hai Pháp
3. Chương Ba Pháp
4. Chương Bốn Pháp
5. Chương Năm Pháp
6. Chương Sáu Pháp
7. Chương Bảy Pháp
8. Chương Tám Pháp
9. Chương Chín Pháp
10. Chương Mười Pháp
11. Chương Mười Một Pháp
CHƯƠNG VIII: TIỂU BỘ KINH ...................................167 1. Tiểu Tụng
2. Pháp Cú
3. Phật Tự Thuyết
4. Phật Thuyết Như Vậy
5. Kinh Tập
6. Thiên Cung Sự
7. Ngạ Quỉ
8. Trưởng Lão Tăng Kệ
9. Trưởng Lão Ni Kệ
10. Chuyện Tiền Thân
11. Diễn Giải
12. Phân Tích Đạo
13. Thánh Nhân Ký Sự
14. Phật Sử
xiii
15. Hạnh Tạng
16. Cẩm Nang Học Phật
17. Tìm Hiểu Tam Tạng
18. Mi Tiên Vấn Đáp
CHƯƠNG IX: THẾ NÀO LÀ TẠNG THẮNG PHÁP? ........................................................................................184 a) Thắng Pháp - Giáo Lý Cao Siêu của Đức Phật b) Bảy Bộ Thắng Pháp
CHƯƠNG X: TẠNG THẮNG PHÁP ...........................189 1. Pháp Tụ
2. Phân Tích
3. Chất Ngữ
4. Nhân Chế Định
5. Ngữ Tông
6. Song Đối
7. Vị Trí
☸
xiv
Namo Tassa Bhagavato Sammā Sambuddhassa Cúi đầu Đảnh Lễ Đấng Từ Tôn, Bậc Chánh Biến Tri Đáng Cúng Dường.
Đức Phật là Bậc A-la-hán và ngài là Bậc Đáng Tôn Kính Nhất. Tất cả chúng sanh kể cả chư thiên và Phạm Thiên đều tôn kính Đức Phật bởi vì Đức Phật là Bậc Tối Thượng, Ngài đã tận diệt tất cả mọi phiền não, Ngài là Bậc Toàn Giác nhờ tự chứng ngộ Tứ Diệu Đế, và có sáu ân đức hào quang cao cả, đó là, Issariya (Tối Thượng), Dhamma (Trí Tuệ dẫn đến Niết Bàn), Yasa (Danh tiếng và Đệ Tử), Sirī (Vẻ Uy Nghiêm Cao Thượng), Kāma (Lực Thành Đạt) và Payatta (Tinh Cần Chánh Niệm).
☸
15
LỜI NÓI ĐẦU
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
Pháp của Đức Phật bao quát một lãnh vực rộng về nhiều chủ đề và được làm thành từ những lời sách tấn, giải thích và pháp lệnh.
Một cách phân loại và hệ thống hoá nào đó đã được sử dụng từ lâu đời giúp ghi nhớ kỹ, bởi vì Giáo Pháp của Đức Phật chỉ được truyền miệng từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Ba tháng sau khi Đức Phật Niết Bàn, Chư vị Đại Đệ Tử Phật tụng lại tất cả Giáo Pháp của Đức Từ Phụ, sau khi sưu tập chúng một cách có hệ thống và xếp loại chúng cẩn thận dưới những tiêu đề khác nhau thành những phần đặc biệt.
Những bài pháp và bài kinh nhằm cho cả tu sĩ lẫn cư sĩ, được Đức Phật giảng vào nhiều cơ hội khác nhau (cùng với một ít bài kinh được các đệ tử xuất sắc của ngài thuyết), được sưu tập và xếp loại thành những phần lớn được biết như Tạng Kinh.
Tạng lớn trong đó gồm những pháp lệnh và những lời sách tấn của Đức Phật về các phẩm hạnh, và thu thúc cả hai hoạt động thân và khẩu của tỳ khưu và tỳ khưu ni, hình thành giới luật cho họ được gọi là Tạng Luật.
Phương diện triết lý của Giáo Pháp Đức Thế Tôn sâu sắc hơn và trừu tượng hơn những bài pháp của Tạng Kinh, được xếp loại dưới tạng lớn gọi là Tạng Thắng Pháp.
16
Thắng Pháp liên quan đến Chân Lý Tuyệt Đối, giải thích Những Chân Lý tuyệt đối và khám phá Tâm và Vật Chất và mối liên quan giữa chúng.
Tất cả những lời Phật dạy hình thành chủ đề và bản chất của Pali Canon, được chia thành ba phần gọi là Piṭaka nghĩa đen là cái giỏ. Từ đó Tipiṭaka có nghĩa là ba cái giỏ hay ba tạng riêng biệt tàng chứa Giáo Lý của Đức Phật. Ở đây ẩn dụ 'cái giỏ' không có ý nghĩa nhiều như chức năng 'cất chứa' bất cứ thứ gì được đặt vào trong đó nhưng nó được sử dụng như một vật có thể chấp nhận được trong đó những pháp được trao truyền từ người nầy sang người khác như mang đất từ nơi khai thác bằng một đoàn công nhân làm việc theo dây chuyền.
Tam Tạng Thánh Điển được chia một cách có hệ thống và truyền từ đời nầy sang đời khác cùng với Chú Giải hình thành bộ sưu tập lớn về những tác phẩm văn học mà chư tu sĩ Phật Giáo phải học, nghiên cứu và ghi nhớ trong việc hoàn thành bổn phận học tập nghiên cứu.
☸
17
CẢM TẠ
Thật là một đặc ân lớn cho tôi đã được tin cậy giao nhiệm vụ biên soạn cuốn sách nầy 'Hướng Dẫn Đọc Tam Tạng Thánh Điển' Theo như nó được biết, không phải một việc đơn giản, như trong đề cương, với toàn bộ Tam Tạng Thánh Điển. Thành thật hy vọng rằng bộ sưu tập nầy sẽ được nhận thấy hữu ích và sẳn sàng cho hầu hết độc giả
muốn được cung cấp một cái nhìn toàn cảnh bao la và huy hoàng của Tam Tạng với đôi mắt chim đại diện cho tất cả lời Phật (và của vài vị đệ tử ngài) dạy và tất cả đều được tàng trữ trong Tam Tạng Thánh Điển.
Trong lúc biên soạn tác phẩm nầy, văn bản Pali được Hội Nghị Phật Giáo Quốc Tế Lần Thứ Sáu công nhận.cùng với những bản dịch Miến Ngữ đã được kế thừa trung thành nhất Chân thành cảm tạ đến Dagon U San Ngwe và ông U Myo Myint đã cho lời chú thích ở vài chương. Những tin tức và những sự kiện phụ thêm từ nhiều nguồn khác nhau. Một Bộ hoàn chính "Hỏi và Đáp" được báo cáo ở Hội Nghị Phật Giáo Quốc Tế Lần Thứ Sáu chứng minh là một nguồn khai thác tin tức trong nội dung của Tam Tạng Thánh Điển.
1. Tạng Luật- Hỏi và Đáp, Tập I
2. Tạng Luật - Hỏi và Đáp, Tập II
3. Tạng Kinh - 'Trường Bộ Kinh' Hỏi và Đáp. 4. Tạng Kinh - 'Trung Bộ Kinh' Hỏi và Đáp, Tập I. 5. Tạng Kinh -' Trung Bộ Kinh' Hỏi và Đáp, Tập II. 6. Tạng Kinh - 'Tương Ưng Bộ Kinh' Hỏi và Đáp, Tập I. 7. Tạng Kinh - 'Tương Ưng Bộ Kinh' Hỏi và Đáp, Tập II.
18
8. Tạng Kinh - 'Tăng Chi Bộ Kinh' Hỏi và Đáp, Tập I. 9. Tạng Kinh - 'Tăng Chi Bộ Kinh' Hỏi và Đáp, Tập II. 10. Tạng Thắng Pháp - 'Tiểu Bộ Kinh' Hỏi và Đáp. Số đoạn được ghi trong tác phẩm nầy là từ những văn
bản được ấn hành đã được Hội Nghị Phật Giáo Lần Thứ Sáu công nhận.
Cuối cùng tôi xin chân thành tri ân những thành viên trong Hội Đồng Biên Tập, Hội Tam Tạng Miến Điện, những người đã mất nhiều thời gian đọc lại hết bản thảo với sự cân nhắc tỉ mỉ và những người làm việc không mệt mỏi và cố vấn uyên bác cho bộ sưu tập nầy mang lại nhiều lợi ích.
Tháng Hai, 1984
U Ko Lay
☸
19
Chương I
THẾ NÀO LÀ TẠNG LUẬT?
Tạng Luật
Giới Luật và những Qui tắc tiến hành dành cho Tăng Đoàn
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật, những người đã được chấp nhận như tỳ khưu, tỳ khưu ni vào Tăng Đoàn. Những luật nầy gồm cả những pháp lệnh có căn cứ của Đức Phật về những phương thúc tác phomg và thu thúc những hành động về cả thân và khẩu. Chúng đề cập đến việc vi phạm giới luật, và có nhũng trườnợp hợp khác nhau của thu thúc và sự khiển trách tuỳ theo tính chất của tội.
(a) Bảy Loại Tội Vi Phạm (tội) - Āpatti
Những điều luật đầu tiên được Đức Phật đặt ra gọi là Mūlapaññatti (quy định cơ bản); những điều được bổ sung sau gọi là Anupaññatti. Cùng với chúng được gọi là những điều học (sikkhāpada). Hành động vi phạm những điều luật nầy, do đó tỳ khưu có tội phải chịu hình phạt nào đó gọi là Āpatti, nghĩa là ' đụng đến, phạm '
Những tội có hình phạt được đặt ra có thể được xếp loại dưới bảy phạm trù tuỳ theo tính chất của chúng: 1. Bất Cộng Trụ (Pārājika)
2. Tăng Tàn (Sanghādisesa)
3. Trọng Tội (Thullaccaya)
4. Ưng Xả Đối Trị (Pācittiya)
5. Ưng Phát Lộ (Pātidesanīya)
20
6. Tác Ác (Dukkaṭa)
7. Ác Ngữ (Dubbhāsita)
Tội trong phạm trù thứ nhất là tội Bất Cộng Trụ, được xếp loại như trọng tội (garukāpatti), không thể chữa được (atekicchā), sau đó buộc người phạm tội phải rơi khỏi Tăng Đoàn.
Tội trong phạm trù thứ hai, Tăng Tàn, cũng được xếp loại trọng tội nhưng có thể chữa được (satekicchā). Người phạm tội bị ở vào thời kỳ chuộc tội, suốt trong thời gian đó người đó phải chấp nhận những pháp khó khăn và sau thời gian đó được phục hồi lại địa vị trong Tăng đoàn qua một buổi họp Tăng.
Năm phạm trù còn lại gồm những lỗi nhẹ, có thể chữa được và phải chịu tội bằng cách thú nhận với một tỳ khưu khác đã vi phạm tội nào đó. Sau khi thực hiện hình phạt đã đề ra, tỳ khưu vi phạm được trong sạch hoá lỗi đã vi phạm đó.
(b) Khi Nào Và Làm Sao Giới Luật Được Đặt Ra? Trong suốt hai mươi năm sau khi thành lập Tăng Đoàn không có những lệnh hay điều luật nào liên quan đến tội Bất Cộng Trụ hay Tăng Tàn. Những thành viên của Tăng Đoàn vào thời kỳ đó đều là các bậc Thánh, người ít tiến nhất cũng là bậc Nhập Lưu, là người đã đắc Đạo và Quả đầu tiên, và do đó không cần đề ra những luật liên quan đến những tội quan trọng.
Chính vì tỳ khưu Sudinna, quê ở làng Kalanda gần Vesālī, đã phạm tội hành dâm với vợ cũ của ông, đó là lý do điều luật Bất Cộng Trụ đầu tiên được ban hành. Điều luật nầy được đặt ra để ngăn cấm chư tỳ khưu đừng phạm tội hành dâm.
21
Khi nguyên nhân nghiêm trọng như thế đã phát sanh thì việc đặt ra điều luật để nghiêm cấm trở nên cần thiết, Đức Phật triệu tập hội nghị chư tỳ khưu. Chỉ sau khi hỏi tỳ khưu có liên quan và sau khi miễn cưỡng phạm tội như thế đã được sáng tỏ thì một điều luật quy định nào đó được đặt ra để ngăn những trường hợp tái phạm tương tự xảy ra trong tương lai.
Đức Phật cũng theo bộ luật của chư Phật quá khứ. Sử dụng năng lực siêu nhiên, ngài hồi tưởng những luật nào đã được chư Phật quá khứ đặt ra trong những điều kiện đã cho nào đó. Sau đó ngài phỏng theo những quy định tương tự để khi gặp tình huống phát sanh trong thời ngài.
(c) Chấp Thuận Tăng Đoàn Có Tỳ Khưu Ni Sau khi Giác Ngộ an cư bốn mùa nưa (vassa), Đức Phật viếng thăm thành Kapilavatthu (Ca tỳ la vệ), hoàng thành quê ngài, theo lời thỉnh cầu của phụ vương ngài, Vua Suddhodana. Vào lúc đó, Mahāpajāpati, dì mẫu của Đức Phật thỉnh cầu ngài nhận bà gia nhập vào Tăng Đoàn. Không chỉ một mình bà Mahāpajāpati muốn gia nhập Tăng Đoàn mà còn năm trăm bà hoàng dòng Sakyan mà những hôn phu của họ đã từ bỏ đời sống tại gia cũng mong ước được gia nhập Tăng Đoàn.
Sau khi phụ vương ngài qua đời, Đức Phật trở lại thành Vesālī, từ chối lời thỉnh cầu nhiều lần được gia nhập Tăng Đoàn của bà Mahāpajāpati. Dì mẫu của Đức Phật, goá phụ của đức vua Suddhodhana vừa mới băng hà, cắt tóc và mặc y nhuộm vỏ cây, cùng với năm trăm bà hoàng dòng Sakyan, lên đường đi đến thành Vesalī nơi Đức Phật đang ngự trong rừng Đại Lâm, trong sảnh đường Kūtāgāra.
Đại đức Ānanda thấy họ ngoài cổng đại sảnh Kūtāgāra, chân sưng và lấm đầy bùn, buồn rầu, đầy nước mắt, đang
22
đứng khóc. Vì lòng đại bi mẫn đối với phụ nữ, đại đức Ānanda nhân danh họ khẩn thiết nài xin Đức Phật nhận họ vào Tăng Đoàn. Đức Phật vẫn tiếp tục giữ vững lập trường. Nhưng khi đại đức Ānanda hỏi Đức Phật liệu phụ nữ không có khả năng đắc Tuệ Đạo và Quả hay sao, Đức Phật trả lời rằng quả thật phụ nữ có khả năng làm vậy và cho phép họ từ bỏ đời sống gia đình như nam giới.
Từ đó Ānanda khẩn thiết bạch rằng bà Mahāpajāpati đã từng săn sóc ngài như người bảo hộ và vú nuôi, cho ngài bú mớm khi thân mẫu ngài từ trần. Và như là phụ nữ có khả năng đắc Đạo và Quả, bà sẽ được phép gia nhập Tăng Đoàn và trở thành Tỳ Khưu Ni.
Cuối cùng Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu khẩn thiết của Đại Đức Ānanda "Ānanda, nếu dì mẫu Mahāpajā pati chấp nhận Bát Kỉnh Pháp (garudhammā), hãy chấp nhận như thế nghĩa là bà được nhận vào Tăng Đoàn." Bát Kỉnh Pháp là:
1) Một tỳ khưu ni ngay cả một trăm tuổi Đạo (Vassa), phải cung kính một tỳ khưu dù mới xuất gia chỉ một ngày. 2) Một tỳ khưu ni không nên an cư mùa mưa nơi không có tỳ khưu nào.
3) Mỗi mười lăm ngày một tỳ khưu ni phải làm hai việc: hỏi tỳ khưu Tăng ngày Bát Quan Trai Giới (Uposatha), và đến gần tỳ khưu tăng để nhận lời hướng dẫn và sách tấn
4) Khi mãn an cư mùa mưa, tỳ khưu ni phải tham gia lễ mãn an cư mùa mư (pavāranā) do cả hai hội đồng tỳ khưu tăng và tỳ khưu ni thực hiện, trong mỗi hội đồng,tỳ khưu ni phải mời góp ý phê bình về những gì đã thấy, những gì đã nghe hay những gì đã nghi ngờ về tỳ khưu ni đó.
