🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hỏi – Đáp Các Quyền Cơ Bản Của Dân Tộc Thiểu Số Theo Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG
Phó Chủ tịch Hội đồng
Q. Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
NGUYỄN ĐỨC TÀI
NGUYỄN NGUYÊN
NGUYỄN HOÀI ANH
Nhóm biên soạn:
HOÀNG XUÂN LƯƠNG (Chủ biên) NGUYỄN HÀ ANH
VŨ LÂM QUÂN
Hiệu đính:
ĐỖ XUÂN LÂN
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Quyền của dân tộc thiểu số là một trong những quyền cơ bản của con người, được pháp luật quốc tế ghi nhận và nội luật hóa trong pháp luật quốc gia theo điều kiện đặc thù của đất nước. Ở Việt Nam, quyền cơ bản của dân tộc thiểu số luôn được Đảng và Nhà nước ta quán triệt và thực hiện nhất quán, đồng thời được bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Với 54 dân tộc cùng chung sống, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc... Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình... và tất cả các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân (trong đó có quyền của dân tộc thiểu số) cũng được quy định tại Chương II của Hiến pháp.
Cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm các dân tộc
5
bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, bảo đảm các quyền cơ bản của đồng bào dân tộc thiểu số trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, trong những năm qua, quyền của người dân tộc thiểu số ở nước ta ngày càng được quy định đầy đủ trong nhiều chính sách phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số; trong các bộ luật, luật và các văn bản dưới luật.
Nhằm giúp bạn đọc, trước hết là bạn đọc tại các cơ sở xã, phường, thị trấn nắm được những nội dung cơ bản về quyền của dân tộc thiểu số trong các văn kiện pháp lý quốc tế, đặc biệt là trong pháp luật Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản cuốn sách Hỏi - đáp các quyền cơ bản của dân tộc thiểu số theo quy định pháp luật Việt Nam do tác giả Hoàng Xuân Lương làm chủ biên. Cuốn sách được biên soạn với những câu hỏi và trả lời theo hai phần:
Phần I. Khái quát chung về dân tộc thiểu số và quyền của người dân tộc thiểu số.
Phần II. Các quyền cơ bản của người dân tộc thiểu số theo quy định pháp luật Việt Nam. Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 10 năm 2018
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, quan điểm chiến lược của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân tộc là nhất quán theo nguyên tắc “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Điều này, một mặt thể hiện trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số; mặt khác, cho thấy việc giải quyết vấn đề dân tộc là đòi hỏi cấp thiết cần có những quyết sách kịp thời, phù hợp trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Việc luật hóa quyền của người dân tộc thiểu số cũng trên quan điểm chiến lược này.
Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bình đẳng về quyền có nghĩa là mọi thành viên trong cộng đồng đều có cơ hội được hưởng các quyền như nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh, năng lực sẵn có như nhau. Người dân tộc thiểu số ở nước ta là công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có quyền
7
hưởng những quyền con người, quyền công dân được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, do có những đặc thù về địa bàn cư trú và điều kiện phát triển, nên để bảo đảm và thúc đẩy sự bình đẳng thực sự trong thực hiện các quyền con người và quyền công dân đối với dân tộc thiểu số, pháp luật nước ta còn có những quy định mang tính riêng có đối với người dân tộc thiểu số - đó thực chất là quyền được phát triển bình đẳng.
Thừa nhận và bảo đảm các quyền của dân tộc thiểu số đối với một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam là vấn đề mang tính chiến lược để phát triển đất nước - nhất là trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay, khi mà những thế lực thù địch luôn lợi dụng cơ hội để phá hoại, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước.
Nâng cao nhận thức của Nhân dân và cán bộ ở cơ sở về các quyền cơ bản của đồng bào các dân tộc thiểu số để từ đó phát huy nội lực của người dân trong tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia giám sát việc thực hiện những chương trình, kế hoạch kinh tế - xã hội của địa phương, cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác dân tộc. Cuốn sách Hỏi - đáp các quyền cơ bản của dân tộc thiểu số theo quy định pháp luật Việt Nam, được biên soạn xuất phát từ những lý do như vậy.
Có thể nhận thấy, quyền con người, quyền công dân nói chung và quyền của người dân tộc thiểu số nói riêng ở nước ta được pháp luật quốc gia ghi
8
nhận và bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống văn bản pháp luật, bao gồm Hiến pháp, những bộ luật, luật chuyên ngành cùng những văn bản mang tính pháp quy có liên quan.
Trong cuốn sách này chúng tôi giới thiệu những quyền mang tính riêng có của dân tộc thiểu số thuộc các lĩnh vực: dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Rất mong được độc giả đón nhận.
CÁC TÁC GIẢ
9
10
Phần I
KHÁI QUÁT CHUNG
VỀ DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ QUYỀN CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
I. QUAN ĐIỂM CỦA QUỐC TẾ VỀ DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ QUYỀN CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Câu hỏi 1: Thuật ngữ “dân tộc thiểu số” được hiểu thế nào? Dân tộc thiểu số được nhận biết thông qua những đặc trưng gì? Trả lời:
Thuật ngữ “dân tộc thiểu số” được sử dụng chính thức trong các văn kiện pháp lý quốc tế và pháp luật các quốc gia. Tùy theo lĩnh vực nghiên cứu hay quan điểm của mỗi quốc gia, thuật ngữ “dân tộc thiểu số” được hiểu khác nhau. Năm 1992, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua thuật ngữ “dân tộc thiểu số” dựa trên quan điểm của GS. Francesco Capotorti (đặc phái viên của Liên hợp quốc) đưa ra năm 1977: “Dân tộc thiểu số” là thuật ngữ chỉ một nhóm người: (a) Cư trú trên lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền mà họ là công dân của quốc gia này; (b) Duy trì mối quan hệ lâu
11
dài với quốc gia mà họ đang sinh sống; (c) Thể hiện bản sắc riêng về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ của họ; (d) Đủ tư cách đại diện cho nhóm dân tộc của họ, mặc dù số lượng ít hơn trong quốc gia này hay tại một khu vực của quốc gia này; (e) Có mối quan tâm đến vấn đề bảo tồn bản sắc chung của họ, bao gồm cả yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo và ngôn ngữ của họ”1.
Có thể thấy “dân tộc thiểu số” là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều lĩnh vực, ngành khoa học khác nhau trên thế giới, trong đó có khoa học pháp lý. Trên thực tế, thuật ngữ “dân tộc thiểu số” chỉ có ý nghĩa biểu thị tương quan về dân số trong một quốc gia đa dân tộc.
Quan niệm “dân tộc thiểu số” và “dân tộc đa số” cũng như nội hàm của chúng hiện nay còn có những vấn đề chưa thống nhất và được vận dụng xem xét rất linh hoạt trong từng điều kiện cụ thể, tùy theo quan niệm và mối quan hệ so sánh về dân số của mỗi quốc gia. Song, nội dung được quan niệm như đã nói trên về cơ bản là tương đối thống nhất không chỉ ở nước ta mà trong cả giới nghiên cứu dân tộc học trên thế giới.
Dân tộc thiểu số thường được nhận biết thông qua những đặc trưng chủ yếu sau đây: - Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế.
1. Minority Rights: International Standards and Guidance for Implementation (HR/PUB/10/3).
12
Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc (tộc người). Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.
- Có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia, hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh của mỗi tộc người là một phần rất quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.
- Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (bên cạnh ngôn ngữ, chữ viết chung của quốc gia), có quyền sử dụng trong giao tiếp dân sự và trong lĩnh vực pháp lý.
- Có nét tâm lý riêng (tâm lý tộc người), mang bản sắc văn hóa tộc người.
Câu hỏi 2: Thế nào là quyền của người dân tộc thiểu số? Quyền của người dân tộc thiểu số có những tính chất cơ bản gì?
Trả lời:
Dựa trên quan điểm về thuật ngữ “dân tộc thiểu số” như đã đề cập ở phần trên, có thể hiểu, “người dân tộc thiểu số” trước hết thuộc nhóm người thiểu số, là cá thể trong một nhóm/một tộc người dân tộc thiểu số. Họ cùng tộc người của mình sống trên một quốc gia hoặc địa phương nhất định, có những đặc điểm đồng nhất về chủng tộc, tín ngưỡng, ngôn ngữ và truyền thống, có sự giúp đỡ lẫn nhau và có quan điểm thống nhất trong việc bảo lưu những
13
yếu tố truyền thống, duy trì tôn giáo, tín ngưỡng và hướng dẫn, giáo dục trẻ em trong cộng đồng theo tinh thần và truyền thống của chủng tộc họ1. Theo các công ước quốc tế, người dân tộc thiểu số được hưởng những quyền của con người và những quyền của nhóm người thiểu số. Trong mỗi quốc gia, họ có quyền có quốc tịch và có quyền được xác định dân tộc theo quy định pháp luật của quốc gia mà họ sống.
