🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hoa Trôi Trên Sóng Nước Ebooks Nhóm Zalo VỀ TÁC GIẢ N i sư Satomi Myodo (tục danh là Satomi Matsuno) sinh năm 1896, trong một gia đình nông dân nghèo tại Hokkaido. Không chấp nhận truyền thống cho rằng phụ nữ chỉ có thể là người vợ đảm, người mẹ hiền; ni sư quyết tâm tìm thầy học đạo. Trải qua nhiều khó khăn, tham cứu nhiều pháp môn nhưng ni sư vẫn không tìm được điều mình muốn. Ni sư đã tu theo Thần đạo (Shinto), làm đồng cốt cho đền thờ Thánh Mẫu (Kami), và sau cùng chuyển qua tu thiền. Mặc dù siêng năng tu học nhưng ni sư vẫn không tiến bộ bao nhiêu cho đến khi gặp thiền sư Yasutani (Bạch Vân lão sư). Dưới sự chỉ dẫn của vị này, ni sư đã kiến tánh và trở thành một trong những ni sư lỗi lạc nhất của Thiền tông Nhật Bản. Ni sư đã đào tạo nhiều thế hệ học trò và có một tầm ảnh hưởng rất lớn trong giới tỳ kheo ni của Nhật ngày nay. Ni sư qua đời vào năm 1978. Cuốn hồi ký Michi (tạm dịch: Hoa trôi trên sóng nước ) là cuốn sách nói về cuộc hành trình tìm đạo đầy gian khổ kéo dài hơn bốn mươi năm của tác giả. Khi tạp chí Phật học Kyosho khởi động loạt hồi ký này vào năm 1956, nó đã được các độc giả, nhất là độc giả nữ, say mê theo dõi. Lòng nhiệt thành và quyết tâm tìm đạo của ni sư là một tấm gương sáng cho tất cả những ai muốn bước chân vào cửa đạo. Ngoài ra, sự chứng đắc của ni sư đã đánh đổ quan niệm cổ hủ cho rằng chỉ có phái nam mới có thể thành công trên con đường tu học. LỜI NÓI ĐẦU T rong suốt bốn mưoi năm, tôi đã lang thang khắp Phù Tang tìm thầy học đạo. Tôi đã theo học với nhiều danh sư của các môn phái khác nhau nhưng không tìm được điều tôi muốn. Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn 2.500 năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó. Có lẽ các bạn sẽ thắc mắc tại sao một người sinh trưởng trong một quốc gia sùng mộ đạo Phật như Nhật Bản lại không biết đến điều này? Quả thật như thế, mặc dù vẫn đi chùa, tụng kinh, niệm Phật nhưng tôi như người ngủ mê, không ý thức một chút gì về con đường thoát khổ này. Giống như kẻ cùng tử [1]trong kinh Pháp Hoa, có hạt châu quý trong túi áo mà không biết, cứ cam chịu cuộc sống nghèo hèn, thì tôi cũng thế, cứ mê mải tìm kiếm hết thầy này đến thầy khác, hết lý thuyết này đến lý thuyết nọ. May thay, tôi đã gặp được thiền sư Yasutani và được ngài hướng dẫn, nhờ đó tôi mới ý thức được rằng cái khả năng giải thoát khỏi mọi sự đau khổ vốn sẵn có trong tôi mà tôi nào biết, cứ tìm kiếm mãi tận đâu đâu. Vì lẽ đó, tôi viết lại cuộc đời mấy chục năm gian nan tìm đạo này để mong những người vẫn còn đang mê mải tìm kiếm, hết thầy này đến thầy nọ, hết tông phái này đến lý thuyết kia, hãy mau chóng tỉnh ngộ, dừng lại, quay trở về với cái khả năng giải thoát sẵn có nơi mình. Tỳ kheo ni Satomi Myodo Tokyo, tháng 10 năm 1956 CHƯƠNG 1 T ôi được sinh ra vào năm Minh Trị thứ 29 (Meiji 1896) trong một gia đình nông dân tại Hokkaido. Cha tôi là một nhà nông trầm lặng, ít nói, suốt ngày chỉ biết cày sâu cuốc bẫm. Nếu cha tôi đã ít nói thì mẹ tôi còn ít nói hơn, bà là cái bóng của cha tôi, một người vợ chung thủy, một người mẹ hiền, và một nhà nông cần mẫn. Tuy xuất thân là nhà nông nhưng tôi không phải là một đứa bé ngoan ngoãn, có tinh thần trách nhiệm như những đứa trẻ nhà nông khác. Trái lại, tôi là một đứa bé lạnh lùng, ích kỷ, có tinh thần nổi loạn. Hiển nhiên một phần tính nết này bắt nguồn từ những chủng tử [2] được huân tập [3] trong nhiều đời nhiều kiếp, nhưng cũng một phần vì đường lối giáo dục nghiêm khắc và hoàn cảnh khi đó nữa. Vào lúc đó, chương trình giáo dục bao gồm đức dục, trí dục và thể dục ; nhưng đức dục được xem là quan trọng nhất. Các bài giảng về luân lý, đạo đức được chú trọng nhiều hơn những môn học khác. Những đứa trẻ như tôi được dạy bảo rất kỹ rằng: “Không được nói dối”, “Phải lễ phép với mọi người”, “Phải tuyệt đối kính trọng và vâng lời những người lớn tuổi” v.v... Không như những đứa bé khác, chấp nhận và tuân theo những quy tắc này, tôi thường đặt câu hỏi tại sao lại phải như thế, vì tôi thấy giữa lý thuyết và thực hành vẫn có điều gì không ổn. Tôi nhận thấy đa số người lớn tuổi chẳng mấy khi áp dụng những quy tắc này, nếu không muốn nói là đã hành động khác hẳn. Họ thường hay nói dối, cãi nhau, và có những hành động không đáng kính trọng chút nào. Ví dụ, khi người chủ ruộng đến nhà đòi nợ thì mẹ tôi sai tôi ra nói rằng cha tôi đi vắng, mặc dù tôi thừa biết ông đang trốn ở bồ lúa sau nhà. Vào dịp lễ lạc, dân làng tụ họp ăn uống, ai cũng cười nói vui vẻ. Họ trầm trồ khen những bộ kimono may thật đẹp, vừa vặn ôm sát người. Họ xuýt xoa khen những món ăn nấu thật vừa miệng không đầu bếp nào có thể sánh kịp. Thế nhưng khi tiệc tan, ai về nhà nấy, thì những lời chê bai, mạt sát bắt đầu được khui ra. Nào là mụ kia vừa già vừa xấu lại cứ tưởng mình đẹp lắm, ăn mặc diêm dúa như con gái còn xuân. Nào là ông nọ nghèo kiết xác, nợ như chúa chổm thế mà lúc nào cũng khoe khoang tiền bạc đầy nhà. Đại khái những điều mâu thuẫn như thế xảy ra rất thường, không riêng gì trong gia đình tôi mà cả trong những gia đình mà tôi quen biết. Ngay như vị thầy giáo “khả kính” hàng ngày thường khuyên học trò phải giữ gìn lời ăn tiếng nói, tránh sa ngã vào các thói hư tật xấu như cờ bạc, rượu chè; nhưng cuối tuần nào ông cũng có mặt ở nhà chứa bạc cuối xóm. Nhiều lúc tôi thấy mặt ông đỏ gay, quần áo xốc xếch, đi đứng lảo đảo vì say rượu. Mỗi khi thua bạc, ông còn chửi rủa om sòm không chừa một ai trong làng. Có lẽ vì thế nên một đứa bé vừa lên sáu lên bảy như tôi đã có thành kiến về các quy tắc được gọi là luân lý, đạo đức này. Theo tôi, đó chỉ là những mớ lý thuyết hay nhưng không thể áp dụng, nếu có thì cũng chỉ áp dụng cho những đứa bé ngây thơ không biết nhận xét mà thôi. Vì đã có thành kiến như thế nên tính tình tôi ngày càng trở nên lạnh nhạt, khô khan và hay khinh thường các giá trị đương thời. Tuy là một nhà nông nghèo nhưng cha mẹ tôi đã đặt nhiều hy vọng vào đứa con duy nhất là tôi. Ông bà dành dụm tiền để gửi tôi vào trường trung học trên tỉnh, cách làng khoảng sáu cây số. Lúc đó (năm 1904), đường sá giao thông tại Hokkaido còn thô sơ lắm, từ làng lên tỉnh khoảng vài cây số đã là cả một chân trời cách biệt rồi. Tôi thường phải rời nhà từ lúc trời còn mờ sương trên những chuyến xe chở rau lên tỉnh. Khi tan học thì trời đã xế chiều, tôi phải đi bộ băng qua mấy thửa ruộng mới về đến nhà. Cha mẹ tôi đặt việc học lên trên hết. Ông bà khuyến khích tôi phải học thật nhiều nhưng vì bận việc đồng áng, ít khi có cơ hội nói chuyện hay tìm hiểu nhiều về tôi nên càng ngày tôi càng lạnh lùng, độc lập, khác hẳn những đứa bé cùng tuổi trong làng. Thời đại Minh Trị là một giai đoạn chuyển tiếp hết sức quan trọng của Nhật Bản. Giai đoạn canh tân năm 1868 chấm dứt chế độ Sứ Quân, bãi bỏ chính sách bế quan tỏa cảng và đưa Thiên Hoàng lên địa vị tối cao. Từ khi mở cửa, Nhật Bản thấy rõ mình đang ở trong tình trạng suy kém về mọi phương diện trước sự tiến bộ quá nhanh của các cường quốc phương Tây. Bài học Trung Hoa bị cường quốc xâu xé khiến các nhà lãnh đạo Nhật Bản phải gấp rút ban hành ngay một chính sách cải cách hầu đưa quốc gia ra khỏi tình trạng suy thoái nguy hiểm này. Chính sách được áp dụng lúc đó là việc thay đổi toàn diện hệ thống giáo dục, thương mại, hành chính, canh nông, để xây dựng một nền kinh tế vững mạnh. Song song với chính sách này là việc đề cao tinh thần quốc gia, kỷ luật hóa đường lối làm việc, và thiết lập một nền quân sự phòng khi quốc biến. Trường tôi theo học là một trường nữ trung học. Mục đích của các trường nữ trung học khi đó không chú trọng nhiều vào việc cung cấp kiến thức mà chỉ nhằm đào tạo nữ sinh trở thành những “người vợ đảm và người mẹ hiền”. Mỗi sáng, bà hiệu trưởng tập hợp tất cả nữ sinh vào giảng đường để nghe bà thuyết giảng về bổn phận của người vợ và người mẹ. Bà nhắc đi nhắc lại rằng đó là “thiên chức” của phụ nữ, một phụ nữ đúng nghĩa phải biết khiêm tốn trước người chồng, khi đi phải đi sau người chồng hai bước, khi ăn phải chờ chồng ăn trước rồi mới được ăn, phải làm mọi việc nặng nhọc vì người vợ được sinh ra là để chiều chuộng và hầu hạ người chồng. Bà hiệu trưởng luôn luôn nhấn mạnh danh từ “người chồng” chứ không phải “người đàn ông” vì theo bà, đàn ông là một con thú chuyên rình rập, hãm hại các thiếu nữ ngây thơ, khờ dại. Một khi đã thất tiết thì chỉ có nước chết, không còn danh dự, không còn một chút giá trị gì trên cõi đời này nữa. Hiển nhiên, giải pháp tốt nhất là lập gia đình, trở thành một “người vợ đảm, người mẹ hiền”, và như