🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hướng Dẫn Cộng Đồng Xây Dựng Mô Hình Bảo Vệ Môi Trường Ebooks Nhóm Zalo HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng PGS.TS. NGUYỄN THẾ KỶ Phó Chủ tịch Hội đồng TS. HOÀNG PHONG HÀ Thành viên TRẦN QUỐC DÂN TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI TS. NGUYỄN AN TIÊM NGUYỄN VŨ THANH HẢO Mã số:613.1 CTQG - 2015 2 4 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Những năm gần đây, một số vùng nông thôn và đô thị nước ta đang phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Sự suy thoái tài nguyên đất, nước, đa dạng sinh học do việc khai thác, sử dụng tài nguyên không hợp lý và từ việc sử dụng các hóa chất nông nghiệp, rác thải, ô nhiễm từ các làng nghề đã ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường ở các vùng nông thôn. Sự ô nhiễm không khí do bụi và khí thải; nước thải công nghiệp và đô thị cũng như vấn đề thiếu nước sạch, vệ sinh môi trường không an toàn làm cho môi trường đô thị ngày càng có nhiều nguy cơ. Nhằm cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc tại các địa phương cũng như phát động phong trào bảo vệ môi trường trong toàn dân, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phối hợp với Nhà xuất bản Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam xuất bản cuốn sách Hướng dẫn cộng đồng xây dựng mô hình bảo vệ môi trường. Cuốn sách gồm các nội dung về tổng quan chung; về các mô hình bảo vệ môi trường tiêu biểu và các 5 bước phát huy hiệu quả của các mô hình bảo vệ môi trường có sự tham gia của cộng đồng. Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc và mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc, để lần xuất bản sau được hoàn thiện hơn. Tháng 10 năm 2015 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT6 Chương I TỔNG QUAN I- KHÁI NIỆM CỘNG ĐỒNG, MÔ HÌNH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CÓ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG 1. Khái niệm cộng đồng Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của xã hội loài người, các hoạt động rất đa dạng của con người đã trải khắp nơi trên trái đất, tác động đến toàn bộ sinh quyển và các chu kỳ cơ bản của tự nhiên. Sự tác động với cường độ ngày càng tăng đã làm cho sự cân bằng lớn và các chu kỳ tự nhiên bị đảo lộn, làm rạn nứt mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Bởi vậy, mối quan hệ giữa con người và môi trường được đề cập thường xuyên và đa chiều hơn. Nhiều nước trên thế giới đã nhận thức rằng nếu không có sự tham gia của cộng đồng thì không có khả năng thực hiện được sự nghiệp bảo vệ môi trường. 7 Cộng đồng là một tập hợp công dân cư trú trong một khu vực địa lý nhất định, hợp tác với nhau vì những lợi ích chung và chia sẻ những giá trị văn hóa chung. Theo khái niệm trên, cộng đồng có tính chất chung về địa lý, về văn hóa và lợi ích. - Đồng nhất về địa lý : Để gọi là một cộng đồng thì phải bảo đảm yêu cầu, cộng đồng đó phải cùng sống trong một vùng địa lý sinh thái nhất định và cũng có thể trong cùng một đơn vị hành chính. - Đồng nhất về lợi ích: Trong trường hợp bảo vệ môi trường, trước hết cộng đồng đó cần hợp lực khắc phục ô nhiễm môi trường để cùng hưởng lợi ích chung là một môi trường trong lành và cùng chia sẻ lợi ích mà môi trường đó mang lại. - Đồng nhất về văn hóa: tùy trường hợp mà tìm kiếm những giá trị văn hóa chung để tổ chức sự tham gia. Ở đây yếu tố văn hóa và địa lý có mối quan hệ mật thiết với nhau, nói đến văn hóa là nói đến con người ở một vùng, một dân tộc, một quốc gia hay châu lục. Theo đó, cộng đồng có thể là các làng, xóm, thôn, bản, buôn, ấp và các đơn vị tương đương khác. Cộng đồng cũng có thể được hiểu theo nghĩa rộng trên phạm vi toàn xã hội, toàn thế giới. Một ví dụ: cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, bao gồm nhiều dân tộc có đặc trưng về tên gọi, ngôn ngữ, văn hóa... cùng sống trên một vùng đất Tây Nguyên. 8 Tuy nhiên, khi nói đến cộng đồng người ta thường nghĩ đến cộng đồng ở cơ sở, tức là nhóm người sống cùng một địa phương hoặc dưới sự quản lý của cùng một chính quyền địa phương. Cộng đồng cũng có thể bao gồm những tổ chức xã hội do cộng đồng lập ra để đại diện cho các quan điểm của họ. Ở nhiều dân tộc thiểu số, già làng, trưởng bản là những người giàu kinh nghiệm, nắm những phong tục tập quán của cộng đồng mình, đồng thời cũng là trung tâm của các hoạt động, của các cuộc hòa giải, những tranh chấp, xung đột; họ được cộng đồng tôn sùng và hoàn toàn có thể đại diện cho cộng đồng. Trong quá khứ cũng như hiện nay, Việt Nam cơ bản vẫn là nước nông nghiệp, do vậy nông thôn vẫn là địa bàn trọng yếu, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển xã hội Việt Nam. Mà đối với nông thôn và nông dân Việt Nam thì làng xã là môi trường, là tổ chức xã hội truyền thống và cơ bản nhất. Làng là kết cấu điển hình và bền vững nhất về kinh tế - xã hội và văn hóa mang trong mình nó sức mạnh cố kết cộng đồng bền chặt. Các buôn làng của đồng bào dân tộc thiểu số cũng mang tính chất đặc trưng đó; nó biểu hiện rất rõ nét và đa dạng, từ đó hình thành tâm lý cộng đồng. Nền tảng cơ bản để hình thành nên tính cộng đồng, sự cố kết và tâm lý cộng đồng là dựa trên sự cộng đồng về cư trú, cộng đồng về sở 9 hữu và lợi ích, cộng đồng về tâm linh và cộng đồng về văn hóa. Sức mạnh của cộng đồng không phải là dấu cộng đơn thuần; sức mạnh đó được nhân lên nhiều lần khi cả cộng đồng có sự đồng thuận và thống nhất với nhau. Trong công tác bảo vệ môi trường cũng vậy, sự tham gia của cộng đồng là sự tham gia của tập thể, của nhiều người có những đặc điểm chung theo ba yếu tố nêu trên. Trước hết, là một tập hợp dân cư có lịch sử gắn bó lâu dài và chia sẻ nhiều đặc điểm chung, nên cộng đồng là một tổng thể có những nét chung hòa đồng từ từng cá nhân. Những tính chất đó là: - Tình đoàn kết, gắn bó, nhường cơm sẻ áo, hỗ trợ lẫn nhau khi khó khăn vì quyền lợi chung. Sức mạnh tập thể bao giờ cũng mạnh hơn của từng cá nhân riêng lẻ. - Sáng tạo và duy trì kho kiến thức bản địa. Đây là một đặc trưng văn hóa phi vật thể, lan truyền và bổ sung từ thế hệ này qua thế hệ khác bằng truyền khẩu, tạo ra sức sống của cộng đồng trong quá trình sản xuất và bảo vệ cuộc sống. - Lòng tự hào về danh tiếng, truyền thống của làng xóm, của quê hương, của dân tộc. Lòng tự hào gắn với tình yêu làng xóm, họ tộc, quê hương. Đây chính là cội nguồn lớn nhất của sức mạnh cộng đồng. 10 Vì vậy, nhà quản lý, khi tổ chức cho cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường phải biết rõ họ là ai; thói quen, tập quán, phong tục tín ngưỡng của họ như thế nào, tức là phải hiểu rõ đặc trưng văn hóa của cộng đồng, lối sống, tập quán sinh hoạt, sản xuất và lịch thời vụ của họ. 2. Mô hình bảo vệ môi trường có sự tham gia của cộng đồng Trong công tác bảo vệ môi trường, cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường là việc huy động sự tham gia của toàn xã hội vào sự nghiệp bảo vệ môi trường. Hay nói cách khác, cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường là phải biến chủ trương bảo vệ môi trường thành nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân sống trong một xã hội. Mục đích của cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường nhằm huy động tối đa các nguồn lực trong xã hội thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường, từ việc ra các quyết định, chính sách tới những hoạt động cụ thể nhằm giữ môi trường trong sạch, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn và khắc phục hậu quả xấu do con người và thiên tai gây ra cho môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường sẽ làm cho mọi đối tượng trong xã hội đều thấy được vai trò, trách nhiệm của mình trong giữ gìn, bảo vệ môi trường. Từ đó, tạo nên những chuyển biến trong thói quen, nếp sống 11 theo hướng thân thiện hơn với môi trường, góp phần phát triển xã hội bền vững. Những nội dung chính trong việc huy động cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường bao gồm: - Củng cố và nâng cao nhận thức cho cộng đồng bắt đầu từ mỗi người dân, mỗi gia đình, mỗi nhà máy, doanh nghiệp... về trách nhiệm và lợi ích trong việc xây dựng cho mình một nếp sống sạch, hợp vệ sinh, giữ gìn vệ sinh gia đình, nơi làm việc và nơi công cộng, tích cực tham gia quản lý bảo vệ môi trường của địa phương mình. - Đối với các cấp chính quyền, đơn vị quân đội, các tổ chức đoàn thể, tổ chức phi chính phủ... cần tích cực duy trì và nâng cao chất lượng của các phong trào và mô hình bảo vệ môi trường, như phong trào xanh - sạch - đẹp, vườn - ao - chuồng, vườn - ao - chuồng - rừng, nước sạch vệ sinh môi trường, gia đình văn hóa mới, đơn vị sản xuất sạch, sản xuất đạt chất lượng môi trường... dưới các hình thức phù hợp với mọi lứa tuổi, giới tính, dân tộc, mọi ngành nghề... - Đẩy mạnh các phong trào xây dựng làng, xã, phố, phường phát triển bền vững; khai thác và bảo vệ, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn nền văn hóa bản địa... - Động viên, khuyến khích mọi nguồn lực đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, xử lý chất thải, 12 tái chế chất thải, nghiên cứu và áp dụng các công nghệ sản xuất sạch hơn, các công nghệ xử lý chất thải, tái tuần hoàn chất thải, công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu. - Giữ gìn và bảo vệ các di sản văn hóa, cảnh quan thiên nhiên của địa phương. Trong thực tế hiện nay có nhiều loại mô hình bảo vệ môi trường. Mỗi loại bảo vệ môi trường được lựa chọn áp dụng tùy theo tình hình thực tế của từng địa phương, nhưng không ngoài mục đích chung là: - Xây dựng và thực thi một cơ sở bền vững cho môi trường lành mạnh, cho sức khỏe của mọi người dân, bảo tồn và phát triển các hệ sinh thái. - Tạo lập và bảo vệ môi trường trong lành vì sức khỏe của toàn xã hội, giảm thiểu các nguy cơ tai biến về hóa, lý, sinh, giúp cho mọi người dân đều có được tài nguyên bảo đảm cho cuộc sống, sức khỏe của chính mình. - Làm cho mọi người, mọi tổ chức có kiến thức và trách nhiệm đối với môi trường và sức khỏe của cộng đồng. - Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của người dân về chính sách, pháp luật và những biện pháp, cách thức bảo vệ môi trường. Từ đó, giáo dục ý thức chấp hành, thực thi luật pháp, chính sách và các biện pháp bảo vệ môi trường. Việc làm này rất quan trọng, 13 là nền tảng cơ bản cho thành công của cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường. Bốn nguyên tắc cơ bản của mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường là: - Tăng quyền lực của cộng đồng là phát triển sức mạnh của cộng đồng trong xây dựng các mô hình bảo vệ môi trường thông qua việc các cơ quan quản lý khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và trao quyền tự chủ cho cộng đồng trong những lĩnh vực hoặc hoạt động cụ thể, như tăng cường sự kiểm soát và tiếp cận của cộng đồng trong giải quyết một số vấn đề môi trường nào đó. Sự tăng quyền lực cũng có ý nghĩa là xây dựng nguồn lực và khả năng của cộng đồng để quản lý và giải quyết