Quyền của người dân tộc thiểu số được quốc tế chính thức ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc (UDHR) năm 1948: Mọi người sinh ra đều được hưởng tất cả các quyền và tự do, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội (Điều 2); và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966: Tại những nước có nhiều nhóm dân tộc thiểu số, tôn giáo và ngôn ngữ cùng chung sống, thì những cá nhân thuộc các dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và các nhóm thiểu số đó, cùng với những thành viên khác của cộng đồng mình, không thể bị tước bỏ quyền được thụ hưởng nền
1. Xem thêm: Lê Xuân Trình (Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội): Quyền của người dân tộc thiểu số theo quy định của luật pháp quốc tế và Việt Nam (Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2015), http://repository.law.vnu.edu.vn/.
14
văn hóa riêng, quyền được thể hiện và thực hành tôn giáo riêng hoặc quyền được sử dụng tiếng nói riêng của họ (Điều 27). Như vậy, dưới góc độ pháp lý, “quyền của người dân tộc thiểu số” trước hết là những quyền cơ bản của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Thuật ngữ “quyền con người” hay “nhân quyền” là một phạm trù đa diện, phức tạp, với nhiều góc tiếp cận, tương ứng là nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau. Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc, quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người1.
Từ góc độ lý luận và pháp luật, quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế2. Đây là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ, chứa đựng những giá trị nhân văn cao
1. OHCHR, Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, tr.1.
2. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội: Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.38.
15
quý của toàn nhân loại, kết tinh từ tinh hoa văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới; là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi người. Quyền con người là vốn có cho tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại. Do vậy, quyền con người là quyền phổ quát và không thể tách rời của cá nhân con người; không thể tước đoạt các quyền này khỏi con người. Chỉ có thể hạn chế việc thực thi một số quyền con người trong những tình huống nhất định.
Như vậy, tiếp cận ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tuân thủ.
Đối với quyền của dân tộc thiểu số, chủ thể hưởng thụ quyền là các dân tộc thiểu số trong một quốc gia. Mỗi quốc gia có trách nhiệm bảo đảm cho dân tộc thiểu số trong quốc gia của mình được hưởng thụ quyền dựa trên điều kiện đặc thù của đất nước. Người dân tộc thiểu số có đầy đủ các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa như mọi người và mọi công dân trong quốc gia của họ, hoàn toàn bình đẳng và không có sự phân biệt đối xử.
Thuộc quyền con người, quyền của người dân tộc thiểu số có các tính chất cơ bản, như: tính phổ biến, tính không thể tước bỏ, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
16
Trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền nói chung ở cấp độ toàn cầu và khu vực, có nhiều văn kiện ghi nhận một cách trực tiếp hoặc gián tiếp quyền của người dân tộc thiểu số. Ở cấp độ toàn cầu, trong khuôn khổ Liên hợp quốc, phải kể đến các văn kiện:
- Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948.
- Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965.
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.
- Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966.
- Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992.
Câu hỏi 3: Các vấn đề có tính nguyên tắc trong việc ghi nhận và bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số được quy định thế nào? Trả lời:
Vấn đề có tính nguyên tắc trong việc ghi nhận và bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số, đó là: - Bình đẳng, không phân biệt đối xử: Có thể thấy rằng tất cả các văn kiện quốc tế quan trọng về nhân quyền, đặc biệt là tại các văn kiện về quyền của nhóm người dễ bị tổn thương và người dân tộc
17
thiểu số đều có quy định trực tiếp về nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử như là cơ sở tiên quyết bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của người dân tộc thiểu số nói riêng được ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế.
- Vai trò tích cực của các quốc gia: Có thể thấy rằng, trong việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, đặc biệt là đối với người dân tộc thiểu số, bên cạnh cơ chế quốc tế và khu vực, các quốc gia có vai trò quyết định. Tuy lựa chọn các mô hình tương đối khác nhau, nhưng các quốc gia thường có cơ quan chuyên trách bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền.
Câu hỏi 4: Trong các điều ước quốc tế, những quyền cơ bản nào của người dân tộc thiểu số được ghi nhận và bảo vệ?
Trả lời:
Phù hợp với tính phổ quát của quyền con người, trong các văn kiện quan trọng nhất của Liên hợp quốc, người dân tộc thiểu số trước hết được hưởng tất cả các quyền con người được cộng đồng quốc tế ghi nhận trên cơ sở bình đẳng, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Họ được bảo đảm tất cả các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa.
Xuất phát từ những đặc điểm vốn có cũng như thực trạng trong việc bảo đảm quyền, luật pháp
18
quốc tế nhấn mạnh những nhóm quyền cơ bản của người dân tộc thiểu số cần được thúc đẩy và bảo vệ trong phạm vi toàn cầu. Đây là những nhóm quyền cơ bản liên quan chặt chẽ đến người dân tộc thiểu số, là tiền đề quan trọng để bảo đảm các quyền khác của họ, đó là:
- Quyền có quốc tịch, được xác định dân tộc: Việc thúc đẩy và bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số luôn gắn liền với một quốc gia có chủ quyền và vai trò quan trọng thuộc về các quốc gia. Do vậy, trước hết họ cần có quốc tịch và được công nhận là dân tộc thiểu số. Quyền có quốc tịch, được xác định dân tộc là tiền đề quan trọng để bảo đảm mọi quyền khác của người dân tộc thiểu số.
- Quyền tham gia quản lý đất nước: Quyền tham gia quản lý đất nước được ghi nhận lần đầu trong Điều 21 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc. Theo đó, mọi người đều có quyền tham gia quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ được tự do lựa chọn... (khoản 1).
Rõ ràng, thực hiện việc bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước là cách trực tiếp có hiệu quả nhất để người dân tộc thiểu số thực hiện các quyền chính trị của mình qua thiết chế các cơ quan nhà nước. Bình đẳng về chính trị là cơ sở và là điều kiện bảo đảm
19
cơ hội bình đẳng phát triển mọi mặt đời sống xã hội cho người dân tộc thiểu số.
- Quyền đối với văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ: Có thể thấy rằng đây là nhóm quyền đặc trưng của người dân tộc thiểu số cần được bảo vệ, nhóm quyền này được ghi nhận một cách chuyên biệt trực tiếp tại Điều 27 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 và tại Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 của Liên hợp quốc (Điều 1, Điều 2, Điều 4).
Văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ là linh hồn của các dân tộc thiểu số, đây cũng là những đặc trưng quan trọng khi xác định dân tộc. Chính vì vậy, quyền của người dân tộc thiểu số đối với văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ của họ cần được thúc đẩy và bảo vệ ở cấp độ toàn cầu.
- Quyền được giáo dục: Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 khẳng định, quyền được giáo dục là quyền đặc biệt quan trọng của người thiểu số đòi hỏi các quốc gia phải quan tâm (Điều 4).
Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 khẳng định việc đảm bảo quyền được giáo dục đào tạo (điểm e khoản 5 Điều 5) như một biện pháp quan trọng trong chính sách
20
của quốc gia thành viên cam kết sẽ cấm và xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức và bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia hay sắc tộc.
- Quyền được chăm sóc sức khỏe: Nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe được nêu tại Điều 25 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc. Nội dung này, sau đó được cụ thể hóa ở nhiều văn kiện quốc tế khác, như: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (Điều 10, Điều12); Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979 (Điều 11, Điều 12, Điều 14); Tuyên bố Viên và Chương trình hành động thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai năm 1993; Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 (điểm d khoản 5 Điều 5).
Quyền được chăm sóc sức khỏe, được tiếp cận các dịch vụ y tế là quyền cơ bản của tất cả mọi người trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử. Mọi người có quyền được hưởng tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe cao nhất có thể được. Đối với người dân tộc thiểu số và nhóm người “dễ bị tổn thương” và “dễ bị bỏ quên”, như: phụ nữ, trẻ em, người tàn tật... khi mà điều kiện được tiếp cận các dịch vụ y tế còn rất hạn chế thì quyền được chăm sóc sức khỏe
21
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là quyền không thể thiếu để thực hiện các quyền khác.