thế mới có thể thoát khỏi cạm bẫy của những “con thú đội lốt người” này. Là một thiếu nữ bướng bỉnh, có tinh thần độc lập, tôi đã tự hỏi giữa người chồng và người đàn ông thì khác nhau chỗ nào? Tại sao trước khi kết hôn, người đàn ông là con thú, mà sau khi thành hôn họ lại được trọng vọng như một ông hoàng? Phải chăng hôn nhân chỉ là một cạm bẫy do đàn ông đặt ra? Trong suốt thời gian học trung học, chúng tôi được dạy rất kỹ rằng không được nhìn một người khác phái nào, đi đâu cũng phải đi chung với nhau thành nhóm ba người để tránh bị chòng ghẹo, và cũng để báo cáo những hành vi lơ đễnh, bất cẩn của một người nào đó. Đối với các nữ sinh, đó là những khuôn vàng thước ngọc, nhưng với tôi nó chỉ là một mớ lý thuyết làm giảm giá trị của người phụ nữ mà thôi. Sau khi tốt nghiệp trung học, cha mẹ tôi khuyến khích tôi nên tiếp tục học nữa. Tôi thi đậu vào phân khoa Văn của trường Đại học Tokyo và nuôi mộng trở thành một văn sĩ. Tôi từ giã Hokkaido lên đường đến Tokyo. Dù đây là lần đầu tiên sống xa nhà nhưng điều này không gây trở ngại bao nhiêu vì tôi đã quen sống độc lập từ nhỏ. Đây cũng là lần đầu tôi có cơ hội tiếp xúc với những người khác phái vì sau buổi học, nam nữ được tự do giao thiệp. Đa số sinh viên văn khoa lúc đó đều say mê chủ nghĩa lãng mạn. Họ nói chuyện một cách văn hoa, lịch sự, đôi khi thêm vào vài câu văn trích dẫn trong tiểu thuyết hay các bài thơ của các văn thi sĩ đương thời. Hiển nhiên, những thói thời thượng này đã tạo môi trường thuận lợi nảy nở tình cảm giữa các nam nữ sinh viên. Ngay trong khóa học đầu, đã có một thanh niên chú ý và theo đuổi tôi, nhưng tim tôi không hề rung động. Tôi quan sát từng cử chỉ, lời ăn tiếng nói của hắn để chuẩn bị đối phó. Tôi càng tỏ ra lạnh nhạt bao nhiêu thì hắn lại càng say mê tôi bấy nhiêu. Hắn theo sát tôi như bóng với hình, đón tôi trước cửa lớp học, tặng tôi những bài thơ, mời tôi đi xem kịch nhưng lòng tôi vẫn không hề rung động. Tôi thản nhiên trước sự săn đón nồng nàn của hắn và cảm thấy thích thú mỗi khi thấy hắn tỏ ra đau khổ vì không được tôi đáp lại. Thỉnh thoảng, tôi cũng ban cho hắn một vài ân huệ nhỏ nhặt như cho phép hắn mời tôi đi xem hát hay đi dạo trong các khu phố quanh trường. Dần dần tôi trở nên thích thú với trò đùa này, nhất là mỗi khi thấy khuôn mặt đầy vẻ thất vọng của hắn khi bị tôi từ chối một việc gì đó. Tôi nghĩ mình là người có kỷ luật cảnh giác cao độ, hơn nữa tôi đâu hề có cảm tình gì với hắn. Đối với tôi, hắn chỉ là một con chuột nhỏ trước nanh vuốt của một con mèo già, đầy kinh nghiệm là tôi. Nhưng tôi đã lầm và lầm rất lớn. Trong một buổi hẹn hò, tôi đã yếu lòng, mất tự chủ và thất thân với hắn. Điều bất ngờ hơn nữa là chỉ ít lâu sau tôi thấy mình có thai. Mặc dù tôi biết hắn yêu tôi tha thiết, nhưng tôi không hề có chút cảm tình gì với hắn. Hôn nhân không phải là mục đích của tôi nên tôi nhất định không cho hắn biết gì về hậu quả tai hại này. Tương lai xán lạn của tôi bỗng trở nên đen tối như đêm ba mươi. Tôi vẫn muốn tiếp tục việc học nhưng trước cái bụng càng ngày càng lớn, tôi biết mình không thể ở đây được nữa. Sau cùng, với tâm trạng khủng hoảng cùng cực, tôi đành trở về nhà. Cha mẹ tôi hết sức ngạc nhiên vì sự trở về bất ngờ này, nhưng là một nhà nông chất phác, ông bà không biết phải hỏi tôi như thế nào. Hiển nhiên mẹ tôi để ý ngay đến thân thể đẫy đà của tôi, nhưng vốn là người ít nói, bà giữ thái độ im lặng, chỉ nhìn tôi bằng cặp mắt thương xót. Đáng lẽ ra tôi phải trình bày mọi chuyện với cha mẹ tôi và xin tha thứ về lỗi lầm đáng tiếc này; nhưng không hiểu sao tôi lại lựa chọn thái độ im lặng. Mỗi sáng chúng tôi thức dậy trong một bầu không khí ảm đạm nặng nề, không ai nói với ai câu nào. Chúng tôi ăn vội vài bát cơm rồi hối hả ra đồng làm việc. Tôi thường lựa một chỗ riêng, xa hẳn nơi cha mẹ tôi làm việc và cắm cúi làm để không phải nghĩ đến những điều tủi nhục, xấu hổ mà tôi biết trước sau gì cũng sẽ bùng nổ. Tôi muốn cha mẹ tôi mắng chửi tôi một trận thật nặng, đuổi tôi ra khỏi nhà, hoặc yêu cầu tôi tự tử cho đỡ nhục, nhưng ông bà vẫn không hề hé răng nói một lời nào. Sự im lặng này khiến cho lòng tự ái của tôi bị tổn thương, đầu óc tôi rối loạn cùng cực. Tôi không biết phải làm gì hơn là tiếp tục chịu đựng nỗi cay đắng, nhục nhã gặm nhấm vào từng lớp da, thớ thịt. Một hôm, tôi đang làm việc ngoài đồng thì nghe tiếng cha tôi gọi lớn. Tôi vội vã bước đến thì thấy ông đang ngồi xổm trước bờ ruộng đăm đăm nhìn một cái gì đó trước mặt. Tôi ngồi xuống bên cạnh và thấy ông đang chăm chú nhìn một cọng cỏ dại mọc bên bờ ruộng. Một lúc sau, ông nhỏ nhẹ lên tiếng: - Ta đã quan sát nó từ lâu rồi, thật là lạ lùng… Nhìn kìa, một con kiến cánh đang leo lên cọng cỏ. Nó tiếp tục bò lên và bò lên… A ha, nó ngã xuống rồi… nhưng khoan đã… hãy quan sát cho kỹ, nó lại tiếp tục bò lên nữa. Nó đã làm vậy biết bao lần rồi… Trong lúc cha tôi nói, con kiến cánh tiếp tục bò lên cọng cỏ rồi lại ngã xuống, nhưng nó ngo ngoe đôi râu, tiếp tục bò lên. Cha tôi vẫn nói bằng một giọng đều đều: - Đó, thấy không! Nó vẫn tiếp tục leo lên ngọn cỏ… Có lẽ nó mệt lắm. Mỗi khi mệt, nó duỗi mấy chiếc chân nhỏ xíu ra cho đỡ mỏi, xòe đôi cánh ra để lấy sức, và rồi tiếp tục leo lên ngọn cỏ như trước… Cha tôi nói, giọng trầm trầm, mắt vẫn không rời con vật bé nhỏ đang run rẩy bò lên cọng cỏ kia. Tôi ngạc nhiên theo dõi con vật đang cố gắng leo lên ngọn cỏ trước mặt, nó ngã xuống và rồi tiếp tục leo lên. Bất ngờ thay, như bị một tia sét lớn đánh trúng đầu óc hoang mang của tôi, tôi chợt hiểu điều cha tôi muốn nói. Tôi đứng phắt dậy, lảo đảo đi về phía bồ lúa sau nhà, đến một góc khuất, tôi ngã gục xuống đất, ngực tôi đau nhói, hai mắt tôi cay xè. Lần đầu tiên trong đời tôi ý thức rõ rệt mình đang khóc. “Cha ơi, con hiểu rồi. Con thật sự hiểu điều cha muốn nói. Cha thương con biết chừng nào. Con thật bất hiếu. Cha vẫn nuôi hy vọng ở con trong khi con đã âm thầm bỏ cuộc. Thật là đáng tiếc khi con đã không hiểu được lòng cha rộng lớn và bao la biết chừng nào. Từ nay con quyết sẽ giữ trọn lòng hiếu thảo với cha, con sẽ phải bù đắp những hy sinh cao quý của cha…”. Tôi không biết mình đã khóc trong bao lâu nhưng gánh nặng mà tôi chất chứa trong lòng bỗng nhiên nhẹ hẳn đi. Trong giây phút đó, mọi việc như sáng tỏ hơn bao giờ hết. Tôi ngước mắt nhìn những cánh đồng lúa xanh trước mắt, nhãn quan của tôi mở rộng đến những cây cổ thụ mọc ở đầu làng, những ngọn đồi thấp, những con lạch nhỏ uốn quanh đó, những căn nhà tranh với những làn khói bếp màu xám… Tôi còn nhìn thấy chim muông bay lượn trên không… Tất cả đều vươn lên một sức sống diệu kỳ, không thể diễn tả. Tôi hít một hơi thật dài và thấy sảng khoái hơn bao giờ hết. Tất cả mọi vật dường như hòa nhập vào trong tôi và chỉ trong giây lát, mọi sự đau khổ bỗng tan biến như mây khói. Tai tôi chợt nghe văng vẳng những điều mà tôi đã được dạy bảo từ khi còn ở tiểu học, những lời khuyên bảo về đạo đức mà tôi vẫn cho rằng không thể áp dụng, bỗng tự nhiên trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Tôi lẩm bẩm: “Lòng hy sinh, chịu đựng và chân thật là điều có thể thực hiện được. Nó không phải là lý thuyết suông”. Trong giây phút đó, tôi như con tằm vừa lột xác ra khỏi kén. Mọi sự kiêu căng, lạnh lùng từ trước bỗng dưng tan biến hết. Tấm lòng hy sinh chịu đựng vô bờ bến của cha tôi đã chạm đến tôi. Tôi hiểu được tình thương mà cha mẹ tôi vẫn dành cho tôi từ bấy lâu nay. Cho đến lúc đó tôi mới ý thức rằng từ trước đến giờ tôi vẫn là một đứa bé lạnh lùng, ích kỷ, ưa châm biếm, nghi ngờ. Tôi chẳng bao giờ nghĩ đến ai khác và cũng chẳng hề nghĩ rằng mình có thể cần ai. Lòng kiêu hãnh đã biến tôi thành một khối nước đá, lạnh lùng dửng dưng trước những sự kiện xảy ra quanh mình. Thật may mắn khi tôi có thể hiểu được những điều mà từ trước đến nay tôi vẫn cho là trừu tượng này. Tôi biết rõ mọi sự xảy ra chỉ là phản ứng của tư tưởng và hành động của mình. Dĩ nhiên, tôi phải gặt những gì tôi đã gieo, và tôi xứng đáng nhận lãnh hậu quả đó. Tuy nhiên, tôi còn ý thức rằng những điều mà tôi gọi là đạo đức, luân lý chỉ là những giá trị được xây dựng trên một nền tảng nào đó và chính cái nền tảng này mới là động năng mầu nhiệm thúc đẩy con người hành động một cách cao thượng. Làm sao người ta có thể ý thức được cái giá trị căn bản này? Hiển nhiên tôi không thể trả lời nó trong lúc này, nhưng tôi biết muốn thực sự hiểu được giá trị đó, người ta cần phải tìm một người không những đã trải nghiệm qua nó mà còn phải hiểu và biết sống với nó nữa. Phải chăng đó là bước đầu của người tìm đạo? Phải chăng