có hiệu quả những vấn đề môi trường của họ theo cách bền vững nhất. - Sự công bằng là tạo ra sự bình đẳng giữa mọi cá nhân và tổ chức đối với những cơ hội có được trong việc xây dựng các mô hình bảo vệ môi trường. Mọi người đều có quyền như nhau trong việc tiếp nhận thông tin, quyền được hưởng lợi ích do việc triển khai các mô hình bảo vệ môi trường đem lại. - Phát huy kiến thức bản địa. Kiến thức truyền thống, bản địa có những giá trị nhất định trong việc xây dựng các mô hình bảo vệ môi trường. Sở dĩ như vậy vì những kiến thức truyền thống, bản địa là những kiến thức mà người dân ở 14 một cộng đồng đã tạo nên và phát triển theo thời gian, thích hợp với đặc điểm sinh thái, văn hóa, xã hội của từng vùng. Những kiến thức này rất dễ được người dân hiểu và vận dụng trong đời sống hằng ngày. Khi cộng đồng tham gia bàn bạc, giải quyết công việc cụ thể của một mô hình bảo vệ môi trường nào đó sẽ có cơ hội đưa những kiến thức này ra để xem xét và vận dụng sáng tạo trong điều kiện mới. - Tính hợp lý về sinh thái và sự phát triển bền vững. Những hoạt động được thực hiện cần phải tính đến ngưỡng chịu đựng của nguồn tài nguyên và hệ sinh thái. Sự phát triển bền vững đòi hỏi phải cân nhắc, nghiên cứu trạng thái và bản chất của môi trường tự nhiên khi phát triển kinh tế mà không làm hại đến lợi ích của thế hệ tương lai. Ba yếu tố hợp thành các mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường: - Đáp ứng nhu cầu: Đòi hỏi cộng đồng phải đủ khả năng duy trì, tạo ra hoặc thu được các sản phẩm và dịch vụ cần thiết cho đời sống, sức khỏe và phúc lợi một cách bền vững. - Cải thiện và duy trì môi trường, bao gồm cả các việc bảo tồn tài nguyên đất, tài nguyên nước, sử dụng tài nguyên sinh học, kiểm soát ô nhiễm, phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường sống. 15 - Tăng quyền lực của cộng đồng: Tạo thuận lợi cho các cộng đồng và cá nhân tự kiểm soát cuộc sống của mình, kể cả tạo ảnh hưởng đến các quyết định có tác động đến mình. Xây dựng mô hình bảo vệ môi trường có sự tham gia của cộng đồng đòi hỏi phải có thời gian và sự tích lũy về kiến thức. Nó là một quá trình chậm và phức tạp về nhận biết, thử nghiệm, lựa chọn và áp dụng các đáp ứng tổng hợp đối với một số lượng lớn các vấn đề và nhu cầu. Các mâu thuẫn có thể nảy sinh trong mối tương quan giữa mục tiêu kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường cũng như trong việc xác minh ưu tiên hành động về môi trường và phát triển. Xây dựng mô hình bảo vệ môi trường có những phạm vi và lợi ích nhất định. Phạm vi của mô hình bảo vệ môi trường: - Mô hình bảo vệ môi trường có thể áp dụng ở mọi cộng đồng kể cả đô thị, nông thôn và các doanh nghiệp. Nó bao trùm một phạm vi rộng lớn như trách nhiệm và quyền hạn của nhân dân, giáo dục, cung cấp năng lượng, nhà ở, giao thông vận tải và truyền thông, cải thiện dịch vụ cấp nước và vệ sinh, phát triển công việc ở địa phương, duy trì các dịch vụ hỗ trợ cuộc sống và bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển nông, lâm và công nghiệp bền vững, phục hồi môi trường bị suy thoái, phòng chống thiên tai, tham gia vào các 16 quyết định, chuẩn bị kế hoạch khai thác và sử dụng tài nguyên, soạn thảo các chiến lược về bảo tồn và phát triển bền vững. - Mô hình bảo vệ môi trường thay đổi tùy theo các điều kiện của mỗi cộng đồng. Do đó, phải tùy tình hình mà lựa chọn các hoạt động, các mô hình cho phù hợp. Lợi ích của mô hình bảo vệ môi trường: - Đối với cộng đồng + Mô hình bảo vệ môi trường, trước hết, giúp cho việc xây dựng và tăng cường tính tự lực trong cộng đồng. Các cộng đồng được giao quyền sẽ hành động trong phạm vi trách nhiệm của mình, tích cực phát triển mọi khả năng, sự khôn khéo trong việc tổ chức các mô hình, tự điều chỉnh và nhận thầu công việc. + Mô hình bảo vệ môi trường có thể tạo ra cơ hội mới về việc làm, huy động các nguồn lực và kỹ năng chưa được sử dụng của cộng đồng trong việc thực hiện các sáng kiến và sự đa dạng về nếp sống. Nhiều mô hình bảo vệ môi trường dựa vào cộng đồng không phải đầu tư nhiều mà hiệu quả lại cao trong việc sử dụng tài nguyên. + Trong các cộng đồng đô thị cũng như nông thôn, mô hình bảo vệ môi trường có tác dụng nâng cao trách nhiệm đối với môi trường địa phương. Với sự bảo đảm quyền sở hữu và sử dụng sức mạnh nhân dân có thể tạo lập phương hướng lâu 17 dài và tổ hợp các mục tiêu kinh tế và môi trường để tiến tới phát triển bền vững. - Đối với quốc gia + Con người và tài nguyên thiên nhiên được sử dụng tốt hơn. Điều này giảm sự phụ thuộc vào nguồn tài chính bên ngoài và các sự hỗ trợ khác. Bằng cách sử dụng các hệ thống nông thôn và đô thị hiện có một cách hiệu quả, các mô hình bảo vệ môi trường có thể tăng dự trữ vốn cho Nhà nước. + Từ đó các cộng đồng có thể đẩy mạnh sự phát triển của địa phương, thúc đẩy các loại hình kinh tế vừa và nhỏ và giảm sự bao cấp trực tiếp của Nhà nước. + Sự tăng cường tính tự lực của cộng đồng từ mô hình bảo vệ môi trường dẫn đến một số lợi ích xã hội, bao gồm giảm các mâu thuẫn xã hội do sự phá vỡ môi trường, thiếu việc làm và không đáp ứng nhu cầu từ cuộc sống; phần lớn người dân được lôi cuốn vào quá trình phát triển của các mô hình bảo vệ môi trường; nhiều cơ hội về việc làm ở địa phương và giảm nhu cầu di dân các vùng nông thôn vào các trung tâm đô thị; nhu cầu nhập khẩu sẽ thấp hơn nhờ vào tính tự lực cao. + Trong quá trình hoạt động của mô hình bảo vệ môi trường sẽ bảo đảm những lợi thế về quản lý hành chính, cụ thể là số người tham gia trong các mô hình tự quản sẽ giúp cho việc quản lý 18 hành chính địa phương gọn nhẹ hơn, hiệu quả cao hơn; sự hợp tác liên ngành ở địa phương nhờ đó cũng sẽ tốt hơn. 3. Cơ sở pháp lý và những định hướng chiến lược về sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường - Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 15-11-2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chỉ rõ: + Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người, là biểu hiện của nếp sống văn hóa, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự tiếp nối truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hòa với thiên nhiên của cha ông ta. + Hình thành ý thức giữ gìn vệ sinh chung, xóa bỏ các phong tục tập quán lạc hậu, các thói quen, nếp sống không văn minh, không hợp vệ sinh, các hủ tục trong mai táng. + Xây dựng công sở, xí nghiệp, gia đình, làng bản, khu phố sạch, đẹp, đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh môi trường. + Đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường cho nhân dân. + Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường. 19 + Xác định rõ trách nhiệm bảo vệ môi trường của nhà nước, cá nhân, tổ chức và cộng đồng, đặc biệt đề cao trách nhiệm của các cơ sở sản xuất và dịch vụ. - Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg ngày 22-5- 2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với nhiệm vụ thứ năm là đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường. Nhiệm vụ này được cụ thể hóa với bốn nội dung chính sau: + Thể chế hóa các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các tổ chức, đoàn thể, cộng đồng dân cư, cá nhân tham gia công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt trong quá trình xây dựng, ban hành và thực hiện các quyết định có liên quan về bảo vệ môi trường. + Đa dạng hóa các loại hình hoạt động bảo vệ môi trường, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân, có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thực hiện các dịch vụ bảo vệ môi trường; khuyến khích thành lập các tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định, công nhận, chứng nhận về bảo vệ môi trường. + Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ môi trường, xây dựng và phát triển các điển hình tiên tiến trong hoạt động bảo vệ môi trường. 20 + Chú trọng xây dựng và thực hiện hương ước, quy định, cam kết bảo vệ môi trường; phát triển các mô hình cộng đồng dân cư tự quản trong hoạt động bảo vệ môi trường. - Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21-1-2009 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhấn mạnh: + Coi trọng việc phát động phong trào bảo vệ môi trường trong các tầng lớp nhân dân. Xây dựng tiêu chí về môi trường vào đánh giá hoạt động của từng doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, gia đình, làng, bản, khu phố, tập thể, cá nhân, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Phát hiện, nhân rộng và tuyên truyền các mô hình, điển hành tiên tiến về bảo vệ môi trường. Duy trì và phát triển giải thưởng môi trường hàng năm. + Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, có cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức, cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường. Xây dựng và phát triển lực lượng tình nguyện viên bảo vệ môi trường. Tăng cường sự giám sát của cộng đồng, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng đối với bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Phát triển các dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác bảo vệ 21 môi trường với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định, chứng nhận về bảo vệ môi trường; thành lập doanh nghiệp dịch vụ môi trường đủ mạnh để giải quyết các vấn đề môi trường lớn, phức tạp của đất nước. - Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5-9-2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường Quốc gia đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã nêu: + Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, là nghĩa vụ của mọi người dân; phải được thực hiện thống nhất trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, phân cấp cụ thể giữa Trung ương và địa phương; kết hợp phát huy vai trò của cộng đồng, các tổ chức quần chúng và hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. + Thành lập các tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường trong các làng nghề và ban hành các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ môi trường, đóng góp thuế, phí, tài chính cho việc xử lý, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường. + Thúc đẩy xã hội hóa, hình thành mạng lưới các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, hợp tác xã thu gom, vận chuyển chất thải rắn, liên kết trong mạng lưới với các cơ sở tái chế, các bãi chôn lấp; đẩy mạnh công tác thu gom chất thải 22 rắn sinh hoạt tại các điểm dân cư nông thôn, khu vực công cộng. - Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và năm 2014 đã cụ thể hóa các chủ trương, chính sách nhằm huy động sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường nông thôn như: thành lập tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường, xây dựng và tổ chức thực hiện hương ước về bảo vệ môi trường. Đặc biệt, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã dành một chương quy định trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường. Để triển khai thực hiện, ở cấp trung ương, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ký tám nghị định liên tịch với các tổ chức đoàn thể nhân dân về việc phối hợp hành động bảo vệ môi trường. Chương trình quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong hai giai đoạn 2001- 2006 và 2006-2011 cũng đưa việc huy động sự tham gia của cộng đồng là một trong những giải pháp trong quá trình thực hiện. II- VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ KHU VỰC NÔNG THÔN Nước ta là một nước nông nghiệp, 66,9% dân số đang sống ở khu vực nông thôn và miền núi, 23 mật độ trung bình năm 2014 là 274 người/km2 với khoảng 8,4% số hộ ở mức nghèo đói (Niên giám thống kê 2014). Hiện nay với chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong nông nghiệp là điều chỉnh cơ cấu sản xuất, phát triển khoa học công nghệ và xúc tiến thị trường, trong đó thị trường là vấn đề xuyên suốt, là cơ sở để chuyển dịch cơ cấu, là căn cứ để định hướng cho khoa học và công nghệ nhằm tạo cho nông nghiệp nước ta trở thành ngành sản xuất hàng hóa hướng ra xuất khẩu có bước phát triển về chất, tăng trưởng cao, hiệu quả và cạnh tranh bền vững. Những năm gần đây, do áp dụng các tiến bộ về kỹ thuật thâm canh, tăng vụ, mở rộng diện tích canh tác và mạng lưới tưới tiêu, đa dạng hóa cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa đã làm cho sản lượng lương thực tăng nhanh, không những chỉ bảo đảm an ninh lương thực, có dự trữ mà còn xuất khẩu một lượng lớn. Bên cạnh đó, ở nông thôn Việt Nam đã phát triển nhiều ngành nghề khác, công nghiệp nhỏ, các làng nghề, các trung tâm công nghiệp nông thôn phân bố rải rác khắp các huyện, xã. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp cùng với những hoạt động kinh doanh, dịch vụ đã làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường có tính chất đan xen lẫn nhau và ở nhiều nơi, nhiều chỗ đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm. 24 Tuy còn có những ý kiến khác nhau, nhưng có thể dựa vào ba tiêu chí chính sau đây để xác định những vùng, khu vực có những vấn đề môi trường bức xúc: Thứ nhất: Vấn đề gây tác động mạnh mẽ và lâu dài đến các hệ sinh thái nông nghiệp và nông thôn; làm hạn chế tính năng sản xuất của các thành phần môi trường, giảm năng suất cây trồng, vật nuôi, cản trở sự phát triển bền vững. Thứ hai: Vấn đề có tính phổ biến rộng, len lỏi trong mọi hoạt động sản xuất và sinh hoạt thường nhật của người dân nông thôn. Thứ ba: Tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng nông thôn và hậu quả của vấn đề mang tính lâu dài, không những đối với thế hệ hiện tại mà cả thế hệ mai sau. Căn cứ vào các tiêu chí trên, các vấn đề môi trường bức xúc nhất ở nông thôn Việt Nam hiện nay là: 1. Suy thoái tài nguyên a) Suy thoái tài nguyên rừng Miền núi và trung du Trong hơn nửa thế kỷ qua, rừng tự nhiên có nhiều biến động. Độ che phủ rừng tăng nhưng phần lớn diện tích tăng là rừng trồng, nếu tính về giá trị đa dạng sinh học thì không cao. Diện tích rừng nguyên sinh chưa bị tác động chỉ còn tồn tại 25 trong các vùng rừng nhỏ, rời rạc tại các vùng núi cao của Tây Nguyên. Đây là mối đe dọa lớn đối với đa dạng sinh học của rừng làm ảnh hưởng đến cả các loài động và thực vật hoang dã. Bảng 1: Diễn biến diện tích rừng từ năm 1946 đến năm 2012 Năm Diện tích (1000 ha) Độ che Bình Rừng tự nhiên Rừng trồng Tổng cộng phủ (%) quân (ha/người) 1946 14.300 0 14.300 43,0 0,70 1976 11.077 92 11.168 33,8 0,22 2000 9.444,2 1.471 10.915 33,2 0,14 2004 10.088,3 2.218,6 12.306,9 36,7 0,15 2012 10.423,8 3.438,2 13.862,0 40,7 0,11 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: + Báo cáo hiện trạng rừng thế giới, FAO, ROME, 2001; + Niên giám thống kê 2013. Số liệu trên cho thấy từ năm 2000 đến 2012, diện tích rừng liên tục tăng, trong đó rừng trồng tăng rất nhanh, chỉ sau chưa đầy 15 năm, rừng trồng đã tăng lên 2,3 lần. Diện tích rừng tự nhiên tăng lên gần 1 triệu ha, nhưng chủ yếu là rừng phục hồi. Đến năm 2012, tỷ lệ che phủ của rừng đạt 40,7%. Tuy nhiên, chất lượng của rừng vẫn chưa 26 được cải thiện, phần lớn rừng tự nhiên hiện nay thuộc nhóm rừng nghèo, trong khi đó rừng nguyên sinh chỉ còn 0,57 triệu ha phân bố rải rác. Rừng ngập mặn ven biển Rừng ngập mặn phân bố chủ yếu ở những vùng đầm lầy nước mặn ven biển và cửa sông với diện tích lớn ở đồng bằng sông Cửu Long. Đây là những loại rừng nhạy cảm dễ bị đe dọa. Tuy nhiên, việc khai thác và sử dụng chúng diễn ra một cách ồ ạt, thiếu quy hoạch, với sự cạnh tranh gay gắt giữa diện tích nuôi trồng hải sản và diện tích rừng ngập mặn. Tổng diện tích rừng ngập mặn của cả nước hiện chỉ còn 209.740 ha, giảm 55.000 ha so với trước năm 19901. Nguyên nhân suy thoái tài nguyên rừng - Nguyên nhân trực tiếp: + Tập quán du canh du cư; + Khai thác gỗ, củi; + Khai thác các sản phẩm ngoài gỗ; + Cháy rừng; + Xây dựng cơ bản; + Mở rộng diện tích đất nông nghiệp và phá rừng ngập mặn để nuôi trồng hải sản; ____________ 1. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang: "Dự án Bảo tồn và Phát triển Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang", Báo cáo kết quả điều tra, khảo sát tháng 01-2012. 27 + Buôn bán các loài thú quý hiếm. - Nguyên nhân gián tiếp: + Tăng dân số. Sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng nhu cầu sinh hoạt và các nhu cầu thiết yếu khác, như đất cho sản xuất nông nghiệp và hệ quả tất yếu là phá rừng. + Nạn nghèo đói. Đất canh tác nông nghiệp thiếu nghiêm trọng, nhiều người phải sống dựa vào rừng, tỷ lệ nghèo đói cao. Vì thiếu ruộng, thiếu vốn đầu tư, những người nghèo phải bóc lột đất và tài nguyên thiên nhiên để duy trì cuộc sống. + Hoạt động khai khoáng. + Do lâm tặc và "yếu tố tiêu cực" khác. Sự suy thoái tài nguyên rừng theo phản ứng dây chuyền dẫn đến suy giảm tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên đa dạng sinh học và nhiều hậu quả sinh thái khác, như làm gia tăng tần suất lũ lụt, khô hạn, sạt lở và trượt đất. Ở vùng ven biển gia tăng quá trình mặn hóa, phèn hóa và ô nhiễm môi trường. b) Suy thoái tài nguyên đất Hiện trạng tài nguyên đất Theo Niên giám thống kê 2014, Việt Nam có diện tích tự nhiên 33.096,7 nghìn ha, trong đó diện tích sông suối và núi đá không có rừng cây là khoảng 1.332,800 ha (chiếm 4,03% diện tích đất 28 tự nhiên), phần đất liền khoảng 31,2 triệu ha (chiếm 95,97% diện tích tự nhiên), xếp hàng thứ 58 trong tổng số 225 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên vì dân số đông (90,7 triệu người) nên diện tích đất bình quân đầu người của Việt Nam thuộc loại rất thấp, chỉ bằng 1/6 bình quân thế giới. Tính đến năm 2014, quỹ đất đã được sử dụng của nước ta là 30.619,8 nghìn ha, chiếm 92,5% diện tích tự nhiên cả nước. Trong đó, 87,6% sử dụng cho nông lâm và thủy sản. Trong số 2.476,9 nghìn ha diện tích đất chưa sử dụng có 2.252 nghìn ha là đất đồi núi, chiếm 7,2% diện tích đất toàn quốc. Các vấn đề về môi trường đất Việt Nam là nước có 3/4 diện tích là đồi núi, có độ dốc cao. Phần lớn diện tích đất dốc tập trung ở vùng trung du và miền núi nước ta. Đây là những khu vực rất nhạy cảm, dễ biến động khi có sự thay đổi về điều kiện sinh thái, đặc biệt là thảm thực vật. Do đó, tài nguyên đất ở các vùng này vẫn đang tiếp tục bị suy thoái trầm trọng, làm biến đổi các tính chất đất và mất đất, không còn tính năng sản xuất. Các loại hình thoái hóa đất chủ yếu ở nước ta là: - Xói mòn, rửa trôi, sạt và lở đất. - Suy thoái vật lý (mất cấu trúc, đất bị chặt, bị thấm nước kém). 29 - Suy thoái hóa học (mặn hóa, chua hóa, phèn hóa). - Mất chất dinh dưỡng khoáng và chất hữu cơ. - Xuất hiện nhiều độc tố hại cây trồng như Fe3+(sắt), Al3+ (nhôm) và Mn2+(mangan). - Hoang mạc, sa mạc hóa. - Ô nhiễm đất cục bộ do chất thải đô thị, khu công nghiệp và làng nghề. - Suy thoái và ô nhiễm đất ở khu khai thác mỏ. c) Suy thoái tài nguyên nước Do rừng bị chặt phá không còn khả năng điều tiết nước nên ảnh hưởng rất lớn đến nước mặt và nước dưới đất, cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, tài nguyên nước của Việt Nam luôn ở hai trạng thái đối lập, vào mùa mưa thì quá thừa gây lũ lụt, tàn phá nghiêm trọng; vào mùa khô lại quá thiếu, dẫn đến hạn hán gây hậu quả nặng nề. Nam Bộ là nơi có nguồn nước mặt tương đối ổn định so với cả nước, nhưng năm 1998 - 1999 xảy ra thiếu hụt nước mặt, mực nước sông Tiền Giang, Hậu Giang thấp hơn trung bình nhiều năm trước là 0,1 - 0,2m. Năm 2002, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận xảy ra hạn hán kéo dài và rất nghiêm trọng, gây ra mặn hóa nhiều vùng ven biển. Trong những tháng hè năm 2015, các tỉnh phía Nam nước ta đang phải đối mặt với tình trạng hạn hán nặng. Đặc biệt, hai 30 tỉnh vùng cực nam Trung Bộ là Ninh Thuận và Bình Thuận bị khan hiếm nước sạch nghiêm trọng do các hồ chứa nước cạn trơ đáy. d) Suy giảm đa dạng sinh học Việt Nam là đất nước có đa dạng sinh học cao trên thế giới. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong các hệ sinh thái trên cạn, Việt Nam đã thống kê và xác định được trên 13.200 loài thực vật, hơn 10.000 loài động vật. Trong các vùng đất ngập nước nội địa đã xác định được trên 3.000 loài thủy sinh vật. Môi trường biển với 20 kiểu hệ sinh thái đặc thù, đặc trưng cho biển nhiệt đới và là môi trường sống của trên 11.000 loài sinh vật biển1. Hiện nay nhiều loài động, thực vật mới vẫn được tiếp tục phát hiện và công bố ở Việt Nam. Tuy nhiên, các hệ sinh thái, các giống loài và nguồn gen này đang bị suy giảm ở mức độ báo động. Theo Sách đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), năm 1996, Việt Nam mới chỉ có 25 loài động vật ở mức nguy cấp thì đến năm 2010, con số này đã lên tới 472. Nhiều loài được đánh giá bị ____________ 1. Theo: Báo cáo công tác bảo tồn đa dạng sinh học giai đoạn 2005-2010 và phương hướng giai đoạn 2011- 2015, www.vea.gov.vn. 2. Báo Nhân dân ngày 17-12-2012. 31 đe dọa không cao trên quy mô toàn cầu nhưng lại bị đe dọa ở mức báo động tại Việt Nam như hạc cổ trắng, voọc, cu li... Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học - Nguyên nhân trực tiếp: + Sự mở rộng đất nông nghiệp bằng cách lấn rừng, đất ngập nước. + Khai thác gỗ, củi. + Săn bắt và buôn bán động thực vật hoang dã. + Sự xâm nhập các loài động và thực vật lạ. + Khai thác các lâm sản ngoài gỗ khác. - Nguyên nhân gián tiếp: + Tăng dân số. Tăng dân số nhanh là nguyên nhân chính làm suy giảm đa dạng sinh học của Việt Nam. + Sự di dân. Từ những năm 1960, có khoảng 1,5 triệu người di dân theo kế hoạch và từ đồng bằng lên khai hoang và sinh sống ở vùng núi. Cuộc vận động này đã làm thay đổi cơ cấu dân số và tập quán canh tác ở miền núi. + Sự nghèo đói. Với gần 70% dân số sống ở vùng nông thôn, Việt Nam là một nước phụ thuộc vào nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên, tỷ lệ dân số nghèo còn cao. + Chính sách kinh tế vĩ mô chưa thực sự phù hợp để thúc đẩy sử dụng bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học. 32 2. Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Theo báo cáo của Bộ Y tế tại buổi làm việc ngày 26-3-2015 giữa các bộ, ngành chức năng về tăng cường phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế trong công tác kiểm soát chất lượng nước ăn uống, sinh hoạt, Việt Nam 80% số dân đô thị được cung cấp nước sạch theo quy chuẩn của Bộ Y tế. Khu vực nông thôn, dù 85% số dân được cấp nước sinh hoạt nhưng chỉ có 42% đạt quy chuẩn của Bộ Y tế (Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 27-3-2015). Nguyên nhân của tình trạng này là chất lượng nước tại nhiều nơi vẫn chưa đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, nhất là nước cấp từ những cơ sở sản xuất nhỏ lẻ; trạm cấp nước tại nhiều vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa công nghệ xử lý lạc hậu, hệ thống đường ống chưa bảo đảm và có tỷ lệ thất thoát nước cao. Bên cạnh đó, hiện nay nguồn nước mặt cũng như nước ngầm ở nước ta đang đối diện với tình trạng bị ô nhiễm ngày một tăng. Ô nhiễm môi trường nước là nguyên nhân gây các bệnh như tiêu chảy, tả, thương hàn, giun sán... Các bệnh này gây suy dinh dưỡng, thiếu máu, thiếu sắt, kém phát triển, gây tử vong,... nhất là ở trẻ em. Theo Báo cáo đánh giá về nước sạch và vệ sinh ở Việt Nam năm 2011 của WHO, Unicef và Bộ Y tế, khoảng 90% dân cư Việt Nam, đặc biệt là 33 vùng nông thôn, bị nhiễm các loại giun, sán đường tiêu hóa1. 3. Hóa chất trong nông nghiệp a) Phân bón hóa học Phân bón hóa học gây sức ép đến môi trường nông nghiệp và nông thôn, với ba lý do: + Sử dụng không đúng kỹ thuật nên hiệu lực phân bón thấp. + Phân bón không cân đối, nặng về sử dụng phân đạm. + Chất lượng phân bón không bảo đảm, các loại phân bón N-P-K, hữu cơ vi sinh, hữu cơ khoáng do các cơ sở nhỏ lẻ sản xuất trôi nổi trên thị trường không bảo đảm chất lượng đăng ký, nhãn mác bao bì nhái, đóng gói không đúng khối lượng đang là những áp lực chính cho nông dân và môi trường đất. Ở nước ta, việc sử dụng ngày càng tăng phân bón hóa học trong trồng trọt đang ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường, đặc biệt là môi trường nông thôn. Theo kết quả nghiên cứu về hấp thụ phân bón trong hoạt động trồng trọt, cây trồng hấp thụ trung bình khoảng 40 - 50% lượng phân ____________ 1. Nguồn: Báo cáo môi trường Quốc gia năm 2014, Môi trường nông thôn. 34 bón, trong đó cây trồng hấp thụ phân đạm khoảng 30 - 45%, phân lân 40 - 45%, phân kali 40 - 50%; 50 - 60% lượng phân bón còn lại vẫn tồn lưu trong đất. Lượng sử dụng phân lân và phân kali trên cây lúa là khá cao, gấp trên sáu lần so với mức khuyến cáo. Dư lượng phân hóa học làm ô nhiễm nguồn nước, gây phú dưỡng hoá, gây tác hại tới thủy sinh, nguồn lợi thủy sản và làm thoái hóa đất. b) Thuốc bảo vệ thực vật Thuốc bảo vệ thực vật gồm thuốc trừ sâu, thuốc trừ nấm, thuốc diệt chuột, thuốc trừ dịch bệnh, thuốc trừ cỏ... Các loại thuốc này có đặc điểm là: - Rất độc hại đối với mọi sinh vật. - Tồn dư lâu dài trong môi trường đất, nước. - Tác dụng gây độc không phân biệt, nghĩa là gây chết tất cả những sinh vật có hại và có lợi trong môi trường đất, nước. Hóa chất bảo vệ thực vật gây ô nhiễm môi trường thông qua nhiều con đường khác nhau như nước thải từ kho chứa thuốc khi có sự cố đổ vỡ, nước mưa chảy tràn qua các kho chứa đã bị xuống cấp, lượng thuốc còn dư đọng lại trong chai bị quăng xuống ao, hồ, sông hay lượng thuốc dư thừa trong quá trình sử dụng quá liều lượng ngấm vào đất cũng như mạch nước ngầm... 35 Ngoài ra, việc không tuân thủ thời gian cách ly sau khi phun thuốc, tình trạng vứt bao bì hóa chất bảo vệ thực vật bừa bãi sau sử dụng diễn ra khá phổ biến. Thói quen rửa bình bơm và dụng cụ pha chế hóa chất không đúng nơi quy định, gây ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, ô nhiễm không khí và ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái. Từ môi trường đất, nước và nông sản, thuốc bảo vệ thực vật sẽ xâm nhập vào cơ thể con người và tích tụ lâu dài gây các bệnh như ung thư, tổn thương về di truyền. Trẻ em nhạy cảm với thuốc bảo vệ thực vật cao hơn người lớn gấp 10 lần. Đặc biệt thuốc bảo vệ thực vật làm cho trẻ thiếu ôxy trong máu, suy dinh dưỡng, giảm chỉ số thông minh, khả năng nhận thức giảm. Điều đáng quan tâm là tình hình ngộ độc thực phẩm do các hóa chất độc hại, trong đó có thuốc bảo vệ thực vật vẫn diễn ra phức tạp và có chiều hướng gia tăng. 4. Chất thải rắn ở các làng nghề và rác thải từ sinh hoạt Cùng với sự phát triển mạnh mẽ các ngành nghề ở nông thôn, việc thay đổi tập quán sinh sống làm cho các áp lực từ chất thải rắn khu vực nông thôn gia tăng cả về thành phần, tính độc hại và tải lượng rác thải. Việc lạm dụng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, thức ăn chăn nuôi trong 36 sản xuất nông nghiệp, chất thải rắn từ hoạt động làng nghề và rác thải từ sinh hoạt là những nguồn chính gây ô nhiễm môi trường nông thôn các vùng miền. Chất thải rắn ở nông thôn có sự khác biệt đáng kể về thành phần và mức độ gây ô nhiễm tùy theo nguồn phát sinh. Có thể phân loại chất thải rắn nông thôn theo ba nhóm chính là chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn nông nghiệp và chất thải rắn làng nghề. Chất thải rắn từ nguồn sinh hoạt có đặc trưng là thành phần hữu cơ dễ phân hủy chiếm tỷ lệ cao, dao động từ 65 - 70% tổng lượng rác thải. Trong khi đó, đối với loại rác thải từ nông nghiệp như bao bì phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và từ các làng nghề thì thành phần vô cơ và các hợp chất độc hại, khó phân hủy là mối nguy hại lớn, có khả năng gây ô nhiễm môi trường không khí, nước, đất và gây hại cây trồng. 5. Xung đột do môi trường Do tác động của đô thị hóa và công nghiệp hóa, sự phát triển của các làng nghề và mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản vùng ven biển nên thường xảy ra các xung đột tiềm ẩn ở khu vực làng nghề. Các vụ tranh chấp xung đột điển hình: - Xung đột giữa người dân và chính quyền địa phương. 37 - Xung đột giữa người dân và các chủ làng nghề. - Xung đột giữa người dân, chính quyền địa phương với các nhóm khai thác khoáng sản trái phép. - Xung đột giữa người dân với các ban quản lý bãi rác. - Xung đột về tranh chấp đất đai (xây dựng bãi chôn lấp rác). Những nguyên nhân của tình trạng trên là: - Thiếu thông tin, bỏ qua thông tin. Ví dụ, trường hợp xây dựng bãi rác ở Kiêu Kỵ, Gia Lâm đã gây nên không khí căng thẳng do thiếu thông tin cho những người dân địa phương gây phản ứng nghiêm trọng. - Thiếu sự tham gia đóng góp của cộng đồng. Do không có sự tham gia của cộng đồng trong việc lập dự án nên đã làm nảy sinh nhiều xung đột do người dân không thỏa mãn với mức đền bù, không chịu di dời vì lý do giữ đất. - Các hệ thống giá trị khác nhau. Ví dụ, xung đột giữa mục đích đất nông nghiệp và ngư nghiệp, giữa lâm nghiệp và ngư nghiệp. 6. Phân hóa giàu nghèo Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tỷ lệ đói nghèo ở nước ta chiếm khoảng 30% tổng số 38 dân. Trong 10 năm gần đây (2002-2012), Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trên tất cả các lĩnh vực: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong giai đoạn này là 6,5%, tỷ lệ nghèo đã giảm mạnh từ 22,3% năm 2002 xuống còn 11,1% năm 2012. Đến năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta tiếp tục giảm còn 8,4% (Niên giám thống kê 2014). Đời sống của các hộ gia đình đã được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người tăng lên nhanh chóng. Mặc dù thu nhập của mọi tầng lớp dân cư, các địa phương, các vùng lãnh thổ và khu vực đều tăng lên, nhưng sự gia tăng này lại diễn ra theo các tốc độ và chiều hướng khác nhau. Điều này đã dẫn đến sự gia tăng chênh lệch giàu - nghèo trong từng địa phương, từng khu vực cũng như trên phạm vi cả nước. Cụ thể, nếu năm 2002 hệ số chênh lệch thu nhập giữa 20% dân số thuộc nhóm giàu so với 20% dân số ở nhóm nghèo của Việt Nam là 8,1 lần, thì đến năm 2012 hệ số này là 9,4 lần1. Vấn đề môi trường - đói nghèo - bệnh tật thường liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn ____________ 1. PGS.TS. Phạm Đại Đồng, ThS. Phạm Thị Huệ: Phân hóa giàu nghèo khu vực thành thị, nông thôn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, http:// khoathongke.neu.edu.vn ngày 24-1-2015. 39 nhau. Hầu hết các tỉnh có tỷ lệ đói nghèo cao đều thuộc khu vực miền núi và trung du. Tỷ lệ này dường như tỷ lệ thuận với sự suy thoái về môi trường mà chủ yếu do rừng bị tàn phá, đất bị rửa trôi, xói mòn, nạn lụt lội, khô hạn trầm trọng và mùa màng bị thất bát. Nguyên nhân của tình trạng phân hóa giàu nghèo là: - Nguồn lực lao động phân bố không đều, 75% lao động ở nông thôn nhưng lại không có trình độ, tay nghề yếu. Hàng năm, nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn tăng 3,5% do đó có gần 1,5 vạn người lao động phải rời nông thôn lên thành thị đi làm thuê với thu nhập thấp. - Tỷ lệ sinh đẻ cao ở vùng nông thôn, đặc biệt là miền núi và trung du cộng với học vấn thấp do không có điều kiện học tập, lao động phổ thông thu nhập thấp do đó không thoát khỏi vòng xoáy "tăng dân số - đói nghèo - tàn phá tài nguyên - ô nhiễm môi trường". 7. Các giải pháp cải thiện môi trường nông thôn Việt Nam Để kiểm soát và cải thiện các vấn đề môi trường bức xúc ở nông thôn, Nhà nước lấy Hội Nông dân làm nòng cốt phối hợp với các hội 40 quần chúng khác chỉ đạo và thực hiện những nội dung sau: - Bảo vệ, phát triển vốn rừng và đa dạng sinh học (trồng mới, bảo vệ rừng nguyên sinh, khoanh nuôi bảo vệ, tu bổ rừng...), đặc biệt là rừng đầu nguồn và rừng bảo hộ vùng cát và vùng ngập mặn ven biển. - Sử dụng hợp lý, tiết kiệm đi đôi với cải tạo bảo vệ đất, chống xói mòn, rửa trôi và thoái hóa đất. Thực thi các biện pháp canh tác theo các mô hình kinh tế - sinh thái, làm ruộng bậc thang, xen canh, luân canh, vườn - ao - chuồng, nông - lâm kết hợp và áp dụng kỹ thuật canh tác nông nghiệp bền vững trên đất dốc (SALT's). - Phát động phong trào ăn sạch, uống sạch gắn với chương trình của Nhà nước về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Các phong trào điển hình như làm Biogas, không chăn nuôi gia súc dưới sàn nhà, thu gom và phân loại rác từ nguồn, ủ phân theo kiểu hố rác di động, xây dựng hố xí hai ngăn, hố xí bán tự hoại. - Sử dụng phân bón hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật hợp lý: + Sử dụng phân bón đúng liều lượng, đúng thời gian, đúng lúc cây cần và đúng tỷ lệ. + Thực hiện biện pháp phòng trừ sâu hại tổng hợp (IPM). 