- Quyền được hưởng an sinh xã hội: Cũng như quyền được giáo dục và quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được hưởng an sinh xã hội của người dân tộc thiểu số được ghi nhận tại Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 (điểm d khoản 5 Điều 5) như một biện pháp quan trọng trong chính sách của quốc gia thành viên cam kết sẽ cấm và xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức và bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia hay sắc tộc.
- Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng hoặc tôn giáo: Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng hoặc tôn giáo của người dân tộc thiểu số được ghi nhận tại Điều 27 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966; Điều 2 Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992; điểm g khoản 4 Điều 5 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965.
- Quyền lập hội, tự do hội họp: Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 ghi nhận: “quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình” của người dân tộc thiểu số
22
tại điểm i khoản 4 Điều 5. Tiếp đó, Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 ghi: Những người thuộc các nhóm thiểu số có quyền thành lập và duy trì các hội riêng của họ (khoản 4 Điều 2).
- Quyền tự do đi lại, cư trú: Tại Điều 5 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, quy định người dân tộc thiểu số có quyền tự do đi lại và cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia (điểm a khoản 4); quyền được xuất cảnh khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả nước mình, và quay trở lại nước mình (điểm b khoản 4).
II. DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ QUYỀN
CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM
Câu hỏi 5: Dân tộc thiểu số ở Việt Nam có những đặc điểm gì?
Trả lời:
Ở Việt Nam, thuật ngữ “dân tộc thiểu số” được sử dụng trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật cũng như trong công tác nghiên cứu, học tập và trong hoạt động thực tiễn. Điều 4 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14-01-2011 của Chính phủ về công tác dân tộc (gọi tắt là Nghị định số 05/2011/
NĐ-CP) giải thích thuật ngữ “dân tộc thiểu số” và những thuật ngữ có liên quan, theo đó:
23
- Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 2).
- Dân tộc thiểu số rất ít người là dân tộc có số dân dưới 10.000 người (khoản 5).
- Dân tộc đa số là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, theo điều tra dân số quốc gia (khoản 3).
- Vùng dân tộc thiểu số là địa bàn có đông các dân tộc thiểu số cùng sinh sống ổn định thành cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 4).
Ở nước ta có 54 dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc Kinh là dân tộc đa số, 53 dân tộc khác là dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số Việt Nam sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi (chiếm 3/4 diện tích đất tự nhiên của cả nước), đây là những địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái của đất nước. Có thể khái quát đặc điểm chung của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam như sau:
Một là, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có quy mô dân số và trình độ phát triển kinh tế, xã hội không đồng đều, với sự chênh lệch khá lớn về điều kiện sống, mức sống giữa các dân tộc và giữa các vùng địa lý khác nhau.
24
Theo Điều tra về thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam năm 2015 của Tổng cục Thống kê, 53 dân tộc thiểu số ở nước ta có số dân là 13,38 triệu người, chiếm 14,58% dân số cả nước. Trong các dân tộc thiểu số, có những dân tộc có số dân trên một triệu người, như: Tày, Thái, Mường, Khmer, Nùng, Hmông; và có những dân tộc chỉ có số dân dưới 1.000 người, như: Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu, Ngái.
Kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn chậm phát triển, tình trạng du canh, du cư, di dân tự do vẫn diễn biến phức tạp. Kết cấu hạ tầng (điện, đường, trường, trạm, công trình dịch vụ công cộng) ở vùng sâu, vùng xa vẫn còn khó khăn; trình độ phát triển kinh tế, xã hội không đồng đều, điều kiện sống và mức sống giữa các dân tộc còn chênh lệch. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, thực hiện đường lối phát triển bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc.
Hai là, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cư trú xen kẽ với nhau, địa bàn cư trú tập trung ở vùng núi và biên giới - nơi có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái của đất nước.
Trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, các đợt di cư kéo dài
25
hàng thiên niên kỷ đã làm cho bản đồ cư trú của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có sự tập trung ở một số vùng nhưng mỗi dân tộc không cư trú thành những khu vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã, bản. Trong mỗi vùng và mỗi địa bàn có những dân tộc là người gốc địa phương từ lâu đời và có những người thuộc các dân tộc khác chuyển đến cư trú với tính xen kẽ ngày càng mạnh mẽ; không có tỉnh, huyện nào chỉ có một dân tộc cư trú.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở Việt Nam là biểu hiện của sự cộng cư đoàn kết trên quan điểm “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Điều này thúc đẩy sự hòa hợp, tin cậy, gắn bó và giúp đỡ lẫn nhau, tăng cường hợp tác và xích lại gần nhau hơn trong lao động sáng tạo; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, sinh hoạt văn hóa; ngày càng tiến tới xóa bỏ cách biệt giữa các dân tộc và các vùng dân cư. Đây là cơ sở giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc, phòng ngừa xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp lợi ích, xung đột văn hóa, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất, không để các thế lực thù địch lợi dụng phá hoại, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước.
Các dân tộc thiểu số cư trú dọc biên giới phía Bắc, Tây và Tây Nam - nơi có nhiều cửa ngõ thông
26
thương giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới. Đây cũng là những địa bàn có tiềm năng lớn về khoáng sản (than, sắt, đồng, chì, kẽm, vàng, bạc, đá quý), năng lượng thủy điện, đất rừng và môi trường sinh thái của cả nước. Miền núi cũng là nơi có nhiều dòng sông chảy về đồng bằng, hằng năm cung cấp hàng tỷ mét khối nước cho các nhà máy thủy điện và hàng tỷ mét khối phù sa cho vùng đồng bằng của Việt Nam. Các vùng đất phì nhiêu ở miền núi đã và đang phát triển việc trồng cây công nghiệp dài ngày, như: cà phê, tiêu, chè, cao su... và chăn nuôi gia súc; các nguồn thực phẩm sẵn có trong tự nhiên và tre, gỗ được cung cấp cho cả nước.
Từ xa xưa đến nay, do khu vực đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống có địa hình hiểm trở, đồng bào các dân tộc lại sẵn có lòng yêu nước nên vùng dân tộc thiểu số luôn là căn cứ địa vững chắc của các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Trong công cuộc đổi mới đất nước, vùng dân tộc thiểu số tiếp tục đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, xã hội; đảm bảo an ninh, quốc phòng, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ Việt Nam.
Ba là, nhiều dân tộc thiểu số có tín ngưỡng, tôn giáo đan xen, đa dạng.
Trong bối cảnh trình độ phát triển kinh tế, xã hội chưa cao, hầu hết các dân tộc thiểu số còn lưu
27
giữ và chịu sự chi phối khá rõ nét của nhiều loại hình tín ngưỡng dân gian. Nhiều dân tộc thiểu số có tín ngưỡng, tôn giáo đan xen, đa dạng. Đến nay đa số đồng bào dân tộc thiểu số vẫn theo tín ngưỡng truyền thống, thờ cúng tổ tiên, thờ đa thần, các hình thái tôn giáo sơ khai. Trong đó nhiều tín ngưỡng có tác dụng tích cực, thể hiện ước nguyện tốt đẹp về cuộc sống con người, củng cố tình đoàn kết, đồng tâm hiệp lực giữa các thành viên trong cộng đồng. Nhưng một số tín ngưỡng dân gian cũng là môi trường cho mê tín dị đoan và hủ tục tồn tại và phát triển.
Bốn là, đồng bào các dân tộc thiểu số có ý thức tộc người sâu sắc.
Nhìn chung, đồng bào các dân tộc thiểu số nước ta có ý thức tộc người sâu sắc, thấy rõ vị trí, đặc trưng của dân tộc mình và mối quan hệ chung với các tộc người khác ở cả trong và ngoài biên giới quốc gia. Từ đó đã tăng cường tính cố kết, hòa hợp dân tộc, cũng như tinh thần yêu nước, lòng tự hào của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Năm là, mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, độc đáo, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đều có bản sắc văn hóa riêng, độc đáo, góp phần tạo nên sự phong phú và đa dạng của nền văn hóa Việt Nam
28
thống nhất. Bên cạnh tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia, được dùng làm phương tiện giao tiếp chung cho tất cả các dân tộc thì hầu hết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đều có ngôn ngữ riêng, thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau, gồm: Nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer, nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, nhóm ngôn ngữ Ka - đai, nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao, nhóm ngôn ngữ Malayô - Pôlinêdi, nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, nhóm ngôn ngữ Hán. Nhà nước Việt Nam tạo mọi điều kiện để duy trì, phát triển ngôn ngữ, chữ viết, bản sắc văn hóa của các dân tộc. Tổ chức xã hội truyền thống ở mỗi dân tộc có những sắc thái riêng; mỗi thôn, bản, buôn, phum, sóc thường là nơi cư trú theo dòng họ huyết thống hoặc do hôn nhân hợp thành. Cách thức sinh hoạt, phong tục tập quán ở mỗi dân tộc cũng có sự khác nhau.
