"Họp Mặt PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Họp Mặt PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo ANNE ENRIGHT Phạm Viêm Phương & Huỳnh Kim Oanh dịch —★— HỌP MẶT • THE GATHERING • NHÃ NAM & NXB VĂN HỌC ebook©vctvegroup | 20-03-2021 Giới Thiệu Chín đứa con còn sống sót của nhà Hegarty họp mặt tại Dublin dự tang lễ của Liam, một người con vừa chết đuối. Veronica, người em gái, đã tới canh cái xác, bầu bạn với nó, và canh cả bí mật cô từng cùng anh chia sẻ: một chuyện đã xảy ra trong nhà bà ngoại họ mùa đông năm 1968, một bí mật tăm tối đã khiến cuộc đời họ vĩnh viễn biến hình. Trong lúc Enright lần theo những con đường của sự phản bội và cứu chuộc qua ba thế hệ, bà đã cho thấy ký ức có thể thay đổi đến đâu, và những bí mật có thể gây ra chừng nào đau đớn. Ở tác phẩm này, cũng như mọi tác phẩm khác mà Enright từng viết, trí tuệ đặc biệt của bà đã vặn xoắn thế giới một chút rồi trả lại nó cho chúng ta trong ánh sáng mới và không thể lãng quên. “Trí tuệ đến liều lĩnh, khiếu hài hước hoang dại, chậm rãi trong diễn tiến, không một chút ủi an: tiểu thuyết của Enright rất tăm tối, nhưng đó cũng là điều khiến nó lấp lánh.” – New York Times Book Review “Tiết chế đến kinh ngạc và cách nhìn không tì vết.” – Los Angeles Times “Giọng kể của cuốn sách phảng phất âm hưởng nỗi đau lạnh lùng đầy giận dữ kiểu Joan Didion, nhưng lòng trắc ẩn ấm áp có lẽ gợi nhớ Người Dublin của James Joyce.” – Washington Post “Enright đã viết một tiểu thuyết nghiệt ngã mà trang nhã tuyệt vời, đưa chủ đề Ireland quen thuộc là sự bất thường trong gia đình và thói đỏng đảnh của ký ức vào vùng lãnh địa được đắp thêm thịt da bằng một sự khách quan chính xác tới mức khiến nó lại gần như tràn đầy lòng thương…” – Los Angeles Times “Một cái nhìn trực diện vào một gia đình đau thương… một tiểu thuyết rất đáng đọc và đáng hài lòng.” – Ngài Howard Davies, ❀ ❀ ❀ Chủ tịch Ban Giám khảo giải Man Booker “Mê hoặc, lạnh lùng, sâu sắc.Họp mặtlà một cái nhìn ám ảnh vào một gia đình tan vỡ, bị bóp nghẹt bởi hàng thế hệ đau thương, thất vọng, vật lộn thỏa hiệp với điều không thể thay thế.” – Entertainment Weekly 1 Tôi muốn ghi lại những gì đã xảy ra tại nhà bà ngoại tôi hồi mùa hè năm tôi tám chín tuổi gì đó, nhưng tôi không chắc liệu nó có thực sự xảy ra không. Tôi cần làm chứng cho một sự kiện không chắc chắn. Tôi cảm thấy nó kêu gào trong tôi - cái điều có thể đã không xảy ra này. Thậm chí tôi không biết gọi tên nó là gì. Chắc có thể gọi nó là một tội lỗi về xác thịt, nhưng xác thịt đã từ lâu tan rã và tôi không chắc nỗi đau nào có thể còn day dứt trong xương. Anh Liam của tôi thích chim và, giống như mọi cậu trai khác, anh thích xương những con thú chết. Tôi không có con trai, vì vậy khi đi ngang qua bất kỳ cái đầu lâu hay bộ xương nhỏ nào tôi cũng đều chậm bước và nghĩ về anh ấy, về chuyện anh ấy từng mê thích những nét phức tạp của chúng. Đôi cánh già nua của một con ác là thò ra khỏi mớ lông bù xù; chắc mập và nhẹ và sạch. Đó là từ chúng ta dùng cho xương: Sạch. Tôi bảo các con gái mình tránh xa cái sọ chuột trong rừng hoặc con chim sẻ chết đang trải nắng mưa cạnh bức tường khu vườn, dĩ nhiên. Tôi không chắc tại sao. Dù vậy, đôi khi chúng tôi tìm thấy, trên bãi biển, một cái mai mực trắng tinh khiết đến độ tôi phải tuồn nó vào túi áo, và tôi an ủi tay mình bằng cách mân mê cái vòm cong trắng bí mật của nó. Bạn không thể phỉ báng người chết, tôi nghĩ, bạn chỉ có thể an ủi họ. Vì vậy tôi tặng Liam bức tranh này: hai đứa con gái của tôi đang chạy trên rìa cát bãi biển lổn nhổn đá, dưới bầu trời vần vũ sà xuống thấp, vai áo khoác hất ra sau. Sau đó tôi xóa nó. Tôi nhắm mắt và buông mình lăn theo tiếng tĩnh điện ầm ĩ của biển cả. Khi tôi mở mắt ra, đó là để gọi mấy đứa con gái trở lại xe. Rebecca! Emily! Điều đó không quan trọng. Tôi không biết sự thật, hoặc tôi không biết cách kể sự thật. Tôi chỉ có những câu chuyện, những ý nghĩ về đêm, những niềm tin bất ngờ đẻ ra trong tình trạng không chắc chắn. Tôi chỉ có những lời cuồng loạn, giống vậy hơn. Bà yêu ông ấy! Tôi nói. Bà hẳn đã yêu ông ấy! Tôi chờ cái ý nghĩa mà bình minh mang đến, khi bạn không ngủ. Tôi ở lại dưới nhà trong khi cả gia đình thở đều ở phía trên và tôi viết ra điều này, tôi trải chúng ra thành những câu đẹp, tất cả những xương trắng, sạch của tôi. 2 Có những ngày tôi không nhớ được mẹ tôi. Tôi nhìn tấm ảnh của bà và bà vuột khỏi tôi. Hoặc tôi tới thăm bà một ngày Chủ nhật, sau bữa trưa, chúng tôi có một buổi chiều thú vị, rồi khi rời đi tôi nhận thấy bà đã chảy qua tôi như nước. “Tạm biệt,” bà nói, đã mờ đi. “Tạm biệt, con gái yêu,” và bà rướn khuôn mặt già nua mềm mại lên, nhận một cái hôn. Nó vẫn khiến tôi nổi cơn thịnh nộ. Cái kiểu, khi tôi quay đi, có vẻ như bà biến mất, và khi nhìn lại, tôi chỉ thấy những đường viền. Tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ cứ thế đi qua bà trên phố, nếu bà từng mua một chiếc áo khoác khác. Nếu mẹ tôi phạm tội ác thì sẽ không có nhân chứng - bà là bản thân sự lãng quên. “Ví của mẹ đâu?” Bà thường nói thế hồi chúng tôi còn nhỏ - hoặc có khi là chìa khóa của bà, hay mắt kính của bà. “Có ai thấy ví của mẹ không?”, câu này gần như ở đó, trong mấy giây ấy, khi bà đi từ hành lang đến phòng khách, đến nhà bếp và quay trở lại. Ngay từ hồi đó chúng tôi đã tránh nhìn bà mà nhìn khắp mọi nơi khác; bà là một nỗi kích động đằng sau chúng tôi, một kiểu tội lỗi tập thể, khi chúng tôi tản ra quanh phòng, biết rằng mắt chúng tôi sẽ lướt qua mà không thấy cái ví, màu nâu và căng tròn, cho dù nó rành rành nằm đó. Rồi Bea sẽ tìm thấy nó. Luôn luôn có một đứa con có thể không chỉ nhìn, mà còn thấy. Đứa lặng lẽ nhất. “Cám ơn, con yêu.” Công bằng mà nói, mẹ tôi là người lãng đãng đến nỗi có thể bà thậm chí không thấy chính bà. Bà có thể rê đầu ngón tay qua một lũ con gái xếp hàng trong tấm ảnh cũ mà không nhận ra được chính bà. Và, trong số tất cả con cái bà, tôi là đứa trông giống mẹ bà, bà ngoại Ada của tôi, nhất. Chắc phải làm bà rối trí. ❀ ❀ ❀ “Ô, xin chào,” bà nói khi mở cửa tiền sảnh, ngày tôi nghe tin về Liam. “Xin chào. Con yêu.” Bà có thể nói y như thế với con mèo. “Vào đi. Vào đi,” trong lúc bà đứng ngay ngưỡng cửa, không bước tránh cho tôi qua. Dĩ nhiên bà biết tôi là ai, chỉ có điều bà quên mất tên tôi. Mắt bà đảo từ bên này sang bên kia trong khi gạch lần lượt tên từng đứa ra khỏi danh sách. “Chào mẹ,” tôi nói, chỉ để cho bà một manh mối. Và tôi lách qua bà vào tiền sảnh. Ngôi nhà này biết tôi. Luôn luôn nhỏ hơn tôi nghĩ; những bức tường sát nhau hơn và phức tạp hơn những bức tường ta nhớ được. Chỗ này luôn luôn quá nhỏ. Sau lưng tôi, mẹ tôi mở cửa phòng khách. “Con uống thứ gì không? Một tách trà nhé?” Nhưng tôi không muốn vào phòng khách. Tôi không phải khách. Đây cũng là nhà của tôi. Tôi đã ở trong nó, trong khi nó lớn dần, khi phòng ăn bị tống vào căn bếp, khi căn bếp nuốt chửng khu vườn phía sau. Đây là nơi những giấc mơ của tôi thường vẫn diễn ra, kể cả bây giờ. Không phải là tôi còn muốn lại sống ở đây. Chỗ này chỉ toàn những khu mở rộng chứ không ra cái nhà. Ngay cả cái phòng xép bên cạnh cửa bếp cũng có một cánh cửa ở cuối phòng, cho nên ta phải luồn lách đi qua đống áo khoác và máy hút bụi để vào nhà vệ sinh tầng một. Ta không thể bán chỗ này, đôi khi tôi nghĩ, trừ phi như là bán đất. San bằng nó và bắt đầu lại từ đầu. Nhà bếp vẫn bốc cái mùi cũ - nó xộc vào đáy sọ tôi, rất mơ hồ và ghê tởm, dưới lớp sơn vàng nhạt tươi mới. Những cái tủ đầy khăn trải giường cũ; lớp cách nhiệt bao quanh hệ thống sưởi đầy bụi bặm và nom như bị nướng chín; chiếc ghế cha tôi thường ngồi, tay vịn sáng bóng và lạnh vì chất thải con người trong nhiều năm. Nó làm tôi hơi nghẹn, và rồi tôi không ngửi thấy nó nữa. Nó ở đây, thế thôi. Nó là mùi của chúng tôi. Tôi bước tới kệ bếp đằng kia nhấc ấm nước lên, nhưng khi tôi đi hứng nước vào ấm, ống tay áo tôi vướng vào vòi nước đang chảy nên tay áo liền sũng nước. Tôi vẩy bàn tay, rồi đến cả cánh tay, và khi ấm đã đầy và cắm điện rồi tôi liền cởi áo khoác, lộn tay áo ướt ra mà vỗ vỗ trong không khí. Mẹ tôi nhìn cảnh kỳ lạ này, như thể nó gợi bà nhớ lại điều gì. Sau đó bà bước tới chỗ cái đĩa đựng thuốc, trên kệ bếp đằng này. Bà uống thuốc, từng viên một, với cái lưỡi mềm nhão và lơ đãng. Bà ngước cằm lên nuốt không cần nước trong khi tôi lấy bàn tay chùi cánh tay ướt, rồi sau đó lùa bàn tay ướt qua mái tóc. Viên thuốc nhộng xanh cuối cùng vào trong miệng bà và bà đứng yên, vận động cổ họng. Bà nhìn ra cửa sổ một thoáng. Rồi bà quay sang tôi, lơ đãng. “Con thế nào, cưng?” “Veronica!” Tôi chỉ muốn hét chữ đó vào bà. “Mẹ đã đặt tên con là Veronica!” Giá mà bà trở nên rõ hình dáng, tôi nghĩ. Lúc đó tôi có thể bắt lấy bà và nói cho bà biết sự thật của tình huống, mức nghiêm trọng của việc bà đã làm. Nhưng bà vẫn mơ hồ, không thể chạm đến, được yêu thương quá nhiều. Tôi đến để nói với bà rằng người ta đã tìm thấy Liam. “Con ổn chứ?” “Ôi, mẹ.” Lần cuối tôi khóc trong căn bếp này là năm mười bảy tuổi, đã là quá tuổi được phép khóc, dù có thể chưa quá tuổi trong gia đình tôi, nơi mọi người dường như ở mọi độ tuổi, cùng một lúc. Tôi chùi cẳng tay ướt dọc theo chiếc bàn gỗ thông vàng, với lớp bóng như nhựa rất dày của nó. Tôi quay sang bà và sửa lại nét mặt để nói cái câu theo nghi thức (tôi nhận thấy cũng có một nỗi hân hoan nhất định trong chuyện này) nhưng, “Veronica!” bà nói, hết sức bất ngờ và bà đi tới - hầu như xông tới - chỗ ấm nước. Bà đặt tay lên quai ấm bằng nhựa cứng khi những bong bóng nổi dày lên sát thành ấm, và bà nhấc nó lên, phích vẫn còn cắm, rót một ít nước vào để làm nóng bình trà. Thậm chí anh còn không thích bà. Có một vết cắt trên tường, đằng kia cạnh cửa, nơi Liam ném con dao vào mẹ chúng tôi, và mọi người đã cười ầm lên mà quát tháo anh. Nó ở đó giữa những vệt sứt sẹo và vết bẩn vô danh khác. Nổi tiếng. Cái lỗ mà Liam đã tạo ra, sau khi mẹ tôi hụp tránh, và trước khi mọi người bắt đầu la hét. Bà đã có thể nói gì với anh? Bà có thể khiêu khích gì anh ấy - người phụ nữ dễ thương này? Và lúc đó Emest, hoặc Mossie, một trong những người bạo tay, giằng co tống anh ra cửa sau và vật xuống cỏ đá cho một trận. Chúng tôi cười vì cả chuyện đó. Và ông anh đã mất của tôi, Liam, cũng cười: kẻ ném dao, kẻ đang bị đá, anh cũng cười ầm, và anh chộp lấy mắt cá chân anh mình vật xuống cỏ. Cả tôi nữa - tôi cũng cười ầm, theo tôi nhớ được. Mẹ tôi làu bàu chút đỉnh, trước cảnh đó, và lại tiếp tục công việc của bà. Chị Midge của tôi nhặt con dao lên, dứ dứ nó ra ngoài cửa sổ về phía bọn con trai đang vật nhau, trước khi ném vào bồn đầy chén bát dơ. Kể cả nếu không được gì khác, cả nhà tôi cũng đã có trò vui. Mẹ tôi đậy nắp bình trà và nhìn tôi. Tôi là một khối run rẩy từ hông đến đầu gối. Có một sức nóng khủng khiếp, một sự lỏng chùng trong ruột gan khiến tôi muốn thọc hai nắm tay vào giữa hai đùi. Đó là một cảm giác gây bối rối, đâu đó giữa trạng thái ỉa chảy và tình dục - một nỗi sầu khổ hầu như thuộc cơ quan sinh dục. Lần cuối cùng tôi khóc ở đây hẳn là về một bạn trai nào đó. Những giọt nước mắt gia đình tầm thường chẳng có nghĩa gì trong nhà bếp này; chúng chỉ là một phần của sự ồn ào chung. Điều duy nhất quan trọng là, Anh ấy gọi điện, hoặc Anh ấy không gọi. Thật là thảm họa. Kiểu thảm họa sẽ khiến ta cào cấu các bức tường sau năm chai rượu táo. Anh ấy bỏ mình rồi. Gập người lại, ôm lấy bụng; tru tréo và ụa khan. Thậm chí anh ấy còn không gọi điện để lấy lại khăn quàng của mình nữa. Cậu trai với đôi mắt xanh lam. Bởi vì chúng tôi cũng - áng chừng - là những tình nhân tuyệt vời, những người nhà Hegarty. Toàn bộ cái trò làm tình bất ngờ, mắt-đối-mắt và không bao giờ, không bao giờ buông xuôi. Trừ những người vốn hoàn toàn không thể yêu. Cũng là hầu hết chúng tôi, theo một cách nào đó. Cũng là hầu hết chúng tôi. “Là chuyện về Liam,” tôi nói. “Liam?” bà nói. “Liam?” Mẹ tôi có mười hai đứa con và - như bà đã nói với tôi vào một ngày khó chịu - bảy lần sẩy thai. Những lỗ hổng trong đầu bà không phải do lỗi của bà. Dù vậy, tôi không bao giờ tha thứ cho bà điều nào cả. Chỉ là không thể. Tôi không tha thứ cho bà vì chị Margaret mà chúng tôi gọi là Midge, cho đến khi chị chết, ở tuổi bốn mươi hai, do ung thư tụy. Tôi không tha thứ cho bà chuyện cô chị xinh đẹp lưu lạc Bea. Tôi không tha thứ cho bà chuyện ông anh cả Emest, một linh mục ở Peru, cho đến khi anh trở thành một linh mục sa ngã ở Peru. Tôi không tha thứ cho bà chuyện anh Stevie, một thiên thần bé nhỏ trên thiên đường. Tôi không tha thứ cho bà toàn bộ chuỗi lê thê Midge, Bea, Ernest, Stevie, Ita, Mossie, Liam, Veronica, Kitty, Alice và cặp song sinh, Ivor với Jem. Bà đã đặt cho chúng tôi những cái tên vĩ đại như thế - không có kiểu Jimmy, Joe hay Mick tầm thường. Những lần sẩy thai có lẽ được gọi bằng con số, kiểu như “1962” hoặc “1964”, dù có lẽ bà cũng đặt tên cho họ, trong lòng bà (Serena, Aifric, Mogue). Tôi cũng không tha thứ cho bà chuyện những đứa con đã chết đó. Cái kiểu bà thậm chí không có một cuốn sổ tay, để có thể biết đứa nào đã tiêm chủng bệnh gì, khi nào, thuốc gì. Tôi có phải là người phụ nữ duy nhất ở Ireland vẫn có khả năng bị nhiễm sốt bại liệt không? Không ai biết được. Tôi không tha thứ mớ quần áo cũ bất tận từ các anh chị, chuyện đồ chơi thiếu thốn, và chuyện Midge đét đít chúng tôi bởi vì mẹ chúng tôi quá hiền lành, hoặc bận rộn, hoặc vắng mặt, hoặc mang thai nên chẳng buồn quan tâm. Bà mẹ ngọt ngào của tôi. Thiếu nữ không tuổi của tôi. Không, khi thẳng thắn đối mặt với chuyện này, tôi không tha thứ cho bà chuyện tình dục. Sự ngốc nghếch của việc làm tình quá nhiều. Cởi mở và mù quáng. Những hậu quả, mẹ ơi. Những hậu quả. “Liam,” tôi nói, cực kỳ dữ dội. Và cuộc bạo loạn trong nhà bếp dịu xuống khi tôi làm nhiệm vụ của mình, tức là nói với một con người về một con người khác, những chi tiết ít ỏi và tỉ mỉ về chuyện họ gặp kết cục thế nào. “Con e là anh ấy chết rồi, mẹ ạ.” “Ô,” bà nói. Đúng như tôi chờ bà nói. Đúng là âm thanh tôi biết sẽ thốt ra từ miệng bà. “Ở đâu?” bà nói. “Nước Anh, mẹ ạ. Chỗ anh ấy ở. Họ tìm thấy anh ấy ở Brighton.” “Ý con là sao?” bà hỏi. “Ý con nói ‘Brighton’ là sao?” “Brighton ở Anh, mẹ ạ. Đó là một thị trấn ở miền Nam nước Anh. Nó gần London.” Và lúc đó bà đánh tôi. Tôi không nghĩ trước đây bà từng đánh tôi. Sau này tôi cố nhớ lại, nhưng tôi thực sự nghĩ rằng bà đã nhường việc đánh lại cho người khác: dĩ nhiên là Midge, người luôn luôn chùi rửa thứ gì đó, và vì thế khi đi ngang qua là sẽ quất miếng giẻ lau vào ta, vào ngay mặt, hoặc cổ, hoặc bắp chân ta, và mùi của cái giẻ đó, tôi luôn luôn nghĩ, tệ hơn cả cái đau. Mossie, một kẻ loạn thần kinh. Ernest, mẫu người trầm tư, thì ưa dùng đến lòng bàn tay. Càng xuống đến người nhỏ tuổi hơn, việc đánh đòn càng mất uy thế và tàn dần, tuy nhiên bản thân tôi cũng hơi có một thời như thế, với Alice và hai đứa song sinh, Ivor-và-Jem. Nhưng mẹ tôi đặt một tay lên bàn, và bà vung tay kia ra để chụp lấy một bên đầu tôi. Không đau lắm. Không đau gì cả. Rồi bà quay người lại, bấu lay kệ bếp, và bà lơ lửng ở đó, giữa bệ bếp và cái bàn, đầu bà rũ xuống giữa hai cánh tay sải rộng. Trong giây lát bà im lặng, rồi một âm thanh khủng khiếp phát ra từ bà. Hết sức êm ái. Nó có vẻ bốc lên từ lưng bà. Bà ngẩng đầu lên và quay sang tôi, để tôi có thể chứng kiến khuôn mặt bà; vẻ mặt của bà, lúc này, nét mặt ta sẽ vĩnh viễn không bao giờ còn thấy lại. Đừng nói với mẹ. Đó là điệp khúc thời thơ ấu của chúng tôi, một trong những điệp khúc thời thơ ấu. Đừng nói với mẹ. Câu này của Midge, nhiều nhất, nhưng cũng của bất cứ ai trong số những anh chị lớn hơn. Nếu có thứ gì đó bể hoặc bị đổ ra, nếu Bea không về nhà hoặc Mossie lên sống trên gác thượng, hay Liam chơi LSD, hoặc Alice quan hệ tình dục, hay Kitty chảy máu xối xả vào bộ đồng phục đi học mới của nó, hay một lô cú điện thoại về việc chậm trễ, sự ùn tắc, những rắc rối về tiền xe buýt và tiền taxi, và một lần, kinh khủng nhất, đêm Liam ở trong xà lim. Không tin nhắn nào được chuyển tiếp đi: cuộc thảo luận thì thào trong hành lang, Đừng nói với mẹ, bởi vì “mẹ” sẽ - thế nào nhỉ? Héo úa? “Mẹ” sẽ lo. Mà điều đó với tôi có vẻ đúng đắn. Xét cho cùng, cái gia đình này do chính bà tạo ra. Tất cả đều xuất phát từ bà - một cách đơn độc và đầy đau đớn. Và cha tôi nói điều đó nhiều hơn bất cứ ai; đều đều, quân tử, Không cần nói với mẹ tụi bay lúc này, như thể thực tế chiếc giường của ông là toàn bộ thực tế mà người phụ nữ này đáng phải chịu đựng. Sau khi mẹ tôi với qua đánh tôi, lần đầu tiên, ở tuổi bảy mươi so với tuổi ba mươi chín của tôi, đầu óc tôi trào dâng, hầu như nổ tung, vì sự bất công của toàn bộ chuyện này. Tôi nghĩ mình sẽ chết vì bất công, tôi nghĩ nó sẽ được viết trên giấy khai tử của tôi. Rằng nhiệm vụ này cần chuyển giao cho tôi, trước hết bởi vì tôi là người cẩn thận, dĩ nhiên rồi. Tôi có một chiếc xe, một hóa đơn điện thoại dễ chịu. Tôi có những đứa con gái không cần phải cãi cọ xem đứa nào đang mặc lộn quần lót của đứa nào vào buổi sáng trước khi đến trường. Vì vậy tôi là người phải lái xe qua nhà mẹ, nhấn chuông cửa và tự đặt mình vào vị trí tiện bị đánh đòn ở mé bên kia cái bàn nhà bếp của bà. Đâu phải tôi có được những thứ này một cách tình cờ - ông chồng, chiếc xe, hóa đơn điện thoại, những đứa con gái. Vì vậy tôi tức giận với từng người trong đám anh chị em tôi, trong đó có Stevie, đã chết từ lâu, và Midge, vừa mới chết, và tôi đang nổi khùng lên với Liam vì anh cũng chết, ngay lúc này, khi tôi cần anh nhất. Tôi đã lạc khỏi đầu óc mình, theo nghĩa đen. Tôi quá giận dữ đến độ tôi có một tầm nhìn khác xuống nhà bếp, một tầm nhìn từ trên cao xuống: tôi, với một tay áo ướt xắn lên, cánh tay trần nằm bẹp trên bàn, và ở bên kia bàn, mẹ tôi, như đang đóng vào thập giá, đầu rũ xuống trên cái cổ trắng để trần hình tam giác nhỏ của bà. Đây là nơi Liam hiện diện. Trên đây. Tôi cảm thấy anh như cảm thấy một tiếng la lớn trong phòng. Đây là điều anh thấy; cánh tay trần của tôi, mẹ chúng tôi đang chơi đi tàu bay giữa quầy bếp và chiếc bàn. Bay thấp. “Mẹ.” Âm thanh không ngừng thoát ra từ miệng bà. Tôi giơ cánh tay lên. “Mẹ.” Bà không biết người ta đã làm thay bà bao nhiêu chuyện trong sáu ngày kể từ cú điện thoại đầu tiên từ nước Anh đó. Bà được miễn tất cả chuyện đó: Kitty chạy khắp London và tôi khắp Dublin tìm những hồ sơ nha sĩ; chiều cao và màu tóc của anh, và hình xăm trên vai phải của anh. Không chi tiết nào được đọc lại cho bà như đã được đọc cho tôi, hồi sáng nay, bởi một nữ cảnh sát rất tử tế ghé tận nhà, vì tôi là người yêu anh nhất. Tôi thấy thương cho các nữ cảnh sát - họ chỉ được phân cho những bà con, gái điếm, và những tách trà. Lúc này nước bọt nhểu xuống từ môi dưới của mẹ tôi, thành từng giọt và sợi. Miệng bà vẫn há. Bà muốn ngậm lại nhưng hai môi bà không chịu ngậm và, “Ga, ga,” bà kêu. Tôi phải đi tới chạm vào bà. Tôi phải nắm hai vai bà nâng lên nhẹ nhàng và đưa bà đi. Tôi sẽ ép hai cánh tay bà xuôi xuống thân người trong lúc tôi đẩy và dẫn bà đến ghế, và cho đường vào tách trà của bà, dù bà không dùng đường. Tôi sẽ làm tất cả chuyện này để tỏ lòng tôn trọng một nỗi sầu khổ sinh học, ngu ngốc, phi thời gian. Bà sẽ khóc y như vậy nếu là Ivor, ít hơn nếu là Mossie, nhiều hơn nếu là Emest, và khóc không nguôi, như tất cả chúng tôi sẽ khóc, nếu là Jem yêu quý. Bà sẽ khóc bất chấp là đứa con trai nào. Tôi chợt nhận ra rằng có điều gì không đúng ở đây, bởi vì tôi mới là người đã mất một thứ không thể thay thế được. Bà vẫn còn rất nhiều. Tôi và Liam cách nhau mười một tháng. Chúng tôi nối đuôi nhau chui ra khỏi bà, đứa này tiếp đứa kia, nhanh như một vụ bề hội đồng, nhanh như một sự phản bội. Đôi khi tôi nghĩ chúng tôi chồng chéo lên nhau trong đó, có điều là anh ấy ra sớm, để chờ bên ngoài. “Mẹ ổn không? Mẹ uống một tách trà nghen?” Bà nhìn tôi: rất bé nhỏ, trong chiếc ghế to. Bà ném cho tôi một cái nhìn khó chịu rồi quay đầu đi. Nó giáng xuống tôi như một lời nguyền rủa. Tôi là ai mà dám chạm vào, dám coi sóc và bỏ mặc, thứ chất liệu tình yêu của một bà mẹ? Tôi là Veronica Hegarty. Đang đứng tại bồn rửa bát trong bộ đồng phục học sinh; có lẽ mười lăm, mười sáu tuổi, than khóc một người bạn trai vừa đánh mất và được an ủi bởi một phụ nữ mà, dù cố gắng hết sức, cũng không thể nhớ được tên tôi. Tôi là Veronica Hegarty, ba mươi chín, múc một muỗng đường vào tách trà cho người phụ nữ dễ thương nhất Dublin, người vừa mới nhận tin tức kinh khủng. “Con vừa định gọi cho bà Cluny.” “Gọi bà ta à?” bà nói. “Gọi bà ta à?” Bởi vì bà Cluny sống ngay nhà bên cạnh. “Phải, mẹ ạ,” và bất ngờ bà nhớ ra rằng con trai bà đã chết. Bà kiểm tra lần nữa xem liệu điều đó có thật không và tôi gật đầu theo một cách giả tạo. Không ngạc nhiên gì chuyện bà không tin tôi. Chính tôi cũng khó tin được điều đó. 3 Những mầm mống cho cái chết của anh trai tôi đã được gieo cách đây nhiều năm. Người trồng chúng đã chết từ lâu - ít nhất tôi nghĩ thế. Vì vậy, nếu muốn kể câu chuyện của Liam, tôi phải bắt đầu từ lâu trước khi anh ra đời. Và, thực tế, đấy là câu chuyện tôi thích được viết ra: lịch sử là một nơi thật lãng mạn, với những người đánh ngựa thuê, những trẻ đường phố và giày ống cài nút một bên. Giá mà nó chịu đứng yên, ổn định một chỗ, tôi nghĩ. Giá mà nó thôi không trượt quanh trong đầu tôi. Được rồi. Lambert Nugent gặp bà ngoại Ada Merriman của tôi lần đầu tiên trong phòng chờ khách sạn năm 1925. Đây là thời khắc tôi chọn. Lúc đó là bảy giờ tối. Bà mười chín, ông hăm ba. Bà đi vào phòng chờ và không nhìn quanh mà ngồi vào chiếc ghế có lưng dựa hình ô van gần cửa. Lamb Nugent nhìn bà qua những chỉ dẫn và lũ lượt những người mới tới và những chỉ dẫn khi bà cởi găng tay trái ra trong lúc sau đó tháo găng bên phải. Bà kéo cái lắc tay nhỏ dưới tay áo ra, và bàn tay cầm đôi găng đặt trong lòng. Bà đẹp, dĩ nhiên. Thật khó nói Lamb Nugent trông ra sao, ở tuổi hăm ba. Ông ta đã ở trong huyệt lâu thế rồi, thật khó tưởng tượng ra cảnh ông ta ngây thơ hoặc toát mồ hôi, khi tất cả chuyện này đã hóa thành cát bụi. Bà đã thấy gì trong con người ông? Ông ta phải được lắp ráp lại; tách, xoạch; các bắp thịt của ông móc vào xương và được bọc mỡ, toàn thân được phủ lớp da và khoác vào bộ vest màu xanh biển hoặc nâu - các ve áo, có lẽ, kiểu cách hơi quá tân thời, và mùi trên hai tay ông có lẽ đỏm dáng hơn mùi thuốc khử trùng một chút. Ông ta đã sành sỏi, ngay từ tuổi đó, lòng tự yêu mình khắc khổ của một người đàn ông bình thường, và tất cả hành động yêu chính mình của ông ta vừa tinh tế vừa chính xác. Ông ta không trau chuốt bản thân. Lamb Nugent quan sát. Hoặc đúng hơn không phải quan sát mà là để cho nó nhập vào ông ta - thế giới này, cùng mọi khía cạnh tinh tế của nó - ai nợ người nào cái gì đó. Chắc hẳn đó là thứ ông ta đã thấy, khi bà ngoại tôi bước vào qua khung cửa. Đôi mắt trẻ thơ của ông ta. Đôi đồng tử đen, hình ảnh kép của Ada Merriman đã bước tới, ngồi vào trong đó. Bà mặc đồ màu xanh, hoặc tôi tưởng tượng nó thế. Cái thực thể màu xanh của bà lưu lại trong những nếp gấp xám trong não ông, và nó nằm đó suốt phần đời còn lại của ông. Đã bảy giờ năm phút. Câu chuyện trong phòng đợi là nói về mưa, về chuyện phải làm gì với người đánh xe ngựa thuê, và có nên yêu cầu những món ăn uống nhẹ không; sau đó búi người mới đến đã tẽ ra thành một đoàn tuôn qua cửa trước phòng đợi, và hai người đầy tớ bị bỏ lại đằng sau để chờ; bà ngồi trên chiếc ghế gọn gàng của bà, ông với khuỷu tay đặt trên bàn tiếp tân cao, giống như một người đang đứng bên quầy rượu. Họ vẫn ở vị trí đó trong ba tiếng rưỡi liên tục. Họ thuộc về tầng lớp thấp. Đối với họ, việc chờ đợi không phải là vấn đề. Thoạt tiên Ada không giả bộ chú ý đến ông ta. Đây có thể là điều lịch sự nên làm, nhưng tôi nghĩ hẳn ông đã rành rẽ ngay từ đầu, cái mánh khóe làm như không tồn tại này. Và những cơn thịnh nộ vẫn hành hạ ông ta trong đời sống sau này, vào năm 1925 đấy hẳn phải là chuỗi bình thường những đam mê và hy vọng son trẻ. Nếu có chuyện gì hành hạ Nugent, trong những ngày đầu đó, thì đó là sự đứng đắn. Ông ta là người đứng đắn. Ông ta không phải người quen thuộc lắm với khách sạn. Ông ta không quen với những phụ nữ thể hiện độ chính xác khổ sở như thế khi sử dụng một chiếc găng tay. Chẳng có gì trong tiền sử của ông chuẩn bị cho cuộc gặp với Ada Merriman. Nhưng ông ngạc nhiên nhận thấy rằng, ông vẫn sẵn sàng đón nhận bà như thường. Đằng sau chiếc bàn giấy cao, ông tạp vụ nhỏ thó treo chiếc chìa khóa lên tấm bảng rồi bỏ đi vì có chuông gọi ở đâu đó. Ông ta quay lại bàn giấy, viết một ghi chú ngắn, rồi lại bỏ đi. Một cô hầu phòng bước ra từ nhà bếp phía sau mang theo khay trà. Cô leo lên cầu thang, đi vào hành lang tầng trên và không hề quay xuống. Họ còn lại một mình. Thận trọng biết mấy. Bởi vì Dublin đầy những phụ nữ kiêu ngạo cũng như những đàn ông lịch sự, bạn có thể om sòm về nó hoặc bạn có thể, giống như đôi này, ung dung và im lặng. Và trong sự chú ý bình lặng đó người này nhận ra sức mạnh của người kia và nhận ra rằng không ai sẽ chịu làm người đầu tiên bỏ đi. Thượng đế cho chúng ta quá ít người để yêu. Tôi muốn nói với các con gái tôi điều này, rằng mỗi lần ta đem lòng yêu ai, điều đó đều quan trọng, kể cả ở tuổi mười chín. Đặc biệt ở tuổi mười chín. Và nếu, ở tuổi mười chín, ta có thể đếm những người ta yêu trên một bàn tay, thì ở tuổi bốn mươi, ta sẽ không dùng hết các ngón của bàn tay kia. Thượng đế cho chúng ta quá ít người để yêu và tất cả họ đều dính chặt lại. Đấy là trường hợp Nugent, bị dính chặt vào Ada Merriman trước khi đồng hồ báo mười lăm phút. Và bà bị dính chặt vào ông, theo logic - dù bà chưa biết điều đó, hoặc không lộ ra là bà biết. Trong khi đó, ánh sáng nhạt dần và không có chuyện gì xảy ra. Cô hầu phòng, dù không hề thấy xuống lầu, đi qua phòng chờ với một cái khay khác và lại đi lên cầu thang và một lần nữa biến mất vào bóng tối của hành lang trên tầng cao nhất. Trong căn phòng sau bàn tiếp tân họ nghe ai đó mở cửa và hỏi thăm cô Hackett nào đó. Và Ada Merriman nhìn vào khoảng cách nghiêm túc giữa họ, nơi Lamb Nugent không tin một từ nào bà nói. Không khí giữa họ quá mỏng cho tình yêu. Thứ duy nhất có thể ném vào không khí của thành phố Dublin là một kiểu nhạo báng. Tôi biết cô. Nhưng đã quá trễ cho toàn bộ chuyện đó. Nó đã xảy ra. Nó đã xảy ra khi bà bước vào cửa, khi bà nhìn quanh mình, nhưng chỉ nhìn đến chiếc ghế. Nó xảy ra trong cung cách hoàn hảo bà tìm cách để có mặt nhưng không bị ai nhìn thấy. Và còn lại chỉ là sự lo lắng bồn chồn: trước hết bà phải chú ý lại đến ông (và bà đã chú ý - bà chú ý sự lặng lẽ của ông), và thứ hai bà sẽ phải yêu ông như ông đã yêu bà; một cách bất ngờ, một cách trọn vẹn, và vượt quá những gì là địa vị được dành cho họ. Ada đọc ông bằng một bên gương mặt bà; lông tơ trên má bà dựng lên vì mọi sự bà cần biết về người đàn ông đang đứng ở đầu kia căn phòng. Đó là khởi đầu cho một đợt đỏ mặt, sự nhận biết này, nhưng Ada không đỏ mặt. Bà nhìn chiếc vòng đeo tay của bà: một sợi xích mảnh bằng vàng pha đồng, vối một chữ T ở móc, giống dây đeo đồng hồ. Bà rờ rẫm vật kỳ lạ nhỏ bé ấy - một vật của nam giới trên cổ tay con gái của bà - và cảm thấy sự hồ nghi của Nugent đè nặng lên bà. Rồi bà chỉ hơi ngẩng đầu lên nói, “Sao?” Quá trơ tráo. Lúc này có lẽ ông căm ghét bà, dù Nugent quá trẻ, hai mươi ba, nên không thể gọi tên cái cảm xúc lướt qua ông và đi mắt, kéo theo sau nó sự thay đổi của bầu không khí. Một cái gì đó mở ra. Một cơn gió hiu hiu. Đó là cái gì? Sự khao khát. Lúc bảy giờ mười ba phút nỗi khao khát thở trên đôi môi trẻ trung của Lamb Nugent - Suỵt! Ông cảm thấy sự gần gũi khủng khiếp của nó. Nhu cầu bước tới trào dâng trong ông, nhưng ông không nhúc nhích. Ông giữ vững vị trí trong khi, ở đầu kia phòng, sự tĩnh lặng của Ada trở nên thắng thế. Nếu ông rất kiên nhẫn, bà có thể nhìn ông, lúc này. Nếu ông rất nhún nhường, bà có thể nói rõ những điều kiện của mình. Hoặc có thể bà sẽ không nói. Chẳng có gì được nói ra. Chẳng ai nhúc nhích. Có thể là Nugent đang tưởng tượng tất