cái người ta cần tìm là một vị thầy? Tôi không có nhiều thời giờ suy ngẫm thêm về những điều đó nữa vì chỉ ít lâu sau, vào đầu mùa đông tôi đã hạ sinh đứa con gái đầu lòng. Hai tháng trước đó, cha của đứa bé đã tìm đến nhà tôi sau khi nghe phong thanh rằng tôi đã có con với hắn. Là con của một công chức tòa hành chính, hắn vẫn hy vọng sẽ nối nghiệp cha nhưng khi biết tin tôi có con với hắn, hắn bỏ học về sống với gia đình tôi tại Hokkaido. Cha mẹ tôi lập tức công bố điều này với mọi người trong làng và một đám cưới đã được tổ chức cấp tốc sau đó. Chồng tôi là một thanh niên đẹp trai nhưng mảnh khảnh, tiêu biểu cho lớp thư sinh trói gà không chặt, nhưng hắn đã cố gắng làm mọi việc trong nhà, từ giã gạo, bổ củi đến việc cho gia súc ăn. Qua năm sau, tôi sinh hạ thêm một bé gái nữa. Dù đã có với nhau hai mặt con, nhưng tình cảm vợ chồng chúng tôi vẫn không hề tiến triển thêm được chút gì. Không hiểu sao chúng tôi thường khắc khẩu, hay cãi cọ vì những chuyện không đâu. Về sau tôi biết, hễ lên tiếng thì thể nào cũng xảy ra cãi cọ nên tôi quyết định giữ im lặng. Có lúc tôi đã nghĩ đến việc ly dị nhưng lại không dám vì nghĩ đến hai đứa con. Điều bất ngờ hơn cả là tôi càng chịu đựng bao nhiêu thì một người vốn ít nói như cha tôi lại càng không chịu đựng được chồng tôi bấy nhiêu. Không khí trong nhà dần dần trở nên ngột ngạt, căng thẳng và sau cùng, sau một trận cãi vã kịch liệt giữa cha tôi và chồng tôi, nửa đêm hôm đó chồng tôi hầm hầm thu dọn đồ đạc bỏ về Tokyo. CHƯƠNG 2 S au khi chồng tôi bỏ đi, tôi tiếp tục sống với cha mẹ tại Hokkaido. Hàng ngày tôi vừa nuôi con, vừa làm những công việc đồng áng như cấy lúa, trồng rau, chăn nuôi gia súc. Bên ngoài dường như không có chuyện gì nhưng trong tâm tôi đã có nhiều thay đổi lớn. Khi xưa tôi là một người ích kỷ, lạnh lùng, coi thường những giá trị đương thời thì hiện nay tôi lại hoàn toàn tin rằng người ta không thể sống mà không tuân theo những giá trị này được. Tin tưởng rằng con người phải sống một cách thành thật (kakoto) với những giá trị căn bản bắt nguồn từ Thần đạo là một truyền thống đã ăn sâu vào cách sống của người dân đất Phù Tang. Thần đạo quan niệm rằng mục đích của đời người là làm sao biết cách sống thành thật với mình, với người, và với ngoại cảnh hay thiên nhiên. Một khi đã sống một cách trong sạch, quang minh chính đại và hợp đạo nghĩa thì mọi ý nghĩ, hành động của mình đều hòa hợp được với các thần linh trong thiên nhiên (Kami). Sở dĩ con người đau khổ vì họ đã không biết cách sống hòa thuận với những giá trị thiêng liêng bất di bất dịch này. Từ đó tôi nghiệm ra rằng chính sự thương yêu chân thành của cha tôi đã cảm hóa được tôi và bổn phận của tôi, sau khi đã nghiệm được những điều này, là phải giúp đỡ những người khác để họ biết cách sống hợp với đạo nghĩa ấy. Tôi thấy mình bắt đầu thay đổi và cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn trước. Từ một con người lạnh lùng, ích kỷ, tôi trở thành một con người có ý tưởng phụng sự, giúp đỡ những người khác. Hôm đó, tôi ra đồng làm việc, như thường lệ, tôi làm từ lúc trời còn mờ sáng đến khi mặt trời đứng bóng thì mới chịu ngừng tay nghỉ ngơi. Tôi vừa ngồi xuống bờ ruộng thì bỗng thấy xây xẩm mặt mày và có cảm giác như đang ở trong một trạng thái mê hoặc, xuất thần. Tôi nghe có tiếng ai gọi bên tôi một cách cấp bách: “Matsuno! Này Matsuno hãy nhìn kìa!”. Tự nhiên tôi thấy thửa ruộng trước mặt bỗng biến thành một vườn dâu xanh ngắt với trăm ngàn bông hoa nhỏ màu vàng đang nở rộ. Tôi ngạc nhiên dụi mắt nhìn kỹ thì thấy bên dưới những chiếc lá xanh mơn mởn và những bông hoa vàng rực rỡ có hàng ngàn hàng vạn con sâu màu sắc lạ lùng đang gặm nhấm, âm thanh sột soạt của muôn vạn hàm răng đang ngấu nghiến lá dâu khiến tôi phát rợn cả người. Tôi đang bàng hoàng thì một tiếng nói ở đâu đó vang lên: “Con thấy không, thế giới loài người cũng đang bị gặm nhấm như vậy đấy”. Tôi cố gắng định thần để tìm hiểu thêm về ý nghĩa của câu nói trên thì tự nhiên vườn dâu trước mặt tôi bỗng biến thành một khu rừng rậm rạp, cây cối mọc chi chít. Có tiếng ai thúc giục: “Này Matsuno, cái gốc rễ tội lỗi trên thế gian đã bị đốn sạch ở thế giới bên này rồi. Con hãy tiếp tục công việc đó trên thế gian”. Tự nhiên tôi đâm ra ngây ngất trước cái ý tưởng lạ lùng đó. Tôi linh cảm rằng đó là tiếng nói của thần linh, hình như các ngài vừa truyền trao cho tôi sứ mệnh quét sạch mọi bất công, tội lỗi trên thế gian này. Tôi không do dự, khẳng khái trả lời ngay: “Con sẽ làm việc đó. Nếu gốc rễ của mọi tội lỗi đã được dọn sạch rồi thì chỉ cần dụng công một chút là xong chứ gì”. Ngay lúc ấy, dường như có cái gì dội mạnh trong lồng ngực khiến tôi bừng tỉnh. Phải chăng tôi đã ngủ mê? Tôi bàng hoàng nhìn thửa ruộng trước mặt, vẫn không có gì thay đổi, mấy gốc lúa non vừa trổ mầm, mấy rãnh dẫn nước vào ruộng vừa được tôi khai thông. Tôi không thể phân biệt được mình đang mê hay đang tỉnh. Mặc dù linh ảnh lạ lùng đó đã qua nhưng nó để lại một ấn tượng hết sức mãnh liệt trong trí tôi khiến tôi cứ ngây ngất mãi. Từ đó trở đi, tôi luôn luôn bị lôi cuốn vào những cơn mê xuất thần như vậy. Có lúc tôi thấy mình như đang sống trong một thế giới huyền bí lạ lùng, nửa như thực nửa như mộng, và tôi có thể thấy trước những điềm chẳng lành sẽ xảy ra, như những trận động đất, thiên tai, hỏa hoạn, một bằng chứng rằng sẽ có những thay đổi để quét sạch, tẩy uế mọi tội lỗi của thế gian này. Trạng thái tinh thần của tôi càng ngày càng trở nên kỳ lạ, tôi sống mà cứ như người bị mộng du, chập chờn ở một nơi chốn nào đó không rõ rệt. Tuy nhiên, không hiểu sao tôi lại cảm thấy thích thú như được tham gia vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm chi đó. Tôi tin rằng nhờ đã chuyển hóa và biết phát tâm nên tôi đã được các đấng thần linh lựa chọn với một sứ mệnh quan trọng. Từ đó, tôi bị ám ảnh bởi ý nghĩ sẽ hoàn tất sứ mệnh giúp đỡ mọi người để họ có thể sống một cách chân thật cho đúng với ý nghĩa của cuộc sống. Một hôm, trong bữa cơm chiều, tôi thu hết can đảm ngỏ lời với cha mẹ: - Xin cha mẹ cho phép con trở về Tokyo. Cha tôi ngừng đũa, đưa mắt nhìn tôi một hồi lâu như dò xét, rồi lên tiếng: - Mày trở lại Tokyo để làm gì? - Con muốn tiếp tục việc học. - Đi học ư? Nhưng học cái gì mới được chứ? - Con không thể nói được. Cha tôi nhìn tôi ngờ vực, dĩ nhiên tôi không thể nói cho cha tôi biết những ý nghĩ thầm kín của mình. May thay, mẹ tôi lên tiếng: - Nó muốn về với chồng nó chứ còn gì nữa. Điều này cũng dễ hiểu thôi… Cha tôi thở dài một tiếng não nuột, rồi nói như than: - Thôi thế cũng được, nhưng tao… Sợ cha tôi hiểu lầm, tôi vội vã cắt ngang: - Không phải đâu… không phải vậy đâu, con chỉ muốn cha mẹ trông giùm hai đứa bé trong khi con đi Tokyo tiếp tục việc học mà thôi. Cha tôi ngạc nhiên nhìn tôi một lúc rồi lắc đầu: - Không được, mày hãy mang một đứa theo. Mẹ mày không thể trông hai đứa nhỏ một lúc được, hơn nữa đứa bé còn đang bú mẹ kia mà… Tôi biết một khi đã quyết định, ít khi nào cha tôi đổi ý cho nên tôi thu hết can đảm xin thêm một ân huệ nữa: - Nếu thế xin cha cho con 200 đồng làm vốn. - Làm gì nhiều thế? 30 là đủ lắm rồi. Hôm sau, tôi lên đường trở lại Tokyo với đứa con gái nhỏ trên lưng và 30 đồng bạc trong túi. Mặc dù chỉ có 30 nhưng vào lúc đó, nó có giá trị bằng cả ngàn bạc bây giờ vì vé xe lửa từ Hokkaido đi Tokyo chỉ mất có 5 đồng thôi. Tôi thuê một gác trọ ở ngoại ô thành phố và lập tức đi kiếm việc làm. Lúc đó, tình hình kinh tế đang phát triển, các hãng xưởng mọc lên như nấm, nhân công đi làm rất nhiều nên tôi tìm ngay được việc bán cháo rong trước cửa các hãng xưởng. Đời sống vật chất tạm ổn định, tôi nghĩ ngay đến việc ghi tên đi học lại. Nhờ có học bạ tốt, tôi được nhận vào phân khoa Triết ở Đại học Tokyo. Vì không thể gởi con cho ai nên mỗi sáng sau khi cho con bú, tôi đành để nó nằm trong nôi một mình rồi đi học. Khi trở về, đứa bé khát sữa đã khóc khô cả cổ, thân thể ướt sũng đồ phóng uế vì không có người thay tã lót. Tôi đau lòng lắm nhưng không biết phải làm sao nên ngày nào cũng vừa ôm con vừa khóc: “Thôi con hãy chịu đựng ít lâu để chờ mẹ học, sau này mẹ sẽ đền bù cho con”. Vì vừa đi làm vừa đi học nên sức khỏe của tôi sút giảm nhanh chóng, sữa của tôi cũng vì thế mà cạn dần nên đứa bé đã đói lại càng đói hơn, đêm nào nó cũng khóc rất lâu khiến tôi không sao ngủ được. Có lẽ thế nên khi vào lớp tôi cũng chẳng học được bao nhiêu mà thường hay ngủ gật trong giảng đường. Tình trạng này kéo dài khoảng vài tháng thì gia đình bên chồng tôi biết được. Họ điều tra ra hoàn cảnh của tôi và kéo đến làm