🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hôn nhân và hạnh phúc: Suy luận theo năm, tháng, ngày, giờ sinh Ebooks Nhóm Zalo HÔN NHÂN VÀ HẠNH PHÚC SUY LUẬN THEO NĂM, THÁNG, NGÀY, GIỜ SINH By Đông A Sáng Copyring Đông A Sáng Smashwords Edition. LỜI NÓI ĐẦU Chương một : MẠN ĐÀM VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN Chương hai :NHỮNG VẤN ĐỀ CĂN BẢN VỀ NĂM, THÁNG, NGÀY, GIỜ SINH. Chương ba : PHƯƠNG PHÁP SUY LUẬN VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN. Chương bốn : THỰC HÀNH VÀ ỨNG DỤNG. SÁCH THAM KHẢO AUTHOR mailto:htt//blog,%20smahwords.com LỜI NÓI ĐẦU Xưa nay, trai lớn lấy vợ, gái lớn lấy chồng là hợp với lẽ thường; cuộc đời mỗi người tuy khác nhau, nhưng đa số dành hai phần ba cuộc đời cho tình yêu và hôn nhân. Có những cuộc hôn nhân bền vững hạnh phúc nhưng cũng không ít cuộc hôn nhân gãy đổ chia lìa. Xây dựng gia đình hạnh phúc phụ thuộc và nhiều kiều kiện, nhiều yếu tố. Đôi lứa gãy đổ chia lìa cũng có muôn ngàn nguyên nhân. Các nhà tứ trụ học cho rằng :Năm, tháng, ngày, giờ sinh của mỗi người là cố định, trong đó hàm chứa nhiều thông tin về bản thân, về hoàn cảnh sống, về những thăng trầm của cuộc đời. Đặc biệt, cung cấp nhiều dữ kiện, có thể suy luận và tìm ra nhưng nguyên tắc xây dựng hạnh phúc trong tình yêu và hôn nhân. Nguyên bản cuốn sách (Bát tự hôn nhân học - Lí Thiết Bút, Đài Bắc) rất khó cho người chưa tìm hiểu môn học này. Do đó, chúng tôi mạnh dạn tham khảo chọn lọc và giới thiệu những vấn đề căn bản về tứ trụ (Năm, tháng, ngày, giờ sinh; theo âm lịch) để ai đọc cũng hiểu những điều thú vị được bàn trong sách. Những cuốn sách chúng tôi tham khảo, có các tác giả nổi tiếng thế giới trong lãnh vực dự đoán học, rất quen thưôïc với đông đảo bạn đọc Việt Nam trong thời gian gần đây, như Thiệu Vĩ Hoa, Trần Viên, Nhan Chiêu Bách... Nội dung sách đề cập nhiều vấn đề:Từ mạn đàm phiếm luận đến những vấn đề nghiêm túc mà những người đứng trước ngưỡng của tình yêu hôn nhân cần biết; từ phương pháp suy luận thông minh, hợp lí đến đến ứng dụng thực hành mang hơi thở cuộc sống. Giọng văn dí dỏm giúp các bạn có thể vừa biết thêm một môn học nhưng cũng vừa thư giãn sau những giờ làm việc mệt nhọc. Cái hay của sách là tự biết mình và biết người bạn đời của mình. Từ đó bổ cứu, trung hòa, cân bằng...tránh điều xấu và mưu cầu hạnh phúc. Người viết sách khẳng định hùng hồn câu nhân định thắng thiên, sự nỗ lực của con người trong việc gìn giữ tình yêu và hạnh phúc. Nhưng cũng lưu ý : Cây hạnh phúc chỉ xanh tươi, xum xuê khi được tưới bằng mồ hôi và sự thân thiết thông cảm của hai người. Sách đưa ra nhiều ví dụ từ thấp đến caọ, mỗi ví dụ là mỗi bài toán gồm các dữ kiện (nếu cần chỉ tra cứu bảng biểu phần phụ lục), thay thế những dữ kiện này bằng khái niệm đại biểu khác nhau. Quá trình suy luận là tao tác tư duy đầy hưng phấn. Vui nhất là tìm ra lời giải đáp. Hạt nhân lí luận, suy luận là nguyên lí âm dương, ngũ hành; là sáng tạo độc đáo của triết học cổ điển Trung Quốc. Cuốn sách như một đoá hoa hương sắc ngọt ngào, trong đại ngàn sách quý phương Đông hiện đại. Gởi gắm ước mơ, bạn nào cũng tìm ra được chìa khóa vàng mở rộng cánh cửa hạnh phúc. Chương một : MẠN ĐÀM VỀ TÌNH YÊU - HÔN NHÂN. Tiết 1 :TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN I. HÔN NHÂN LÀ VIỆC LỚN Ngày xưa, đối với người con trai ba ngoài mươi tuổi chưa lập gia đình là quá muộn, có vợ mà không có con nối dõi là bị liệt vào một trong ba tội bất hiếu. Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại. Trong đời, người con trai thi đỗ thì gọi là tiểu đăng khoa; lập gia đình thì gọi là đại đăng khoa; hiểu theo nghĩa nào đó, hôn nhân là vượt qua cuộc khảo thí lớn. Người làm việc ác, lời nguyền rũa nặng nhất là vô tự hoặc tuyệt tự, tức là không có người nối dõi. Đối với nữ, lấy chồng thì phải theo chồng, chồng chết thì theo con. Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Trong cuộc sống thì chồng nói vợ nghe, phu xướng phụ tùy. Người chồng được tôn trọng người vợ thì thấp kém hơn. Nam tôn nữ ti. Nếu gặp ông chồng gan dạ mạo hiểm dám vào tận chốn hang rắn hang rồng thì cũng phải theo. Lấy chồng thì phải theo chồng. Vào nơi hang rắn hang rồng phải theo. (Ca dao Việt Nam) Có người cho rằng đời sống quá dài, đường đời vô tận, vạn nẻo. Nhưng đa số người cho rằng cuộc đời rất ngắn, thậm chí đo được, bằng một gang tay. Ai ngủ ngày thì còn nửa gang. Lí Bạch thì so sánh đời người bất quá chỉ là giác mộng lớn. Nhân sinh nhược đại mộng. Nhưng dù đời sống dài hoặc ngắn, đa số nhân loại cũng phải tiêu tốn mất hai phần ba cuộc đời cho tình yêu và hôn nhân. Hôn nhân góp một phần quyết định đời sống hạnh phúc hoặc bất hạnh của hai phần ba đời người. Người ta cũng thường nói trai lớn lấy vợ,ï gái lớn gả chồng như là một quy luật tự nhiên. Dẫu là trời đất cũng không vượt qua khỏi ngưỡng cửa, vòng tròn tuần hoàn của quy luật này. Dẫu là thiên địa cũng vòng phu thê. Tóm lại, tình yêu, hôn nhân không chỉ là quy luật tự nhiên, là bổn phận, nghĩa vụ đối với dòng họ, gia tộc, còn là quyết định hạnh phúc hoặc bất hạnh một phần hai cuộc đời của con người. Nên hôn nhân là việc lớn của đời người, hôn nhân đại sự. II. HAI TRÁI TIM CHƯA ĐỦ. 1. Thần thoại và triết lí : Tình yêu, hôn nhân vốn xưa cũ hơn trái đất. Loài người đã và sẽ tiếp tục viết về đề tài tình yêu hôn nhân, dùng mực nhiều hơn biển, của ba phần tư địa cầu, chắc cũng chưa hết. Giai thoại tình yêu hôn nhân cũng đã chất đầy thành non. Nhưng mỗi ngày mặt trời mọc, tình yêu hôn nhân vẫn mới mẻ như khách lạ. Những câu chuyện tình yêu hôn nhân vẫn tinh khôi như thuở ban đầu. Và những giai thoại về tình yêu, hôn nhân vẫn luôn hấp dẫn mọi người, mọi thời. Trong thần thoại Hi Lạp có cách ví von rất hay về tình yêu và hôn nhân: Con người nguyên bản vốn rất thông minh. Có lần muốn cướp quyền của Thượng Đế làm cho ôâng ta nổi giận lôi đình cho chẻ đôi con người nguyên bản ném xuống trần gian. Thân phận con người trần gian luôn tưởng nhớ một thiên đường đã mất và luôn khát khao đi tìm nửa người còn lại. Nếu tìm được nửa người nguyên bản còn lại thì rất hạnh phúc. Chắc là thông minh trí tuệ, cường kiện như xưa, có thể cướp quyền sáng tạo của Thượng Đế. Nếu lỡ tìm nhầm nửa người của ai khác thì vô cùng đau khổ. Con người nguyên bản chỉ còn một nửa, nửa kia có cũng như không, như người bán thân bất toại, một nửa người bị tê liệt, không mong gì sánh vai cùng Thượng Đế và trở lại thiên đường. Hàn Mặïc Tử từng khờ dại, thở than khi đánh mất nửa con người. Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn tôi, bổng dại khờ. Có kẻ khi mất người yêu, cảm giác trang sức của mình đang đeo cũng rộng ra, không gian hụt hẩng và trống vắng: Bổng dưng đai ngọc xuyến vàng rộng thênh. Trong Kinh Dịch, có hai quẻ rất hay: Là quẻ Thiên địa bỉ và Địa thiên thái. Mỗi quẻ là một cặp âm dương, tượng người khác phái hoặc vợ chồng. Dương ở trên, âm ở dưới, tượng dương đi theo dương, âm đi theo âm. Chồng theo đường chồng vợ theo đường vợ. Anh đi đường anh tôi đi đường tôi. Là không hòa hợp, là bỉ, là xấu. Nhưng nếu âm ở trên dương ở dưới, tượng dương hướng xuống âm, âm hướng lên dương. Trong người này có bóng hình người khác. Biểu thị sự hòa hợp. Là thái, là tốt. Ngoài việc dùng biểu tượng để biểu đạt tình yêu và hôn nhân, ngôn ngữ thường ngày cũng xuất hiện nhiều câu khá độc đáo: Tâm đồng ý hợp. Trái tim, ý nghĩ hai người hòa hợp với nhau. Đồng sàng dị mộng. Hai người nằm chung một giường nhưng mộng về hai nẻo khác nhau. Phương đông hay phương tây, hai phương trời xa cách, cách biểu đạt có khác nhau, nhưng hình như cùng gặp nhau một điểm là cố gắng lập luận, lí luận, lí giải về sự hòa hợp trong tình yêu và hôn nhân. 2. Những bà vợ và những đức ông chồng. Nói về cuộc sống vợ chồng thì cũng có vô vàn dẫn chứng thú vị. Socrate, được tôn là ông tổ của triết lí phương tây, gặp bà vợ quá quắt. Bà đổ nước rửa bát lên đầu đức ông chồng, khi ông muốn đi dạo. Ném luôn đĩa thức ăn và mặt đức lang quân khi ông tiếp bạn. Bạn Socrate không chịu được cằn nhằn. Thế là Socrate biện hộ cho vợ rất ngon lành:" Con gà mái đẻ đau thường nhảy cuống và la toáng lên. Bà ấy cũng vậy. Có gì lạ?." Ông còn dạy người ta, đại ý: Nếu bạn gặp người vợ hiền, ban trở thành người hạnh phúc. Nếu bạn gặp người vợ quá quắt thì trở thành một triết gia. Tha hồ mà chịu đựng, nhẫn nhục, nghiền ngẫm và suy tư. Đúng là nhà triết học, lí luận cứ gọn băng, hình đằng nào cũng không mất mát gì cả. Một ông nọ, có cô vợ trẻ, xinh như mộng. Một hôm dự tiệc ông bạn khen ông có người vợ lộng lẫy như hoa hồng. Ông nhếch mép: "Chỉ tiếc rằng tôi chỉ hưởng được phần gai góc của cô ấy. " Xem ra ông này không mấy đạt đạo bằng Socrate ?. Một triết gia khác, 80 tuổi mới lập gia đình. Có người tò mò hỏi ông :" Đã nhịn đến từng ấy tuổi thì nhịn luôn. Lấy vợ làm gì nữa." Ông trả lời rất nghiêm chỉnh: "Nếu gặp vợ tốt thì không uổng phí bao nhiêu năm tìm kiếm chờ đợi. Chẳng may gặp người vợ không tốt thì thời gian sống với cô ta cũng được rút ngắn đi nhiều". Lịch sử đông tây chắc không ai nổi tiếng bằng vợ của một ông chồng người Trung Quốc. Bà hét một tiếng, ông đứng cả tim, run rẩy. Các bạn trêu chọc cho đó là tiếng gầm của sư tử Hà Đông. Cái tên dữ dội này hình như được đặt, được gán cho nhiều bà vợ trên hành tinh này. Mấy giai thoại trên, như ít nhiều đặt điều nói xấu phụ nữ. Nhưng tội trạng cánh đàn ông cũng không đếm không xuể như lá rừng. Thi thánh Lí Bạch rất đẹp trai, tiên phong đạo cốt, như tiên bị đày xuống cõi trần. Nghe đâu vợ thì xấu. Có bạn làm thơ nói quá: Không ai xấu bằng vợ anh chàng Lí Bạch. Lí Bạch ưa múa kiếm, ngâm thơ, phiêu bạc đây đó. Đặc biệt là uống rượu, say rượu quên cả tháng ngày. Có lúc chạnh lòng vì để vợ cảnh phòng không chiếc bóng, ông làm thơ, có vẻ ăn năn lắm: Tam bách thập lục nhật, Nhật nhật túy như nê. Tuy vi Lí bạch phụ, Hà dị Thái thường thê. (Tặng nội) Tạm dịch: Ba trăm sáu chục ngày ròng, Ngày ngày say khướt khác gì con nê. Vợ chành Lí Bạch ta ơi ! Khác chi vợ gã Thái thường thuở xưa. (Gởi vợ) * Ghi chú: 1) Nê: Có nghĩa là bùn, là con nê, ở bể, thân mềm nhũn; say nhũn người. 2) Thái thường: chỉ ông Chu Trạch làm quan Thái thường, trông coi tôn miếu, trai giới rất nghiêm ít khi về nhà với vợ. Trong bài thơ gởi vợ, bà Lí rất đẹp, vẻ đẹp hiền thục và chịu đựng ông chồng nổi tiếng, ngông bậc nhất thiên hạ. Ông có lỗi chỉ viết tặng bài thơ chắc bà cũng vui lắm. Có người nói: Khi người tôi yêu chỉ có một con mắt thì tôi cảm giác mọi người trong thiên hạ hình như thừa một mắt. Không biết Lí Bạch có biết câu không ? Khi cầm bút viết thơ tặng vợ, bị chê là quá xấu. Sử kí Tư Mã Thiên viết : Hồi Án Tử là tể tướng nước Tề, có lần đi ra ngoài đường. Vợ người đánh xe cho ông ngó trộm chồng, qua khe cửa. Người chồng đánh xe cho quan tướng quốc, che tàn lớn, rong chiếc xe bốn ngựa, ý dương dương rất tự đắc. Khi người chồng trở về, người vợ xin bỏ nhà ra đi. Chồng hỏi duyên cớ vợ đáp: - Ông Án Tử cao không đầy sáu thước, thân làm tướng quốc nước Tề, hiển danh với chư hầu. Nay thiếp xem ông ấy ra đường, ý chí thâm trầm, thường có vẻ tự hạ. Còn anh cao tám thước, làm đầy tớ đánh xe cho người, ấy mà ý chí ra vẽ tự mãn rồi, vì vậy mà thiếp xin đi. Sau người chồng tự nén ý khí của mình. Án Tử lấy làm lạ, hỏi, người đánh xe cứ thực mà đáp. Án Tử bè tiến cử lên làm chức đại phu. Anh đầy tớ đánh xe, một bước nhảy tót lên địa vị cao sang là nhờ vợ. Truyện dân gian lưu truyền, có anh chồng, hai vợ. Sáng bảnh mắt đã đi, chiều về nhà là say tít, khoe : Ngày này ông quan lớn này mời, mai bậc hào phú nọ đãi đằng. Thấy bộ dạng ông chồng bợm bãi khả nghi. Một hôm, hai bà vơ cùng lén đi theo, thấy chồng lê la ở nghĩa địa, xin thức ăn thừa. Chắc tâm trạng hai bà vợ này như thế nào, cũng không cần phải bàn thêm. Người vợ trong ca dao Việt Nam là khéo chiều chồng nhất: Chồng giận thì bớt lời như cơm sôi bớt lửa, không để sứt mẻ tình cảm. Chồng giận quá thì ngọt ngào giả lả:Muốn cưới vợ bé em thì cưới cho. Khéo đến như vậy thì ông chồng to gan bằng trời cũng không dám nói là muốn. Nóng cỡ Trương Phi cũng phải dịu xuống. Qua những mẫu giai thoại trên, chứng tỏ tình yêu, đời sống vợ chồng khá phức tạp, không chỉ có hai quả tim, hai người, là đủ tất cả. III. SỰ THẬN TRỌNG 1. Tự do : Ngày nay, nam nữ bình đẳng, nữ giới được tự mình quyết định hôn nhân, ít còn gặp cảnh cha mẹ đặt đâu ngồi đấy, mười hai bến nước, bến trong thì nhờ bến đục thì chịu. Số phận người phụ nữ không còn như giọt mưa giữa trời, quyết định do ngẫu nhiên: may thì rơi vào biển khơi hạnh phúc. Rủi thì rơi vào vũng bùn thì bất hạnh. Nhưng thông thường cái gì thái quá thành bất cập, nhiều thanh niên nam nữ đề xướng tự do yêu đương, tự do kết hôn. Có khi sống chung với nhau thấy hợp tình vừa ý thì kết hôn. Hoặc sau khi kết hôn, sống chung không hợp ý thì chia tay. Không ít cảnh thay đổi người tình, vợ chồng như thay áo. Dưới góc độ nào đi chăng nữa cũng không phải là tình yêu, hôn nhân tốt đẹp. 2. Coi chừng thần Cupid : Người Trung Quốc có câu: Mười năm mới gặp lúc thuyền đậu chung một bến. Trăm năm mới được cùng năm chung chăn gối. Ý muốn nói thiên hạ rộng lớn, bể đời mênh mông, đường đời xuôi ngược hai người không quen biết nhau, gặp gỡ nhau yêu nhau là cơ hội hiếm có. Từ chỗ yêu nhau tiến đến hôn nhân, tình nguyện sống với nhau, chung chăn gối, chia ngọt xẻ bùi, sinh con, nuôi dạy con cái thì lại càng hi hữu hơn. Người ta gọi trường hợp này là tình cờ gặp nhau, giải cấu tương phùng, là gặp gỡ lạ kì, duyên kì ngộ, duyên số trời ban, trời định, là vận mệnh... Giây phút hai bên gặp gỡ, gọi hơi phô trương sáo rỗng một chút, là tiếng sét ái tình. Theo cách nói của Nguyễn Du là: Tình trong như đã mặt ngoài còn e, hoặc : Hai mắt cùng liếc hai lòng cùng ưa. Giây phút quả là vô cùng quan trọng nhưng cũng phải vô cùng thận trọng. Có người cho rằng :Trái tim có lí lẽ của nó. Chẳng thế mà người ta mà người ta cho thần Aùi tình, Cupid, là đứa bé có cánh mang cung tên, bắn vào tim kẻ khác. Phải chăng muốn nói tình yêu là đứa trẻ bay bổng nhưng bồng bột và nông nổi ?. Khi bị tên bắn trúng rất hoang mang. Không thiếu những anh chàng ân hận, chỉ yêu con mắt cô gái, kết cuộc phải cưới cả con người của cô ta. Chưa đâu, còn cưới luôn cả một lô những thói hư tật xấu của cô mang theo. Nhưng cũng không nên tính toán chua cay như nhà văn Nam Cao khuyên bạn. Đại ý: Anh muốn hôn lên môi xinh xinh của cô gái, trước hết anh phải nghĩ đến có cái gì để đổ vào mồm của cô ta. Quả Nam Cao đã kéo ông bạn mơ mộng của mình từ đỉnh tình yêu, non Thần, đỉnh Giáp xuống tận đáy cuộc đời trần trụi. Nếu cứ nhìn thẳng vào tận đáy cuộc đời vẫn đục, trôi xiết, thì chắc không ai dám yêu, dám nghĩ đến hôn nhân. 3. Ngọn nguồn của sự hoà hợp : Ngọn nguồn của tình yêu, hôn nhân là sựï hoà hợp. Nếu hòa hợp thì nên kết hôn, không hòa hợp thì không nên quyết định sống chung với nhau.Cho nên thận trọng là đúng. Sau khi hai người sống chung với nhau thì tình cảm hai người càng mật thiết hơn, gắn bó với nhau và thông cảm nhau nhiều hơn. Vợ chồng tương thân tương ái, tình càng sâu nghĩa càng nặng, cùng nhau chia ngọt xẻ bùi, cọng đồng trách nhiệm. Đã thuận với nhau thì tát biển đông cũng cạn, vượt qua được chướng ngại trong đời. Chồng bát cũng có khi xô, chồng giận thì vợ bớt lời, theo các nói dân gian: giận thì đánh quạnh thì thương... Đó là cuộc hôn nhân vuông tròn, tốt đẹp, hạnh phúc và lí tưởng. Sau khi sống chung với nhau, tình cảm vợ càng ngày càng nhạt nhẻo, việc gì cũng không chịu hiểu, không nhường nhịn nhau cứ thế mâu thuẩn phát sinh. Từ hục hặc, ngấm nguýt nhau dẫn đến sự xung đột, đối lập và thù hận. Vợ chồng lúc này đúng oan khiên của nhau, nợ nần của nhau. Tiền oan túc trái. Cùng dẫn nhau đến ngõ cụt là li dị. Đó là cuộc hôn nhân bất hạnh. Sự hòa hợp hoặc không hòa hợp do nhiều nguyên nhân:Bản thân giữa hai vợ chồng, là mối quan hệ phức tạp chung quanh, là những vấn đề nẩy sinh từ cuộc sống... Bản thân hai người là tính cách, tâm tính, tư tưởng, hành vi, trí tuệ, tài năng, học thức, công việc, tín ngưỡng, xã giao, địa vị, giàu nghèo, sức khỏe, đau ốm bệnh tật. Trên đời, cặp vợ chồng, xứng đôi vừa lứa nhất cũng không hoàn toàn giống nhau về những vấn đề vừa nêu. Khi đôi đũa lệch không có cách so lại bằng thì đó là cũng là một trong những nguyên nhân gãy đổ. Xưa nay, việc lập gia đình, dù bình đẳng, tự do trong hôn nhân, cũng phải có ý kiến của cha mẹ, anh em, bạn bè, đồng nghiệp ...cả hai bên. Đó là quy tắc như áo mặc không qua khỏi đầu. Họa hoằn mới có cuộc hôn nhân hai người tự do yêu nhau và lấy nhau, không cần thông qua cha mẹ anh em, bè bạn. Vì thế, cuộc sống vợ chồng không phải thế giới riêng hai người, mà còn quan hệ với cha mẹ, anh chị em, bạn bè, đồng nghiệp...Những mối quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của lứa đôi. Sau khi kết hôn, dù muốn hay không hai người cũng phải đối diện với những lo toan cuộc sống hàng ngày : nơi ăn chốn ở, cái ăn cái mặc, kinh tế gia đình. Cơm áo không đùa với mọi người trong đó có tình yêu, hôn nhân. Khi có con thì phải nuôi, phải dạy con cái... Một gia đình lớn, hoặc nhỏ, trong sinh hoạt thường nẩy sinh ra nhiều vấn đề, chỉ sau khi kết hôn mới biết được, hiểu được và phải cùng nhau giải quyết. Đó là nghĩa vụ và bổn phận trong đời sống vợ chồng, không thể nào thoái thác và trốn tránh. 