cả mọi chuyện - hoặc là tôi. Có lẽ ông là một kẻ đáng thương ở tuổi hai mươi ba; cái mũ vải tuýt vặn vẹo trên tay và cục yết hầu; có lẽ Ada thậm chí không nhận thấy ông ta ở đó bên kia phòng. Nhưng đó là năm 1925. Một người đàn ông. Một người đàn bà. Bà phải biết cái gì nằm trước mặt họ lúc này. Bà biết bởi vì bà đẹp. Bà biết bởi vì tất cả mọi chuyện đã xảy ra từ đó đến giờ. Bà biết bởi vì bà là bà ngoại tôi, và khi bà đặt tay lên má tôi, tôi cảm thấy sự gần gũi của cái chết và được nó an ủi. Chẳng có thứ gì rụt rè như sự đụng chạm của một bà già; chẳng có gì trìu mến hoặc kinh hoàng đến thế. Ada là một phụ nữ tuyệt trần. Tôi không có từ nào khác dành cho bà. Cho dáng đôi vai và cách bà đi khoan thai xuống phố, túi mua sắm lật phật bên hông. Hai tay bà chẳng bao giờ để không, và ta không bao giờ thấy thứ gì trong đó; bất cứ thứ gì đã được gấp hoặc giặt hoặc dọn hoặc chùi. Ta cũng không bao giờ nhận thấy bà đang ăn, bởi vì bà lúc nào cũng đang lắng nghe ta, hoặc đang nói; thức ăn chỉ lặng lẽ biến mất; giống như nó không thực sự đi vào cái lỗ trên mặt bà. Nói cách khác, cung cách của bà thật hoàn hảo, và dễ lây lan. Ngay từ hồi tám tuổi, tôi đã biết bà có hấp lực. Nhưng làm cách nào Nugent biết được điều đó, trước khi bà mở miệng nói chuyện với ông? Tôi chỉ có thể giả định rằng chuyện đó không quan trọng, rằng sự gắn bó của ông thay đổi theo những thời kỳ và giai đoạn (rốt cuộc, trước bảy giờ mười lăm phút ông đã chuyển sang ghét bà), mỗi thời kỳ ông sẽ phải thực hiện lại theo những chu kỳ dài hơn - nhiều năm hoặc nhiều thập niên - sẽ phải chuyển từ tình yêu sang một kiểu chế nhạo, ông sẽ phải bị day dứt bởi lòng căm ghét và xúc động bởi nỗi khao khát, ông phải tìm tới thái độ khiêm tốn cuối cùng và từ đó bắt đầu lại với tình yêu. Mỗi lần như thế ông có thể biết nhiều hơn về bà - có lẽ nhiều hơn về chính ông - và chẳng có gì ông biết được sẽ có bất kỳ tác động gì. Lúc bảy giờ mười bốn phút, họ quay lại nơi họ bắt đầu. Nhưng còn tình yêu thì sao nào? Bây giờ Nugent chuyển động, hoàn toàn bất ngờ. Ông hụp trán xuống và xoa đường chân tóc. Có thể nào bà cũng yêu ông không? Liệu họ có trở lại giây phút khi bà đi vào cửa, và vượt lên những mối quan tâm vụn vặt về sự trao đổi và mất mát không? À có chứ, mé bên khuôn mặt buồn của Ada nói. Và bà nghĩ về tình yêu một lát. Nugent cảm thấy nó khuấy động sâu trong rễ dương vật của ông; tương lai, hay sự khởi đầu của tương lai. Lúc này không ai ngắt ngang họ. Ai đó đã bóp cổ cô hầu phòng trong một căn phòng trên lầu; ông tạp vụ con rối bị ném vào một chiếc ghế. Có hơn ba thước thảm nằm giữa họ. Nugent nghĩ về cái quy đầu phồng lên đang ló ra khỏi lớp da lùng nhùng và Ada nghĩ về tình yêu, trong khi đồng hồ khách sạn chạy lặng lẽ, nghiến nhẹ nhàng, kêu vo vo thành những tiếng ngân vang báo mười lăm phút. Tình tính tính tình! Tình tinh tính tình! Được hồi sinh, được gọi đến, ông tạp vụ nhỏ con lót tót đi vào phòng đợi tối om với chiếc đôn nhỏ mà ông ta đặt dưới một cái đèn gắn trên tường. Ông ta lại lót tót đi ra và quay lại với một cái đóm giơ lên cao, ngọn lửa của nó hóa ra xám xịt trong ánh sáng cuối ngày. Ông ta đứng trên đôn để gỡ cái chụp đèn, mở vòi khí, lóng ngóng châm cái đóm và, trước khi quá trễ, cũng châm được ngọn lửa vào luồng khí. Nó rít lên màu xanh lè và âm thanh trống rỗng trước khi chuyển thành ánh sáng xanh ngả vàng của lưới măng sông, và ánh sáng chập chờn rồi bùng lên tỏa khắp phòng. Phòng đợi trở nên khó chịu vì mùi khí đốt, tiếp theo là mùi ấm của giấy bị cháy, khi những mảnh tàn đen bay rải rác từ những ngón tay vung vẩy của ông ta. Ông ta gắn chụp đèn lại, dời cái đôn tới dưới ngọn đèn kế tiếp và bỏ đi. Trong khi ông ta vắng mặt, căn phòng phập phồng tối dần. Và tối hơn nữa. Ông ta quay lại. Nugent và Ada nhìn theo khi ông ta hoàn tất nghi thức với ngọn đèn và cái ghế; việc ông ta đi vào và đi ra; vẻ vênh vang ma mị của ông ta khi di chuyển quanh các bức tường về phía ngọn đèn thứ tư và cuối cùng, nằm ngay bên trên chiếc ghế Ada ngồi. Ông ta đặt cái đôn ngay cạnh chân bà, như thể cúi chào, và lại nhẹ nhàng rút đi. Sau một hồi lâu ông ta quay lại với ngọn lửa mà có thể, tuy không phải, ông ta lấy từ ngọn lửa đang cháy ở lò sưởi. Ông ta không muốn cúi khom người trước họ, có lẽ vậy, dù ông ta không áy náy gì nếu khiến Ada phải đứng dậy. Ông ta dừng lại trước mặt bà, nghiêng cái đóm sang phía này rồi phía khác, duy trì và hướng ngọn lửa cháy vào phần giấy. Ông ta nhìn mặt bà. Và chờ đợi. Chiếc váy của Ada sột soạt tuột khỏi lòng bà khi bà đứng dậy. Và cũng chẳng khác gì nó tuột hết xuống sàn; tấm váy cứ như được làm bằng nước, nó cứ như một vũng màu quanh chân bà, bởi lúc này trông bà trần trụi quá. Nugent nhìn hết sức công khai khi bà khoanh hai tay lại trước ngực, và nhìn xuống. Ban đầu ông thấy tội nghiệp bà, rồi thì không tội nghiệp nữa. Cuối cùng ông cũng dịch chuyển, áp vào cạnh bàn làm việc, và nhẹ nhõm khi thấy mùi bốc ra theo làn hơi từ bên trong áo sơ mi của ông. Ơn Chúa vì điều đó. Đó không phải là lỗi của ông. Sáng đó ông có mặt tại nhà thờ chính tòa giáo xứ, dự lễ sớm. Ông đi trong hàng cùng những người đàn ông khác để rước lễ. Vẻ mặt họ cũng đói khát như những người nghèo đang xếp hàng chờ lãnh xúp. Và khi đứng dậy từ tư thế quỳ, ông làm y như một quý ông đứng đắn: chậm rãi ở phần hông, nặng nề với sức nặng cuộc sống của ông trên trái đất này, buồn bã vì những người ông yêu thương. Can đảm. Đó là mùa chay. Trong thời gian đó, Nugent đã từ bỏ những món giăm bông, xúc xích và các loại đồ lòng, cũng như rượu mạnh. Thân xác ông đã được làm sạch bởi những hoạt động của linh hồn ông - vì vậy mùi bốc lên từ bên trong áo sơ mi của ông phảng phất không khí mùa xuân, một mùi thoang thoảng của xà phòng buổi sáng sớm, mùi khó nhận thấy của một ngày làm việc vất vả. Vải áo của ông sờn một cách đứng đắn và cổ áo sơ mi của ông sạch sẽ rất đứng đắn, và cuộc đời của ông trải dài trước mặt ông tiến triển đứng đắn tới một tuổi trung niên chắc chắn. Chỉ trừ một chút ngắt quãng nhỏ - bởi vì chẳng có gì đứng đắn trong cặp mắt trẻ thơ của ông, nhìn Ada Merriman trong phòng đợi của khách sạn Belvedere. Bà đã nhìn lại ông. Đứng đó - tức là, trần truồng - với đôi tay khoanh lại trước ngực, bà ngước lên và nhìn vào mắt ông. Đây chính là cú sốc. Cú sốc này là cái tôi trọn vẹn của Ada Merriman. Đồng tử bà giãn ra để đón nhận ông; chúng ùa tới và Nugent vui mừng vì có chỗ dựa, bên cạnh ông, là tấm ván gỗ của chiếc bàn làm việc. Rồi họ mỉm cười. Ada mỉm cười. Giống như có một câu nói đùa nào đó trong phòng mà bà muốn ông chia sẻ. Nugent nhìn bà. Ông tự hỏi bà thấy thích thú như thế vì bộ phận nào trên thân thể bà. Đó là bộ ngực của bà, hay cổ họng của bà? Hoặc bà không nhận ra mình trần truồng (rõ ràng bà đang mặc quần áo đầy đủ), hoặc là bà chẳng quan tâm gì cả. Bà có thể cười nhạo người đàn ông nhỏ thó đang thắp những ngọn đèn. Hoặc có thể bà đang cười nhạo ông - đứng đó giống như một thằng ngốc với một đùm lồi ra trong quần. Và đôi mắt của Nugent ậng nước vì sự không sòng phẳng đó, và với sức mạnh của tình yêu bị từ chối. Chỉ có điều - như gã thắp đèn nhỏ thó có thể nói với ông - bà chưa từ chối ông bất cứ thứ gì. Bà chưa hề từ chối ông gì cả. Những ngọn đèn khí chập chờn và rít lên nhè nhẹ khi chiếc đôn được nhấc đi và người đàn ông rút lui, hơi xoay về đôi tình nhân với vẻ lịch sự đầy mai mỉa, như thể ông ta có thể thấy tất cả, hành động giao hợp (tiếng xì xọp ầm ĩ), tiền bạc, những lời dối trá mà họ đã bắt đầu nói ra. Ôi, nếu đó là một bài hát thì bạn có thể hát. Nếu đó là một bài hát thì bạn có thể gõ nó ra trên những cái thìa. Đặc biệt là ở Dublin, năm 1925. ❀ ❀ ❀ Đây hoàn toàn là tưởng tượng của tôi, dĩ nhiên rồi. Ai cũng có một bà ngoại đẹp - ắt vì nước ảnh đỏ nâu và chùm hoa màu cam trên mái tóc họ. Chưa kể cái nhìn kiên định trong những đôi mắt kiểu ngày xưa. Chúng ta không còn biết cách can đảm nữa, như một cô dâu can đảm thời bấy giờ. Đây là bức hình đám cưới của Ada: bà mang tấm mạng che mặt dài của những năm 1920 và lớp lụa của cái váy làm lộ ra những mũi thêu tay dịu dàng viền thành một hàng vết lõm quanh gấu áo. Bà trong trắng và thiêu đốt lòng người. Ada Merriman, bà ngoại nhiệt tình, khiêm tốn của tôi, là loại đề tài các nhà thơ thường viết, năm 1925. Bà có đôi bàn chân giống tôi. Hoặc tôi có đôi bàn chân của bà: dài, với những ngón chân khẳng khiu. Cũng những xương mắt cá to và bắp chân thẳng, dài khiến tôi cảm thấy hết sức lóng ngóng ở trường, trước khi tôi học được cách sử dụng chúng. Tôi nhận ra mình có một thân thể đắt giá, khoảng năm 1979. Đây không phải chuyện tình dục. Các luật sư muốn làm tình để sinh con với tôi và các kiến trúc sư muốn tôi ngồi trên những chiếc ghế Eames của họ. Không có gì quá lớn ở mặt trước, chỉ cao và lỏng khỏng. Vì vậy tôi cho rằng tôi ăn diện đẹp - dù chẳng có gì thuyết phục được tôi mặc váy dài ngang bắp chân, để lộ mắt cá như của đàn ông và những ngón chân u nần tội nghiệp của tôi. Vì vậy có điều gì đó đáng tội ở bàn chân to của Ada trong đôi giày xa tanh. Bà lấy chồng. Bà hạnh phúc. Hay tôi tưởng tượng thế, khi cất tấm hình của bà vào lại chiếc hộp đựng giày giữ tất cả những gì còn lại về câu chuyện của bà, lúc này. Bà không cưới Nugent, bạn sẽ thấy nhẹ nhõm khi nghe thế. Bà đã cưới Charlie Spillane bạn của ông ta. Và không chỉ bởi vì ông này có xe hơi. Nhưng ông không bao giờ rời bỏ bà. Bà ngoại tôi là một hành động giàu tưởng tượng nhất của Lamb Nugent. Tôi có thể không tha thứ cho ông ta, nhưng chính điều này - cái kiểu ông ta mãi trung thành với chuyện đó - đã định nghĩa người đàn ông này rõ nhất, đối với tôi. 4 Tôi gọi điện cho những tư vấn viên tang lễ ở Brighton và Hove bằng điện thoại của mẹ tôi trong hành lang, và họ cho tôi số của người làm dịch vụ tang lễ, người này rất tử tế, ghi lại thông tin thẻ tín dụng của tôi trong lúc tôi cầm nó bên mình. Dĩ nhiên, còn phải cân nhắc chuyện quan tài, và vì một lý do nào đó tôi đã biết trước rằng mình sẽ chọn một cái bằng gỗ sồi - một quyết định được giao cho tôi, bởi vì tôi là người yêu anh ấy nhất. Và tất cả sẽ tốn bao nhiêu? Tôi nghĩ khi đặt điện thoại xuống. Bà Cluny từ nhà bên cạnh bước sang, hoàn toàn im lặng. Bà đi qua hành lang vào nhà bếp và đóng cửa lại. Lát sau tôi nghe giọng mẹ tôi cất lên, rất nhỏ. Tôi không đủ kiên nhẫn với đĩa quay số tròn kiểu cũ, vì vậy tôi bật di động của mình và đi lòng vòng quanh nhà, gọi điện cho cả đám, ở Clontarf và Phibsboro, ở Tucson, Arizona, để nói, “Tin buồn, về Liam. Vâng, vâng. Em e là như thế.” Và “Em đang ở nhà mẹ. Bị sốc. Thật sự sốc.” Tin tức sẽ được thảo luận bằng những lối nói quá tế nhị đến độ khó vạch ra. Jem sẽ gọi cho Ivor, và Ivor sẽ gọi cho vợ của Mossie, và Ita sẽ truyền cho Cha Emest, ở đâu đó phía Bắc Arequipa. Sau đó tất cả sẽ điện về đây - hoặc vợ của họ sẽ điện - để biết những thời điểm, lý do, những chi tiết dữ dội và những chuyến bay. Tôi đi qua cảnh lờ mờ trong những căn phòng thời thơ ấu của chúng tôi và chẳng chạm vào thứ gì. Tất cả giường đã trải khăn và sẵn sàng. Con gái ngủ trên lầu còn con trai ngủ dưới tầng trệt (bạn thấy đó, chúng tôi có một hệ thống). Nó là một tòa nhà có nhiều phòng nhỏ. Cái giường đôi của hai anh em sinh đôi nằm trong căn phòng nhỏ bên trái cửa tiền sảnh - căn phòng nơi bé Stevie chết. Đầu kia căn phòng ấy là một cánh cửa dẫn vào phần nhà xe mở rộng, với ba cái giường đơn. Vượt qua đó lại là lối vào khu vườn, nơi Ernest ngủ trên một tấm nệm trên sàn nhà, sau đó là Mossie, khi Emest đi, và cuối cùng là Liam. Mái dốc của lối đi được làm bằng tôn nhựa trong, gọn sóng. Tấm nệm vẫn ở đó, dựng đứng sát khung cửa màu vàng dẫn ra vưòn với cửa sổ bằng kính nhám. Tấm bích chương hình Marc Bolan của Liam đã biến mất, nhưng vẫn thấy được những mẩu băng keo trong suốt dán tấm bích chương còn lủng lẳng trên bức tường bằng gạch xỉ. Tôi đã hút điếu thuốc lá đầu tiên của mình ở đây. Tôi ngồi trên tấm nệm phủ một tấm mền xanh thô, gọi điện cho người em trai út của tôi. “Chào Jem. Không, mọi chuyện đều tốt. Nhưng chị có tin buồn đây, về Liam.” Và Jem, đứa bé nhắt trong chúng tôi, đứa dễ chịu nhất và được cưng nhất, nói, “Chà, ít nhất chuyện đó cũng xong.” Tôi thử gọi cho Kitty lần nữa và lắng nghe điện thoại reo trong căn hộ vắng hoe của nó ở London. Tôi nằm xuống nhìn lên mái nhựa gợn sóng, tự hỏi làm sao có thể gỡ bỏ tất cả những nhà kho và những phần mở rộng thêm này, biến chỗ này trở lại ngôi nhà y như nó ngày xưa. Giá mà có thể phá rã tất cả và bắt đầu lại. ❀ ❀ ❀ Khi Bea đến, tôi mở cửa tiền sảnh và ôm chị bằng cả hai cánh tay, và chúng tôi quay một vòng như vậy khi chị đi qua tôi trong tiền sảnh tối. Tôi theo chị vào ánh sáng vàng vọt của nhà bếp và thấy rằng mẹ tôi đã già đi năm, có lẽ mười tuổi trong khoảng thời gian tôi gọi những cú điện. “Chào mẹ. Mẹ có muốn uống thuốc gì không? Bây giờ mẹ có cần bác sĩ, để có thứ gì đó giúp mẹ ngủ không?” “Không, không. Cám ơn.” “Con sẽ qua bên đó, để thu xếp các thứ,” tôi nói. “Nước Anh hả?” Bà hỏi. “Bây giờ à?” “Con sẽ gọi điện về, được chứ?” Gò má bà, khi tôi hôn, mềm mại vô cùng. Tôi liếc nhìn qua Bea, chị ném cho tôi một cái nhìn u ám, đầy trách móc. Đừng nói với mẹ. Như thể toàn bộ là lỗi lầm của tôi. Cha tôi thường ngồi trong nhà bếp xem ti vi đến mười một giờ, với tờ báo nằm hờ hững trên đùi. Sau phần tin tức ông thường gấp tờ báo lại, rời ghế, tắt ti vi (bất kể đang có ai xem) và đi ngủ. Những chai sữa được súc sạch sẽ và đặt trên bậc thềm. Một trong hai đứa sinh đôi có thể được bế lên xi bô rồi ủ vào giường cho ngủ lại. Sau đó ông vào phòng nơi ông sẽ ngủ với mẹ tôi. Bà đã lên giường, đọc và thở dài từ chín rưỡi. Thường có tiếng nói chuyện thì thầm, âm thanh của những chìa khóa và đồng xu khi ông để chúng xuống. Tiếng lách cách của khóa thắt lưng ông. Một chiếc giày rơi xuống sàn nhà. Im lặng. Ở trường có những đứa con gái mà gia đình chúng phát triển thành cộng đồng vững chãi năm hay sáu người. Có những đứa con gái với bảy hay tám anh chị em - thế được coi là hơi nhiệt tình - và rồi có những đứa đáng tội như tôi, những đứa có ba mẹ chẳng tự coi sóc được gì trong việc này, mà cứ sinh đẻ tự nhiên như ỉa đái. ❀ ❀ ❀ Thay vì rẽ trái khi ra khỏi nhà mẹ, tôi lại rẽ phải vào đường đến phi trường. Tôi không nghĩ đến việc mình đi đâu, tôi nghĩ về trời mưa, ánh đèn xi nhan, cần gạt nước cao su cào trên mặt kính. Tôi chẳng nghĩ về gì cả - chẳng có gì để nghĩ đến. Rồi sau đó tôi nghĩ đến một cốc rượu. Không có gì quá bầy hầy. Một ngụm rượu whisky mạnh, có lẽ, hay rượu gin. Tôi trôi bồng bềnh về phía nó trong chiếc Saab 9.3 đẹp đẽ của tôi - về phía ý tưởng về nó, đang nở hoa trong miệng tôi. Tôi luôn khát khi rời khỏi ngôi nhà đó - chắc hẳn liên quan đến sự bất công của nơi này. Nhưng tôi sẽ không uống. Chưa uống. Khi gọi điện lúc nãy, Kitty đã say mèm đến độ tôi chỉ nghe được trên điện thoại một tiếng hú ngu ngốc. “Owjz. Hizz,” con bé nói. “Hizz. Hizjim. Ohsfs. Chào.” Qua đó tôi phải tự đoán ra rằng một nữ cảnh sát cũng vừa mới ghé nhà nó. Và, vâng đó là một khoảng thời gian chờ đọi tồi tệ; dù không hẳn là lâu như thế. Mánh lới là ở chỗ, tôi muốn nói với con bé trên đường dây, mánh lới là ở chỗ uống say sau khi, chứ không phải trước khi hay tin. Đó là một ranh giới mỏng manh, Kitty ạ, nhưng chúng tôi nghĩ nó quan trọng. Ngoài này, trong thế giới thực, chúng tôi nghĩ nó có khác biệt. Sự thật / Phỏng đoán. Chết / Sống. Say / Tỉnh. Ngoài đây trong cái thế giới không phải thế giới của gia đình Hegarty, chúng tôi nghĩ những việc này Không Phải Cùng Một Thứ. Dĩ nhiên, tôi không nói bất cứ gì về chuyện này. Tôi nói, “Huh huh ho Chúa.” Và con bé nói, “Ay ghai Ay Hizj.” Và tôi nói, “Ho hohooh ho Chúa.” Và điều này cứ tiếp tục cho đến khi một người đàn ông cầm lấy ống nghe mà nói, “Phải chị của Kitty đó không?” bằng giọng Nam London tuyệt vời. Và tôi phải tỏ ra lịch sự với anh ta, và biện bạch chút đỉnh rằng anh trai tôi đã chết ngay giữa buổi chiều thứ Năm. Tôi nhận ra rằng tôi chạy xe sai đường về nhà, nên tôi dừng lại gọi điện cho Tom chồng tôi tại ngã tư đường để nói tối nay tôi sẽ không về. Tôi không muốn mấy đứa con gái gặp tôi, hay lo lắng về tôi, chừng nào tôi chưa giải quyết xong chuyện này. Anh nói mọi việc sẽ tốt đẹp, tốt đẹp thôi. Mọi thứ sẽ tốt đẹp. Giọng anh hơi run và tôi nhận ra rằng nếu tôi không kết thúc cuộc gọi thì anh sẽ nói với tôi rằng anh yêu tôi, rằng đây là điều kế tiếp anh sắp nói. “Mọi chuyện đều ổn,” tôi nói. “Tạm biệt. Tạm biệt.” Và tôi lại hòa vào dòng giao thông và con đường ra phi trường. Có điều gì đó kỳ diệu ở cái chết, cái kiểu mọi thứ đóng sập xuống, và bao nhiêu điều khiến bình thường ta nghĩ mình là thiết yếu thì thậm chí không quan trọng chút nào cả. Rốt cuộc thì chồng ta cũng có thể nuôi bọn trẻ, anh có thể sử dụng cái lò mới, anh có thể tìm thấy xúc xích trong tủ lạnh. Và cuộc họp quan trọng của anh không hề quan trọng, hoàn toàn không. Và bọn con gái sẽ được đón về từ trường và được đưa trở lại vào buổi sáng. Con gái lớn sẽ nhớ mang lọ thuốc xịt, con gái nhỏ sẽ mang đồ thể dục, và đúng như ta nghi ngờ - hầu hết mọi chuyện ta làm đều ngu ngốc, thực sự ngu ngốc, hầu hết mọi chuyện ta làm chỉ là la mắng và rên rỉ và dọn dẹp cho những người vốn lười biếng đến độ thậm chí không buồn yêu thương ta, nói gì đến việc tìm thấy giày của họ dưới gầm giường; những người thường quay sang buộc tội ta - đôi khi gào vào mặt ta - khi chỉ tìm thấy được một chiếc giày. Và hiện giờ tôi đang khóc, đi dọc theo con đường phi trường, tôi đang khóc thảm thiết sau tay lái chiếc Saab 9.3, bởi ngay cả cuộc họp mà chồng ta dự, cuộc họp sống còn, lại không hề quan trọng (làm sao ta có thể từng nghĩ, thậm chí chỉ một phút thôi, những việc như thế là quan trọng được nhỉ?) và anh ta yêu thương ta trọn vẹn trong nửa giờ, hoặc nửa tuần lễ mà trong thời gian đó người anh của ta vừa mới chết. Có lẽ tôi nên tấp vào vệ đường nhưng tôi không tấp: tôi vừa khóc vừa lái suốt đường đi. Tại đại lộ Collins, một người đàn ông kẹt trong dòng giao thông đang tiến tới nhìn sang tôi đang nức nở và bịt miệng trong chiếc hộp thiếc sang trọng của tôi. Ông ta cách tôi gần một mét. Ông ta ở ngay đó. Ông ta nhìn tôi hết sức thông cảm, sau đó ông ta đi qua. Chuyện đó xảy ra với tất cả chúng ta. Và điều khiến tôi ngạc nhiên khi tới đường cao tốc không phải là chuyện mọi người bị mất ai đó mà là mọi người đều yêu ai đó. Nó giống như một sự lãng phí năng lượng lớn lao - và tất cả chúng ta đều làm chuyện đó, tất cả mọi người hối hả xuôi giữa những làn đường trắng, hợp lại, tụ hội, vượt qua nhau. Mỗi chúng ta đều yêu ai đó, dù họ sẽ chết. Và chúng ta vẫn cứ yêu họ, cho dù họ không còn ở đó để yêu nữa. Và không có luận lý hay ích dụng gì với bất cứ gì trong chuyện này, theo tôi thấy. Ở phi trường, tôi lái xe lòng vòng trong bãi đậu xe, tầng này đến tầng khác, cho đến khi tôi ra ngoài dưới bầu trời buổi tối. Liam thường cười nhạo tôi vì chuyện này. Mọi người thường cười nhạo tôi. Cái kiểu tôi luôn luôn đậu xe ở chỗ gần những chiếc máy bay nhất: và chỗ đó ở tuốt trên mái, ngoài trời mưa. Tôi tắt máy xe và nhìn những giọt mưa chảy xuống kính chắn gió. Lần cuối cùng tôi đưa anh ấy tới đây, tôi nóng lòng muốn tiễn anh ấy đi. Hết sức nghiêm túc. Lần cuối đưa anh ấy tới đây, tôi ngồi một lát, nhìn thẳng trước mặt, và thân hình đồ sộ của anh ở ghế trước cạnh tôi thật nổi bật: đống to lù lù đen thui, khi tôi quay sang để nói với ông anh mà tôi biết - Chúa ơi! khối xám xịt mặc một cái sơ mị bẩn thỉu, thứ tởm lợm khủng khiếp này, mà tôi quay sang nói. “Thế đấy. Còn khối thời gian.” Tôi đi bộ với anh suốt đoạn đường đến các cổng khởi hành và nhìn anh đi qua. Tôi đã tự hỏi liệu anh có thể quay trở ra lại không. Tôi chợt nghĩ rằng việc đó có thể không trái luật. Ta có thể đi thẳng tới cổng và thay đổi ý định. Thậm chí ta có thể phóng khỏi chỗ ngồi trên máy bay của ta và đổi ý mà đi ngược trở lại con đường ta đã đến, trở lại Ireland, nơi ta có thể khiến cho mọi người khốn khổ, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nữa. Thường thì người ta vẫn thấy anh em trai trở nên bớt quan trọng, theo thời gian. Liam quyết định không như thế. Anh quyết định vẫn tiếp tục quan trọng, tới phút cuối. Một chiếc máy bay gầm rú ở tầm thấp trên đầu và, khi nó bay mất, tôi đang bám vào tay lái, miệng mở lớn. Chúng tôi nằm kẹt cứng như thế trong chốc lát, tôi với chiếc xe, rồi tôi ngồi thẳng lên và mở cửa xe. Trong khi tôi làm chuyện này - gào lên câm lặng trong chiếc xe mui xép trong bãi đậu xe của phi trường dưới mưa - tôi có thể cảm thấy Liam đang cười nhạo tôi. Hoặc tôi có thể cảm thấy sự vắng mặt của anh đang cười nhạo tôi. Bởi vì, đâu đó, ngoài kia ở mé bên - nơi ta hoàn toàn không thể thấy - anh ở đó trọn vẹn, mà lại hoàn toàn không ở đó. Anh không đau khổ, tôi nhận thấy, bởi bây giờ anh đã chết. Nhưng đó không chỉ là tâm trạng của anh, cái điều tôi đang cảm thấy như một sự ấm áp tại chân cột sống tôi. Đó là cái tôi thiết yếu, khô chết, đã biến mất của anh. Đó là chính trái tim của anh, đã biến mất hoàn toàn, hoặc bây giờ đang biến mất. Tạm biệt Vee Tạm biệt Tạm biệt Tôi mở cửa và bước ra ngoài mưa. 5 Đây là ông ngoại tôi, Charlie Spillane, đang lái xe trên phố O’Connell tới chỗ vợ tương lai của ông trong khách sạn Belvedere. Đã mười giờ rưỡi một tối thứ Ba. Đó là mùa chay. Vài cặp ngoại đạo rời khỏi nhà hàng Gresham hoặc Savoy Grill để đón xe điện hoặc bắt đầu đi bộ về nhà, nhưng ngoài chuyện đó thì thành phố thật yên tĩnh. Xe Charlie màu xám xịt và khi nó lướt đi dưới ngọn đèn đường một mảng da xanh mở ra trong đêm. Mui xe hạ xuống, những bộ phận bằng đồng thau lấp lánh và đầu của Charlie ánh lên. Chiếc xe này là một vật thể đẹp - tuy không hoàn toàn là xe của Charlie: dù ông đã có nó quá lâu đến độ ta có thể cho rằng người để nó lại cho ông sẽ không trở lại. Đây là chiếc xe đã sống trong ga ra của Ada khi tôi còn là một đứa bé, một chiếc Bullnose Morris, mui cũ nứt, giống mui chiếc xe đẩy trẻ khổng lồ. Vào lúc tôi thấy nó, nó chẳng còn nguyên vẹn mấy, ngay cả cánh cửa cũng mất tiêu. Tôi thường ngồi ở ghế trước và lắng nghe chuột chạy trên máy, trong cái tĩnh lặng của những buổi chiều hè. Hoặc “Rùm rùm!” Liam sẽ kêu, cạnh tôi. “Rùm, rùm.” Năm 1925 chiếc xe vẫn là một vật tuyệt đẹp. Charlie rồ máy cùng lúc rầm rộ bẻ cần số và đạp bàn đạp - Nugent nghĩ ông không nên lái nó chút nào, kỹ thuật bơm, nghiến này quá sức tàn phá đối với những lò xo khớp ly hợp và nút van. Thắng trước đang mở bung ra trong vũng dầu của chính nó, trên chiếc bàn trong phòng trọ của ông - Nugent cũng không phải là chủ nhân chiếc xe, nhưng ông yêu nó. Đứng trong phòng đợi của khách sạn Belvedere, ông lắng nghe tìm tiếng động cơ mà không biết ông đang lắng nghe cái gì. Trong khi đó, Charlie đang chạy quanh Dublin chỉ với những thắng sau, đi gặp một người về chuyện một con chó. Ông là một người ưa đổi hướng, Charlie ấy. Ông không thích những kết thúc. Thậm chí ông không thích bắt đầu việc gì. Khi ông yêu thì chỉ vì ông nhận thấy nó đang tuột khỏi ông rồi. Nói cách khác ông vồ lấy Ada chỉ vào lúc bà quay lưng đi. Nhưng Ada lúc này chưa biết Charlie. Ada Merriman đứng trong phòng đợi của khách sạn Belvedere mà nhìn Lamb Nugent, trong khi bên ngoài, Charlie Spillane lái xe vào đường Great Denmark, về hướng người vợ mà ông chưa từng gặp. Ông sắp sửa ghé xe vào cửa khách sạn Belvedere, ông gần tới được đó thì ngọn tháp của nhà thờ Findlater gọi ông nhớ ra điều gì đấy, thế là ông rồ ga đi tới quán The Hut ở Phibsboro, để gặp ai đó về chuyện con chó. Nugent dỏng tai nghe theo tiếng động cơ thoát đi. Có một khoảng lặng sau khi tiếng động cơ mất hút, và rồi sự im lặng bắt đầu lan tỏa. Nó thấm vào phòng đợi của khách sạn Belvedere; tiếng xào xạc xa xa của đường phố chuyển từ ngày sang đêm, khi đêm sâu dần và cuộc rượu chè bắt đầu - ở nơi khác. Khi phụ nữ dỗ nín con cái họ, và đàn ông cởi ủng ra, và bọn con gái, sau khi làm việc cả đêm, tắm rửa trong những căn phòng xa xôi và liếc mình trong một mẩu gương, trước khi rời nhà để đi làm lại. ❀ ❀ ❀ Ở đầu phòng bên kia, hơi thở của Ada quá nông và nhẹ nhàng đến độ bà có lẽ là một thiên thần, trong chốc lát, đang giữ hình dạng một con búp bê. Cổ họng bà là một cây cột, như nhà thơ có thể nói, và đôi môi bà được tạc khép chặt trong ánh sáng. Một cục than tàn trượt vào vỉ lò sưởi với tiếng “coong” thì thào. Người chết đến. Họ ngồi xổm gần những bức tường và men về phía nguồn nhiệt cuối cùng của ngọn lửa: em Lizzy của Nugent; mẹ ông, người không thích bị chết chút nào. Những con ma của Nugent nói lắp bắp, êm dịu và gay gắt, trong khi những con ma của Ada không nói gì cả. Tại sao thế? Dĩ nhiên vì bà là kẻ mồ côi. Một khuôn mặt xuất hiện ngay kính cửa trước, và đẩy cửa mở ra. Một khuôn mặt nhỏ, lanh lợi, có một hàm râu. Nó nhìn quanh, rồi rút lui. Những người chết tản mác đi, nhưng một lát sau họ bắt đầu quay lại và, như thể Ada không thể chịu đựng được, bà lật đật nhỏm dậy bước tới bàn giấy, rung chuông. Kính coong! Họ đang đứng bên nhau - cuối cùng cũng xong! - Ada và Nugent tại bàn giấy và bà khoái chí trước chuyện đó. Sự tự nhiên và thư thái của bà trở thành lăng mạ và khiêu khích với Nugent - Nugent tội nghiệp, đang cảm thấy năm tấc giữa họ rõ rệt hơn bất kỳ khoảng cách không gian nào. Đang thèm đẩy bất cứ phần nào của ông ta vào bất cứ phần nào của bà để tìm thấy sự khuây khỏa. Đang mong đặt hai tay ông lên bụng bà, để cảm nhận cái nóng và chuyển động của bộ ruột bà. Đừng chế nhạo. “Đến thế,” ông muốn nói. “Tôi đã yêu em đến thế.” “Xin chào. Xin chào trong đó.” Ông tạp vụ từ bóng tối của căn phòng phía sau bước ra. “Ông có thứ gì kiểu như một ly rum nóng cho bác xà ích không? Người đứng ngoài kia đó.” Bà quay sang Nugent nói, “Tôi không biết tại sao tôi làm vậy cho hắn ta, hắn không bao giờ ở đó khi anh cần. Tôi cho rằng chỉ để giữ cho hắn đừng lỉnh đi.” Sau đó bà quay trở lại ghế của bà cạnh cửa. Xét cho cùng bà mới chỉ mười chín. Và ông chỉ hai mươi ba. “Tôi có người bạn có xe hơi,” bất ngờ ông nói. “Vậy hả?” Bà dừng lại, quan tâm và hoạt bát lên. “Anh ta sẽ tới đây bất cứ lúc nào, lẽ ra lúc này anh ta phải có mặt ở đây rồi.” “Tôi thích đi xe hơi,” Ada nói. “Tôi muốn thử đi xe hơi đến điên lên được.” Và bà xoay người để ngồi vào ghế. Ô hãy tưởng tượng một sợi dây thừng kéo nó từ bên dưới bà - Nugent lướt qua phòng để đỡ lấy bà. Họ có thể hôn nhau trên màn hình đen trắng, bà quay đi để có thuyết minh: Dừng lại!! Bởi vì đó không chỉ là mùa chay, mà còn là mùa xuân. Làm sao mà khác được? Ada Merriman thì đẹp còn Lamb Nugent sống vượt tầm mình, và đây là điều chúng ta cần biết - rằng khi bà đi vào qua khung cửa này và ngồi với vẻ duyên dáng lặng lẽ như thế trên chiếc ghế có lưng tựa hình bầu dục nhỏ đó, ông đã thấy một cuộc sống trong đó không ai nợ ai bất cứ chuyện gì. Không chút xíu nào. ❀ ❀ ❀ Một chiếc xe dừng lại bên ngoài. Nugent nghe tiếng máy xe rung lên và cái nhìn ông trao cho Ada biến thành cái nhìn của sự đau đớn và ly biệt - như thể tình huống của họ ít nhiều là bất khả. Nhưng nó không phải là bất khả, và sự cảnh giác vụt hiện lên giữa họ hiện giờ chỉ là một kiểu vui sướng khác. Họ sẽ không bao giờ làm gì một mình nữa. Từ nay về sau. Họ cùng nhau quay lại, khi Charlie Spillane bước qua cửa, nghênh ngang vì chút men, hào hứng với những lời hứa không giữ được và những cuộc hẹn bị lỡ. Đôi mắt ông đặt lên Nugent đang tựa người lên chiếc bàn giấy phía trước - rồi ông nhìn quanh cho đến khi thấy dáng người trong bộ đồ xanh, ngồi ngay bức tường cạnh cửa. Ô. “Thưa bà,” ông nói, bỏ chiếc mũ quả dưa (tưởng tượng) của ông ra, “tôi hy vọng anh bạn này đã giữ cho bà được vui.” Và Ada bật cười. Chỉ vậy thôi. Chỉ vung tay một vòng, Charlie đã thay đổi các phép tính - về tương lai của ông và quá khứ của tôi. ❀ ❀ ❀ Đây là hai người bạn, rời khỏi Ada Merriman. Charlie chỉ cửa khách sạn cho bạn ông rồi đi ra ngoài. Ông ngồi lại vào chiếc Bullnose Morris và cầm găng tay lái xe lên. Rồi ông dùng chúng chà xát mặt. Ông chà