🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hỏi Và Đáp Về Các Cuộc Khởi Nghĩa Tiêu Biểu Chống Xâm Lược Ở Việt Nam
Ebooks
Nhóm Zalo
Héi ®ång chØ ®¹o xuÊt b¶n
Chñ tÞch Héi ®ång
pgs.TS. PH¹M V¡N LINH
Phã Chñ tÞch Héi ®ång
ph¹m chÝ thμnh
Thμnh viªn
trÇn quèc d©n
TS. NguyÔn §øC TμI
TS. NGUYÔN AN TI£M
NguyÔn Vò Thanh H¶o
Ph¹m tr−êng khang
(Biªn so¹n)
Hái Vμ ®¸p VÒ
c¸c cuéc khëi nghÜa tiªu biÓu chèng x©m l−îc ë viÖt nam
Nhμ xuÊt b¶n ChÝnh trÞ quèc gia Sù THËT Hμ Néi ‐ 2016
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã trải qua nhiều cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền độc lập cho dân tộc. Mỗi cuộc khởi nghĩa nổ ra với những thời gian, tính chất, phương thức,... khác nhau. Có những cuộc khởi nghĩa chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, có cuộc khởi nghĩa phải tiến hành ròng rã hàng chục năm; có cuộc khởi nghĩa là tự phát, có cuộc khởi nghĩa lại diễn ra một cách có quy mô, bài bản. Các cuộc khởi nghĩa ấy đều được thực hiện bởi những người con của dân tộc có tình yêu quê hương, đất nước và ý chí, lòng căm thù giặc sâu sắc.
Nhằm giúp bạn đọc, đặc biệt là thế hệ trẻ hiểu rõ thêm về truyền thống đánh giặc giữ nước của ông cha ta, cũng như khơi dậy niềm tự hào dân tộc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Hỏi và đáp về các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu chống xâm lược ở Việt Nam do tác giả Phạm Trường Khang biên soạn.
Cuốn sách gồm 62 câu hỏi và trả lời, viết dưới dạng hỏi - đáp, sẽ tái hiện lại một cách khái quát nhất các cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm tiêu biểu của dân tộc ta từ thời kỳ chống phong kiến phương Bắc cho đến Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
5
giành chính quyền. Qua mỗi cuộc khởi nghĩa, chân dung của những vị thủ lĩnh tài ba, yêu nước, thương dân, sẵn sàng xả thân vì đất nước cũng sẽ được giới thiệu đến bạn đọc.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách.
Th¸ng 9 n¨m 2016
Nhµ xuÊt b¶n chÝnh trÞ quèc gia sù thËt6
LỜI NÓI ĐẦU
Theo cách hiểu thông thường, khởi nghĩa là đứng dậy, vì việc nghĩa mà dấy binh. Hoặc theo một định nghĩa khác, khởi nghĩa là hình thức đặc biệt của đấu tranh chính trị, một trong những phương thức đấu tranh cao nhất của dân tộc hay giai cấp bị áp bức, nhằm lật đổ bộ máy thống trị cũ, giành chính quyền.
Lịch sử Việt Nam đã ghi nhận nhiều cuộc khởi nghĩa chống xâm lược suốt mấy ngàn năm. Có cuộc khởi nghĩa chỉ diễn ra trong một thời gian, có cuộc khởi nghĩa phải tiến hành ròng rã hàng chục năm, trở thành một cuộc kháng chiến thực sự; có cuộc khởi nghĩa thành công, bảo vệ được thành quả lâu dài, dựng nên vương triều mới như vương triều Lê; có cuộc khởi nghĩa chỉ bảo lưu được thành quả trong một thời gian ngắn; có cuộc khởi nghĩa xuất phát là khởi nghĩa nông dân chống phong kiến, sau đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong đấu tranh bảo vệ đất nước như khởi nghĩa Tây Sơn với người anh hùng Nguyễn Huệ. Đặc biệt, chiến công của Bà Trưng, Bà Triệu thời
7
kỳ Bắc thuộc, khi dân tộc ta đang cố gắng xây nền tự chủ đã làm cho trang sử chống ngoại xâm của người Việt có những mốc son chói lọi. Gần đây hơn cả, các cuộc khởi nghĩa chống thực dân, đế quốc liên tiếp nổ ra cho thấy ý chí phản kháng và sức sống mãnh liệt của dân tộc ta.
Hy vọng cuốn sách sẽ giúp độc giả hiểu rõ thêm lịch sử chống xâm lược và cường quyền của dân tộc ta trong quá trình dựng nước và giữ nước.
TÁC GIẢ
PHẠM TRƯỜNG KHANG8
Câu hỏi 1: Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ nhất có cuộc khởi nghĩa nổi tiếng nào? Diễn biến và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa này?
Trả lời:
Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ nhất có cuộc khởi nghĩa nổi tiếng của Hai Bà Trưng.
Thời kỳ này, nước ta bị nhà Đông Hán đô hộ. Chính sách cai trị của nhà Hán rất hà khắc, nhân dân sống trong cảnh vô cùng thống khổ. Bấy giờ, Thái thú Tô Định đã giết chết Thi Sách, con quan Lạc tướng Chu Diên, chồng của Trưng Trắc, con quan Lạc tướng Mê Linh. Nợ nước thù nhà, tháng 3 năm 40, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị lãnh đạo nhân dân đứng lên khởi nghĩa.
Tham gia cuộc khởi nghĩa này có rất nhiều nữ tướng. Theo tìm hiểu sơ bộ, có gần 60 nữ tướng trong cuộc khởi nghĩa này. Đó là các bà: Trưng Trắc, Trưng Nhị, Xuân Nương, Thiều Hoa, Thánh Thiên, Lê Thị Hoa, Thục Côn, Nguyệt Nga, Bảo Chân (Ả Rồng), Phạm Thị Nga, Đỗ Thị Dung, Cực Nương, Ngọc Trinh (Ả Chạ), Quách A (Khâu Ni), Lê Chân, Vũ Thị Thục (Bát Nàn), Vương Thị Tiên
9
(Ngọc Quang), Phật Nguyệt, Cẩm Hoa, Kiến Nương, Tấu Nương, Đinh Thị Tố, Cao Thị Nguyên, Lê Thị Cố, Nga Hoàng, Mỹ Hy, Ả Nương, Triệu Nhị Nương, Thúy Nương, Phương Dung, ba chị em Đạm Nương (Đạm Nương, Hồng Nương, Thanh Nương), Nàng Dưỡng, Nguyệt Điện, Lê Ả Lan, Nhàn Uyển, Nguyễn Thị Hạnh, Sơn Dung, Quý Lan Nương, Nàng Bàn, Mai Hoa, Ả Mỵ, Quỳnh Hoa, Quế Hoa, Lê Thị Liễu, Ả Nàng, Nàng Nội, Ả Là, Hồ Đề, Đàm Ngọc Nga, Vĩnh Hoa, Nàng Quốc, Nguyệt Thai, Nguyệt Độ, Hương Thảo, Ả Lự, Sa Lăng...
Nghĩa quân hội tụ ở bãi Trường Sa (cửa sông Hát, Phúc Thọ, Hà Nội làm lễ tế cờ. Lệnh khởi nghĩa được ban ra, nghĩa quân chia thành các đội tiến đánh các đồn trại của giặc dọc sông Lô, sông Hồng. Thánh Thiên khởi nghĩa ở Yên Dũng, Bắc Giang; Lê Chân khởi nghĩa ở An Biên, Hải Phòng; Bát Nàn khởi nghĩa ở Tiên La, Thái Bình; Nàng Nội khởi nghĩa ở Bạch Hạc, Phú Thọ; Lê Thị Hoa khởi nghĩa ở Nga Sơn, Thanh Hóa; Hồ Đề khởi nghĩa ở động Lão Mai, Thái Nguyên; Xuân Nương khởi nghĩa ở Tam Nông, Phú Thọ; Nàng Quỳnh,
Nàng Quế khởi nghĩa ở châu Đại Man, Tuyên Quang; Đàm Ngọc Nga khởi nghĩa ở Thanh Thủy, Thanh Sơn, Phú Thọ; Thiều Hoa khởi nghĩa ở Tam Thanh, Phú Thọ; Quách A khởi nghĩa ở Bạch Hạc, Phú Thọ; Vĩnh Hoa khởi nghĩa ở Tiên Nha,
10
Vĩnh Phúc; Lê Ngọc Trinh khởi nghĩa ở Lũng Ngòi, Vĩnh Phúc; Lê Thị Lan khởi nghĩa ở Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội; Phật Nguyệt khởi nghĩa ở Thanh Ba, Phú Thọ; Phương Dung khởi nghĩa ở Lang Tài, Bắc Ninh; Trần Nang, Trần Lĩnh khởi nghĩa ở Thượng Hồng, Hải Dương; Nàng Quốc khởi nghĩa ở Gia Lâm, Hà Nội; Quý Lan khởi nghĩa ở Lũng Động, Chí Linh, Hải Dương... Cuộc khởi nghĩa lan rộng, được nhân dân các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, Uất Lâm hưởng ứng. Mười ngày sau, nghĩa quân tiến về thành Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ. Tô Định phải cởi áo, lột mũ, cắt tóc, cạo râu, trà trộn vào đám tàn binh trốn về nước.
Khởi nghĩa thắng lợi, Trưng Trắc xưng vương, đóng đô ở Mê Linh. Nhà vua phong thưởng cho các tướng sĩ, phái các tướng đi cai trị các nơi, giữ vững những chỗ hiểm yếu đồng thời ban lệnh miễn thuế cho nhân dân trong hai năm.
Mùa hè năm 42, nhà Hán sai Mã Viện đem 2 vạn quân chủ lực, 2 nghìn thuyền xe sang xâm lược. Trưng Vương cùng các tướng lĩnh đưa quân ra chống giặc từ biên giới. Trước thế giặc mạnh, quân ta đã chiến đấu rất anh dũng. Nhiều trận chiến ác liệt diễn ra ở Lãng Bạc, Đông Triều, Yên Phong. Hàng vạn người đã ngã xuống trong các trận chiến dữ dội, cam go nhằm bảo vệ mảnh đất của Tổ quốc.
11
Trong trận chiến ở hồ Lãng Bạc, quân của Hai Bà bị thiệt hại nặng, phải lui về thành Cự Triền. Thành Cự Triền tên nôm là thành Dền, được xây trên trang Cự Triền, cách thành Mê Linh khoảng 9 dặm. Thành này do Trưng Nhị đốc quân xây dựng. Thành đắp hình bán nguyệt, bên ngoài có hào sâu, bốn bề có tháp canh, tường thành cao, cổng thành chắc chắn. Trong thành có chỗ ở cho quân sĩ, giếng nước nhiều, kho lương kiên cố. Khi Trưng Trắc đưa quân về cố thủ ở đây, quân ta chiến đấu rất anh dũng khiến giặc phải chùn bước. Mã Viện tìm cách hãm thành lâu dài, cho đắp thành Vượn để ngăn các đường tiếp viện. Một thời gian sau, thành Cự Triền bị vỡ, Hai Bà lui về Cấm Khê (chân núi Ba Vì, Hà Nội) lập căn cứ chống giữ. Sau một năm chiến đấu quyết liệt, Hai Bà đã hy sinh vào mùa hè năm 43.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng cho thấy truyền thống bất khuất và tinh thần thượng võ của dân tộc ta đã hun đúc và sản sinh ra hai nữ anh hùng kiệt xuất - Trưng Trắc, Trưng Nhị và gần 60 nữ tướng tài ba. Đây là một sự kiện lịch sử kỳ lạ ngay thế kỷ đầu công nguyên, dân chúng đất Việt đã tôn nhiều phụ nữ lên nắm quyền lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Sử gia Ngô Thì Sĩ nhận xét: “Tiếng tăm của Hai Bà chấn động cả Man Di, Hoa Hạ, cơ nghiệp của Hai Bà khuấy động cả đất trời.
12
Ôi, thật anh hùng thay. Chị vì chồng mà căm phẫn, em vì chị cố gắng, tiết phụ nghĩa nữ ở cả trong một nhà, đó mới là lạ. Bà Trưng chị chết vì xã tắc ba năm, Bà Trưng em cũng tuẫn tiết. Tuy bại mà vẫn vẻ vang, tuy chết mà tiếng bất hủ, thế mới càng lạ. Từ khi bà Nữ Oa đội đá vá trời về sau chỉ còn chị em nhà họ Trưng mà thôi”1.
Câu hỏi 2: Hãy kể vài nét về cuộc khởi nghĩa của Chu Đạt?
Trả lời:
Theo Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng, Chu Đạt là thủ lĩnh nghĩa quân chống nhà Đông Hán. Không rõ ông sinh năm nào, chỉ biết ông quê ở Cư Phong, Cửu Chân (Thanh Hóa).
Cuộc khởi nghĩa Chu Đạt diễn ra từ năm 156 đến năm 160. Năm 156, Chu Đạt nổi dậy chống chính quyền đô hộ nhà Đông Hán. Chu Đạt chiêu mộ dân binh vây đánh huyện sở Cư Phong (vùng
đất các huyện Nông Cống, Quảng Xương, Tĩnh Gia, Như Xuân, Như Thanh thuộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay) giết chết huyện lệnh, giải phóng toàn bộ quận Cửu Chân rồi tấn công quận trị Tư Phố, giết chết Thái thú Nghê Thức, nhà Đông Hán.
__________
1. Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.
13
Cuộc khởi nghĩa tập hợp lực lượng có tới 5.000 người, quản trị Cửu Chân được bốn năm từ năm 156 đến năm 160.
Năm 158, vua Đông Hán cử Đô úy Ngụy Lãng đem quân đàn áp, buộc Chu Đạt phải lui vào Nhật Nam (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên). Tại đây thanh thế nghĩa quân mạnh lên, lực lượng lên tới hàng vạn người, hoạt động đến mùa thu năm 160 thì bị Thứ sử Hạ Phương dập tắt. Chu Đạt mất tại đây.
Câu hỏi 3: Thời kỳ chống phong kiến phương Bắc lần thứ hai có cuộc khởi nghĩa nào nổi tiếng? Diễn biến và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa này?
Trả lời:
Trong thời kỳ chống phong kiến phương Bắc lần thứ hai tiêu biểu có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu (tức Triệu Thị Trinh). Về cuộc khởi nghĩa Bà Triệu, sách sử chính thống chỉ nhắc đến rất ít hoặc điểm qua. Có thể tóm tắt như sau: Triệu Thị Trinh quê ở Ninh Hoá, Cửu Chân, nay là Hậu Lộc, Thanh Hoá, nổi tiếng có sức khỏe, giỏi võ nghệ. Năm 20 tuổi, bà cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt nổi dậy khởi nghĩa và trở thành thủ lĩnh sau khi Triệu Quốc Đạt mất. Bà đã nhiều lần cầm quân đánh giặc, thắng nhiều trận, giết thứ sử ở Giao
14
Châu. Nhà Ngô cử tướng Lục Dận sang đàn áp. Khởi nghĩa thất bại, bà mất năm 248.