41 + Xây dựng các hố thu gom bao bì, chai lọ, đựng thuốc bảo vệ thực vật để tiêu hủy tập trung phòng tránh gây ô nhiễm môi trường đất và nước. - Tuyên truyền vận động các hội viên tham gia tích cực trong công tác bảo vệ môi trường. Hội nông dân làm nòng cốt phối hợp với các hội quần chúng khác tổ chức các khóa tập huấn ngắn hạn, các chiến dịch truyền thông môi trường nhân các ngày lễ lớn, thực thi khẩu hiệu: "Sạch làng tốt ruộng", "Ngày chủ nhật xanh", "Vì màu xanh quê hương",... xây dựng các mô hình tự chủ, tự quản về bảo vệ môi trường. - Tổ chức và duy trì các phong trào quần chúng bảo vệ môi trường: + Đưa công tác bảo vệ môi trường vào nội dung hoạt động của các hội quần chúng, của các cộng đồng dân cư và phát huy vai trò của hội trong công tác bảo vệ môi trường. + Thực thi các hương ước của làng bản, lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường trong các hoạt động có tính phong trào của các hội quần chúng. + Phát động phong trào toàn dân tham gia giữ gìn và bảo vệ môi trường. + Phong trào xây dựng nhà máy nước mini của tư nhân, giếng nước, các bể lọc, giếng nước ở miền núi. 42 III- VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ KHU VỰC ĐÔ THỊ Đô thị là nơi có cơ sở hạ tầng, mạng lưới cung cấp điện, nước, các dịch vụ tương đối tốt và thuận lợi. Đây cũng là nơi tập trung đông dân cư, có điều kiện tiếp xúc với các phương tiện truyền thông hiện đại nên trình độ dân trí cao hơn vùng nông thôn. Tuy nhiên, đây cũng là nơi mà vấn đề về rác thải, khí thải, tiếng ồn, nước thải sinh hoạt, vệ sinh an toàn thực phẩm... luôn luôn là những vấn đề bức xúc và khó giải quyết. Một số vấn đề môi trường quan trọng ở khu vực đô thị như: 1. Phân loại rác tại nguồn và tái chế rác thải Vấn đề xử lý rác thải không chỉ là vấn đề môi trường đang nổi lên, gây bức xúc cho các cộng đồng dân cư khu vực nông thôn mà còn là vấn đề gay gắt và nan giải đối với các cộng đồng dân cư khu vực đô thị. Do đặc điểm khu vực đô thị là nơi tập trung dân cư đông đúc, hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ diễn ra mạnh mẽ với cường độ ngày càng tăng đồng nghĩa với việc nguồn rác thải sẽ lớn hơn, xử lý phức tạp hơn rất nhiều. Rác thải thường được chia làm ba nhóm: - Rác vô cơ, gồm các loại phế thải thủy tinh, sành sứ, kim loại, giấy, cao su, nhựa, vải, đồ điện... 43 - Rác hữu cơ, gồm cây cỏ, lá rau quả hư hỏng, thức ăn thừa, xác súc vật, phân chăn nuôi... - Rác độc hại là những phế thải rất độc hại cho môi trường và con người như pin, bình ắc quy, hóa chất... Thực tế ngày nay ở các đô thị, kể cả các thành phố lớn, việc xả rác của con người không tuân thủ theo một quy định nào và gây mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường. Thói quen gom tất cả các loại rác, đồ phế thải vào chung một chỗ từ lâu đã trở thành mối nguy hại lớn cho môi trường và đe dọa cuộc sống của con người. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc chúng ta đã vô tình lãng phí những loại rác có thể tái sử dụng được. Việc đưa tất cả rác thải chưa qua xử lý vào môi trường hằng ngày đang vượt quá sức chứa của môi trường. Hậu quả tất yếu con người phải gánh chịu là phải sống chung với rác thải và sống trong một môi trường bị ô nhiễm do chính con người gây ra. Một trong những vấn đề đặt ra cần giải quyết tại các cộng đồng dân cư khu vực đô thị là phân loại rác tại nguồn và tái chế rác thải. Do ở khu vực đô thị có khối lượng rác hằng ngày rất lớn và đa dạng, nên việc phân loại rác tại nguồn là vấn đề cần thiết và hoàn toàn phù hợp. Việc phân chia các loại rác thải thành từng loại riêng biệt (rác vô cơ, rác hữu cơ, rác độc hại) sẽ mang 44 lại lợi ích kinh tế lớn, chúng ta sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí phân loại và phân hủy rác, tái chế một số loại rác còn có khả năng sử dụng được, hạn chế được khối lượng rác thải đổ vào môi trường và loại bỏ ngay từ đầu một số loại rác không phân hủy hoặc khó phân hủy trong môi trường tự nhiên. Có thể thấy lợi ích của việc thu gom và xử lý rác thải tại nguồn đối với cuộc sống con người: - Đối với sức khỏe: Xử lý rác hợp vệ sinh sẽ làm cho không khí trong lành, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, phòng tránh được nhiều bệnh tật. - Đối với kinh tế: Rác hữu cơ thường được ủ hoặc đổ xuống hố, đốt lấy tro làm phân bón cho cây. Rác còn để phục vụ cho việc sản xuất nấm ăn, sản xuất giun đất làm thức ăn rẻ và bổ cho gia súc, gia cầm. - Đối với xã hội: Một đường phố, một gia đình, một khu chung cư, một trường học, rộng ra là một phường, quận, lớn hơn là cả thành phố sạch rác, trước hết thể hiện nếp sống văn minh của con người và cộng đồng, bên cạnh đó là nhiều lợi ích kinh tế khác khó tính đếm hết được. 2. Nước sạch Trên quy mô toàn cầu, vấn đề khan hiếm nước sạch đang ngày càng gay gắt và là mối quan tâm 45 sâu sắc của nhiều quốc gia và quốc tế. Nguyên nhân thật đơn giản, con người ta có thể nhịn ăn được nhiều ngày, nhưng không thể nhịn uống được một ngày. Đối với các khu vực thành thị - nơi tập trung dân cư đông đúc và diễn ra nhiều hoạt động sản xuất công nghiệp, dịch vụ... thì nhu cầu sử dụng nước nói chung, nước sạch nói riêng càng gia tăng gấp nhiều lần so với các khu vực khác. Nguồn nước sạch cung cấp chỉ có giới hạn trong khi nhu cầu sử dụng không ngừng gia tăng cùng với việc sử dụng nước lãng phí, kém hiệu quả nên tình trạng khan hiếm nước sạch ở các khu vực đô thị, đặc biệt là vào mùa khô đang ngày càng trở nên nghiêm trọng. Sự tập trung dân cư với số lượng và mật độ cao, cùng với các hoạt động sản xuất và dịch vụ diễn ra mạnh mẽ cũng đồng nghĩa với việc nguồn chất thải đổ vào môi trường tại các đô thị cũng rất lớn. Nguồn chất thải này đã làm ô nhiễm môi trường, nhất là môi trường nước và gây hậu quả cho chính con người. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), 80% các bệnh tật của con người có liên quan đến nước và vệ sinh môi trường. Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê của Bộ Y tế cho thấy, gần một nửa trong số 26 bệnh truyền nhiễm, có nguyên 46 nhân liên quan tới nguồn nước bị ô nhiễm. Điển hình như bệnh tiêu chảy cấp, tả, thương hàn, đau mắt đỏ; các bệnh về đường tiêu hóa, viêm gan A, viêm não, ung thư... Kết quả đánh giá giữa Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cho thấy, trung bình mỗi năm ở nước ta có khoảng 9.000 người tử vong từ nguồn nước bị ô nhiễm và điều kiện vệ sinh kém; đồng thời có khoảng 200.000 trường hợp mắc ung thư mới phát hiện, mà một trong những nguyên nhân chính là sử dụng nguồn nước ô nhiễm1... Tại các lưu vực sông, suối, ao, hồ, bên cạnh nguồn nước thải do dân cư sinh hoạt đổ ra hằng ngày, thì nước thải từ các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp... thải ra đã vượt quá giới hạn cho phép mà các sông, hồ có thể chứa đựng được. Hơn nữa, chất thải chưa qua xử lý hoặc công nghệ xử lý kém đã làm tăng nguy cơ cao cho sự ô nhiễm nguồn nước. Kết quả khảo sát môi trường một số ngành công nghiệp trong các năm 2011-2013, do Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Điều kiện lao động (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) ____________ 1. Dương Danh Mạnh: Ô nhiễm nguồn nước và gánh nặng bệnh tật, Báo Nhân dân điện tử, ngày 24- 5-2015. 47 thực hiện cho thấy: ở các ngành công nghiệp dệt may, giấy và bột giấy, mía đường, chế biến thực phẩm... nước thải thường có độ pH trung bình cao; chỉ số nhu cầu ôxy sinh hóa (BOD) ở mức 700 mg/lít, vượt quy chuẩn cho phép 14 lần. Nhu cầu ôxy hóa học (COD) có thể lên đến 2.500 mg/lít, vượt quy chuẩn cho phép hơn sáu lần (theo QCVN 40:2011/BTNMT). Hàm lượng nước thải một số doanh nghiệp có chứa cyanua (CN-) vượt đến 80 lần tiêu chuẩn cho phép; hàm lượng chất thải rắn lơ lửng và nhiều chỉ số môi trường khác trong nước thải cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép, nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước trong khu vực1... Vấn đề nước sạch và ô nhiễm nguồn nước đang thực sự trở nên nghiêm trọng và đáng lo ngại, bởi hằng ngày chúng ta vẫn nhận được các thông tin qua báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng về sự hình thành ngày càng nhiều các "dòng sông đen", "dòng sông chết", các "làng ung thư", về các dòng sông biến thành các "cống nước thải khổng lồ" giữa lòng thành phố, một bộ phận dân cư "sống giữa thành phố uống nước gần nghĩa địa"... ____________ 1. Dương Danh Mạnh: Ô nhiễm nguồn nước và gánh nặng bệnh tật, Tlđd. 48 3. Vệ sinh, an toàn thực phẩm Cùng với vấn đề ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, thì vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong những vấn đề môi trường quan trọng thu hút sự quan tâm, lo ngại tại các cộng đồng dân cư khu vực đô thị. Sự phát triển kinh tế - xã hội đã đem lại cho mọi người cuộc sống đầy đủ hơn về vật chất và tinh thần. Con người có điều kiện để ăn ngon, mặc đẹp. Tuy nhiên, hiện nay ở các đô thị lại đang phải đối diện với vấn đề ăn uống sao cho vệ sinh, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, giữ gìn sức khỏe cho con người. Vệ sinh an toàn thực phẩm là tất cả những điều kiện cần thiết từ khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối đến nấu nướng cũng như sử dụng nhằm bảo đảm cho thực phẩm được sạch sẽ, an toàn và phù hợp với người tiêu dùng. Việc giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm là cần thiết, vì thực phẩm rất dễ bị ô nhiễm bởi tác nhân sinh học, các chất độc hại hóa học, vật lý nên có thể gây ngộ độc nguy hiểm và ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người tiêu dùng. Các tác nhân sinh học chính gây ô nhiễm thực phẩm bao gồm: vi khuẩn, nấm mốc, vi rút và ký sinh trùng. Vi khuẩn rất nhỏ bé, không nhìn thấy được bằng mắt thường, chúng có ở mọi nơi xung 49 quanh chúng ta. Phân, nước thải, rác, bụi, thực phẩm tươi sống là ổ chứa của nhiều loại vi khuẩn gây bệnh. Mỗi loại vi khuẩn phát triển trong một giới hạn nhiệt độ nhất định, phần lớn vi khuẩn thích hợp ở nhiệt độ 37oC và bị tiêu diệt ở nhiệt độ sôi. Nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm rất đa dạng và biểu hiện cũng rất phức tạp. Đó là do thực phẩm không bảo đảm chất lượng, thực phẩm bị ô nhiễm khi chế biến, khi bảo quản: - Ngộ độc thực phẩm do ăn phải thức ăn nhiễm vi sinh vật (bao gồm vi khuẩn và các độc tố của vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, nấm mốc, nấm men...). - Ngộ độc thực phẩm do nhiễm bởi các chất hóa học, như các kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật, các loại thuốc thú y, chất phụ gia thực phẩm, chất phóng xạ... - Ngộ độc do ăn phải thực phẩm có sẵn chất độc, như các loài động vật độc (cá nóc, cóc, mật cá...), hay thực vật độc (nấm độc, lá ngón...). Ngộ độc do ăn phải thức ăn bị biến chất, thức ăn ôi, thiu. Tóm lại, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã đem lại những thay đổi to lớn về sự phát triển kinh tế và đời sống xã hội của các khu vực đô thị. Tuy nhiên, ở một mặt nào 50 đó, sự phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa đã chưa thực sự cân đối với việc bảo vệ môi trường, thêm vào đó là sức ép do dân cư tập trung quá đông đã làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường bức xúc tại các khu vực này. IV- CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HƯỚNG TỚI CỘNG ĐỒNG Vấn đề về ô nhiễm môi trường đang ngày càng trở nên bức xúc và thu hút sự quan tâm của tất cả các cộng đồng dân cư khu vực nông thôn và đô thị. Bảo vệ môi trường đã trở thành nhiệm vụ không phải của riêng ai, mà là của tất cả các thành viên trong cộng đồng. Dưới đây xin đề cập một số giải pháp bảo vệ môi trường hướng tới cộng đồng: 1. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường Giải pháp này nhằm trước hết cung cấp kiến thức, hiểu biết về môi trường, tình trạng ô nhiễm môi trường đang xảy ra ở các địa bàn khác nhau, tác động của ô nhiễm môi trường tới sức khỏe con người, từ đó thức tỉnh ý thức trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ môi trường từ trong mỗi người đến toàn xã hội. 51 Giải pháp này đòi hỏi phải phát huy tối đa hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường của toàn xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng có vai trò rất lớn trong việc chuyển tải thông tin, định hướng nhận thức của toàn xã hội. Việc xây dựng và thực hiện các chương trình phát thanh, truyền hình để chuyển tải các nội dung về môi trường, ô nhiễm môi trường tới cộng đồng có ý nghĩa rất to lớn. Các phương tiện truyền thông hữu hình, như báo in, pano, áp phích, tờ gấp, tranh cổ động... có tác dụng lớn trong việc chuyển tải thông tin, thông điệp môi trường tới các nhóm đối tượng khác nhau. Trong các trường học, việc cung cấp kiến thức môi trường cho các bậc học theo nhiều cách thức khác nhau, như lồng ghép các kiến thức môi trường trong các môn học, chương trình giáo dục của từng cấp học; khuyến khích các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ chức các hoạt động ngoại khóa, bổ sung kiến thức thực tế về môi trường nhằm nâng cao ý thức tự giác bảo vệ môi trường cho những thế hệ công dân tương lai là công việc chúng ta đã và đang làm và được sự quan tâm, chỉ đạo, đầu tư xứng đáng của Nhà nước. 52 2. Tăng cường quản lý nhà nước, xây dựng thể chế và pháp luật về bảo vệ môi trường và đẩy mạnh áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường Hình thành và phát triển hệ thống quản lý môi trường từ trung ương tới địa phương theo hướng kết hợp quản lý tài nguyên và quản lý môi trường, bao gồm kiện toàn các sở tài nguyên và môi trường, hình thành bộ phận quản lý môi trường kết hợp với quản lý tài nguyên ở cấp huyện, quận, có cán bộ chuyên trách về môi trường và tài nguyên ở cấp xã, phường, thị trấn. Tăng cường pháp chế về môi trường bắt đầu từ việc xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường quy định rõ quyền lợi, trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân, các chế tài cụ thể đối với các trường hợp vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát ô nhiễm môi trường. Cần phải nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường. Một mặt, nâng cao ý thức tự giác chấp hành luật của công dân; mặt khác, tăng cường việc giám sát, quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thi hành pháp luật. Đẩy mạnh áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường. Các công cụ kinh tế tiếp cận 53 mục tiêu môi trường linh hoạt, hiệu quả và kinh tế, cho phép doanh nghiệp lựa chọn phương án tối ưu đáp ứng các yêu cầu về môi trường. Đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng vào quản lý môi trường các loại thuế, phí bảo vệ môi trường, giấy phép phát thải và thị trường trao đổi quyền phát thải...; tạo lập các tổ chức tín dụng về môi trường, như quỹ môi trường, tổ chức cho thuê tài chính về môi trường, ngân hàng môi trường... 3. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường Để bảo đảm quá trình phát triển bền vững, cần thiết phải xác lập sự cân đối giữa các yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường, kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hòa ở tất cả các cấp. Giải pháp này bao gồm việc lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường vào các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cấp quốc gia, ngành và địa phương cho đến các chương trình, dự án cụ thể theo phương hướng thực hiện đánh giá tác động môi trường chiến lược, có sự điều chỉnh cần thiết theo hướng bền vững, xây dựng quy hoạch quản lý môi trường và tổ chức thực hiện song song với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, 54 xác lập cơ chế cung cấp tài chính dài hạn và hàng năm cho lĩnh vực bảo vệ môi trường với quan điểm đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững; thành lập cơ quan điều phối thực hiện việc lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. 4. Tăng cường và đa dạng hóa nguồn vốn, tạo sự chuyển biến cơ bản trong đầu tư bảo vệ môi trường Tăng chi từ ngân sách nhà nước cho các hoạt động bảo vệ môi trường, tăng chi cho môi trường từ nguồn vốn ODA. Thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ODA. Khai thác triệt để các nguồn đầu tư từ xã hội cho công tác bảo vệ môi trường, tăng nguồn vốn cho Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam. Quản lý các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải và hiệu quả thấp. 5. Tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ về bảo vệ môi trường Tiếp tục phát triển hệ thống các cơ quan nghiên cứu, triển khai về môi trường. Các trung tâm, viện, trường có nghiên cứu, đào tạo về môi 55 trường cần được củng cố và phát triển làm chỗ dựa vững chắc cho công tác quản lý môi trường. Thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cấp nhà nước, cấp bộ về bảo vệ môi trường nhằm phục vụ đắc lực cho công tác quản lý nhà nước về môi trường, cũng như phục vụ nhu cầu bảo vệ môi trường của cộng đồng, doanh nghiệp và toàn xã hội. 6. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường Xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường luôn được coi là một trong những giải pháp chính, quan trọng của công tác bảo vệ môi trường. Nội dung của việc xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường là huy động ở mức cao nhất sự tham gia của xã hội vào công tác bảo vệ môi trường. Xác lập các cơ chế khuyến khích, các chế tài hành chính, hình sự và thực hiện một cách công bằng, hợp lý đối với tất cả các đối tác thuộc Nhà nước và tư nhân khi tham gia bảo vệ môi trường. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ môi trường đã nêu một số biện pháp đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường tạo cơ sở pháp lý và cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức và cộng đồng tham gia công tác bảo vệ môi 56 trường. Chú trọng xây dựng và thực hiện quy ước, hương ước, cam kết về bảo vệ môi trường và các mô hình tự quản về bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư. Phát triển các mô hình, điển hình tiên tiến trọng hoạt động bảo vệ môi trường để khen thưởng, phổ biến nhân rộng. Duy trì và phát triển Giải thưởng môi trường hàng năm. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã cụ thể hóa các chủ trương nêu trong Nghị quyết số 41-NQ/TW bằng các quy định cụ thể, như quy định về lấy ý kiến của nhân dân đối với báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án đầu tư. Quy định việc thông báo nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án cho dân cư địa phương biết để kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Xây dựng nội dung bảo vệ môi trường trong hương ước, thành lập tổ chức tự quản môi trường trong khu dân cư. Khuyến khích phát triển dịch vụ bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 tiếp tục bổ sung, sửa đổi các điều khoản này, chi tiết, phù hợp hơn với điều kiện thực tiễn. Nội dung của xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường tùy theo tình hình thực tế của từng địa phương nhưng không ngoài mục đích lớn nhất chung là: 57 - Xây dựng và thực thi một cơ sở bền vững lành mạnh cho sức khỏe của mọi người dân và cho các hệ sinh thái. - Tạo ra và bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp có lợi ích cho sức khỏe của toàn dân, giảm thiểu các nguy cơ về tai biến hóa, lý, sinh, mọi người đều có được các tài nguyên bảo đảm cho cuộc sống, sức khỏe của mình. - Làm cho mọi người, mọi tổ chức có kiến thức và trách nhiệm đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng, của các hệ sinh thái. - Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của người dân về chính sách, luật pháp và những biện pháp, cách thức bảo vệ môi trường, từ đó, giáo dục ý thức chấp hành, thực thi luật pháp, chính sách và các biện pháp bảo vệ môi trường. Việc làm này rất quan trọng, là nền tảng cơ bản cho thành công của xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Người dân chỉ có thể tham gia hiệu quả vào các hoạt động bảo vệ môi trường khi họ nhận thức được và có được những thông tin về chính sách, pháp luật của Nhà nước, biết được quyền và nghĩa vụ của họ trong hoạt động đó. Họ sẽ có điều kiện để hành động một cách tự giác để bảo vệ môi trường khi họ biết được tình hình môi trường địa phương, những kiến thức cơ bản để đối phó với một vấn đề nào đó 58 trong sử dụng tài nguyên cho đời sống, sinh hoạt hằng ngày. - Xây dựng đạo đức bảo vệ môi trường, đưa chỉ tiêu đạo đức môi trường thành chỉ tiêu đánh giá phẩm chất đạo đức con người. Những nguyên tắc đạo đức môi trường sẽ giúp mọi người kết hợp lại, thống nhất hành động và giải quyết được những vấn đề chung, như vấn đề tranh chấp nguồn tài nguyên đang khan hiếm dần và các xung đột môi trường ở các mức độ khác nhau và quy mô khác nhau. Xây dựng các nguyên tắc đạo đức môi trường dựa trên các giá trị trong mối quan hệ qua lại giữa người với người và với thiên nhiên. Các giá trị này được biểu hiện rõ nét trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, trong tri thức bản địa và các truyền thống văn hóa và tôn giáo của thế giới, đồng thời chúng cũng đến từ cơ sở của đạo đức con người về sự bền vững. - Tổ chức thực hiện tốt đề án "Đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân" đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17-10-2001. Đồng thời kết hợp với chương trình, dự án khác trong việc tuyên truyền, giáo dục và động viên giới trẻ tham gia tích cực vào công tác bảo vệ môi trường. - Xây dựng và tổ chức các chương trình tập huấn, bồi dưỡng cho các nhà chuyên nghiệp, các 59 cán bộ của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp về bảo vệ môi trường. - Tổ chức mạng lưới thông tin môi trường, kế hoạch hóa công tác truyền thông môi trường phù hợp với các loại đối tượng. Khi thực hiện xã hội hóa việc bảo vệ môi trường cần bảo đảm cho các cộng đồng và cá nhân nguồn tài chính, động viên khen thưởng về hành động phát triển bền vững; cung cấp các công nghệ sạch về môi trường cho các cộng đồng; cung cấp thông tin cho cộng đồng; nâng cao năng lực của cộng đồng trong việc tổ chức và tham gia trong các quyết định; nâng cao năng lực, phát huy tác dụng của cộng đồng trong các ưu tiên phát triển, trong các chính sách và dự án; ủng hộ xã hội hóa bảo vệ môi trường thông qua các chương trình viện trợ tài chính và kỹ thuật phù hợp với các hoạt động của cộng đồng; ủng hộ phát triển cơ sở hạ tầng cho việc trao đổi thông tin và viện trợ kỹ thuật cho các cộng đồng; cung cấp cho các cộng đồng cơ hội tham gia hoạch định chiến lược của địa phương về bảo tồn và phát triển bền vững. Bảo đảm sự phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường là trách nhiệm trong ứng xử của các cá nhân và các nhóm cộng đồng. Ứng xử với tinh thần trách nhiệm chỉ được nhân dân 60 thực hiện khi được kiểm soát hoàn toàn cuộc sống