Sáu là, các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu đời trong chinh phục thiên nhiên, đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc.
Trong quá trình phát triển, mặc dù nguồn gốc lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán có những điểm khác nhau, song các dân tộc ở Việt Nam đã luôn đoàn kết, đồng cam cộng khổ, tương thân tương ái, cùng nhau chinh phục thiên nhiên, kiên cường đấu tranh để chiến thắng nhiều kẻ thù xâm lược. Ngày
29
nay, trên dọc tuyến biên giới từ Bắc - Trung - Nam, đồng bào các dân tộc thiểu số tiếp tục đảm trách vai trò là người giữ gìn biên cương, lãnh thổ của Tổ quốc. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ, kiên cường, đồng bào các dân tộc thiểu số đã xây đắp nên một nền văn hóa kết tinh sức mạnh, tinh hoa và in đậm dấu ấn bản sắc dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và trường tồn của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Câu hỏi 6: Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta như thế nào về quyền của dân tộc thiểu số? Trả lời:
Quán triệt những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nguyên tắc và định hướng chiến lược về chính sách dân tộc ở Việt Nam, đó là đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc. Có thể khẳng định, chính sách dân tộc của Đảng luôn được quán triệt và triển khai thực hiện nhất quán trong mọi thời kỳ. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, chính sách dân tộc của Đảng luôn được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, chính sách dân tộc đã được Đảng ta đề ra trên cơ sở các
30
vấn đề cốt lõi, đó là: Vị trí của vấn đề dân tộc trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng; các nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc; những vấn đề trọng yếu của chính sách dân tộc trong những điều kiện cụ thể. Trong tất cả các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới đều xác định vị trí của vấn đề dân tộc trên hành trình đổi mới của đất nước, đó là: “có vị trí chiến lược lớn” (Đại hội VIII), “luôn luôn có vị trí chiến lược” (Đại hội IX), “có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta” (Đại hội X). Các nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc đã được hình thành từ khi Đảng ta mới ra đời, và ngày càng hoàn thiện. Trong thời kỳ đổi mới, các nguyên tắc cơ bản này tiếp tục được khẳng định và bổ sung thêm. Nếu như trong các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V đều nhấn mạnh: đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc thì từ Đại hội VI trở đi các nguyên tắc này đã được xác định là: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau’’ (Đại hội VI), “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau” (Đại hội VII), “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ’’ (Đại hội VIII), “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển’’ (Đại hội IX), “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ’’ (Đại hội X). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã quán triệt: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách
31
mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”1. Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội: “... khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển giữa các lĩnh vực, các vùng, miền..., quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu - nghèo...”2, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững.
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.164-165, 30.
32
Trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, đường lối của Đảng ta về vấn đề dân tộc đã được thể chế hóa và triển khai thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với việc thực hiện quyền bình đẳng của các dân tộc.
Từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (Hiến pháp năm 1946) đến bản Hiến pháp hiện hành (Hiến pháp năm 2013) đều ghi nhận và bảo vệ quyền bình đẳng của mọi người, mọi công dân Việt Nam. Hiến pháp năm 1946 khẳng định: Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa (Điều thứ 6). Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình (Điều thứ 7). Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung (Điều thứ 8).
Trong Hiến pháp năm 2013, ngoài việc khẳng định quyền bình đẳng giữa các dân tộc, còn dành nhiều điều khoản quy định về quyền của dân tộc thiểu số. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết,
33
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước; Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều này được hiểu là mọi công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc đều bình đẳng trước pháp luật, được hưởng các quyền và thực hiện nghĩa vụ công dân như nhau.
Để bảo vệ quyền con người, quyền công dân của người dân tộc thiểu số, tại Điều 1 Bộ luật Hình sự năm 20151 đã quy định: “Bộ luật Hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc...”.
Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hiện nay, bên cạnh việc thực hiện quyền bình đẳng
1. Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015).
34
về dân sự và chính trị của người dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước luôn quán triệt chủ trương gắn phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội giữa các tầng lớp và các nhóm người trong xã hội, triển khai những chính sách nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần đối với các dân tộc thiểu số, từ đó bảo đảm và thúc đẩy thực hiện đầy đủ quyền bình đẳng, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân tộc. Trong những năm qua, nhiều đề án, chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng tập trung đồng bào dân tộc thiểu số đã được thực hiện, tiêu biểu như:
- Nghị định về công tác dân tộc (Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14-01-2011);
- Chương trình 135 (các giai đoạn) về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng miền núi và vùng sâu, vùng xa (Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31-7-1998; Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10-01-2006;...);
- Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 (Quyết định số 1722/ QĐ-TTg ngày 02-9-2016);
- Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020 (Quyết định số 2085/QĐ-TTg ngày 31-10-2016);
35
- Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2015- 2020 (Quyết định số 964/QĐ-TTg ngày 30-6-2015);
- Ngoài ra, để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản mang tính pháp quy quy định những giải pháp cụ thể đối với một số vùng đặc thù có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, như: phát triển kinh tế, xã hội vùng Tây Nguyên; phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh đặc biệt khó khăn ở vùng miền núi phía Bắc; phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long...
Mỗi người dân các dân tộc thiểu số là chủ thể thụ hưởng các quyền phát triển bình đẳng và cũng là chủ thể thực hiện các quyền đó. Đảng và Nhà nước luôn coi trọng việc nâng cao ý thức người dân để bảo đảm việc thụ hưởng và thực hiện các quyền của người dân tộc thiểu số trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
Câu hỏi 7: Theo pháp luật Việt Nam, người dân tộc thiểu số có những quyền cơ bản gì? Trả lời:
Trên thực tế, trong suốt tiến trình xây dựng và bảo vệ đất nước, mỗi người dân tộc thiểu số ở Việt Nam luôn là một thành viên gắn bó máu thịt với cộng đồng 54 dân tộc, cùng đồng cam cộng khổ,
36
chia ngọt sẻ bùi, “...sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”1. Chính vì vậy mà ở Việt Nam, người dân tộc thiểu số được gọi là đồng bào dân tộc thiểu số, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người dân tộc thiểu số có quyền con người, quyền công dân và quyền được hưởng các chính sách đặc thù (được coi là quyền riêng có).
Quyền con người (nhân quyền) là những quyền tự nhiên của con người vốn được thừa hưởng và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Ở Việt Nam, quyền con người đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo vệ.
Quyền công dân ở Việt Nam là tập hợp những quyền được Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận và chỉ những người mang quốc tịch Việt Nam mới được hưởng.
Quyền riêng có của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam là: quyền con người, quyền công dân thuộc lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa gắn với các chính sách đặc thù để bảo đảm thực hiện các quyền này; được pháp luật tôn trọng,
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.249.
37
ghi nhận và bảo vệ; chỉ áp dụng đối với người dân tộc thiểu số là công dân nước Việt Nam. Xuất phát từ những lý do sau đây mà người dân tộc thiểu số ở nước ta có những quyền riêng có: Thứ nhất, do đặc thù về địa bàn cư trú: Người dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú chủ yếu ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới - nơi có địa hình không thuận lợi cho phát triển về mọi mặt. Vì vậy, các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế, xã hội không đồng đều, chậm phát triển hơn so với dân tộc đa số; nhiều dân tộc thiểu số ở khu vực vùng sâu và núi cao vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển, mức sống thấp, tỷ lệ đói nghèo cao; điều kiện để tiếp cận giáo dục đào tạo còn thấp; công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn; bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số đang bị mai một dần, một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển; hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn yếu; tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học thấp; năng lực, trình độ cán bộ xã, phường còn hạn chế... Tình trạng trên gây khó khăn cho đồng bào các dân tộc thiểu số trong quá trình vươn lên hòa nhập cùng sự phát triển chung của cả nước, tạo ra khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng phá
38
hoại việc thực hiện chính sách đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc. Do đó, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển là tất yếu khách quan trong một quốc gia đa dân tộc. Đảng và Nhà nước ta coi đây là nguyên tắc nhất quán trong chính sách dân tộc thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn có trách nhiệm giúp đỡ các dân tộc khó khăn hơn. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau không phải chỉ giúp đỡ một chiều, mà ngược lại, chính sự phát triển của dân tộc này là điều kiện để cho dân tộc khác càng phát triển.