Các sách sử của Trung Quốc như Nam Việt chí, Châu Giao ký ghi lại khái quát hình ảnh của bà: “Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các huyện trong quận, thường mặc áo ngắn sắc vàng, đi guốc gỗ, ngồi đầu voi đánh nhau, sau chết làm thần”.
Sử sách cũ của nước ta nói về bà cũng rất ít. Đại Việt sử ký toàn thư chỉ ghi mấy dòng: “Đến sau người con gái quận Cửu Chân là Triệu Ẩu (Ẩu vú dài ba thước vắt lên sau lưng, thường ngồi đầu voi đánh nhau với giặc) họp quân đánh cướp quận huyện. Dân dẹp yên được”.
Trong sách Thanh Hoá kỷ thắng, Vương Duy Trinh nói rõ về làng quê, dáng dấp và sức vóc của bà mà trước đây chưa sách nào nhắc đến.
Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim ghi thêm một số chi tiết về Bà Triệu như anh trai bà tên là Triệu Quốc Đạt, hoặc thêm các chi tiết về gia cảnh, quê quán, thời gian khởi nghĩa và lý do khởi nghĩa thất bại:
“Năm Mậu Thìn (248) là năm Xích Ô thứ 11 nhà Đông Ngô, Ngô chủ sai Lục Dận sang làm thứ sử Giao Châu. Năm ấy ở quận Cửu Chân có người đàn bà tên là Triệu Ẩu khởi binh đánh nhà Ngô.
15
Bà Triệu Ẩu là người ở huyện Nông Cống bấy giờ. Thuở nhỏ cha mẹ mất cả, ở với anh là Triệu Quốc Đạt, đến độ 20 tuổi, gặp phải chị dâu ác nghiệt, bà giết đi rồi vào ở trong núi. Bà là người có sức mạnh lại có chí khí và lắm mưu lược. Khi vào ở trong núi, chiêu mộ hơn 1.000 tráng sĩ để làm thủ hạ. Vì quan lại nhà Ngô tàn ác, Triệu Quốc Đạt khởi binh đánh quận Cửu Chân. Bà đem quân đánh giúp anh, quân sĩ của Triệu Quốc Đạt thấy bà làm tướng có can đảm bèn tôn lên làm chủ. Khi ra trận, bà cưỡi voi, mặc áo giáp vàng. Thứ sử Giao Châu là Lục Dận đem quân đi đánh, bà chống nhau với nhà Ngô được năm, sáu tháng nhưng vì quân ít thế cô, đánh mãi cũng thua. Bà đem quân chạy đến xã Bồ Điền (nay là Phú Điền, huyện Mỹ Hoá) thì tự tử. Lúc ấy bà mới 23 tuổi”1.
Có thể hiểu rõ hơn về cuộc khởi nghĩa này căn cứ vào các truyền thuyết dân gian về Bà Triệu, đặc biệt là các truyền thuyết ở vùng Thanh Hoá. Dựa vào truyền thuyết dân gian và các di tích còn sót lại, có thể thấy hoạt động của Bà Triệu khá rộng, từ miền bắc sông Mã cho đến miền nam quận Cửu Chân, Phú Điền và các quận huyện Yên Mô, Ninh Bình ngày nay. Cuộc khởi nghĩa đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia __________
1. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Trung Bắc tân văn, Hà Nội, 1920.
16
khiến triều đình nhà Ngô hết sức lo lắng. Chính quyền đô hộ nhận thấy cuộc khởi nghĩa này đang uy hiếp sự tồn tại của chúng nên đã tập trung lực lượng đàn áp. Nhà Ngô cử Lục Dận làm thứ sử Giao Châu, có toàn quyền về mọi mặt. Lục Dận mang theo 8 nghìn quân tiếp viện để đàn áp cuộc khởi nghĩa. Lục Dận là một viên tướng có mưu lược, đến nhậm chức trong khi toàn Giao Châu đang náo động, dân chúng nổi dậy khắp nơi. Viên quan thú này không hấp tấp điều quân ra đánh mà đã dùng tiền bạc để mua chuộc một số thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ ở các địa phương nhằm phần nào ổn định hậu phương Giao Chỉ để có thể yên tâm đánh Bà Triệu. Lục Dận đã thành công trong âm mưu này, hàng trăm thủ lĩnh nghĩa quân và hơn 5 vạn nhà dân buộc phải khuất phục.
Theo ước đoán, Lục Dận vào Giao Châu theo con đường Mã Viện đã đi 200 năm trước. Quân giặc tiến theo đường biển và đường Tạc Khẩu, theo hai cửa sông Sung và Vích nhằm bao vây Bồ Điền, căn cứ của quân khởi nghĩa ở hai mặt bắc, nam. Quân khởi nghĩa chặn đánh giặc ở vùng Yên Mô (Ninh Bình - nơi đây ngày nay vẫn còn đền thờ Bà Triệu và truyền thuyết về trận giao chiến này). Trong vòng hai tháng, nghĩa quân đã bố trí phục binh đánh địch trên 30 trận. Từ Bồ Điền nghĩa quân tiến đánh Giao Chỉ, thành Tư Phố -
17
trụ sở đầu não của chính quyền đô hộ. Việc đánh và hạ thành Tư Phố không được ghi chép rõ ràng trong sử sách nhưng chắc chắn Bà Triệu phải hạ được thành này mới khiến “Giao Châu náo động”.
Cuộc tấn công của Lục Dận kéo dài hơn hai tháng nhưng căn cứ Bồ Điền vẫn đứng vững. Lực lượng giặc bị tổn thất nặng nề, Lục Dận phải điều thêm quân tăng cường bao vây căn cứ. Bà Triệu cùng nghĩa quân đã chiến đấu rất dũng cảm để phá vòng vây. Ngày 26 tháng 2 năm Mậu Thìn, bà đã hy sinh.
Về cái chết của bà, có nhiều cách kể khác nhau. Có chuyện kể bà hy sinh anh dũng trên núi trong một trận chiến đấu ác liệt. Lại có chuyện kể bà hy sinh chính vì bản chất trong sạch của mình khi đối mặt với thói trơ trẽn, thô bỉ, bần tiện mà từ cổ chí kim chưa có viên tướng nào áp dụng - đó là cả một đội quân trần truồng, nói năng tục tĩu xông ra khiến bà e sợ mà bỏ chạy. Đây là cách lý giải trong dân gian nhưng thể hiện một ý nghĩa lớn trong bối cảnh bấy giờ.
Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu là cuộc khởi nghĩa lớn nhất sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Suốt mấy trăm năm sau khi Hai Bà Trưng thất bại, chưa có cuộc khởi nghĩa nào có tiếng vang gây nguy cơ cho chính quyền đô hộ phương Bắc như cuộc khởi nghĩa này. Vì thế sử
18
sách Trung Quốc đã phải ghi lại dù chỉ vài câu song thật đậm nét.
Cuộc khởi nghĩa lan ra một vùng rộng lớn từ Cửu Chân đến Cửu Đức, Nhật Nam. Quân khởi nghĩa không chỉ chiếm được một vài quận huyện, giết một vài viên quan mà đã liên kết được với các địa phương, có mục tiêu cao cả là giải phóng dân tộc nên đã làm rung chuyển cả Giao Châu.
Cuộc khởi nghĩa mang tính nhân dân đậm nét và có tính dân chủ cao vì do một người con gái lãnh đạo. Đây là dấu mốc quan trọng trên chặng đường dài chống ngoại xâm của dân tộc suốt 10 thế kỷ. Nó không chỉ làm rung chuyển chính quyền đô hộ mà còn góp phần thức tỉnh ý thức dân tộc, tạo đà cho cuộc khởi nghĩa Lý Bí sau này.
Câu hỏi 4: Khởi nghĩa chống nhà Lương đô hộ do ai lãnh đạo? Hãy kể và trình bày ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa?
Trả lời:
Sau khi khởi nghĩa của Bà Triệu thất bại, nước ta bị nhà Đông Ngô, Tây Tấn và nhà Lương kế tiếp nhau thống trị. Sống dưới ách thống trị vô cùng tàn bạo của nhà Lương do Thứ sử Tiêu Tư cai trị, nhân dân ta vô cùng cực khổ, lòng người oán hận. Do vậy, khi Lý Bôn đứng
19
lên phất cờ khởi nghĩa, người theo về ứng nghĩa rất đông.
Lý Bôn, tức Lý Bí sinh năm 503, con Hào trưởng Lý Toản và bà Lê Thị Oánh người Ái Châu, Thanh Hoá. Cha mẹ mất sớm, ông ở với chú ruột, được vị Pháp tổ Thiền sư đưa về chùa nuôi dưỡng, sau trở thành thủ lĩnh địa phương. Ông ra làm quan cho nhà Lương, thấy Thứ sử Tiêu Tư hà khắc, tham bạo nên đã từ quan, mưu việc khởi nghĩa. Lúc còn làm quan, Lý Bôn đã liên kết với mấy châu ở gần. Tù trưởng Châu Diên là Triệu Túc đem quân theo Lý Bôn khởi nghĩa. Đặc biệt, người cùng quê với Lý Bôn là Tinh Thiều, đã từng làm quan cho nhà Lương cũng liên kết với Lý Bôn, chiêu tập hiền tài chờ thời cơ nổi dậy.
Tháng 1 năm 542, Lý Bôn lãnh đạo quân khởi nghĩa tấn công quân Lương. Thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ bỏ chạy về nước. Chưa đầy ba tháng, quân khởi nghĩa đã chiếm được hầu hết các quận,
huyện và thành Long Biên. Nhà Lương sai tướng đem quân sang phản công, Lý Bôn cho quân mai phục đánh tan quân xâm lược. Đầu năm 543, quân Lương một lần nữa lại sang xâm chiếm nước ta, Lý Bôn chủ động đem quân đón đánh giặc ở bán đảo Hợp Phố, tiêu diệt gần hết quân xâm lược. Năm 544, ông lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân,
20
đóng đô ở Long Biên. Triều đình nhà Tiền Lý gồm hai ban văn võ: Phạm Tu đứng đầu hàng quan võ, Tinh Thiều đứng đầu hàng quan văn. Triệu Túc được phong Thái phó.
Năm 545, quân Lương đem quân sang xâm lược Vạn Xuân. Được tin, Lý Nam Đế đem quân đi đánh giặc nhưng không thành nên đành phải rút về động Khuất Lão và giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Năm 548, Lý Nam Đế qua đời, Triệu Quang Phục kế tục sự nghiệp của ông. Năm 550, ông tập trung lực lượng đánh bại quân Lương, lấy lại kinh thành Long Biên. Sau này ông bị Lý Phật Tử (người cùng họ với Lý Bôn) đánh úp. Triệu Quang Phục mất ở cửa Đại An. Năm 602, nhà Tùy xâm lược, nước ta lại nội thuộc phương Bắc. Có thể nói cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế chống ách đô hộ của nhà Lương đã mở ra một trang sử mới cho lịch sử của đất nước, lập nên nhà nước độc lập đầu tiên của nước ta, khẳng định sự trưởng thành của ý thức dân tộc.
Câu hỏi 5: Hãy kể tên các cuộc khởi nghĩa chống xâm lược phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ ba?
Trả lời:
Sau khi nhà Lý mất, nước ta nội thuộc nhà Tùy rồi nhà Đường. Nhà Tùy cai trị nước ta không
21
bao lâu thì bị nhà Đường thay thế. Nhà Đường áp dụng chính sách cai trị hà khắc, tàn bạo, muốn đồng hoá người Việt với chính sách “sát phu, hiếp phụ” nhưng với ý chí quật cường, nhân dân ta đã nổi dậy khởi nghĩa chống xâm lược. Thời kỳ này có các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Dương Thanh, trong đó nổi bật nhất là hai cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan và Phùng Hưng.
Câu hỏi 6: Hãy trình bày cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên?
Trả lời:
Năm 687, sử chép, ở Lĩnh Nam thời ấy, theo lệ, dân miền thượng du thuộc các châu chỉ phải nộp một nửa suất sưu thuế của nhân dân miền xuôi nhưng viên quan đô hộ Lưu Diên Hựu đổi lệ mới, bắt phải nộp cả, làm cho nhân dân vô cùng oán giận. Lý Tự Tiên kêu gọi dân chúng nổi dậy. Lưu Diên Hựu sai quân đến bắt và giết chết Lý Tự Tiên với hy vọng dập tắt cuộc khởi nghĩa từ ngay trong thời kỳ trứng nước.
Đinh Kiến đã kế tục xuất sắc sự nghiệp còn dở dang của Lý Tự Tiên, kêu gọi nhân dân đồng lòng vùng lên, tấn công táo bạo và bất ngờ vào phủ thành của Lưu Diên Hựu.
22
Quân nhà Đường không chống nổi phải đóng cửa thành chờ tiếp viện. Thúc thủ trong phủ thành, quân của Lưu Diên Hựu bị suy kiệt, nên khả năng chống đỡ ngày một yếu dần. Kết cục, Diên Hựu bị Đinh Kiến giết. Toàn bộ chính quyền của An Nam đô hộ phủ tan rã.
Quan cai trị nhà Đường Tư mã Quế Châu là Tào Huyền Tĩnh huy động lực lượng đánh quân khởi nghĩa. Do chính quyền của Đinh Kiến còn quá non trẻ, lực lượng quân sĩ mới nhóm họp tuy có tinh thần chiến đấu cao nhưng khả năng và kinh nghiệm trận mạc còn ít nên khó cầm cự lâu dài. Tào Huyền Tĩnh đã triệt để lợi dụng tình hình này, liên tục tổ chức các cuộc tấn công lớn. Nghĩa quân đã anh dũng chống đỡ một cách ngoan cường, song không thể đánh bại được quân của Tào Huyền Tĩnh. Cuối cùng Đinh Kiến bị kẻ thù giết hại, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt.
Câu hỏi 7: Hãy trình bày cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan?
Trả lời:
Mai Thúc Loan, người thôn Ngọc Trừng, Hoan Châu, nay thuộc Nam Đàn, Nghệ An. Thời ấy, người dân phải đi phu quanh năm, phục dịch vất vả cho bọn đô hộ nhà Đường, đặc biệt là việc
23
gánh vải quả nộp cống. Không chịu nổi ách áp bức, năm 713, Mai Thúc Loan kêu gọi đám dân phu nổi dậy khởi nghĩa. Dân các châu Hoan, châu Ái, châu Diễn theo về hội tụ dưới cờ khởi nghĩa của ông rất đông.