4. Hai chiếc xe song mã : Người xưa cho hai việc sửa mình, làm cho gia đình êm ấm là việc quan trọng hàng đầu, sau đó mới trị nước và bình thiên hạ. (Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ - Đại học). Xã hội có ba giềng mối thì một trong giềng mối quan trọng là vợ chồng (Quân thần, phụ tử, phu phụ: Vua tôi, cha con và vợ chồng) Tu thân là tôn trọng nhau, tin cậy nhau, thành thực biết bao dung tha thứ, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau thì gia đình êm ấm. Là hợp với đạo lí, luân thường. Ngược lại không tôn trọng lẫn nhau, nghi ngờ, chấp nhất, thờ ơ vói bổn phận, thì gia đình lục đục. Tệ haị là người chồng ngọai tình, mèo mỡ lăng nhăng là không tôn trọng vợ, là thiếu thành thực. Người vợ không thủy chung với chồng là điều đáng chê trách. Suy đồi hơn, ông ăn chả bà trả đũa tìm cách ăn nem. Là thương luân bại lí. Cuộc sống vợ chồng tất nhiên không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, không bàn bạc tranh luận, thậm chí không cãi cọ nhau thì cũng không phải là một gia đình. Có trường hợp trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã hay, gặp người bạn hoặc láng giềng tốt bụng họ sẽ giúp lời hay lẽ phải. Nhưng cũng coi chừng những người độc mồm độc miệng, đổ dầu vào lửa, ngọn lửa bất hoà vợ chồng cháy bùng thì quả là tai họa. Không ai hiểu gia đình của mình bằng chính mình, do đó hai người phải tỉnh táo, nhìn thực vào vấn đề, với tinh thần trách nhiệm rất cao để cùng nhau giải quyết hợp lí hợp tình. Một người sống trong thế gian những người thân nhất là cha mẹ, người thân thứ nhì là vợ chồng. Cho nên trong quan hệ vợ chồng vừa là tình yêu, tình thân, vừa là tình cảm vừa cùng sinh sống với nhau vừa là gia đình nhưng đồng thời là luân lí. Hai vợ chồng là cùng một mục tiêu lí tưởng, chung nổi niềm hi vọng, chung một lợi ích và hợp thành một thể thống nhất. Nhưng trong đời sống gia đình, vợ chồng, không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái, sẽ gặp không ít những trở ngại, những người đứng trước ngưỡng cửa hôn nhân hoặc sau khi đã lập gia đình phải biết và cùng chung lưng để giải quyết. Trong thần thoại: Người ta ví con người thường ngồi trên cỗ xe song mã, một con ngựa đen và một con ngựa trắng. Con ngựa trắng tượng trưng cho sự tốt đẹp là sự tỉnh táo, vị tha, tôn trọng, tin cậy, siêng năng dám gánh vác trách nhiệm nặng nề. Con ngựa trắng có thiên hướng đi tới hoặc bay lên. Con ngựa đen tượng trưng cho sự mù quáng, chấp nê, dưới mắt không ai, đa nghi, lười biếng, thờ ơ với bổn phận. Con ngựa đen có thiên hướng đứng ỳ một chỗ hoặc kéo nhào xe xuống vực.. Tưởng tượng hai người yêu hoặc vợ chồng, mỗi ngày đánh hai chiếc xe song mã, rong ruỗi trên đường đời, bắt bốn con ngựa phải chạy song song với nhau, cùng tiến lên, cùng bay lên. Thực khó khăn biết chừng nào! Người xưa nói rất rất hợp lí. Vì mỗi người hoặc gia đình là tế bào của xã hội, con người tốt, gia đình êm ấm góp vào phần bình trị của đất nước, thiên hạ. Con người xấu, gia đình tan rã là mầm mống làm cho xã hội, thiên hạ, hỗn loạn. Một trong những kỉ cương giềng mối (phu phụ) bị đứt thì những mối giềng khác (quân thần, phụ tử) cũng lung lay. Yêu đương là việc của hai người, quyết định hôn nhân liên quan đến cuộc đời, gia đình, con cái và xã hội.Vì thế, người ta gọi là chung thân đại sự, chung sống với nhau là việc lớn. Đã là việc lớn thì không thể không thận trọng, đo lường mọi tình huống trong cuộc sống tình yêu và hôn nhân. 5. Thượng đế chào thua : Trong truyện cổ phương tây, Thượng đế tự hào tạo ra mọi thứ. Nhưng một hôm ông thấy một đôi nam nữ rất trẻ, hai người nhìn nhau với ánh mắt đắm đuối và phát tia sáng rất lạ kì mà ông không hay biết. Ông hỏi, đôi nam nữ trả lời :Đó là tình yêu. Vị Thượng đế này độc quyền sáng tạo, ông ghét những người sáng tạo nên đày ải đôi tình nhân này. Ông cho họ một căn nhà tồi tàn và một mảnh đất cằn cỗi. Ông đay nghiến : Xem thử chúng có sống được với tình yêu hay không. Năm mươi năm, vị Thượng đế cay nghiệt này trở lại. Ông thấy căn nhà khang trang xinh đẹp, mảnh đất xanh tươi đầy cây trái, nhà con cháu đầy đàn. Đôi nam nữ ngày xưa, nay đầu đã bạc trắng, họ ngồi bên thềm nhìn nhau. Ánh mắt vẫn đắm đuối, phát ra tia sáng lạ kì. Ông giận lắm nhưng không có cách nào khác, vội bay thẳng về trời. Tiết 2 :NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN BIẾT VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN I. NGƯỜI THÂN VÀ BÈ BẠN. Như đã nói: Hôn nhân không chỉ là chuyện của hai người mà còn quan hệ đến cha mẹ, họ hàng thân thích và bạn bè cả hai bên, hai họ. Ca dao Việt Nam, các anh chàng nông dân mới ngõ lời yêu đương đã hứa hẹn và nghĩ ngay đến các lễ nghi và sính lễ thế nào cho tươm tất: Tiền cưới tiền cheo, buồng cau, chai rượu, đôi tằm, đôi chăn. Cũng có những bà mẹ khi con gái mười tám, đôi mươi thách, cưới rất dữ: Tiền chẵn năm quan. Cau chẵn năm ngàn. Lợn béo năm con. Áo quần năm đôi. Thời gian trôi qua, giá thách cưới giảm dần, khi cô nàng vào tuổi ba mươi bà mẹ chỉ còn thách: Tiền chẵn một quan. Cau chẵn một ngàn. Chó béo một con ... Rồi và tuổi bốn mươi thì ngã giá: Cho không. Tuy câu chuyện đậm phong vị tiếu lâm nhưng các bà mẹ có con gái cũng cần suy nghĩ về chuyện thách cưới. Theo tập tục, làm lễ thành hôn, người ta mời mọc, đãi đằng bà con thân thích, bè bạn cả hai bên. Nếu không là thất lễ hoặc mang tiếng là không biết đối nhân xử thế, không hiểu nhân tình thế thái. Đời người chỉ có một lần, cứ thế mà danh sách họ hàng, thân thích xa gần, bè bạn của cô dâu chú rễ, bạn anh bạn tôi, dài ra như sớ táo quân. Nếu hai bên gia đình hoặc cô dâu chú rể không cùng giải quyết một cách tế nhị thì sẽ sinh ra mâu thuẩn, đáng lẽ ra không nên có. Khi đã kết hôn, hai người không thể thoát li ra khỏi những mối quan hệ: gia đình nhà chồng, gia đình bên vợ: mẹ chồng nàng dâu; mẹ vợ chàng rể, anh chị em cô, dì, chú, bác; bạn bè, đồng nghiệp... Bấy nhiêu người là bấy nhiêu tính cách, tâm tính, tư tưởng, hành vi, thiện ác khác nhau. Phận làm dâu hoặc rể phải tôn kính, hiếu thuận với cha mẹ, nhẫn nại chịu đựng, nhường nhịn anh chị em. Trung tín, thông cảm, thương mến bạn bè, tôn trọng đồng nghiệp...Đó là hợp với luân thường đạo lí. Nếu có những mâu thuẩn trong các mối quan hệ thì cả hai người cùng phải cùng nhau tìm cách hóa giải. Tương tự như cùng đồng tâm, hiệp lực nhấc hòn đá tảng, trở ngại cho đời sống hôn nhân. Nếu cả hai vợ chồng, ai cũng bênh vực gia đình mình, vun quén cho người thân thuộc của mình, luôn cho bạn bè mình là đúng.. thì đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẩn trong đời sống hôn nhân. II. ĐŨA MỐC VÀ MÂM SON (Thân thế, gia cảnh) Ngày xưa, vấn đề môn đăng hộ đối rất quan trọng đối với hôn nhân. Cha mẹ nào cũng thương con, tìm nơi xứng đáng để dựng vợ gã chồng cho con cái.Nhưng cũng vì thế đã gây nhiều khổ não cho nhiều chàng trai nhiều cô gái. Trong dân gian tồn tại nhiều câu thành ngữ châm biếm chàng trai nào muốn trèo cao, ngấp nghé cô gái thuộc gia đình danh gia vọng tộc: Quạ muốn sánh với phuợïng hoàng ïĐũa mốc chòi mâm son. Trong quá khứ, nhiều chàng trai nghèo phải hăm hở chạy đi tìm công danh, anh chàng nào may mắn lắm mới được bắt được quả tú cầu của những cô gái nhà quyền quý gieo lên mũ. Ngày nay, áp lực của môn đăng hộ đối không còn nặng nề nhưng khi kết hôn cũng phải biết về gia thế, gia cảnh của nhau. Lấy vợ xem tông lấy chồng xem giống, không phải không có cơ sở. Chắc chắn không ai có thể kết hôn với một người mà mình mù tịt về thân thế và gia cảnh. Những bậc cha mẹ chắc cũng không vui gì, khi không biết lai lịch tông, giống của con dâu hoặc con rể. Thân thế, gia cảnh cũng là những nhân tố khá quan trọng trong tình yêu và hôn nhân. Bất kì