mặt mình như một người đàn ông đã ngừng khóc, sau khi đã khóc một hồi lâu. Nugent leo vào cạnh ông. Charlie nổ máy xe, vất vả cán lên gờ sắc của cục chặn bánh xe bị bỏ quên, và lái đi. Phố Conways tối om. Họ vòng qua khu Rotunda và đậu trở lại trên đường Parnell nơi họ tìm thấy một chỗ bán rượu chui suốt đêm trong căn phòng sau của Blue Lion - một quán rượu tội lỗi. Có một bầu khí của sự thương tổn mới đây; mùi của thứ gì cháy bốc ra từ nhà vệ sinh trong sân. “Một chai và một nước chanh,” Charlie nói. Họ thưởng thức đồ uống và thận trọng nhìn đám khách đáng ngại của Blue Lion. Charlie buông một nhận xét lặt vặt về chiếc xe trong khi Nugent chăm chú nhìn lớp vân gỗ và độ bóng của thanh đồng gác chân dưới thấp. Trên đường về nhà Nugent chồm khỏi ghế và đứng nhô đầu cao hơn cửa sổ xe một chút để cho không khí ban đêm mơn man mặt ông. Khi họ cho xe bon bon dọc theo phố Green, ông liếc nhìn những cô gái đang đợi, ngay cả trong mùa chay, những khách sộp ra khỏi khách sạn Shelbourne: một loạt những khuôn mặt trái xoan trắng, mặt họ xoay quanh như những chiếc lá bị lật, khi có tiếng một chiếc xe. Ông ngồi lại xuống ghế khi họ lướt tới một chỗ dừng, hơi vượt quá cửa nhà ông một chút. “Anh sẽ xem qua nó, đúng không?” Charlie nói, ý chỉ cái trống của bộ thắng xe, đang mở tung trên bàn trong phòng trọ của Nugent. “Được,” ông nói và vẫy chào Charlie ở cửa trước. Bên trong nhà, Nugent nhìn quanh căn phòng nhỏ của ông; chiếc giường hẹp, cửa sổ, với hai bức màn ren giống mái tóc rẽ ngôi giữa trên một khuôn mặt vuông nhỏ và buộc lại ở hai bên. Ông nhìn lên cái bàn nhỏ của ông - bộ thắng bị vỡ của chiếc Bullnose Morris, đẹp như bức tranh vẽ những quả táo trong ánh trăng. Ông bắt đầu cởi nút áo sơ mi ra, đứng trong bóng tối. Áo của ông bung từng nút một. Nó mở thành hình chữ V trên da thịt trước ngực ông. Sâu và sâu mãi xuống dưới. Và Nugent quỳ xuống. Ông tuột áo ra trong tư thế quỳ, và vung áo ra sau lưng, nên những chiếc nút quất vào lưng ông, một lần, hai lần; và sau đó ông bắt đầu những bài kinh ban đêm. Bà ấy đến đây. Lizzy. Em gái ông. Trẻ hơn ông. Bà đã chết. Căn phòng nơi họ lớn lên ngập tiếng nấc hấp hối yếu ớt trong ngực bà; tiếng khò khè khủng khiếp của đờm dãi và máu tươi ghê rợn. Nugent không thể quên được bài kinh lần hạt hằng đêm, được đọc ở một khoảng cách an toàn, khủng khiếp xa giường bà những đốt ngón tay trắng bệch của bà sờ soạng trên khăn trải giường tìm những hột tràng hạt bị rớt, hoặc ánh sáng tối đen trong mắt bà khi bà nhìn ông, giống như bà nhìn thấu ông đến tận xương tủy. Tuổi dậy thì của ông trôi qua không ai để ý - hầu như với ngay cả ông - như bộ ngực bé nhỏ của bà phồng lên dưới lớp áo ngủ. Bà đi về phía cái chết và thời đàn bà với cùng tốc độ, những núm vú giống như những vết thâm mở rộng, bộ ngực phát triển và rồi ngừng phát triển, trên cặp phổi chai đi vì bệnh tật. Và thế là bà chết. Thế có đủ chuyện cho ông nghĩ đến, trong khi đang quỳ không? Nghĩ rằng khi ông ta nắm dương vật mình khi đêm về, nó giống như làn da mỏng manh của bà, luôn luôn ẩm ướt, không bao giờ đổ mồ hôi. Bởi vì, trong những ngày đó, người ta thường bị trộn lẫn vào nhau theo những cách kinh tởm nhất… 6 Tôi sống cái đời mình từ khi Liam chết như thế này đây. Tôi thức suốt đêm. Tôi viết, hoặc tôi không viết. Tôi đi khắp nhà. Không có gì đọng lại ở đây. Không cả bụi. Chúng tôi mua cách đây tám năm, năm 1990, một căn nhà năm phòng ngủ biệt lập. Nó là ngôi nhà gạch đỏ mang chút phong cách Tudor với dấu ấn kiến trúc thời Nữ hoàng Anne, dù không có mái cổng, ơn Chúa, và bên trong được tôi thay đổi bằng màu nâu nhạt, màu kem, sa thạch, phiến thạch. Đây là ngôi nhà sáng như ban ngày nên mỗi khuya tôi bật mọi ngọn đèn với độ giảm sáng được tăng cao và tôi đi từ phòng này sang phòng khác. Chúng ăn thông nhau một cách tuyệt vời. Và tôi có một mình. Lũ con gái chỉ tồn tại dưới dạng cặn lắng: một cuốn phim thò ra từ khe máy, một cây son bóng bên cạnh chiếc điện thoại. Tom, anh đàn ông khó thỏa mãn của tôi, ở trên lầu đang mơ những giấc mơ khó thỏa mãn của anh về sự tổn thương và cứu chuộc trong thế giới của tài chính công ty, và tất cả điều đó chẳng liên quan đến tôi. Màu nâu nhạt, màu kem, sa thạch, phiến thạch. Tôi bắt đầu với mọi kiểu tấm che thanh rèm cửa khi chúng tôi dọn tới đây, cả những tấm vải treo rủ trên cửa sổ. Tôi muốn loại vải in hoa lớn nhất tôi có thể tìm được cho cửa sổ lồi ở mặt trước nhà - bạn có thể hình dung ra nó không? Vào lúc tìm được nguồn cung cấp món này, tôi đã chuyển sang thích những tấm rèm trơn kiểu La Mã và bây giờ khu vườn được trồng trọt đúng kiểu tôi muốn… chẳng muốn gì cả. Tôi dành thời gian để nhìn ngắm các thứ và cầu mong chúng biến mắt, dọn sạch các món. Đó là cách tôi sống cái đời mình. Tôi thức suốt đêm. Lúc mười một giờ rưỡi, nếu anh có nhà, Tom thò đầu vào thư phòng nhỏ và nói, “Đừng thức suốt đêm!” như thể anh không biết rằng tôi sẽ không ngủ với anh, ít ra là trong một thời gian dài tới đây, và có lẽ không bao giờ nữa - vốn là khởi đầu của tất cả sự vụ này, theo một cách nào đó, việc tôi từ chối leo lên giường nằm cạnh chồng tôi một tháng hoặc cỡ đó sau khi Liam chết, việc tôi không thể nào ngủ trên bất cứ chiếc giường nào khác ngoài chiếc giường mà chúng tôi từng nằm chung. Bởi vì tôi sẽ không để cho bọn con gái tìm thấy tôi trong căn phòng chỉ dành cho khách này. Tôi có thể làm gì khác? Chúng tôi không gánh nổi chi phí ly dị. Ngoài ra tôi không muốn rời bỏ anh. Tôi không thể ngủ với anh, có vậy thôi. Vì thế chồng tôi chờ tôi ngủ lại với anh, còn tôi đang chờ đợi thứ gì khác. Tôi đang chờ mọi thứ trở nên rõ ràng. Vì vậy chúng tôi không làm gì. Chúng tôi chia thời gian của chúng tôi. Ít nhất là tôi chia. Tôi nhận phần ban ngày mà Tom để lại cho tôi - có khá nhiều - và tôi sống trong giấc ngủ của anh. Lúc bảy giờ sáng, khi chuông báo thức của anh vang lên, tôi chui vào giường và anh quay sang tôi phàn nàn về cái mông lạnh ngắt của tôi. Anh nói, “Em lại thức suốt đêm phải không?” “Xin lỗi.” Cứ như đây là vấn đề. Cứ như chúng tôi sẽ quan hệ tình dục, nếu không vì cái mông lạnh ngắt của tôi và sự bất tiện quái quỷ thường xuyên trong thời gian biểu của chúng tôi. Anh đánh thức bọn con gái dậy và rời khỏi nhà, và thế là tôi ngủ đến ba giờ, đó là khi tôi lê mặt tôi đến cổng trường. Sau đó, tôi chở chúng đến lớp học múa ba lê hoặc dân vũ Ireland hoặc cưỡi ngựa, hoặc chỉ là về nhà, ở đó chúng có thể được phép xem ti vi trước khi uống trà. Tôi giới hạn ti vi - tôi nói việc này là vì lợi ích của chúng nó, nhưng thực sự nó là vì tôi. Tôi thích nói chuyện với chúng. Nếu không nói chuyện với chúng tôi nghĩ mình sẽ chết vì điều gì đó - cứ gọi là tình trạng không liên quan - tôi nghĩ mình sẽ tiêu trầm. Vì vậy tôi đặt một đứa con gái lên trường kỷ và lèo lái khiến nó yêu thương tôi một chút: Rebecca quá ngốc và tốt bụng, hoặc Emily, con mèo, con gái cưng của ba; hơi thất vọng, hơi lạnh, và đôi mắt xanh nhà Hegarty của nó nơi trái tim tôi xúc động nhất. Chúng tôi rúc vào nhau, và có sự lộn xộn và tán gẫu, rồi sẽ đến màn la lối về bài tập ở nhà, thức ăn bỏ mứa, hoặc giờ ngủ, và lúc chín giờ rưỡi, khi việc la lối và lộn xộn đã qua và chúng ngủ, tôi bắt đầu đi tha thẩn. Tôi nghĩ chúng không thực sự muốn có tôi. Chúng chỉ chịu đựng tôi trong một thời gian. Phòng chờ đến phòng khách đến phòng ăn đến nhà bếp, chỉ một dòng không gian quanh cầu thang; tầng trệt là không gian mở với một thư phòng nhỏ nép ở phía bên kia cánh cửa tiền sảnh. Nếu Tom về nhà tôi sẽ chui vào đó. Một số đêm tôi lên mạng. Nhưng phần lớn, tôi viết về Ada và Nugent trong khách sạn Belvedere, không ngừng nghỉ, lặp đi lặp lại. Lúc mười một giờ rưỡi, Tom thò đầu qua cửa và nói, “Đừng thức suốt đêm!” và khi những bước chân của anh xa dần, thế giới này là của tôi. Và thế giới đó mới điên khùng làm sao! Có những khoảng thời gian dài khi đó tôi không biết mình đang làm gì, hoặc đã làm gì - phần lớn chẳng làm gì, nhưng đôi lúc cũng hay khi biết cái vụ không làm gì đó là cái gì. Khoảng bốn giờ tôi có thể làm một đợt lau dọn túi bụi. Tôi làm việc đó giống như một tên trộm, nín thở khi cọ rửa, chùi sạch bụi bẩn trên tường. Tôi cố không uống trước năm rưỡi, nhưng tôi luôn luôn uống - từ nắp chai vang đến giọt nhỏ xíu, cuối cùng. Đó là cách duy nhất mà tôi biết để kết thúc một ngày. Lúc đêm khuya, tôi nghe những tiếng nói thành từng đợt và những mẩu rời - giống như máy thu thanh được bật lên rồi tắt, trong một phòng khác. Rời rạc, nhưng rất vui nhộn. Những câu chuyện bật ra từ các bức vách. Những mảnh vụn của cuộc sống, ngấm qua. Những tiếng thì thầm trong vòng xoay của tay nắm cửa. Những chú chim trên mái nhà. Tiếp bipbip thỉnh thoảng của đồ chơi con nít. Và một lần nữa, giọng anh trai tôi đang nói, “Nào, nào.” Tôi lắng nghe chờ anh lần nữa, nhưng anh đã đi mất. Khi mở tủ lạnh, đầu óc tôi dễ choáng váng và lầm lẫn; bậc thang bạn bước trượt khi bạn ngủ. Những điềm báo. Tôi cảm thấy tương lai rơi xuyên đỉnh tâm trí của tôi và khi tôi nhìn thì không có gì ở đó. Một sợi dây thừng. Cái gì đó treo lủng lẳng trong một cái túi, mà tôi không chạm vào được. Tôi cảm thấy tất cả những hối tiếc từ khi rót rượu vang ra tới lúc với lấy cái ly. ❀ ❀ ❀ Đôi khi, tôi lên lầu để nhìn vào giường mình, không có tôi trên đó. Tom nằm ngửa ngủ. Anh không ngáy. Thỉnh thoảng, khi buồn rầu trong giấc ngủ, anh nằm nghiêng và hai tay anh thu lại dưới cằm. Chồng tôi, co giật trong lúc mơ. Tom chuyển tiền khắp nơi, qua mạng. Mỗi khi anh làm chuyện này, một chút xíu dính vào anh. Từng ngày một. Từng giờ một. Từng phút một. Cả đống tiền, về lâu về dài. Liam, anh trai tôi, dành phần lớn cuộc đời lao động của anh để làm y công trong bệnh viện Hamstead Royal Free. Anh đẩy giường dọc theo các hành lang và cho những cục bướu ung thư vào túi và mang những chi bị cắt xuống lò thiêu, và anh thích thú công việc đó, anh nói. Anh thích bầu bạn ở đây. Tôi từng là một nhà báo. Tôi thường viết về vấn đề mua sắm (ai đó phải làm việc này chứ). Bây giờ tôi chăm sóc bọn trẻ - đó gọi là gì? Tom làm tình với tôi vào đêm thức canh người chết - như thể cái chết của Liam đã làm chúng tôi phấn chấn lại: cảnh nhộn nhạo, bọn trẻ, công việc lớn lao bận rộn và những đêm khuya căng thẳng để khỏi ngủ với những phụ nữ khác. Anh đang quay lại với những điều cơ bản: nói với tôi rằng anh yêu tôi, nói với tôi rằng anh trai tôi có thể chết nhưng anh ấy vẫn còn sống rất trọn vẹn. Thực thi quyền của anh ấy. Tôi yêu chồng tôi, nhưng tôi nằm đó với hai chân cặp hai bên hông trai làng đang uốn éo của anh, và tôi không cảm thấy mình đang sống. Tôi cảm thấy giống một chú gà khi nó bị xẻ làm tư. 7 Nhưng hãy tạm gác cái đó lại. Hãy để con gà tội nghiệp đó chờ một lát. Đây tôi đang trên đường Brighton, trên đường lấy xác anh tôi về, hoặc nhìn nó, hoặc nói xin chào với nó, hoặc tạm biệt, hoặc làm bất cứ chuyện gì với cái xác mà bạn từng thương yêu. Bày tỏ lòng kính trọng. Đó là một ngày thu êm đềm. Tôi nhìn ra cửa sổ và ngạc nhiên thấy vùng Downs quả có tồn tại. Nước Anh đối với tôi lúc nào cũng có cảm giác trẻ con. Haywards Heath Wivelsfield Burgess Hill Hassocks Những cái tên thật lố bịch và ngớ ngẩn cứ như chúng hẳn được bịa ra. Cảm giác ngạc nhiên không ngớt về vùng đất này, rằng nó thực sự xanh và thực sự yên bình. Rằng nó thực sự ở đó. Nó di chuyển qua chỗ tôi, nhưng theo những tốc độ khác nhau. Ở cự ly vừa phải một vùng đồng quê chạy qua một cách thanh bình, trong khi những ngọn đồi xa xa hơi chạy về phía sau, trong một dải hẹp. Tôi cố tìm ra cái đường mà dọc theo đó phong cảnh đứng yên hoặc thay đổi quyết định của nó, nghĩ rằng du hành là một thứ việc ngược lại, bởi vì di chuyển về phía người chết là không di chuyển gì cả. Rồi chị Bea của tôi gọi điện thoại. “Xin chào?” “Em đang dùng chuyển vùng hả?” “Em không biết.” “Thế này, nếu đang ở Anh, là em có dùng chuyển vùng.” “Được rồi, em dùng chuyển vùng.” “Được rồi, chị sẽ không làm hóa đơn của em tăng lên đâu,” chị ấy bảo. Và chị bắt đầu nói. Một ước muốn bất chợt xa xưa nào đó của mẹ tôi đã khiến bà muốn quan tài được mang về nhà trước khi đem đi, để Liam có thể được quàn trong căn phòng khá đáng sợ của chúng tôi. Dù, khi nghĩ đến chuyện đó, tôi không thể nghĩ ra tấm thảm nào tốt hơn cho một xác chết, như tôi nói với Bea; tất cả những hình chữ nhật cam và nâu đó. “Đó là một tấm thảm,” Bea nói. Và tôi nói, “Ô, thôi mà.” “Cứ làm vậy đi,” chị nói. “Làm đi à?” tôi nói, nghĩa là, Em trả tiền mắc dịch mua nó đó. “Nếu còn sống hẳn cha sẽ muốn như thế,” chị nói, nghĩa là, Ta là người canh giữ ngọn lửa, và tôi giận chị đến độ không nghe được mình nói gì, hoặc chị nói gì trong một lát nữa khi miền thôn quê, với mọi hướng và tốc độ khác nhau của nó, chạy qua cửa sổ xe và chúng tôi nỗ lực đưa mình trở lại địa phận an toàn. Dĩ nhiên là chị đúng. Cha tôi lớn lên ở miền Tây - ông luôn luôn biết điều gì là đúng đắn cần làm. Ông có phong cách đẹp. Mà điều đó, nếu bạn hỏi tôi, chủ yếu là vấn đề chẳng nói gì cả, với bất cứ ai. “Xin chào, bác khỏe không”, “Thôi tạm biệt, bảo trọng nhé”, toàn bộ sự vụ của con người phải được nghi thức hóa. “Tôi rất tiếc vì phải quấy quả ngài”, “Cất tiền đó đi”, “Đó là một miếng thịt muối ngon đấy”, “Cuộc gọi của ông thật tử tế quá”. Nó khiến tôi chán phát khóc, thực sự: tất cả sự tự chủ đó. Phẩm giá của con người này có phần bị hủy hoại bởi tốc độ sinh sản điên cuồng của ông. Cha chết vì một cơn đau tim năm 1986, và những người đưa ma cười nhạo về chuyện đó ở hiên nhà thờ, giống như ông tự làm kiệt sức mình vì đã quan hệ tình dục quá nhiều. “Chắc ông ấy sẽ tự hào khi thấy tất cả các cháu,” một người láng giềng nói. “Quá tự hào. Ngồi thành một hàng, giống như những bậc thang.” Tôi không nói ra, nhưng tôi không nghĩ vậy - không hẳn lắm. Tôi không nghĩ ông sẽ đặc biệt tự hào. Ông quả là cực giỏi tiếng Ireland. Ngôn ngữ là một chốn lãng mạn, đối với ông, và nó là nơi tôi yêu ông, ngay cả lúc này. Ông không phải kẻ tồi tệ nhất. Cha tôi là giảng viên trong trường cao đẳng sư phạm địa