Ông dựa vào vùng núi Sa Nam (thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An ngày nay) có địa thế hiểm trở để xây dựng căn cứ chống giặc. Đấy là vùng rừng núi rậm rạp, nằm cạnh sông Lam, rất tiện cho tấn công và phòng thủ. Núi Vệ Sơn là nơi đóng đại bản doanh của nghĩa quân. Thành Vạn An, thành lũy vững chắc dài hơn 1.000m, lưng tựa vào Rú Đụn (núi Hùng Sơn), phía trong núi là dải thung lũng rộng vài chục mẫu, dùng làm nơi trữ lương thực, vũ khí. Dọc sông Lam có đồn lũy, phía ngoài núi có nhiều đồn trại đóng cạnh sườn, chung quanh núi, sông Lam vây bọc như con hào thiên nhiên. Bao quanh khu rừng núi trung tâm Vệ Sơn, nghĩa quân xây dựng một hệ thống đồn trại nương tựa lẫn nhau: Biều Sơn cánh tả, Liêu Sơn bảo vệ mặt trước, Ngọc Đái Sơn cạnh thành Vạn An là đồn lũy tổng chỉ huy, thống lĩnh cả hai đạo thủy, bộ. Cùng với việc xây dựng căn cứ địa, thành lũy vững chắc, Mai Thúc Loan cho truyền hịch cứu nước, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh đuổi quân đô hộ. Người yêu nước khắp nơi theo về ngày
24
càng đông, đặc biệt là tù trưởng và nhân dân các dân tộc miền núi Nghệ An, Hà Tĩnh. Khí thế nghĩa quân mỗi ngày một dâng cao, đánh đến đâu, thắng đến đó.
Vừa chiếm cứ chỗ hiểm, xây thành, đắp luỹ, vừa liên kết với Lâm Ấp, Chân Lạp, quân số của Mai Thúc Loan có lúc lên tới 30 vạn. Nghĩa quân giải phóng phủ thành Tống Bình, Hà Nội, quan quân nhà Đường hoảng sợ phải bỏ thành tháo chạy về nước (theo Tân Đường thư, nghĩa quân liên kết với Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân giữ miền biển phương Nam, quân đông đến 40 vạn người).
Sau chiến thắng, Mai Thúc Loan lên ngôi Hoàng đế, được tôn sùng là Mai Đại Đế (tức ông vua lớn họ Mai). Dân gian gọi ông là Mai Hắc Đế (ông vua đen họ Mai). Sau này, sử sách ghi ông là Mai Hắc Đế.
Nhà Đường cử Dương Tư Húc cùng Quang Sở Khách đưa quân tiến sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Mai Hắc Đế đem binh trấn giữ những nơi hiểm yếu để chặn đánh quân Đường. Song trước sức thiện chiến của địch, nghĩa quân không cầm cự được, lần lượt bị đẩy lui khỏi Bắc bộ, các huyện ven biển thuộc Thái Bình, Nam Định, phải co cụm về thành Vạn An. Dương Tử Húc bao vây thành Vạn An trong nhiều tháng. Quân Mai Hắc Đế dần cạn lương. Đúng lúc nguy cấp đó, Mai Hắc Đế lâm
25
trọng bệnh. Biết khó qua khỏi, ông truyền ngôi cho con là Mai Thúc Huy, hiệu là Mai Thiếu Đế. Mai Thúc Huy tổ chức lực lượng phá vòng vây giặc, rút về căn cứ Hùng Sơn. Tại đây, ngày 16 tháng 9 năm Quý Hợi (723), Mai Hắc Đế đã trút hơi thở cuối cùng.
Dương Tử Húc huy động tổng lực tấn công căn cứ Hùng Sơn. Mai Thúc Huy cùng nghĩa quân mở cổng thành quyết sống mái với địch. Do quân giặc quá mạnh, Mai Thúc Huy và nghĩa quân đã anh dũng hy sinh. Dương Tử Húc cho quân san phẳng hai thành Vạn An và Hùng Sơn. Nước ta lại bị nhà Đường cai trị với các chính sách đàn áp rất dã man.
Sau khi Mai Hắc Đế qua đời, nhân dân đã lập đền thờ ông trên núi Vệ Sơn. Trong đền hiện vẫn còn một bài thơ chữ Hán ca tụng công đức Mai Hắc Đế:
Hùng cứ châu Hoan đất một vùng
Vạn An thành lũy khói hương xông
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức
Trăm trận Lý Đường phục võ công
Lam thủy trăng in tăm ngạc lặn
Hùng Sơn gió lặng, khói lan không
Đường đi cống vải từ đây dứt
Dân nước đời đời hưởng phúc chung.
26
Câu hỏi 8: Hãy trình bày cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng?
Trả lời:
Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi cự tộc, hào trưởng đất Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội). Thân sinh của Phùng Hưng là ông Phùng Hạp Khanh - một người tài giỏi, đức độ, từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, sau đó về quê làm ăn và trở nên giàu có. Phùng Hưng là một người có sức khỏe và khí phách đặc biệt. Ông được sử sách ghi chép, nhân dân truyền tụng về mưu trí, sức khỏe và lòng dũng cảm chỉ dùng tay không “đánh trâu, quật hổ” ở đất Đường Lâm.
Thời ấy, quan cai trị nhà Đường - An Nam Kinh lược sứ Cao Chính Bình bắt nhân dân ta đóng thuế rất nặng, nhân dân vô cùng thống khổ. Chứng kiến tình cảnh ấy, Phùng Hưng cùng hai em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh nung nấu ý chí trừ họa cho dân.
Lợi dụng quân lính ở Tống Bình (Hà Nội bây giờ) nổi loạn, Phùng Hưng đã phát động khởi nghĩa, kêu gọi nhân dân đứng lên chống lại nhà Đường. Cuộc khởi nghĩa do Phùng Hưng phát động nhận được sự hưởng ứng rộng rãi của dân chúng từ mọi miền đất Giao Châu.
27
Nghĩa quân lấy đất Đường Lâm làm căn cứ, đánh chiếm cả một miền rộng lớn quanh Phong Châu, xây dựng căn cứ kháng chiến. Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình nhiều lần đưa quân đến tiêu diệt nhưng bất phân thắng bại.
Tháng 4 năm 791, được sự trợ giúp của Đỗ Anh Hàn, người có nhiều mưu lược, Phùng Hưng cùng các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần chia quân thành năm đạo bất ngờ tiến đánh thành Tống Bình (Hà Nội). Cao Chính Bình đem 4 vạn quân ra nghênh chiến. Sau bảy ngày đêm chiến đấu ác liệt, quân giặc phải rút vào thành cố thủ. Nghĩa quân vây đánh
khắp các nơi, Cao Chính Bình lo sợ, phát ốm mà chết. Nghĩa quân chiếm được thành Tống Bình, lấy vùng đất ấy làm kinh đô, xây dựng quyền tự chủ. Phùng Hưng lên ngôi, được dân tôn là Bố Cái Đại Vương.
Bảy năm sau, Phùng Hưng mất, con là Phùng An nối ngôi được hai năm thì vua Đường cử tướng Triệu Xương đem quân sang đàn áp. Năm 802, nước ta lại bị nhà Đường cai trị.
28
Câu hỏi 9: Hãy trình bày cuộc khởi nghĩa của Dương Thanh?
Trả lời:
Dương Thanh là một thủ lĩnh người Việt, dòng dõi hào trưởng lâu đời. Chứng kiến viên quan đô hộ Lý Tượng Cổ tham bạo, hà khắc khiến dân chúng vô cùng khổ sở, ông nuôi lòng căm ghét bọn quan lại đô hộ nước ngoài, nên luôn tìm thời cơ để
chống lại bọn chúng.
Năm 819, nhân được giao 3.000 quân đi đánh người Tày, Nùng, Tráng ở Hoàng Động (Tây Bắc ngày nay), Dương Thanh cùng con là Dương Chí Liệt và thủ hạ thân tín là Đỗ Sĩ Giao đồng mưu kêu gọi binh sĩ không nên đi đánh người Hoàng Động mà phản lại Lý Tượng Cổ. Được các binh sĩ ủng hộ, ông mang quân về đánh chiếm phủ thành Tống Bình, giết chết quan đô hộ Lý Tượng Cổ cùng hàng nghìn thuộc hạ, chiếm Giao Châu.
Nhà Đường phái Trọng Vũ đem quân sang đàn áp nhưng không thắng nổi liền sai Quan sát sứ Bùi Hành Lập sang thay, dùng kế ly gián, chiếm phủ thành và giết chết Dương Thanh.
Dương Chí Liệt và Đỗ Sĩ Giao lui quân về giữ Tạc Khẩu (nay thuộc Yên Mô, Ninh Bình) nhưng ít lâu sau cũng bị thất bại (7-820).
29
Câu hỏi 10: Hãy trình bày cuộc nổi dậy của Khúc Thừa Dụ?
Trả lời:
Thời vãn Đường, do nhà Đường phải đối mặt với hai vấn đề lớn là phiên trấn cát cứ và khởi nghĩa nông dân nên chính sự suy yếu. Ở nước ta, nông dân khổ sở không yên vì bị bóc lột, đàn áp, lòng người ngày càng oán hận.
Nhân cơ hội chính quyền trung ương nhà Đường suy yếu, năm 905, Khúc Thừa Dụ - quê ở Ninh Giang, Hải Dương nổi dậy khởi nghĩa, được dân chúng ủng hộ. Ông đánh đuổi quan lại và binh lính nhà Đường, chiếm giữ phủ thành Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ. Nhà Đường đành chấp nhận, buộc phải gia phong cho ông là Đồng bình chương sự, Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ đã mở đầu cho công cuộc tự chủ của dân tộc ta.
Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo lên thay. Tiếp đó, đến đời cháu Khúc Thừa Dụ là Khúc Thừa Mỹ, nhà Nam Hán thay nhà Lương, bắt Khúc Thừa Mỹ. Nước ta lại nội thuộc nhà Nam Hán.
Câu hỏi 11: Hãy trình bày cuộc nổi dậy của Dương Diên Nghệ?
Trả lời:
Dương Diên Nghệ (Dương Đình Nghệ) người Ái Châu (Thanh Hoá), là tướng của họ Khúc.
30
Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên nối nghiệp cha. Dương Diên Nghệ tiếp tục làm bộ tướng cho Khúc Thừa Mỹ (917 - 930). Năm 930, Nam Hán - một tiểu vương quốc do họ Lưu lập nên đã đưa quân sang xâm lược nước ta, bắt Tiết độ sứ Khúc Thừa Mỹ (con Khúc Hạo), đánh chiếm Đại La, sai Lý Tiến làm thứ sử.
Năm 931, Dương Diên Nghệ được sự ủng hộ của nhân dân và hào kiệt các địa phương như Ngô Quyền, Đinh Công Trứ… vượt rừng núi, từ Thanh Hóa tiến quân ra Giao Châu, bao vây và tiến công thành Đại La - dinh lũy của quân xâm lược Nam Hán. Từ bên kia biên giới, vua Nam Hán vội vã cử Thừa chỉ Trình Bảo đem quân sang cứu viện. Viện binh chưa kịp đến thì Dương Diên Nghệ đã hạ được thành, quân Nam Hán tan vỡ, tướng giặc là Khắc Trinh bị giết chết, Thứ sử Lý Tiến chạy thoát về nước. Quân cứu viện của Nam Hán kéo vào nước ta; chưa kịp ổn định đã bị Dương Diên Nghệ chủ động đem quân ra ngoài thành, tiến công tiêu diệt. Quân Nam Hán bị đánh bất ngờ, rối loạn, tan rã. Tướng giặc là Trình Bảo bị giết tại trận.
Cuộc kháng chiến thắng lợi của nhân dân ta do Dương Diên Nghệ lãnh đạo đã đánh bại âm mưu chiếm lại nước ta của nhà Nam Hán. Đất nước độc lập, tự chủ tiếp tục được giữ vững. Sau khi đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi đất nước,
31
Dương Diên Nghệ bắt tay vào xây dựng chính quyền độc lập tự chủ, tổ chức lại công cuộc cai trị đất nước. Ông tự xưng là Tiết độ sứ, đứng đầu chính quyền trung ương cai quản cả nước.
Dương Diên Nghệ đã chứng tỏ ông là một tướng thiện chiến và huấn luyện được một đạo quân tinh nhuệ dù không thật hùng hậu. Sở dĩ Dương Diên Nghệ làm được điều đó vì ông đã nêu cao tinh thần đoàn kết nội bộ, tận tâm thương yêu tướng sĩ, khiến họ đồng lòng hết sức đánh giặc và đã thu được thắng lợi nhanh chóng.
Tháng 3 năm Đinh Dậu (937), Dương Diên Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn giết hại.
Câu hỏi 12: Cuộc khởi nghĩa của Trần Quỹ và Trần Quý Khoáng diễn ra như thế nào?
Trả lời:
Sau khi cha con Hồ Quý Ly thất bại, nhà Minh đã đặt ách đô hộ lên đất nước ta nhưng công cuộc bình định của chúng không dễ dàng. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Trần Quỹ và Trần Quý Khoáng, tôn thất nhà Trần, đã nổi lên chống ách cai trị của nhà Minh. Thời kỳ này có nhiều cuộc nổi dậy như châu Thái Nguyên có khởi nghĩa của Chu Sư Nhan, Trần Nguyên Khoáng, Nguyễn Du Bí; châu Tam Đái có khởi nghĩa của Hà Thế Trật, Hà Khả Chinh, Hà Nhân Tráng; châu Hạ Hồng có khởi nghĩa của
32
Trần Nguyên Tôn, Nguyễn Nhật Tân, trong đó khởi nghĩa của Trần Quỹ mở đầu cho cuộc vận động khôi phục nhà Trần.
Trần Quỹ là con thứ của Trần Nghệ Tông. Tướng nhà Minh là Trương Phụ định đưa Trần Quỹ về Kim Lăng để giam giữ. Biết mưu gian của địch, Trần Quỹ bỏ trốn đến Mô Độ (Yên Mô, Ninh Bình) tự xưng là Giản Định hoàng đế nối nghiệp nhà Trần, được Trần Triệu Cơ đem quân đi theo. Tiếp đó, Phạm Trấn và Trần Nguyên Tôn cũng mang quân theo về với ông. Năm 1408, quân Minh đánh úp quân ta ở Bình Than, Giản Định đế đại bại phải chạy vào Nghệ An. Quân khởi nghĩa bắt giết Trần Thúc Dao và Trần Nhật Chiêu do đã đầu hàng nhà Minh rồi trấn giữ Diễn Châu, Nghệ An.