Thứ hai, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, giữa người dân tộc đa số và người dân tộc thiểu số; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc phát triển đất nước.
Trong những năm qua, quyền của người dân tộc thiểu số ở nước ta ngày càng được quy định đầy đủ trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật, như: Hiến pháp, các bộ luật, luật
39
do Quốc hội ban hành. Các quyền này được bảo đảm thực hiện bằng những quy định về chính sách, trách nhiệm của Nhà nước và trách nhiệm của các bên liên quan trong việc thực thi quyền; qua các biện pháp cụ thể để thi hành.
Câu hỏi 8: Những nguyên tắc cơ bản về thực hiện quyền công dân và quyền của người dân tộc thiểu số ở nước ta được pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:
Những nguyên tắc cơ bản về việc thực hiện quyền công dân và quyền của người dân tộc thiểu số ở nước ta được quy định tại các điều 5, 14, 15, 16 trong Hiến pháp năm 2013 như sau:
- Điều 5: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.
40
- Điều 14: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
- Điều 15: Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Điều 16: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Câu hỏi 9: Để bảo đảm quyền của dân tộc thiểu số, những nguyên tắc cơ bản trong công tác dân tộc được Nhà nước quy định như thế nào? Những hành vi nào bị nghiêm cấm trong công tác dân tộc?
Trả lời:
Công tác dân tộc là những hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc nhằm tác động và tạo
41
điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số cùng phát triển, bảo đảm sự tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân (khoản 1 Điều 4 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP).
Nghị định số 05/2011/NĐ-CP quy định các nguyên tắc cơ bản của công tác dân tộc và các hành vi bị nghiêm cấm trong công tác dân tộc như sau:
Nguyên tắc cơ bản của công tác dân tộc (Điều 3): - Thực hiện chính sách dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.
- Bảo đảm và thực hiện chính sách phát triển toàn diện, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.
- Bảo đảm việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc.
- Các dân tộc có trách nhiệm tôn trọng phong tục, tập quán của nhau, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Các hành vi bị nghiêm cấm trong công tác dân tộc (Điều 7):
- Mọi hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử, chia rẽ, phá hoại đoàn kết các dân tộc.
- Lợi dụng các vấn đề về dân tộc để tuyên truyền xuyên tạc, chống lại đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
42
- Lợi dụng việc thực hiện chính sách dân tộc, quản lý nhà nước về công tác dân tộc để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Các hành vi khác trái với quy định của Chính phủ.
Câu hỏi 10: Hiện nay Nhà nước có những chính sách đặc thù gì để bảo đảm thực hiện và thúc đẩy quyền của dân tộc thiểu số? Trả lời:
Phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và thực thi một cách đầy đủ, thực chất, sâu sắc quyền của người dân tộc thiểu số là một liên kết có tính quy luật và hệ quả.
Trong giai đoạn hiện nay, để các dân tộc thiểu số có điều kiện hòa nhập cùng công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng là để tạo cơ sở vững chắc thực hiện quyền của người dân tộc thiểu số, Nghị định số 05/2011/NĐ-CP đã quy định những chính sách đối với các dân tộc thiểu số, bao gồm: Chính sách quốc phòng, an ninh; chính sách cán bộ người dân tộc thiểu số; chính sách đối với người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số; chính sách đầu tư phát triển bền vững; chính sách đầu tư và sử dụng nguồn lực; chính sách y tế, dân số;
43
chính sách phát triển giáo dục và đào tạo; chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa; chính sách phát triển thể dục, thể thao vùng dân tộc thiểu số; chính sách phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số; chính sách bảo vệ môi trường, sinh thái; chính sách thông tin - truyền thông; chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý.
44
Phần II
CÁC QUYỀN CƠ BẢN
CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
I. CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ
Câu hỏi 11: Trong lĩnh vực dân sự và chính trị, người dân tộc thiểu số ở Việt Nam có những quyền cơ bản nào?
Trả lời:
Đối với quyền dân sự và chính trị, ngoài những quyền mà tất cả mọi người và mọi công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyền hưởng theo quy định của pháp luật, luật pháp nước ta còn có những quy định riêng đối với người dân tộc thiểu số trong việc: xác định dân tộc; cư trú; bình đẳng giới; bầu cử và ứng cử; tham gia quản lý nhà nước và xã hội; tiếp cận thông tin.
Câu hỏi 12: Quyền xác định dân tộc được pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:
Nước ta có 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chính vì vậy mỗi người đều có quyền
45
xác định dân tộc của mình. Quyền xác định dân tộc được quy định trong Điều 42 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình...”.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, khoản 1 và khoản 2 Điều 29 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
- Cá nhân có quyền xác định, xác định lại dân tộc của mình.
- Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.
Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì dân tộc của trẻ em được xác định theo dân tộc của người đó.
Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị
46
của người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em vào thời điểm đăng ký khai sinh cho trẻ em. Tại các khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều 29 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về quyền xác định lại dân tộc như sau:
- Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong trường hợp: Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau; xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp con nuôi đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của mình.
- Việc xác định lại dân tộc cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi phải được sự đồng ý của người đó.
- Cấm lợi dụng việc xác định lại dân tộc nhằm mục đích trục lợi hoặc gây chia rẽ, phương hại đến sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam.
Câu hỏi 13: Quyền cư trú của người dân tộc thiểu số được quy định như thế nào? Trả lời:
Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú (Điều 1 Luật Cư trú năm 20061).
1. Luật Cư trú năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2013 (gọi tắt là Luật Cư trú năm 2006).
47
Người dân tộc thiểu số là công dân Việt Nam nên có quyền cư trú theo pháp luật Việt Nam: Điều 23 Hiến pháp năm 2013 có quy định về quyền cư trú của công dân, theo đó: Công dân có quyền cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Cư trú năm 2006 có những quy định về quyền cư trú của công dân như sau:
- Công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của Luật Cư trú và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Quyền tự do cư trú của công dân chỉ bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định (Điều 3).
- Công dân có quyền (Điều 9):
+ Lựa chọn, quyết định nơi thường trú, tạm trú của mình phù hợp với quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
+ Được cấp, cấp lại, đổi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú.
+ Được cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc thực hiện quyền cư trú.
+ Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ quyền cư trú của mình. + Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với hành vi vi phạm pháp luật về cư trú theo quy định của pháp luật.
48
Để bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền cư trú của người dân tộc thiểu số, tại khoản 4 và khoản 5 Điều 9 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP có quy định:
- Chính quyền ở nơi có người đến định cư có trách nhiệm phối hợp với chủ đầu tư bảo đảm định canh, định cư lâu dài, tạo điều kiện để đồng bào ổn định cuộc sống.
- Thực hiện quy hoạch, sắp xếp các điểm dân cư tập trung một cách hợp lý đối với những địa bàn khó khăn, bảo đảm cho đồng bào phát triển sản xuất phù hợp với đặc điểm dân tộc, vùng miền.
Trước thực tế hiện nay đồng bào dân tộc còn có tình trạng du canh du cư, trong Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 - 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 2085/QĐ-TTg ngày 31-10-2016 đã có quy định: Tiếp tục thực hiện chính sách, kế hoạch định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cư theo Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 05-3-2007, Quyết định số 1342/QĐ-TTg ngày 25-8-2009 và Quyết định số 33/2013/QĐ-TTg ngày 04-6-2013 của Thủ tướng Chính phủ: Tiếp tục đầu tư các công trình theo kế hoạch được duyệt tại các điểm định canh, định cư tập trung; bố trí vốn thanh toán cho các công trình hạ tầng tại các điểm định canh, định cư đã hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng còn thiếu vốn; chi trả các khoản hỗ trợ theo quy định tại Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 05-3-2007.