phương, vì vậy, giữa những kỳ nghỉ dài và những giờ dạy ngắn ngủi, ông thường ở trong nhà; sắp xếp, ra lệnh, hướng dẫn giao thông, bưng vào nhà những hộp rau cải mùa đông mua ở chợ sớm giống như ông đang điều hành một trại hè chứ không phải một gia đình. Dù tất cả chuyện này hẳn cũng dừng lại lúc nào đó - vào lúc tôi học trung học chúng tôi sống bằng cách phái hai anh em sinh đôi đến cửa hàng ở góc phố mua giăm bông; Ernest hoặc Mossie xóc leng keng mớ tiền lẻ trong túi nó để xem liệu chúng có đủ mua suất ăn sáng đầy đủ không. Không ai trong gia đình Hegarty bủn xỉn cả. Kể cả tôi, người lạnh lùng nhất trong gia đình Hegarty, cũng không keo kiệt. Điều này không chỉ là một vấn đề xã hội, nó giống như một điều cấm kỵ tôn giáo; một kẻ bần tiện vẫn làm da tôi nổi ốc, tôi phải quay đi nhìn hướng khác. Xét theo cách đó tôi là thứ gì? Em trả tiền mắc dịch mua nó đó. Một sự phá vỡ trật tự tự nhiên, tôi là thứ đó. Trong khi đó, xe lửa rên rỉ xuyên nước Anh, xành xạch xành xạch, và Bea nói tiếp, ngồi trên đầu gối người cha đã chết của tôi với một sợi ruy băng trên tóc, giống hệt cô con gái nhỏ ngoan ngoãn là chị xưa nay, và tôi nhìn những ngọn đồi, cố lớn lên, cố để cha tôi chết, có để chị tôi bước vào tuổi thanh xuân (chưa nói đến tuổi mãn kinh). Và không chuyện gì trong số những chuyện này là khả dĩ. Không chuyện gì. Có một đường trong quang cảnh này không chịu di chuyển, thay vì thế nó trượt lùi, và đó là chỗ tôi dán mắt vào. “Chúc may mắn ở Brighton,” Bea nói, và giọng nói của chị lôi tôi vào những bụi cây đang vụt qua. “Cám ơn,” tôi nói. “Chăm sóc mẹ nghen,” rồi tôi tắt điện thoại, và tự hỏi không biết tôi có nói các từ “xác chết” hay “quan tài” hay “thi hài” vào sự yên lặng kiểu Anh tuyệt vời của toa xe lửa, nghĩ tôi thà ăn cứt còn hơn - món gì nhỉ? - những thiên thần trên lưng ngựa* với những láng giềng, quanh xác chết của anh tôi trong căn phòng khách cũ. Món thịt lợn muối bọc sọ. Tấm thảm thối tha đó. Và không chỉ láng giềng, mà cả những gì còn sót lại của đám Midge Bea-Ernest-Stevie-Ita-Mossie-Liam-Veronica-Kitty-Alice-và-hai-đứa-sinh đôi-Ivor-và-Jem. Người chết, những người sùng đạo và những người quản lý văn phòng (còn thêm các bà nội trợ, cựu nhà báo, nữ diễn viên thất bại, những chuyên viên gây mê, người thiết kế vườn cảnh, thứ gì đó trong công nghệ thông tin, và thứ gì khác trong công nghệ thông tin). Chúng tôi sẽ nhìn quanh và nói, Bớt một. Bớt một. Trong khi đó bọn trẻ chạy loanh quanh, bóc trần ngôi nhà đến còn trơ vữa bằng âm thanh gào la của chúng; Rebecca chơi với đứa em họ Anuna, thực ra là cháu gái hai đời của tôi - vì vậy đừng hỏi tôi bất cứ thứ gì “cách biệt” mấy đời. Ôi! Anh ấy đã ở thế tuyệt vọng - đó là điều chúng tôi sẽ nói. Anh ấy là kẻ gây rối khủng khiếp. Anh ấy luôn luôn đầy tiềm năng. Anh ấy chỉ không thể tập hợp nó lại. Anh ấy có một trái tim nhân hậu. Anh ấy có đầu óc lành mạnh. Anh ấy là bầu bạn cừ nhất, chúng tôi sẽ nói thế. Ô! Thông minh làm sao. Anh ấy ăn nói khôn ngoan, không còn nghi ngờ gì về chuyện đó! Nhưng anh ấy rất nhạy cảm. Vấn đề của Liam là cái vụ nhạy cảm. Bạn những muốn chăm sóc anh ấy. Anh ấy không đủ khả năng đương đầu thế giới này. Không hoàn toàn. “Phải,” tôi sẽ nói. “Anh ấy là kẻ gây rối.” Tôi không biết đó có phải là ký ức đầu tiên của tôi không, nhưng chắc chắn một trong những ký ức sâu đậm nhất của tôi về Liam là anh đái qua một hàng rào kẽm gai vào một hồ nuớc phẳng lặng ở phía bên kia. “Xèèèè!” Nước đái bắn vào hàng rào, và rồi thôi không bắn nữa, trong khi tôi lướt qua bằng giày trượt. Những chiếc giày trượt! Lúc này khi nhớ lại chúng, tôi nghĩ rằng Ada hẳn đã chiều chúng tôi đến hư. 8 Khi tôi vừa lên tám và Liam gần chín tuổi, chúng tôi được gửi cùng với đứa em nhỏ của chúng tôi, Kitty, đến ở với Ada tại Broadstone. Nơi này cách chỗ chúng tôi sống chỉ vài cây số - dĩ nhiên bây giờ tôi mới biết, nhưng khi tụi tôi còn bé nó cũng xa lắc xa lơ không khác gì Timbuctoo. Nó là một thế giới khép kín; một vùng cá biệt gồm những ngôi nhà của thợ thủ công sát trung tâm Dublin, khớp vào nhau như đồ chơi Lego. Tôi nghĩ chúng tôi có thể cũng đã bị gửi tới đó khi Kitty còn bé xíu. Có một khoảng cách giữa các lần sinh nở của mẹ tôi lúc đó, và tôi mệnh danh những năm đó là những năm trẻ con chết, những năm ghi dấu lên con người bà và biến bà thành cái tạo vật mà tôi biết sau này. Tôi không biết họ gọi những tình tiết này là gì. Những phụ nữ độc thân có “những lần tan vỡ”, nhưng vào thời đó các phụ nữ có chồng chỉ hoặc là có thêm con nhỏ, hoặc không có thêm con nhỏ nữa. Dù sao thì mẹ tôi lại tiếp tục nữa, với Alice năm 1967 (chúng tôi làm được gì nếu không có Alice!) rồi ngay sau đó đến Ivor và Jem. Tôi cho rằng sự bất công của việc sinh đôi đã kích thích “cơn kích động thần kinh” cuối cùng của bà. Chắc chắn luôn luôn có những viên thuốc an thần xen giữa thuốc hạ sốt Brufen và warfarin chống đông máu trong đĩa đựng thuốc của bà, và, trong chừng mực tôi biết, bà thường có những cơn run, những khó khăn không thể giải thích được, và những cơn khóc lóc bất chợt. Đôi khi tôi tự hỏi bà ra sao trước khi chúng tôi phải ra đi, hoặc liệu tôi có biết thứ gì mất đi khi mỗi lần chúng tôi trở về không - liệu “bà mẹ” nào đó, người khiêu vũ với cây chổi và hôn bụng đứa bé, có được thay thế bằng khối thịt người hiền lành này, đang ngồi trong một căn phòng hay không. ❀ ❀ ❀ Nhà của Ada rất yên tĩnh. Thật khó quên được âm thanh hơi thở của ta - đi vào, ngập ngừng ra - cho đến khi ta thấy ngộp, hơi chút thôi, vì chính sự do dự của ta. Đó là sự yên tĩnh của một ngôi nhà không có trẻ con và các phòng đầy đồ đạc. Có nhiều thứ trên mặt lò sưởi và những món be bé trên bàn mà ta không được phép đụng tới. Có những ngăn kéo đầy những thứ đã nhiều năm không dùng đến, hoặc chỉ được dùng một lần mỗi năm. Tất cả những thứ này tách rời nhau, và đều đặc biệt, khác hẳn với ở nhà nơi các thứ không bao giờ tách nhau. Ada cũng tồn tại theo một cách khác biệt mà mẹ tôi không làm được. Bà cãi cọ với Charlie hoặc ve vãn ông trong nhà bếp. Ba mẹ tôi không bao giờ ve vãn nhau, có vẻ như họ không có khả năng làm chuyện đó. “Bây giờ bật ti vi lên, để ba mày nghe tin tức.” Họ nói với nhau thông qua lũ con cái, giống như mọi cặp vợ chồng khác mà tôi biết. Và nếu không có những lời âu yếm linh tinh thì cũng không có cãi cọ gì cả - dù đôi khi một giọng đay nghiến cũng xuất hiện trong cuộc trò chuyện của họ, nó có thể là dấu hiệu của sự lạnh nhạt hay chán ghét cá nhân. Tôi không biết nữa. Có lẽ tôi sai. Có lẽ họ nói chuyện với nhau thường xuyên, nhưng có cái gì đó quá thân tình ở cách nói của họ mà tôi không nghe được, hoặc không giữ được - cũng như thật khó nhớ lại được tiếng cười cụ thể của ai đó mà ta yêu thương. Nhưng Ada thì ve vãn Charlie - tôi nhớ rõ điều đó: Ada đong đưa người từ bếp đến bàn, và hát trong khi bày bữa tối cho Charlie. Và tôi nhớ những thứ của bà - cái tủ ngăn kéo ở chiếu nghỉ tầng trên đầy nhóc mảnh vải vụn; những cuốn sách mẫu thêu với những trang mà ta có thể lật giống như những trang giấy mềm của một cuốn sách không có câu chuyện, chỉ hết mẫu này đến mẫu khác. Có một bình thủy tinh chạm khắc đựng đầy lông chim trên mặt lò sưởi trong phòng ngủ của Ada; tôi nhớ tiếng lạo xạo của mấy cái nón rơm của bà, và mùi của những nón nỉ mà bà cất giữ dưới đáy tủ quần áo. Tất cả thứ này có lẽ từ thời kỳ tuổi thơ khó tính của tôi, lúc tám chín tuổi gì đó, khi tôi thích gấp và vuốt phẳng và giữ bí mật mọi thứ. Ngoại trừ mùi bên trong của những chiếc nón, mà tôi nhớ từ hồi lên ba. Thỉnh thoảng chúng tôi mới ở trong nhà, phần lớn thời gian chúng tôi chạy nhông ngoài đường và chơi quanh hồ, một hồ nhân tạo, nước của nó từng được dùng để làm rượu whisky Ireland. Chính chuyện này buộc Liam đái vào đó, và đây là bức tranh về anh mà tôi có trong đầu, một cậu trai ưỡn bụng dưới ra để phun vòng cung nước đái của mình lên không, nước đái tóe vào dây kẽm gai hoặc bắn, đột nhiên thật dễ, qua một mắt lưới của tấm lưới hàng rào. Cũng có pháo đài là trạm xe buýt tại Broadstone cần phải bao vây, một bức tường đen, giống như một vách đá được xẻ từ ngọn đồi ra, với bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh đặt trên đỉnh. Chúng tôi quanh quẩn ở các cổng, và sau cùng, một ngày nọ, lẻn vào nơi những chiếc xe buýt hai tầng đậu thành hàng, luồn lách và bò dọc theo hông xe dài ngoẵng, cho đến khi - đó hẳn phải là Liam, khó mà là tôi được - một đứa chúng tôi thò tay tới nắm cửa được lắp giống như mặt đĩa hình bán nguyệt cạnh cửa. Xììììì. Ta có thể ngửi thấy họ từ lớp da giả màu xanh bọc ghế, những người từng ngồi đây và lại đứng lên, để người khác có thể ngồi đây và lại đứng lên, hết phút này sang phút khác, hết ngày này sang ngày khác, với việc mua sắm và cuộc sống thường lệ của họ. Và dù chúng tôi không rạch ghế hay xịt sơn lên trần xe, chiếc xe buýt này vẫn quá ù lì và trống trải khi chúng tôi chạy qua nó, đến độ nó khiến chúng tôi nhận ra, cả ba đứa, chúng tôi ở ngoài mọi thứ ra sao, khi được giao cho bà ngoại trông nom - người bất ngờ chẳng có nghĩa gì với chúng tôi - và nhớ ba mẹ chúng tôi, những người ngày càng ít có ý nghĩa. Trong chốc lát, khi Liam vặn mở cánh cửa lửng ngăn chỗ ngồi của tài xế, tôi có cảm giác càng lúc càng mạnh mẽ rằng anh ấy thực sự có thể lái vật thể này, lao loạng choạng xuống tới đồi Constitution, bò lên qua Phibsboro, tới nơi mà gia đình thực sự của chúng tôi đang phát triển mà không có chúng tôi, và đi xa hơn nữa. Và sau đó chúng tôi bị bắt quả tang. Tôi ở tầng trên và chẳng nghe thấy gì ngoại trừ, sau này nhớ lại, tiếng xăng đan lẹp bẹp của Liam và Kitty khi họ bỏ chạy, Liam quay lại vào phút chót để hét gọi tôi, âm thanh này tôi nghe được, tên của tôi vọng tới, vì một lý do nào đó, từ bên ngoài xe buýt, trong khi bên trong xe có âm thanh của một người đàn ông lên bậc thang, và hình ảnh bàn tay ông ta trên thanh vịn mạ crôm khi ông đu người lên, từng bậc thang một, cuối cùng nửa thân trên của ông ta nhô lên khỏi đầu cầu thang giống như một quả bóng phình to. Sau khi bước lên hẳn ông ta dừng lại, nhìn tôi. Ông ta đội mũ lưỡi trai và mặc áo sơ mi xanh đồng phục, cài khuy muốn bật tung trên cái bụng khổng lồ, cái kiểu bụng cần có thắt lưng để đỡ lấy, như bộ ngực cần nịt vú vậy. Ông ta lê cái bụng bự đó dọc theo lối đi đến chỗ tôi, trong khi tôi bước lui, cho đến lúc tôi vấp té ngồi xuống ở ghế cuối xe buýt. Sau đó ông ta gí nó vào tôi - và cho dù tôi không chắc tát cả chuyện này là có thật, tôi vẫn nhớ rõ độ căng cứng đáng ngạc nhiên và độ nẩy tưng của nó, khi ông ta ép nó vào mặt tôi với cái nút trắng nhô ra trước: sau cùng tôi ngọ ngoạy luồn dưới nó, tọt qua đôi chân nhỏ bé và mùi hôi từ cái quần gabardin tài xé của ông ta. Sau đó tuột xuống cầu thang. “Cút ra!” ông ta quát với theo tôi, “Cút ra!” Nhiều tài xế khác quay sang nhìn khi tôi chạy hết tốc lực ra cổng và rồi vượt qua đó. Chỉ có một đường duy nhất để đi và nó chạy xuống đồi Constitution, cho đến khi tôi hết hơi, ở nơi tôi chắc chắn sẽ gặp Kitty và Liam. Nhưng tôi không tìm thấy họ mãi đến khi tới cổng nhà thờ: Liam, ngay từ hồi ấy, với ý tưởng gì đó về nơi che chở - rằng ngay cả người soát vé xe buýt mặc đồng phục cũng không thể tóm được ta ở đó. Chúng tôi đi vào để cầu nguyện - và tôi thực sự tin điều này đã xảy ra cùng ngày đó - chúng tôi quỳ gần bàn thờ với ý nghĩ có người đuổi theo ngay sau lưng, và sau khi nhịp tim bình ổn lại chúng tôi nhìn nhau, và giữa cái nhìn ấy nhu cầu bật cười lên đã chuyển dịch đi khi chúng tôi nhìn lên một cái gì thần thánh hơn, cao cả hơn. Thế là, với cảm giác phấn chấn ngoan đạo chúng tôi tạ ơn việc cứu nguy chúng tôi tại ban thờ thánh Felix bằng cách đốt một cây nến và sau đó, khi tôi không tìm được cái khe để nhét mấy đồng xu vào, chúng tôi đốt hai ba cây nến nữa, cho đến khi một linh mục làm hằn lên cánh tay Kitty một vòng những vết thâm tím, và giội xuống chúng tôi, trong khi ông tiếp tục giữ chặt con bé, một bài giảng đầy cuồng mộ về tội lỗi. Và tôi không thể nhớ được một lời nào trong bài giảng đó, hoặc những điều sau đó Ada nói về tình trạng cánh tay của Kitty, dù tôi nhớ rõ cái vẻ sinh động, đậm nét trên bộ mặt đang lảm nhảm của ông linh mục, giống như một quả bí đặc. Và dù lý lẽ thường tình cho rằng hai sự kiện này không thể xảy ra cùng một ngày, tôi vẫn nói rằng chúng đã xảy ra, và khi một người đàn ông đi theo tôi qua những con phố nhỏ Venice, nhiều năm sau, với dương vật cương cứng trong tay, tôi đã lủi nhanh vào một nhà thờ như thể mời gọi một thứ gì tồi tệ hơn - thay vì điều đó tôi chẳng nhận được gì cả: những chiếc ghế trống không, mốc meo trên tường,, một mẩu giấy dán bên dưới một bức tranh sơn dầu xám xịt với chữ “di Tintoretto” (của Tintoretto) viết bằng bút bi. Có một nhà nguyện phụ tối đen với cảnh thiên đường vẽ trên trần, ít nhất là khi ta bỏ đồng 100 Live cho những ngọn đèn sáng lên. Ngoài ra tất cả đều tồi tàn, tĩnh lặng. Chẳng có điều tồi tệ hơn chờ chực xảy ra với tôi. Tôi quỳ quay lưng vào khung chữ nhật trắng lóa của cánh cửa mở, nhưng tay người Ý trên đường không xuất hiện sau lưng tôi, chẳng đứa bé nào từ phòng xưng tội bước ra với hai bàn tay chắp lại giữ một chén tinh trùng, không vị thánh nào nhúc nhích. Tôi cúi đầu cầu nguyện giống một phụ nữ trong một bộ phim hồi thập niên năm mươi, tôi cầu nguyện rằng nó sẽ rời khỏi tôi, cái cảm giác nghẹt thở rằng đây là cách tôi sẽ chết, mặt tôi bị kẹp trong cái quần gabardin kinh tởm, màu xanh biển hoặc đen, và dương vật của người lạ thọc sâu trong họng tôi và cái gì, cái gì, cái gì? Cái gì đó xoay trong bụng tôi. Một con dao. Không phải con dao. Nó không thật. Nhưng cờ-lích. Ánh đèn trong nhà nguyện phụ sáng lên, với một tiếng động lớn, tiếp theo là tiếng chạy máy móc chậm chạp của mớ tiền của ai đó tuôn ra. Tôi quỳ đó nhìn những người Đức và người Anh bước vào, đoán ra bí mật của hộp đựng đồng xu và bật cảnh thiên đường lên, trong khi ngay sau lưng tôi gã người Ý đó với dương vật cương cứng cứ lần lữa ngay khung cửa mở của nhà thờ, hoặc