Nghe tin Giản Định đế khởi nghĩa, Đặng Tất giết quan nhà Minh rồi đem quân theo về với Giản Định đế. Lúc này, cựu thần nhà Hồ là Nguyễn Cảnh Chân cũng theo về với quân khởi nghĩa. Đặng Tất tiến quân vào Tân Bình, làm chủ cả miền Tân Bình, Thuận Hoá, sau đó ông điều động quân các lộ Thuận Hoá, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hoá tiến đánh giặc ở Đông Đô. Quân khởi nghĩa qua các hạt Trường An, Phúc Thành, được quan lại cũ của nhà Trần và hào kiệt các địa phương hưởng ứng, theo về rất đông. Quân ta tiến công giặc ở Bình Than, Hàm Tử quan, chặn đường
33
qua lại ở phủ Tam Giang (Bạch Hạc), truy bức quân giặc chạy đến gần thành Đông Đô. Dân các châu huyện Từ Liêm, Uy Man, Thủy Hồng, Đại Đường, Ứng Bình, Thạch Thất đều hưởng ứng, lúc này thanh thế nghĩa quân rất mạnh.
Trước thế mạnh của quân khởi nghĩa, tướng nhà Minh là Lữ Nghị cho người về triều đình xin viện binh. Vua Minh cử Mộc Thạnh đem 4 vạn quân các hạt Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên phối hợp với 2 vạn thủy quân của Lữ Nghị và quân của Lưu Tuấn định đàn áp cuộc khởi nghĩa.
Đầu năm 1409, nghĩa quân đánh bại quân Minh ở Bô Cô (Ý Yên, Nam Định) bằng cách đóng cọc ở sông và đắp lũy hai bên sông để chờ giặc. Mộc Thạnh chỉ huy hai cánh quân thủy bộ tiến công. Chỉ trong nửa ngày, quân Minh đại bại. Lưu Tuấn và Lữ Nghị tử trận, Mộc Thạnh chạy thoát vào thành Cổ Lộng. Nghe tin dữ, vua Minh sai Trương Phụ làm tổng binh đem 4 vạn quân Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Quảng, Chiết Giang, Giang Tây, Phúc Kiến, Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam sang hội với quân của Mộc Thạnh để đàn áp.
Bấy giờ, Trần Quỹ đóng quân ở Hạ Hồng, Trần Quý Khoáng đóng quân ở Bình Than. Trương Phụ đem viện binh vào nước ta, đóng binh ở núi Lãm Sơn, đóng thêm chiến thuyền rồi tiến công quân ta ở châu Hát Môn và tiến vào châu Quảng Uy. Đặng Dung thua trận ở Hàm Tử
34
quan, quân giặc thừa thế tiến đánh. Trần Quý Khoáng liệu thế không chống nổi phải rút về Nghệ An. Trong khi ấy, Trần Quỹ và Nguyễn Cảnh Di cũng thất bại trong trận chiến ở Bình Than và cửa sông Thái Bình, phải chạy vào Diễn Châu. Tướng giặc Trương Phụ thừa thắng đuổi theo, đi đâu tàn sát dân ở đó rất dã man, chất thây thành cồn, rút ruột người treo lên cây, nấu thịt người lấy dầu, chặt phụ nữ có thai làm hai mảnh, nướng người sống để mua vui nhằm khủng bố tinh thần dân chúng.
Năm 1409, Trần Quỹ bị Trương Phụ bắt đem về giam ở Kim Lăng nhưng quân khởi nghĩa dưới sự chỉ huy của Trần Quý Khoáng vẫn tiếp tục chiến đấu, được dân chúng khắp nơi theo về rất đông. Trần Quý Khoáng cùng Nguyễn Cảnh Dị đưa quân ra Hạ Hồng, tiến đánh Bình Than. Đồng Mặc, Nguyễn Ngân Hà, Lê Nhụy, Lê Khang, Đỗ Cối, Nguyễn Hiên ở các nơi cũng nổi lên nhưng do không có tổ chức nên hầu như đều thất bại. Năm 1411, quân khởi nghĩa yếu thế vẫn tiếp tục bị giặc truy đuổi. Năm 1412, hào kiệt các địa phương vẫn tiếp tục nổi lên ở các vùng Thanh Hoá, Thái Nguyên. Nguyễn Súy hoạt động ở cửa Thần Đầu và Đại An, đánh nhau với thủy binh của nhà Minh bị thua, quân ta lại phải rút về Nghệ An, rồi rút về Thuận Hóa. Lúc này quân số chỉ còn non nửa, tình thế vô cùng nguy ngập. Tuy nhiên,
35
Nguyễn Súy vẫn đem quân mai phục trên sông Ái Tử để chặn giặc. Do thế và lực quá chênh lệch, nghĩa quân phải rút vào núi Côn Truyền để cầm cự. Tướng nhà Minh Trương Phụ thúc quân tiến đánh, xông vào dùng cung bắn ngã các quản tượng khiến voi trận chạy lui vì hoảng sợ. Nghĩa quân thua to, giặc truy đuổi đến sông Ái Mẫu, bắt được nhiều tướng lĩnh của ta, trong đó có em Đặng Dung là Đặng Thiết. Tiếp đó, Nguyễn Súy và Đặng Dung bị bắt, rồi Nguyễn Cảnh Dị cũng sa vào tay giặc. Cuối cùng, Trần Quý Khoáng cũng bị bắt. Cuộc khởi nghĩa chống nhà Minh của nhà Hậu Trần thất bại.
Câu hỏi 13: Trình bày nguyên nhân, diễn biến, ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ nhà Minh?
Trả lời:
Năm 1414, sau khi dẹp yên cuộc khởi nghĩa của họ Trần do Trần Quỹ và Trần Quý Khoáng lãnh đạo, nhà Minh đã thiết lập được ách thống trị ở đất nước ta. Nhà Minh áp dụng các chính sách cai trị và đồng hoá rất dã man nhằm thống nhất chế độ hành chính của nước ta với
chế độ các quận của Trung Quốc, khiến dân ta phải theo hẳn văn hoá và phong tục của người Trung Quốc.
36
Trước hết, Mộc Thạnh đưa về Trung Quốc rất nhiều dân và phụ nữ nước ta để sung làm nô tỳ. Tiếp đó, nhà Minh đổi nước ta thành quận Giao Chỉ với 15 phủ, dưới phủ là châu và huyện, quan lại cai trị ở nha môn chủ yếu là người Minh, còn các quan chức cấp dưới hầu hết đều dùng người Việt - những kẻ đầu hàng, trục lợi, bán nước hại dân. Người dân bị áp bức, thuế khoá nặng nề, bị binh lính giết chóc, cướp phá, tình cảnh vô cùng cực khổ. Nam giới tuổi từ 16 phải phục vụ quan dịch, nộp rất nhiều tiền đảm phụ. Ngoài thuế điền và các loại sai dịch, người dân còn phải chịu nhiều thứ thuế khác, nặng nhất là thuế muối. Ngoài ra, quan lại nhà Minh còn bắt dân khai thác mỏ vàng bạc, khai thác được phải nộp hết cho các quan, bắt dân lên rừng kiếm hương liệu, chim muông thú quý, xuống biển mò ngọc trai. Để kiểm soát dân được chặt chẽ, nhà Minh bắt dân đinh người nào cũng phải có một cái thẻ gọi là “hộ thiếp” ghi tên tuổi, quê quán để khi sai nha khám hỏi phải đưa ra. Nếu thẻ không hợp với số gốc sẽ bị bắt đi lính. Về văn hoá, nhà Minh thi hành chính sách đồng hoá triệt để, bắt người Việt phải tập theo lễ nghi của Trung Quốc, cải biến các tục của người Việt, truyền bá học thuật, tín ngưỡng, tôn giáo của Trung Quốc, bắt người dân không được cắt tóc, bắt đàn bà, con gái phải mặc quần áo dài theo như phong tục của người Minh. Dưới sự thống trị tàn
37
bạo và đồng hoá cưỡng bức ấy, dân ta hết sức khổ sở, chỉ chờ cơ hội là nổi lên.
Tuy nhiên, từ năm 1414 đến năm 1418, việc cai trị của nhà Minh ở nước ta nói chung tương đối ổn thỏa, hào kiệt các nơi mới chỉ hoạt động ngấm ngầm hoặc lẻ tẻ nổi lên ở một vài địa phương và đều bị nhà Minh đàn áp. Chẳng hạn, Nguyễn Trinh nổi dậy ở huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang; Lê Hạch, Phan Cường, Trần Khả Luận, Nguyễn Chiêu, Phạm Mã Hoãn, Trần Não, Trần Ngô Sài nổi lên ở phủ Thuận Hoá; Nguyễn Nghĩ ở châu Nam Linh; Phạm Bá Cao, Vũ Vạn, Trần Ba Luật ở huyện Tả Bình, phủ Tân Bình; Xa Tam ở huyện Tứ Mang, châu Gia Hưng đã nổi dậy nhưng đều bị đàn áp. Bởi thế, khi nghe tin Lê Lợi, một hào trưởng ở miền Lam Sơn (nay thuộc Thọ Xuân, Thanh Hoá) có hàng nghìn người thân thuộc, được dân địa phương quy phục rất nhiều định nổi dậy khởi nghĩa, các hào kiệt theo về với ông rất đông.
Năm 1416, Lê Lợi tổ chức Hội thề Lũng Nhai làm hạt nhân khởi nghĩa. Năm 1418, Lê Lợi phát động cuộc khởi nghĩa, tự xưng là Bình Định Vương, chia đặt quân hiệu, truyền hịch kể tội quân Minh và nói rõ mục đích của cuộc khởi nghĩa. Viên quan Mã Kỳ nghe tin nghĩa binh nổi lên ở Lam Sơn liền cho quân đến đánh dẹp. Nghĩa quân lực lượng còn mỏng, không chống cự nổi phải bỏ căn cứ địa rút về miền thượng du, đóng đồn ở
38
Lạc Thủy. Một tên Việt gian phản quốc dẫn đường đưa quân Minh đến đánh úp, bắt được nhiều tướng sĩ và vợ con của Lê Lợi. Lê Lợi phải đưa quân rút lên núi Linh Sơn (nay là giữa huyện Thường Xuân và huyện Lang Chánh). Một thời gian sau, năm 1419, Lê Lợi đem quân đánh đồn Nga Lạc nhưng viện binh giặc kéo đến rất đông, nghĩa binh lại phải lui về nương náu ở núi Linh Sơn. Quân giặc bao vây ráo riết, Lê Lai - một tướng của Lê Lợi phải đóng giả ông để lừa giặc và giải vây. Lê Lợi thoát vây, phái người đưa thư sang Ai Lao mượn binh và khí giới, củng cố lực lượng rồi mở rộng hoạt động ra khắp miền tây Thanh Hoá.
Năm 1420, nghĩa quân đánh tan quân của Lý Bân và Phương Chính. Năm 1421, nghĩa quân đánh tan quân của Trần Trí ở Ủng Ải (Cổ Lũng). Năm 1422, nghĩa quân thất bại phải rút lui về Khôi Sách, cố liều chết phá vòng vây, quay lại phản công khiến Trần Trí và Mã Kỳ phải chạy về Đông Đô. Tuy nhiên, lực lượng của nghĩa quân chưa đủ mạnh nên Lê Lợi và bộ tham mưu quyết định lại rút lên núi Linh Sơn. Tại đây, nghĩa quân tiếp tục bị bao vây, tình cảnh thật vô cùng nguy hiểm, lương thực cạn dần, họ phải ăn măng và rễ cây, thậm chí phải ăn thịt cả ngựa. Bất đắc dĩ, Lê Lợi phải viết thư xin cầu hoà. Quân giặc cũng ở trong tình thế
39
mệt mỏi nên chấp nhận. Lê Lợi tận dụng thời gian này để củng cố lực lượng, tích trữ lương thảo chờ ngày phản công.
Sau hơn một năm ở Lam Sơn, theo lời bàn của tướng Nguyễn Chích, Lê Lợi quyết định đưa quân vào Nghệ An. Nghĩa quân chiến thắng giòn giã ở Quỳ Châu, quân Minh phải rút về giữ thành Nghệ An. Nghĩa quân chiếm được Trà Lân, Bồ Ải rồi quyết định đánh thành Nghệ An. Tiếp đó, thành Diễn Châu, thành Tây Đô đều bị hạ. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân ngày càng mở rộng và cuộc khởi nghĩa đã bước sang một giai đoạn mới. Từ những cuộc phục kích nhỏ, nghĩa quân đã ngày càng lớn mạnh, mở những cuộc tiến công và bao vây các thành lớn. Thấy giặc sơ hở, dồn quân về Nghệ An, Lê Lợi quyết định đánh Đông Đô, cho người đi liên lạc với các hào kiệt miền Bắc, cử Phạm Văn Xảo, Lê Triện, Lê Khả, Đỗ Bì đưa quân chặn đường viện binh của giặc từ Vân Nam sang. Đông Đô bị nghĩa quân uy hiếp. Nhà Minh sai Vương Thông đem 5 vạn quân sang ứng cứu, thế giặc mạnh, quân ta không cản nổi, phải rút lui rồi họp lại với nhau mai phục ở Tụy Động (Tốt Động). Quân giặc vừa xuất hiện, nghĩa quân bốn mặt đổ ra đánh, bắt sống hơn 1 vạn tên, thu nhiều khí giới. Trận Tụy Động là trận thắng lớn, có ý nghĩa quyết định khiến quân giặc không dám ứng cứu cho nhau, chỉ cố thủ
40
trong thành. Lê Lợi cho quân bao vây Đông Đô, hầu như các phủ, lộ, châu, huyện đã thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân. Trước tình thế ấy, nhà Minh cử Liễu Thăng làm tổng binh, mang thêm 10 vạn quân sang tiếp viện. Dân các miền Lạng Sơn, Bắc Giang, Tam Đới, Tuyên Quang, Quy Hoá trước thế giặc mạnh đã thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” trong khi 1 vạn nghĩa quân được lệnh lên phục ở ải Chi Lăng. Liễu Thăng bị phục binh của ta đổ ra đánh, đã tử trận. Hàng vạn tên giặc bị chết, hàng ngàn tên bị bắt sống.
Được tin viện binh đã thua, Vương Thông vội đưa thư xin hoà. Lê Lợi chấp thuận, cùng Vương Thông lập đàn thề ở phía nam thành Đông Đô. Lê Lợi hạ lệnh bỏ vây các thành Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh đồng thời trao trả 2 vạn tù binh, cấp 500 thuyền cho Mã Kỳ, Phương Chính về bằng đường thủy và cấp lương thảo 2 vạn ngựa cho Mã Anh đi đường bộ.