dữ. Cha tôi được bà chủ nhà trọ thông báo, vội vã đến Tokyo ngay. Hôm cha tôi đến thì gia đình bên chồng tôi cũng kéo đến gác trọ và một trận cãi vã kịch liệt đã diễn ra. Gia đình bên chồng tôi gồm có bà mẹ chồng, cô em chồng và chồng tôi, trong khi bên tôi chỉ có cha tôi và bà chủ nhà trọ. Mẹ chồng tôi là một người to lớn đẫy đà, giọng nói oang oang như lệnh vỡ. Bà quen thói lấy thịt đè người nên chỉ sau vài câu quát tháo, bà đã hung hăng xông vào toan túm lấy tóc tôi hành hung. Cha tôi là người trầm tĩnh nhưng quyết liệt. Ông đứng chặn ở giữa không để cho bà mẹ chồng tôi làm dữ và nhất định đòi đem việc này ra trước pháp luật. Ông lý luận rằng chính chồng tôi đã bỏ đi, không một lời từ biệt, không hề cấp dưỡng cho hai đứa con, do đó phần lỗi hoàn toàn ở hắn. Cuộc tranh luận kéo dài suốt buổi chiều hôm đó với đủ mọi lý luận nhưng rốt cuộc không ai chịu nhường ai. Sau cùng, mẹ chồng tôi đổi chiến thuật, bà ôm mặt khóc rưng rức rồi chỉ vào đứa bé: - Này chị kia, chị có thương con chị không? Tại sao chị nỡ để cho nó đói khát, khổ sở như vậy? Tôi nghẹn ngào không nói được lời nào. Cô em chồng thừa lúc tôi đang chùi mặt, xông đến giằng phắt đứa bé ra khỏi tay tôi trong khi bà mẹ chồng xỉa xói: - Chị là cái giống gì vậy? Chị là người hay thú mà để cho con ruột của mình phải đói khát, bẩn thỉu như vậy? Tôi kêu thất thanh: - Con của tôi, tại sao mấy người cướp con của tôi… Bà mẹ chồng xông ra chặn lối để cô em chồng ôm đứa bé chạy ra đường: - Này chị kia, tuy nó là con của chị nhưng nó là cháu của tôi. Chị không lo được cho nó thì để tôi lo cho cháu của tôi. Cả gia đình kéo nhau ra cửa, tôi xông ra theo nhưng bị chồng tôi cản lại khiến tôi ngã lăn ra đất. Cha tôi đứng yên không phản ứng. Ông chờ gia đình bên chồng tôi kéo đi hết, rồi ôn tồn khuyên: - Thôi đừng khóc nữa, thà để cho cha nó lo cho nó còn hơn để nó phải khổ sở đói khát như vậy. Bà chủ nhà trọ cũng đồng ý: - Ông cụ nói thế mà đúng đấy. Cô không thể vừa trông con vừa đi học được đâu. Thôi thế cũng hay, từ nay cô tha hồ tự do, không phải lo lắng gì nữa. Nói thật, nhiều lúc tôi cũng xót thương hoàn cảnh của cô lắm, còn trẻ mà lại đèo bòng con nhỏ thì làm sao thoải mái cho được! Tôi cảm thấy khó chịu trước lời khuyên của bà chủ nhà trọ nhưng nhìn khuôn mặt hiền lành chất phác đầy lo âu của cha tôi, tôi thấy ngực mình đau nhói. Tôi đã chẳng quyết tâm báo hiếu, làm cho cha tôi vui lòng hay sao? Từ trước đến nay tôi đã làm cho ông đau khổ nhiều rồi nên không muốn ông phải lo lắng về tôi thêm nữa. Tôi cương quyết: - Cha đừng quá lo cho con nữa, con sẽ cố gắng học hành để không phụ lòng cha mẹ. Cha cứ yên chí, rồi mọi việc sẽ tốt đẹp. Hôm sau, cha tôi trở về Hokkaido sau khi đã dặn bà chủ nhà trọ trông nom săn sóc cho tôi. Tuy nhiên, khi cha tôi đi rồi thì tôi không còn thiết tha một thứ gì nữa, chỉ nằm trên giường khóc lóc vật vã. Cho đến lúc đó tôi mới biết mình đã thương yêu đứa con như thế nào. Đứa bé mà tôi vẫn nghĩ là một gánh nặng thật ra chính là động năng thúc đẩy tôi tranh đấu để vượt qua mọi khó khăn. Chính vì nó mà tôi quyết tâm vừa đi làm vừa đi học để vươn lên, nay không có nó, tôi mất hết sinh lực và lý do để sống. Nhiều hôm tôi lang thang ngoài phố như người mất hồn, quanh quẩn từ con đường này sang đại lộ khác, rồi cuối cùng dừng chân trước căn nhà của gia đình chồng tôi ở khu Kanda. Tôi đứng rất lâu trước cửa nhà, lấm lét như một tên trộm, và sợ hãi bỏ chạy mỗi khi có người trong nhà đi ra, nhưng hình như gia đình chồng tôi đã dọn đi nơi khác vì không bao giờ tôi gặp một khuôn mặt quen thuộc nào ở đó cả. Trong suốt mấy tháng liền, tôi sống trong sự đau khổ và tuyệt vọng cùng cực, mỗi khi nghe tiếng trẻ con khóc là tôi lại giật mình nghĩ tới đứa con đang thèm sữa mẹ. Tình trạng tinh thần tôi sa sút thảm hại, càng ngày tôi càng như muốn rút vào thế giới riêng của mình, một thế giới mơ hồ với những ảo ảnh kỳ lạ. Vào một ngày mùa đông tuyết phủ trắng xóa, tôi nằm trên giường cố dỗ giấc, đầu óc chập chờn trôi vào một thế giới lạ lùng đầy hoa thơm cỏ lạ mà tôi chưa từng thấy. Tôi đang hoang mang thì bỗng có tiếng kêu lớn: “Matsuno, hãy cẩn thận!”. Tôi giật mình nhìn lên trần nhà thì thấy hình như có một lưỡi kiếm sắc đang treo lơ lửng, mũi nhọn của thanh kiếm chĩa xuống nhằm ngay cổ họng tôi. Tôi kêu lên: “Đúng rồi, người ta muốn giết tôi đây mà!”. Không hiểu sao tôi nghĩ rằng bà chủ nhà trọ đã toa rập với gia đình bên chồng để giết tôi. Tôi lẩm bẩm: “Ta không thể ở đây được nữa, tuy chúng mày muốn giết ta nhưng đâu phải dễ, vì ta đã có các thần linh phù hộ cho ta rồi!”. Tôi khoác vội lên mình chiếc áo choàng mỏng rồi mở cửa sổ leo ra ngoài. Căn gác của tôi ở tầng trên, sát với những mái nhà kế cận nên chỉ một thoáng sau tôi đã đứng trên mái nhà. Tôi nhủ thầm: “Ta phải thoát ra khỏi nơi đây, càng xa càng tốt”. Không hiểu sao tôi có thể di chuyển từ mái nhà này sang mái nhà khác một cách dễ dàng, toàn thân tôi lướt đi một cách nhẹ bẫng. Đôi chân trần của tôi giẫm trên tuyết lạnh mà không hề hấn gì cho đến khi tôi thấy mình đứng trước một hồ nước lớn. Tôi thấy hình như có một người đang trầm mình dưới nước, tôi nghĩ ngay đến thi sĩ Fujimura Misao (1886 – 1903), người đã gieo mình xuống thác Kegon sau khi để lại một bài thơ bất hủ với những câu như: “Ôi đời sống, ta thật không thể hiểu nổi mi”. Tôi gọi lớn: “Misao, có phải thi sĩ Misao đó không?”. Người đó không trả lời mà cứ lờ mờ khi ẩn khi hiện dưới nước. Như có một hấp lực gì lôi cuốn, tôi vội lao mình xuống đó. Hình như có tiếng kêu thất thanh ở đâu đó vọng lên nhưng tôi không còn biết gì nữa, trước mặt tôi chỉ có nước và đó là thứ tôi cần. Tôi vừa bước chân xuống nước thì hình như có ai đó xông đến nắm chặt lấy áo tôi, tôi vùng vẫy khiến chiếc áo choàng tuột ra, bên trong tôi chỉ mặc đồ lót nhưng tôi không còn biết gì nữa mà vẫn tiếp tục xông tới hồ nước. Có tiếng nhiều người kêu gào, rồi một người mặc y phục cảnh sát xông ra ôm chặt lấy tôi. Tôi vừa gào thét vừa vùng vẫy nhưng hắn đã nhanh tay thoi cho tôi một cái khiến tôi ngã lăn ra. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trong một dưỡng trí viện. Người ta để tôi ở trong một căn phòng riêng có những chấn song như thể nhốt một con thú, hàng ngày có y sĩ đến khám nhưng tôi không thèm nói chuyện với họ. Nếu có thì tôi cũng chẳng biết nói gì nữa vì tâm trạng tôi lúc ấy thật hoang mang, mơ hồ. Tôi tin rằng mình đã bị bắt do những kẻ hung dữ đồng lõa với gia đình nhà chồng tôi. Tất cả mọi người, từ y sĩ đến nhân viên bệnh viện, đều là những kẻ ác độc và tôi đã chỉ tay vào họ, nguyền rủa: “Chúng mày là những kẻ độc ác, sẽ bị trời tru đất diệt, ta là người được các đấng thần linh phù hộ, ta có nhiệm vụ cứu khổn phò nguy, giúp đỡ kẻ hiền lành lương thiện, chúng mày không làm gì được ta đâu!”. Có khi tôi thách thức họ: “Có giỏi thì giết ta đi, chúng bay không thể giết ta được đâu! Ta đã được các đấng thần linh che chở, ta sẽ không bao giờ chết!”. Suốt thời gian đó tôi sống trong một thế giới với những hình ảnh lạ lùng, có khi tôi thấy lửa cháy rực trời, tôi đoán chắc các đấng thần linh đang trừng trị những kẻ ác độc trong bệnh viện và tôi la lớn: “Thấy chưa, lửa cháy kìa! Lửa cháy để thiêu sạch những tên ác độc như bọn bay! Xin cảm tạ các đấng thần linh. Xin đội ơn các ngài, con nguyện tuân theo ý muốn của các ngài…”. Mỗi khi nhân viên đưa thức ăn vào phòng cho tôi thì tôi tru lên: “Thuốc độc! Bọn bay toan giết ta bằng thuốc độc hay sao? Ta không bao giờ đụng tới những thứ đó đâu!”