xã hội nào cũng có kẻ giàu người nghèo, mỗi gia đình có hoàn cảnh riêng. Nếu đã yêu nhau thì chấp nhận, thông cảm gia thế gia cảnh của nhau. Nếu không thông cảm chấp nhận thì đó là một trở ngại rất lớn trước khi kết hôn và sau khi đã sống chung. Trong hôn nhân trọng sự công bằng trong đối xử. Anh chê gia thế, gia cảnh của chị. Chị than thở là phượng hoàng sánh nhầm vai cùng quạ, mâm son đã bị vấy bẩn vì đũa mốc. Người ngoài, người tốt thì không nói làm gì, gặp người ác khẩu chêm vào vài câu ví von: Thài lài cắm bãi c.. trâu. Quả hồng bị chuột vọc ngâu vầy...Những câu nói kiểu này gọi là ác ngữ làm tổn thương tình cảm vợ chồng. Nói cách khác, đây ngọn roi quái ác quất vào đời sống hôn nhân. III. CON TRÂU TỚI KINH ĐÔ (Tâm tính, tính cách) Mỗi người đều có tâm tính, tính các riêng, tức là cách nghĩ, tư duy và biểu hiện ở hành vi. Qua ngày tháng tích lũy trở thành tập tục thói quen cố hữu, rất khó thay đổi. Tục ngữ :Thanh sơn dị cãi, bản tình bất di (Núi xanh dễ cải biến, bản tính khó đổi dời) Có người còn cho rằng :Trống thì có tiếng kêu của trống, chuông thì có tiếng kêu của chuông, loại nhạc khí nào thì có âm thanh và âm sắc riêng. Không đổi được âm thanh, âm sắc của nhạc khí thì cũng không đổi được tâm tính, tính cách. Thậm chí còn có cách nói sỗ sàng hơn: Ngưu đáo Bắc Kinh y nhiên thị ngưu ( Dẫn con trâu đến Bắc Kinh thì trâu vẫn là trâu). Chính sự khó thay đổi tính cách là một trong những trở ngại trong hôn nhân và đời sống vợ chồng. Ông chồng có vợ quen ăn vụng như mỏ khoét, đánh con cả ngày thì cũng rất là điên đầu ! Bà vợ có ông chồng quen thói tổ tôm xóc đĩa thì cũng chẳngkhông mấy vui vẻ hạnh phúc. Vợ chắt chiu từng xu nhưng chồng quen thói bốc rời quăng tiền qua cửa sổ, sẽ sinh ra cãi cọ và mâu thuẩn. Chồng trầm tĩnh kín đáo, thích trầm tư. Vợ cứ ba hoa chích chòe, thao thao bất tuyệt. Chắc chắn sẽ có những giây phú khó chịu vì tính khí của nhau. Tâm tính, tính các trái ngược nhau là nguyên nhân sinh ra bất hòa mâu thuẩn, xung đột. Người xưa cho rằng bản tính người phụ nữ là âm, ôn nhu, người đàn ông là dương, cứng rắn nên : Chồng trước vợ sau, chồng ở trên cao, vợ ở dưới thấp, chồng khởi xướng thì vợ theo. Các nhà xã hội học cho là hạ thấp phụ nữ là trọng nam khinh nữ , quy định bản tính và hình như muốn xoá bỏ tâm tính và tính cách riêng của người phụ nữ. Người phụ nữ sống như cái bóng của ông chồng. Nhiều phụ nữ cũng tự hạ, ví mình như dây leo, tầm gửi núp bóng tùng bách, như bèo sống dưới đài sen. Nhưng trong học thuyết âm dương ngũ hành có những lập luận cũng rất thú vị về bản tính:Nước thì chảy chỗ trũng, lửa thì bốc lên trời, kim loại thì cứng... Nhưng hai vật cứng chạm nhau, nẩy lửa và gãy. Kiếm sắc có thể chặt được gỗ, đá nhưng không chém được nước. Muốn có sự hoà hợp thì phải tìm các cân bằng, nóng quá thì tìm cách cho nguội bớt, lạnh quá làm cho ấm lên... Suy ra hai người có hai tính cách khác nhau nhưng đôi khi cũng có thể bổ túc cho nhau. Ví dụ: Chồng nóng tính thì vợ dịu dàng. Bà keo kiệt thì ông rộng rãi một tí. Chồng đang nóng giậân và vợ cũng chẳng nhịn, lửa gặp lửa thì đám cháy càng to. Trong đời sống có vô số cặp đối lập: Tích cực- tiêu cực , hướng nộïi- hướng ngoại, phóng khoáng- chấp nê, xanh - đỏ. Nếu mỗi người khư khư giữ tâm tính, tính cách, hành vi sở thích của mình thì những cặp mâu thuẫn đối lập càng gia tăng, liên miên, bất tận. Tích tiểu thành đại, từ chuyện nhỏ lâu thành chuyện lớn và cuối cùng thành bão tố. Nói chung mỗi người phải tự biết tâm tính của mình, tự kiềm không để nó hoành hành bộc phát, lúc cần thì bổ túc cho nhau. Đặc biệt là hiểu nhau, bao dung, tha thứ cho. Đừng để mang tiếng trâu đến Bắc Kinh trâu vẫn hoàn trâu. Thành ngữ Việt Nam là: Mèo lại hoàn mèo. IV. ĐẬP VỠ HẠT NHÂN NGUYÊN TỬ.(Tư tưởng và hành vi) Mỗi người đều có tưởng và hành vi khác nhau, đó cũng là một trong những trở ngại của tình yêu và hôn nhân.Trường hợp này người ta gọi là cùng chung giưòng, hoặc một gối, nhưng mộng mị khác nhau. Đồng sàng dị mộng, đồng chẩm dị mộng. Tư tưởng khác nhau thì hành vi cũng khác nhau, sinh ra cọ xát và mâu thuẩn. Khi không cùng một tư tưởng dễ sinh ra thiên kiến. Một nhà bác học cho rằng, đập vỡ hạt nhân nguyên tử dễ hơn đập vỡ một thiên kiến. Khi đã thiên kiến thì không tiếp thu ý kiến của nhau, không tán đồng về hành vi của nhau. Nếu bài xích chê bai về tư tưởng và hành vi của nhau là điều tệ hại. Nhiều cặp vợ chồng không nghe ý kiến của nhau, dẫn đến những việc làm bất thiện, trái với luân thường và luật pháp. Dẫn đến cảnh quýt là cam chịu. Đó là bi kịch. Nhưng cũng có những cặp vợ chồng ăn ý với nhau, kết hợp với nhau mưu toan lừa dối người khác. Người ta gọi là cặp bài trùng, phường mạt cưa mướp đắng, kẻ cắp đi chung với bà già, hai tên bợm. Và có lẽ những người lương thiện không ai muốn dây dưa quan hệ với bợm, với hạng mạt cưa mướp đắng với những kẻ lọc lỏi lừa người. Tây phương có lí khi nói : Yêu nhau là cùng nhìn về một hướng. Phương pháp suy nghĩ có thể khác nhau nhưng cùng hướng về một mục tiêu là mưu cầu hạnh phúc cho gia đình. Chính sự thống nhất về mục tiêu sẽ dễ dàng tiếp thu ý kiến của nhau, tán thành hành vi của nhau. Lúc ấy không ai còn nghĩ đến việc đập vỡ hạt nhân nguyên tử nữa. V. HẠT GẠO TRẮNG NGẦN.(Trí tuệ và tài năng) Mọi người vốn có trí tuệ cao thấp khác nhau, tài năng có sở trường sở đoản khác nhau. Hai người yêu nhau hoặc thành vợ thành chồng cũng vậy. Nhưng sự khác nhau giữa trí tuệ tài năng của hai người lại góp phần vào thành bại trong việc tiến thân lập nghiệp, tốt xấu và họa phúc gia đình. Nếu biết kết hợp sự cao thấp của trí tuệ, sở trường, sở đoản tài năng của nhau, bổ túc cho nhau, hỗ trợ cho nhau, thì thành công và hạnh phúc. Ngược lại, chồng chê vợ là ngu si dốt nát, vợ chê chồng là bất tài vô lực. Châm biếm lẫn nhau là một trong những nguyên nhân của sự rạn nứt, mâu thuẩn và xung đột. Không hiếm những cô vợ trong cuộc sống gia đình không được như ý, cay đắng than thân trách phận. Cho mình là hạt gạo trắng ngần, rơi vào hoàn cảnh bị vo nước đục, bị vần lửa rơm. Nhưng quên rằng :Vợ có thể làm cho chồng thêm phần quý trọng, thêm phần vinh hiển. Phu dĩ thê vi quý, phu dĩ thê vi vinh. Trong văn học Việt Nam, Tú Xương, có tài thơ , ông nói là ông quắc mắt khinh đời nhưng hay nịnh vợ, tự cho mmình là bất tài vô lực chẳng giúp gì cho bà. Ông viết câu đối dán lên cột và hỏiï: Viết câu đối dán ngay lên cột Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay ? Rằng hay thì thật là hay Không hay sao lại đỗ ngay tú tài Xưa nay em vẫn chịu ngài ! Bà Tú suốt ngày eo sèo kiếm miếng ăn trên bến nước đò đông, lặn lội nơi quãng vắng, chắc cũng không mấy để ý đến câu đối, thơ văn. Nhưng nghe chồng hỏi bà trả lời rất khéo và dí dỏm: Xưa nay em vẫn chịu ngài (chịu tài thơ, chịu cái ngông, chịu tài nịnh vợ..) Không ai thấy cái chênh lệch giữa nhà thơ với người phụ nữ buôn gánh bán bưng. Không ai thấy cái tự cho bất tài vô lực của ông chồng tài tử và cái vất vả của người vợ phảøi gánh vác mọi chuyện gia đình. Chỉ thấy cái khéo xử, niềm vui trong đời sống vợ chồng ông bà Tú.Và một trong những bài học kinh nghiệm trong đời sống vợ chồng. VI. BUÔN VỊT TRỜI(Giáo dục và học vấn) Tâm tính, tính cách, trí tuệ, tài năng, hành vi phần nhiều là thể hiện trình độ học vấn, thừa hưởng từ nền giáo dục của gia đình và xã hội. Trí tuệ và tài năng, trình độ học vấn, sự hấp thụ của nền giáo dục của mỗi người cũng cao thấp, mạnh yếu khác nhau. Trong tình yêu và hôn nhân nếu không biết dung hợp, trung dung, trình độ học vấn, giáo dục thì cũng là một trong những trở ngại trong đời sống vợ chồng. Trong dân gian lưu truyền rất nhiều truyện cười về những ông chồng khờ khạo, ngu dốt; vợ phải dạy khôn, nhưng có khi dạy mãi cũng không khôn ra được. Ví dụ anh chàng vợ bảo đi buôn nhưng lại buôn vịt trời. Cũng không thiếu truyện kể về những bà vợ gan ruột lú lẫn. Ví dụ vợ chàng Cuội, vì cái quên tai hại, làm cho cây đa kéo tuốt anh chồng lên đến tận mặt trăng. Do trình độ học vấn chênh lệch nên dễ sinh ra tự ti mặc cảm trong đời sống vợ chồng. Tự ti là người bạn song sinh với tiêu cực và bị động, nhất nhất nghe lời vợ hoặc chồng có học vấn cao hơn. Trong thực tế, nhiều khi bằng cấp không phải là tất cả, đồng nghĩa với văn hóa giao tiếp xử thế và xử sự. Nhiều người bằng cấp cao nhưng xử sự kém cỏi, giao tiếp đưa cái tôi của