Ròng rã 10 năm chiến đấu, khởi nghĩa chống Minh đã thành công. Cuộc khởi nghĩa này được xem là một cuộc cách mạng dân tộc nhằm lật đổ ách thống trị của nhà Minh, dựng nền tự chủ. Cuộc khởi nghĩa thành công do được toàn dân hưởng ứng, bộ tham mưu sáng suốt, kiên quyết,
kiên trì, dũng cảm. Trên cơ sở các tầng lớp nhân dân đều căm thù quân Minh, Lê Lợi đã huy động
41
được sức mạnh và sự đoàn kết của các tầng lớp nhân dân tham gia khởi nghĩa. Hơn nữa, nghĩa quân lại duy trì kỷ luật rất nghiêm, không xâm phạm tài sản của dân, luôn đề cao tinh thần đoàn kết nên được dân chúng ủng hộ. Bởi thế, cuộc khởi nghĩa dần phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân và đây là nhân tố chính quyết định thành công. Một nguyên nhân khác khiến cuộc khởi nghĩa thành công là những người đứng đầu cuộc khởi nghĩa, đặc biệt là Lê Lợi rất khôn khéo, biết thu nạp nhân tài, từ quý tộc, sĩ phu tới những người xuất thân bần cố nông như các tướng Nguyễn Xí, Nguyễn Chích, Trịnh Khả, lang đạo, các tầng lớp trung nông, phú nông, địa chủ, ai có tài đều được trọng dụng. Trong số những công thần kiến quốc ấy, quan trọng bậc nhất là Nguyễn Trãi, một người được Lê Lợi tin cẩn, giúp ông nhiều trong việc quân cơ. Sự lãnh đạo sáng suốt, ý chí kiên quyết đấu tranh của Lê Lợi cùng chiến lược, chiến thuật phù hợp: lúc yếu thì tiến hành chiến tranh du kích để tiêu hao lực lượng địch, có hậu phương vững vàng thì đánh các thành nhỏ để cô lập các thành lớn, dùng phục kích và tập kích, đủ sức mạnh thì tổng tiến công, chia sức địch, chặn đường tiếp viện, bao vây căn cứ chính, phối hợp phục kích, đánh vận động và đánh thành, đã đưa cuộc khởi nghĩa đến thành công.
42
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa này có ý nghĩa trọng đại đối với sự phát triển của lịch sử nước ta, cho thấy, Lê Lợi là đại biểu của lực lượng xã hội mới đương trưởng thành, biết dựa vào sức mạnh của nhân dân, biết thuận theo lòng người, nắm được xu thế phát triển của xã hội, giành độc lập cho dân tộc, mở đường cho xã hội phong kiến tập quyền phát triển lên một bước mới.
Câu hỏi 14: Hãy trình bày cuộc khởi nghĩa Tây Sơn?
Trả lời:
Khởi nghĩa Tây Sơn là cuộc khởi nghĩa do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ khởi xướng nhưng thủ lĩnh chính, linh hồn của phong trào khởi nghĩa này là Nguyễn Huệ.
Ba anh em quê gốc Nghệ An, sau chuyển vào ở thôn Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, nay thuộc Tây Sơn, Bình Định. Năm 1771, họ lên vùng Tây Sơn thượng đạo thuộc huyện An Khê, Gia Lai tập hợp lực lượng và hiệu triệu dân chúng: “Đánh đổ Trương Phúc Loan, ủng hộ Hoàng Tôn Dương. Lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”, lôi kéo thêm vây cánh, khiến người theo về với nghĩa quân ngày một đông.
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ chia nghĩa quân thành những toán nhỏ, du binh tỏa ra khắp phủ
43
Quy Nhơn, truyền hịch kể tội Trương Phúc Loan, sau đó đánh phá các trang trại của nhà giàu. Tuần phủ Quy Nhơn Nguyễn Đắc Tuyên vội điều động binh đi kiềm chế quân Tây Sơn nhưng không nổi nên yết bảng treo thưởng rất hậu cho kẻ nào lấy được đầu hoặc bắt được chúa Tây Sơn, đồng thời ráo riết đốc thúc quân lính cắm chông dày đặc quanh phủ, đắp lũy cao thêm và tăng cường xét hỏi người ra vào thành, canh phòng rất cẩn mật.
Nhờ mưu kế trá hàng, quân Tây Sơn đã chiếm được thành Quy Nhơn.
Thừa thắng, quân Tây Sơn đánh chiếm phủ Quảng Ngãi, thừa thế đánh Quảng Nam. Nghe tin quân Tây Sơn đã tiến đến sát đèo Hải Vân, Chúa Trịnh Sâm liền phái quận Việp làm Bình Nam thượng tướng quân, đi đánh dẹp ở phía nam. Chúa Trịnh muốn nhân dịp này đánh Tây Sơn đồng thời diệt chúa Nguyễn luôn. Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đã nhìn thấy thực chất mối quan hệ giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn nên những người lãnh đạo quân Tây Sơn đã khôn ngoan lợi dụng ý định sâu xa muốn thôn tính chúa Nguyễn của chúa Trịnh, dâng thư và cống phẩm xin nội thuộc chúa Trịnh để rảnh tay dẹp chúa Nguyễn.
Tháng 9 năm 1775, Hoàng Ngũ Phúc bị bệnh, xin triều đình cho rút quân về, vùng đất phía nam giao cho Tây Sơn quản lý. Sau tám năm giằng co,
44
đánh nhau với quân của chúa Nguyễn, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Thái Đức. Năm 1783, Nguyễn Ánh bị Nguyễn Huệ đánh tan, phải chạy trốn ra biển, sang Xiêm cầu cứu. Ngày 9 tháng 6 năm 1784, quân Xiêm xuất binh. 3 vạn quân bộ, quân kỵ vượt qua Cao Miên vào Nam Vang (Phnôm Pênh), 2 vạn quân thủy với 300 chiến thuyền theo đường biển vào Kiên Giang. Tướng Xiêm là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem quân vào nước ta, thả sức vơ vét của cải. Thế giặc rất mạnh. Mấy ngàn quân Tây Sơn do Trương Văn Đa chỉ huy phải lui về giữ thành Mỹ Tho để bảo toàn lực lượng, cho người cấp báo với Nguyễn Huệ xin viện binh.
Lúc này, quân Xiêm đã chiếm miền Tây Nam bộ. Nguyễn Huệ tức tốc đưa quân đến Mỹ Tho. Biết quân Xiêm đông, Nguyễn Huệ chưa vội đánh ngay mà ông muốn tìm hiểu tình hình của quân giặc và chờ thời cơ chín muồi. Ông không cho quân tập kích vào Trà Tân, đại bản doanh của quân địch vì đây là nơi chúng bố phòng rất cẩn mật, ông chọn trận địa mai phục giữa lòng sông Tiền, trong một quãng sông chừng 7km giữa Rạch Gầm, Xoài Mút. Đây là nơi quân địch không thể ngờ sẽ bị phục kích và là nơi quân ta có thể phát huy hết sức mạnh vốn có. Trận đánh này chủ yếu dùng sức mạnh áp đảo của quân thủy có bộ binh, pháo binh hỗ trợ.
45
Trong trận đánh này, Nguyễn Huệ đã tìm cách nhử địch vào trận địa mai phục lúc 4, 5 giờ sáng để có thể kiểm soát được chiến trường. Đêm 18 rạng ngày 19 tháng 1 năm 1785, là lúc thủy triều, con nước và sức gió đạt đến mức lý tưởng nhất cho trận thủy chiến nên Nguyễn Huệ đã tìm kế trì hoãn bằng chiến thư: mời tướng sĩ Xiêm lên Mỹ Tho xem quân Tây Sơn duyệt binh, xin hòa hoãn và đút lót cho chủ tướng của giặc, dùng kế nghi binh, khiêu chiến và đúng như tính toán thần diệu của ông, toàn bộ quân Xiêm đã dồn lại trước đoạn sông Tiền trong đêm 18, nằm gọn trong trận địa mai phục của quân ta.
Rạng sáng ngày 19, chúng bị đánh phủ đầu. Bởi Nguyễn Huệ đã khảo sát và biết rõ gần sáng, ở đoạn sông này thủy triều rút rất nhanh nên ông đã dùng mẹo khích tướng, giả vờ thua chạy, đánh vào tâm lý hiếu thắng của hai viên tướng Xiêm. Chỉ đến khi quân Xiêm đến đúng đoạn quân Tây Sơn phục kích ở hai bên bờ, Nguyễn Huệ mới hạ lệnh cho các chiến thuyền Tây Sơn quay ngoắt lại đối đầu. Một tiếng pháo lệnh nổ, pháo binh Tây Sơn mai phục ở cù lao Thới, Bản Thôn và trên sông Ba Lai thình lình bắn ra như mưa. Quân thủy tinh nhuệ lập tức đổ ra đánh. Chiến thuyền Xiêm mờ mịt trong khói lửa dữ dội, bị bắn vỡ, cháy rần rật, cả mấy trăm chiếc không thoát chiếc nào. Quân Xiêm chết ngổn ngang, xác giặc chồng
46
chất, nghẽn dòng khiến sông không chảy được. Những tên sống sót, mạnh ai nấy chạy. Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ, gần 5 vạn quân Xiêm đã bị quân Tây Sơn quét sạch. Vài ngàn tên tháo chạy, kinh hãi kháo nhau, Nguyễn Huệ là “tướng nhà trời”. Trong trận này, Nguyễn Ánh bị bắt nhưng đã trốn thoát do quân lính Tây Sơn canh phòng không chặt, còn hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương cũng phải bỏ thuyền chạy lên bờ, nhờ một người Cao Miên dẫn đường chạy vào rừng, chịu đói, chịu khát, chạy miết về Vọng Các. Mùa hè năm 1786, sau khi đánh chiếm Phú Xuân, Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc, lấy danh nghĩa tôn phò nhà Lê, diệt chúa Trịnh, trao lại quyền cho vua Lê. Cuối năm 1787 một lần nữa, quân Tây Sơn lại tiến ra Bắc, tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, thu phục các cựu thần nhà Lê như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp. Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh. Năm 1788, triều đình Mãn Thanh cho rằng, nhà Lê suy yếu nên mượn tiếng giúp đỡ, nhân cơ hội củng cố lực lượng âm mưu xâm chiếm nước ta. Tôn Sĩ Nghị thống soái 20 vạn bộ binh với lừa, ngựa, phu phen, chia làm bốn đạo kéo sang nước ta. Bấy giờ, quân Tây Sơn ở ngoài Bắc do Ngô Văn Sở chỉ huy chỉ có dăm vạn binh lính nên lui quân về núi Tam Điệp và cho người cấp báo với Nguyễn Huệ. Việc rút lui về núi Tam Điệp của
47
quân Tây Sơn có thể xem là một cuộc rút lui chiến lược nhằm bảo toàn lực lượng, không tốn phí một mũi tên và khiến cho quân giặc bị ru ngủ, lơ là cảnh giác để chờ ngày tổng tiến công.
Cuối năm 1788, khi nghe tin cấp báo của Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, Lê Chiêu Thống đưa đường cho quân xâm lược Mãn Thanh vào chiếm kinh đô Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, nhằm làm sáng tỏ danh nghĩa với cả nước rồi lập tức xuất quân.
Trên đường hành quân, Quang Trung cho tuyển thêm hàng vạn binh lính. Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu thân (tức ngày 15 tháng 1 năm 1789), quân của vua Quang Trung ra đến núi Tam Điệp. Ngày 30 tháng Chạp năm Mậu thân (ngày 25 tháng 1 năm 1789), vua cho mở tiệc khao quân. Nhà vua nói như đinh đóng cột: ngày 7 vào Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Vào lúc nửa đêm, trước khi lên đường, các tướng họp trong lều trận nghe truyền chỉ. Đô đốc Long chỉ huy 1 vạn tinh binh, 50 voi chiến mở lối vòng qua Sơn Nam về Chương Đức, qua làng Nhân Mục đến đồn quân của Sầm Nghi Đống ngầm mai phục, khi đại quân nổi lửa đánh đại đồn Ngọc Hồi thì cho quân nhất tề tràn tới. Đô đốc Bảo suất 50 voi chiến cùng 1 vạn tinh binh xuyên qua Sơn Nam theo đường Sơn Minh ra làng Đại Áng, xem xét địa thế, bày thế trận, chờ khi quân Thanh dẫn xác đến mới được tung quân
48
ra đánh. Đô đốc Tuyết và Lộc được lệnh đem quân vượt biển vào sông Lục Đầu, phô trương thanh thế nghi binh. Đô đốc Tuyết phải dẹp xong vùng Hải Dương để tiếp ứng phía đông. Đô đốc Lộc phải đem quân lên Phượng Nhãn, Lạng Giang, Yên Thế để chặn đường rút của chúng. Hai tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân làm tướng tiên phong đốc suất quân đi mở đường, Vũ Văn Dũng đưa quân đi sau trợ chiến.
Tôn Sĩ Nghị vào Thăng Long một cách dễ dàng nhưng vốn lo xa nên bố trí quân đội rất cẩn thận. Đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị đặt ở Tây Luông, phía bờ sông Nhị. Cẩn thận hơn, Tôn Sĩ Nghị lại cho bắc sẵn một cầu phao để tiện đường giao thông với bờ Bắc, bố trí cho hai cánh quân của hai viên tướng nhà Lê là Nguyễn Đạo và Hoàng Tố Nghĩa trấn giữ Hải Dương và trấn Sơn Nam, một cánh quân khác giữ phía đông để ngăn quân thủy của Tây Sơn. Phía nam được xem là hiểm yếu do các viên tướng nhà Thanh là Hứa Thế Hanh, Trương Sĩ Long và Thượng Duy Thăng chống giữ, lập các đồn ở làng Nhật Tảo, Hạ Hồi nhằm cản bớt sức của quân Tây Sơn. Các đồn đều có lũy cao, hào sâu, cắm chông sắt, đặt địa lôi. Riêng đồn Ngọc Hồi là kiên cố hơn cả. Phía tây nam Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị cho đây là lối khó vào nên cho Sầm Nghi Đống đem quân đến dựng trại để phòng xa.
49
Đêm 30 Tết, quân Tây Sơn đến sông Gián Khẩu. Nhà vua mật lệnh cho hai tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân dẫn quân tiên phong vượt sông hạ đồn. Đồn Gián Khẩu vỡ, thừa thắng, hai tướng Sở và Lân dẫn quân tràn lên. Quân Thanh ở các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo khiếp vía tự bỏ đồn chạy, bị bắt sống hết nên quân Thanh ở hai đồn Ngọc Hồi và Hạ Hồi không hề hay biết.
Trong trận đánh đồn Ngọc Hồi, nhà vua dẫn quân đốc chiến. Trận đánh diễn ra rất khốc liệt. Quân Thanh không chống cự nổi, giày xéo lên nhau mà chạy. Trên đường rút lui, chúng lại bị quân Tây Sơn đổ ra đánh.