23
5) Một tỳ khưu phạm tội Tăng Tàn phải thi hành hình phạt nửa tháng (pakkha mānatta), trong mỗi hội đồng tỳ khưu tăng và tỳ khưu ni.
6) Một sa di ni chỉ sau thời gian thử thách rèn luyện hai năm như là ứng cử viên được chấp nhận tu lên bậc trên phải tìm đủ cả hai hội đồng.
7) Một tỳ khưu ni không nên chửi rủa một tỳ khưu tăng trong bất cứ trường hợp nào, không nên ngay cả nói quanh co.
8) Một tỳ khưu ni phải tuân thủ các lời dạy của chư tỳ khưu, nhưng không được dạy hay khuyên bảo các tỳ khưu. Bà Mahāpajāpati chấp nhận không chút lưỡng lự Bát Kính Pháp nầy do Đức Phật áp đặt và cuối cùng bà được chấp nhận vào Tăng Đoàn.
☸
24
Chương II
TẠNG LUẬT
Tạng Luật được kết tập từ năm cuốn sách:
- Bất Cộng Trụ (Pārājika Pāḷi)
- Ưng Đối Trị (Pācittiya Pāḷi)
- Đại Phẩm (Mahāvagga Pāḷi)
- Tiểu Phẩm (Cūlavagga Pāḷi)
- Tập Yếu (Parivāra Pāḷi)
1. Bất Cộng Trụ (Pārājika Pāḷi)
Pārājika Pāḷi là cuốn sách thứ nhất của Tạng Luật giải thích chi tiết về những điều luật quan trọng liên quan đến Bất Cộng Trụ và Tăng Tàn, cũng như Bất Định và Ưng Xả Đối Trị là những luật nhỏ
(a) Các tội Bất Cộng Trụ (Pārājika) và những hình phạt
Giới Bất Cộng Trụ gồm bốn loại được đặt ra để ngăn ngừa bốn tội nghiêm trọng. Bất cứ ai phạm phải luật nào trong những điều luật nầy sẽ bị thất bại trong mục đích trở thành tỳ khưu. Theo cách nói của Luật, tội Bất Cộng Trụ rơi vào người nào thì người đó tự nhiên mất địa vị tỳ khưu; người đó không còn được công nhận như là một thành viên của hội chúng tỳ khưu và không được phép trở thành tỳ khưu lại. Người ấy phải hoặc trở về đời sống tại gia như là cư sĩ hoặc trở lại địa vị của một sa di.
Người đã mất địa vị tỳ khưu vì phạm phải bất cứ luật nào trong những luật nầy giống như người đó đã bị chặt đầu khỏi thân hình ; người ấy không thể sống thậm chí nếu
25
cái đầu được gắn lại trên thân người đó; (ii) như lá lìa cành cây, không thể trở nên xanh lại thậm chí nếu chúng được gắn lại vào cuốn lá; (iii) Như tảng đá phẳng đã bị bửa ra; nó không thể liền lại được; (iv) như cây sồi đã bị chặt ngang thân; nó sẽ không bao giờ mọc lại.
Bốn tội Bất Cộng Trụ dẫn đến mất địa vị như là tỳ khưu: (i) Bất Cộng Trụ thứ nhất: Bất cứ tỳ khưu nào hành dâm mất địa vị tỳ khưu.
(ii) Bất Cộng Trụ thứ hai: Bất cứ tỳ khưu nào có tác ý lấy cắp những gì không cho sẽ bị mất địa vị tỳ khưu. (iii) Bất Cộng Trụ thứ ba: Bất cứ tỳ khưu nào có tác ý tước đoạt mạng sống của con người sẽ bị mất địa vị tỳ khưu.
(iv) Bất Cộng Trụ thứ tư: Bất cứ tỳ khưu nào tuyên bố thành đạt mà thực sự không thành đạt, như là đắc thiền hay Tuệ Đạo và Quả sẽ bị mất địa vị tỳ khưu.
Người phạm tội Bất Cộng Trụ là tội rất nghiêm trọng. Người đó không còn là tỳ khưu. Tội của người đó không thể chữa được.
(b) Mười Ba Tội Tăng Tàn và những hình phạt Điều Luật Tăng Tàn gồm một loạt mười ba điều luật đòi hỏi sự tham gia chính thức của Tăng từ đầu đến cuối trong tiến trình làm cho người đó hết tội vi phạm.
(i) Một tỳ khưu đã phạm những điều luật nầy và muốn hết tội trước tiên phải đến gần Tăng và sám hối tội đã phạm tội. Tăng quyết định tội của người đó và ra lệnh người đó phải thọ nhận hình phạt cấm phòng (parivāsa), hình phạt đòi hỏi người đó phải sống đình chỉ mọi sự thân gần sinh hoạt với số tăng chúng còn lại, trong
26
nhiều ngày bằng với thời gian người đó biết mà che giấu tội lỗi
(ii) Vào lúc chấm dứt hình phạt cấm phòng (pari vāsa) người đó phải trải qua một thời gian nhận hình phạt mānatta thêm sáu ngày nữa.để được Tăng chấp nhận lại.
(iii) Sau khi đã thực hành hình phạt mānatta, tỳ khưu đó thỉnh Tăng phục hồi lại đầy đủ mọi sự thân gần sinh hoạt với số Tăng Chúng còn lại.
Phẩm hạnh của người nầy được trong sạch như trước, sau khi có cuộc họp Tăng gồm ít nhất hai mươi vị tỳ khưu, tại đây ñatti , động cơ nhằm phục hồi địa vị của người nầy, được đọc theo sau ba lần đọc kammavācā, văn bản thủ tục tiến hành chính thức của Tăng.
Vài ví dụ về những tội Tăng Tàn.
(i) Tội xúc chạm vào thân phụ nữ (Kāyasamsagga): Nếu tỳ khưu có ý dâm dục tà vạy xúc chạm vào thân người nữ, như cầm tay, vuốt tóc hay sờ chạm vào bất cứ phần nào trên cơ thể người nữ đó, người ấy phạm tội Tăng Tàn do xúc chạm thân người nữ (Kāyasamsagga Sanghā disesa).
(iii) Tội làm mai dong (Sañcaritta)
Nếu tỳ khưu nào nào làm mai dong người nam hay người nữ nào chung sống hợp pháp với nhau như chồng hoặc vợ hay sắp đặt tạm thời như người đàn ông với bà chủ hay người đàn bà với và một tình nhân, người ấy phạm tội Tăng Tàn do làm mai dong (Sañcaritta Sanghā disesa).
27
(c) Hai tội bất định (Aniyata) và hình phạt Aniyata nghĩa là bất định, không chắc. Có hai tội bất định tính chất của chúng là không chắc thật vì liệu nó có phải là Bất Cộng Trụ hay Tăng Tàn hoặc Ưng Xả Đối Trị. Nó được quyết định tuỳ theo những sự cung cấp dữ kiện trong những luật sau đây:
(i) Nếu một tỳ khưu ngồi xuống chỗ riêng tư một mình với một người nữ trong một nơi riêng biệt và khuất tầm mắt, và thuận tiện cho mục đích trái đạo đức nào đó và nếu một tín nữ đáng tin (nghĩa là, một bậc Thánh), thấy tỳ khưu đó, buộc tội ông phạm bất cứ tội nào trong ba tội: (1) Bất Cộng Trụ, (2) Tăng Tàn, (3) Ưng Xả Đối Trị, và tỳ khưu đó tự nhận tội rằng ông đã ngồi như vậy, tín nữ đáng tin đó tìm thấy ông phạm một trong ba tội nầy
(ii) Nếu một tỳ khưu ngồi xuống nơi riêng tư một mình với một người đàn bà trong một nơi không khuất tầm mắt và không tiện cho mục đích trái đạo nhưng tiện cho việc nói lời dâm dục đối với người nữ đó, và nếu một tín nữ đáng tin cậy (nghĩa là, một bậc Thánh), thấy tỳ khưu đó, buộc tội ông về một tội nào trong hai tội (1) tội Tăng Tàn (2) Ưng Xả Đối Trị và chính tỳ khưu đó nhận rằng ông đã ngồi như vậy, tín nữ đó tìm thấy tội nào trong hai tội nầy.
(d) Ba mươi tội Ưng Xả Đối Trị và những hình phạt Có ba mươi điều luật trong phạm trù tội Ưng Xả Đối Trị và những hình phạt được đặt ra để kiềm chế tâm tham quá đáng của tỳ khưu về việc sở hữu những vật dụng như y bát,v.v.. Ví dụ, tội đã phạm một trong những luật nầy khi vật dụng không cho phép có được, hay khi vật có được nhiều hơn số lượng cho phép. Hình phạt gồm trước hết từ bỏ những vật đặc biệt về vật mà tội đó bị phạm. Rồi theo sau đó là sám hối về việc vi phạm điều luật, cùng với việc
28
hứa không tái phạm điều luật đó đối với toàn thể Tăng Đoàn, hay đối với một nhóm tỳ khưu hay đối với tỳ khưu nào đó mà vật có được một cách sai trái đã được dâng nộp. Vài ví dụ về Tội Ưng Xả Đối Trị:
(i) Điều Học Ưng Xả Đối Trị.
Nếu bất cứ tỳ khưu nào giữ số lượng y nhiều hơn cho phép, nghĩa là, y nội, y vai trái và y Tăng Già Lê, vị ấy phạm tội đối với tội đó vị ấy phải dâng nộp y thặng dư và sám hối tội của mình.
(ii) Điều học Cīvara Acchindana
Nếu tỳ khưu nào cho y của mình đến người khác và sau đó, nổi giận hay bất bình bắt buộc trả lại hay bảo người khác lấy lại dùm, người ấy phạm tội Ưng Xả Đối Trị.
Tội Ưng Xả Đối Trị là những tội nhẹ hơn so với những tội nghiêm trọng của Bất Cộng Trụ hay Tội Tăng Tàn.
2. Ưng Đối Trị (Pācittiya Pāḷi)
Ưng Đối Trị là cuốn sách thứ hai của Tạng Luật liên quan đến những tội còn lại của tỳ khưu, đó là Ưng Đối Trị, Ưng Phát Lồ, Ưng Học Pháp, Bảy Cách Dàn Xếp Việc Tranh Tụng và những điều luật tương đương đối với tỳ khưu ni. Mặc dầu Pali gọi là Ưng Xả Đối Trị, nó có tên đặc biệt là 'Suddha Pācittiya' Ưng Đối Trị thường để phân biệt với Ưng Xả Đối Trị như đã đề cập ở trên.
(a) Chín Mươi Hai Tội Ưng Đối Trị và Hình Phạt. Có chín mươi hai điều luật trong loại nầy được phân thành chín phần. Vài ví dụ về loại tội nầy:
- Cố ý nói láo là tội Ưng đối trị.
- Tỳ khưu ngủ chung dưới một mái nhà và chung các bức tường có người nữ phạm tội Ưng Đối Trị
29
- Tỳ khưu đào đất hay sai bảo đào đất phạm tội Ưng Đối Trị.
Tội Ưng Đối Trị được chữa bằng cách chỉ nhận tội với một tỳ khưu khác.
(b) Bốn Tội Ưng Phát Lồ và Hình Phạt.
Trong phạm trù nầy có bốn tội và chúng đều liên quan đến tư cách tác phong của tỳ khưu trong việc nhận vật thực được đặt vào bát cho vị ấy. Tỳ khưu vi phạm bất cứ điều nào trong những điều luật nầy, trong việc thú nhận lỗi, phải dùng một công thức đặc biệt kể ra tính chất lỗi của vị ấy.
Luật đầu tiên của tội Ưng Phát Lồ đọc: tỳ khưu thọ dụng vật thực loại cứng, loại mềm đã đưa tay nhận nó từ một tỳ khưu ni mà người đó không có quan hệ gì đến tỳ khưu ấy và tỳ khưu ni ấy đã đi khất thực quanh các nhà, thì nên thú nhận với một tỳ khưu khác bằng cách nói, "Bạn, tôi đã làm việc đáng trách, không hợp và việc ấy nên được thú nhận. Tôi thú nhận đã phạm tội Ưng Phát Lồ."
Những sự kiện dẫn đến việc đặt ra luật đầu tiên trong những điều luật nầy xảy ra tại thành Sāvatthi, nơi vào một buổi sáng chư tỳ khưu và tỳ khưu ni đang đi khất thực. Một tỳ khưu ni nào đó dâng vật thực mà nàng đã nhận đến một tỳ khưu nào đó, người nầy lấy đi hết tất cả vật thực trong bát nàng. Tỳ khưu ni nầy đi không có vật thực cho ngày hôm đó. Ba ngày liên tiếp nàng dâng vật thực đến cùng một vị tỳ khưu, người nầy lại tiếp tục tước đọat hết tất cả vật thực trong suốt ba ngày. Cuối cùng nàng bị đói gần ngất xỉu. Vào ngày thứ tư trong lúc đi khất thực nàng bị ngất và ngã xuống vì quá yếu. Khi Đức Phật nghe được điều nầy, ngài bảo tỳ khưu đó mang tội tà hạnh và đặt ra điều luật trên.
30
(c) Bảy Mươi Lăm Điều Ưng Học Pháp về Cách Cư Xử Lịch Sự.
Bảy Mươi Lăm Điều Luật nầy được đặt ra từ lúc đầu nhằm cho tỳ khưu cũng như sa di- những người muốn gia nhập Tăng Đoàn ứng xử thích hợp trong mọi tình huống. Đa số những điều luật nầy được đặt ra tại thành Sāvatthi khi có một nhóm lục sư ứng xử vô kỷ luật. Những luật nầy được chia thành bốn nhóm. Nhóm đầu tiên có hai mươi sáu điều liên quan đến tác phong tốt và cách ứng xử khi đi vào thành phố và làng mạc. Nhóm thứ hai có ba mươi điều luật liên quan đến phong cách lịch sự khi nhận vật thực và khi thọ dụng. Nhóm thứ ba có mười sáu điều luật gồm những điều cấm giảng pháp cho những người không tôn kính. Nhóm thứ tư có ba điều luật liên quan đến những cách không hợp khi vào phòng vệ sinh và khạc nhổ.
(d) Bảy Cách Ổn Định Tranh Tụng (Adhikaraṇa samatha)
Cuốn Ưng Đối Trị kết thúc những điều luật dành cho tỳ khưu có một chương về bảy cách dàn xếp (Adhikaraṇa samatha).
Bốn Loại Tranh Tụng:
(i) Tranh tụng liên quan đến tranh cãi (Vivādādhi karana) - Những gì là Pháp những gì không phải là Pháp; những gì là Luật những gì không phải là Luật; Những gì Đức Phật tuyên thuyết những gì không phải Đức Phật tuyên thuyết; và những gì là tội những gì không phải là tội..
(ii) Tranh tụng liên quan đến khiển trách (Anuvādādhi karaṇa) - Buộc tội và tranh cãi nổi lên giữa họ liên quan đến
31
đạo đức, pháp hành, quan niệm và cách sống của vị tỳ khưu.
(iii) Tranh tụng liên quan đến tội- (Āpattādhi-karaṇa) - Việc vi phạm bất cứ điều luật nào.
(iv) Tranh tụng liên quan nhiệm vụ (Kiccādhikaraṇa) - Chính thức họp Tăng và quyết định.
Để dàn xếp những sự tranh tụng như thế thỉnh thoảng nổi lên giữa Tăng Đoàn, những phương pháp vắn tắt và chi tiết được đề ra dưới bảy tiêu đề sau:
(i) Hành xử luật có sự hiện diện (Sammukhā Vinaya) - Trước khi quyết định, tiến hành điều tra với sự hiện diện cả hai bên chiếu theo luật.
(ii) Hành xử bằng cách ghi nhớ (Sativinaya) - Tăng tuyên bố sự vô tội của vị A-la-hán chống lại người buộc tội không có bằng cớ, sau khi hỏi vị ấy liệu vị ấy có phạm tội hay không.
(iii) Hành xử luật khi không điên cuồng (Amūḷha Vinaya) - Tăng tuyên bố khi người bị buộc tội được biết là điên.
(iv) Về Phán xử tội đã thừa nhận (Patiññāta Karaṇa)- Quyết định sau khi bên liên hệ đã chấp nhận. (v) Thuận Theo Số Đông (Yebhuyyasika Kamma) - Bằng cách bầu phiếu quyết định phiếu đa số.