. Sau một thời gian la hét giận dữ, cơn điên loạn lui dần và tôi bước vào trạng thái chỉ ngồi yên không nói năng gì nữa. Người ta chuyển tôi vào một căn phòng với những người điên như tôi. Đó là một nhóm phụ nữ tuổi tác khác nhau, kẻ già người trẻ nhưng ai nấy đều ngồi riêng một góc, không ai nói với ai, đắm mình trong thế giới riêng của họ. Thỉnh thoảng có người cười ha hả rồi khóc tấm tức, có người lâu lâu lại tru lên một hồi như những con thú. Lúc đầu tôi tin rằng những người này đều là những kẻ lương thiện đã bị hãm hại như tôi, nhưng dần dần tỉnh táo hơn, tôi thấy những hành động như thế quả hết sức lạ lùng. Tôi hỏi tuổi một bà lão trạc sáu mươi nhưng bà cười the thé và nói rằng bà chưa đầy mười sáu tuổi. Một người khác xưng mình là “Tề Thiên Đại Thánh” và thường gây hấn với một người nữa xưng là “Nam Hải Quán Âm”. Theo thời gian, tôi ý thức rằng những người này quả là không bình thường chút nào và tìm cách tránh né họ. Tôi rút vào một góc phòng và cố gắng ôn lại mọi sự nhưng không sao nhớ được một điều gì rõ rệt ngoài những mảnh vụn rời rạc. Vài tháng sau, nhờ hạnh kiểm tốt, tôi được đưa qua một khu khác với những người tương đối bình thường hơn. Chúng tôi được giao phó công việc khâu những bao tải đựng đồ và được trả công bằng một số tiền nhỏ, nhờ đó tôi có thể mua thêm một ít quần áo, thức ăn và tôi bắt đầu cảm thấy thoải mái với đời sống trong dưỡng trí viện này. Hàng ngày, ngoài công việc thường nhật, tôi còn tham gia vào ban văn nghệ của viện để tập diễn kịch. Chúng tôi được hướng dẫn để trình diễn các vở kịch cho mọi người trong dưỡng trí viện. Một người bảo: “Trước sau gì bạn cũng được xuất viện vì hầu như ai tham gia ban kịch cũng đều được xuất viện sớm”. Tuy nhiên, tôi không muốn xuất viện, vì hơn lúc nào hết tôi cảm thấy thoải mái, không phải lo lắng hay phiền muộn gì trong thế giới của những người bị bệnh tâm thần này. Đúng vào lúc tôi cảm thấy thoải mái nhất thì một hôm người ta gọi tôi lên văn phòng bác sĩ trưởng. Cha tôi đã đứng đó tự lúc nào. Nhìn khuôn mặt chất phác hiền lành của cha tôi mà tôi vô cùng xúc động. Quả thật tôi là một đứa con bất hiếu, càng tự nhủ phải làm vui lòng cha mẹ bao nhiêu, tôi càng làm cho cha mẹ tôi khổ sở bấy nhiêu. Không hiểu sao càng muốn làm việc tốt, tôi lại càng lún sâu vào hố thẳm của những việc bất như ý. Phải chăng tôi đã sai lầm khi quyết định sẽ thay đổi tâm tính? Tại sao tôi lại hành động như thế? Lời hứa với cha tôi khi xưa bỗng văng vẳng bên tai, tôi nghẹn ngào khi thấy cha tôi van xin bác sĩ viện trưởng cho phép tôi xuất viện. Ông kể rõ lý do đã dẫn tôi đến điên loạn. Bác sĩ gật đầu tỏ vẻ thông cảm, ông xem xét hồ sơ của tôi cẩn thận và sau cùng chấp thuận cho tôi được phép xuất viện. Mặc dù không muốn rời môi trường thoải mái này nhưng tôi cũng riu ríu theo cha tôi về nhà trọ. Dọc đường cha tôi hỏi: - Mày muốn làm gì bây giờ? Hiển nhiên tôi không còn thiết tha với việc học nữa, đầu óc tôi trở nên mơ hồ, tôi không biết mình muốn gì hay phải làm gì. Dĩ nhiên tôi không muốn trở về Hokkaido vì biết mẹ tôi sẽ không chịu nổi khi nhìn thấy tôi trong tình trạng thân tàn ma dại này. Tự nhiên tôi buột miệng: - Con không muốn về Hokkaido, xin cha cho phép con đến ở với cậu Tetsumei. Tetsumei là em ruột của mẹ tôi, đã xuất gia từ nhỏ, hiện đang trụ trì một ngôi chùa ở ngoại ô thành phố Tokyo. Cha tôi gạt đi: - Không được, mày không thể làm rộn việc thanh tu của Tetsumei được. Tuy nhiên, mày cũng không nên trở về Hokkaido, có lẽ tao phải nhờ bà chủ nhà trọ trông nom mày ít lâu nữa. Bà chủ trọ sau một lúc suy nghĩ đã quyết định đưa tôi đến gặp một thầy tướng để xem vận mạng tương lai của tôi ra sao. Ông thầy sau khi quan sát khí sắc đầy u sầu, ủ dột của tôi, tuyên bố: - Cô là người rất nhạy cảm, có thể đảm nhận nhiều vai trò khác nhau. Theo ý tôi thì nếu cô trở thành một diễn viên sân khấu, thủ các vai đào thương thì chắc chắn sẽ thành công lớn. Bà chủ trọ đồng ý ngay: - Nếu không đi học thì cô phải kiếm một nghề gì đó để sinh nhai đi. Thầy tướng nói cô thích hợp với nghiệp sân khấu thì còn đợi gì nữa mà không theo đuổi con đường này. Cha tôi cũng đồng ý với bà chủ trọ vì theo ông, tôi cần phải làm một thứ gì khác hơn là nằm nhà khóc lóc vật vã. Ông sợ tôi nổi cơn điên trở lại và sẽ bị giam vĩnh viễn trong dưỡng trí viện. Tôi cảm động trước tình thương của ông nên tuy không thích lời đề nghị của bà chủ trọ nhưng tôi cũng chấp nhận việc trở thành một diễn viên của đoàn hát Kageki. Kageki là những đoàn hát rong chuyên diễn những vở kịch dựa theo các điển tích. Điểm đặc biệt của các đoàn hát này là tất cả diễn viên đều thuộc phái nữ. Họ thủ đủ mọi vai, cả nam lẫn nữ. Việc diễn xuất chỉ chú trọng đến các động tác, cử chỉ giới hạn mà người ta có thể được chỉ dạy nhanh chóng. Bà chủ nhà trọ đưa tôi đến gặp bà bầu gánh hát Kageki trong vùng. Điều kiện thâu nhận cũng dễ dàng, vì là một diễn viên tập sự, tôi chỉ được ăn ngày hai bữa cơm chứ không thể đòi lương bổng hay điều kiện gì khác. Để khuyến khích, bà chủ nhà trọ mua cho tôi một chiếc kimono thật lộng lẫy và yêu cầu những diễn viên trong gánh hát giúp tôi trang điểm. Cha tôi sung sướng nhìn tôi xúng xính trong bộ kimono mới tinh và được những nhân viên trong đoàn thoa son dồi phấn cho. Bà chủ nhà trọ cười thích thú: - Thấy chưa! Có lẽ cả đời chưa bao giờ cô được mặc một bộ áo đẹp như vậy. Rồi sẽ có bao nhiêu người say mê cô cho mà xem. Nghe bà chủ nhà trọ nói, tôi lợm giọng muốn nôn nhưng nhìn nét mặt rạng rỡ đầy hy vọng của cha tôi, tôi cố gắng giữ bình tĩnh để ông vui lòng: - Xin cha hãy trở về, đừng quá lo cho con, rồi mọi việc sẽ tốt đẹp. Tôi mong cha tôi giữ mãi hình ảnh thật đẹp ngày hôm đó vì chỉ hôm sau khi đoàn hát khởi sự, tôi trở thành một nhân viên quét dọn sân khấu và nấu ăn cho đoàn hát. Người ta chỉ dạy tôi một vài động tác diễn xuất mỗi khi cần có một vai phụ nào đó thôi. Sự thật thì đoàn hát nào cũng có cả chục diễn viên phụ chờ đợi được thủ vai chính, và những cô đào chính thì không bao giờ muốn ai thay thế mình cả. Cơ hội trở thành một diễn viên nổi tiếng rất khó khăn, chỉ trừ khi diễn viên chính bỏ gánh hát ra đi hoặc già yếu, bệnh hoạn thì người ta mới cần người thay thế. Tôi sống với gánh hát được hơn hai năm và từ từ leo lên hàng diễn viên phụ, sau khi đã có những “lính mới tò te” xung phong nhận lãnh nhiệm vụ quét dọn và nấu ăn thay cho tôi. Tuy nhiên, việc diễn xuất không mang lại cho tôi niềm hứng thú, cuộc sống trôi qua một cách vô cùng tẻ nhạt. Một hôm, tôi đem điều này nói với bà bầu gánh hát: - Chúng ta khổ công tập luyện để trình diễn nhưng có ai thèm để ý đến chúng ta đâu? Đa số khán giả chỉ vào xem để mua vui chốc lát, có lợi ích gì cho cuộc đời đâu? - Sao mày ngu quá vậy? Đời sống sân khấu chỉ phản ánh xã hội mà thôi, xã hội ra sao thì sân khấu như vậy. Mày lộn xộn quá! Tuy nhiên, nhà soạn kịch, ông chồng của bà bầu, hiểu được thắc mắc của tôi nên đã khuyên: - Mỗi vở kịch đều có ý nghĩa riêng của nó. Nội dung vở kịch có thể mang lại cho người xem một vài điểm thích thú hoặc giúp họ có cơ hội nhìn lại chính mình qua các vai trò trên sân khấu. Một vở kịch phải có hậu, nghĩa là đề cao các giá trị căn bản của đời sống, trung thắng nịnh, kẻ hiền lương luôn luôn được che chở, và kẻ gian ác phải gặt những hậu quả xấu xa. Tóm lại, kịch nghệ chính là một cách cải tạo xã hội, giúp cho người xem có cơ hội nhận định các giá trị của đời sống. Nếu chúng ta, những diễn viên, có lý tưởng thanh cao thì việc hành nghề chính là cơ hội để khán giả cảm nhận được những điều ta muốn trình bày. - Nhưng với những người không đi xem kịch thì sao? Làm sao ta có thể cảm hóa được họ? Nhà soạn kịch nổi giận: - Thì mặc kệ họ, chúng ta đâu thể cứu vớt tất cả được! - Nhưng tôi muốn giúp đỡ tất cả mọi người… - Sao mày ngu quá, lo lấy thân còn chưa xong mà cứ đòi làm những việc lớn! Hãy lo trau dồi khả năng diễn xuất cho thật hay. Theo thời gian, mày sẽ nổi tiếng, có tiền bạc và danh vọng rồi thì muốn gì chẳng được. - Nhưng đó là ích kỷ. Bà bầu bĩu môi xen vào: - Khi nào có danh vọng và tiền bạc rồi mày sẽ thấy, lúc đó phỏng xem mày có còn đòi cải tạo xã hội hay giúp đỡ cho ai nữa không! Tôi im lặng không trả lời. Bà bầu tiếp tục: - Đứa nào chẳng thế! Khi chưa nổi tiếng, chưa được khán giả vỗ tay khen ngợi thì toàn đòi những chuyện vá trời lấp biển, nhưng khi đã có danh vọng rồi thì ý nghĩ duy nhất là làm sao giữ vững được cái danh vọng đó, làm sao để hằng đêm vẫn được khán giả tiếp tục vỗ tay khen ngợi, làm sao để nhan sắc không phai tàn, làm sao để giọng hát vẫn quyến rũ… Rồi mày sẽ bắt đầu sợ, bắt đầu lo… Tôi im lặng, nước mắt ràn rụa. Cho đến lúc đó tôi mới ý thức rõ về cái nghiệp dĩ mà những người thuộc giới diễn viên, tài tử phải gánh chịu. Tôi cố nuốt nước mắt xuống mà không xong, cuối cùng tôi lắp bắp: - Nếu vậy thì đây không phải là con đường của tôi. Tôi thà cứu một người chết đuối còn hơn là kéo dài cuộc sống đầy lo âu, phiền muộn như vậy. CHƯƠNG 3 V ào lúc đó, đoàn hát thường bị những nhóm du đãng gọi là “Peragoro” sống bám vào. Đó là những thanh niên hư hỏng bỏ nhà đi, nương náu theo các đoàn hát và hành động theo sở thích nhất thời, không tuân theo một luật lệ gì cả. Có lúc chúng tỏ ra ngoan ngoãn, biết điều, nhưng cũng có khi chúng sách nhiễu, đòi hỏi đủ thứ. Trong nhóm du đãng có một gã thanh niên khoảng mười bảy, mười tám tuổi chi đó tên là Ryochan. Tuy còn trẻ nhưng hắn đã tỏ ra gan dạ, bướng bỉnh không thua những tay anh chị lão luyện trong nghề. Hắn sẵn sàng làm đủ mọi việc từ khuân vác, quét dọn sân khấu cho đến đâm thuê chém mướn. Tôi nghe nói lúc cần tiền, hắn dám cướp cả những sòng bạc có người