mình ra trước. Văn hào Tolstoi đã có một câu nói rất hay: Cái ta biết là một tử số, cái ta tưởng tượng về mình là mẫu số. Cái tưởng tượng (về học thức, hiểu biết , trí tuệ tài năng của mình) càng lớn thì tử số càng nhỏ. Trong hôn nhân gặp anh chồng hoặc chị vợ có trí tưởng tượng phong phú về học vấn của mình như thế thì rất đáng buồn. Ngày xưa, nhiều bậc cha mẹ không cho con gái học cao sợ khó lấy chồng. Tâm lí thường tình nhiều ông chồng rất ngán người vợ có học thức cao hơn mình. Mệnh danh là kẻ mạnh thua kém kẻ yếu thì ê mặt. Ngày nay học vấn là một nhu cầu trong cuộc sống, dù nam hoặc nữ cũng phải học, phải được thụ hưởng nền giáo dục đầy đủ của gia đình và xã hội. Giáo dục và học vấn giúp người ta thuận lợi trong việc tiến thân lập nghiệp, trong giao tiếp, xử sự, kể cả nuôi dạy con cái. VI. NGỦ VÀ NGÁY(Tập tục và thói quen) Trong cuộc sống chung, thì nhất cửa nhất động, lời nói hành vi, cử chỉ của người này ảnh hưởng đến người kia. Tập tục, thói quen, sở thích của mỗi đều được bộc lộ rõ ràng. Chồng thích thức khuya. Vợ thích ngũ sớm. Anh muốn nghe nhạc cổ điển, chị thích nhạc hiện đại...Anh hay châm biếm đùa giởn. Chị nghiêm trang không ưa đùa cợt. Những tập tục, thói quen, tích lũy từ lúc thơ ngây cho đến lúc trưởng thành và hình như ai cũng có một thói quen trội nhất. Trong Truyện Kiều: Cô Kiều đã quen mất nết đàn những bản đàn bạc mệnh. Thúc Sinh quen thói bốc rời, trăm ngàn đổ một trận cười như không. Hoạn Thư có thói ghen rất lạ đời. Ngay Ông Trời Xanh cũng có thói rất khó từ bỏ: Trời xanh quen thói mà hồng đánh ghen. Thói ghen của Trời xanh làm cho cô Kiều khốn đốn. Thói ghen của Hoạn Thư suýt đưa cô đến chỗ đầu rơi máu đổ, đưa ông chồng bạc nhược gặp phen mất vía. Văn học dân gian Việt Nam có anh chàng rất nhẫn nhục và rộng lượng, bênh vực nhiệt thành những thói quen của vợ, mà người đời cho là thói hư tật xấu: Đêm nằm thì ngáy o o Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà Đi chợ thì hay ăn quà Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm. (Ca dao Việt Nam) Trong đời sống vợ chồng, nếu tập tục, thói quen, sở thích giống nhau hoặc tương thì rất tốt. Nhưng trái ngược, nhau thì chính là nỗi phiền hà cho nhau. Muốn hóa giải sự phiền hà này nên bắt chước anh chàng nông dân trong ca dao: rộng lượng và biết yêu luôn những thói xấu của vợ. VII. ĐẦY TỚ TỐT, ÔNG CHỦ XẤU(Kinh tế gia đình) Đa số cặp vợ chồng sau khi kết hôn, muốn hoặc không muốn, phải đương đầu với sinh hoạt đời thường : Cơm, áo, gạo, tiền và hàng trăm thứ linh tinh khác. Có người nói, sau khi cưới được người yêu thì phải sống chung với mụ già vô hình, lẩm cẩm, khắc nghiệt là kinh tế. Ngày xưa, người ta gọi vợ chồng là nghĩa tào khang, tức là nghèo đến nổi chia nhau chén cháo cám, cũng đã bao hàm ý nghĩa kinh tế gia đình.ï Tô Tần đi kiếm công danh thất bại, về áo quần rách bươm. Vợ không rời khung cửi, không chào hỏi. Đến khi công thành danh toại vợ chạy ra tận ngõ đón chào. Xét về người vợ, hơi quá quắt. Nhưng Tô Tần rút ra bài học về sự ấm lạnh của con người, về vợ chồng : Trên đời này không thể không có công danh, sự nghiệp. Người ta sinh ra phải có chỗ ở, cái ăn cái mặc, nuôi con, giúp đỡ người khác, chuyện phải chuyện trái... đều cần đến tiền bạc. Do đó vợ chồng phải đem hết trí óc, khả năng để làm việc, để kiếm tiền. Là một trong những điều kiện quan trọng để gia đình có đời sống ổn định, một trong những yếu tố tạo nên hạnh phúc. Đồng tiền là người đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu. Nó giúp con người có những phương tiện, tiệân nghi tốt hơn, thỏa mãn nhưng nhu cầu thiết yếu. Nhưng khi đồng tiền lên ngôi chủ nhân sai khiến con người thì con người cũng trở nên băng giá như nó. Lạnh lùng, tráo trở, vô tình, bất nghĩa là trăm đầu mối của sự bất hoà. Nếu để đồng tiền làm chủ trong hôn nhân, nó sẽ đánh giá con người theo thước đo của nó, theo giá trị của nó. Vợ sẽ chê chồng là bất tài, vô tướng. Chồng thất bại, thay vì an ủi lại đay nghiến. Chồng để vợ lao vào đời sống, làm cách cũng được, miễn sao có tiền. Tục ngữ có câu: Của chồng công vợ. Muốn ám chỉ tài sản, kinh tế gia đình, ai làm ra cũng có công sức của nhau. Khi nói cái này của anh, cái kia của tôi, có ý tranh giành, phân chia, là dấu hiệu của sự rạn nứt. Có một vị cao tăng đi dạo trên phố, người ta hỏi ông cần gì ? Ông trả lời ông đã đủ mọi thứ. Nhưng hỏi một bà nội trợï, bà ta trả lời bà thiếu quá nhiều thứ. Người ta cho rằng cái nghèo thì vô tận, cái giàu cũng vô cùng. Con người biết đủ là hạnh phúc. VIII. GIẢI THÍCH CHỮ YÊU(Hạnh phúc và đau khổ) Làm sao cắt nghĩa được tình yêu. Nhà thơ thì nói như vậy, nhưng có người cắt nghĩa chữ ái (yêu) như sau: Chữ ái (yêu) của Trung Quốc gồm chữ tâm (quả tim, tấm lòng, cái tâm) và chữ thụ (thụ hưởng, tiếp nhận, tiếp thu). Hàm nghĩa người đã yêu thì muốn đối tượng tiếp nhận, thụ hưởng, tiếp thu những gì mình cho, mình dâng hiến bằng quả tim, tấm lòng, bằng cả cái tâm của mình. Nếu được thì hạnh phúc. Nếu bị chối từ thì rất đau khổ. Người ta cũng thường nói: Yêu là khổ, được yêu là hạnh phúc. Yêu là mong muốn, hi vọng. Mong muốn hi vọng không được đáp ứng thì đau khổ, sầu hận. Nói như nhà thơ Xuân Diệu : Yêu là chết ở trong lòng một ít. Vì mấy khi yêu mà đã được yêu. Cho thì nhiều nhưng chẳng nhận bao nhiêu. Vợ yêu chồng, lo lắng cho chồng từ công ăn, việc làm, đến miếng, ăn giấc ngủ và sức khỏe. Mong mưốn người chồng quan tâm lo lắng đến gia đình, không chè chén say sưa, không la cà những nơi liễu ngõ hoa tường ... Những mong chồng đáp lại. Đó là hạnh phúc. Chồng yêu vợ, mong muốn sự dịu dàng, cùng chia xẻ niềm vui lúc thàng công, an ủi nhau lúc thất bại, thông cảm nổi nhọc nhằn vất vả...Những mong muốn ấy không được người vợ đáp lại. Đó là nguyên nhân của đau khổ. Nói chung, chữ ái (yêu) của Trung Quốc rất thâm thúy: Người này yêu người khác bằng cả quả tim, dâng hiến cho người khác, mong người khác hiểu, tiếp nhận. Người được yêu cũng nên tiếp nhận, thụ hưởng bằøng quả tim của mình. Cho cũng bằng cả trái tim. Nhận cũng bằng cả trái tim. Đó là yêu. Là bí quyết trong tình yêu và hôn nhân. IX. KHI CÁC VỊ THẦN CAN THIỆP(Tôn giáo và tín ngưỡng) Nhiều người Trung Quốc nói riêng và người trên thế giới nói chung, đều có tín ngưỡng và theo tôn giáo. Cũng không ít người sa vào mê tín dị đoan hoặc có thành kiến với người không theo tông giáo của mình. Người Trung quốc thờ rất nhiều rất vị thần: Thượng đế, phật, thánh, kể cả ông thần bếp, ông thần giữ cửa. Nhưng đa số thờ ông bà, còn gọi là đạo Khổng. Nhiều người, hàng ngày hương khói thờ phụng, nấu nướng những thức ăn ngon lành để cúng bái. Có người nói: Tôn giáo, tín ngưỡng là niềm tin, không thể dùng lí luận để kiến giải hoặc luận giải. Chúng ta không lạm bàn về tín ngưỡng và tôn giáo. Nhưng xét về tình yêu và hôn nhân đôi khi tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những trở ngại trong tình yêu và trong đời sống vợ chồng. Nhiều người yêu nhau phải chia tay vì gia đình không chấp nhận. Lí do là khác tôn giáo tín ngưỡng. Khi các vị thần xen vào đời sống cặp vợ chồng, không cùng tôn giáo, tín ngưỡng, nếu không hiểu và tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo của nhau, còn công kích lẫn nhau, là một trong những cơ hội cho vị thần Bất hòa xuất hiện. X. PHƯỢNG HOÀNG VÀ TRÂU NGỰA(Nuôi dạy con cái) Xưa nay, cha mẹ nào cũng thương con cái, khi nuôi dạy con cái mong con cái nên ngưòi, trở thành những con phượng hoàng không ai muốn con cái mình lớn lên làm trâu làm ngựa. Ca dao Việt Nam cho rằng: Nuôi con chẳng dạy chẳng răn. Chi bằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng. Nuôi dạy con cái là bổn phận là trách nhiệm của các bậc cha mẹ, là việc lớn, thiên kinh địa nghĩa, như giềng mối của trời như nghĩa của đất. Khi nuôi dạy con cái lúc đó mới thấy được công lao trời biển của cha me. Người Trung Quốc cho rằng dạy con cái trước hết là dạy chữ hiếu. Một trăm điều tốt, tốt nhất là chữ hiếu. Có thể hiểu, chữ hiếu là nguồn gốc sinh ra hàng trăm tính tốt khác. Bách thiện hiếu vi tiên. Cha mẹ hiền từ con hiếu là một gia đình hạnh phúc. Việc nuôi dạy con cái không đơn giản chút nào. Mẹ thầy Tử Lộ đã ba lần dọn nhà sợ con ảnh hưởng môi trường chung quanh (chợ búa, đồ tể..). Một lần đập khung cửi khi thấy con biếng học. Vợ chồng phải thống nhất và thông cảm nhau trong phương pháp dạy