của mình, được hưởng lợi từ các tài nguyên cần thiết cho bản thân. Hành động của cộng đồng là điều kiện cơ bản bảo đảm cho sự phát triển bền vững quốc gia và toàn cầu. Để quản lý môi trường có hiệu quả, không thể không dựa vào cộng đồng. Các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường phải là một thể thống nhất và có sự tham gia của tất cả các cá nhân cũng như các nhóm, trong đó có việc chăm lo đến môi trường nhằm thỏa mãn các nhu cầu của cuộc sống. Bảo vệ môi trường từ cấp cơ sở xã, phường là một vấn đề còn mới mẻ nhưng rất cấp bách, vì vấn đề môi trường luôn bắt nguồn từ cơ sở, gắn với cuộc sống và lợi ích của cộng đồng cơ sở. Nhân dân ta trong quá trình phát triển đã hình thành nhiều tập quán, nếp sống rất có ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên. Nếu tổng kết được và hệ thống hóa, nâng cao và phổ cập, chắc chắn sẽ rất có tác dụng đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường. Phục hồi trở lại các tập quán, nếp sống thân thiện với môi trường đã có từ ngàn xưa là việc cần làm nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, để rồi từ đó tuyên truyền, phổ biến động viên, khích lệ nhân dân nâng cao nhận thức, trách nhiệm và tự nguyện tham gia bảo vệ môi 61 trường ngay ở địa phương, cơ sở. Vấn đề này thuộc về công tác tư tưởng trong việc bảo vệ môi trường. Đi đôi với công tác tư tưởng cần phải suy nghĩ đến giải pháp, tổ chức mà trước hết là dựa vào các tổ chức sẵn có đang hoạt động tại địa phương, cơ sở. Hiện nay chúng ta có Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam ở trung ương và các chi hội tại các tỉnh, thành phố. Cần phát huy vai trò của Hội trong việc liên kết với các tổ chức, đoàn thể khác cũng có vai trò to lớn và sức mạnh hùng hậu, trước hết là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Công đoàn, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và các lực lượng khác để cùng hướng tới mục tiêu chung, cao cả là bảo vệ môi trường. 7. Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường Môi trường không còn là vấn đề của một quốc gia mà đã trở thành vấn đề toàn cầu. Vì vậy, sự nghiệp bảo vệ môi trường của nước ta gắn với sự nghiệp bảo vệ môi trường trong khu vực và trên toàn thế giới. Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường trên tinh thần tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế mà nước ta đã ký kết tham gia. Tận dụng triệt để sự hỗ trợ từ bên ngoài cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Ưu 62 tiên mở rộng quan hệ quốc tế về bảo vệ môi trường trong phạm vi khu vực dưới hình thức thiết lập các chương trình, dự án đa phương và song phương. Đặc biệt chú ý mở rộng mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi trong lĩnh vực bảo vệ môi trường với các nước láng giềng. Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế như Chương trình phát triển của Liên hợp quốc, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Môi trường toàn cầu, các tổ chức chính phủ, tổ chức phi chính phủ... nhằm tranh thủ sự hỗ trợ cho công tác bảo vệ môi trường của nước ta. Hằng năm tổ chức diễn đàn các nhà tài trợ, tiến hành các hoạt động trao đổi thông tin, nhằm phối hợp các nguồn viện trợ cho các chương trình, dự án hợp tác về môi trường và tăng cường hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài cho lĩnh vực bảo vệ môi trường. 63 Chương II CÁC MÔ HÌNH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TIÊU BIỂU Để giải quyết các vấn đề môi trường trong giai đoạn đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, một trong những giải pháp quan trọng mà Đảng đã nêu ra là đẩy mạnh xã hội hóa bảo vệ môi trường. Ngày 25-6-1998, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 36/CT-TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó, giải pháp hàng đầu là thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và các phong trào quần chúng bảo vệ môi trường. Đặc biệt là trong Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nêu bảy giải pháp chủ yếu để bảo vệ môi trường ở nước ta, trong đó có giải pháp thứ ba là "Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường" với các nội dung sau: 64 - Xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức, cá nhân và cộng đồng, đặc biệt là đề cao trách nhiệm của các cơ sở sản xuất và dịch vụ trong bảo vệ môi trường. - Tạo cơ sở pháp lý và cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức và cộng đồng tham gia công tác bảo vệ môi trường. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn giám định, công nhận, chứng nhận về bảo vệ môi trường, phát triển loại hình dịch vụ bảo vệ môi trường. - Chú trọng xây dựng và thực hiện quy ước, hương ước, cam kết về bảo vệ môi trường và các mô hình tự quản về bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư. - Phát triển các phong trào quần chúng tham gia bảo vệ môi trường. Tăng cường sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức quần chúng, các phương tiện truyền thông trong hoạt động bảo vệ môi trường. - Phát hiện các mô hình, điển hình tiên tiến trong hoạt động bảo vệ môi trường để khen thưởng, phổ biến nhân rộng, duy trì và phát triển Giải thưởng môi trường hàng năm. Ngày 21-01-2009, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 29-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) đã nhấn mạnh: cần "coi trọng 65 việc phát động phong trào bảo vệ môi trường trong các tầng lớp nhân dân"; "Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, có cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức, cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường". Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, trên khắp cả nước đã xuất hiện nhiều mô hình bảo vệ môi trường tại cộng đồng. Tuy quy mô và mức độ thành công của các mô hình khác nhau, song có thể thấy một điều chung là nếu được huy động và tổ chức tốt, cộng đồng sẽ là một lực lượng hùng hậu trong việc bảo vệ môi trường. Trong hơn 20 năm trở lại đây, công cuộc bảo vệ môi trường ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, đó là nhờ các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước và phần quan trọng không thể không kể đến là sự tham gia, đóng góp tích cực của các cộng đồng dân cư khác nhau trên khắp mọi miền đất nước. Ở nông thôn, các mô hình cộng đồng ký cam kết, hương ước bảo vệ môi trường ra đời và phát triển mạnh, mô hình lồng ghép xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới với bảo vệ môi trường, cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường đã và đang nhận được sự ủng hộ và tham gia nhiệt tình của đông đảo bà con nhân dân. Ở thành thị, các phong trào tự chủ, tự quản giải quyết các vấn đề môi trường, phổ biến là các 66 hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn thu gom rác, hợp tác xã nước sạch và vệ sinh môi trường đã xuất hiện và đang phát triển rộng ở nhiều thành phố, khu đô thị. Có thể nói tinh thần xã hội hóa bảo vệ môi trường ở nước ta đã đi vào cộng đồng và đang trên đà phát triển. Dưới đây là những tổng kết sơ bộ một số mô hình tiêu biểu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được nhiều người biết đến ở nước ta. I- CÁC MÔ HÌNH TỰ CHỦ, TỰ QUẢN BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy sự ra đời của các mô hình tự chủ, tự quản trong lĩnh vực về bảo vệ môi trường đều bắt nguồn từ ý thức bảo vệ môi trường của cộng đồng, do cộng đồng, xuất phát từ thực trạng môi trường tại cơ sở. Như phần trên đã trình bày, cùng với sự phát triển kinh tế và đô thị hóa, nhiều vấn đề môi trường bức xúc đã đặt ra cho cả khu vực đô thị và nông thôn, trong đó nổi lên là sự gia tăng một khối lượng lớn rác thải với tình trạng chung là sự thiếu kiểm soát, gây ô nhiễm môi trường. Cùng với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, nhiều mô hình cộng đồng tự quản bảo vệ môi trường đã ra đời và hoạt động hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực. 67 1. Mô hình thu gom và xử lý rác thải Rác thải đang là vấn đề nổi cộm ở các vùng nông thôn Việt Nam do quá trình đô thị hóa nhanh ở nước ta. Theo ước tính, với lượng phát thải khoảng 0,3 kg/người/ngày thì lượng rác thải sinh hoạt phát sinh năm 2013 khoảng 18.200 tấn/ngày, tương đương với 6,6 triệu tấn/năm. Rác thải nông thôn được sinh ra chủ yếu do hoạt động sản xuất nông nghiệp, một số kết hợp sản xuất làng nghề, dịch vụ nông nghiệp, nông thôn. Phụ phẩm trong sản xuất nông nghiệp, ngoài một phần làm thức ăn gia súc, phân bón, chất đốt, phần còn lại bị vương vãi trong đường làng, ngõ xóm. Việc quản lý, thu gom và xử lý rác thải tại các vùng nông thôn là cần thiết, đòi hỏi các cấp chính quyền sở tại phải quan tâm. Trong những năm qua, tại nhiều địa phương đã xuất hiện những mô hình huy động sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường nông thôn như các mô hình thu gom rác thải sinh hoạt dưới các hình thức tự quản do dân tự tổ chức, do xã, thôn tổ chức hoặc thành lập hợp tác xã dịch vụ vệ sinh môi trường. Những mô hình này bước đầu đã mang lại kết quả tích cực, góp phần vào công cuộc bảo vệ môi trường nói chung và giữ gìn vệ sinh khu vực địa phương nói riêng. Đặc biệt các mô hình này đã góp phần nâng cao được nhận thức cho cộng đồng tại các địa phương về ý thức tham 68 gia bảo vệ môi trường. Đây cũng là những mô hình cần được quan tâm và phổ biến rộng rãi. a) Mô hình tổ tự quản thu gom rác thải sinh hoạt khu dân cư tại xã Nam Cường, thành phố Yên Bái Mô hình tổ tự quản thu gom rác thải sinh hoạt khu dân cư tại xã Nam Cường, thành phố Yên Bái là một mô hình điểm của dự án "Nâng cao nhận thức kiến thức bảo vệ môi trường cho cán bộ, hội viên nông dân" do Trung tâm Môi trường nông thôn - Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thực hiện tại xã Nam Cường từ tháng 11-2010. Hội Nông dân xã điều hành trực tiếp mọi hoạt động của tổ tự quản. Tổ tự quản thu gom rác thải của xã Nam Cường được chia thành năm nhóm nhỏ hoạt động tại bốn thôn của xã Nam Cường, gồm các ông bà trưởng thôn, cán bộ y tế thôn bản, hội viên phụ nữ của thôn làm công tác tuyên truyền, giám sát và năm người trực tiếp đi thu gom rác thải đều là hội viên Hội Nông dân. Để tổ thu gom rác hoạt động thuận tiện, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã cho xây dựng bốn bể đựng rác tại bốn thôn Nam Thọ, Đồng Phú, Cầu Đền, Đồng Tiến và hỗ trợ 10 chiếc xe chở rác chuyên dụng cùng quần áo bảo hộ lao động cho thành viên trực tiếp làm việc. Hằng ngày, cử đều đặn vào buổi sáng từ 4h30 - 6h và buổi chiều từ 4h - 6h, không kể thời tiết nắng mưa, thành viên ở 69 các nhóm đều đi làm đúng giờ, cần mẫn, chăm chỉ tại các khu vực mà mình được phụ trách. Trung bình mỗi ngày, mỗi nhóm thu gom khoảng 1m3 rác thải trên 6 km đường làng, ngõ xóm nơi mà không có công nhân của công ty vệ sinh môi trường làm việc. Sau đó, rác được tập kết ra khu vực thuận tiện để công ty công trình môi trường đô thị Yên Bái thu gom và vận chuyển về bãi rác. Từ khi có mô hình tổ tự quản thu gom rác thải sinh hoạt khu dân cư, từng con đường nhỏ tại xã Nam Cường đã sạch sẽ, vệ sinh hơn. Ý thức chấp hành các quy định về vệ sinh môi trường của người dân xã Nam Cường đã có chuyển biến tích cực. Từ chỗ vứt, đổ rác tùy tiện ra đường làng, ngõ xóm, nay bà con đã đổ rác vào thùng, tập kết rác đúng giờ theo quy định. Mô hình thu gom rác thải sinh hoạt ở xã Nam Cường, thành phố Yên Bái không chỉ góp phần tích cực trong công tác thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt nông thôn mà còn nâng cao nhận thức cho người dân, từng bước đưa công tác vệ sinh môi trường trở thành trách nhiệm của cả cộng đồng. b) Mô hình thu gom rác thải tập trung ở xã Triệu Thuận, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị Xã Triệu Thuận, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị đã thành lập chín tổ thu gom rác thải ở 70 tám khu dân cư với hơn 1.200 hộ gia đình do Hội Phụ nữ đảm nhận, mỗi tổ gồm hai người. Kinh phí đóng góp 4.000 đồng/tháng/hộ và tự gom rác thải vào một nơi. Các tổ thu gom một tháng hai lần vào ngày 14 và 29 đến từng nhà thu gom đưa đến bãi rác được Hợp tác xã Triệu Thuận xây dựng nằm ở xa khu dân cư. Với cách làm này, ý thức của người dân ngày càng cao và môi trường nông thôn được cải thiện đáng kể. Mô hình này hoạt động có hiệu quả, được huyện Triệu Phong đánh giá cao và Phòng Tài nguyên và Môi trường của huyện hỗ trợ thêm hai xe kéo rác chuyên dụng, 18 thùng rác, hỗ trợ xây dựng thêm hai hố xử lý rác. c) Mô hình Hợp tác xã nước sạch và vệ sinh môi trường Hiệp Hòa, Bắc Giang Năm 1998, Hợp tác xã nước sạch và vệ sinh môi trường Hiệp Hòa, Bắc Giang được thành lập và hoạt động theo mô hình hợp tác xã cổ phần trên cơ sở Luật hợp tác xã. Ban đầu, Hợp tác xã có 15 thành viên với 10 lao động hoạt động tập trung vào hai vấn đề bức xúc nhất của địa phương là rác thải, nước sạch và vệ sinh môi trường, lấy hiệu quả công việc để các cấp lãnh đạo và nhân dân ghi nhận, tự giác tham gia ủng hộ phong trào. Số vốn ban đầu của hợp tác xã là 30 triệu đồng (mỗi thành viên đóng góp 2.000.000 đồng); và nguồn 71 thu hằng tháng là từ lệ phí vệ sinh môi trường của các hộ dân, và phí cung cấp nước sạch. Với số vốn ít ỏi, hợp tác xã đã áp dụng những biện pháp giảm chi phí: chủ nhiệm hợp tác xã cho mượn nhà làm trụ sở, các phương tiện làm việc, liên lạc và một xe ô tô chở rác thải; tiền lương, lãi cổ phần năm 1998 xã viên tự nguyện đóng góp thêm vào tiền cổ phần để tạo điều kiện cho hợp tác xã mua sắm trang thiết bị. Mô hình hợp tác xã về rác thải, nước sạch và vệ sinh môi trường Hiệp Hòa đã được duy trì, đứng vững và trưởng thành trong nhiều năm qua, đến nay vẫn đang hoạt động tốt, được chính quyền sở tại và nhân dân nhiệt tình ủng hộ. Đây là điển hình tốt có thể học hỏi kinh nghiệm để phổ biến nhân rộng trên các địa phương khác. d) Mô hình thu gom, xử lý rác thải nông thôn dựa vào cộng đồng ở Quảng Trị Năm 2014, Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Trị đã phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Gio Hải, huyện Gio Linh xây dựng mô hình thu gom, xử lý rác thải nông thôn dựa vào cộng đồng với tổng kinh phí là 430 triệu đồng. Công trình gồm các hạng mục như xây dựng sáu điểm trung chuyển rác tập trung, đầu tư sáu xe trung chuyển rác, bốn thùng đựng rác tại các điểm sinh hoạt cộng đồng xã và trang bị áo quần bảo hộ lao động. 72 Để nâng cao nhận thức cho người dân trong việc thu gom, xử lý rác thải và giúp chính quyền địa phương quản lý, vận hành có hiệu quả công trình, sau khi tiến hành nghiệm thu, bàn giao công trình, Sở Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức lớp tập huấn thu gom, xử lý rác thải nông thôn dựa vào cộng đồng cho 150 hội viên Hội Phụ nữ xã với các nội dung chuyên đề như: Ô nhiễm môi trường do rác thải nông thôn và kỹ thuật phân loại rác thải; giới thiệu về hệ thống thu gom xử lý rác thải dựa vào cộng đồng; quy chế thu gom rác thải trên địa bàn xã Gio Hải. Cũng thông qua tập huấn, Chương trình đã phổ biến rộng rãi về những tác hại do ô nhiễm rác thải gây ra, góp phần nâng cao nhận thức cho người dân, đặc biệt là chị em phụ nữ trong việc thu gom, xử lý rác thải. 2. Mô hình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Đối với vùng nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường đã thực sự trở thành vấn đề cấp thiết. Do thiếu nguồn nước sạch và tập quán sinh hoạt không hợp vệ sinh đã gây ô nhiễm môi trường, làm phát sinh nhiều dịch bệnh ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng. Hiểu được tầm quan trọng của nước sạch và vệ sinh môi trường, ngày 29-4-1994, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 200/TTg về bảo đảm nước sạch và vệ sinh môi 73 trường nông thôn. Từ đó, ngày 29-4 đã trở thành một mốc ý nghĩa hết sức quan trọng và được chọn là ngày mở đầu cho "Tuần lễ quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường" được tổ chức hàng năm trên phạm vi cả nước. Theo đó, Chương trình mục tiêu quốc gia về cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đã được xây dựng và triển khai thực hiện. Tính đến hết năm 2014, tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sạch là 84,5%, tỷ lệ hộ dân sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 63%. Đã có các mô hình để huy động vốn đầu tư cho công trình vệ sinh, nước sạch nông thôn từ ngân sách nhà nước hoặc lồng ghép các chương trình khác. Đã cơ bản hoàn thành quy hoạch tổng thể cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn toàn quốc, chi tiết cho từng vùng, từng tỉnh. Về khoa học công nghệ đã xác định được những giải pháp khoa học công nghệ trong cấp nước và vệ sinh tùy theo điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đặc điểm dân cư, tập quán và truyền thống sử dụng nước của địa phương (mô hình nước tự chảy, nước giếng khoan, giếng khơi...), đặc biệt đã thực hiện nhiều giải pháp cần thiết để cấp nước cho các vùng khó khăn, vùng lũ lụt, từng bước bảo đảm chất lượng nước, độ bền vững của công trình và đặc biệt bước đầu đã hình thành một thị trường nước sạch. 74 Nhiều mô hình về tổ chức quản lý, xây dựng, triển khai các giải pháp khoa học công nghệ, vận hành các công trình cấp nước cũng như vệ sinh môi trường nông thôn như các tổ dịch vụ nước sạch, tổ dịch vụ vệ sinh của hợp tác xã nông nghiệp, Ủy ban nhân dân xã, hợp tác xã dịch vụ tư nhân, thành lập trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh các tỉnh... Đặc biệt sự tham gia của cộng đồng vào chương trình nước sạch vệ sinh nông thôn đã có nhiều tiến bộ vượt bậc. Vai trò của người sử dụng và vai trò quản lý đã được nâng cao, phạm vi thu hút sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn cũng ngày càng rộng rãi, từ việc đề xuất nhu cầu lựa chọn quy mô loại hình, hình thức tham gia vốn đầu tư, giới thiệu người thay mặt cộng đồng để quản lý và điều hành công trình. a) Mô hình hộ nông dân thực hiện vệ sinh môi trường bằng hầm biogas và tự sản xuất phân bón hữu cơ trên nền than bùn và dịch thải từ hầm biogas Mô hình này được áp dụng ở nhiều nơi như huyện Ứng Hòa (Hà Nội), Bình Lục và Kim Bảng (Hà Nam), Vân Hà (Bắc Giang), Nam Đàn (Nghệ An), Tiền Giang, Bến Tre và ở nhiều địa phương khác. 75 Ích lợi khi sử dụng mô hình này là lượng phân gia súc và phân người có thể phân hủy sinh ra khí sinh vật biogas (0,4-0,6m3/kg nguyên liệu hữu cơ khô) làm năng lượng phục vụ cho đun nấu, còn dịch thải từ hầm biogas có thể trộn với một lượng lớn mùn rác và phối liệu than bùn đã qua xử lý ban đầu tạo thành phân hữu cơ sinh học. Một gia đình bốn nhân khẩu, nuôi từ hai đến bốn con lợn, con bò nếu có hầm biogas dung tích 6 m3 - 8 m3, hàng năm sẽ không phải sử dụng rơm rạ, cây ngô để làm chất đốt mà lại có đủ phân bón ruộng, nhà cửa sạch sẽ không có mùi hôi từ khu vực chăn nuôi. Chỉ sau một năm có thể hoàn lại vốn đầu tư và sau đó có lãi hàng triệu đồng do tự sản xuất phân hữu cơ sinh học. Mô hình này mang lại lợi ích rất rõ ràng, nếu phát triển, nhân rộng sẽ có tác dụng rất lớn tới các vùng nông thôn Việt Nam, có thể xóa bỏ tập quán dùng phân tươi, phân chuồng không qua xử lý gây mầm bệnh cho con người, gia súc và giảm thiểu lượng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, tiếp cận với nền nông nghiệp sạch, khai thác tài nguyên đất đai một cách bền vững (sử dụng than bùn). Đưa mô hình này lên trung du, miền núi sẽ hạn chế được nạn phá rừng, cải tạo đất cung cấp phân hữu cơ để trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc. Đưa mô hình vào vùng gò đồi, đất cát sẽ phát huy tác dụng cải tạo đất bạc màu, 76 tạo công ăn việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, để xây dựng mô hình này cần có những điều kiện nhất định. Trước hết phải có chăn nuôi đủ mức để tạo ra nguồn nguyên liệu phù hợp với quy mô của hầm biogas dự kiến xây dựng, thứ đến phải có đầu tư ban đầu nhất định trong việc xây hầm và phải có kỹ thuật nhất định mới bảo đảm hầm hoạt động có kết quả. Tuy nhiên, ở các vùng nông thôn nước ta hiện nay, việc kết hợp xây hầm biogas tạo nhiên liệu đun nấu, thắp sáng với giữ gìn vệ sinh môi trường đã và đang phát triển mạnh. Theo kết quả điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2013, tại 54 tỉnh thành trên cả nước, hiện có 3.950 trang trại trên tổng số 12.427 trang trại được điều tra có xây dựng hầm biogas, chiếm 31,79%, trong đó có 196 trang trại xây dựng công trình có thể tích trên 300 m3. b) Mô hình xã hội hóa công tác cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường Tiêu biểu cho loại mô hình này là các hợp tác xã cổ phần dịch vụ bảo vệ môi trường như: Hợp tác xã Môi trường Thành Công (Hà Nội); Hợp tác xã Nước sạch Bình Tây (Tiền Giang); Hợp tác xã Nước sạch và vệ sinh môi trường Hiệp Hòa, Hợp tác xã Môi trường Đồng Lợi (Bắc Giang); Hợp tác xã Chí Linh (Hải Dương)... Đến năm 2013, cả 77 nước có 19.500 hợp tác xã trong đó có 274 hợp tác xã dịch vụ bảo vệ môi trường bao gồm: 154 hợp tác xã chuyên về môi trường (cung cấp nước sạch, thu gom và xử lý rác thải) và 120 hợp tác xã tham gia hoạt động bảo vệ môi trường. Các hợp tác xã kiểu này đã phát huy nội lực của bà con nông dân trong việc huy động vốn ban đầu xây dựng hợp tác xã. Những hợp tác xã do chính người dân góp vốn và đứng ra làm chủ, tự tổ chức, quản lý hợp tác xã nên đã có tác dụng rất tích cực, vừa tạo cơ sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển mô hình, vừa mang lại nguồn nước sạch, giữ được vệ sinh môi trường cho chính gia đình mình. Vì vậy, loại mô hình này đang được nhiều địa phương chú ý. Nếu vận dụng được nguyên lý Nhà nước và nhân dân cùng làm thì việc xây dựng các mô hình này sẽ có nhiều thuận lợi. c) Mô hình cấp nước cho miền núi Mô hình này được áp dụng tại một số huyện của tỉnh Lào Cai; các huyện Văn Chấn, Văn Yên, Lục Yên, tỉnh Yên Bái; các huyện Tân Lạc, Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Người dân ở đây đã tự xây lu để tích trữ nước mưa, khi mà việc đào, khoan giếng lấy nước ngầm gặp khó khăn về kinh tế và địa chất. Việc xây lu tích chứa nước giá thành rẻ, chỉ bằng 30% đến 40% so với việc xây dựng bể. Kỹ 78