Tại kinh thành, nghe tin Hạ Hồi, Ngọc Hồi thất thủ, đồn Điền Châu đã vỡ, Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt, không kịp mặc áo giáp, ngựa không đóng yên cương, cuống cuồng dẫn một toán quân qua cầu phao trốn sang bờ Bắc. Quân giặc xô đẩy, giày xéo lên nhau, chết kín đặc cả khúc sông khiến nước Nhị Hà không thể chảy được nữa. Vua Lê Chiêu Thống cùng đám tàn quân cũng vội vã theo gót quân xâm lược rút chạy. Trưa ngày mùng 5 Tết, vua Quang Trung, áo bào đỏ giờ đã sạm đen vì khói súng, dẫn đoàn quân chiến thắng vào Thăng Long. Dân chúng ở kinh thành đổ ra đón đại quân chiến thắng.
50
Câu hỏi 15: Trình bày nguyên nhân dẫn đến các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX?
Trả lời:
Trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn đã ở trong tình trạng suy đốn. Về mặt tư tưởng, triều Nguyễn bị tinh thần hủ nho chi phối, thủ cựu, hẹp hòi. Quan lại, sĩ phu chủ yếu là cố chấp, không chấp nhận cải cách duy tân dẫn đến tình trạng xã hội ngày một lạc hậu, trì trệ. Thời Tự Đức trở về sau, binh lực và tài lực ngày thêm suy yếu. Binh lính không được luyện tập, binh khí lạc hậu, tướng sĩ thường không chuyên trách, không có uy tín với binh lính. Tinh thần quân đội thấp kém, không đủ khả năng đảm đương nhiệm vụ bảo vệ nhà nước trước sự xâm lược của tư bản phương Tây.
Về tài chính, nước ta khi ấy là một nước nông nghiệp lạc hậu, cộng với chính sách bế quan tỏa cảng nên tài lực chủ yếu trông vào nguồn đóng góp của dân mà nguồn đóng góp này ngày càng suy giảm do đời sống của dân chúng rất khốn cùng. Thời kỳ này, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, dân khốn cùng đến nỗi dù triều đình muốn tăng thuế cũng không thể thu thêm được nữa. Để có nguồn chi, triều đình phải tăng cường việc khai thác mỏ vàng, bạc, kẽm nhưng do tình trạng quá
51
lạc hậu, sự khai mỏ này chủ yếu chỉ làm giàu thêm cho các nhà thầu khoán Trung Hoa. Có thể nói, từ năm 1862, thực trạng của nước ta khi ấy là “tiền hoang, binh khuyết”.
Trước thực trạng xã hội như vậy, nhiều chí sĩ thức thời hiểu rõ sự cần thiết của việc đổi mới như Đinh Văn Điền, Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ đã trình lên triều đình đề xướng cải cách nhằm đối phó với sự xâm lược của tư bản Pháp. Những người đề xướng cải cách cho rằng muốn cải cách xã hội trước hết phải cải tạo quan lại, dùng những người tài giỏi trong nhân dân tham gia ý kiến vào việc nước, dùng chế độ pháp trị để quan lại không thể chuyên chế, tác uy tác phúc với dân. Muốn làm được điều đó phải cải cách chế độ giáo dục, học các môn học thực dụng như luật học, nông học, kỹ nghệ, vạn vật học, địa lý, thiên văn… Về kinh tế phải lo đến canh nông, đề phòng hạn hán, lụt lội, tăng cường khai hoang, phát triển kỹ nghệ, khai khoáng, mở mang thương mại, giao thông. Về tài chính, phải chú ý đến vấn đề thuế khoá căn cứ vào nhân lực, tài lực trong dân. Ngoài ra, phải chú ý phát triển quân đội, cải tạo xã hội, mở rộng thông thương…
Tuy nhiên, tình trạng nước ta lúc ấy không thể tiến hành một cuộc cải cách toàn diện như thế do xã hội phong kiến suy tàn nhưng chưa xuất hiện lực lượng sản xuất và lực lượng xã hội
52
mới. Do đó, các đề xướng cải cách đã thất bại và đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến mất nước.
Bắt đầu từ triều Minh Mệnh, việc cấm đạo đã được thực thi. Đến triều Tự Đức, chính sách này được thực hiện triệt để. Lấy cớ triều đình Việt Nam cấm đạo, sát tả, năm 1858, thực dân Pháp tiến công Đà Nẵng. Năm 1862, triều đình nhà Nguyễn phải ký Hoà ước Nhâm Tuất, nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông, Hiệp ước Giáp Tý (1864), thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở sáu tỉnh Nam Kỳ và cuối cùng là Hiệp ước Giáp Thân (1884), khẳng định sự thống trị của Pháp ở Việt Nam khiến những người yêu nước Việt Nam vô cùng phẫn nộ, đã nổi lên chống Pháp và triều đình. Thời kỳ này nhiều cuộc khởi nghĩa chống xâm lược nổ ra khắp từ Bắc tới Nam với rất nhiều thành phần dân chúng tham gia.
Câu hỏi 16: Nam Trung nghĩa sĩ là gì? Trả lời:
Nam Trung nghĩa sĩ là tên gọi của cuộc nổi dậy kháng chiến của nhân dân Nam Kỳ chống Pháp xâm lược. Có rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống xâm lược trong giai đoạn này như: khởi nghĩa của Trương Định ở Gò Công; khởi nghĩa của Phan Liêm, Phan Ngũ (con Phan Thanh Giản) ở
53
Bến Tre, Sa Đéc, Vĩnh Long; khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực ở Hòn Chông; Nguyễn Hữu Huân và Âu Dương Lân ở Tân An và Mỹ Tho; Lê Công Khanh ở Cần Thơ; Trần Kế ở Trà Vinh. Nổi bật nhất trong các cuộc khởi nghĩa này là khởi nghĩa của nghĩa quân Trương Định.
Câu hỏi 17: Bình Tây đại nguyên soái là ai? Hãy trình bày diễn biến của cuộc khởi nghĩa này?
Trả lời:
Bình Tây đại nguyên soái là danh hiệu của nhân dân tôn vinh Trương Định, thủ lĩnh nghĩa quân kháng Pháp ở Gò Công. Trương Định người xã Từ Cung, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi, sau theo cha là Trương Cần vào lập nghiệp ở Tân An, nay thuộc Long An. Ông là người thông minh, cương nghị, giỏi binh thư võ nghệ.
Năm 1850, hưởng ứng chính sách khai hoang, ông chiêu mộ dân lập đồn điền, được triều đình phong chức quản cơ nên dân thường gọi ông là Quản Định. Năm 1859, Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Sau khi Gia Định thất thủ, Trương Định mộ nghĩa binh, đứng đầu một đội quân đóng ở Thuận Kiều chống quân Pháp. Khi Nguyễn Tri Phương đem quân triều đình phản công, Trương Định thường cùng nghĩa binh đi tiên phong. Năm
54
1861, khi đồn Phù Thọ (Đại Đồn) thất thủ, quân đội triều đình rút về Biên Hoà, Trương Định thu quân về vùng quê là Tân Hoà trong hạt Gò Công để hoạt động. Sơn Quy (Giồng Sơn Quy) là căn cứ buổi đầu của nghĩa quân Trương Định cách huyện Tân Hoà (thị trấn Gò Công ngày nay) 2km về phía tây bắc. Trương Định đem quân về đây, vừa tổ chức xây dựng lực lượng vừa chế tạo vũ khí. Giồng Sơn Quy ban đầu là nơi xuất phát của các trận phục kích nhỏ của nghĩa quân, sau này trở thành trung tâm hội tụ của nhiều lực lượng chống Pháp ở Nam Bộ.
Để mở rộng địa bàn hoạt động, Trương Định đã liên hệ với nhiều sĩ phu yêu nước như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Hồ Huân Nghiệp, Võ Duy Dương, Phan Văn Đạt. Năm 1862, triều đình Huế ký Hoà ước Nhâm Tuất, nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, hạ lệnh cho ông giải giáp nghĩa binh nhưng nhân dân quyết giữ ông lại. Trương Định vui lòng nhận chức của nhân dân phong là Bình Tây đại nguyên soái, quyết tâm kháng chiến đến cùng. Phan Thanh Giản bốn lần sai người mang lệnh của triều đình Huế đến, bắt ông giải giáp, kẻ thù tìm mọi cách giết ông nhưng Trương Định không hề nao núng. Ông dựng cờ khởi nghĩa với những chữ “Phan,
Lâm mãi quốc, triều đình thí dân” (họ Phan và họ Lâm bán nước, triều đình bỏ rơi dân chúng) và tiếp tục kháng chiến. Nghĩa quân sắp đặt việc
55
phòng thủ lâu dài. Từ Dung Cương đến đập Ông Canh, từng chặng đều đắp lũy phòng ngự. Phía đông đến biển, phía nam đến Hoa Cương, những chỗ hiểm yếu đều có quân đóng giữ. Trương Định đóng đại bản doanh ở Gò Công. Năm 1861, nghĩa quân Trương Định phối hợp với nghĩa quân của Cai tổng Là tiến công đồn Cần Giuộc bị quân Pháp chiếm. Trong trận này, nhiều lính Pháp chết trận nhưng nghĩa quân cũng bị tổn thất lớn. Năm 1862, nghĩa quân chiến đấu với quân Pháp
bằng nhiều trận lớn. Tháng 2 năm 1863, Pháp tổng công kích đại bản doanh của Trương Định ở Gò Công. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt trong ba ngày liền. Hai phó tướng của ông là Đặng Kim Chung và Lưu Hải Đường tử trận. Trương Định phải rời bỏ chiến khu Bình Xuân, rút về Phước Lộc, dựa vào khu đất ở Gia Thuận, tục gọi là “Đám lá tối trời”, kéo dài cuộc chiến đấu thêm hai năm nữa. Ngày 22 tháng 8 năm 1864, Đội Tấn (Huỳnh Công Tấn) bí mật đưa quân địch vào vây bắt ông ở làng Tân Phước. Sau một trận chiến đấu ác liệt, ông bị trọng thương, để bảo toàn khí tiết ông đã tự sát. Sau khi Trương Định hy sinh, con ông là Trương Quyền lập căn cứ ở Tây Ninh, phối hợp với Thiên Hộ Dương (Võ Duy Dương) và Pôcumpao (thủ lĩnh yêu nước dân tộc Khmer) tổ chức đánh Pháp. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân kéo dài
56
từ Tây Ninh, Trảng Bàng đến Gia Định. Nghĩa quân đã đánh thắng nhiều trận ở Rạch Vinh, Trà Vang (Tây Ninh), Thuận Kiều, Củ Chi, Hóc Môn, Trảng Bàng, Tân An, gây thanh thế lớn.
Năm 1867, thực dân Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Tây, nghĩa quân gặp nhiều khó khăn. Trong một trận bị giặc phục kích, Trương Quyền đã hy sinh. Cuộc khởi nghĩa dù không thành công nhưng tinh thần quật khởi của nó vẫn lan truyền và là tấm gương khích lệ các cuộc khởi nghĩa tiếp theo nổ ra.
Câu hỏi 18: Hãy kể về khởi nghĩa của Võ Duy Dương?
Trả lời:
Võ Duy Dương còn gọi là Thiên Hộ Dương. Ông quê ở Gia Định, là nhân vật quan trọng trong bộ chỉ huy của nghĩa quân Trương Định. Theo một số tư liệu, tháng 7 năm 1862, Võ Duy Dương ra lời kêu gọi dân chúng Định Tường đứng lên kháng Pháp. Thời gian đó, Trương Định đang hoạt động ở Gia Định đã cho người mang thư tới, phân tích cho Võ Duy Dương biết những bất lợi khi ông hoạt động độc lập và đề nghị Võ Duy Dương tham gia nghĩa quân Trương Định. Võ Duy Dương tiếp nhận đề nghị hợp nhất lực lượng để chống Pháp và trở thành Đề đốc trong hàng ngũ nghĩa quân Gò Công. Tháng 10 năm 1862, Pháp tấn công đồn
57
Bình Cách, bị nghĩa quân đánh trả kịch liệt. Nhận thấy không thể cố thủ lâu ở đây, Võ Duy Dương đưa quân về Giồng Cát, tổng Nhị Bình, phủ Kiến An. Tháng 11 năm ấy, khoảng 1.200 nghĩa quân của Thiên Hộ Dương tấn công quân Pháp tại đồn Thuộc Nhiêu nằm giữa Cai Lậy và Mỹ Tho do Đại úy Taoulé và 50 quân lính canh giữ. Sau chiến thắng này, Võ Duy Dương đưa quân về Giồng Cát rồi đóng quân tại Bình Cách.
Quân Pháp biết tin, mở cuộc tấn công Bình Cách. Võ Duy Dương liệu thế không cố thủ được, đạn dược lại cạn kiệt nên đưa quân về làng Tân Thạnh (tỉnh Gia Định) rồi viết thư cho Trương Định xin cung cấp thêm đạn. Thời gian này, lực lượng nghĩa quân của Võ Duy Dương cơ động tại nhiều nơi. Nhiều cuộc đụng độ đã xảy ra ở Giồng Cát, Giồng Phèn.
Tháng 1 năm 1863, Võ Duy Dương đưa quân về đóng ở rạch Cây Gấu thuộc tổng Đại Mỹ, huyện Kiều Đang, một vị trí rất quan trọng.
Tháng 2 năm 1863, Pháp đem hai chiến thuyền tấn công rạch Cây Gấu, vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của nghĩa quân nên phải rút lui. Sau đó Pháp tiếp tục tấn công hai lần nữa, dùng hoả lực hùng hậu để đàn áp, nghĩa quân yếu thế phải rút vào rừng.
Tháng 3 năm 1863, mọi đường giao thông liên lạc của nghĩa quân đều bị quân Pháp cắt đứt. Lương thực cạn kiệt, nghĩa quân lâm vào
58
tình cảnh khốn đốn. Trước tình hình ấy, Võ Duy Dương đành cho phần lớn nghĩa quân trở về làng cũ, chỉ giữ lại khoảng 100 người sống lưu động nay đây mai đó chờ thời cơ thuận tiện sẽ phát triển đội ngũ.
Năm 1864, Trương Định qua đời, Nguyễn Hữu Huân bị bắt tại An Giang, Võ Duy Dương quyết định mang quân về lập căn cứ ở Đồng Tháp Mười (nay thuộc huyện Tháp Mười), một khu vực hoang vu và xây đồn Bảo An, có chu vi khoảng 52m, tường dày 2m, cao 3m để tiếp tục chiến đấu. Đồng thời, nghĩa quân của ông phối hợp với nghĩa quân của Trương Quyền - con Trương Định - và Achaxoa (thủ lĩnh nghĩa quân người Khmer) hoạt động ở Tây Ninh, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Sau đó, nghĩa quân của Võ Duy Dương tấn công nhiều cứ điểm của Pháp ở Mỹ Trà, Cái Bè, Mỹ Quy, Cái Nứa.