con cái. Cha la rầy con cái. Mẹ đợi dịp tốt dịu dàng khuyên nhủ. Nếu ông la rầy, bà lại bênh vực con, lời la rầy dạy dỗ của ông sẽ mất tác dụng. Khi con cái hư hỏng lại đổ trách nhiệm lên đầu nhau là không nên. Gia đình, vợ chồng, hòa thuận, hiếu thảo, chăm sóc cha mẹ là điều kiện thuận lợi nhất để nuôi dạy con cái. Gia đình, vợ chồng xào xáo, bất hòa, coi thường cha mẹ thì việc dạy con cái rất khó khăn. Đó là một trong những nguyên tắc vàng để nuôi dạy con cái. Sau đây là bài ca dao cổ, quen thuộc, về dạy con cái: Dạy con từ thuở tiểu sinh Gần thầy gần bạn tâïp tành lễ nghi Học cho cách vật trí tri Văn chương chữ nghĩa, nghề gì cũng thông (Ca dao Việt nam) XI. VÀNG CŨNG KHÔNG MUA ĐƯỢC(Đau ốm, bệnh tật) Trong tình yêu và hôn nhân, sức khoẻ của mỗi người ảnh hưởng và phụ thuộc vào nhau rất lớn. Một trong hai người lâm vào hoàn cảnh đau ốm, bệnh tật hoặc tàn tật thì người kia rất khổ sở. Thông thường, trước khi kết hôn người ta thường kiểm tra sức khỏe, những người mắc bện nan y, di truyền thì không nên kết hôn vừa làm khổ người mình yêu, biết đâu còn làm khổ cho con cái. Gia đình hạnh phúc, êm ấm, làm ăn thịnh vượng phần lớn phụ thuộc vào sức khỏe. Nếu trong nhà có vợ hoặc chồng đau ốm bệnh hoạn, thương tật, tàn tật, tất nhiên là không mấy vui vẻ. Tiền rừng bạc biểân đôi khi chưa chắc đuổi được bệnh hoạn. Nhiều cặp vợ chồng khổ sởï, nhiều gia đình chia lìa cũng do bệnh tật gây nên. Trong đời không ai muốn đau ốm, bệt tật, thương tật, tàn tật. Nhưng khi vợ hoặc chồng không may lâm vào hòan cảnh cảnh này thì phải tận tâm chăm sóc cứu chữa cho nhau. Đó là nghĩa vợ chồng, là đạo lí. Phương pháp hay nhất là phòng bệnh hơn chữa bệnh. Người này phải chăm lo cho sức khỏe người kia, chia xẻ gánh nặng nhọc nhằn, lao tâm khổ trí của nhau. Người này muốn vắt cạn sức sống của người kia tức là mời bệnh tật và bất hạnh đến nhà. Khi khỏe mạnh người ta muốn rất nhiều thứ nhưng khi đau ốm bệnh tật ngươì ta chỉ mong muốn duy nhất, đó là sức khỏe. Vì vậy, trong đời sống cũng như trong tình yêu và hôn nhân câu sức khỏe là vàng rất có ý nghĩa. XII. GIÓ YÊN SÓNG LẶNG(Sự thông cảm) Trong tình yêu và hôn nhân, thông cảm nhau là điều quan trọng. Sự thông cảm thì chuyện lớn hóa nhỏ và chuyện nhỏ trở thành không có. Nếu không thôâng cảm nhau thì chuyện bé xé ra to, chuyện to một chút thì biến thành bão tố. Thông cảm cá tính, tư tưởng, công việc... của nhau thì hạn chế được sự, biện luận, biện bác, tranh luận chỉ trích mục đích cho mình là phải, là đúng. Thông cảm nhau tức là mỗi người phải bình tâm, tỉnh táo, nhẫn nại để suy xét kĩ càng sự việc . Không nên việc gì cũng cho mình có toàn quyền xử trí công việc và bắt buộc vợ hoặc chồng phải tuyệt đối tuân theo. Một trong những phương pháp và kĩ năng, kĩ xảo của sự cảm thông là biết nhẫn nại lắng nghe rõ ràng đầu đuôi sự việc, không cố chấp, không bảo thủû. Danh ngôn có câu: Lùi một bước thì bể rộng, trời cao. Nhẫn nại một chút thì gió yên sóng lặng. Đó là cảnh gia đình yên ấm, không có phong ba bão táp. Nguyên nhân có sự cảm thông, nhường nhịn và nhẫn nại. Nói theo dân gian Việt Nam chồng giận vợ bớt lời thì như cơm sôi lửa nhỏ một đời không khê. Nếu chồng giận, vợ cũng đùng đùng không nhịn thì bão đến, đồ vật sẽ biết bay. Kể ra nóng nảy, vũ phu nhưng không phải là không có trong cuộc sống đời thường:: Chồng giận thì vợ bớt lời. Chồng giận, vợ giận, thì dùi nó quăng. (Ca dao Việt Nam) XIII. BA BÀ BÁN LỢN.(Mẹ chồng, nàng dâu) Trong dân ca Việt Nam kể : ba bà đi bán lợn sề, không bán được lợn, bèn ngồi túm tụm kể tội nàng dâu. Mỗi bà đều có nàng dâu đầy thói hư tật xấu không thể tưởng tượng nổi. Một nàng dâu than thở với chồng: Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi ! Biết rằng có được ở đời với nhau ? Hay là vào trước ra sau. Cho cực lòng thiếp cho đau lòng chàng. (Ca dao Việt Nam) Anh chồng thì thầm khuyên vợ: Mẹ già dữ lắm em ơi ! Khoan ăn bớt ngủ mà nuôi mẹ già (Ca dao Việt Nam) Chứng tỏ mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu rất phức tạp, nếu không biết dàn hoà đối xử là một trong những trở ngại cho đời sống hôn nhân. Xét về tâm lí, điểm chung nhất là người mẹ nào cũng thương con, người vợ nào cũng yêu chồng. Người mẹ thương con, với thiện ý là muốn con trai mình có một người bạn đời thật lí tưởng thật hòan hảo, con trai mình phải được chăm sóc, thậm chí hầu hạ thật chu đáo không có chỗ nào chê được. Thì mới vừa lòng. Nàng dâu giúp con trai mình thành đạt, sinh cho mình những đứa cháu, bụ bẩm thông minh. Đó là hạnh phúc và niềm vui của các bà mẹ. Nếu gặp nàng dâu biết ý và khéo chiều mẹ chồng, mẹ chồng hiền hậu thì hôn nhân thuận lợi. Gặp những bà mẹ chồng như ba bà bán lợn, gọi là ác khẩu; nàng dâu không biết ý mẹ chồng không chiều mẹ chồng. Mẹ chồng nàng dâu xung đột. Ông chồng lúc đó như đứng trước ngã ba đường, bên hiếu, bên tình không biết bênh ai bỏ ai. Rất khổ tâm. Trung Quốc và Việt Nam rất trọng chữ hiếu và cho rằng dâu là con, rễ là khách. Ý muốn nói con dâu sẽ sinh con, đẻ cháu nối dõi tông đường. Mong muốn con dâu hiếu thảo, tôn kínhï, phụng dưỡng cha mẹ y như con ruột của mình. Không đạt được hi vọng, mong muốn thì các bà mẹ rất buồn khổ, cũng có bà mẹ chồng sinh ra căm ghét, hục hặc, ngược đãi nàng dâu. Trong văn học cổ điển, hình tượng về nàng dâu hiếu thảo là Thoại Khanh. Chồng đi xa, cô ở nhà săn sóc mẹ chồng. Trên đường vạn dặm, không xin được cái gì để ăn, cô lóc thịt của mình nấu cháo dâng cho mẹ chồng. Câu chuyện tuy lâm li, bi đát nhưng không phải là không có ý nghĩa. Những khái niệm về trung, hiếu, tiết, nghĩa...có khái niệm bị bào mòn và biến đổi theo thời gian. Nhưng khái niệm chữ hiếu, chữ nghĩa vẫn còn giữõ nguyên vẹn giá trị của nó. Như đã nói, trăm điều tốt bắt đầu từ chữ hiếu, còn gọi là hiếu tâm. Có hiếu với cha mẹ thì mới dạy được chữ hiếu cho con cái. Nghĩa là nghĩa vợ chồng. Hai chữ hiếu nghĩa (hiếu, tình) có những lúc xung đột nhau, buộc người ta phải cân bằng, dung hoà, hòa hợp. Theo Nguyễn Du thì hiếu tâm có thể làm cho Ông Trời cay nghiệt, quen thói gây sự cũng phải cảm động và thay đổi thái độ (Bán mình đã động hiếu tâm đến trời.) Nguyễn Du cũng cho rằng xưa nay những người hiếu nghĩa thường được đền bù hạnh phúc. Khi đánh giá toàn bộ đời người cũng lấy chữ hiếu chữ, nghĩa làm tiên chí để khen ngợi. Khen rằng hiếu nghĩa đủ đường. Chương hai : NHỮNG VẤN ĐỀ CĂN BẢN VỀ NĂM, THÁNG, NGÀY, GIỜ SINH Tiết 1 : BẢN THÂN VÀ HOÀN CẢNH SỐNG I. NĂM, THÁNG, NGÀY, GIỜ SINH. Thông thường, ai hỏi bạn sinh năm nào ? Bạn có hai cách trảï lời: Tôi sinh năm 1975 (theo dương lịch) hoặc Tôi sinh năm Ất Mão (âm lịch). Nếu trả lời đầy đủ theo âm lịch thì có năm sinh, tháng sinh, ngày sinh và giờ sinh. Tôi sinh năm Ất Mão, tháng Đinh Tị, ngày Nhâm Tuất, giờ Quý Hợi. Khi bạn nói: Tôi sinh năm Ất Mão. Ất là can hay gọi là thiên can. Mão là chi, hay là địa chi. Nói chung mỗi trụ có can chi (đọc trước) và địa chi (đọc sau). Tổng cộng có 4 thiên can: Ất, Đinh, Nhâm, Quý. Vàø 4 địa chi: Mão, Tị, Tuất, Hợi. Tóm lại, năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh, gồm bốn thông tin về thời gian, gọi là tứ trụ. Còn gọi là bát tự, tám chữ (mỗi thông tin về mốc thời gian có hai chữ, tổng cọng là tám chữ). Chúng ta bước đầu làm quen cách sắp xếp đơn giản như sau (Thứ tự trái sang phải - Năm- tháng, - ngày - giờ sinh) Can chi -Năm sinh-Tháng sinh-Ngày sinh-Giờ sinh Thiên can:Ất-Đinh-Nhâm-Quý. Địa chi:Mão-Tỵ-Tuất-Hợi. Trong âm lịch để tính năm, tháng, ngày giờ người ta phối hợp 10 thiên can và 12 địa chi: Mười thiên can đọc theo thứ tự là: Giáp Ất, Bính Đinh, Mậu Kỉ , Canh Tân, Nhâm, Quý. Mười hai địa chi đọc theo thứ tự là: Tí, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Chu kì của phối hợp của thiên can và địa chi là 60 năm, gọi là hoa giáp. Mỗi hoa giáp ước tính có 52 vạn tổ hợp về năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh. II. ĐỜI NGƯỜI DÀI HAY NGẮN ? Năm sinh, tháng sinh, năm sinh, giờ sinh là mốc thời gian cố định cho mỗi người. Rất hiếm có người năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh giống nhau. Các nhà tứ trụ học cho rằng năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh không chỉ đánh dấu khi con người vừa bưng tiếng khóc ban đầu mà ra, còn là hàm chứa thông tin về cuộc sống của một đời người, cho đến khi nhắm mắt lìa đời, về vận mệnh của con