49
Câu hỏi 14: Quyền có chỗ ở của người dân tộc thiểu số được quy định như thế nào? Trả lời:
Tại khoản 1 Điều 22 Hiến pháp năm 2013 quy định: Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp. Điều 4 Luật Nhà ở năm 2014 quy định: Hộ gia đình, cá nhân có quyền có chỗ ở thông qua việc đầu tư xây dựng, mua, thuê, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế, nhận góp vốn, nhận đổi, mượn, ở nhờ, quản lý nhà ở theo ủy quyền và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Tại Quyết định số 2127/QĐ-TTg ngày 30-11-2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 (gọi tắt là Quyết định số 2127/
QĐ-TTg) đã xác định quan điểm: Có chỗ ở thích hợp và an toàn là một trong những quyền cơ bản, là điều kiện cần thiết để phát triển con người một cách toàn diện, đồng thời là nhân tố quyết định để phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Phát triển nhà ở là trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội và của người dân. Phát triển nhà ở là một trong những nội dung quan trọng của chính sách phát triển kinh tế - xã hội; Nhà nước ban hành chính sách thúc đẩy thị trường nhà ở phát triển, đồng thời có chính sách để hỗ trợ về nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội, người có thu nhập thấp và người nghèo gặp khó khăn về nhà ở nhằm góp phần ổn định chính trị, bảo đảm
50
an sinh xã hội và phát triển đô thị, nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại.
Đời sống vật chất, điều kiện ăn ở của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ gia đình đồng bào thuộc diện hộ nghèo, hộ gia đình khó khăn, đặc biệt khó khăn. Để bảo đảm quyền có chỗ ở của đồng bào dân tộc thiểu số, trong những năm qua, Nhà nước đã có những chính sách cụ thể hỗ trợ người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số xây dựng nhà ở, chẳng hạn:
- Tại điểm b khoản 1 Điều 110 Luật Đất đai năm 2013 quy định việc thực hiện miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong một số trường hợp, trong đó có trường hợp sử dụng đất để thực hiện chính sách nhà ở, đất ở đối với hộ gia đình, cá nhân là người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, hải đảo.
- Quyết định số 33/2015/QĐ-TTg ngày 10-8-2015 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 (chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg giai đoạn 2 (gọi tắt là Quyết định số 33/2015/QĐ-TTg) quy định: hộ gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số, nếu đáp ứng được những quy định về đối tượng, điều kiện hỗ trợ được quy định tại Quyết định này thì được thực hiện ưu tiên hỗ trợ xây dựng nhà ở trước.
51
Câu hỏi 15: Quyền bình đẳng giới đối với người dân tộc thiểu số được quy định như thế nào?
Trả lời:
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó (khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006).
Bình đẳng giới là quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng. Trong một xã hội tiến bộ và văn minh, không một ai bị phân biệt đối xử về giới. Điều 26 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.
Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, do còn chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến “trọng nam khinh nữ”, do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và trách nhiệm của mỗi cá nhân về bình đẳng giới nên trong gia đình và ngoài xã hội phụ nữ người dân tộc thiểu số còn chịu nhiều thiệt thòi do bất bình đẳng giới. Để thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình ở vùng dân tộc thiểu số, tại khoản 3, 5 Điều 7
52
Luật Bình đẳng giới năm 2006 có quy định chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, như sau:
- Áp dụng những biện pháp thích hợp để xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.
- Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.
Câu hỏi 16: Quyền bầu cử và quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của người dân tộc thiểu số được quy định như thế nào? Trả lời:
Hiến pháp năm 2013 quy định:
Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự (khoản 2 Điều 16).
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 6).
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định (Điều 27).
53
Thực hiện quyền bầu cử và quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân người dân tộc thiểu số chính là cách thức để đồng bào thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của mình. Chính vì vậy, bảo đảm cơ cấu, tỷ lệ người dân tộc thiểu số đáp ứng được yêu cầu, tiêu chuẩn trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đã được luật hóa.
Khoản 1, 2 Điều 8 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định về dự kiến cơ cấu, thành phần những người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, trong đó có những quy định liên quan đến người dân tộc thiểu số như sau:
- Căn cứ vào dự kiến số lượng đại biểu Quốc hội được bầu, sau khi thống nhất ý kiến với Ban thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đại diện các tổ chức chính trị - xã hội, chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội; số lượng người của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội để bảo đảm tỷ lệ đại diện hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong Quốc hội.
- Số lượng người dân tộc thiểu số được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Hội đồng dân tộc
54
của Quốc hội, bảo đảm có ít nhất mười tám phần trăm tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số.
Khoản 1, 2 Điều 9 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định về dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, trong đó có những quy định liên quan đến người dân tộc thiểu số như sau:
Căn cứ vào số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ở mỗi đơn vị hành chính theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, sau khi thống nhất ý kiến với Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban nhân dân cùng cấp, chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử:
- Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), Thường trực Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp huyện) dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở cấp mình và các đơn vị hành chính cấp dưới, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế trên địa bàn được giới thiệu để ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, trong đó số lượng người ứng
55
cử là người dân tộc thiểu số được xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương; - Thường trực Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở cấp mình và thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc (gọi chung là thôn), tổ dân phố, khu phố, khóm (gọi chung là tổ dân phố), đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế trên địa bàn được giới thiệu để ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã, trong đó số lượng người ứng cử là người dân tộc thiểu số được xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương.
Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước; là người thay mặt Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội; chịu trách nhiệm trước cử tri và trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình, chính vì vậy mà đại biểu Quốc hội phải là những người thật sự xứng đáng với sự tin cậy của Nhân dân. Chính vì vậy, khoản 1 Điều 3 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: Người ứng cử đại biểu Quốc hội phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
Điều 22 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội như sau:
56
- Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Có trình độ văn hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội.
- Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm. - Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.
Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri địa phương và trước Hội đồng nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình. Khoản 2 Điều 3 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: Người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Điều 7 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân như sau:
57
- Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động của Hội đồng nhân dân.
- Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm. Để thực hiện tốt quyền bầu cử của mình, đồng bào các dân tộc cần thực hiện những nguyên tắc đã được quy định tại Điều 69 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, đó là:
1) Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân tương ứng với mỗi cấp Hội đồng nhân dân.
2) Cử tri phải tự mình đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu cử thay, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này; khi bầu cử phải xuất trình thẻ cử tri.
58
3) Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
4) Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
- Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử.
- Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác.
- Khi cử tri bỏ phiếu xong, tổ bầu cử có trách nhiệm đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri. - Mọi người phải tuân theo nội quy phòng bỏ phiếu.
59
Câu hỏi 17: Để bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số, chính sách cán bộ người dân tộc thiểu số được quy định như thế nào?
Trả lời:
Để bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số, chính sách cán bộ người dân tộc thiểu số đã được Nhà nước ta coi là một trong những điểm mấu chốt và quan trọng hàng đầu, điều này được thể hiện ở việc định hướng chính sách khung, xác định những nguyên tắc thực hiện chính sách, cùng với đó là những quy định cụ thể về đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm...
Điều 11 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP quy định về chính sách cán bộ người dân tộc thiểu số như sau:
- Cán bộ người dân tộc thiểu số có năng lực và đủ tiêu chuẩn phù hợp quy định của pháp luật, được bổ nhiệm vào các chức danh cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý các cấp. Ở các địa phương vùng dân tộc thiểu số, nhất thiết phải có cán bộ chủ chốt người dân tộc thiểu số.
- Đảm bảo tỷ lệ hợp lý cán bộ người dân tộc thiểu số, ưu tiên cán bộ nữ, cán bộ trẻ tham gia vào các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp.
- Các Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
60
Về nguyên tắc thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số: Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT BNV-UBDT ngày 11-9-2014 của Bộ Nội vụ - Ủy ban Dân tộc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành chính sách cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số quy định tại Điều 11 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP (gọi tắt là Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BNV-UBDT) quy định nguyên tắc thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số như sau:
- Bảo đảm sự thống nhất lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số theo phân cấp quản lý và theo quy trình, thủ tục.
- Bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, công bằng, đúng đối tượng quy định.
- Chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số phải bảo đảm góp phần nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội vùng dân tộc và miền núi.
- Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị đã sử dụng hết chỉ tiêu biên chế thì cơ quan có thẩm quyền quản lý công chức, viên chức cấp Bộ, ngành và địa phương phải căn cứ vào nhu cầu, điều kiện cụ thể để tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên
61
chức người dân tộc thiểu số bổ sung, thay thế các trường hợp đã thôi việc, nghỉ hưu, thuyên chuyển công tác bảo đảm tỷ lệ hợp lý theo quy định tại Điều 4, Điều 5 của Thông tư liên tịch số 02/2014/
TTLT-BNV-UBDT.