(vi) Theo Tội Của Vị Ấy (Tassapāpiyasika Kamma) - Tăng quyết định khi người bị buộc tội chứng tỏ không thể tin, chỉ chối, tránh trả lời câu hỏi và nói láo.
(vii) Cách dùng cỏ che lấp (Tiṇavattharaka Kamma) - Miễn tất cả các tội ngoại trừ tội Bất Cộng Trụ, Tăng Tàn và những tội liên hệ đến nam nữ cư sĩ, khi các bên tranh tụng được Tăng hoà giải.
32
(e) Những Điều Luật Của Tỳ Khưu Ni
Những chương kết thúc trong Ưng Đối Trị dành cho những điều giới luật của Tỳ Khưu Ni. Danh sách những điều luật của Tỳ Khưu Ni dài hơn của Tỳ Khưu Luật Tỳ Khưu Ni được kéo dài tương đương với luật Tỳ Khưu Tăng, ngoại trừ hai điều luật Bất Định là không được đặt ra cho Giáo Hội Tỳ Khưu Ni.
Tỳ Khưu Tỳ Khưu Ni
(1) Bất Cộng Trụ
(2) Tăng Tàn
(3) Bất Định
(4) Ưng Xả Đối Trị (5) Ưng Đối Trị
(6) Ưng Phát Lồ
(7) Ưng Học Pháp
(8) Ổn Định Tranh Tụng
4
13 2
30 92 4
75 7
8
17
-
30
166 8
75
7
Tổng cộng: 227 311
Tám phạm trù giới luật nầy dành cho Giáo Hội Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni được đề cập chi tiết trong hai cuốn sách đầu tiên của Tạng Luật. Mỗi luật đều có mỗi bản nói rõ nguyên nhân Đức Phật đề ra điều luật nầy kèm theo lời sách tấn của ngài chấm dứt với câu "Tội nầy không dẫn đến phát sanh đức tin trong những ai không được thuyết phục trong Giáo Pháp, cũng chẳng tăng trưởng đức tin trong những ai đã được thuyết phục." Sau lời sách tấn của Đức Phật ở luật đặc biệt, tiếp theo là chú giải từng chữ về điều luật ấy.
33
3. Đại Phẩm (Mahāvagga Pāḷi).
Hai cuốn sách kế, đó là, Đại Phẩm là cuốn thứ III và Tiểu Phẩm là cuốn thứ IV của Tạng Luật, đề cập đến những vấn đề liên quan đến Tăng mà không được đề cập trong hai cuốn đầu.
Đại Phẩm, được chia thành mười phần được biết như Khandhakas, mở đầu bằng lịch sử về Đức Phật đã Giác Ngộ Tối Thượng tại gốc cây Bồ Đề, ngài khám phá ra Luật Duyên Khởi, ngài thuyết bài Kinh đầu tiên cho Nhóm Năm ẩn sĩ về việc khám phá ra Tứ Diệu Đế, đó là bài Kinh Chuyển Pháp Luân. Tiếp theo bài nầy là bài Kinh Vô Ngã Tướng. Hai bài kinh nầy có thể được mô tả như bản Trích Yếu của Phật Pháp.
Phần đầu tiếp tục mô tả về tích chuyện những thanh niên trong gia đình giàu có như Yasa tìm đến quy y ngài như một vị Phật và theo giáo pháp của Ngài; về Đức Phật bắt đầu sứ mạng hoằng truyền Giáo Pháp vô tiền khoáng hậu 'vì lợi ích và hạnh phúc của nhiều người' khi ngài đã có được quanh ngài sáu mươi vị đệ tử - những người đã an trú trong Pháp và trở thành A-la-hán; ngài bắt đầu lập Tăng Đoàn phục vụ như một ví dụ sống động của Chân Lý ngài thuyết giảng; và những đệ tử nổi tiếng của ngài như Sāriputta, Moggallāna, Mahā Kassapa, Ānanda, Upāli, Angulimāla là thành viên của Tăng Đoàn. Sau đó cũng trong phần nầy là những điều luật cho việc chính thức được nhận vào Tăng Đoàn, Upasampadā, cho những điều kiện rõ ràng chính xác phải thực hiện trước khi người nào đó được sự chấp thuận của Tăng Đoàn và tiến trình được thi hành cho mỗi người khi thọ cụ túc giới.
Đại Phẩm đề cập thêm tiến trình buổi lễ Thọ Cụ Túc Giới, họp Tăng vào mỗi ngày rằm và mười bốn hay mười
34
lăm ngày trăng khuyết của âm lịch khi Biệt biệt Giải Thoát Giới (Pātimokkha), bản tóm tắt Tỳ Khưu, được tụng đọc. Sau đó có nhiều điều luật được thọ trì vào an cư mùa mưa (vassa) cũng như cho ngày lễ chính thức của Pavāranā (Tự Tứ) kết thúc, trong đó một tỳ khưu mời chư huynh đệ phê bình liên quan đến những gì được thấy, nghe hay nghi ngờ về phẩm hạnh của vị ấy.
Cũng có nhũng luật liên quan đến tỳ khưu bệnh, dùng giày dép da và bàn ghế tủ giường, các vật dụng như y và những thứ liên quan đến thuốc và thực phẩm. Một phần riêng biệt đề cập đến lễ Dâng Y Kathina được tổ chức hằng năm để dâng cúng Y.
4. Tiểu Phẩm (Cūlavagga Pāḷi)
Tiểu Phẩm là cuốn sách thứ tư của Tạng Luật đề cập đến nhiều điều luật hơn và những tiến trình đối với những phận sự trong tự viện gọi là Sanghakamma. Mười hai phần trong chương nầy liên quan đến những điều luật đối với những tội như Tăng Tàn cần phải họp Tăng để giải quyết; những điều luật phải làm để chuộc tội như Pari vāsa và Mānatta và những qui luật để phục hồi địa vị của một tỳ khưu. Cũng có những luật về tư cách liên quan đến tắm, vận y, chỗ ở, đồ đạc và những qui luật liên quan đến việc cư xử với khách Tăng, và bổn phận của giáo thọ sư và sa di. Vài điều luật quan trọng được ban hành liên quan đến hành động chính thức chỉ trích của Tăng chống lại những tỳ khưu gây rối, cãi lộn, tranh tụng, những ai kết hợp thân mật với gia đình và những ai nói lời khinh chê Phật, Pháp và Tăng (Tajjanīya Kamma); Ukkhepanīya Kamma, hành động chính thức Đình chỉ được dụng cho những ai phạm tội mà không muốn nhận tội;
35
và Pakāsanīya Kamma được sử dụng để công bố rằng "Những gì Devadatta làm bằng hành động hay lời nói, nên được thấy như do tư ý Devadatta và không có gì liên quan đến Phật, Pháp và Tăng." Bản nêu rõ nguyên nhân đưa đến hành động nầy có kèm theo sự tích về Devadatta ba lần mưu toan sát hại Đức Phật và âm mưu chia rẽ Tăng của Devadatta.
Trong phần mười có sự tích về Bà Mahāpajāpati, dì mẫu của Đức Phật, thỉnh Tăng Đoàn nhận vào; Trước tiên Đức Phật từ chối và cuối cùng ngài chấp nhận lời khẩn cầu mà Ānanda đã thay mặt bà xin giúp.
Hai phần cuối mô tả những sự kiện lịch sử quan trọng, đó là tổ chức Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần thứ I tại thành Rajāgaha (Vương Xá) đại hội kết tập lần thứ II tại Rừng Vesāli (Trúc Lâm).
5. Tập Yếu (Parivāsa Pāḷi)
Tập Yếu là cuốn thứ V và là cuốn cuối của Luật Tạng phục vụ như một loại sách giáo khoa. Nó được biên soạn trong hình thức sách giáo lý vấn đáp, có thể làm cho người đọc có một cái nhìn khái quát có phân tích về Tạng Luật. Tất cả những điều luật, những hoạt động chính và những vấn đề khác của Luật được phân loại dưới những phạm trù riêng theo chủ đề liên quan.
Tập Yếu giải thích làm sao những điều luật của Giáo Hội được rút ra để chỉnh đốn phẩm hạnh của tỳ khưu cũng như những công việc hành chính của Giáo Hội. Những tiến trình rõ ràng và chính xác được đặt ra để dàn xếp những vụ tranh tụng và xử lý những vấn đề về luật, nhằm hình thành toà án Tăng Sự, gồm các vị tinh thông giới
36
luật (Vinayadhara), nghe và quyết định mọi loại tranh tụng liên quan đến tu sĩ hay tự viện.
Tập Yếu cung cấp những nguyên tắc chung và hướng dẫn trong tinh thần mà nhờ đó nghi thức Sangha Vinicchaya được thực hiện nhằm ổn định những vụ tranh tụng liên quan đến tu sĩ hay tự viện.
☸
37
Chương III
THẾ NÀO LÀ TẠNG KINH?
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau. (Một ít bài Kinh được thuyết bởi vài đệ tử xuất sắc của Đức Phật, như Đại Đức Sāriputta, Mahā Moggallāna, Ānanda, v.v. cũng như những bài tường thuật cũng được bao gồm trong những cuốn sách của Tạng Kinh.) Những bài thuyết pháp của Đức Phật biên soạn lại với nhau trong Tạng Kinh được thuyết giảng cho thích hợp với những tình huống khác nhau, cho những người có căn cơ hoàn toàn khác nhau. Mặc dầu bài pháp hầu như có ý cho lợi ích của chư tỳ khưu, và liên quan đến việc thực hành đời sống trong sạch và với những lời giải thích về Giáo Pháp, cũng có nhiều bài pháp khác liên quan đến sự tiến bộ vật chất và tinh thần của cư sĩ.
Tạng Kinh đem lại ý nghĩa của Giáo Pháp của Đức Phật, diễn tả chúng một cách rõ ràng, che chở và hộ trì chúng chống lại sự xuyên tạc và hiểu lầm. Chỉ như sợi dây phục vụ như sợi chỉ đỏ hướng dẫn người thợ nề trong công việc của họ, chỉ như sợi dây bao quanh những đoá hoa cho hoa khỏi rơi hay khỏi tan tác, cũng như thế đối với phương pháp của Kinh, ý nghĩa những lời dạy của Đức Phật có thể làm sáng tỏ, nắm vững, hiểu đúng và cho sự bảo đảm hoàn hảo khỏi bị hiểu lầm.
Tạng Kinh được chia thành năm bộ sưu tập riêng biệt được biết như bộ (Nikāya). Đó là Trường Bộ Kinh, Trung
38
Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh và Tập Hợp Bộ Kinh (Tiểu Bộ Kinh).
(a) Sự Vâng Giữ và Những Pháp hành trong Giáo Pháp của Đức Phật.
Trong Tạng Kinh được tìm thấy không những chỉ những nền tảng của pháp mà còn những lời khuyên thực dụng để Pháp có ý nghĩa và có thể áp dụng trong đời sống hằng ngày. Tất cả những điều vâng giữ và pháp hành tạo thành những bước thực tiễn trên con đường Bát Chánh Cao Thượng của Đức Phật.dẫn đến sự thanh lọc tâm ở ba mức độ:
Giới (Sīla) - Đạo đức trong sạch nhờ chánh hạnh, Định (Samādhi) - Tâm thanh lọc nhờ định (Samatha) Tuệ (Pañña)- Tuệ trong sáng nhờ Thiền Tuệ (Vipassana) Trước tiên, một người phải có quyết tâm đúng để quy y
Phật, để hành theo giáo pháp của Ngài, và được chư tăng hướng dẫn. Những đệ tử đầu tiên tuyên bố trung thành với Đức Phật và tự nguyện theo giáo pháp của ngài là hai anh em thương buôn, Tapussa và Bhallika. Họ đang thương du với đồ đệ của họ trong năm trăm cổ xe khi họ thấy Đức Phật ở trong thánh địa của cây Bồ Đề sau khi ngài Giác Ngộ. Hai thương buôn nầy dâng ngài bánh mật. Nhận vật họ cúng dường và như vậy bỏ nhịn ăn mà ngài tự đặt ra suốt trong bảy tuần, Đức Phật nhận họ làm đệ bằng cách bảo họ đọc theo ngài:
"Con xin quy y Phật"
"Con xin quy y Pháp."
Lời đọc nầy trở thành công thức tuyên bố đức tin vào Đức Phật và Giáo Pháp của Ngài. Sau nầy khi Tăng đoàn được thành lập, công thức nầy được thêm vào câu thứ ba:
39
"Con xin quy y Tăng."
(b) Trên con đường chánh để bố thí.
Như một bước thực tiễn, có khả sử dụng ngay và có hiệu quả bởi những người dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, Đức Phật thuyết những bài pháp về bố thí, dâng cúng vật thực, giải thích những đức tính của nó và vật thực có được, được làm đúng chánh hạnh và thái độ đúng của tâm nhờ đó vật thực đem dâng cúng sẽ thăng hoa tâm hồn.
Lực thúc đẩy trong hành động bố thí là tác ý, ý muốn cho ra. Bố thí là hành động thiện chỉ phát sanh với tác ý. Không có ý cho ra thì không có hành động cho. Tác Ý trong dâng cúng vật thực có ba loại:
(i) Tác ý bắt đầu với tư tưởng 'Tôi sẽ dâng cúng' và tồn tại suốt trong thời kỳ sửa soạn lễ vật cúng dường - Pubba Cetanā, tác ý trước khi hành động.
(ii) Tác ý phát sanh và giây phút dâng cúng lúc trao nó đến người nhận - Muñca Cetanā - tác ý trong lúc hành động (iii) Tác ý câu hữu với hỷ và lại hoan hỷ phát sanh lúc hồi tưởng, gợi lại về hành động đã cúng dường hay bố thí - Apara Cetanā - tác ý sau khi hành động.
Dù vật cúng dường làm để dâng cúng đến Đức Phật còn tại thế hay đến một mẫu nhỏ xá lợi của ngài sau khi Niết Bàn, Chính tác ý, sức mạnh và sự trong sạch của nó, từ đó quyết định tính chất của kết quả .
Cũng được giải thích trong những bài Kinh, thái độ sai lầm của tâm với thái độ đó không có hành động bố thí nào được thực hiện.
Thí chủ nên tránh coi thường người khác không có thể có vật cúng dường tương tự; cũng không nên tự đắc khoe
40
về vật thí của mình. Bị ô nhiễm bởi những tư tưởng không xứng đáng đó, tác ý của người đó chỉ có mức thấp. Khi hành động thí bị thúc đẩy bởi sự mong chờ có hiệu quả lợi ích của sự phát đạt và hạnh ngay, hay sự tái sanh trong những kiếp sống cao hơn, tác ý đi cùng được xếp loại hai.
Chỉ khi thiện nghiệp bố thí được hoàn thành bằng tâm xả ly, được thúc đẩy bởi tư tưởng thuần vị tha, chỉ ước mong chứng đắc Niết Bàn nơi mọi khổ ải đều chấm dứt, tác ý đua đến hành động đó được xếp loại cao.
Những ví dụ có rất nhiều trong các bài Kinh liên quan đến bố thí và các cách dâng cúng vật thí.
(c) Đạo đức trong sạch nhờ chánh hạnh (sīla) Vâng giữ giới hình thành phương diện cơ bản nhất của Đạo Phật. Nó gồm việc thực hành Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng để thanh tẩy những cấu uế trong hành động, lời nói và tư tưởng. Cùng với Tam Quy (như đã trình bày ở trên) phật tử tại gia vâng giữ Năm Giới (Ngũ Giới) bằng cách đọc lời tuyên thệ đây:
Con xin vâng giữ điều học là tránh xa sự sát sanh Con xin vâng giữ điều học là tránh xa sự trộm cắp. Con xin vâng giữ điều học là tránh xa sự tà dâm Con xin vâng giữ điều học là tránh xa sự nói dối. Con xin vâng giũ điều học là tránh xa sự uống rượu và các chất say.
Thêm vào phương diện phủ định của công thức trên là việc nhấn mạnh sự kiêng giữ, cũng có phương diện tích cực của giới. Ví dụ, chúng ta tìm thấy trong nhiều bài kinh
Câu nầy: 'Vị ấy ngăn giữ không sát sanh, dẹp dùi cui và gươm qua một bên, đầy lòng từ và bi vị ấy sống vì lợi ích
41
và hạnh phúc của tất cả chúng sanh’. Mỗi giới đề ra trong công thức nầy đều có hai phương diện.