người. Bàn về đời người, cuộc sống con người, có nhiều người cho rằng khá ngắn ngủi, sáng được sinh ra, chiều đã chết đi, triêu sinh mộ tử. Lí Bạch cho rằng sáng tóc xanh như tơ, chiều soi gượng tóc đã bạc như tuyết.Và ở đời là một giấc mộng lớn. Làm chi cho vất vả ? Xử thế nhược đại mộng Hồ vi lao kì sinh ? (Xuân nhật túy khởi ngôn chí) Tạm dịch: Đời là một giấc chiêm bao, Làm chi vất vả, gian lao thân mình ? (Ngày xuân say rượu nói chí mình) Có người còn cho đời người cực ngắn như bóng ngựa chạy qua cửa sổ (Bạch câu quá khích). Nhà thơ Đỗ Phủ cho rằng xưa nay người sống được 70 tuổi là rất hiếm (Nhân sinh thất thập cổ lai hi). Có người sợ cuộc sống quá ngắn, không thụ hưởng được những cái vui của đời sống phải thắp đuốc đi chơi đêm. Tương truyền, chỉ có ông Bành Tổ là sống được 800 tuổi, thọ nhất trong lịch sử loài người. Thường ngày người ta thường chúc nhau sống lâu trăm tuổi. Đó là người sống thọ. Nói cách khác giới hạn đời người thông thường là 100 năm. Khổng Tử sáng suốt khi nói: Chưa biết sống là sao bàn về cái chết ?. Phương Tây cũng có câu: Sống trước đã triết lí sau.Có thể hiểu: Con người sống như thế nào ? Là rất quan trọng. Dù cuộc sống dài hoặc ngắn con người cũng phải có sự nghiệp, học vẤn, cuộc có lúc thành lúc bại, có hoạ có phúc, lúc sang lúc hèn, lúc tốt lúc xấu và có những quan hệ: cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, bạn bè, con cái. . . III. VẬN MỆNH CON NGƯỜI Các nhà tứ trụ học cho rằng : Tứ trụ là mệnh, quá trình, vận trình con người sống là vận. Vận mệnh kết hợp với nhau sẽ biết được tốt, xấu, họa, phúc của con người. Quan trọng nhất của con người là vận mệnh, con người thể nghiệm sâu sắc nhất, nhưng cái khó nhất mơ hồ nhất của con người thể nghiệm sâu sắc nhất là vận mệnh. Vận mệnh tồn tại ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Mọi cảm thụ, mọi hoạt động, mọi sự sáng tạo của con người đều lấp lánh ánh sáng thể nghiệm về vận mệnh nhưng khó có một định nghĩa đầy đủ về vận mệnh. Cũng theo mệnh lí ïhọc, người ta khó có một định nghĩa về vận mệnh nhưng qua tứ trụ người ta có thể dự đoán tốt xấu, họa phúc, vận mệnh của con người. Về vận mệnh, người ta chia ra 10 năm, mười tuổi là một đại vận, một tuổi (hoặc có người chậm hơn) người ta bước vào đại vận. Quá trình hành vận, mỗi năm, gọi là lưu niên. Đời người thường khoảng 8 đại vận, tức là trên 80 tuổi. Từ 20 đến 50 tuổi là những đại vận quan trọng nhất. IV. BẢN THÂN VÀ HOÀN CẢNH SỐNG. Theo tứ trụ học: Can ngày sinh, nhật can, còn gọi là nhật nguyên hoặc nhật chủ, hoặc thân. Đạïi biểu cho thân. Là yếu tố tiên thiên là do khí âm dương, là do di truyền của cha mẹ. Ba can (can năm, tháng, can giờ) và bốn chi (chi năm, chi tháng, chi ngày, chi giờ) còn lại. Đại biểu cho hoàn cảnh sinh sống, sống còn của thân. Là yếu tố hậu thiên do hoàn cảnh nuôi dưỡng tạo thành. Sức sống can ngày mạnh, tức là thân mạnh. Sức sống của can ngày yếu tức thân yếu. Thân mạnh thì đủ sức để thụ hưởng hoặc thích ứng với hoàn cảnh. Thân yếu thì không đủ sức để thụ hưởng hoặc thích ứng với hoàn cảnh. Nói cách khác là can ngày mạnh thì có sức để thụ hưởng hoặc thích ứng với ba can và bốn chi còn lại. Can ngày yếu thì không đủ sức để thụ hưởng hoặc thích ứng với ba can và chi còn lại. Hoàn cảnh không gì khác hơn như đã nói ở phần trên làsự nghiệp, học vấn, địa vị, nghề nghiệp, danh dự, bệnh hoạn, cái ăn cái mặc, tiền bạc; thành bại, họa phúc, tốt xấu. . . Là quan hệ giữa cha mẹ, anh chị em, bạn bè, vợ chồng, con cái. Tiết 2 : THIÊN CAN VÀ ĐỊA CHI A. Ý NGHĨA THIÊN CAN VÀ ĐỊA CHI. Như đã nói trên, nếu bạn nói:Tôi sinh năm Ất mão. Ý nghĩa của Ất là gì ?. Ý nghĩa của Mão là gì ?. Tứùc là ý nghĩa của thiên can và địa chi. Sau đây là phần giải thích về 10 thiên can và 12 địa chi. I. Ý nghĩa 10 thiên can. 1.Giáp có nghĩa là mở. Dấu hiệu vạn vật tách ra. 2.Ất có nghĩa là kéo. Vạn vật ban đầu được kéo lên. 3.Bính là đột nhiên. Vạn vật đột nhiên lộ ra. 4.Đinh là mạnh. Vạn vật bắt đầu mạnh lên. 5.Mậu có nghĩa là rậm rạp. Vạn vật xum xuê. 6.Kỉ là ghi nhớ. Vạn vật bắt đằu có hình để phân biệt. 7.Canh là chắc lại. Vạn vật bắt đầu chắc lại có quả. 8.Tân là mới là thu hoạch. Vạn vật đều có sự thu hoạch. 9.Nhâm là gánh vác. Dương khí chịu sự nuôi dưỡng vạn vật. 10.Quý là đo. Vạn vật đã có thể đo lường được. Nói chung, mười thiên can chỉ sự tuần hoàn của mặt trời, ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng của vạn vật. II. Ý nghĩa 12 địa chi. 1.Tí là tư bổ, nuôi dưỡng. Là mầm mống của vạn vật nẩy nở nhờ dương khí. 2.Sửu là kết lại. Các mầm non tiếp tục lớn lên. 3.Dần là đổi dời, dẫn dắt. Các mầm vừa mới nứt đã vươn lên mặt đất. 4.Mão là đội. Vạn vật đội đất mà lên. 5.Thìn là chấn động. Mọi vật qua chấn động mà lớn lên. 6.Tị là bắt đầu. Chỉ vạn vật đến đây có sự bắt đầu. 7.Ngọ là bắt đầu tỏa ra. Vạn vật bắt đầu mọc cành lá. 8.Mùi là ám muội. Chỉ âm khí bắt đầu có, vạn vật hơi suy giảm. 9.Thân là thân thể. Chủ thân thể vạn vật đã trưởng thành. 10.Dậu là già. Vạn vật đã già dặn, thành thục. 11.Tuất có nghĩa là diệt. Vạn vật đều suy diệt. 12.Hợi nghĩa là hạt.Vạn vật đề thu tàng về hạt cứng. Mười hai địa chi liên quan đến sự tiêu trưởng của mặt trăng. Chu kì tuần hoàn của trăng có sự ảnh hưởng trực tiếp đến sự sản sinh của vạn vật. B. PHÂN LOẠI. Như trên chúng ta đã biết : 10 thiên can chỉ chu kì tuần hoàn của mặt trời, ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng của vạn vật. 12 địa chi là chỉ chu kì tuần hoàn của mặt trăng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sự sản sinh vạn vật. Trong 10 can người ta phân chia hai nhóm can dương và can âm. Địa chi người ta cũng chia hai nhóm chi âm và chi dương. I. Can dương, can âm. Can dương:Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm Can âm:Ất, Đinh, Kỉ, Tân, Quý II. Chi dương, chi âm: Trong 12 chi người cũng chia thành hai nhóm: Chi dương:Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất Chi âm:Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi *Ghi chú: Để dễ nhớ, chúng ta đọc một hơi : Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Mở đầu Giáp là dương, tiếp là âm, rồi dương tiếp âm. . . Tương tự như vậy đối với 12 chi : Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngo,ï Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, để phân biệt âm dương của mỗi chi. Can dương ta tạm dùng kí hiệu (+); can âm dùng kí hiệu (-). III. Đồng tính và dị tính, Thiên và Chính. Quan hệ giữa bản thân tôi hoặc quan hệ giữa can ngày của tôi với 3 can và 4 chi còn lại là quan hệ sinh khắc. Can ngày của tôi là dương gặp các can dương khác, hoặc can ngày của tôi là âm gặp gỡ các can âm khác là sự gặp gỡ cùng tính (đồng tính) gọi là Thiên. Can ngày của tôi là dương gặp gỡ các can âm khác, hoặc can ngày của tôi là âm gặp gỡ các can dương khác là sự gặp gỡ khác tính (dị tính) là Chính. Tóm tắt : Thiên= can ngày (+) gặp can (+) . Thiên= can ngày (-) gặp can (-) Chính = can ngày (+) gặp can (-) . Chính = can ngày (-) gặp (+) Ví dụ: Can ngày của tôi là Ất (-) gặp can khác một trên ba trụ còn lại là Kỉ (-), đồng tính tức là Thiên. Can ngày của bạn là Ất (-) gặp một can khác một trong ba trụ còn lại là Tân (+), dị tính tức là Chính. Tiết 3 :THIÊN CAN, ĐỊA CHI VÀ ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH I. Khái quát về ngũ hành và tương sinh tương khắc. 1. Ngũ hành: Ngũ hành là năm loại vật chất cơ bản nhất của thế giới là: Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. 