Về tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị Tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT BNV-UBDT quy định:
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế, xã hội; cơ cấu vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế; điều kiện, yêu cầu cụ thể của địa phương để tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số làm việc tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị bảo đảm tỷ lệ hợp lý, tương ứng với tỷ lệ người dân tộc thiểu số tại địa phương. Ở các địa phương vùng dân tộc thiểu số, nhất thiết phải có cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số.
- Các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức; cơ cấu vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế để tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số, bảo đảm tỷ lệ hợp lý.
62
Về chính sách tuyển dụng công chức, viên chức người dân tộc thiểu số
Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT BNV-UBDT quy định:
- Hằng năm, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế, xã hội và nhu cầu của địa phương, trong kế hoạch tuyển dụng phải xác định một tỷ lệ biên chế hợp lý trong tổng số biên chế đã được cấp có thẩm quyền giao để tổ chức tuyển dụng người dân tộc thiểu số vào công chức, viên chức. Tiêu chuẩn, điều kiện dự tuyển và trình tự, thủ tục tổ chức tuyển dụng thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Người dân tộc thiểu số được cử đi học đại học, cao đẳng, cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp theo chế độ cử tuyển sau khi tốt nghiệp được tuyển dụng không qua thi vào công chức, viên chức và phân công công tác theo quy định tại Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14-11-2006 của Chính phủ quy định chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 49/2015/ NĐ-CP ngày 15-5-2015 của Chính phủ (gọi tắt là Nghị định số 134/2006/NĐ-CP) quy định chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
63
Hằng năm, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào số lượng người dân tộc thiểu số học theo chế độ cử tuyển sẽ tốt nghiệp ra trường để xác định số lượng biên chế dự phòng làm cơ sở tuyển dụng, bố trí vào công chức, viên chức đảm bảo tỷ lệ hợp lý.
Về công tác quy hoạch, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức người dân tộc thiểu số vào các chức danh lãnh đạo, quản lý
Xuất phát từ tình hình thực tế về điều kiện đào tạo cán bộ, trong những quy định về việc bổ nhiệm công chức, viên chức vào các chức danh lãnh đạo, quản lý, cũng có những quy định riêng đối với người dân tộc thiểu số.
Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BNV-UBDT quy định:
- Việc quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số thực hiện theo quy định của Đảng và pháp luật hiện hành. Ưu tiên quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số là nữ, trẻ, rất ít người tham gia vào các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị các cấp (Điều 7).
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức có trách nhiệm ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về công tác dân tộc, tiếng dân tộc, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, tin học và các kỹ năng quản lý hành chính
64
nhà nước cho cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số (Điều 9).
- Tiêu chuẩn bổ nhiệm công chức, viên chức người dân tộc thiểu số vào các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp được thực hiện theo quy định của Đảng và pháp luật hiện hành. Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số công tác từ cấp huyện trở xuống đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch vào vị trí lãnh đạo, quản lý hoặc vị trí tương đương được bổ nhiệm lần đầu nếu còn thiếu tiêu chuẩn theo quy định thì vẫn được xem xét bổ nhiệm để đảm bảo yêu cầu nhiệm vụ, nhưng trong thời gian không quá 1/2 thời hạn bổ nhiệm, cơ quan có thẩm quyền quản lý phải có trách nhiệm cử đi đào tạo, bồi dưỡng để hoàn thiện tiêu chuẩn (Điều 8).
Câu hỏi 18: Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội ở địa phương của đồng bào dân tộc thiểu số được quy định như thế nào? Trả lời:
Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của Nhân dân ở địa phương (trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số) được quy định tại Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, theo đó đồng bào dân tộc thiểu số có quyền được biết, được bàn, được tham gia ý kiến, được quyết định, được giám sát những nội dung theo quy định của pháp luật. Cụ thể được quy định
65
trong Pháp lệnh: Điều 5. Những nội dung công khai; Điều 10. Nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; Điều 13. Những nội dung Nhân dân bàn, biểu quyết; Điều 19. Những nội dung Nhân dân tham gia ý kiến; Điều 23. Những nội dung Nhân dân giám sát.
Những năm qua, Nhà nước đã có nhiều chương trình, dự án nhằm giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc thiểu số. Để bảo đảm tính hiệu quả và sự thành công của các chương trình, dự án, quy hoạch, xây dựng ở mỗi địa phương thì công tác thông tin - tuyên truyền; sự tham gia quản lý, giám sát của Nhân dân là vô cùng quan trọng. Theo quy định tại khoản 4 Điều 9 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP: Chủ đầu tư các dự án quy hoạch, xây dựng có ảnh hưởng tới đất đai, môi trường, sinh thái và cuộc sống của đồng bào các dân tộc, phải công bố công khai và lấy ý kiến của nhân dân nơi có công trình, dự án được quy hoạch, xây dựng theo quy định của pháp luật.
Ngày 02-9-2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1722/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Triển khai thực hiện Quyết định này, ngày 10-5-2017, Ủy ban Dân tộc ban hành Thông tư số 01/2017/UBDT quy định chi tiết thực hiện Dự án 2 (Chương trình 135) thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 (gọi tắt là Chương trình).
66
Tại Điều 16 của Thông tư số 01/2017/UBDT đã quy định về việc thông tin, tuyên truyền Chương trình như sau:
- Nội dung thông tin, tuyên truyền:
+ Phổ biến thông tin về Chương trình, chính sách pháp luật về công tác dân tộc; quyền lợi và trách nhiệm của cộng đồng và người nghèo trong thực hiện Chương trình;
+ Thông báo công khai và minh bạch về đối tượng thụ hưởng, nội dung và mức hỗ trợ, mức vốn được phân bổ, kế hoạch thực hiện, quyết toán kinh phí từng công trình, dự án của Chương trình trên địa bàn;
+ Phổ biến, chia sẻ những điển hình tiên tiến, kinh nghiệm hay, cách làm có hiệu quả (như các gương thoát nghèo, mô hình sinh kế, duy tu và bảo dưỡng công trình dựa vào cộng đồng, thực hiện cơ chế đặc thù) trong thực hiện Chương trình.
- Hình thức, phương pháp thông tin, tuyên truyền: + Hình thức thông tin, tuyên truyền ngắn gọn, rõ ràng, thực tế, thực hiện bằng tiếng phổ thông và tiếng dân tộc thiểu số, phù hợp với tập quán, văn hóa của các nhóm dân tộc thiểu số trên địa bàn. + Phương pháp thông tin, tuyên truyền đa dạng, thông qua hệ thống các tổ chức đoàn thể, tổ nhóm hợp tác, những người có uy tín, già làng, trưởng thôn, nông dân sản xuất giỏi, các chức sắc tôn giáo trên địa bàn; họp thôn, phát thanh, gặp gỡ đối thoại, và các kênh thông tin, tuyên truyền khác đến cộng đồng và người dân.
67
- Cơ chế thực hiện:
Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền thường xuyên, liên tục, gắn với lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và đánh giá Chương trình trên địa bàn.
Câu hỏi 19: Quyền, nghĩa vụ và nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định: công dân có quyền tiếp cận thông tin.
Tiếp cận thông tin là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin (khoản 3 Điều 2 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016).
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định quyền, nghĩa vụ của công dân (trong đó có người dân tộc thiểu số) đối với việc tiếp cận thông tin (Điều 8) và nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin (Điều 3), theo đó:
- Công dân có quyền: Được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời; khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin.
- Công dân có nghĩa vụ: Tuân thủ quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin; không làm sai lệch
68
nội dung thông tin đã được cung cấp; không xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác khi thực hiện quyền tiếp cận thông tin.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin: Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin phải do luật định trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin.
Tại Điều 2 Nghị định số 13/2018/NĐ-CP ngày 23-01-2018 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Tiếp cận thông tin (gọi tắt là Nghị định số 13/2018/NĐ-CP) đã quy định các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi để người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện
69
quyền tiếp cận thông tin, theo đó, việc cung cấp thông tin được thực hiện bằng nhiều hình thức phù hợp với các đối tượng, điều kiện khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm: Thông qua Cổng thông tin điện tử, Trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước (nếu có); thông qua hệ thống phát thanh, truyền hình trung ương, địa phương và các hệ thống truyền phát tin khác của địa phương; các chương trình phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc và các phương tiện thông tin đại chúng khác tại địa phương; xây dựng tài liệu chuyên đề, tờ rơi, ấn phẩm; trong trường hợp cần thiết và khả thi thì có thể được chuyển tải bằng ngôn ngữ dân tộc; tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt cộng đồng để chia sẻ thông tin cho công dân; chia sẻ kinh nghiệm về hoạt động cung cấp thông tin cho các khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; lồng ghép hoạt động cung cấp thông tin trong các sự kiện văn hóa - chính trị của cơ quan, địa phương, trong kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật, truyền thông các chính sách mới của các cơ quan nhà nước trên địa bàn; tăng thời lượng truyền, phát bản tin đối với loại thông tin liên quan đến cơ chế, chính sách của người dân sinh sống tại khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Căn cứ vào loại thông tin, đối tượng cần cung cấp thông tin, cơ quan nhà nước
70
trên địa bàn quyết định lựa chọn một hoặc các hình thức cung cấp thông tin công khai rộng rãi phù hợp với khả năng tiếp cận thông tin của công dân.