không. (Dù sao thì hắn định làm gì với nó vậy?) Dù sao đi nữa hắn cũng không qua được ngưỡng cửa, và khi kết thúc việc cầu nguyện vô thần tuyệt vọng của mình tôi quay lại thì thấy hắn đã đi mất. Thật là tốt. Có điều lúc này, khi tôi đi trên phố, hắn có mặt khắp nơi. Nói chung chúng tôi là những đứa bé ngoan. Tôi tưởng tượng rằng chúng tôi là những đứa bé ngoan, trong những ngày ở Broadstone đó; hơi lặng lẽ, hơi lo lắng, có lẽ; Liam đặc biệt dễ có những dao động đột ngột và thay đổi đường hướng, nhưng những thứ này không chỉ đáng sợ mà cũng thường vui nhộn và dù Kitty có là một mối phiền hà thì nó cũng phiền hà theo một kiểu con nít, và chẳng có gì tai hại ở bất cứ đứa nào trong chúng tôi mà tôi có thể nghĩ ra - tại sao phải có cơ chứ? 9 Người đàn ông cạnh tôi trên chuyến xe lửa đến Brighton hơi nhích khung xương chậu của hắn lên, và lại đặt nó xuống. Hắn ngủ gật trong ánh nắng chập chờn, đầy dục tính, được ru và bị quấy rối vì chuyển động của xe lửa. Tôi có thể cảm thấy máu dồn lại trong đùi hắn; dương vật thuôn dài của hắn nhích dọc ống quần của bộ đồ hắn mặc. Lại một gã khác. Nhưng nghĩ lại, chẳng có gì phải om sòm về chuyện này - một doanh nhân trẻ bị cương cứng cạnh bạn trên xe lửa - cho dù bạn vừa mới mất người thân. Xét vì tình trạng của tôi lúc này, tôi nhận thấy cơ chế thủy lực học của vụ này còn hơn cả kỳ lạ. Những vật nhỏ như thế mang lại những kết quả lớn lao như thế. Tôi tự hỏi, thoáng qua, nếu Liam được sinh ra là phụ nữ và không phải đàn ông thì liệu giờ này anh còn sống không. Và đột nhiên, anh ở ngay kia, đang liếc mắt từ sau cái xe đẩy phục vụ trà, với khăn trùm đầu Dick Emery và nịt vú nâng ngực công nghiệp. “Ô lê! Tôi còn sống!” Và, “Không, cám ơn,” tôi nói với người phụ nữ cực kỳ đáng kính đang đề nghị, “Quý vị dùng gì không?” khi người đàn ông cạnh tôi với lấy tờ báo để che đùi hắn lại. Vô hại. Vô hại. Vô hại. Và tôi nhắm mắt lại. Liam đi vào phòng bệnh viện tôi nằm buổi tối sau khi tôi sinh Rebecca. Anh vừa mới đến, với một bó hoa màu hồng từ cửa hàng tầng dưới. Tom đã về nhà ngủ một chút và những cú điện đã được gọi xong và người ta cho tôi thời gian để hồi sức, nhưng tôi quá phấn khích, cứ khoe em bé với những y tá và lao công, tự hỏi phải chăng có một trận bóng đá hay một vụ tấn công khủng bố đã khiến cho tất cả những kẻ ngưỡng mộ con bé vướng vào cảnh kẹt xe nào đó? Và Liam đứng ngay khung cửa - tôi thậm chí không biết anh đã về nhà. Và tôi ở đó, dựa trên những chiếc gối và đầm đìa mồ hôi với đứa bé - đẹp khôn tả - đặt trong nôi nhựa cạnh tôi. Anh đi vào phòng để nhìn và có một vẻ vững chắc ở anh khi anh cúi nhìn thế hệ kế tiếp này, xem xét, theo phong cách một người chủ, đôi mắt, những ngón tay, ngón chân, những lỗ li ti trên mũi con bé còn bám đầy chất màu vàng đã bắt đầu làm tôi hoảng hồn về những mụn đầu đen khi con bé lớn lên. “Em khỏe không?” anh chắc đã nói thế. Tôi không nghĩ chúng tôi hôn nhau. Người nhà Hegarty không hôn nhau cho đến cuối thập niên tám mươi và ngay cả hồi đó chúng tôi vẫn chỉ hạn chế ở lễ Giáng sinh. “Em khỏe,” tôi hẳn đáp lại vậy. Và anh ngồi trên ghế dành cho khách và nhìn cảnh mới mẻ này: mẹ và con. “Chuyện ổn không?” tôi nhớ anh đã nói câu đó, và tôi nhớ mình đã nói, “Chà, chuyện giờ ổn rồi.” Những bức tường được sơn màu vàng và ánh nắng có gì đó đậm đặc và phấn khích, do đứa bé đã ra đời. Tôi nhớ mình đã nghĩ anh mới dễ coi làm sao; anh sẽ có vẻ đẹp trai làm sao khi đi dọc một con phố toàn người lạ, ông anh hơi mập của tôi. Anh vui khi thấy đứa bé. Anh bị rút gọn lại, bởi hình ảnh con bé, thành ai đó tôi đã biết tận trong xương. Việc sinh nở đã trả lại cho tôi khứu giác, vốn bị phá hỏng một cách kỳ cục trong thời gian tôi mang thai, và tôi khao khát hương thơm khi cái mũi chúi vào ly sâm banh đến độ tôi không chịu uống mà chỉ ngửi suốt buổi chiều. Tôi có thể xác định, từ giờ này sang giờ khác, thức uống này đang hư đi khi gặp không khí như thế nào. Đây là nơi tôi tồn tại - trong mùi hương bốc lên từ một vũng sâm banh - bên cạnh nó, ngay cả quần áo của Liam cũng thấy màu mè. Tôi nói với anh mẹ chúng tôi đã gọi điện, và rằng bà đã khóc. “Khóc à?” anh nói. “Bà nghĩ tất cả chúng ta đều vô sinh,” tôi nói, dù trong thoáng chốc tôi bỗng cảm thấy sự phản bội của chính mình. Tôi đã rất vui mừng khi bà gọi đến. Chúng tôi nói về bà một lát. Anh nhìn cái ly trên tủ cạnh giường, và tôi bảo anh đó chỉ là một kiểu rượu đựng trong chai nhỏ trên máy bay. Nhưng anh đã uống cạn nó cho tôi trước khi ra về, dù nó đã hết lạnh và nhạt thếch và bẩn thỉu vì cái chất gì hăng cay đang chảy tràn khỏi những lỗ chân lông của tôi khi tôi xì hơi từ từ vào trong phòng. Tôi không quan tâm. Tôi nói với anh thật mừng là mùi của nó đã biến mất. Ngồi trên chuyến xe lửa Brighton tôi cố đặt một thời gian biểu cho việc uống rượu của anh tôi. Rượu không phải là vấn đề của anh, nhưng sau cùng nó đã trở thành vấn đề của anh, điều đó là một sự nhẹ nhõm cho mọi người có liên quan. “Em hơi lo về chuyện uống rượu của anh ấy,” - thế là, sau ít lâu, không ai còn nghe được một điều anh nói nữa. Cũng hoàn toàn đúng, tất cả hoàn toàn là bố láo. Chất cồn đã hủy hoại anh, quả đúng thế. Nhưng tôi đang cố xác định thời gian của nó - cái thời điểm tôi thôi lo lắng về anh mà thay vào đó tôi bắt đầu ưu tư về việc uống rượu của anh. Có lẽ chính là lúc đó - với đứa con mới chào đời của tôi đang mở mắt, nhiều lần, như thể kiểm tra để chắc rằng thế giới vẫn còn đó. Đó có lẽ là giây phút đó. Ngay lúc đó. Một người uống rượu thì không tồn tại. Bất kể họ nói gì, đó chỉ là rượu nói. Hoặc họ chỉ tồn tại trong những thoáng chốc. Ngồi dựa lưng vào một bức tường vàng nhìn đứa em gái yêu thương của bạn, người vừa rứt ruột đẻ ra một đứa con. Một cái nhìn vào mắt bạn giống như những thời xa xưa. Phần còn lại không đáng tin cậy. Tôi có thể ngửi thấy mùi món rượu đắng anh đã uống trước khi anh bước vào cửa bệnh viện, tôi có thể ngửi thấy mùi rượu vang bữa trưa của anh và mùi bia tối qua. Nhưng cũng có một sự chuyển hóa chất nào đó, một vị ngọt ngào trong máu và ở hơi thở của anh mà tôi không nhận ra. Anh ăn không nhiều, những năm cuối đó, thân thể anh ấy chạy bằng rượu. Và ngồi trên xe lửa đến Brighton tôi tự hỏi liệu anh có bị bệnh tiểu đường không, liệu đó có phải là điều trục trặc không. Tôi chợt nghĩ rằng giá như anh đã làm xét nghiệm máu, chúng tôi có thể làm gì đó cho chuyện này, bởi xét cho cùng việc uống rượu của anh không phải là vấn đề, có lẽ. Rồi tôi nhận ra rằng anh đã chết. Và dĩ nhiên chuyện uống rượu của anh là một tuyên bố hiện sinh, sao tôi có thể quên? Chắc chắn chẳng có gì chuyển hóa chất ở đây cả. Không có nguyên nhân. Anh có say nhừ khi chết không? Có lẽ có. Và bây giờ con nước nào chạy trong những mạch máu của anh? Máu, nước biển, rượu whisky. Anh là kẻ mê đắm whisky. Có lẽ anh nghĩ anh đang bơi tới nước Pháp thối tha. Tôi nhắm mắt tránh ánh nắng ấm áp và ngủ gật bên cạnh người đàn ông đang ngủ gật trên chuyến xe lửa đi Brighton. 10 Đây là Ada và Charlie trên giường một năm sau. Charlie béo tốt như một con hải cẩu với cái bụng mập, dài; con cu ỉu xìu đỏ hồng dựa vào cái đùi trắng, mập. Đó là sáng thứ Bảy, và mỗi cơn gió lạc, mỗi chuyển động của Ada bên dưới lớp mền bông đều có thể làm ông hứng lên, cho đến khi đạt đến một góc độ - chẳng hạn năm mươi độ - được ông đánh giá là vừa nghiêm khắc vừa tử tế. Ông suy ngẫm về nó một lát - bốn mươi có thể được coi là bất tiện, bất kỳ mức thấp hơn nào chỉ là lỗi lầm ngớ ngẩn và mắc cỡ - và rồi nó là một điều ông phải chia sẻ, vấn đề về góc độ này. Ông chui ngược trở vào dưới lớp chăn mền tới bắp đùi khẳng khiu của Ada thế là bà bật cười và nhấc đầu gối lên. Họ đã làm chuyện này quá thường xuyên trong mấy giờ vừa qua đến độ khó xác định sự khác biệt giữa bên ngoài và bên trong. Lại còn sự khác biệt giữa mền đắp và không khí trong phòng, giữa quần áo của họ và bàn tay của họ: mọi thứ có vẻ mơn trớn họ. Họ là một bó dây thần kinh, bị chọc ngứa ở các đầu dây. Họ đang bào mòn nhau; cả hai ngạc nhiên bởi độ mỏng của lớp da bắt gặp ngay ở đó; họ có thể cận kề nhau đến độ nào, máu gần bên máu, đến nỗi, sau đó, sự ngọ nguậy của người này bên trong người kia có thể là một trò đùa, hoặc một nhịp đập - tiếng đập của trái tim ai khác trong mạch máu của ta. Dĩ nhiên Charlie, ở tuổi ba mươi ba, đủ hiểu biết để không kết thúc bên trong Ada thường xuyên hơn mức ông có thể dừng được (dù đôi khi, quả thực, ông hoàn toàn không dừng được), và vì thế đến chặng cuối ông kéo mình ra để nằm soài ra như một người chết đuối, ứa nước biển trên cầu cảng. Và Ada tê rát đi không chỉ vì tình yêu mà còn vì chất giấm mà bà dùng trong chiếc túi Pháp đặc biệt của bà; một món quà của Charlie - quá kỳ quặc và tinh quái - sau khi họ hứa hôn. Họ là tình nhân. Cho dù đã cưới nhau họ vẫn là tình nhân. Không nói chuyện về con cái: không có gì xảy ra trong đêm tối. Thời gian tìm hiểu của họ là một sự vụ mãnh liệt; việc hứa hôn, có vẻ thế, chỉ là một cái cớ để kéo dài sự ngọt ngào, vì vậy đến lúc chui được vào giữa những chăn mền hợp pháp họ đã mệt lử vì toàn bộ sự vụ và chờ đợi đêm tân hôn của họ như chờ đợi cuộc tàn phá cuối cùng. Ada cởi quần áo cạnh giường với vẻ một phụ nữ sắp đi tắm, Charlie nheo mắt dưới ánh đèn để lên dây đồng hồ của ông. Sau đó, với một cuộc giao hoan bất ngờ, khủng khiếp - mắt Ada mở to thô lố - họ thấy rốt cuộc họ có quá nhiều thứ cần phải học. “Đừng lo.” Cứ như Charlie chẳng nói gì khác từ ngày họ gặp nhau. “Đừng lo, em sẽ chẳng đau đớn gì đâu.” Ada không biết tại sao bà tin cậy ông, nhưng bà tin. Và bà đúng. Và tự nó là một kiểu chiến thắng đối với bà; Ada gầy nhom, thiết thực, với tính cảnh giác của bà. Bà tin ông lập tức, và bà không bao giờ ngừng tin ông, cả khi, có lúc, ông đưa những nhân viên sai áp đến nhà. Bây giờ, vào sáng thứ Bảy này, bà cầm tay ông lên và đặt nó lên xương mu được dùng quá nhiều của bà, để sức nặng và hơi ấm của nó, ít nhiều, sẽ khiến bà thoải mái lại. Mỗi thứ làm đau một chút. Họ vẫn chưa giỏi lắm về khoản này. Họ có những báo hiệu lớn lao về những gì sắp đến. Chiếc giường bằng gỗ dái ngựa, chạm trổ hai bông hoa nhỏ gắn trên vòng cung trên tấm ván đầu giường. Nó hơi mềm - buộc đôi tình nhân, những khi cần nghiền quá dữ, phải lăn xuống sàn nhà. Nhưng quả là lạc thú khi nằm lên đó và Ada đã tiếp quản lâu đài của mình: cái giường của bà, với những chai lọ và thuốc men của bà trong chiếc tủ ngăn kéo, và tất cả mọi thứ của bà, sách vở và bữa điểm tâm, quanh bà. Bà đã lấy chồng. Bà có thể sống trên chiếc giường này. Bà có thể ăn trên đó, đọc trên đó và nằm lì trên đó một cách đều đặn. Và nếu chiếc giường là một lâu đài với bà, thì Charlie là vị khách mập tuyệt vời của bà. Trên nền lớp mền bông màu hồng phấn, mớ lông vàng hoe của ông ngời ấm lên. Nó chạy xuống dưới và cuộn lại quanh các vùng trũng trên thân thể ông. Nó dừng lại thành một hàng quanh mỗi cổ chân trước khi nhảy vọt, giống như một ngọn lửa thoát đi, thành từng túm nhỏ từ ngón chân này sang ngón chân kia. Lông màu vàng chạy dọc theo bụng ông. Nó lơ phơ thành từng chùm nhỏ bên dưới mỗi đầu vú và bờm xờm thò ra dưới nách. Ada không bao giờ chán nó, cái cách nó chảy thành dòng, giống như ông vừa tắm xong - và cái chuyện cười ngay đỉnh, nơi đầu ông đã được gội sạch. Bởi vì Charlie rất hói. Nhìn loại người như Charlie thì thấy như ông nên đội mũ quả dưa, nhưng Charlie rất tự hào về cái đầu hói của mình - ông thường đặt tôi ngồi trên đùi, khi tôi còn bé, để xoa đầu ông - và ông thường đi đầu trần, để nó được hưởng con gió hiu hiu. Tuy vậy, ông cũng ưa một cái khăn quàng cổ, và có thói quen gầm gừ và hắng giọng, cũng như vỗ nhẹ ngực, quấn lại khăn quàng, và sửa đi ve lại bâu áo khoác lông lạc đà của ông. Charlie hiếm khi không mặc áo khoác. Ông choán đầy căn phòng, theo một cách luôn luôn gây ra khó hiểu bởi vì, tuy ông tạo ấn tượng là người nhỏ con - do chứng hói, hoặc có lẽ vẻ múp míp ở cặp đùi ông - nhưng thực ra ông khá to lớn và việc ông từ chối ở yên một chỗ có lẽ xuất phát từ mối ưu tư rằng ông sẽ không vừa khớp. Charlie mãi chỉ tạm ghé qua. Ông không bao giờ dùng một tách trà. Có vẻ như ông có thông tin cần truyền đạt tuy rằng, sau khi ông đã đi, thật khó biết đó là thông tin gì. Giọng ông trầm, và khẩn cấp, và rất dễ chịu. Ông làm cho người ta cảm thấy ấm áp và không chắc chắn, như thể họ có lẽ đã bị lừa - nhưng lừa mất cái gì? Họ nhìn xuống để kiểm tra đôi tay họ nhưng không có gì bị lấy mất, chẳng có gì ở đó để lấy. Nên ông không được yêu thích vì điều đó - không hẳn thế. Sự thu hút của Charlie hoàn toàn vô bổ. Và không ai biết ông từ đâu đến. Spillane là một cái tên vùng Kerry, nhưng giọng của ông là giọng Anh, với chút hơi hướng vùng Clare, và tất cả được Dublin hóa. Chắc chắn rằng, với những nguyên âm bị làm méo mó đi, Charlie muốn hòa đồng - trừ khi ông muốn nổi bật, theo cách nào đó. Tuy vậy, vẫn không ai tin một lời nào ông nói. Bản thân tôi cũng nhớ mình không hề tin ông, ngay ở tuổi lên tám. Có chuyện gì đó về một con ngựa (luôn luôn có một con ngựa). Có câu chuyện về Huân tước Leinster, và những câu chuyện bất tận về khách sạn Shelboume, và câu chuyện Khởi nghĩa 1916* đôi khi được nhắc đến, nhưng cuối cùng không bao giờ được kể. “A, phải rồi, ông Spillane,” người đàn ông trong cửa hàng nói, nháy mắt với tôi qua quầy, “hẳn là từ hồi những Ngày Vinh quang.” Cuộc khởi nghĩa của Ireland nhằm lật đổ Anh và thành lập Cộng hòa Ireland. Charlie đã mua cho tôi cái gì? Một thứ rượu trái cây. Dĩ nhiên rồi. Tôi nhớ ông nhất là qua làn da tôi. Niềm thích thú lớn dần khi ông cúi xuống thì thầm, độ cứng của hàm râu ông và cảm giác trơn láng của vải tuýt. Ông chọc ta cười với ý tưởng rằng có thứ gì đó giấu trong tay hoặc túi ông - nhưng mà chẳng có gì cả. Charlie chơi trò Tìm Con Đầm * mà không có con đầm nào cả: chẳng qua ông thích trò hoa mỹ, và sau trò hoa mỹ ông thích bỏ đi. Tìm Con Đầm (Find the Lady): trò chơi giống “tráo bài ba lá” ở ta, trong đó chủ trò hoán vị trí ba lá bài rất nhanh, người chơi phải