2. Ngũ hành tương sinh, tương khắc. Tương sinh: Mộc sinh Hỏa, Hoả sinh Thổ, thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy. Có thể biểu diễn bằng hình sau: T ương khắc: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. Có thể biểu diễn bằng hình vẽ sau: II. Thiên can, địa chi và âm dương ngũ hành. Bên trên chúng ta đã biết 10 thiên can, 12 địa chi và ý nghĩa của chúng. Mục này chúng ta bàn đến sự phối với ngũ hành ( 5 yếu tố) của vũ tru là những cơ sở để luận về sự sinh, khắc giữa bản thân và hoàn cảnh. ï 1. Mười thiên can và ngũ hành. Thiên can-Ngũ hành Giáp, Ất-Mộc Bính, Đinh-Hỏa Mậu, Kỷ-Thổ Canh, Tân-Kim Nhâm, Quý-Thủy * Ghi chú: Để dễ nhớ bạn đọc thuận một hơi về thiên can:Giáp ất, bính đinh. . . và đọc một hơi về ngũ hành: mộc, hỏa. Rồi phối hai can cho một ngũ hành là đúng. 2.Về 12 địa chi và ngũ hành có sự quan hệ như sau: Địa chi-Ngũ hành Dần, Mão-Mộc Tị, Ngọ-Hỏa Thân, Dậu-Kim Tý, Hợi-Thủy Thìn, Tuất, Sửu, Mùi-Thổ * Ghi chú : Dễ nhớ là đọc một hơi về địa chi : Tí, Sửu. . . và một hơi về ngũ hành: Mộc, Hỏa... Bắt đầu từ Dần, cứ hai chi phối cho một ngũ hành (Mộc) rồi nghỉ, cách một chi, chi loại ra này ghép và Thổ là đúng. 3.Phân biệt 10 can và ngũ hành: Bên trên chúng ta đã biết mười can chia thành hai loại can dương và can âm. Phối hợp thiên can với ngũ hành có sự phân biệt như sau: 1. Giáp là dương Mộc, đại Mộc. Ất là âm, Mộc hoa cỏ. 2. Bính là dương Hỏa, lửa mặt trời. Đinh là âm Hỏa, lửa của lò nung. 3. Mậu là dương Thổ, là đất cao. Kỉ là âm Thổ, đất bùn thấp. 4. Canh là dương Kim, kim của búa rìu. Tân là âm Kim, châu ngọc. 5. Nhâm là dương Thủy, nước ở sông. Quý là âm Thủy, nước mưa sương. Bên trên chúng ta đã có ví dụ về lập tứ trụ đơn giản. Nay ta biết về ngũ hành, phối hợp và tứ trụ như sau: Ví dụ : Tứ trụ:Năm sinh-Tháng sinh-Ngày sinh-Giờ sinh Thiên can:Ất (Mộc)-Đinh (Hỏa)-Nhâm (Thủy)-Quý (Thủy). Địa chi:Mão (Mộc)-Tỵ (Hỏa)-Tuất (Thổ)-Hợi (Thủy). III.Bàn thêm sự sinh khắc của ngũ hành: 1.Nghĩa của sinh, khắc: Theo nghĩa hẹp sinh là sự tăng thêm, sinh ra trợ giúp thêm. Theo nghĩa rộng là tăng thêm khả năng sinh tồn của con người. Theo nghĩa hẹp khắc là sự giảm bớt, là cho yếu đi, mòn đi. Theo nghĩa rộng khắc là yếu đi sự sinh tồn của con người. 2.Vô tình hữu tình; nhu và cương: Âm (-) sinh dương (+) là hữu tình. Âm (-) sinh âm (-) hoặc dương (+) sinh dương (+) là vô tình. Âm (-) khắc dương (+) là khắc mềm (nhu). Âm (-) khắc âm (-), dương (+) khắc dương (+) là khắc cứng (cương). 3.Bàn thêm về sự tương sinh, tương khắc của ngũ hành. Theo vòng tròn tương sinh thì :Thổ sinh Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ. Nhưng tùy theo trường hợp cụ thể để luận đoán. 1.Tương sinh và nhiều, ít : Hỏa do Mộc sinh nhưng Hoả nhiều thì Mộc bị đốt cháy. Thổ do Hỏa sinh nhưng Hỏa nhiều thì Thổ bị cháy xém. Thổ do Hỏa sinh nhưng Thổ nhiều thì Hỏa bị đen tối. Kim do Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp; Kim được Thổ sinh nhưng Kim nhiều thì Thổ bị biến chất. Thủy do Kim sinh nhưng Kim nhiều thì Thủy đục. Thủy nhiều thì Kim chìm. Mộc do Thủy sinh, nhưng Mộc nhiều thì Thủy bị ngăn lại. Mộc được Thủy sinh nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt. 2.Tương khắc và nhiều, ít : Theo vòng tròn tương khắc: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. Nhưng: Kim khắc Mộc, Mộc cứng Kim bị sứt mẻ. Mộc khắc Thổ, Thổ nặng Mộc bị gãy. Thổ khắc Thủy, Thủy nhiều Thổ bị cuốn trôi. Thủy khắc Hỏa, Hỏa nhiều Thủy bị nấu sôi. Hỏa khắc Kim, Kim nhiều Hỏa bị dập tắt. 3.Vượng : Kim vượng được Thủy, hình thành đồ dùng. Hỏa vượng thắng Thủy, thành sự tương tề. Thủy vượng được Thổ, hình thành ao hồ. Thổ được Mộc, hình thành sự lưu thông. Mộc vượng được Kim hình thành, thành rường cột. 4.Yếu : Kim yếu gặp gặp Hỏa thì bị nóng chảy. Hỏa yếu gặp Thủy ắt bị dập tắt. Thủy yếu gặp Thổ ắt bị ngăn cản. Thổ yếu gặp Mộc ắt bị nghiêng đổ. Mộc yếu gặp Kim, ắt bị chặt gãy. 5.Mạnh : Kim mạnh được Thủy, hình thành mũi nhọn. Thủy mạnh được Mộc, thì có thế cho dòng chảy. Mộc mạnh được Hỏa, hoá thành ngoan cố. Hỏa mạnh được Thổ, hình thành ngọn lửa. Thổ mạnh được Kim, hình thành vùi lấp. 6.Sinh và ẩm, khô, nóng, lạnh. Thủy sinh Mộc, Thủy lạnh, bỏ lỡ cơ hội. Mộc sinh Hỏa, Mộc ẩm ướt thì hỏa tắt. Hỏa sinh Thổ, Hỏa bốc cháy thì thổ bị xém. Thổ sinh Kim, Thổ khô, Kim bị chảy. Kim sinh Thủy, Kim lạnh làm Thủy lạnh thêm. IV.Thực hành suy luận về sự sinh khắc cửa ngũ hành (sức sinh tồn của các can chi trong tứ trụ). Mục này giúp ta làm quen với việc lập tứ trụ, thay thế can và chi bằng ngũ hành, từ đó luận sự tương sinh tương khắc để tìm ra được sự mạnh yếu của các can, chi trong mỗi trụ. Là những bài toán nhỏ thế số. Phương pháp giải là luận sinh khắc của âm dương ngũ hành. Ví dụ 1: Người sinh năm Mậu Ngọ, tháng Đinh Hợi, ngày Giáp Ngọ, giờ Ất Hợi. Chúng ta thực hiện các thao tác sau: a.Lập tứ trụ và nạp ngũ hành: Tứ trụ:Năm sinh-Tháng sinh-Ngày sinh-Giờ sinh. Thiên can:Mậu (Thổ)-Đinh (Hỏa)-Giáp (Mộc)-Ất (Mộc). Địa chi:Ngọ (Hỏa)-Hợi (Thủy)-Ngọ (Hỏa)-Hợi (Thủy). b.Suy luận: Ngũ hành trong tứ trụ: Mộc (2) và Thủy (2) ít, Hỏa (3) nhiều. Hỏa nhiều Mộc ít, tất Mộc bị đốt cháy. Bản thân Giáp mộc vừa bị đốt nhưng Thuỷ yếu không đủ sinh Mộc. Nên sức sinh tồn của Mộc yếu. Nói cách khác là nhật chủ yếu. Ví dụ 2: Người sinh năm Giáp Ngọ, tháng Nhâm Thân, ngày Giáp Thìn, giờ Quý Dậu. a. Tứ trụ : Tứ trụ:Năm sinh-Tháng sinh-Ngày sinh-Giờ sinh Thiên can:Giáp (Hỏa)-Nhâm (Thủy)-Giáp (Hỏa)-Quý (Thủy) Địa chi:Ngọ (Hỏa)-Thân (Kim)-Thìn (Thổ)-Dậu (Kim) b.Suy luận: Can ngày được can tháng Thủy sinh (Thuỷ sinh Mộc). Thuỷ lại được Kim trợ lực (Kim sinh Thủy) Thủy sinh Mộc, Thủy nhiều thì Mộc trôi nổi. Vừa trôi nổi vừa bị Kim khắc. Nên sức sinh tồn, can ngày (bản thân) yếu. Ví du ï3: Người sinh năm Quý Sửu, tháng Đinh Tị, ngày Mậu Ngọ, giờ Bính Thìn. a.Lập tứ trụ: Tứ trụNăm sinhTháng sinhNgày sinhGiờ sinh Thiên can:Quý (Thủy)-Đinh (Hỏa)-Mậu (Thổ)-Bính (Hỏa). Địa chi:Sửu (Thổ)-Tỵ (Hỏa)-Ngọ (Hỏa)-Thìn (Thổ). b.Suy luận: Trên tứ trụ Hỏa (4) nhiều Thổ (3) ít. Hỏa sinh Thổ nhưng Hỏa quá nhiều thì Thổ bị cháy xém. Nhật can là Thổ nếu không có can năm Quý (thủy) làm bớt Hỏa thì không đủ sức để sinh tồn. Ví dụ 4: Người sinh năm Tân Mão, tháng Canh Dần, ngày Giáp Dần, giờ Kỉ Hợi. a. Tứ trụ: Tứ trụ:Năm sinh-Tháng sinh-Ngày sinh-Giờ sinh. Thiên can:Tân(Kim)-Canh(Kim)-Giáp (Mộc))-Kỷ (Thổ). Địa chi:Mão (Mộc) -Dần (Mộc)-Dần (Mộc)-Hợi (Thủy). b.Suy luận: Kim (2) khắc Mộc (4), Mộc cứng nhiều, Kim bị sứt mẻ thương tổn. Can tháng Canh (Kim) sức sinh tồn yếu. V. Sự tàng độn của địa chi : Trong địa chi có tàng độn can. Có chi tàng độn một can, có chi tàng độn 2, 3 can. Sự tàng độn này gọi là nhân nguyên, làm chủ về mệnh. Thống kê sự tàng độn của địa chi như sau (cột - tàng độn can): 1.Tý:Quý 2.Sửu:Kỷ, Tân, Quý 3.Dần :Giáp, Bính, Mậu 4.Mão:Ất 5.Thìn:Mậu, Quý, Ất 6.Tỵ:Bính, Canh, Mậu 7.Ngọ:Đinh, Kỷ 8.Mùi:Kỷ, Ất, Đinh 9.Thân:Canh, Nhâm, Mậu 10.Dậu:Tân 11.Tuất:Mậu, Đinh, Tân 12.Hợi:Nhâm, Giáp * Ghi chú: Khi địa chi tàng độn một can thì can đó là bản khí ngũ hành của nó. Khi tàng độn ba can, can có khi ngũ hành giống với địa chi là bản khí.Can thứ hai thấp hơn là trung khí, can thứ ba là khí thừa. Ví dụ: Tứ trụ:Năm sinh-Tháng sinh-Ngày sinh-Giờ sinh-Giờ-Giờ Thiên can:Quý (Thủy)-Ất (Mộc)-Đinh (Hỏa)-Canh (Kim)- Địa chi:Dậu (Kim)-Mão (Mộc)-Dậu (Kim)-Tuất (Thổ)- Tàng độn:Tân (Kim)-Ất (Mộc)-Tân (Kim)-Mậu (Thổ)-Tân (Kim)-Đinh (Hỏa) Nhận xét: 1.Nạp ngũ hành vào các chi năm, tháng, ngày. 2.Trong chi giờ tàng độn ba can có ngũ hành là Tân- Kim, Mậu - Thổ và Đinh - Hỏa. 3.Xét về can ngày là bản thân của tôi là Hỏa. Theo ngũ hành thì Hỏa sinh Thổ. Thổ gần với tôi nhất, kế đến là Kim, thứ nữa là Hỏa. Vậy ba can Mậu (Thổ) là gần bản khí, Tân (Kim) là trung khí và Đinh (Hỏa) là khí thừa. Tiết 3 : NHỮNG MỐI QUAN HỆ BẢN THÂN VỚI HOÀN CẢNH (THIÊN CAN VÀ 10 THẦN) Bản thân mỗi người sống đều có năm mối quan hệ sinh khắc theo ngũ hành, mối quan hệ sinh khắc này được phản ánh trong tứ trụ. Đó là: 1.Cái sinh ra tôi. 2.Cái tôi sinh ra. 3.Cái khắc tôi. 4.Cái bị tôi khắc. 5.Cái ngang vai với tôi. A.ĐẠI BIỂU NĂM MỐI QUAN HỆ . Năm mối quan hệ này được phản ánh qua mối sinh khắc theo ngũ hành của can ngày với các can khác trong tứ trụ. Mỗi mối quan hệ có hai thần làm đại biểu, tổng cọng là 10 thần, được giải thích lần lượt như sau: I.Ấn thụ, Ấn quan; Chính Ấn và Thiên Ấn: 1.Ấn thụ, Ấn quan: a. Người sinh ra tôi là cha mẹ, cha mẹ có đức, âm đức, thì che chở cho tôi. Nên gọi là Ấn thụ (Ấn là âm, thụ là được thụ hưởng. Cái tôi được thụ hưởng từ cha mẹ). b.Còn gọi là Ấn quan, là cái Ấn của quan. Quan không có Ấn là không có cơ sở để làm việc nước, tương tự như con cái không có chỗ dựa là cha mẹ. 2.Chính Ấn, Thiên Ấn: Aùp dụng điều đã biết về dị tính và đồng tính. Chúng ta có thể suy luận: a. Chính Ấn: Can mẹ tôi là âm (-) sinh ra tôi can dương (+), hoặc can mẹ tôi là dương (+) sinh ra can của tôi là âm (-). Dị tính. Gọi là Chính Ấn. Chính Ấn đại biểu cho mẹ đẻ. b. Thiên Ấn: Can mẹ tôi là dương (+) sinh ra tôi can dương (+), hoặc can mẹ tôi là âm (-) sinh ra can tôi là âm (-). Dị tính, gọi là Thiên Ấn. Thiên Ấn đại biểu mẹ nuôi, mẹ kế. 3.Thực thần, Thương quan: a. Thực thần :