Nhờ vào cá nhân và giai đoạn tiến bộ của một người, những thứ khác của giới, đó là Tám Giới, Mười Giới v.v. có thể được vâng giữ. Đối với chư tỳ khưu trong Giáo Hội, nhiều giới luật cao và tiến bộ hơn được đặt ra. Năm Giới luôn luôn được đệ tử cư sĩ thọ trì họ thỉnh thoảng nâng cao giới luật của chính mình bằng thọ trì Tám Giới và Mười Giới. Đối với những ai đã bắt đầu sống đời thánh đạo, Mười Giới là những thiết bị ban đầu thiết yếu cho sự tiến bộ hơn.
Giới trong sạch hoàn hảo như nền tảng cơ bản cho giai đoạn tiến bộ tiếp theo, đó là, Định - thanh lọc tâm bằng thiền định.
(d) Những Phương Pháp thực tiễn để rèn luyện tâm nhằm phát triển định, Samādhi
Việc rèn luyện tâm nhằm thăng hoa tinh thần gồm hai bước. Bước thứ nhất là thanh lọc tâm khỏi mọi phiền não và lậu hoặc và để tâm có thể tập trung vào một điểm. Nỗ lực kiên định (Chánh tinh tấn) phải được thực hiện để thu hẹp lại những tư tưởng trong tâm dao động, chập chờn. Sau đó chú tâm (Chánh Niệm hay chú tâm đúng) phải được đặt trên đề mục thiền đã chọn mãi cho đến khi đạt nhất tâm (Chánh Định). Trong tình trạng như thế, tâm thoát khỏi năm triền cái, trong sáng, thanh tịnh, có lực và sáng suốt Chính lúc đó nó sẵn sàng tiến lên bước thứ hai nhờ đó Tuệ Đạo và Quả có thể đạt để vượt qua tình trạng khổ sầu.
Tạng Kinh thuật nhiều phương pháp thiền đưa đến nhất tâm. Trong nhiều bài Kinh của Tạng nầy phân ra nhiều phương pháp thiền, được Đức Phật giải thích khi thì
42
riêng lẻ khi thì chung cho phù hợp với tình huống và mục đích qua đó chúng được giới thiệu. Đức Phật biết sự khác biệt tính cách và bản chất tâm của mỗi cá nhân, những căn cơ và thiên hướng khác nhau của những ai đến với ngài để được hướng dẫn. Theo đó ngài giới thiệu những phương pháp khác nhau cho những người nhau để thích hợp với tính cách và nhu đặc biệt của mỗi cá nhân.
Pháp hành để luyện tâm đưa đến kết quả cuối cùng trong Nhất Tâm được là Thiền Định (Samādhi Bhavanā). Những ai thích phát triển thiền định ắt phải nghiêm trì giới luật, thu thúc lục căn, an tịnh, tự chủ, và ắt phải bằng lòng. Sau khi hội đủ bốn điều kiện nầy vị ấy chọn một nơi có thể thích hợp cho việc hành thiền, một nơi thanh vắng. Rồi vị ấy ngồi kiết già, giữ thân thẳng và tâm tỉnh giác; vị ấy nên bắt đầu thanh lọc tâm khỏi năm triền cái, đó là, tham dục, sân hận, dã dượi buồn ngủ, bất an và lo lắng, và nghi hoặc, nhờ chọn phương pháp thiền thích hợp với vị ấy và hành vơi nhiệt tâm tinh cần. Ví dụ, với phương pháp niệm thở, vị ấy cứ quán sát hơi thở ra và vào mãi cho đến khi tâm vị ấy khắn khít với hơi thở ở đầu chóp mũi một cách an toàn.
Khi vị ấy nhận ra rằng năm triền cái đã bị trừ diệt, vị ấy trở nên vui lòng, thoả thích, an tịnh và hạnh phúc. Đây là giai đoạn bắt đầu định, sẽ phát triển hơn cho đến khi đạt Nhất Tâm.
Như vậy Nhất Tâm là tâm tập trung khi nó ý thức về một đề mục, và chỉ một của bản chất có lợi ích và thiện. Điều nầy đạt được nhờ hành thiền trên một trong những đề mục được Đức Phật giới thiệu nhằm mục đích đó.
43
(e) Những phương pháp luyện tâm thực tiễn để phát triển Tuệ Minh Sát (paññā)
Đề mục và những phương pháp thiền được dạy trong những bài Kinh của Tạng nầy được đề ra nhằm đắc Định cũng như phát triển Tuệ Minh Sát (Vipassanā ñāṇa), như con đường thẳng đến Niết Bàn.
Là bước thứ nhì trong việc phát triển thiền, sau khi đắc định, khi tâm tập trung trở nên trong sáng, vững mạnh và điềm tĩnh, thiền sinh hướng tâm trực tiếp đến thiền Minh Sát. Với Tuệ Minh Sát nầy vị ấy phân tích ba đặc tường của thế giới hiện tượng, đó là Vô Thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và Vô Ngã (Anatta).
Khi vị ấy tiến lên trong pháp hành nầy, tâm vị ấy ngày càng trở nên thanh tịnh vững chắc và điềm tĩnh hơn, vị ấy hướng tâm trực tiếp đến Tuệ Đoạn Tận Các Lậu Hoặc (Āsavakkhaya Ñāna). Lúc đó vị ấythực sự hiểu khổ, nhân sanh khổ, khổ diệt và con đường dẫn đến diệt khổ. Vị ấy cũng hoàn toàn hiểu các lậu hoặc như chúng thực sự là, nhân sanh lậu hoặc, diệt lậu hoặc và con đường dẫn đến diệt tận lậu hoặc.
Với tuệ đoạn tận lậu hoặc nầy, vị ấy trở nên giải thoát. Tuệ giải thoát phát sanh trong vị ấy. Vị ấy biết không còn tái sanh nữa, đã sống đời phạm hạnh, vị ấy đã hoàn thành những việc cần làm cho sự giác ngộ Đạo, không có gì hơn cho vị ấy làm đối với sự giác ngộ như thế.
Đức Phật chỉ dạy một việc duy nhất - Diệt Khổ và giải thoát khỏi đời sống hữu vi. Đề mục nhằm đạt được bằng thực hành thiền (Định hay Tuệ) như đã đề ra trong nhiều bài kinh trong Tạng Kinh.
☸
44
Chương IV
TẠNG KINH
TRƯỜNG BỘ KINH
Bộ Sưu Tập Những Bài Kinh Dài Do Đức Phật Thuyết
Bộ sưu tập nầy trong Tạng Kinh, tên là Trường Bộ Kinh được gộp thành từ ba mươi bốn bài Kinh dài do Đức Phật thuyết, được chia thành ba phần: (a) Sīlakkhandha Vagga, Giới Phẩm; (b) Mahā Vagga, Đại Phẩm; và (c) Pāthika Vagga, Phẩm bắt đầu bằng những bài Kinh về Pāthika, ẩn sĩ ngoại đạo loã thể.
*
(a) Giới Phẩm (Sīlakkhandha Vagga Pāli)
Phẩm nầy có mười ba bài Kinh liên rộng đến các loại giới, đó là. Tiểu Giới, giới cơ bản có thể áp dụng cho tất cả; Trung Giới và Đại Giới do đa số Sa Môn và Bà la môn thực hành. Nó cũng thảo luận những tà kiến thịnh hành thời đó cũng như những quan điểm hiến tế và đẳng cấp của bà la môn, và những cách hành đạo khác nhau như pháp khổ hạnh thái quá.
(1) Kinh Phạm Võng (Brahmajāla Sutta)
Cuộc thảo luận giữa Suppiya, ẩn sĩ ngoại đạo, và học trò của ông Brahmadatta, trong đó, người thầy mạ lỵ Phật, Pháp và Tăng đã đem làm thành bài kinh nổi tiếng nầy được liệt kê đầu tiên trong Bộ (Nikāya) nầy.
Liên hệ với việc mạ lỵ Phật, Pháp và Tăng, Đức Phật ra lệnh chúng đệ tử của ngài chớ tiếc nuối, chẳng bất bình, cũng không sân hận, bởi vì nó chỉ phương hại đến tinh thần của họ. Đối với những lời ngợi khen Đức Phật, Pháp
45
và Tăng, Đức Phật khuyên chúng đệ tử ngài không cảm thấy hài lòng, vui thích hay hưng phấn vì nó sẽ làm trở ngại cho sự tiến bộ của họ trên đường Đạo.
Đức Phật nói rằng bất cứ người đời nào ngợi ca Đức Phật người ấy nói cách nào cũng chẳng thể đánh giá đầy đủ những đức tính vô song của Đức Phật, đó là Siêu Định (Samādhi) và Tuệ (Paññā). Người đời chỉ có thể đụng đến những "vấn đề có tính nhỏ bé, vặt vảnh, thuần giới.". Đức Phật giải thích ba loại giới và nói rằng có nhiều pháp sâu sắc, khó thấy, vi tế và chỉ có người trí mới có thể hiểu được. Bất cứ ai muốn ca ngợi đúng những đức tính chân thực của Đức Phật chỉ nên làm vậy trong thuật ngữ những pháp nầy.
Sau đó Đức Phật tiếp tục giải thích nhiều tà kiến khác nhau. Có những sa môn và bà la môn suy đoán về quá khứ, kế thừa và khẳng định những tà kiến của họ trong mười tám cách khác nhau, đó là,
(i) Bốn loại thường kiến, Sassata Diṭṭhi.
(ii) Bốn loại Nhị Kiến trong Thường và Không Thường, Ekacca Sassata Diṭṭhi.
(iii) Bốn Kiến về Thế Giới Hữu Hạn hay Vô Hạn, Antānanta Diṭṭhi.
(iv) Bốn kiến trườn uốn mơ hồ, Amarāvikkhepa Vāda. (v) Hai loại Học Thuyết Vô Nhân, Adhiccasamuppanna Vāda.
Có nhiều Sa môn, Bà la môn, suy đoán tương lai, kế thừa và khẳng định những tà kiến của họ trong bốn mươi bốn cách, đó là:
(i) Mười sáu loại tà kiến về đời sống của tưởng sau khi chết, Uddhamaghātanika Saññī Vāda.
46
(ii) Tám loại kiến về sự không tồn tại của tưởng sau khi chết, Uddhamāghatanika Asaññī Vāda.
(iii) Tám loại kiến về kiếp sống Phi Tưởng Phi Phi tưởng sau khi chết, Uddhamāghātanuka Nevasaññā Nāsaññī Vāda. (iv) Bảy Loại Đoạn Kiến, Uccheda Vāda.
(v) Năm Loại Niết Bàn Trần Gian như có thể chứng ngộ ngay trong kiếp sống nầy, Diṭṭhadhamma Nibbāna Vāda. Đức Phật nói rằng sa môn và bà la môn suy đoán về hiện tại hay tương lai, hay cả hiện tại lẫn tương lai như thế nào đi nữa, họ đã làm như vậy rơi vào trong sáu mươi hai tà cách hay một trong sáu mươi hai tà cách nầy. Đức Phật tuyên bố thêm rằng Ngài biết tất cả những loại tà kiến nầy, cũng biết nơi đến và kiếp sống tiếp đó sẽ là gì, của những ai nắm giữ những tà kiến nầy sẽ bị tái sanh vào. Đức Phật phân tích kỹ những tà kiến đã được khẳng định trong sáu mươi hai tà kiến nầy và chỉ ra rằng những tà kiến nầy phát xuất từ cảm thọ phát sanh như là kết quả của thường xuyên tiếp xúc qua các sáu căn cảm giác. Người nào nắm giữ bất cứ cái gì trong những tà kiến nầy, cảm thọ trong họ phát sanh thành tham ái; tham ái phát sanh thành chấp thủ; chấp thủ phát sanh thành hữu; tiến trình duyên sinh do nghiệp trong hữu phát sanh thành tái sanh; và tái sanh phát sanh thành già, chết, sầu, ưu, khổ, não và thất vọng.
Nhưng người nào biết bất cứ cái gì như chúng thực đang là, gốc của sáu căn tiếp xúc, sự chấm dứt của chúng, vị ngọt và sự nguy hại của chúng và cách thoát khỏi chúng, vị ấy chứng ngộ các pháp, không những chỉ là giới (Sīla), mà còn định (Samādhi) và giải thoát (Vimutti), tuệ (Paññā), vượt lên trên tất cả những loại tà kiến nầy.
47
Tất cả Sa môn và Bà la môn nắm giữ sáu mươi hai loại tà kiến đều bị bắt trong cái lưới của bài kinh nầy giống như tất cả cá trong hồ bị gom trong tấm lưới mảnh do người đánh cá thiện xảo hay do học trò ông quăng ra.
(2) Kinh Sa Môn Quả (Sāmaññaphala Sutta) Vào một đêm trăng rằm trong lúc Đức Phật ngự tại rừng xoài của Ông Jīvaka tại Rājagaha bài kinh về kết quả của đời sống Sa môn, tự thân chứng nghiệm trong kiếp sống nầy, được dạy cho Vua Ajātasattu theo lời thỉnh cầu của ông. Đức Phật giải thích cho ông lợi ích của đời sống sa môn bằng cách cho ông những ví dụ người hầu của ông chủ nhà hay ông chủ đất đang gieo trồng trên đất của chính Đức vua trở thành sa môn, thì chính bản thân Đức Vua tỏ lòng tôn trọng và dâng cúng tứ vật dụng đến người đó, đồng thời che chở và bảo đảm an toàn cho người đó. Đức Phật giải thích thêm về những lợi ích khác cao hơn và tốt hơn của một người sa môn bằng cách liệt kê về (i) làm sao ông gia chủ sau khi nghe pháp do Đức Phật thuyết, từ bỏ đời sống gia đình và trở thành sa môn nhờ đức tin trong sạch; (ii) làm sao người ấy trở nên vững mạnh trong ba địa hạt của giới: tiểu, trung và đại; (iii) làm sao người ấy có thu thúc lục căn tốt đến nỗi không bị tham sân chế ngự; (iv) làm sao người ấy có được chánh niệm ý thức rõ ràng và vẫn tri túc; (v) làm sao, nhờ diệt trừ năm triền cái, vị ấy đạt được tứ thiền - Nhất thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền - như những lợi ích cao hơn của những điều đã đề cập trước kia, (vi) làm sao vị ấy có thể trang bị được tám tuệ cao hơn, đó là, Minh Sát Tuệ, Như Ý Thông, Thần Thông, Nhĩ Thông, Tha tâm thông, Túc Mạng Thông, Nhãn Thông, Lậu Tận Thông.
48
Như vậy khi tuệ giải thoát phát sanh trong vị ấy, vị ấy biết vị ấy đã sống đời trong sạch. Không có lợi ích nào của sa môn, tự thân chứng nghiệm hài lòng hơn và cao đẹp cả. (3) Kinh Ambaṭṭha (Ambaṭṭha Sutta)
Ambaṭṭha, một người đệ tử trẻ của Pokkharasāti, người bà la môn học thức, được thầy gởi đến để điều tra xem xét liệu Gotama có đúng là Đức Phật chân chính không, có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc Đại nhân không. Thái độ thanh niên ấy láo xược, tự kiêu bởi dòng họ Bà la môn của thanh niên ấy khiến Đức Phật làm giảm lòng kiêu ngạo của thanh niên ấy bằng cách chứng minh rằng dòng Khattiya thực sự cao hơn dòng Bà la môn. Đức Phật giải thích thêm tính cách cao thượng của con người không xuất phát từ dòng tộc sanh thành nhưng xuất phát từ sự hoàn hảo trong ba phạm trù giới, đắc các tầng thiền và thành tựu tám loại thượng trí.
(4) Kinh Soṇadanda (Soṇadanda Sutta)
Bài Kinh nầy thuyết cho bà la môn Soṇadanda người đến gần Đức Phật trong lúc ngài ngụ gần Hồ Gaggarā ở Campā trong nước Aṇga. Đức phật hỏi ông người ta nên cần có đức tính gì để được công nhận là Bà la môn. Khi bị Đức Phật hỏi thêm, ông nói rằng đạo đức và kiến thức là những phẩm chất tối thiểu, không có hai đức tính đó không ai có thể được xem là Bà la môn. Thuận lời yêu cầu của ông, Đức Phật giải thích ý nghĩa của thuật ngữ đạo đức và kiến thức. Những ý nghĩa nầy ông tự nhận là không biết một tí gì về chúng cả, đó là, ba phạm trù của giới, sự thành đạt bốn tầng thiền và thành tựu tám loại thượng trí.
(5) Kinh Kūṭadanta (Kūṭadanta Sutta)
Vào đêm rạng Đại Tế lễ, ông Bà la môn Kūṭdanda đến gặp Đức Phật hỏi ý kiến về việc làm sao chủ trì tế lễ tốt
49
nhất. Cho ví dụ về tiên đế Mahāvijita, đã làm một buổi đại tế lế, Đức Phật tuyên bố nguyên tắc được thoả thuận bởi bốn đẳng cấp từ các tỉnh thành, đó là, bậc phạm hạnh, quan đại thần, bà la môn giàu có và các gia chủ; tám đức tính có được trong Đức Vua người sẽ dâng cúng lễ vật; bốn phẩm chất của cố vấn hoàng gia Bà la môn người sẽ chủ trì buổi tế lễ và ba thái độ tâm đối với việc cúng tế. Khi hội đủ tất cả những điều kiện nầy, buổi tế lễ do Đức Vua dâng cúng đã là một sự thành công vĩ đại, không mất sanh mạng của một con vật nào, dân chúng không phải quá vất vả, không ai bị áp đặt làm việc gì, mọi người đều hoan hỷ cùng hợp tác trong buổi đại tế.
Ông Bà la môn Kūṭadanta bèn hỏi Đức Phật liệu có lễ tế nào được thực hiện mà ít rắc rối và ít tổn hao sức lực, nhưng mang lại nhiều kết quả lợi ích. Đức Phật bảo về pháp hành truyền thống cúng dường tứ vật dụng đến chư tỳ khưu có giới hạnh thanh cao. Ít rắc rối và nhiều lợi ích hơn là cúng dường tự viện cho Tăng Đoàn. Còn tốt hơn nữa là thực hành theo pháp hành có thứ tự lên dần có hiệu quả tốt. (i) Quy y Phật Pháp và Tăng; (ii) Thọ Trì Ngũ Giới; (iii) Từ bỏ đời sống gia đình sống đời phạm hạnh, trở nên có giới hạnh nghiêm trì, chứng đắc thiền, và được trang bị với tám loại thượng trí kết quả chứng ngộ sự tận diệt các lậu hoặc thù thắng hơn tất cả các loại cúng tế khác.
(6) Kinh Mahāli (Mahāli Sutta)
Mahāli Oṭṭhaddha, người cai trị dòng Licchavī, một lần đến với Đức Phật và kể cho Ngài nghe về những gì hoàng tử Sunakkhatta Licchavi, đã kể với ông. Sunakkhatta đã từng là đệ tử của Đức Phật trong ba năm sau đó ông từ bỏ giáo pháp nầy. Ông kể Mahāli làm sao ông ấy đạt được Thiên Nhãn Thông qua đó ông ấy đã thấy sự kỳ diệu của những hình sắc đẹp và đáng ưa thích thuộc cõi trời. Mahāli
50
muốn biết từ Đức Phật liệu Sunakkhatta không nghe được âm thanh của cõi trời bởi vì chúng không tồn tại, hay liệu ông không nghe được chúng mặc dù chúng tồn tại.
Đức Phật giải rằng có những âm thanh ở cõi nhưng Sunakkhatta không nghe chúng bởi vì ông ấy phát triển định chỉ nhằm mục đích đạt được Thiên nhãn Thông chứ không phải Thiên Nhĩ thông.
Đức Phật giải thích thêm rằng chúng đệ tử của ngài phạm hạnh không phải nhằm mục đích đạt được những thần thông như thế nhưng nhắm đến chứng ngộ các pháp cao xa và thù thắng hơn các loại tâm phàm tục nầy. Những pháp như thế là sự thành tựu Bốn Quả Cao Thượng - Những trạng thái của Bậc Thánh Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai, và trạng thái tâm và tuệ của Bậc Thánh Ala hán tận diệt mọi lậu hoặc đã tích chứa từ nhiều kiếp.
Con đường mà những pháp nầy có thể chứng ngộ là Bát Chi Thánh Đạo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.
(7) Kinh Jāliya (Jāliya Sutta)
Một thời khi Đức Phật đang ngự tại Tự viện Ghositā gần Kosambi, hai vị ẩn sĩ ngoại đạo Muṇḍiya và Jāliya đến gần Đức Phật và hỏi liệu linh hồn là thân vật chất, hay thân vật chất là linh hồn, hay liệu linh hồn là một và thân vật chất là một thứ khác.
Đức Phật giải thích làm sao một người cuối cùng có thể chứng ngộ giải thoát không còn quan tâm đến ngay cả liệu linh hồn là thân vật chất, hay thân vật chất là linh hồn hay liệu linh hồn là một thứ và thân vật chất là thứ khác.
51
(8) Đại Kinh Sư Hống (Mahāsīhanāda Sutta) Bài nầy định nghĩa sa môn thật sự là gì, bà la môn thực sự là gì. Đức Phật đang ngự trong rừng nai của Kaṇṇakathala ở Uruñña. Sau đó ẩn sĩ ngoại đạo loã thể Kassapa đến gần ngài và nói rằng ông từng nghe rằng Sa môn Gotama chê tất cả các pháp hành khổ hạnh và rằng sa môn Gotama khinh khi những ai sống đời khổ hạnh. Đức Phật trả lời rằng họ nhạo báng ngài với những gì không được ngài nói, những gì không đúng sự thật. Khi Đức Phật có thể thấy bằng thiên nhãn vận mệnh xấu cũng như vận mệnh tốt của những ai hành hình thức cực kỳ khổ hạnh, và của những ai hành hình thức ít khổ hạnh, làm sao ngài có thể khinh khi tất cả những hệ thống tự hành khổ ép xác được.
Kassapa, lúc đó, vẫn giữ quan niệm rằng chỉ những ẩn sĩ ngoại đạo, luyện tập pháp hành đứng hay ngồi suốt đời họ, những ai điều độ trong ăn uống, ăn chỉ một lần trong hai ngày, trong bảy ngày, trong mười lăm ngày v.v. mới thực sự là sa môn và bà la môn. Đức Phật giải thích cho họ sự vô ích của cực kỳ khổ hạnh và dạy rằng chỉ khi vị ẩn sĩ thực hành và trở nên hoàn thành trong giới, định và tuệ; trau dồi tâm từ, và trú trong tâm giải thoát, và tuệ giải thoát vị ấy xứng gọi là sa môn và bà la môn. Lúc đó Đức Phật giải thích đầy đủ về giới, định và tuệ, cuối cùng Kassapa quyết định gia nhập Tăng đoàn của Đức Phật.
(9) Kinh Poṭṭhapāda (Poṭṭhapāda Sutta)
Một thời khi Đức Phật đang ngự tại tự viện Anātha piṇḍika trong rừng Jeta tại thành Sāvatthi.Ngài viếng thăm Sảnh đường Ekasālaka nơi nhiều quan điểm khác nhau được thảo luận. Vào thời đó Poṭṭhapāda ẩn sĩ ngoại đạo hỏi ngài về bản chất của tưởng diệt (saññā). Poṭṭha-
52
pāda muốn biết làm sao tưởng diệt được xảy ra. Đức Phật kể ông rằng chính nhờ lý do và nhân duyên mà hình thành tâm thức trong một chúng sanh khởi và diệt (Adhicitta Sikkhā) và một dạng tâm nào đó dừng nghỉ nhờ hành thiền.
Sau đó Đức Phật tiến tới giải thích về những pháp hành nầy gồm thọ trì giới, phát triển định tâm mà kết quả trong sự sanh và diệt của tầng thiền kế tục. Thiền sinh tiến bộ từ giai đoạn nầy đến giai đoạn khác trong một tiến trình mãi cho đến khi vị ấy đạt được Diệt Thọ Tưởng Định [sự diệt của tất cả các dạng Tâm (Nirodhasamāpatti)].
(10) Kinh Subha (Subha Sutta)
Bài Kinh nầy không do Đức Phật thuyết nhưng do thị giả thân tín của ngài, Đại Đức Ānanda, theo lời thỉnh cầu của thanh niên Subha. Vào lúc đó Đức Phật đã qua đời. Và thanh niên Subha muốn biết từ môi thị giả thân tín của ngài những pháp nào được Đức Phật ca ngợi và những pháp đó là gì mà ngài khuyến khích dân chúng thực hành.
Ānanda kể ông ấy rằng Đức Phật hằng ca ngợi ba pháp uẩn, đó là, giới uẩn, định uẩn và Tuệ uẩn. Đức Phật khuyến khích người ta thực hành những pháp nầy, sống trong pháp, và thiết lập vững chắc trong pháp. Ānanda giải thích pháp uẩn nầy rất chi tiết cho thanh niên Subha, cuối cùng cậu ấy trở thành đệ tử thuần thành.
(11) Kinh Kiên Cố (Kevaṭṭa Sutta)
Đức Phật ngự tại Nāḷandā trong rừng xoài Pāvāriko. Một thiện tín thuần thành đến gần Đức Phật và yêu cầu ngài bảo một trong những đệ tử biểu diễn thần thông hầu dân chúng trong thành Naḷandā sẽ mãi mãi kính mộ Đức Phật.
53
Đức Phật dạy ông ấy về ba loại thần thông mà ngài đã biết và tự chứng ngộ bằng trí tuệ siêu nhiên.Thần thông thứ nhất là, iddhi pāṭihāriya, bị Đức Phật từ chối bởi vì nó bị xem như là thuật đen gọi là ma thuật Gandhārī. Đức Phật cũng từ bỏ loại thần thông thứ hai, ādesanā pāṭihāriya vì chúng có thể được xem như bùa chú cintāmani. Ngài giới thiệu loại thần thông thứ ba, anusāsanī pāṭihāriya, thần thông của năng lực giảng dạy như nó liên quan đến việc thực hành Giới, Định và Tuệ cuối cùng dẫn đến sự tận diệt Lậu Hoặc, Āsavakkhaya Ñāṇa.
(12) Kinh Lohicca (Lohicca Sutta)
Bài Kinh đề ra ba loại thầy đáng trách: (i) Thầy là người chưa hoàn thành trong pháp hành cao thượng và dạy đồ chúng mà chúng không vâng lời thầy. (ii) Thầy là người chưa hoàn thành trong pháp hành cao thượng và dạy đồ chúng rồi chúng thực hành như đã được thầy hướng dẫn và đạt được giải thoát (iii) Thầy là người đã viên thành hoàn mãn trong pháp hành cao thượng và dạy đồ chúng nhưng chúng không vâng lời thầy.
Thầy là người đáng ngợi khen là người đã trở nên viên thành hoàn mãn trong tam pháp hành Gíơi, Định và Tuệ và dạy đồ chúng trở nên viên thành hoàn mãn như thầy. (13) Kinh Tam Minh (Tevijja Sutta)
Hai thanh niên bà la môn Vāsetha và Bhāradvāja đến gặp Đức Phật trong lúc ngài đi một chuyến quanh Vương Quốc Kosala. Chúng muốn Đức Phật giải quyết cuộc tranh luận như là con đường đúng dẫn trực tiếp đến cộng trú với Phạm Thiên. Mỗi người chỉ nghĩ con đường duy nhất được thầy của mỗi người chỉ là con đường đúng.
54
Đức Phật dạy rằng vì không ai trong những người thầy của họ thấy Phạm Thiên, họ như một đoàn người mù mỗi người nắm vào chéo áo của người đi trước. Sau đó ngài chỉ cho họ con đường chính thực sự dẫn đến cõi Phạm Thiên, đó là con đường giới và định, và phát triển tâm từ, bi, hỷ và xả đối với tất cả chúng sanh hữu tình.
*
(b) Đại Phẩm (Mahā Vagga Pāḷi)
Mười bài Kinh trong phẩm nầy có vài bài quan trọng nhất trong Tam Tạng Kinh Điển, liên hệ đến nhiều phương diện lịch sứ và tiểu sử cũng như nhiều phương diện học thuyết của Đạo Phật . Bài Kinh nổi tiếng nhất là bài Kinh Mahāparinibbāna liên quan đến những ký sự ngắn của bảy vị Phật quá khứ và cuộc đời Đức Phật Vipassī .Hai bài Kinh quan trọng nhất về học thuyết: Kinh Mahānidāna giải thích những mắc xích nhân quả, và bài Kinh Mahāsatipaṭṭhāna đề cập đến Bốn Phép Chánh Niệm và những phương tiện thực tiễn của thiền Tứ Niệm Xứ.
(1) Đại Kinh Bổn Duyên (Mahāpadāna Sutta) Bài Kinh nầy được thuyết tại thành Sāvatthi cho chư tỳ khưu dành một ngày để thảo luận về Túc Mạng Minh của Đức Phật. Ngài kể về bảy vị Phật quá khứ, có tích chuyện đầy đủ của từng vị, Phật Vipassī, hồi tưởng lại tất cả các sự kiện của chư Phật, đẳng cấp xã hội của họ, danh tánh, bộ tộc và tuổi thọ, hai vị đại đệ tử Phật, những hội chúng của chư vị, sự thành đạt và sự giải phóng của chư vị khỏi mọi phiền não.
Đức Phật giải thích rằng khả năng nhớ và hồi tưởng các kiếp tuỳ thuộc vào khả năng phân tích sắc sảo thấu suốt của riêng ngài cũng như nhờ chư thiên làm cho những vấn đề đó được ngài biết đến
55
(2) Đại Kinh Về Duyên (Mahānidāna Sutta) Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thị trấn Kammāsadhamma cho Đại Đức Ānanda để chỉnh lại ý kiến sai lầm về học thuyết Duyên Khởi (Paṭiccasuppāda), mặc dầu có dấu hiệu sâu sắc và thâm thuý mà rõ ràng và có thể thăm dò được. Đức Phật nói rằng học thuyết nầy xuất hiện không chỉ sâu sắc và thâm thuý mà còn thực sự sâu sắc và thâm thuý về bốn điểm: sâu sắc trong ý nghĩa, sâu săc như là một học thuyết, sâu sắc liên quan đến tính cách trong đó nó được dạy, và sâu sắc liên hệ đến những sự kiện mà theo đó nó được thành lập.
Sau đó ngài giải thích kỹ lưỡng về học thuyết và nói rằng bởi vì thiếu hiểu biết đúng và ý thức thâm sâu về học thuyết nầy, chúng sanh bị bắt trong và không thể thoát khỏi, vòng luân hồi khốn khổ và tàn hại. Ngài kết luận rằng không có sự hiểu biết sâu sắc về học thuyết nầy, ngay cả tâm của những người đã đắc thiền, sẽ bị mây che với những ý tưởng về cái ngã (atta).
(3) Đại Kinh Bát Niết Bàn (Mahāparinibbāna Sutta) Bài Kinh nầy mô tả những sự kiện quan trọng về những ngày cuối của Đức Phật, một biên niên sử đầy đủ chi tiết về những gì ngài đã làm, những gì ngài đã nói và những gì xảy ra với ngài suốt trong một năm cuối đời ngài. Sưu tập trong hình thức tường thuật, những khía cạnh cơ bản và quan trọng nhất của giáo lý Đức Phật được rải rác trong nhiều bài Kinh . Là bài Kinh dài nhất trong Trường Bộ Kinh, nó được chia thành sáu chương.
Vào đêm rạng ngày thực hiện chuyến đi vĩ đại cuối cùng, trong lúc ngự tại thành Rājagaha, Đức Phật đã thuyết giảng nhiều bài kinh nổi tiếng về bảy yếu tố không thoái
56
Đức Vua và Hoàng tử và Bảy Yếu tố không thoái của chư tỳ khưu.
Sau đó ngài bắt đầu cuộc hành trình cuối trước tiên đi đến làng Pāṭali ở đó Đức Phật dạy về hiệu quả của đời sống đạo đức và vô đạo đức. Rồi ngài đi tiếp đến làng Koṭi nơi đó ngài giải thích về Bốn Sự Thật Cao Quý. Rồi ngài tiếp đến ngự ở làng Nātika nơi đây bài kinh nổi tiếng về tấm Gương Chân Lý được thuyết giảng.
Kế đó Đức Phật đi Vesalī với hội chúng đông chư tỳ khưu. Ở Vesalī, Đức Phật tuần du đến một làng nhỏ tên là Veluva ở đó ngài lâm trọng bệnh đến nỗi có thể xem như là định mệnh. Nhưng Đức Phật quyết định duy trì tiến trình sự sống và không qua đời mà không nhắn nhủ hàng cư sĩ và chưa tạm biệt tăng chúng. Khi Đại Đức Ananda bạch đức Phật người thật lo lắng làm sao bởi vì bệnh tình của Đức Phật, Đức Phật ban pháp lệnh sâu sắc như sau: Hãy là người hộ trì của chính mình, là nơi nương nhờ của chính mình. Hãy lấy Pháp là nơi nương nhờ của các con, không nương nhờ vào nơi nào khác."