canh gác cẩn thận. Tuy bề ngoài liều lĩnh hung hăng là thế nhưng bên trong hắn vẫn chỉ là một đứa bé hay e thẹn, bẽn lẽn trước phụ nữ. Một hôm, gặp hắn lang thang trong hậu trường, tôi hỏi: - Này Ryochan, sao em cứ quanh quẩn ở đây mãi vậy? Lúc đầu Ryochan thẹn thùng không trả lời, nhưng về sau hắn ấp úng: - Tại em không có nhà để trở về. Tôi biết bọn thanh thiếu niên này đều thuộc thành phần lêu lổng bỏ nhà đi, nhưng mỗi khi kiếm được chút tiền, chúng cũng biết trở về thăm nhà và dấm dúi cho cha mẹ hoặc anh chị em chút tiền quà bánh. Ryochan cho biết thêm: - Thưa chị, em không có mẹ. Vừa nghe vậy tôi mủi lòng ngay và thông cảm cho hoàn cảnh đáng thương của hắn. Tôi nghĩ đây là một đứa bé đang lầm đường lạc lối cần có người săn sóc và hướng dẫn cho đến khi trưởng thành. Tôi lập tức từ bỏ gánh hát để đưa Ryochan đến tỉnh Nagoya xây dựng một cuộc đời mới. Sau khi sống với tôi một thời gian, gã du đãng hung hăng liều lĩnh đó đã trở nên ngoan ngoãn, hiền lành như một con cừu non. Hắn tìm được việc làm tại tòa báo địa phương, phân phối báo cho các đại lý. Dưới sự hướng dẫn của tôi, hắn ghi tên đi học lớp bình dân giáo dục để có thể đọc được sách báo và mở mang thêm kiến thức. Phần tôi thì khác, chỉ một thời gian ngắn tôi thấy mình trở thành một người đàn bà độc đoán, ghen tuông và nóng nảy. Không hiểu sao những chủng tử xấu nằm sâu trong tiềm thức tôi bỗng nhiên trỗi dậy một cách mạnh mẽ. Tôi thấy mình đã thốt ra những câu vô lý như: “Ryochan, tại sao giờ này em mới về nhà?”, “Ryochan, em phải làm việc này ngay lập tức”, “Ryochan, tại sao tiền lương tháng này lại ít vậy”, “Phải chăng em mang bao con đĩ nào đó rồi?”. Tôi càng cố gắng kiềm chế mình bao nhiêu thì lại thấy mình càng nóng nảy, giận dữ bấy nhiêu. Suốt ngày tôi la hét, quát tháo bắt Ryochan phải làm theo ý muốn của mình. Dần dần tôi nhận thấy cái mà tôi tưởng là tình thương chẳng qua chỉ là một sự ích kỷ, một thứ quyền lực, một hình thức biểu hiện của những hạt giống đau khổ, cay đắng mà tôi đã tiếp nhận từ trước. Tôi vẫn nghĩ mình có ý tốt, muốn cứu vớt giúp đỡ người khác nhưng không hiểu sao hành động của tôi lại trái ngược hẳn, thay vì cứu vớt Ryochan, tôi thấy mình mới là kẻ cần được cứu vớt hơn ai hết. Trong khi Ryochan đi làm, tôi thường tụ tập với những người đàn bà trong xóm để đánh bạc hay nói chuyện ngồi lê đôi mách. Thỉnh thoảng họ cũng rủ nhau đi chùa lễ Phật, nhưng đây chỉ là một hình thức xã giao bề ngoài của những kẻ nhàn rỗi. Họ đến chùa để chưng diện quần áo, để nói chuyện mưa gió thời tiết, để khen chê lẫn nhau chứ không phải để học hỏi giáo lý. Phần tôi thì khác, tôi nghĩ tôn giáo có thể giúp tôi tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh khó khăn hiện tại. Tôi bèn tham dự các khóa lễ, tụng kinh niệm Phật và hăng hái quyên góp tiền bạc để trùng tu chánh điện, đúc tượng, tô chuông. Ryochan không hề phản đối việc này. Hắn chẳng bao giờ phàn nàn về việc tôi vắng nhà thường xuyên cho những công việc ở chùa. Sau một thời gian hăng say làm công quả, tôi không thấy mình tiến bộ được bao nhiêu, vẫn độc đoán, ích kỷ và hay nóng giận như trước. Một hôm, sau khóa lễ, tôi hỏi vị trụ trì: - Bạch thầy, những bài kinh dài này nói về điều gì vậy ạ? - Kinh Phật cao siêu vô cùng, nói ra cô cũng chẳng thể hiểu được. - Tại sao thầy lại nghĩ thế? Chúng tôi ê a những bài kinh này cả ngày thì cũng cần phải hiểu ý nghĩa của nó chứ. - Theo ý tôi, cô chỉ cần lo quyên góp tiền bạc để xây chùa, đúc tượng, tạo chút phước đức là đủ rồi, đừng tìm hiểu những điều cao siêu không thể nghĩ bàn. - Nhưng nếu không thể hiểu được những điều mình đọc thì tụng kinh làm gì? Ít ra người ta cũng cần biết những điều Đức Phật đã chỉ dạy chứ. Vị sư suy nghĩ một lúc rồi trả lời vắn tắt: - Đức Phật dạy rằng “Người nào tạo nhiều phước đức sẽ hưởng sung sướng ở kiếp sau, còn người nào không biết làm phước sẽ bị đọa vào địa ngục”. Tôi không sợ phải bị đọa vào địa ngục và cũng không cần được hưởng sung sướng ở một kiếp xa vời nào đó. Cái mà tôi cần là làm sao giải quyết được những vấn đề khó khăn trong đời sống hiện tại. Tôi thắc mắc: - Nhưng không lẽ người ta bất lực không thể làm gì khác hơn là chờ đợi một đời sống tốt đẹp hơn ở kiếp tương lai? - Dĩ nhiên rồi, vì cô đã tạo nghiệp xấu ở kiếp trước nên kiếp này phải trả. Tôi không biết mình đã tạo những nghiệp xấu gì nhưng lời giải thích đó làm tôi khó chịu. Tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả việc làm của mình, nhưng không thể thụ động bó tay, chờ đợi một hứa hẹn hão huyền nào đó. Thấy tôi có vẻ không tin, vị sư bực bội: - Cô thắc mắc nhiều quá, nghi ngờ người tu hành là một điều xấu, sẽ phải đọa vào địa ngục vô gián. Tôi không chấp nhận lời giải thích có tính cách dọa nạt nên bỏ ngôi chùa đó, tìm đến một ngôi chùa khác thuộc phái Nhật Liên (Nichiren). Vị trụ trì nghe tôi kể lể sự tình bèn nổi giận: - Thật đáng tiếc khi có những kẻ quá chú trọng đến hình tướng bên ngoài mà làm hoen ố giáo pháp cao quý của Đức Thế Tôn như vậy. Thời mạt pháp có khác, giáo lý của Đức Phật bị những kẻ tu hành không chân chính xuyên tạc, lạm dụng để tích lũy tài sản. - Theo ý thầy thì hiện nay tôi phải làm gì? - Con đường tốt nhất lúc này là tụng kinh Pháp Hoa, và giản đơn hơn nữa, thay vì niệm Phật, cô chỉ cần niệm Pháp là đủ, vì Pháp là tất cả. Cô chỉ cần xưng tụng câu “Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” thì sẽ được giải thoát, vì đó là thông điệp chân thật nhất của Đức Phật. Tôi nghĩ thầm: “Ít ra vị sư này cũng khuyến khích mình đọc kinh thay vì quyên góp tiền bạc để cầu phước”. Tôi trở thành đệ tử của vị này, nhưng chỉ một thời gian sau tôi thấy vị này cũng không hơn gì vị trước. Ông dành rất nhiều thì giờ để chỉ trích, công kích các tông phái khác của Phật giáo hơn là giải thích những diệu lý của kinh. Học trò của ông thường kéo nhau ra đường phố hùng hồn tranh luận với người của các tông phái khác mà họ gọi là tà giáo. Họ chủ trương bạo động, nếu cần thiết, để thiết lập một quốc gia xây dựng trên triết thuyết của Nhật Liên tổ sư. Lúc đầu tôi cũng hăng say tham gia việc truyền bá tư tưởng của phái này, nhưng hình thức đả phá, tranh luận không mang lại cho tôi sự thoải mái nào, trái lại nó chỉ làm tôi thêm sân si hơn trước. Ngoài ra, tôi cũng không đồng ý với cách truyền đạo có tính chất lôi kéo, quyến dụ tín đồ bằng phương pháp biện luận cũng như hành vi hung hăng, hiếu chiến của những người lãnh đạo phái này. Tôi bày tỏ ý kiến của mình với vị sư trụ trì. Thay vì an ủi tôi thì ông lại nổi giận: - Nếu cô không tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương của chúng tôi thì thôi, những kẻ lưng chừng, nửa tin nửa ngờ như cô chỉ là những kẻ phá hoại Phật pháp, đi theo con đường của Đề Bà Đạt Đa [4] , và sẽ vĩnh viễn đọa địa ngục. - Nhưng chính Đức Phật đã nói rằng mọi chúng sinh đều có Phật tánh và ngay cả Đề Bà Đạt Đa cũng sẽ thành Phật kia mà. Vị sư nổi giận quát tháo om sòm. Dĩ nhiên tôi không trở lại ngôi chùa đó nữa. Vài tháng sau, tôi có dịp tham dự một buổi diễn thuyết tại đền thờ Kasuga của Thần đạo. Một vị lão sư khuôn mặt nghiêm nghị đã bước lên diễn đàn nói về đề tài “Chính tâm, thành ý”. Ông nói: - Trong tự nhiên đã có sẵn một trật tự chung. Biết sống với trật tự này là đã gần đạt được đến đạo rồi. Muốn đạt đến đạo lớn thì phải biết lập chí lớn; muốn lập chí lớn thì phải lo tu thân; muốn lo tu thân thì phải chính tâm; muốn chính tâm thì phải thành ý; và muốn thành ý thì phải biết rõ sự liên quan giữa mọi sự vật với nhau. Con đường tu tập phải bắt đầu bằng việc quán xét thật kỹ các hiện tượng trong trời đất, xét cho cùng chỗ tương quan giữa chúng, xem cái nào là gốc cái nào là ngọn, cái nào là nguyên nhân cái nào là hậu quả. Biết rõ được điều này thì ý mới thành; và ý có thành rồi thì tâm mới chính; khi tâm đã chính thì thân mới tu sửa được. Và khi việc tu thân có hoàn mãn thì chí mới vượt lên cao, vươn khỏi mọi sự tầm thường để đạt đến đạo lớn. Thành ý là căn bản bao gồm tất cả mọi sự. Mọi giá trị đương thời như luân lý, đạo đức đều xây dựng dựa trên cái căn bản quan trọng này. Nếu mình biết sống thành thật với chính mình, không tự lừa dối mình, thì hành động chân thật này sẽ biểu lộ ra ngoài, cảm hóa được những người xung quanh. Thành ý không chỉ là đức, mà còn là năng lực cảm hóa hết sức mầu nhiệm, có thể thay đổi tất cả. Tôi say mê theo dõi từng câu nói của vị lão sư và nhủ thầm: “Đây mới thật là một vị thầy chân chính, đây mới chính là con đường mà ta mong đợi từ bấy lâu nay”. Tôi nghĩ đến tấm lòng thương yêu chân thành của cha tôi mà muốn rớt nước mắt. Cả một dĩ vãng tự nhiên hiện ra rõ mồn một trong tâm tôi. Phải rồi, tôi đã từng nghĩ đến cái căn bản này một cách mơ hồ sau khi được cảm hóa, nhưng cho đến lúc đó chưa ai có thể giải thích một cách rõ ràng, lưu loát như vị sư này. Tôi vội vã trở về nhà thu xếp hành lý đến gặp vị lão sư để xin làm đệ tử. Sau khi nghe trình bày hoàn cảnh, vị lão sư nghiêm giọng hỏi: - Như vậy cô đã được phép của gia đình chưa? - Thưa… chưa. - Thế thì không được, cô hãy trở về nhà ngay. Có lẽ giờ này chồng của cô đang nóng lòng chờ đợi. Tôi ôm mặt khóc ròng: - Thưa thầy, con đã khổ công tìm kiếm con đường này từ bao lâu nay rồi. Xin thầy rủ lòng thương xót… - Không được, ta không thể thu nhận cô nếu không có sự đồng ý của gia đình cô. - Nhưng nếu con trở lại với sự ưng thuận của gia đình thì sao? - Đến khi đó sẽ hay, bây giờ cô phải trở về nhà ngay. Biết không thể năn nỉ gì thêm được, tôi gạt nước mắt trở về nhà. Lúc đó trời đã vào thu, thời tiết bắt đầu lạnh nên Ryochan trùm mền ngủ kỹ. Thấy tôi về, hắn chỉ ló đầu ra khỏi chăn hỏi: “Em đã về đấy ư?”