Tháng 4 năm 1866, căn cứ của nghĩa quân bị Pháp liên tục tiến công nhưng vẫn trụ lại được. Trong trận đánh tại Chín Hầm, nghĩa quân bắt được 10 tù binh gồm 3 người Pháp và 7 người Philíppin trong quân phục lính lê dương. Tất cả các tù binh này tình nguyện theo nghĩa quân. Đây là một thắng lợi quan trọng của nghĩa quân trong thời gian hoạt động ở Đồng Tháp Mười.
Tháng 4 năm 1866, Đề đốc hải quân, Thiếu tướng De La Grandière quyết định mở một cuộc hành quân quy mô ở Đồng Tháp Mười để triệt hạ
59
nghĩa quân của Thiên Hộ Dương. Trong cuộc hành quân này, lực lượng của Pháp gồm 100 lính Pháp, 250 lính Việt đặt dưới sự chỉ huy của Đại úy Boubée, Đại úy Pàris De Bollrdière, Đại úy Gally - Pasebose. Được hai tên phản bội Huỳnh Văn Tấn và Trần Bá Lộc dẫn đường, Pháp chia làm ba cánh quân tấn công vào Tháp Mười. Hào lũy và công sự của nghĩa quân bị san phẳng. Tiếp đó, Pháp tấn công Đồn Tả, một cứ điểm của nghĩa quân với 350 nghĩa binh đóng giữ. Sau một cuộc chống trả quyết liệt, nghĩa quân phải rút đi, bỏ lại cả vũ khí và quân dụng. Pháp đuổi theo truy kích, bắt được tại Mỹ Tho nhiều nghĩa quân và một người Pháp
tên là Liguet đã đầu hàng nghĩa quân trước đây. Võ Duy Dương cùng một số nghĩa quân chạy thoát về các tỉnh miền Tây. Lực lượng của ông gần như tan rã. Về cái chết của ông, có tài liệu viết ông phải chạy sang Cao Lãnh rồi bị bệnh và mất ở bên đó. Lại có tài liệu ghi ông về ẩn cư ở Hương Giang rồi qua đời. Cuộc khởi nghĩa thất bại, chấm dứt một giai đoạn quan trọng trong lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta.
Câu hỏi 19: Hãy kể vài nét về cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Huân?
Trả lời:
Nguyễn Hữu Huân còn gọi là Thủ khoa Huân, 60
quê ở làng Tịnh Hà, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang). Ông đậu thủ khoa kỳ thi Hương năm Nhâm Tý (1822) và được bổ làm giáo thụ tại huyện nhà.
Khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông dựng cờ khởi nghĩa, phối hợp với nghĩa quân Võ Duy Dương và Âu Dương Lân hoạt động suốt một vùng từ Tân An đến Mỹ Tho. Nghĩa quân của ông dùng lối đánh du kích khiến quân địch nhiều phen khốn đốn.
Ông là một thủ lĩnh nghĩa quân chiến đấu kiên cường, bền bỉ nhất ở Lục Tỉnh. Ông đã bị địch bắt ba lần, lần đầu khi thoát ra được, ông lại tiếp tục chiêu mộ nghĩa binh chiến đấu. Sau cuộc tấn công thành Mỹ Tho thất bại, ông đem quân về Châu Đốc. Năm 1864, ông bị địch bắt, bị đày sang đảo Reunion (châu Phi). Bảy năm sau, ông được tha về nước, lại cùng Âu Dương Lân kháng chiến ở Định Tường từ năm 1872 đến 1874. Năm 1875, ông bị bắt lần thứ ba. Địch dùng mọi thủ đoạn mua chuộc nhưng không làm lay chuyển được ý chí kiên quyết nổi dậy chống xâm lược của ông, cuối cùng, chúng đưa ông về làng quê để xử tử. Trước giờ hành quyết, ông vẫn ung dung, bình tĩnh đọc mấy vần thơ tuyệt mệnh, động viên lòng yêu nước của dân chúng đang có mặt lúc đó rồi cắn lưỡi tự vẫn, nhất quyết không để cho giặc chém đầu.
61
Cái chết của ông để lại niềm tiếc thương đau xót cho dân chúng. Sau này, ông được dân chúng tôn vinh là vị tướng quân bất khuất:
Vô bố dĩ kinh Hồ lễ phách
Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu.
Nghĩa là:
Cơn giận của ông làm mất vía bọn giặc ngoại xâm
Ông là vị tướng thà mất đầu chứ không hàng giặc.
Câu hỏi 20: Trình bày cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực?
Trả lời:
Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch, quê ở xóm Nghề, làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, phủ Tân An, tỉnh Gia Định, nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Khi Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, ông trực tiếp mộ quân đánh lại, lập nhiều chiến công. Ông được triều đình phong chức quản cơ, lãnh binh.
Khi thực dân Pháp chiếm xong cả sáu tỉnh Nam Kỳ, ông lập căn cứ ở đảo Hòn Chông. Đáng chú ý là trận đánh quân Pháp ở làng Nhật Tảo trên bờ sông Vàm Cỏ Đông. Nơi đây, ngày 10 tháng 12 năm 1861, Nguyễn Trung Trực đã chỉ huy nghĩa binh tiêu diệt pháo hạm Hy Vọng (Espérance) của Hải quân Pháp. Pháo hạm bị đốt
62
cháy, đánh chìm, 37 tên giặc bị diệt. Chiến thắng này đã động viên, khích lệ tinh thần kháng chiến chống xâm lược của nhân dân miền Lục Tỉnh. Để thưởng công, triều đình cử ông về tham gia coi sóc tỉnh Hà Tiên. Khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, ông được cử ra trấn nhậm Phú Yên nhưng ông kháng lệnh và ở lại miền Nam, lập căn cứ chống Pháp. Nghĩa quân chiếm được tỉnh Rạch Giá nhưng không trụ được do lực lượng mỏng, phải rút về đảo Phú Quốc. Tháng 6 năm 1868, nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực tiêu diệt giặc ở đồn Kiên Giang, Rạch Giá nhưng ngay sau đó, giặc điên cuồng phản công, quyết tiêu diệt bằng được nghĩa quân.
Tháng 9 năm 1868, ông bị bắt. Ngày 27 tháng 10 năm 1868 tại Rạch Giá, ông bị giặc đưa ra hành hình. Trước khi chết, ông đã có một câu nói bất hủ: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người nước Nam đánh Tây”.
Câu hỏi 21: Trình bày cuộc khởi nghĩa của Pôcumpao?
Trả lời:
Pôcumpao là một nhà sư người dân tộc Khmer ở Tây Ninh. Năm 1862, thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông. Pôcumpao đã chiêu mộ người Khmer, Stiêng, Mơnông, lập căn cứ ở làng Rây
63
Mêang, đối đầu với quân Pháp ở Tây Ninh, đồng thời phối hợp với nghĩa quân của Trương Định, mở rộng địa bàn kháng Pháp.
Mặc dầu lực lượng non kém nhưng nghĩa quân Tây Ninh vẫn bền bỉ chiến đấu suốt 11 năm trời, từ năm 1864 đến 1875. Nhiều lần, nghĩa quân đã thu được thắng lợi, tạo niềm phấn khởi cho nhân dân. Trận đánh ngày 3 tháng 6 năm 1866, nghĩa quân giết chủ tỉnh Tây Ninh người Pháp tên là Láccơlô. Tiếp đó, trận đánh ngày 11 tháng 6 năm 1866, nghĩa quân diệt được Trung tá Mácsedơ, đánh đuổi cả lực lượng cứu viện lớn của Pháp.
Năm 1864, Trương Định mất, Pôcumpao liên kết với Trương Quyền (con Trương Định) tiếp tục kháng Pháp và chuyển sang hoạt động cả ở vùng đất Khmer để tạo thêm lực lượng.
Năm 1867, Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, đàn áp các tổ chức nghĩa quân. Đêm 3 tháng 12, Pôcumpao bị thương nặng rồi mất. Hai thủ hạ của ông là Amông và Achereng tiếp tục chiến đấu nhưng thế lực yếu dần, đến năm 1875 thì khởi nghĩa tan rã.
Câu hỏi 22: Khi thực dân Pháp bắt đầu tấn công Bắc Kỳ đã gặp phải trở ngại nào?
Trả lời:
Năm 1876, thực dân Pháp bắt đầu tấn công Bắc Kỳ. Tháng 3 năm 1884, thực dân Pháp tấn
64
công và bao vây thành Bắc Ninh, chiếm Yên Thế và vùng thượng du. Sau khi Pháp đặt chân lên mảnh đất này, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra như khởi nghĩa của Cai Kinh, khởi nghĩa của Cai Biền và Tổng Bửu, khởi nghĩa của Lưu Kỳ, Hoàng Thái Nhân, khởi nghĩa của Đội Văn. Tiếp đó là khởi nghĩa của Đề Nắm. Sau khi Đề Nắm mất, Đề Thám thay ông lãnh đạo nghĩa quân Yên Thế kháng Pháp mấy chục năm trời ròng rã. Hoạt động của nghĩa quân đã gây cho Pháp nhiều khó khăn trong một thời gian, khiến Pháp hai lần buộc phải giảng hoà. Tuy nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm nhưng do không có đường lối chiến lược đúng đắn, chưa phối hợp phát động các tầng lớp nhân dân ở khắp nơi nhất loạt nổi dậy nên các cuộc khởi nghĩa cuối cùng đều bị dập tắt.
Câu hỏi 23: Khởi nghĩa Cần Vương diễn ra như thế nào?
Trả lời:
Khởi nghĩa Cần Vương là một phong trào đấu tranh yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược, bùng nổ sau cuộc nổi dậy thất bại của Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết ở kinh đô Huế (ngày 5-
8-1885). Khi ý định khởi nghĩa không thực hiện được, Tôn Thất Thuyết cùng Vua Hàm Nghi rút ra Sơn Phòng, Tân Sở, Quảng Trị, phát hịch Cần
65
Vương, kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên phò vua cứu nước.
Hưởng ứng hịch Cần Vương, nhiều sĩ phu yêu nước đã đứng lên khởi nghĩa. Mở màn cho phong trào là khởi nghĩa của văn thân Hà Tĩnh và Nghệ An do Lê Ninh (Hà Tĩnh), Lê Doãn Nhạ, Nguyễn Xuân Ôn (Nghệ An) lãnh đạo. Tiếp đó là các cuộc
khởi nghĩa:
Khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo.
Khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo.
Khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng, Cao Thắng lãnh đạo.
Khởi nghĩa ở vùng Tây Bắc do Nguyễn Quang Bích lãnh đạo.
Phong trào Cần Vương phát triển qua hai thời kỳ:
1- Thời kỳ Cần Vương có vua (1885 - 1888): Vua Hàm Nghi là linh hồn, là người chỉ huy tối cao của cuộc kháng chiến.
2- Thời kỳ Cần Vương không vua: Sau khi Vua Hàm Nghi bị bắt, cuối năm 1888 cho đến khi phong trào thất bại, không lan rộng như trước mà quy tụ trong một số cuộc khởi nghĩa lớn như khởi nghĩa Hương Khê, Ba Đình - Hùng Lĩnh, Bãi Sậy -
Hai Sông. Cuối năm 1895, khi Phan Đình Phùng mất, phong trào thực sự chấm dứt.
66
Câu hỏi 24: Trình bày cuộc khởi nghĩa Lê Ninh?
Trả lời:
Lê Ninh, hiệu là Mạnh Khang, tên thường gọi là Ấm Ninh, người huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1882, khi Pháp đánh Bắc Kỳ, Lê Ninh đã chiêu mộ nghĩa quân, biến nhà riêng thành đại bản doanh. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi, nghĩa quân của Lê Ninh đã giết tên tay sai của Pháp, bố chánh Hà Tĩnh Lê Đại rồi đem quân phối hợp với nghĩa quân của Phan Đình Phùng hoạt động chống Pháp ở Hương Sơn. Sau ông bị bệnh mất, nghĩa binh của ông tham gia vào các đội quân khởi nghĩa khác.
Câu hỏi 25: Trình bày cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn?
Trả lời:
Nguyễn Xuân Ôn hiệu Ngọc Đường, Hiến Đình, người xã Lương Điền, huyện Đông Thành (nay là xã Diễn Thái, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An). Ông đỗ tiến sĩ năm 1871, từng làm quan với các chức: tri phủ, đốc học, ngự sử, biện lý.
Hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông cùng Lê Doãn Nhã, quê làng Tràng Sơn, xã Sơn Thành,
67
huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An và Đinh Nhật Tân nổi lên khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Diễn Châu sau lan sang Vinh và lưu vực sông Cả. Ông được phong làm An Tĩnh Hiệp thống quân vụ đại thần, lãnh đạo nghĩa quân chống giặc, lập căn cứ ở vùng núi Yên Thành, Nghệ An.
Năm 1885, nghĩa quân hoạt động mạnh ở các huyện Anh Sơn, Đô Lương, Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu. Đồn Vàng trở thành căn cứ của nghĩa quân. Ngày 25 tháng 5 năm 1887, Nguyễn Xuân Ôn bị bắt, bị quản thúc ở Huế, ông mắc bệnh nặng rồi mất. Khởi nghĩa tan rã.
Câu hỏi 26: Trình bày cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Quang Bích?
Trả lời:
Nguyễn Quang Bích gốc họ Ngô, tự Hàm Huy, hiệu Ngư Phong. Ông người làng Trình Phố, tổng An Bồi, huyện Chân Định (nay thuộc xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình). Ông đỗ Hoàng giáp, làm quan ở nhiều nơi rồi về làm Tuần phủ Hưng Hoá.
Năm 1882, thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông đứng lên phát động khởi nghĩa. Năm 1883, thực dân Pháp
68
tấn công Hưng Hoá, nghĩa quân của ông kiên quyết đánh trả nhưng thất bại phải rút lên Tây Bắc, lập căn cứ kháng chiến ở Văn Chấn, sau chuyển về Yên Lập. Ông hai lần sang Trung Quốc gặp Tôn Thất Thuyết bàn kế hoạch chống Pháp, mua vũ khí và phối hợp hoạt động với nhiều nhóm nghĩa quân khác ở Bắc Kỳ như nhóm nghĩa quân của Đốc Ngữ, Nguyễn Văn Giáp. Nghĩa quân của ông đã đánh nhiều trận ở vùng thượng lưu sông Hồng và sông Đà, tập kích và phục kích quân địch ở Thanh Mai vào năm 1885, ở Tuần Quán, Tiên Động năm 1886, ở Đại Lịch và Nghĩa Lộ năm 1887.