Chính tại thành Vesalī mà Đức Phật quyết định qua đời và chứng ngộ Parinibbāna trong vòng ba tháng nầy. Ngay giây phút Đức Phật có quyết định nầy có xảy ra trận động đất lớn. Đại Đức Ānanda, khi được Đức Phật cho biết lý do của động đất, thỉnh cầu ngài thay đổi quyết định nhưng không có hiệu quả tí nào.
Sau đó Đức Phật ra lệnh triệu tập Tăng chúng và ngài cho họ biết ngày ngài nhập diệt sắp đến. Đoạn ngài ôn lại tất cả các nguyên lý căn bản Giáo Pháp của Ngài và sách tấn họ tinh cần, tỉnh giác, và thường xuyên canh giữ tâm của chính mỗi người hầu đoạn tận khổ.
57
Sau đó Đức Phật rời Vesali và đi đến Làng Bhanḍa nơi đây ngài tiếp tục thuyết những bài kinh cho Tăng chúng tháp tùng theo ngài về Giới (Sīla), Định (Samādhi) và Tuệ (Paññā). Ngài lại tiếp tục cuộc hành trình về phía bắc, ngài thuyết bài kinh về bốn quyền hạn lớn, Mahāpadesa, tại tỉnh lỵ Bhoga.
Từ đó ngài tiếp tục đi đến Pāvā và ngụ trong rừng Xoài của Cunda, con trai ông thợ Kim hoàn, người ấy dâng cúng thực phẩm đến Đức Phật và hội chúng tỳ khưu. Sau khi độ xong bửa do Cunda dâng cúng, bệnh trầm trọng phát sanh đến Đức Phật tuy nhiên ngài vẫn tiếp tục cuộc hành trình cho đến khi đến Kusinārā ở đây trong rừng cây Sal của các hoàng tử Malla, ngài giục Ānanda trải giường cho ngài ngự. Ngài ngự trên giường với chánh niệm và giải thoát, chờ giờ nhập diệt (parinibbāna).
Thậm chí khi ngự trên giường chờ giờ nhập diệt Đức Phật vẫn tiếp tục dạy, giải thích rằng có bốn nơi phát sanh lòng tôn kính và tận tâm. bốn người xứng đáng xây tháp phụng thờ, và trả lời những câu hỏi của Ānanda về tự mình nên ứng xử như thế nào với phái nữ, hay về những gì nên được làm liên quan đến xá lợi của Đức Phật. Hành động vô ngã cuối cùng của ngài nhằm giải thích cặn kẻ Chân Lý và chỉ đường cho Subhadda, ẩn sĩ. ngoại đạo.
Rồi sau khi chắc chắn rằng không còn vị tỳ khưu nào có nghi ngờ gì trong Phật, Pháp và Tăng, Đức Phật nhắn nhủ lời cuối cùng: "Tất cả các pháp hữu vi đều có bản chất cố hữu là hoại và diệt. Hãy tinh cần nỗ lực với tròn đủ chánh niệm."
Rồi khi chư tỳ khưu triệu tập, các hoàng tử và dân chúng đảnh lễ ngài với tâm vô cùng tôn kính, Đức Phật qua đời và chứng ngộ Parinibbāna.
58
(4) Đại Kinh Thiện Kiến Vương (Mahāsudassana Sutta)
Bài Kinh nầy được Phật dạy trong lúc ngài ngự trên giường chờ giờ nhập diệt trong rừng cây Sal của hoàng gia Mallas. Khi đại đức Ānanda van nài ngài đừng nhập diệt trong tỉnh lỵ nhỏ, trơ trụi và không có ý nghĩa nầy, Đức Phật dạy rằng Kusinārā không phải là thành phố nhỏ không có ý nghĩa.
Trong những thời xa xưa, nơi đây được biết là Kusāvatī, thủ đô của chư vị Chuyển Luân Thánh Vương đã cai bốn châu thiên hạ trên thế gian.
Đoạn Đức Phật mô tả vẻ nguy nga và đồ sộ của Kusa vati thời vua Đại Thiện Kiến (Mahāsudassana) cai trị. Ngài cũng mô tả đức vua đã cai trị các lãnh địa của mình chân chính như thế nào và cuối cùng từ bỏ tất cả những tham luyến và thực hành thiền định, qua đời và đạt đến cảnh giới an lạc của Phạm Thiên.
Đức Phật tiết lộ rằng thời đó ngài là vua Đại Thiện Kiến (Mahāsudassana). Ngài từ bỏ thân xác nơi nầy (trước kia là Kusāvatī) sáu lần như là Vua Chuyển Luân Thánh Vương. Bây giờ ngài từ bỏ thân xác lần thứ bảy và là lần cuối cùng. Ngài chấm dứt bài kinh nhắc Ānanda rằng tất cả các pháp hữu vi thực sự là vô thường. Sanh và diệt là bản chất cố hữu của nó. Chỉ có Niết bàn tịch tịnh mới là sự chấm dứt tuyệt đối của chúng.
(5) Kinh Janavasabha (Janavasabha Sutta)
Bài Kinh nầy là bài nói rộng ra của bài kinh khác được Đức Phật thuyết vào cuộc hành trình cuối đời ngài. Ānanda biết vận mệnh của những cư sĩ từ xứ Maga dha. Đức Phật bảo vô số người từ Magadha đã đến cõi trời nhờ đức tin vào nơi Phật, Pháp và Tăng. Tin tức nầy do
59
thiên nam Janavasabha người trước kia là vua Bimbisāra. Ông bạch Phật rằng rất thường có hội chư thiên trên cõi trời vào những ngày Bát Quan Trai khi vua của Chư Thiên và Phạm Thiên Sanankumāra dạy pháp về phát triển Các căn của Thần Lực, về Ba Cơ Hội, về Bốn Phép Chánh Niệm và Bảy Yếu Tố Định.
(6) Đại Kinh Điền Tôn (Mahāgovinda Sutta) Trong bài kinh nầy, Pañcasikha, một thiên nam ở cõi trời Càn Thát Bà kể với hội chúng chư thiên nơi Phạm Thiên Sanakumāra dạy pháp như đã được Mahāgovinda chỉ bày, Bồ tát Mahagovinda đã đến cõi trời Phạm Thiên. Đức Phật nói rằng Mahagovinda là không ai khác hơn chính ngài và giải thích rằng Pháp ngài đã dạy thời đó có thể dẫn con người chỉ đến cõi trời Phạm Thiên. Với lời dạy của Ngài bây giờ như là Đức Phật Toàn Giác, có thể đạt được những thành tựu cao hơn như Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai và thành tựu cao nhất là quả vị A-la-hán.
(7) Kinh Đại Hội (Mahāsamaya Sutta)
Đức Phật đang ngự trong rừng Đại Lâm tại Kapilāvatthu với hội chúng A-la-hán tổng số lên đến năm trăm vị..Lúc bấy Chư Thiên và Phạm Thiên từ mười ngàn thế giới đến để đảnh Đức Phật và hội chúng Thánh Tăng. Đức Phật nói với Thánh chúng danh tánh của Chư Thiên và Phạm Thiên như được liệt kê trong bài kinh nầy.
(8) Kinh Thiên Vương Sở Vấn (Sakkapañha Sutta) Một thời khi Đức Thế Tôn ngự tại Động Indasāla gần thành Rājagaha, Sakka, Thiên Vương, giáng xuống để hỏi ngài vài câu hỏi nào đó. Thiên vương muốn biết tại sao có hận thù và bạo lực giữa những chúng sanh khác nhau. Đức thế tôn bảo ông chính là do ganh ghét và ích kỷ mà sanh ra thù hận giữa các chúng sanh. Ngài giải thích thêm rằng
60
ganh ghét và ích kỷ do thích và không thích gây ra, mà ngược lại có gốc của chúng trong tham ái. Và tham ái phát sanh từ tầm (vitakka) mà nó có nguồn gốc trong ảo tưởng muốn kéo dài vòng luân hồi (papañca-saññā-saṇkha).
Sau đó Đức Phật đưa ra đề cương để dời ảo tưởng muốn kéo dài vòng luân hồi nầy gồm hai loại tầm cầu, những tầm cầu nên được theo đuổi và những tầm cầu không nên theo đuổi.
(9) Đại Kinh Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta) Bài Kinh nầy là một trong những bài kinh về học thuyết quan trọng nhất của Đức Phật. Nó thâm thuý ở điểm là con đường duy nhất 'để thanh tịnh chúng sanh, vượt qua sầu não, đoạn tận khổ ưu, đạt đến thánh đạo, chứng ngộ Niết bàn.'Bài Kinh nầy thuyết trực tiếp đến chư tỳ khưu ở thị trấn Kammasadhamma, định nghĩa 'con đường duy nhất' như Bốn Phép Chánh Niệm được làm thành mười bốn cách quán tưởng thân, chín cách quán thọ, mười sáu cách quán tâm, và năm cách quán pháp. Bài Kinh chấm dứt với lời bảo đảm rõ ràng về kết quả thiết thực: Quả vị A-la-hán ngay trong kiếp sống nầy hay trạng thái Bất Lai có thể đạt được trong vòng bảy năm, bảy tháng , hay bảy ngày. (10) Kinh Pāyāsi
Bài Kinh nầy kể lại làm sao Đại Đức Kumārakassapa chỉ con đường thẳng cho Thống đốc Pāyāsi của tỉnh Setabyā trong xứ Kosala. Thống đốc Pāyāsi nắm giữ tà kiến: "Không có thế giới khác; không có chúng sanh nào phát sanh lại sau khi chết; không có quả của hành động xấu hay tốt." Đại Đức Kumārakassapa chỉ cho ông con đường thẳng, minh hoạ lời ngài dạy bằng nhiều ví dụ để cho ông sáng tỏ. Cuối cùng Pāyāsi trở nên tràn đầy tín tâm và quy y Phật, Pháp và Tăng. Đại Đức Kumārakassapa cũng dạy ông
61
đúng cách của vật cúng dường được làm và những vật cúng dường nên được làm với lòng tôn kính thích đáng, bằng chính hai tay mình, với sự cung kính và không phải như vất bỏ chúng. Chỉ với những điều kiện nầy việc cúng dường, làm phước đó mới mang lại kết quả thù thắng.
*
(c) Phẩm Pāthika (Pāthika Vagga Pāḷi)
Phẩm nầy gồm mười một bài Kinh ngắn hơn có nội dung tổng hợp. Chúng đề cập đến sự phủ định của Đức Phật pháp khổ hạnh cực kỳ khắc nghiệt và sai lầm của những đồ chúng ở các phái khác; chúng cũng đề cập đến từng thời kỳ tiến hoà và huỷ diệt của vũ trụ, tích chuyện của các vị Chuyển Luân Thánh Vương và ba nươi hai tướng tốt của bậc Đại Nhân. Có một bài Kinh Sin gālā, thuyết cho một người thanh niên Ba La Môn chỉ bày những bổn phận được thực hiện bởi những thành viên trong xã hội loài người. Hai bài Kinh cuối, Phúng Tụng (Sangīti) và Thập Thượng (Dasuttara), là những bài Kinh được Đại Đức Sariputta thuyết và chúng chứa những danh sách thuật ngữ học thuyết được phân loại tuỳ theo chủ đề và những đơn vị số. Thể loại luận bàn của chúng khác với chín bài kinh khác trong phẩm nầy.
(1) Kinh Pāthika
Vào thời Đức Phật, có nhiều đạo sư khác cùng với đệ tử của họ, nắm giữ nhiều quan niệm khác nhau về đời sống phạm hạnh gồm những gì, về nguồn gốc và sự phát triển của vũ trụ, và về sự biểu diễn những phép lạ và thần thông. Sunakkhatta, hoàng tử Licchavi trở thành đệ tử của Đức Phật và được chấp nhận vào Tăng Đoàn.
Nhưng ông thấy giới luật và Giáo Pháp ở trên ông và trên tầm mức hiểu biết của ông, cùng lúc đó ông bị thu hút
62
vào giáo pháp và pháp hành của những phái khác. Sau ba năm ông rời Tăng Đoàn rồi thành một đồ chúng của một trong những phái khác, ông bắt đầu thoá mạ giáo pháp của Đức Phật và thực hiện nhiều lần vu khống Đức Phật và chúng đệ tử của Ngài. Nhiều bài giảng ngắn trong Kinh Pāthika tường trình về những lời phủ nhận và giải thích của Đức Phật liên quan đến nhiều lời buộc tội của Sunakkhatta.
(2) Kinh Udumbarika (Udumbarika Sutta) Bài Kinh nầy thuyết cho Nigrodha, du ẩn sĩ và đồ chúng của ông trong vườn thượng uyển của hoàng hậu Udumbarika gần Rajāgaha, để huỷ luận thuyết sai lầm của họ và thiết lập luận thuyết hợp lý. Quá bị ám ảnh với những tà kiến sai lầm của chính họ, những du sĩ nầy không đáp lời mời của Đức Phật để hành theo Giáo Pháp của ngài bảo đảm có hiệu quả thiết thực trong bảy ngày. (3) Kinh Chuyển Luân Thánh Vương (Cakkavatti Sutta)
Trong thành Mātulā, của xứ Magadha, Đức Phật ra lệnh cho chư tỳ khưu hãy là những người hộ độ cho chính mình, là nơi nương nhờ của chính mình, nương nhờ vào pháp và không nương nhờ vào ai khác. Sau đó Đức Phật kể chuyện Daḷhanemi, Vua Chuyển Luân Thánh Vương, có Thiên Xa như là một trong bảy báu của Đức Vua. Vua và những người kế vị cai trị bốn châu thiên hạ, nắm và sử dụng uy lực và quyền hành của Chuyển Luân Thánh Vương. Thọ mạng của chư vị dài lâu và bao lâu còn sống thì còn duy trì chánh đạo và hoàn thành những bổn phận cao thượng của vua Chuyển Luân Thánh Vương, Chánh Pháp là người hộ độ duy nhất, cung cấp chỗ trú ẩn và an ninh, thân tặng tài sản và nhu yếu phẩm cho người cần,
63
Lãnh thổ của họ duy trì hoà bình, thịnh vượng và phát triển.
Nhưng khi Quốc vương không thực hiện được những bổn phận của vị vua chánh trực, khi Chánh Pháp không còn là nơi nương nhờ, đạo đức con người suy sút. Tuổi thọ giảm dần đến chỉ còn mười tuổi. rồi mười thiện nghiệp sanh ra những hiệu quả ích lợi hoàn toàn mất và mười ác nghiệp cho quả bất thiện sinh sôi nẩy nở tràn lan. Người ta quên không tỏ ra tôn kính bậc lãnh đạo và các trưởng lão, lơ là thực hiện những bổn phận đối với cha mẹ, sa môn và bà la môn. Cũng có phát sanh sân hận và tà ý lẫn nhau, những tư tưởng giết nhau, rồi tiếp đến là đánh nhau, phá hại và tàn sát.
Một ít người sống sót từ cuộc tàn sát đồng lòng từ bỏ các tà hạnh, sống trong tinh thần hài hoà, làm các thiện nghiệp, tỏ lòng tôn kính các bậc lãnh đạo và các trưởng lão, thực hành những bổn phận đối với cha mẹ, sa môn và bà la môn. Cuối cùng đạo đức được cải thiện, tuổi thọ con người tăng lên lại dần đến tám mươi ngàn tuổi khi đó Vị Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện thêm một lần nữa để cai trị đúng chánh pháp. Như vậy, chư tỳ khưu được lệnh sinh hoạt đúng chánh Pháp, biến Pháp là người hộ độ, là nơi nương nhờ. Pháp sẽ chỉ đường cho họ phát triển thể chất và tâm linh cho đến họ đạt quả vị Ala hán.