đoán được lá bài nào trong đó là con đầm (lá Q). Charlie tội nghiệp. Xác ông là thi hài đầu tiên tôi từng nhìn thấy; to lớn và yên lặng dưới lớp chăn màu hồng phấn của Ada. Đó là lý do tại sao thật là báng bổ khi viết về đêm tân hôn của họ trên chính chiếc giường này - dù sự báng bổ có vẻ như là công việc của tôi ở đây. Tôi những mong mình có thể nhớ lại cách ông chết - dù với một tiếng động trong đêm, hay một sự im lặng kéo dài vào giữa buổi chiều. Nó hẳn đã xảy ra khi chúng tôi đang ở đó. Thậm chí đó có thể là lý do khiến chúng tôi phải về nhà. Nhưng những chi tiết và ngày tháng như thế thì quá khủng khiếp không thể ghi nhớ đối với một đứa trẻ, có lẽ vậy, bởi vì đầu óc tôi đã cố quên chúng - một cách trọn vẹn. Tôi chỉ nhớ được những gì diễn ra sau đó, cố không bật cười khi chúng tôi được đưa lên phòng. Đó hẳn là tháng Hai năm 1968. Tôi mới tám tuổi, Liam chín, và chúng tôi đi lên để “tạm biệt” Charlie. Tôi nghĩ mình biết, thậm chí khi mới tám tuổi, rằng ta có thể nói tạm biệt bao nhiêu cũng được, nhưng khi ai đó đã chết họ sẽ không nói được gì đáp trả, vì vậy Liam phải nắm cứng cánh tay tôi mà dẫn lên qua những người láng giềng đang đọc kinh mân côi trên cầu thang. Trí nhớ của tôi ghi nhận tất cả bọn họ đều quàng khăn; cái lưng của Ada nhô dần lên trước mặt chúng tôi bó chặt trong áo nịt lụa đen. Nhưng đây là năm 1968: hẳn là có những khăn trùm đầu với hoa văn và áo khoác nút to có mùi mưa. Ada chắc mặc bộ đồ vải xanh nước biển có viền trắng của bà, vốn xuất hiện trong mọi dịp, với áo khoác ngắn màu xanh biển đồng bộ và đội một chiếc mũ trông giống như bong bóng bằng nỉ, đấm bẹp một bên. Bàn chân của những láng giềng thò ra khá xa từ bậc thang nơi họ quỳ: giày của họ ve vẩy trong không khí, và có cái gì đó vướng víu và trục trặc ở cái thang thứ hai này, nó được làm bằng những xương ống chân mặc quần tất, gây khó khăn cho cái cầu thang mà chúng tôi đang cố leo lên. Một phụ nữ đang cầu nguyện rất lớn tiếng trên lối trở xuống. Bà ta thấy tôi cười rúc rích với Liam liền trợn mắt buồn rầu, tựa như có một số điều hơn cả sự khiển trách. Tôi nhớ điều đó, được thôi; cảm giác được diễn tả chậm của việc có đầu óc lệch lạc và không thể thay đổi. Rồi tôi nhận ra mình không muốn đi vào phòng của ông bà ngoại tôi. Không muốn chút nào. Thêm vài người nữa quỳ chen chúc ở đoạn cầu thang thứ hai, và sau đó, qua cánh cửa mở, tôi thấy đầu giường và khối lồi lõm cứng ngắc là đôi bàn chân của Charlie. Tôi nhớ độ thẳng của đôi chân ông khi lộ ra qua khung cửa mở rộng, chóp u đầu gối nhỏ nhắn dễ sợ của ông, rồi đoạn lượn nhẹ nhàng của lớp mền bông trên cái bụng bự quá mức của ông. Đôi tay ông đặt trên ngực, đan lại, và tự mãn, được quấn trong chuỗi tràng hạt. Xâu chuỗi này có vẻ quá chặt, có vẻ như chúng đang thít chặt vào da thịt ông. Những thủ tục nghiêm nhặt nho nhỏ vào phút cuối này; một kiểu trả thù ông, vì đã chết. Ada nhìn để kiểm tra chúng tôi sau lưng bà và sau đó bước tránh qua để chúng tôi nhìn rõ hơn. Đó là cái cảnh mà tôi không muốn nhìn. Charlie quả thực thích ra đi. “Tạm biệt! Tạm biệt!” Ta không bao giờ biết ông đi đâu. Ông bỏ đi trong sự ngột ngạt của những lời giải thích vốn chẳng giải thích gì cả. Vì vậy, rốt cuộc, Ada được chứng tỏ là đúng - ông là một người khó chịu bậc nhất. Ta có thể thấy qua cách bà bứt rứt cử động về phía ông cứ như để phủi gàu khỏi ve áo ông. Và thực sự có cái gì đó ở đó - một con ruồi đang bò trên cổ ông. Tôi nghĩ nó bò ra từ cổ áo ông và thấy lo lắng bởi ý nghĩ về những con giòi - từ ngày đó trở đi, thực vậy. Dẫu sao thì nó cũng khiến tôi dừng ngay cái cười đáng ghét của mình, giống như Ada sắp sửa đập tôi chứ không phải con ruồi. Bà nhìn nó bay lên và bay khỏi ông, đụng vào tấm rèm cuốn, một lần, hai lần. Rồi nó quay trở lại giường. Tôi đang đứng sau lưng bà, tôi có thể cảm thấy cơn tức giận ngấm ngầm dữ dội khi bà thấy nó bay đảo vòng, và lỉnh mất, rồi quay lại đậu lên cái cổ chết cứng của Charlie. Nó đáp xuống và bò trên mặt da, không phiền vì những nép nhăn sâu trên lớp thịt mềm, hoặc mấy lọn tóc trên cao. Ada cử động, hoặc chuẩn bị cử động, và con ruồi bay lên và lặp lại quá trình đào thoát tới bức rèm cuốn, lần này tìm ra một con đường vòng qua mép rìa sáng của bức rèm để đụng vào ô cửa kính, ở đó nó kêu vo vo và tông kình kịch. Chúng tôi lắng nghe nó một lát, tiếng cầu kinh mân côi bên ngoài, và âm thanh con ruồi đập vào mặt kính. Ada chết điếng. Bà nhìn xác chết. Bà không nhúc nhích được. Rồi bất ngờ có vẻ như bà nhận ra rằng đây là phòng ngủ của chính bà, với chồng bà trong đó, dù chết hay không, bà chỉ đi vòng qua giường. Khi tới cửa sổ, bà giơ tay lên và ấn bức rèm sát vào. Tiếng vo vo ngừng bặt. Ada bà nội trợ, với một vết bẩn kinh hoàng trên bức rèm cửa. Bọn trẻ chúng tôi lúc này phơi ra trước cái đầu hói của Charlie, trần trụi trong cái chết. Ta có thể nghĩ có một cái gì đó nhẹ nhàng ở cái chết - đôi khi chúng ta cảm thấy cuộc sống của chúng ta quá nặng nề - nhưng vết lõm mà đầu của Charlie tạo ra trên gối thì sống động và sâu. Tôi nhớ lần ông nằm xuống ở công viên Phoenix, đầu ông giống như một tảng đá trên cỏ. Và tôi nhớ bàn tay tôi trong miệng ông - nguyên cả bàn tay - trong khi ông vặn vẹo nó và bật cười. Hẳn tôi lúc đó còn rất nhỏ, bàn tay tôi biến mất trong khuôn mặt khổng lồ này và - có vẻ như nơi nào đó khác - sự hỗn loạn trào dâng của cái lưỡi ướt của ông, những phần phẳng và nhọn êm ái với những chiếc răng hàm của ông. Hộp sọ là phần xương gần không khí nhất. Đây là điều tôi nhận ra khi nhìn da trên đỉnh đầu của Charlie; nó trong suốt không có máu, và màu rám nắng phủ khắp bề mặt, một lớp tráng hết sức mỏng. Ada từ cửa sổ quay lại, thúc chúng tôi bước tới nhìn, hoặc chứng kiến, hoặc có lẽ sờ nữa, vật thiêng liêng ngắn ngủi này, ông ngoại đã chết của chúng tôi. Và tôi cho rằng nó thật sửng sốt. Giây phút nhìn này. Khi họ đã ra đi, nhưng chưa mất hẳn. Khi ta không chắc hoàn toàn về điều ta thấy. Vì vậy tôi đã nhìn - vào ông, hoặc nó. Và tất cả ổn và không có gì ngạc nhiên, trừ hàm ria mép. Charlie, lúc sống, có bụi ria mép trắng tuyệt diệu, có mùi chanh, hơi vểnh lên ở hai đầu. Ông ngoại là người duy nhất tôi biết có một món đồ chơi trên mặt. Hàm râu ông nhúc nhích và gây rối trí và làm hoa mắt. Nó là trò ảo thuật của cái miệng. Và bây giờ nó nằm yên, chẳng che giấu cái gì cả. Không có ma thuật nào cả. Đó là điều khiến tôi khóc - chờ hàm râu của Charlie nhúc nhích, và nhận thấy rằng nó không còn động đậy. Sau cùng, không có ma thuật nào cả. Ada trở lại cạnh chúng tôi, thì thào, “Giờ thì nói tạm biệt đi,” và Liam, người lớn hơn tôi gần một tuổi, bước tới một bước rồi dừng lại, vì anh không biết phải làm gì. “Suỵt,” Ada nói với tôi. “Nín khóc đi.” Tôi không biết khi ấy họ có rút máu ra không? Ý tôi là, liệu ông có được ướp xác trước khi liệm không, đó có phải là tục lệ của hồi đó không? Máu đang tụ ở vai và mông ông, máu chảy xuống sau đầu ông, tìm kiếm trọng lực, đã muốn ngấm xuống qua tấm nệm: máu thâm tím và đông lại trong ông lúc này, khi phía trước ông (bạn thấy đấy, điều đó đúng thực) trở nên nhẹ hơn gần như không nhận thấy, và chúng tôi đứng đó, để ông ra đi: máu đó, nặng nề và dẻo dính và kỳ cục như vậy - tôi tự hỏi nó còn ở trong ông không, bởi vì nó giống hệt, hoặc một phần tư giống hệt, như máu của chính tôi. Nếu tôi làm đứt tay, ngay bây giờ, tôi sẽ thấy nó tuôn chảy. Thật buồn cười, nhưng tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có bà con với Charlie, cho dù ông là ông ngoại tôi. Ông là một loại người khác. Ông khiêu vũ với Ada trong nhà bếp. Ông không có một công việc mà ta có thể gọi tên cụ thể. Ông không luôn luôn ở nhà. Không người nhà Hegarty nào có đôi mắt màu nâu chó của ông, hoặc cái mũi cao, đẹp đẽ của ông - dù quả thực là những thằng cháu trai đằng ngoại của ông đều bị hói, khi thời điểm tới. Và đây là điều mà Liam không dự kiến được khi anh đứng đó chờ làm việc thích hợp, ngay khi anh biết việc thích hợp cần làm là gì. Anh không thấy rằng anh sẽ chết với cái đầu hói trọi, dù tôi nghĩ cả hai chúng tôi đều biết, khi anh chồm tới để chạm vào bàn tay chết cứng tội nghiệp của Charlie, rằng Liam sẽ chết. Anh đang trên đường tới đó. Nếu bạn hỏi tôi anh trai tôi trông ra sao sau khi anh ấy chết, tôi có thể nói với bạn rằng anh ấy trông giống như chúa Giêsu trong tranh Mantegna, trong bộ đồ ngủ có họa tiết cánh hoa. Và đây có thể là một sự thật tổng quát về người chết, hoặc có thể nó là điều xảy ra khi ai đó nằm trên cái bàn nhà xác, cao, chân hướng ra cửa. Đây là lý do tôi biết rằng Liam đã chết, khi cuối cùng tôi thấy anh ở Brighton, vì anh quá cao khỏi mặt đất, và cái thứ cho anh nằm thì quá cứng và phẳng, bởi vì người chết không bao giờ cảm thấy không thoải mái - thậm chí khi ta cố hết sức để bắt họ không thoải mái. Tôi không nghĩ tôi đã nhìn đỉnh đầu anh, hoặc nghĩ về cái đầu hói của anh, hoặc nghĩ về bất cứ chuyện gì. Và tôi vui mừng khi tôi đã thực tập chút đỉnh về toàn bộ sự vụ này - sự vụ nhìn - bởi vì dù tôi yêu Charlie, thì đó cũng vẫn là tình yêu hối hả, dễ dàng của một đứa trẻ, luôn luôn sẵn sàng để yêu ai đó mới hơn. Nhưng, ta không dành thời gian để xem xét thân xác của anh trai ta, dù chết hay sống, hình dáng và những bộ phận của nó, hay kết cấu da của nó. Vì vậy tôi không thể nhớ lại Liam với bất kỳ chi tiết nào. Tôi chỉ biết là anh chết trông hoàn toàn khác hẳn, trong khi Charlie trông vẫn là chính ông. Và, khi ngơ ngác trước bộ đồ ngủ in hình những cánh hoa cũ xì, ngớ ngẩn, tôi nhận ra rằng đây là lý do chúng tôi bị đẩy lên những bậc thang ở Broadstone ở tuổi lên tám và vừa lên chín đó - bởi vì Ada đã thấy ngày này sẽ đến. Bà đã biết từ đầu. Bà muốn chúng tôi được chuẩn bị. Hoặc có lẽ nỗi sầu não của bà quá lớn đến độ bà phải kéo mọi người vào trong đó, kể cả bọn trẻ chúng tôi. Có lẽ bà muốn toàn thể thế giới phải chứng kiến, và thấy kinh sợ. Tôi không kinh sợ, tôi chỉ cảm thấy cô đơn. Không phải vì Charlie đã ra đi - tôi không quan tâm đến Charlie, tôi ghét Charlie, tôi hy vọng ông đang nhung nhúc những con giòi dưới bộ đồ đó. Nhưng bởi vì tôi không muốn ở trong căn phòng đó, và không ai quan tâm. Những cảm xúc của tôi không có liên quan - không chỉ với sự kiện đặc biệt này, mà với toàn bộ việc là người còn sống. Tiếng đọc kinh mân côi đã dậy lên trên đường cầu thang, khi Liam bước lui lại còn tôi đứng đó và không chịu nhúc nhích. Bàn tay Liam đặt lên cánh tay tôi, đã bắt đầu xám xịt vì thối rữa; Ada đằng sau vai tôi, thì thào bảo tôi tiến tới. Tôi không đi. Bà ngoại tôi không còn kiên nhẫn. Bà di chuyển thay cho tôi và đặt tay bà lên xác chết; lần đầu lên cổ tay, trong chớp mắt, và sau đó - có vẻ như ngẫu hứng - lướt dọc theo đường quai hàm của ông. Bà đặt tay từ tai đến cằm ông, ốp lấy chiều dài của xương. Phải một lát sau chúng tôi mới nhận ra bà đã bị dính chặt. Và thêm một lát nữa mới có ai đó bước tới sau lưng bà và kéo bàn tay bà khỏi cái gò má lạnh ngắt, ngoái cổ lại, trong khi làm thế, để nói, “Thế đủ rồi.” Giống như toàn bộ là lỗi lầm của chúng tôi - sự phiền hà của da thịt chết này, và tình yêu vẫn còn thở nằm trong thân thể Ada, một tình yêu không biết đi đâu. “Thế đủ rồi.” Ông Nugent. Dĩ nhiên. Và bây giờ tôi nhớ ông Nugent ở đó ở cuối phòng, lẽ ra tôi phải nhớ ông đã ở trong phòng ngay từ đầu, ngồi cạnh tủ quần áo, vì vậy con ruồi, khi nó bay lên khỏi cổ của Charlie mới bay ngang mặt ông ta, trước khi đánh vòng đến ánh sáng của cửa sổ và bức rèm. Ông ta đang cúi người về phía trước, khi chúng tôi lần đầu tiên bước vào, với khuỷu tay chõi vào đầu gối và chuỗi tràng hạt lòng thòng muốn chạm sàn nhà, và mặt gỗ dái ngựa sau lưng ông tối đen gần bằng bộ đồ đen của ông. Tôi chưa từng tin cậy những người đàn ông cầu nguyện. Phụ nữ, dĩ nhiên, không có sự lựa chọn - nhưng đàn ông nghĩ gì, khi họ đang quỳ? Tôi không nghĩ bản chất của họ là cầu nguyện: họ quá tự kiêu. Nhưng ông ta đó, rầm rì bài kinh Kính Mừng khi chúng tôi lũ lượt kéo vào phòng: tôi, đứa được cho là có trách nhiệm, anh tôi, thô kệch và ương bướng trong chiếc áo len chui cổ đi học màu xám của anh, và kế đến là Kitty. Và lúc này dĩ nhiên tôi phải thêm Kitty vào từ đầu, đứa em nhỏ của tôi, lên thang sau lưng chúng tôi, bởi vì hẳn nó cũng phải có mặt ở đó. Kitty làm công việc này giống như nó lên rước lễ - đầu hạ thấp và mặt hếch lên đầy sùng kính. Nó có đặt một bông hoa cúc dại lên ngực Charlie, một bông hoa mao lương vàng kiểu trẻ con lên áo gối không? Không. Như tôi nhớ lại, Kitty bước tới nói, “Bai bai,” và quay đi rời khỏi phòng. Con bé sáu tuổi. Nó thích chiều lòng khán giả. Lẽ ra tôi phải biết trước, đêm nào mà tôi chẳng phải uốn tóc nó vào những dải vải, để giữ cho những lọn tóc xoăn chặt. Nugent ở đó ngay từ đầu: vì lòng can đảm của Charlie và lòng mộ đạo dễ thương của Kitty và vì quả bóng ích kỷ khổng lồ dâng lên và vỡ tung trong ngực tôi. Tiếng gào to lớn, vô cùng khốn khổ của nó, nói với tôi rằng tôi còn sống. Tôi nhớ điều đó thật rõ. Tôi nhớ những lọn tóc của Kitty, tuy tôi không thể, dù đã cố hết sức, xoay ký ức về em gái tôi lại để nhìn khuôn mặt sáu tuổi của nó. Tôi không thể, dù đã cố hết sức, nhớ lại khuôn mặt Liam, dù tôi không thể quên được bàn tay chín tuổi của anh chạm vào bàn tay chết của Charlie - bàn tay Liam lốm đốm vết đỏ bầm trong khi bàn tay Charlie thì sạch, bởi vì cơ thể của ông đã quên rằng đó là mùa đông, trong ngôi nhà lạnh lẽo đó. Có những bức ảnh. Đó là dấu vết nụ cười của anh tôi trong tấm gương của chính tôi, một giọng nói đôi khi tôi lặp lại. Tôi không nghĩ chúng tôi nhớ được gia đình mình trong bất cứ cảm giác thực nào. Mà chúng tôi sống trong họ. Những điều duy nhất tôi chắc chắn được là những điều tôi chưa từng thấy - những trò báng bổ lặt vặt của tôi - Ada và Charlie trên giường cưới của họ, xương mu của bà giống như ức của con gà thiếu ăn dưới bàn tay to lớn của ông, hoặc trọng lượng rầu rĩ của con cu ông khi bà thò xuống bên dưới cái bụng dài để kéo ông vào sát hơn. Mặt trời trên những bức màn in hoa. Niềm hạnh phúc. """