Ông chủ trương đánh Pháp lâu dài, không chịu tuân lệnh của triều đình bãi binh. Ông bị bệnh và mất tại căn cứ ở vùng Quế Sơn, Phú Thọ. Năm 1890, cuộc khởi nghĩa tan rã.
Câu hỏi 27: Trình bày cuộc khởi nghĩa của Đèo Văn Trị?
Trả lời:
Không rõ năm sinh, năm mất của Đèo Văn Trị, chỉ biết ông là thủ lĩnh người Thái lãnh đạo dân chúng nổi lên chống Pháp ở vùng Tây Bắc Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Một trong những trận đánh nổi tiếng nhất của ông là trận đánh ở Bình
69
Lư, một vị trí chiến lược quan trọng án ngữ trên đường Lào Cai, Lai Châu và Phong Thổ đi Than Uyên (Nghĩa Lộ).
Hưởng ứng phong trào Cần Vương, Đèo Văn Trị lãnh đạo các sắc dân thiểu số nổi dậy chống Pháp, đặt căn cứ ở Bình Lư, một vị trí chiến lược quan trọng án ngữ trên đường Lào Cai - Lai Châu và Phong Thổ (Lai Châu) đi Than Uyên (Lai Châu). Đèo Văn Trị liên kết với Nguyễn Văn Giáp và Ngô Quang Bích (còn gọi là Nguyễn Quang Bích)
chống Pháp.
Tháng 4 năm 1886, một toán quân Pháp do Trung úy Aymerich chỉ huy tấn công vào Tân Uyên, quân khởi nghĩa rút về Bình Lư. Tới tháng 11 năm 1886, 500 quân Pháp do quan ba Olivier và Quang Phong chỉ huy đánh vào Bình Lư, nghĩa quân phải rút về Mường Bo. Tuy quân Pháp chiến thắng, nhưng chúng cũng bị thiệt hại nặng.
Tháng 1 năm 1887, Thiếu tá Pelletier chỉ huy một cánh quân đánh vào Mường Bo, quân khởi nghĩa rút về Sa Pa. Tháng 2 năm 1887, quân Pháp truy kích đến Sa Pa, nghĩa quân rút về Lai Châu rồi từ đó hoạt động chống Pháp ở địa bàn Sơn La và Lai Châu. Trên đường mang quân truy quét Đèo Văn Trị, Thiếu tá Pelletier đánh chiếm huyện
70
Phong Thổ và dùng nơi đây làm căn cứ hành quân trong vùng Bảo Hà và Bình Liêu. Tháng 3 năm 1887, quân Pháp chiếm huyện Bát Xát và xây thành đồn Bát Xát.
Sau đó, do tình hình ngày càng khó khăn, ông rút quân về Lai Châu và năm 1890, phải buộc đầu hàng quân Pháp. Cuộc khởi nghĩa tan rã.
Câu hỏi 28: Trình bày cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Phạm Tuân, Lê Trực?
Trả lời:
Khoảng những năm 1885 - 1888, ở quanh vùng Quảng Bình có ba nhóm nghĩa quân hoạt động hưởng ứng chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi. Một nhóm do Tôn Thất Đạm chỉ huy, một
nhóm do Nguyễn Phạm Tuân chỉ huy đóng quân ở huyện Tuyên Hoá và một nhóm do Lê Trực chỉ huy đóng ở Thanh Thủy, huyện Tuyên Chánh.
Cuối năm 1886, quân Pháp tổ chức lại hệ thống đồn bốt, liên tục tổ chức các cuộc hành quân để đàn áp nghĩa quân. Đại úy Pháp là Mouteaux đến Quảng Khê, tổ chức lại hệ thống đồn bốt, thiết lập một đồn chiến lược ở Minh Cầm, phía trên làng Thanh Thủy. Mouteaux một mặt chiêu hàng Lê Trực, mặt khác mở các cuộc tấn công lớn vào lực lượng nghĩa quân của Nguyễn Phạm Tuân
71
đóng tại làng Yên Hương với khoảng gần 200 nghĩa quân trấn giữ.
Tháng 4 năm 1887, Pháp bất ngờ tấn công nhóm nghĩa quân của Nguyễn Phạm Tuân. Nghĩa quân không kịp trở tay, thủ lĩnh nghĩa quân Nguyễn Phạm Tuân bị trúng đạn vào mạng sườn và bị địch bắt. Tuy bị thương nặng nhưng
Nguyễn Phạm Tuân vẫn không ngừng nguyền rủa lũ giặc cướp nước, cuối cùng ông mất vì vết thương quá nặng.
Trong khi đó, Pháp vẫn cố công chiêu hàng nhóm nghĩa quân của Lê Trực, bởi nhóm nghĩa quân này khiến quân Pháp vô cùng lo ngại. Lê Trực có uy tín rất lớn đối với nhân dân, đồng thời ông nắm rất vững địa thế ở Thanh Thủy - vùng đất quê hương ông và hơn nữa, theo tin tình báo, Pháp biết nhóm nghĩa quân này có thực lực khá hùng hậu so với quân đội của triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ. Lực lượng của nghĩa quân gồm 2.000 quân, có khoảng 50 khẩu súng, 8 khẩu đại bác và giáo, mác, cung tên. Chính vì lý do này nên Pháp tìm cách mua chuộc vị thủ lĩnh nghĩa quân Lê Trực nhưng không thành. Tuy nhiên, sau khi nghĩa quân của Nguyễn Phạm Tuân bị đánh bại, nghĩa quân của Lê Trực đã lâm vào tình thế cô lập vô cùng khó khăn. Lê Trực quyết định phải rút quân về vùng xa.
72
Đêm 18 rạng ngày 19 tháng 6 năm 1887, Pháp phát hiện ra một đồn trại của nghĩa quân trong vùng rừng núi Thanh Thủy. Viên đại úy Pháp đã điều động 11 lính Bắc Phi, 10 lính tập đột kích đồn trại này, bắt được 12 nghĩa binh và phó tướng của Lê Trực là Lãnh binh Phạm Tương. Lê Trực trốn thoát, Lãnh binh Phạm Tương bị chém bêu đầu ở chợ và 12 nghĩa binh đều bị xử bắn. Sau đó, Pháp liên tục truy kích nghĩa quân của Lê Trực, bệnh tật, đói rét khiến nhiều nghĩa quân không chịu đựng nổi, lực lượng nghĩa quân ngày càng giảm sút. Đầu tháng 11, Vua Hàm Nghi bị Pháp bắt do Trương Quang Ngọc phản bội. Lê Trực vô cùng tuyệt vọng, nghĩa quân của ông từ chỗ có 2.000 người nay chỉ còn khoảng 100 người. Để tránh tổn thất nặng nề cho đám nghĩa binh, Lê Trực giải tán nghĩa quân, về quê sống ẩn dật. Cuộc khởi nghĩa tan rã.
Câu hỏi 29: Khởi nghĩa ở vùng hạ lưu sông Đà do ai lãnh đạo? Hãy trình bày về cuộc khởi nghĩa này?
Trả lời:
Khởi nghĩa ở vùng hạ lưu sông Đà do Nguyễn Đức Ngữ tức Đốc Ngữ lãnh đạo. Ông quê ở xã Xuân Phú, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội). Năm 1873, nghĩa quân
73
do ông lãnh đạo đã lập được nhiều chiến công khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Vì có công đánh Pháp nên ông được triều đình thăng chức đốc binh. Năm 1882, ông tham gia đánh trận Cầu Giấy.
Sau khi triều đình Huế đầu hàng Pháp, ông vẫn tiếp tục chiến đấu trong đội quân khởi nghĩa của Nguyễn Quang Bích và Đề Kiều. Năm 1890, Nguyễn Quang Bích mất, ông giữ vai trò lãnh đạo, đưa quân về vùng hạ lưu sông Đà, hoạt động suốt từ Sơn Tây đến Hoà Bình, Thanh Hoá, phối hợp với nghĩa quân của Tống Duy Tân. Nghĩa quân của Đốc Ngữ ghi được nhiều chiến công ở chợ Bờ, Hoà Bình.
Để tiêu diệt nghĩa quân, Pháp thực hiện âm mưu chia rẽ người Kinh và người Mường, rồi cho người ám sát ông. Khởi nghĩa ở vùng sông Đà tan rã.
Câu hỏi 30: Trình bày cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng?
Trả lời:
Mai Xuân Thưởng là một sĩ phu yêu nước kháng Pháp cuối thế kỷ XIX. Ông quê ở thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tuy Viễn (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định, đỗ cử nhân năm 1884. Năm 1885, khi chiếu Cần Vương được ban
74
ra, ông cùng Đào Doãn Địch, Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận chiêu tập nghĩa binh nổi dậy chống Pháp. Ông giữ cương vị tổng chỉ huy, được nghĩa quân tôn là Mai nguyên soái. Nhiều thân sĩ ở địa phương như Nguyễn Cang, Võ Trứ, Nguyễn Trọng Trì, Tăng Doãn Văn đã hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của ông. Ông lập căn cứ ở Bình Sơn, liên lạc với các đội quân khởi nghĩa khác để mở rộng địa bàn hoạt động. Cuộc khởi nghĩa lan rộng ra Phú Yên, Quảng Ngãi, nghĩa quân trừng trị nhiều quan lại và tay sai của Pháp.
Những ngày đầu, nghĩa quân lập được nhiều chiến công. Nghĩa quân làm chủ Phú Yên một thời gian nhưng vào tháng 3 năm 1886, Pháp phái một đội quân do tên tay sai Trần Bá Lộc chỉ huy mở cuộc hành quân mà mục tiêu lớn nhất là tiêu diệt nghĩa quân của Mai Xuân Thưởng. Ngày 15 tháng 4 năm 1886, Trần Bá Lộc bắt được Nguyễn Tấn Hanh, cố vấn thân cận của thủ lĩnh nghĩa quân và nhiều chỉ huy. Tháng 5 năm 1866, Mai Xuân Thưởng bị Bá Lộc bắt. Ông được dẫn đến gặp viên Đại tá Pháp Dumas. Sau này, viên đại tá đã kể, thái độ của viên thủ lĩnh nghĩa quân đầy phẩm cách, khiến viên sĩ quan Pháp rất kính nể ông.
Việc Mai Xuân Thưởng bị bắt gây xôn xao lớn trong tỉnh Bình Định. Ngày 7 tháng 6 năm 1887, Mai Xuân Thưởng và 10 chiến hữu bị giặc giết.
75
Phong trào khởi nghĩa bị đàn áp, dân chúng ở Bồng Sơn, Lâm An, Đồng Chu, Lại Giang bị đàn áp khốc liệt. Cuộc khởi nghĩa thất bại, chấm dứt một giai đoạn oanh liệt trong trang sử kháng Pháp ở Bình Định, Phú Yên.
Có tài liệu ghi, trước khi chết, Mai Xuân Thưởng đã làm bài thơ cảm khái:
Chết nhân tiếng tốt bia ngàn thuở
Chết nghĩa danh thơm rạng mấy đời.
Thà chịu chết trong hơn sống đục
Chết nào có sợ, chết như chơi.
Câu hỏi 31: Hãy kể về khởi nghĩa Võ Trứ? Trả lời:
Khởi nghĩa Võ Trứ năm 1898 là khởi nghĩa của các tăng đạo và nhân dân miền núi ở Phú Yên. Võ Trứ quê ở làng Nhơn An, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, là một nhà sư tu ở chùa Đá Bạc, Phú Yên, trước đã từng tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng nổi dậy chống xâm lược.
Sau khi Mai Xuân Thưởng thất bại, Võ Trứ hợp tác cùng Trần Cao Vân, người làng Tư Phúc, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam để đánh Pháp. Năm 1898, nghĩa quân đánh toà sứ Pháp ở sông Cầu nhưng thất bại. Bị bao vây, nghĩa quân phải rút vào rừng. Pháp phóng hoả đốt rừng. Võ Trứ
76
tự đứng ra nhận trách nhiệm để tránh thảm họa cho nhân dân và ông đã hy sinh. Cuộc khởi nghĩa tan rã.
Câu hỏi 32: Cuộc khởi nghĩa Hương Khê do ai lãnh đạo? Hãy trình bày về cuộc khởi nghĩa này?
Trả lời:
Cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Phan Đình Phùng có hiệu là Châu Phong, người làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ tiến sĩ năm 1877, giữ chức tri huyện Yên Khánh, Ninh Bình rồi về Huế giữ chức ngự sử. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông được Vua Hàm Nghi cử giữ chức Hiệp thống quân vụ, lãnh đạo quân Cần Vương chống Pháp ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
Cuộc khởi nghĩa có tên là Hương Khê vì đây là tên huyện của vùng Ngàn Trươi - căn cứ đầu tiên của nghĩa quân. Lúc đầu Phan Đình Phùng tổ chức đánh Pháp ở hai huyện Hương Sơn và Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Sau đó, địa bàn hoạt động của nghĩa quân ngày càng mở rộng, bao gồm Nghệ Tĩnh và một phần Quảng Bình, Thanh Hoá. Phan Đình Phùng giao cho Cao Thắng có nhiệm vụ tổ chức và xây dựng phong trào ở Nghệ Tĩnh, còn ông
77
ra Bắc vận động thống nhất lực lượng chống Pháp. Năm 1888, Phan Đình Phùng trở về trực tiếp lãnh đạo phong trào khiến thanh thế của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh.
Khởi nghĩa Hương Khê phát triển qua hai thời kỳ: 1885 - 1888 là thời kỳ xây dựng và tổ chức; 1889 - 1895 là thời kỳ chiến đấu của nghĩa quân. Phan Đình Phùng bố trí căn cứ phòng ngự vững chắc, tổ chức chiến đấu linh hoạt, sử dụng chiến thuật dựa vào núi rừng hiểm trở, công sự kiên cố,
phối hợp với lối đánh du kích để tiêu diệt địch. Dựa vào địa thế hiểm trở, ông chủ trương xây dựng bốn căn cứ lớn:
- Căn cứ Cồn Chùa, án ngữ đường sang Nghệ An.
- Căn cứ Thượng Bồng, Hạ Bồng được xây dựng dựa vào địa thế của hai sông Ngàn Sâu và Ngàn Trươi. Căn cứ này có nhiều hệ thống hào lũy, đồn trại, kho lương và bãi tập.
- Căn cứ Trùng Khê, Trí Khê là căn cứ dự bị, có đường rút sang Lào phòng khi bị giặc bao vây. - Căn cứ Vụ Quang nằm sâu trong vùng rừng núi, giáp Lào, là căn cứ lớn nhất trong giai đoạn cuối cùng.
Về tổ chức lực lượng, Phan Đình Phùng chia quân thành 15 quân thứ: Hà Tĩnh có 10 quân thứ, Nghệ An có 2 quân thứ, Quảng Bình có 2 quân thứ và Thanh Hoá có 1 quân thứ. Mỗi
78