(4) Kinh Khởi Thế Nhân Bổn (Aggañña Sutta) Bài Kinh nầy được thuyết tại thành Sāvatthi cho hai chú sa di đang tu học, Vāseṭṭha và Bhāradvāja, chỉ ra những tà kiến của những người Bà la môn như việc liên quan đến đẳng cấp. Bên phía Bà la môn tuyên bố rằng trong bốn giai cấp của con người, giai cấp Bà la môn được công nhận là cao thượng nhất trong thời đó, kế đến là giai cấp Sát Đế Lỵ
64
- Khattiya, giai cấp cao thượng và hoàng gia; tiếp theo là giai cấp Vessa - iai cấp mậu dịch và cuối cùng là Suda - giai cấp hạ tiện nhấṭ
Đức Phật phủ nhận những lời tuyên bố nầy của phía Bà la môn, bằng cách giải thích thế giới phải chịu những tiến trình tiến hoá và hoại diệt và mô tả làm sao con người xuất hiện đầu tiên trên trái đất và làm sao nổi lên bốn giai cấp. Ngài giải thích thêm rằng dòng tộc sản sinh của một người nào không quyết định tính cách cao thượng của người đó nhưng do đức hạnh và trí tuệ hiểu biết Tứ Thánh Đế.
'Dù ai đi nữa nắm giữ tà kiến và phạm tà hạnh đều là không cao thượng cho dù thuộc đẳng cấp nào. Bất kỳ ai tự mình thu thúc trong hành động, lời nói và tư tưởng và phát triển Ba Mươi Bảy Bồ Đề Phần cho đến khi diệt tận mọi phiền não ngay trong kiếp sống nầy là người lãnh đạo, người cao thượng nhất giữa loài người và chư thiên bất kể sanh ra trong dòng tộc nào.
(5) Kinh Tự Hoan Hỷ (Sampasādanīya Sutta) Lòng tịnh tín bất động vào Đức Phật của Đại đức Sāriputta đã được công bố một lần trong bài diễn thuyết hùng hồn ngợi ca Đức Phật trong sự hiện diện của ngài. Về việc phát ngôn hùng hồn gan dạ về những phẩm chất của Đức Phật, Đức Phật hỏi ông liệu ông có hiểu biết tự thân nào về các tâm của chư Phật, ở quá khứ,vị lai và hiện tại, giới hạnhcủa chư vị, định tâm và trí tuệ của chư vị và cách giải thoát của chư vị.
Đại Đức Sāriputta nói ngài không tuyên bố có kiến thức như thế tự ngài thẩm định bằng cách tuyên bố rõ tiến trình của pháp được tất cả chư vị Phật thực hiện - những thành tựu trong giới luật, từ bỏ năm triền cái, an trú trong bốn
65
phép chánh niệm và huân tập Bảy yếu tố giác ngộ - chỉ tiến trình nầy mới có thể dẫn đến giác ngộ siêu việt. (6) Kinh Thanh Tịnh (Pāsādika Sutta)
Đại Đức Ānanda cùngđi với tỳ khưu Cunda đến gặp Đức Phật để báo cho ngài biết Niganṭḥa Nāṭaputta đã từ trần, vị lãnh đạo của một phái nổi tiếng, và sự chia rẽ đã phát sanh giữa chúng đệ tử của ông.
Đức Phật bảo họ đó là điều tự nhiên và có mầm mống xảy ra trong giáo pháp không được dạy tốt, không được phổ biến rộng rãi, không dẫn đến giải thoát, và không được dạy bởi người đã giác ngộ siêu việt.
Trái lại, Đức Phật giải thích rằng giáo pháp mà khi đem ra dạy thì được dạy tốt, được phổ biến rộng rãi nhờ người đã giác ngộ siêu việt, không có tà kiến, không có suy xét về quá khứ hay tương lai hay về ngã. Trong Giáo Pháp của Đức Phật, chư tỳ khưu được Bốn Phép Chánh Niệm nhờ đó những tà kiến và những xét đoán nầy được dẹp qua một bên.
(7) Kinh Tướng (Lakkhaṇa Sutta)
Bài Kinh nầy về ba mươi hai thân tướng trang nghiêm của bậc Đại Nhân được Đức Phật thuyết tại thành Sāvatthi, trong tự viện của ông Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍika). Đối với người có ba mươi hai thân tướng trang nghiêm, chỉ có thể có hai tiến trình dành sẳn cho vị ấy và không cho ai khác.
"Nếu sống đời tại gia, người ấy sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương cai trị đúng chánh đạo cả bốn châu thiên hạ. Nếu từ bỏ đời sống gia đình xuất gia sống đời vô gia đình, vị ấy sẽ trở thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đức Phật giải thích chi tiết ba mươi hai thân tướng trang nghiêm, cùng với sự tích những việc thiện mà ngài đã hoàn
66
thành trong những kiếp trước bằng đức hạnh nhờ đó có được những thân tướng ấy.
(8) Kinh Giáo Thọ Singala (Singāla Sutta)
Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Rajā gaha nhằm giúp cho người thanh niên Singāla. Thanh niên Singāla thường lễ bái sáu hướng, đó là, Đông, Nam, Tây, Bắc, Thượng và Hạ theo lời cha dạy trước khi ông từ trần. Đức Phật giải thích cho thanh niên nầy rằng trong giáo pháp của ngài, sáu hướng là: Hướng Đông đại diện cho cha mẹ; hướng Nam đại diện cho thầy tổ; hướng Tây cho vợ và con; hướng Bắc cho bằng hữu và những người cộng sự; hướng Trên đại diện cho Sa Môn và Bà La Môn.
Đức Phật giải thích thêm về sáu nhóm trong xã hội được đề cập đến trong bài Kinh được xem là linh thiêng và đáng tôn trọng và tôn thờ. Người tôn kính họ bằng cách thực hiện những bổn phận đối với họ. Sau đó những bổn phận nầy được giải thích cho thanh niên Singāla.
(9) Kinh Āṭānāṭiya (Āṭānāṭiya Sutta)
Tứ Đại Thiên Vương đến diện kiến Đức Phật và bạch ngài rằng có những người không có đức tin trong số chúng sanh vô hình có thể phương hại đến những người theo Đức Phật. Do đó Tứ Đại Thiên Vương muốn dạy chư tỳ khưu bài chú hộ trì được biết như là Kinh Hộ Trì Āṭānāṭiya. Đức Phật im lặng tán thành.
Sau đó Tứ Đại Thiên Vương đọc bài kinh hộ trì Āṭānā ṭiya, Đức Phật khuyên chư tỳ khưu, chư tỳ khưu và các đệ tử cư sĩ học, ghi nhớ hầu có thể sống dễ dàng thoải mái và được canh phòng và hộ trì cẩn thận.
(10) Kinh Phúng Tụng (Sangīti Sutta)
Đức Phật đang đi vòng quanh xứ Mallas khi ngài đến Pāvā. Cái chết của Nigaṇṭha Nātaputta vừa chỉ mới xảy
67
ra và đồ chúng của ông bỏ đi trong sự bất hoà, xung đột, tranh cãi về những học thuyết.
Đại đức Sāriputta người giảng bài kinh nầy quy tội chia rẽ trong đồ chúng của Nātaputta cho sự kiện rằng giáo pháp của Nāṭaputta không được dạy tốt cũng không được phổ biến rộng rãi, và không dẫn đến giải thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, và được người dạy không có sự giác ngộ siêu việt.
Nhưng giáo pháp của Đức Phật được giảng dạy tốt, phổ biến rộng rãi, dẫn đến giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, được Đức Phật giảng dạy - người đã chứng ngộ giải thoát siêu việt. Ngài khuyên chư tỳ khưu đọc tụng pháp được Đức Phật dạy, trong sự tương hợp và không có bất hoà hầu Giáo Pháp nầy trường tồn. Sau đó Đức Phật tiếp tục liệt kê các pháp được phân loại dưới những đề mục riêng như Nhóm có Một Pháp, Nhóm có Hai Pháp, v.v. đến nhóm có mười pháp. để dễ ghi nhớ và tụng đọc.
(11) Kinh Thập Thượng (Dasuttara Sutta) Bài Kinh nầy cũng được Đại Đức Sāriputta, trong lúc Đức Phật ngụ Campā để chư tỳ khưu được giải thoát khỏi xiềng xích, chứng ngộ Niết Bàn, và đưa đến khổ tận. Đại Đức dạy pháp được phân loại như Nhóm có Một Pháp, Nhóm có Hai Pháp, v.v. đến Nhóm có Mười Pháp.
☸
68
Chương V
TRUNG BỘ KINH
Bộ sưu tập nầy gồm những bài Kinh có độ dài tương đối được làm thành từ một trăm năm mươi hai bài Kinh trong ba tập được là Paṇṇāsa (năm mươi). Cuốn đầu tiên được gọi là Mūlapaṇṇasā, đề cập đến năm mươi bài Kinh đầu tiên trong năm chương, Cuốn thứ hai, Majhimapaṇṇāsa, gồm năm mươi bài kinh thứ hai cũng trong năm chương; và năm mươi hai bài Kinh cuối cùng được đề cập trong năm chương của cuốn thứ ba Uparipaṇṇāsa, nghĩa là hơn năm mươi.
Những bài Kinh trong Bộ nầy chiếu nhiều ánh sáng vào những ý tưởng và thể chế xã hội vào những ngày thời đó, và cung cấp những tin tức tổng quát về đời sống kinh tế và chính trị.
*
(a) CHƯƠNG MŪLAPAṆṆĀSA PĀḶI
I. PHẨM PHÁP MÔN CĂN BẢN (MŪLAPARI YĀYA VAGGA)
(1) Kinh Pháp Môn Căn Bản (Mūlapariyāya Sutta) Đức Phật giải thích cơ bản của tất cả các hiện tượng, đặc biệt hai mươi bốn phạm trù như tứ đại (đất, nước, gió, lửa); chúng sanh hữu tình, chư thiên, cái thấy, cái nghe, cái nghĩ về, cái biết; cái nhất thể, cái đa thể, cái toàn thể; và thực tại của Niết bàn. Người đời chưa được hướng dẫn không thể quan niệm bản chất thực của các hiện tượng nầy; chỉ những bậc giác ngộ mới có thể thấy chúng trong cái nhìn chân thực.
69
(2) Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc (Sabbāsava Sutta) Trong bài Kinh nầy, định nghĩa các lậu hoặc (các chất say làm mê mờ tâm trí) vây bủa người đời không được hướng dẫn, và giải thích bảy pháp hành để diệt trừ chúng. (3) Kinh Thừa Tự Pháp (Dhammadāyāda Sutta) Bài Kinh nầy gồm hai bài pháp khác nhau, bài đầu tiên được Đức Phật thuyết, bài thứ hai do Đại Đức Sāriput ta. Đức Phật sách tấn chư tỳ khưu thừa tự Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo như là Pháp sản của Như Lai trao truyền, và không phải vật chất sản như tứ vật dụng. Đại Đức Sāriputta khuyên chư tỳ khưu sống đời độc cư để đắc các tầng thiền và phấn đấu diệt tận tham, sân và si để hưởng Niết Bàn.
(4) Kinh Sợ Hãi và Uế Nhiễm (Bhayabherava Sutta) Bài Kinh nầy mô tả làm sao một vị tỳ khưu sống đời độc cư trong khu rừng hẻo mang tai hoạ và nguy hiểm đến cho chính mình do tư tưởng, lời nói và việc làm không trong sạch và làm sao Đức Phật đã sống bình an và vô hại trong rừng nhờ rèn luyện tư tưởng, lời nói và hành động trong sạch và cuối cùng dẫn ngài đến giác ngộ.
(5) Kinh Không Uế Nhiễm (Anangaṇa Sutta) Trong bài Kinh nầy theo lời yêu cầu của Đại Đức Mahā Mogallāna, Đại Đức Sāriputta giải thích bốn loại người: - Người không trong sạch biết mình không trong sạch; - Người không trong sạch không biết mình không trong sạch;
- Người trong sạch biết sự trong sạch của chính mình; - Người trong sạch khôn biết sự trong sạch của chính mình.
70
(6) Kinh Ước Nguyện (Ākankheyya Sutta) Bài Kinh nầy mô tả cách chư tỳ khưu phát triển Giới, Định và Tuệ như thế nào, thay vì khao khát lợi và danh; cách vị ấy nên thu thúc lục căn, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhất như thế nào.
(7) Kinh Ví Dụ Tấm Vải (Vattha Sutta)
Trong bài Kinh nầy Đức Phật giải thích tâm không trong sạch và tâm trong sạch bằng cách đưa ví dụ về tấm vải dơ và tấm vải sạch. Chỉ có tấm vải sạch mới thấm thuốc nhuộm được; cũng vậy chỉ có tâm trong sạch mới nhớ giữ được Pháp.
(8) Kinh Đoạn Giảm (Sallekha Sutta)
Trong bài Kinh nầy Đức Phật giải thích cho Mahā Cunda cách các tà kiến về ngã và thế giới có thể từ bỏ nhờ Tuệ Quán. Pháp hành để đắc thiền không phải pháp hành khổ hạnh có thể diệt trừ các phiền não, hành để đắc thiền chỉ dẫn đến đời sống an lạc.
Chỉ ngăn không làm bốn mươi bốn điều bất thiện gồm pháp hành khổ hạnh nhằm diệt trứ phiền não. Chỉ có tác ý làm một việc thiện là đủ sản xuất ra quả tốt; khi tác ý đó đi cùng với hành động thực sự thì tích luỹ được vô số quả ích lợi.một người chìm ngập trong vũng lầy dục lạc bất tịnh thể cứu người khác cũng đang chìm đắm như vậy trong vũng lầy sa đoạ đó.
(9) Kinh Chánh Tri Kiến (Sammādiṭṭhi Sutta) Bài Kinh nầy là một bản giải thích về chánh kiến được Đại Đức Sāriputta thuyết tại thành Sāvatthi. Khi những hành động về thân, khẩu, ý bị tham, sân và si xúi giục, thì nhưng hành động đó đều xấu. Khi chúng sanh khởi nhờ vô tham, vô sân và vô si,những hành động nầy ắt là tốt. Chánh kiến là hiểu biết hành động tốt là gì và hành động
71
xấu là gì; chính là sự hiểu biết tròn đủ Tứ Diệu Đế và không nắm giữ thường kiến liên quan đến 'bản ngã'. (10) Đại Kinh Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta) Bài Kinh nầy được thuyết tại thị trấn Kammāsadhamma là bài Kinh quan trọng nhất cho những lời hướng dẫn thực tiễn về phép tu tập chánh niệm. Bài Kinh mô tả Bốn Phương Pháp Quán Niệm, đó là, quán thân, quán thọ, quán tâm và quán pháp như là con đường số một và duy nhất để thanh tịnh chúng sanh, vượt qua sầu não, đoạn tận khổ ưu, thành tựu Thánh Trí, và chứng ngộ Niết Bàn. Bài Kinh nầy xuất hiện tương tự như trong Trường Bộ Kinh.
II. PHẨM SƯ TỬ HỐNG (SĪHANĀDA VAGGA) (1) Tiểu Kinh Sư Tử Hống (Cūḷasīhanāda Sutta) Trong bài nầy, được thuyết tại Sāvatthi, Đức Phật tuyên
bố dũng mãnh rằng Bốn Bậc Thánh, đó là, Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai và A-la-hán chỉ hiện hữu trong giáo pháp của Đức Phật và không nơi nào khác.
(2) Đại Kinh Sư Tử Hống (Mahāsīhanāda Sutta) Trong bài Kinh nầy, được thuyết tại Vesālī, Đại Đức Sāriputta bạch Đức Phật về sự thoá mạ những đức tính cúa Đức Phật gây ra do Sunakkhatta người đã từ bỏ giáo pháp. Đức Phật nói rằng Sunakkhatta không được trang bị một cách có tri thức để có cái nhìn lướt qua rất mờ nhạt về phẩm tính của Đức Phật chẳng hạn như Thập Lực, Bốn Loại Tự Tín Siêu Việt, Trí Tuệ Toàn Tri Không Bị Thoái Hoá cho đến lúc nhập Niết Bàn. Sau đó ngài mô tả năm nơi đến và những hành động dẫn dắt chúng cũng như
72
những tà kiến và những pháp hành của những ẩn sĩ loã thể mà Sunakkhatta bây giờ thuộc về trại của chúng. (3) Đại Kinh Khổ Uẩn (Mahādukhakkhandha Sutta) Bài kinh nầy được thuyết ở thành Sāvatthi để phản bác lại những ẩn sĩ loã thể ngoại đạo khi họ cố gắng tỏ ra rằng họ cũng đi theo cùng một con đường và dạy cùng một pháp với Đức Phật. Đức Phật cũng giải thích cho chư tỳ khưu những lạc thú của giác quan là gì, cái gì là lỗi lầm và nguy hiểm của chúng, và con đường thoát khỏi chúng. Đức Phật giải thích thêm rằng ngoài giáo pháp của Như Lai những pháp nầy không được biết đến và không ai mà chỉ có Đức Phật và chư đệ tử của Ngài có thể dạy những pháp như thế.