Câu hỏi 20: Chính sách thông tin - truyền thông đối với vùng dân tộc thiểu số được pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều 17 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP quy định chính sách thông tin - truyền thông đối với vùng dân tộc thiểu số như sau:
- Đầu tư phát triển thông tin - truyền thông vùng dân tộc thiểu số, cung cấp một số phương tiện thiết yếu nhằm đảm bảo quyền tiếp cận và hưởng thụ thông tin.
- Xây dựng, củng cố hệ thống thông tin tình hình dân tộc và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia về dân tộc; thực hiện chế độ thông tin, báo cáo định kỳ, đột xuất về tình hình kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, thiên tai, lũ lụt ở vùng dân tộc thiểu số.
- Áp dụng công nghệ thông tin, xây dựng và tổ chức thực hiện trong hệ thống cơ quan công tác dân tộc.
- Tăng cường và nâng cao chất lượng sử dụng ngôn ngữ dân tộc trên các phương tiện thông tin đại chúng.
71
Ở vùng dân tộc thiểu số, ngoài hệ thống phát thanh, truyền hình trung ương, địa phương thì xuất bản phẩm và báo chí là những kênh thông tin quan trọng, phù hợp và thiết thực để đồng bào tiếp cận thông tin. Hiện nay Nhà nước đang thực hiện những chính sách hỗ trợ, đầu tư cho các kênh thông tin này ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cụ thể như:
Chính sách tăng cường cơ sở vật chất cho hệ thống thông tin và truyền thông thôn, xã Ngày 02-6-2017, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Thông tư số 05/2017/TT BTTTT ngày 02-6-2017 hướng dẫn thực hiện nội dung “Tăng cường cơ sở vật chất cho hệ thống thông tin và truyền thông cơ sở” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 (gọi tắt là Thông tư số 05/2017/TT-BTTTT), trong đó có quy định về: Thiết lập mới, nâng cấp đài truyền thanh xã: khoản 1, 2 Điều 4 Thông tư số 05/2017/TT-BTTTT hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ thiết lập mới, nâng cấp đài truyền thanh xã, trong đó các xã, thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc ít người là những đối tượng được ưu tiên, như sau: Các xã được thiết lập mới đài truyền thanh gồm: xã chưa có đài truyền thanh; xã có đài truyền thanh đã sử dụng hết thời gian tính hao mòn tài sản cố định theo quy định hiện hành và đã hư hỏng, không còn sử dụng được. Các xã được nâng cấp đài truyền thanh gồm: xã
72
có đài truyền thanh nhưng cần bổ sung, thay thế thiết bị do yêu cầu mở rộng hoặc thay thế thiết bị đã hư hỏng, không còn sử dụng được (bao gồm cả các xã đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2015).
Thiết lập mới trạm truyền thanh thôn: Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư số 05/2017/ TT-BTTTT thì thôn được thiết lập mới trạm truyền thanh thôn là thôn có đủ các điều kiện sau đây: có từ 50 hộ dân sinh sống trở lên thuộc các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; điều kiện địa lý khó khăn không thể mở rộng cụm loa của đài truyền thanh xã đến thôn.
Chính sách hỗ trợ xuất bản xuất bản phẩm phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số
Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất bản, in ấn xuất bản phẩm phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số, Điều 7 Luật Xuất bản năm 2012 có những quy định mang tính ưu đãi, như: Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng, chuyển giao công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho nhà xuất bản phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo; đặt hàng để có bản thảo và xuất bản tác phẩm, tài liệu phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ đồng bào vùng dân tộc thiểu
73
số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo; hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng, chuyển giao công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo; ưu đãi về tiền thuê đất để làm nhà xưởng và lãi suất vay vốn cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo; ưu tiên đầu tư quỹ đất và kinh phí xây dựng cơ sở vật chất cho hệ thống cơ sở phát hành xuất bản phẩm tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo; hỗ trợ cước vận chuyển xuất bản phẩm phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo. Chính phủ quy định chi tiết Điều này phù hợp với từng giai đoạn phát triển của hoạt động xuất bản.
Bên cạnh đó, tại khoản 15 Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng năm 20081 cũng có quy định sách
1. Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 được sửa đổi, bổ sung các năm 2013, 2014, 2016 (gọi tắt là Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008).
74
in bằng chữ dân tộc thiểu số không chịu thuế giá trị gia tăng.
Chính sách hỗ trợ báo chí
Điều 5 Luật Báo chí năm 2016 quy định chính sách của Nhà nước về phát triển báo chí, trong đó khoản 3, 4 có quy định: Đặt hàng báo chí và hỗ trợ cước vận chuyển báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và các nhiệm vụ trọng yếu khác phù hợp với từng giai đoạn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
II. CÁC QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI
VÀ VĂN HÓA
Câu hỏi 21: Người dân tộc thiểu số ở nước ta có những quyền cơ bản gì trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa?
Trả lời:
Tại khoản 2, 4 Điều 5 Hiến pháp năm 2013 có quy định: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.
Đây là quy định có tính định hướng chung về quyền của dân tộc thiểu số ở nước ta, để từ đó các
75
bộ luật, luật chuyên ngành và các văn bản mang tính pháp quy liên quan cụ thể hóa thành những quy định trong từng lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa, bảo đảm cho việc thi hành quyền của dân tộc thiểu số được chi tiết, đầy đủ và thiết thực.
Trong những năm qua, sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở Việt Nam đã tạo ra những tiền đề quan trọng để giải quyết những vấn đề bức thiết về xã hội, thực hiện tốt hơn các mục tiêu công bằng xã hội, bảo đảm tốt hơn những giá trị quyền con người, quyền công dân, nhất là ở những vùng có nhiều đặc thù như vùng dân tộc thiểu số. Ngược lại, việc thực thi một cách thực chất, sâu sắc, đầy đủ quyền của đồng bào các dân tộc thiểu số đã tạo điều kiện để đồng bào phát huy nội lực, đóng góp vào sự phát triển của cả nước. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng dân tộc thiểu số là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu. Đồng thời với việc xây dựng ngày càng đầy đủ hơn những hành lang pháp lý về quyền của người dân tộc thiểu số, Nhà nước đã có những chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo bền vững đối với vùng dân tộc thiểu số.
Thông qua các văn bản pháp luật, có thể thấy, ngoài những quyền chung mà mọi người, mọi công dân được hưởng, quyền riêng có của người dân tộc
76
thiểu số ở nước ta trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa được thể hiện tập trung trong: Quyền làm việc; quyền được giao đất, giao rừng, phát triển sản xuất; quyền được thụ hưởng phúc lợi và an sinh xã hội; quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe; quyền được học tập; quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc; quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa và tham gia vào đời sống văn hóa; quyền trong phổ biến, giáo dục pháp luật; quyền được trợ giúp pháp lý.
Câu hỏi 22: Quyền làm việc đối với người dân tộc thiểu số được quy định như thế nào? Trả lời:
Tại Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định: Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưng lương, ch đ nghỉ ngơi. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu.
Để bảo đảm quyền làm việc của công dân, Điều 57 Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.
77
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, khoản 1 Điều 5 Bộ luật Lao động năm 20121 quy định người lao động (trong đó có người dân tộc thiểu số) có các quyền sau đây:
- Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử;
- Hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng nghề trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hàng năm có lương và được hưởng phúc lợi tập thể;
- Thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại với người sử dụng lao động, thực hiện quy chế dân chủ và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao động;
- Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật;
- Đình công.
Bộ luật Lao động năm 2012 nghiêm cấm các hành vi sau (Điều 8):
1. Bộ luật Lao động năm 2012 được sửa đổi, bổ sung năm 2015 (gọi tắt là Bộ luật Lao động năm 2012).
78