. Hỏi xong, hắn lại vùi đầu ngủ tiếp. Nhìn khuôn mặt vô tư của hắn, tôi động lòng trắc ẩn và tự hỏi liệu mình có thể từ bỏ Ryochan được không? Cho đến lúc đó tôi đã đóng vai một người mẹ, một người chị và người yêu của hắn. Liệu tôi có can đảm từ bỏ tất cả để lên đường tìm đạo không? Ryochan sẽ nghĩ thế nào về quyết định của tôi? Tâm trạng tôi rối bời vì muôn ngàn ý nghĩ trái ngược nhau, nhưng cuối cùng tôi biết mình không thể làm gì khác hơn là lên đường học đạo. Sau một thời gian chuẩn bị tư tưởng cẩn thận, tôi viết một lá thư dài cho Ryochan rồi lên đường đi Shikoku, nơi vị lão sư cư ngụ. Năm đó, tôi vừa tròn hai mươi tám tuổi, và đã sống với Ryochan được gần hai năm. Vị lão sư sống trong một căn nhà nhỏ bé, khiêm tốn, nhưng căn phòng chính có bày một bàn thờ hết sức trang nghiêm, đẹp đẽ. Ông mời tôi dùng trà và lên tiếng hỏi ngay: - Cô đã được gia đình cho phép rồi chứ? - Thưa vâng. Tôi lo sợ không biết có được ông thu nhận hay không. Dù sao tôi cũng đã viết một lá thư cho Ryochan để giải thích việc này. Lão sư hỏi tiếp: - Được lắm. Như vậy cô được phép đi trong bao lâu? - Thưa một năm. Tôi trả lời mà không suy nghĩ, trong thư viết cho Ryochan tôi đã đề cập đến thời gian học đạo khoảng một năm, mặc dù trong tâm tôi quyết sẽ không trở về với Ryochan nữa. Vị lão sư vui vẻ chấp thuận cho tôi trở thành học trò tại gia của ông. Lão sư Meano Choji không những là một vị thầy nổi tiếng của Thần đạo mà còn là một danh thủ về Kiếm đạo và Nhu thuật nữa. Ông có rất nhiều học trò và thường được mời đi diễn thuyết, giảng dạy ở khắp nơi. Cuộc sống của ông rất điều độ, giản dị; ngoài việc giảng dạy, ông dành nhiều thì giờ để tĩnh tọa trong một căn phòng riêng. Hàng ngày nhìn cử chỉ ung dung, điềm đạm của ông, tôi thầm ao ước: “Không biết mình phải tu tập thế nào mới đạt được cái nhân cách siêu phàm ấy?”. Lão sư cho biết: “Khi còn nhỏ ta không được khỏe mạnh lắm, lại mắc bệnh suyễn nên cha mẹ ta đã tìm đủ mọi thầy hay thuốc giỏi để chữa, nhưng không đạt kết quả gì cho đến khi ta tu tập phương pháp tĩnh tọa Kannagara-no-michi. Chỉ một năm tu tập mà bao nhiêu tật bệnh tan biến hết, thân thể ta phát triển một cách tự nhiên. Từ đó đến nay ta không còn bị bệnh, ngay cả những bệnh vặt như nhức đầu, sổ mũi, cảm mạo cũng không còn ảnh hưởng đến ta”. Phương pháp Kannagara-no-michi của Thần đạo bao gồm ba phần chính là điều thân, điều khí và điều tâm . Điều thân là giữ cho tư thế ngồi thật vững vàng, ngay thẳng. Người tập quỳ gối, ngồi lên trên bọng chân, giữ lưng thẳng, mắt nhắm lại và đặt hai tay lên trên đùi. Sau khi đã ngồi yên được một lúc thì chuyển qua điều khí, giữ cho hơi thở luân chuyển tự nhiên, khi hít vào thì phình bụng ra và khi thở ra thì ép bụng lại. Sau khi hơi thở đã điều hòa thì bắt đầu điều tâm bằng cách tập trung tư tưởng để phát ra âm thanh “oo-oo”. Trong khi phát âm, không được nghĩ đến bất cứ thứ gì khác mà chỉ chú tâm vào việc phát âm thôi, tuyệt đối không mong cầu, ao ước thứ gì. Sau khi phát âm “oo-oo” đều đặn khoảng một lúc thì chuyển sang phát âm từng nguyên âm (a, e, i, o, u). Khác với âm “oo-oo”, việc phát âm những nguyên âm này đòi hỏi sự phối hợp của cả tinh thần lẫn thể xác; âm thanh phát ra phải rõ ràng, mạnh mẽ và thật sâu. Lão sư cho biết tĩnh tọa là căn bản quan trọng nhất trong phương pháp tu tập của Thần đạo. Thần đạo là một truyền thống đặc biệt của Nhật Bản có từ ngàn xưa nhưng theo thời gian đã thay đổi ít nhiều. Một phần vì chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa (Khổng giáo và Phật giáo), nhưng một phần khác là do các yếu tố chính trị. Vào thời đại Tokugawa (1600 – 1867), trường Quốc học được thành lập với mục đích nghiên cứu các di sản văn hóa của Nhật. Nhờ biết áp dụng phương pháp nghiên cứu về cổ ngữ, các học giả lúc đó đã phục hồi được nhiều sách vở tài liệu có giá trị, tưởng đã bị thất truyền. Một số học giả có tinh thần quốc gia cực đoan, chủ trương bài ngoại đã lợi dụng tình thế chính trị lúc đó (bế quan tỏa cảng) để phục hồi truyền thống Thần đạo, không chịu ảnh hưởng của Phật giáo hay Khổng giáo, mà họ gọi là Kannagara-no-michi. Theo lời giải thích của tông phái này thì vào thời hoàng kim, tâm thức con người vốn chất phác và thuần hậu nên có thể giao cảm với tâm thức của các đấng thần linh. Vì hiểu rõ tâm thức của các vị thần nên tư tưởng, hành động của con người luôn luôn hòa hợp với sự biến chuyển của các định luật thiên nhiên và cuộc sống thật tốt đẹp, thoải mái. Về sau con người sa đọa, bị dục tính lấp đi cái thiên tính thuần hậu, vô tư ngày trước nên họ không thể giao cảm với thần linh được nữa. Vì bị ái dục chi phối nên tư tưởng, hành động của họ không còn hòa hợp được với các biến chuyển tự nhiên của thiên nhiên và đời sống trở thành một sự phấn đấu đầy đau khổ và trắc trở. Truyền thống Kannagara-no-michi hay “sống thuận theo ý chư thần” chủ trương phục hồi cái bản tính vô tư thuần hậu qua việc tẩy uế thân tâm, dẹp bỏ lòng tham dục, để tái lập mối liên lạc với chư thần trong thiên nhiên. Ngoài việc học hỏi với lão sư, tôi còn tham cứu thêm các sách vở trong nhà, và tìm được một phương pháp để dẹp bỏ lòng tham dục qua việc tẩy uế thân tâm. Tôi thấy việc tĩnh tọa như lão sư chỉ dạy đòi hỏi một thời gian lâu dài nên tôi muốn tìm một lối tắt nhanh hơn. Sáng nào tôi cũng dậy thật sớm, tìm đến ngọn thác Kagami gần đó để tắm gội, tẩy uế bằng nước lạnh. Tôi đứng dưới chân ngọn thác, mặc cho làn nước lạnh như băng xối lên người, tập trung tư tưởng và cầu nguyện các đấng thần linh phù hộ cho tôi. Tôi tin rằng nước có công dụng rửa sạch những ô uế trên thân thể tôi và nhờ sự thành tâm cầu nguyện, tâm hồn tôi có thể mở rộng để đón nhận mặc khải của chư thần như tôi đã từng trải nghiệm khi còn ở Hokkaido. Vì Thần đạo không phân biệt tâm và thân, một thân thể trong sạch biểu lộ một tâm thức trong sáng nên việc tắm gội hành xác đối với tôi là một việc làm hết sức tự nhiên. Một hôm, lão sư bắt gặp tôi làm việc đó, ông lắc đầu quát lớn: - Cô tưởng rằng mình có thể ngộ được điều gì đó qua hành động bên ngoài như vậy hay sao? Tôi không hiểu lão sư muốn nói gì vì lúc đó tôi không có một ý thức gì về từ “ngộ” (satori) cả. Tôi tin rằng nhờ thành tâm thực hành các phương pháp cổ truyền như việc tẩy uế bằng nước lạnh (misogi) mà tôi có thể đạt được một quyền năng phi thường, hay một trạng thái tâm thức có thể giao cảm được với chư vị thần linh. Tuy bị lão sư cảnh cáo nhưng tôi vẫn tiếp tục thực hành phương pháp đó một cách siêng năng, chuyên cần. Thời gian trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ. Thoáng chốc tôi đã tu tập ở đây được đúng một năm. Hôm đó, sau buổi tĩnh tọa, lão sư hỏi: - Hình như ngày mai cô lên đường về nhà thì phải. Cô đã ở đây tròn một năm rồi. Liệu cô đã sẵn sàng chưa? Tôi bàng hoàng không biết phải nói gì. Lúc đầu tôi tưởng lão sư có ý muốn đuổi tôi đi vì tôi đã thực hành những phương pháp mà ông không thích, nhưng tôi nhớ lại thời hạn một năm mà tôi đã trình bày khi xin thụ giáo năm xưa. Thật ra lúc đến học đạo, tôi chỉ nói bừa thời gian một năm chứ không hề có ý định sẽ trở lại với Ryochan. Tôi nghĩ mình đã đoạn tuyệt với quá khứ, đã dứt bỏ mọi sự, tôi không còn mặt mũi nào trở về để gặp Ryochan nữa. Mặc dù thấy tôi có vẻ ngần ngại, lão sư vẫn thản nhiên: - Dù thế nào đi nữa, đã đến lúc cô phải trở về nhà. Tôi trở lại Nagoya với một tâm trạng hoang mang, chán nản. Chưa muốn về nhà ngay, tôi ghé qua hàng xóm để tâm sự. Bà hàng xóm lắng nghe tôi giãi bày những nỗi khó khăn thì lắc