(4) Tiểu Kinh Khổ Uẩn (Cūḷadukkhakkhandha Sutta) Bài Kinh nầy Đức Phật thuyết ở Kapilavatthu cho Hoàng Tử Mahānāma dòng Sakyan để giải thích cho ông, theo lời yêu cầu của ông, làm sao tham, sân và vô minh gây ra phiền não và khổ đau.
(5) Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta)
Bài Kinh nầy được Đại Đức Moggallāna thuyết cho nhiều tỳ khưu ở Susumāragiya trong xứ Bhagga. Họ bị buộc để thấy nếu họ tự tẩy rứa chính họ khỏi mười sáu tính cố thủ bướng bỉnh như khao khát quá đáng, lăng nhục người và tự ca ngợi mình (tự tán huỷ tha), sự phẫn nộ, v.v...Nếu mười sáu tà kiến, v.v...Nếu mười sáu loại pháp bất thiện được nhận ra trong chính mình, nên kiên quyết nổ lực để diệt trừ chúng.
(6) Kinh Tâm Hoang Vu (Cetokhila Sutta) Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết thành Sāvatthi, đề cập đến năm loại gai trong tâm: Nghi ngờ Phật, nghi ngờ Pháp, nghi ngờ Tăng, nghi ngờ về hiệu của pháp hành
73
trong Gíơi, Định và Tuệ, ác ý và oán hận đối với chư tỳ khưu đồng môn. Bài Kinh cũng nhắc đến năm thằng thúc: dính mắc vào dục trần, dính mắc vào tự ngã, dính mắc vào những đối tượng vật chất,; không điều độ trong ăn ngủ và hành theo đời sống phạm hạnh chỉ với mục tiêu đạt được đời sống an lạc mà thôi. Những loại gai tâm và thằng thúc nầy là chướng ngại cho việc thoát Chúng nên được bỏ đi và diệt trừ để chứng ngộ Niết Bàn.
(7) Kinh Khu Rừng (Vanapattha Sutta)
Bài Kinh nầy, thuyết tại thành Sāvatthi, liên quan đến việc chọn lựa một địa điểm thích hợp cho chư tỳ khưu. Tỳ khưu phải tùy thuộc vào khoảng rừng thưa hay một ngôi làng, hay một tỉnh lỵ hay một cá nhân để có nơi cư ngụ và hộ độ. Nếu người ấy tìm ra một nơi đặc biệt nào không được như ý cho cả hai việc phát triển tinh thần và hộ độ vật chất, vị ấy nên từ bỏ địa điểm đó ngay lập tức.
Nếu vị ấy tìm được nơi như ý có sự tôn kính để hộ độ vật chất, nhưng không lợi ích cho việc phát triển tinh thần, vị ấy cũng nên từ bỏ nơi ấy. Nhưng khi nơi ấy chứng tỏ có lợi ích cho sự phát triển tinh thần, thậm chí việc hộ độ vật chất kém cỏi đạm bạc, vị tỳ khưu nên tiếp tục ở lại đó. Khi đầy đủ duyên cho cả hai việc phát triển tinh thần và hộ độ vật chất, vị rất nên sống trọn đời trong một nơi như thế.
(8) Kinh Mật Hoàn (Madhupiṇḍika Sutta)
Hoàng Tử dòng Sakyan, tên là Daṇḍapāni, một lần hỏi Đức Phật tại thành Kapilavatthu ngài dạy học thuyết gì. Đức Phật trả lời rằng học thuyết ngài là một điều mà không có người bà la môn hay ma vương nào có thể nắm được. Đó là thế nầy: không sống bất hòa với bất cứ ai trên đời; không bị ám ảnh bởi những ấn tượng giác quan nào
74
(tưởng); không bị quấy rối bởi nghi ngờ; và không tham đắm vào bất cứ hình thức nào trong đời.
(9) Kinh Song Tầm (Dvedāvitakka Sutta)
Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Sāvat thi để giải thích hai loại tư duy: thiện và bất thiện. Tỳ khưu nên thực hành để thấy lợi ích của việc tham dự vào những tư tưởng thiện và những nguy hại của tư tưởng bất thiện.
(10) Kinh An Trú Tầm (Vitakkasaṇṭhāna Sutta) Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Sāvatthi về việc làm sao chiến đấu với sự phát sanh của những ý tưởng bất thiện với những ý tưởng thiện. Ví dụ, tham dục và những ý tưởng khoái lạc nên được trục xuất bằng cách quán bất tịnh vô thường về vật tham muốn; ác ý và sân hận phải được đối trị bằng tâm từ ái; và vô minh có thể vượt qua bằng cách tìm sự soi sáng và hướng dẫn của đạo sư.
III. PHẨM VÍ DỤ (OPAMMA VAGGA)
(1) Kinh Ví Dụ Cái Cưa - (Kakacūpama Sutta) Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Sāvatthi có liên quan đến tỳ khưu Moḷiyaphaguna người thân mật với chư tỳ khưu ni. Khi những tỳ khưu khác chỉ trích ông vì quá thân mật với chư tỳ khưu ni, ông mất bình tĩnh và cãi lộn với chư tỳ khưu phê bình ông.
Khi Đức Phật khuyến cáo và khuyên ông nên xa lánh chư ni và giữ bình tĩnh, ông vẫn vẫn ngoan cố. Đức Phật chỉ ra sự tác hại của tính nóng nảy và khuyên chư tỳ khưu khác kiềm chế vững, không để mất bình tĩnh thậm khi có ai cưa tay chân họ thành từng mảnh.
75
(2) Kinh Ví Dụ Con Rắn (Alagaddūpama Sutta) Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Sāvat thi. Tỳ Khưu Ariṭṭha hiểu lầm lời dạy của Đức Phật và duy trì rằng Đức Phật chỉ dạy làm sao để hưởng lạc thú mà không ảnh hưởng gì đến việc tiến bộ trên đường Đạo. Khi Đức Phật qưở trách ông vì những tư tưởng sai lầm ông vẫn không ăn năn hối lỗi.
Sau đó, Đức Phật dạy chư tỳ khưu về con đường sai và con đường đúng của việc học Đạo, cho ví dụ về người bắt rắn và ví dụ về cái bè.
(3) Kinh Gò Mối (Vammika Sutta)
Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Sāvatthi. Đại Đức Kumārakassapa được một thiên nam hỏi một loạt mười lăm câu hỏi rồi ông đem đến Đức Phật để làm sáng tỏ. Đức Phật giải thích cho ông ý nghĩa các câu hỏi và giúp ông giải quyết chúng
(4) Kinh Trạm Xe (Rathavinīta Sutta)
Bài Kinh nầy kể lại cuộc đối thoại giữa Đại Đức Sāriputta và Đại Đức Puṇṇa tại thành Sāvatthi về bảy giai đoạn thanh tịnh, như Giới tịnh, Tâm tịnh, Kiến tịnh v.v...phải chứng nghiệm qua trước khi thành tựu Niết bàn.
(5) Kinh Bẫy Mồi (Nivāpa Sutta)
Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Sāvatthi về những con rắn mai phục chư tỳ khưu trên đường đạo. Dùng ví dụ của tên thợ săn, những kẻ theo tên thợ săn, đồng cỏ xanh tươi và bốn đàn dê khác nhau với bốn loại ẩn sĩ ngoại đạo đã từ bỏ đời sống gia đình.
(6) Kinh Thánh Cầu (Pāsarāsi Sutta)
Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Sāvat thi được biết với tựa đề là Kinh Thánh Cầu (Ariyapariye-
76
sana). Đức Phật tường thuật lại cuộc đời của Ngài từ lúc được sanh ra ở cõi người như là con của vua Suddhodana đến lúc thuyết bài Kinh Chuyển Pháp Luân đầu tiên, tường thuật chi tiết về việc xuất gia của ngài, những pháp hành sai lầm ban đầu của phép khổ hạnh cực kỳ và cuối cùng khám phá Con Đường Cao Thượng gồm Tám Chi. Đặc biệt, nhấm mạnh loại tầm cầu, Cao Thượng và Thấp hèn. Ngài giải thích rằng thật cực kỳ dại khờ tìm cầu dục lạc mà phải chịu già, bệnh, chết. Cuộc tầm cầu cao thượng nhất sẽ tìm thấy sẽ giải thoát khỏi già, bệnh và chết.
(7) Tiểu Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi (Cūḷahatthipado pama Sutta)
Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Sāvat thi. Ông Bà la môn Jāṇussoṇi hỏi du sĩ Pilotika, mới từ Đức Phật trở về, liệu ông có biết hết mọi đức tính và sự thành đạt của Đức Phật không. Ẩn sĩ ngoại đạo trả lời rằng chỉ một Đức Phật- người có thể ngang tài ngang đức với một Đức Phật khác trong những thành đạt mới biết tất cả những đức tính của vị Phật khác. Đối với ông, ông chỉ thể dùng trí tưởng tượng của ông trong sự tôn kính nầy chỉ như tên thợ săn đoán kích thước tầm cỡ của con voi từ cỡ dấu chân voi.
Sau đó ông bà la môn Jāṇussoṇi đi gặp Đức Phật, và tường thuật lại cuộc đối thoại với ông du ẩn sĩ Đức Phật nói với ông rằng cỡ của dấu chân voi vẫn còn có thể bị lầm đường lạc lối. Chỉ khi người nào theo dấu chân voi, và con vật được nhìn thấy tổng quát, tầm cỡ thực sự của nó có thể được phán đoán chính xác. Cũng vậy những đức tính của Đức Phật cũng như giáo lý của Ngài có thể được đánh giá và hiểu trọn vẹn khi người đó chấp nhận theo giáo pháp và thực hành như được ngài dạy mãi cho đến khi đạt được mục đích cuối cùng. của quả vị Ala hán.
77
(8) Đại Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi (Mahāhatthi padopama Sutta)
Bài Kinh nầy được Đại Đức Sāriputta thuyết cho chư tỳ khưu tại thành Sāvatthi dùng ví dụ của dấu chân voi. Ngài giải thích rằng chỉ như dấu chân của những con vật khác có thể chứa trong dấu chân voi, tất cả các thiện pháp đều bao gồm trong Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế).
(9) Đại Kinh Ví Dụ Lõi Cây (Mahāsāropama Sutta) Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại Rājagaha liên quan đến Devadatta vẫn còn bằng lòng với danh và lợi bởi vì ông đắc thần thông và từ bỏ Giáo Pháp và gây chia rẽ Tăng đoàn. Đức Phật nói rằng Giáo pháp nầy không nhằm mục đích đạt danh và lợi- mà chỉ ví như những chồi và cành cây bên ngoài; không chỉ thành tựu giới luật- có thể ví như là vỏ cứng bên ngoài của cây; cũng không chỉ an định để đạt những thần thông - như vỏ cây. Pháp được dạy để đắc Ala hán quả mà chỉ mình nó tượng trưng cho cái lõi cây.
(10) Tiểu Kinh Ví Dụ Lõi Cây (Cūḷasāropama Sutta) Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Sāvatthi liên hệ đến ông bà la môn Pingalakoccha người hỏi Đức Phật liệu sáu ông đạo sư tuyên bố là các vị Phật có thực sự giác ngộ không. Đức Phật giải thích rằng pháp hành phạm hạnh được Đức Phật dạy dẫn đến quả vị Ala hán, chứ không phải để đạt danh và lợi hay thần thông.
IV. PHẨM SONG ĐỐI (MAHĀYAMAKA VAGGA) (1) Kinh Cūḷagosinga
Đại Đức Anuruddha, Nandiya và Kimila đang cư ngụ tại vùng rừng cây Sal Gosinga. Đức Phật viếng thăm họ và ca
78
ngợi cách sống của họ, thực hành đời sống phạm hạnh trong sự hài hoà và tương hợp với nhau thật hoàn hảo, như thế tạo nên một loại trang sức để tô điểm cho vùng rừng xinh tươi đáng quý nầy.
(2) Kinh Mahāgosinga (Mahāgosinga Sutta) Một thời trong lúc Đức Phật đang ngự tại vùng rừng cây Sal Gosinga, Đại Đức Sāriputta hỏi Đức Phật: "Ai sẽ tô điểm nhiều nhất cho vùng rừng nầy và làm tăng thêm vẻ đẹp của nó?" Bài pháp nầy tường thuật lại những câu trả lời khác nhau do Đại Đức Revata, Anuruddha, Mahā Kassapa, Mahā Moggallāna, Sāriputta và chính Đức Phật. (3) Đại Kinh Người Chăn Bò (Mahāgopālaka Sutta) Bài Kinh nầy được Đức Phật thuyết tại thành Sāvatthi, giải thích những duyên đưa đẩy nhờ đó Giáo Pháp sẽ phát triển và thịnh vượng và những duyên khiến cho Giáo Pháp suy đồi và thoái hoá. Người chăn bò được đưa ra làm ví dụ. Khi người chăn bò có mười một cách điều khiển khéo léo và săn sóc đàn súc vật của nó, thì công việc của nó có sự tiến bộ và phát triển. Cũng vậy khi vị tỳ khưu có kỹ năng và hoàn thành mười một yếu tố như tri thức chân chánh, về Ngũ Uẩn, thực hành Giới, Định, và Tuệ...,thì Giáo Pháp sẽ phát triển và thịnh vượng.
(4) Tiểu Kinh Người Chăn Bò (Cūḷagopālaka Sutta) Bài Kinh nầy đề cập đến mười một yếu tố, vì không thực hiện như vậy sẽ tạo thêm sự suy vi và huỷ diệt của Giáo Pháp. Tương tự như súc vật dưới sự chăm sóc của tên chăn bò khờ dại và vụng về băng qua từ một bến cảng lầm lạc trên bờ và gặp sự huỷ diệt thay vì đến bờ kia, cũng vậy những người theo các bậc đạo sư mà không thành tựu trong tri thưc chánh về Ngũ Uẩn, v.v. sẽ chỉ chấm dứt trong tai hoạ.
79
(5) Tiểu Kinh Saccaka (Cūḷasaccaka Sutta) Bài Kinh nầy được thuyết tại thành Vesālī, cho một bản tường trình về cuộc tranh luận giữa Đức Phật và Saccaka, du sĩ ngoại đạo về đề tài 'Bản ngã'. Saccaka duy trì quan niệm sai lầm rằng Vật chất, thọ, tưởng, hành, thức là bản ngã của con người. Chính bản ngã hưởng quả của thiện nghiệp và chịu hậu quả của bất thiện nghiệp. Đức Phật bác bỏ học thuyết của ông, chỉ ra rằng không có cái gì trong ngũ uẩn là ta cả, mỗi chúng sanh phải chịu luật vô thường, khổ và vô ngã, và không tuân theo sự điều khiển của con người. Saccaka phải công nhận sự thất bại của mình trong sự hiện diện của đồ chúng ông.
(6) Đại Kinh Saccaka (Mahāsaccaka Sutta) Cũng là du sĩ ngoại đạo Saccaka, lại đến với Phật vào ngày hôm sau và hỏi về việc tu dưỡng thân và tâm. Ông chỉ những phương pháp sai để định tâm. Đức Phật giải thích cho Saccaka nhiều phương pháp khác nhau mà chính ngài đã hành theo và phạm sai lầm cho đến khi ngài tìm ra Trung Đạo mà cuối cùng dẫn ngài đến chứng ngộ Niết bàn.
(7) Tiểu Kinh Đoạn Ái (Cūḷataṇhāsankhaya Sutta) Thiên Vương suy xét làm sao đệ tử của Đức Phật tự rèn luyện để chứng ngộ Niết bàn. Đức Phật miêu tả ngắn gọn về làm sao một gia chủ sau khi từ bỏ gia đình, tự đặt mình trong quá trình huấn luyện, dần dần thanh lọc tâm khỏi mọi phiền não và dẫn đến mục đích cuối cùng. (8) Đại Kinh Đoạn Tận Ái (Mahātaṇhāsankhaya Sutta)
Một đệ tử của Đức Phật, tên là Sati, giữ quan điểm do Đức Phật dạy: '"Cùng một tâm nhập vào và đi lang thang."Những đệ tử khác cố đưa ông ra khỏi quan niệm
80