đầu than: - Nghiệp của cô nặng như thế thì làm sao mà tu cho được! Phải chăng cô vẫn còn yêu Ryochan nên không dám nói thẳng cho hắn biết ý định muốn từ bỏ tất cả để đi học đạo? Cô tưởng mình có thể đi theo ông thầy kia, nhưng vì còn nặng nợ với Ryochan nên trước sau gì cô vẫn phải trở về. Theo tôi, cô không thể làm gì khác được đâu! Khi nào duyên nợ còn thì cô vẫn phải ráng mà trả cho hết. Chúng ta mang kiếp người là mang cả một gánh nghiệp quả, nào là duyên với người này, nào là nợ với người kia. Có khi vừa là duyên vừa là nợ, chập chùng không biết đâu vào với đâu. Cô không thể chống lại cái nghiệp đó được; dù cố gắng lắm cô cũng chỉ có thể hành động theo ý mình một lúc thôi, việc phải đến vẫn xảy đến như thường. Thà cứ thuận theo nó còn hơn… Tôi gật đầu ra vẻ đồng ý nhưng trong thâm tâm rất khó chịu. Tôi rủa thầm mình đã dại dột đem chuyện riêng tư ra kể cho người khác nghe và quyết định từ đây sẽ phải tránh cái thói nhi nữ thường tình này. Khi tôi về nhà thì Ryochan đi làm chưa về. Tôi không biết sẽ phải nói sao với hắn. Liệu tôi có nên cho hắn biết ý định vẫn muốn tiếp tục trở về với lão sư hay không? Tôi cố gắng chuẩn bị một thái độ nhưng tâm trạng cứ rối bời, không biết phải làm gì. Trong lúc thất vọng cùng cực, tôi sực nhớ đến một câu kinh quen thuộc: “Nếu có chúng sinh nào chịu mọi khổ não, một lòng xưng niệm tên hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, tức thì Bồ Tát Quán Thế Âm quán sát tiếng kêu cầu ấy, độ cho họ thoát khỏi khổ não”. Tôi vội vã cung kính chắp tay thành tâm niệm lớn: “Nam Mô Đại Từ Đại Bi, Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”. Tôi không biết mình đã niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm bao nhiêu lần, nhưng tự nhiên trước mắt tôi bỗng có một luồng sáng hiện ra sáng chói, giữa luồng ánh sáng đó có một dòng chữ lớn: “Con hãy tập yêu thương”. Tôi cảm thấy toàn thân rung động mãnh liệt, như có một luồng điện ở đâu rót vào đầu óc u tối của tôi khiến nó bừng sáng. Tôi giật mình, thảng thốt kêu lớn: “Phải rồi! Đó mới là giải pháp cho tình trạng hiện tại”. Chỉ trong thoáng giây phút, tôi ý thức ngay rằng từ trước đến nay tôi đã nghĩ về mình quá nhiều, tôi chỉ quan tâm đến nỗi khó khăn của riêng mình mà chẳng bao giờ chú ý đến nỗi khổ tâm của người khác. Tôi chỉ muốn điều này hay điều nọ, mà chẳng bao giờ tự hỏi hành động của tôi đã gây đau khổ cho những người xung quanh như thế nào. Tôi đã làm cho cha mẹ tôi không hài lòng, đã làm cho chồng tôi bỏ đi, đã khiến cho hai đứa con của tôi phải chịu thân phận không cha không mẹ chỉ vì tôi tham lam, ích kỷ quá. Tôi tưởng rằng tôi đã thay đổi nhưng thật ra tôi không hề đổi thay gì hết, vẫn chứng nào tật nấy. Tôi chưa bao giờ biết yêu thương, thế thì làm sao tôi có thể giúp đỡ người khác? Tôi có cảm tưởng như gánh nặng trên vai đã được ai đó nhấc đi và đầu óc tôi trở nên thoải mái hơn bao giờ hết. Tôi ý thức rõ rệt những sai lầm mà tôi đã tạo ra, những phản ứng nhất thời mà tôi đã làm, tất cả chỉ vì muốn thay đổi mọi sự theo ý mình. Phải chăng đó là biểu hiệu của một lòng tham không đáy? Giờ đây tôi đã hiểu, tôi sẵn sàng hy sinh tất cả để lo cho Ryochan, tôi sẽ chờ hắn về để xin lỗi hắn, để kể cho hắn nghe những khát khao thầm kín vẫn nung nấu trong thâm tâm tôi. Tôi sẽ nói về quan niệm “chính tâm, thành ý” mà tôi đã học hỏi được; với một tình yêu chân thành, tôi sẽ tâm sự với hắn về những trải nghiệm lạ lùng đã xảy ra cho tôi, và hắn sẽ hiểu, sẽ thông cảm… Ryochan kiên nhẫn nghe tôi thổ lộ rồi cười lớn: - Này Satomi, em nghĩ rằng người ta có thể giải quyết được những nỗi khổ đó qua đức tin tôn giáo hay sao? Đó chỉ là ảo tưởng! Tôn giáo chỉ là một trò bịp bợm, một thứ thuốc độc, một loại nha phiến cho những tâm hồn yếu đuối. Thời đại này mà em còn giữ những tư tưởng cổ hủ đó ư? Hãy mở mắt mà xem những tên tu sĩ lưu manh đang dọa nạt quần chúng bằng những danh từ như tội lỗi, hình phạt rồi kêu gọi đóng góp tiền bạc cho các cơ sở tôn giáo để chuộc tội này nọ. Đấy chỉ là một hình thức ăn xin; những kẻ ăn xin đó thì cứu giúp được ai? Con người không có ai xấu cả nếu họ có một đời sống vật chất đầy đủ. Họ xấu vì thiếu các điều kiện này nên mới phải làm chuyện xằng bậy. Để ta nói cho em nghe một trật tự mới trong xã hội, nhờ đó tất cả mọi người đều được sung sướng thực sự. Sở dĩ người ta thiếu thốn, đau khổ vì trong xã hội có kẻ giàu người nghèo, có sự hơn thua. Nếu tất cả đều bình đẳng, đều giàu sang, đầy đủ như nhau thì đâu còn khổ đau nữa. Đó mới là giải pháp đúng đắn nhất và đó chính là chủ nghĩa xã hội. Những người theo chủ nghĩa này quyết tâm tranh đấu cho quyền lợi của quần chúng, sẵn sàng hy sinh tính mạng mình cho quyền lợi chung, đó mới là những bậc thầy đáng kính trọng. Tôi bàng hoàng trước những câu nói hùng hồn của Ryochan. Làm sao một kẻ thất học như hắn lại sử dụng được những danh từ mới mẻ, văn hoa như vậy? Hiển nhiên hắn đã học hỏi những trò này trong khi tôi vắng nhà. Ryochan đắc chí nhìn tôi nói tiếp: - Này Satomi, em biết ta tôn trọng sự tự do riêng của em, nhưng ta không thể làm ngơ khi thấy em trở thành nạn nhân của những tên tu sĩ chuyên “bán nha phiến” đó được! Họ và cái gọi là tôn giáo của họ cần phải bị tiêu diệt càng sớm càng tốt… Từ nay ta cấm em không được bén mảng đến những nơi chốn đáng khinh bỉ đó. Nếu em không nghe lời ta thì đừng có trách… Càng nói, Ryochan càng trở nên hung dữ, cặp mắt hắn quắc lên như muốn ăn tươi nuốt sống một đối thủ vô hình nào đó. Hắn tiếp tục nói về chủ thuyết xã hội mà hiện nay hắn đang cố gắng cổ xướng, nhưng tôi không còn muốn nghe nữa. Tôi tủi thân ôm mặt khóc tấm tức. Trước mắt tôi, Ryochan không còn là một cậu bé hiền lành nhút nhát ở gánh hát năm nào. Hắn cũng không còn là một chàng thanh niên chăm chỉ đi phân phối báo cho các đại lý, mà đã trở thành một con người khác hẳn. Hiển nhiên hắn đã thay đổi nhờ liên hệ với một tổ chức chính trị nào đó. Ryochan cho tôi biết hắn đã bỏ việc phân phối báo và trở thành ký giả cho một tập san thuộc nhóm xã hội. Hắn còn đảm nhận việc tổ chức các buổi học tập cho những người mới gia nhập tổ chức này. Tôi im lặng nghe Ryochan hùng hồn diễn giảng, đáng lẽ ra tôi phải thất vọng lắm mới phải, nhưng không hiểu sao tôi lại thấy mình bình tĩnh một cách lạ thường. Tôi biết Ryochan đã thay đổi, nhưng chính tôi cũng đã đổi thay, hiển nhiên cuộc đời của chúng tôi không còn như xưa nữa mà bước vào một ngã rẽ mới. Vì Ryochan đã bỏ việc phân phối báo cho các đại lý để dấn thân vào những hoạt động khác nên cuộc sống của chúng tôi trở nên túng thiếu hơn trước, phải dè sẻn lắm mới đủ ăn. Tuy nhiên, tôi chỉ xem đó là một thử thách. Tôi biết mình không thể thay đổi được hoàn cảnh như ý muốn, nhưng đồng thời cũng biết rằng mình có thể thay đổi được thái độ của mình đối với hoàn cảnh bên ngoài. Nếu giữa tôi và Ryochan có duyên nợ gì với nhau thì dĩ nhiên tôi phải trả cho hết, nhưng điều này không có nghĩa là tôi phải từ bỏ việc học đạo của mình. Ryochan không muốn tôi lui tới những nơi chốn có tính chất tôn giáo nhưng không thể cấm tôi tu học tại nhà. Không thể trở lại với lão sư nhưng tôi vẫn có thể thực hành những phương pháp tôi đã được học hỏi. Tôi dọn dẹp lại căn nhà, lập một bàn thờ chư thần và tiếp tục tu tập phương pháp tĩnh tọa Kannagara-no michi. Tôi thường tĩnh tọa rất lâu, có khi từ sáng đến tối, và cuối cùng phát âm những chữ a, e, i, o, u thật rõ ràng với toàn bộ năng lực trong người. Lúc đầu việc tu tập của tôi làm nhiều người trong xóm hiếu kỳ xúm lại xem, trẻ con cũng bắt chước tôi kêu “aa, uu, oo” om sòm, nhưng dần dần người ta cũng quen và không làm phiền tôi nữa. Ngoài việc tĩnh tọa, tôi còn nghiên cứu pho sách Kojiki của Thần đạo để tìm hiểu thêm những ẩn nghĩa trong đó. Tôi chú trọng vào việc phát triển định lực (joriki) vì nó là một năng lực quan trọng, có thể giúp người ta thích ứng được với những hoàn cảnh thay đổi bên ngoài. Cuốn sách nói rõ rằng một người có định lực cao có thể hoàn toàn làm chủ được mình cũng như hoàn cảnh đời mình; bất cứ chuyện gì cũng không ảnh hưởng đến họ được. Tôi thực hành nhiều phương pháp khác nhau, từ việc nhịn ăn để kiềm chế thể xác, đến việc tẩy uế thân xác bằng nước lạnh. Vào mùa đông, dù tiết trời lạnh thế nào tôi cũng chỉ khoác trên mình một tấm áo mỏng. Khi thực hành nghi thức tẩy uế bằng nước lạnh, dù nước đã gần đóng thành băng tôi vẫn cố gắng chịu đựng, xối nước lên khắp người để tẩy uế những ô nhiễm đã bám vào thân thể tôi. Bất chấp mọi khó khăn cực nhọc, tôi kiên trì thực hành các nghi thức vì biết đường đạo là một hành trình rất gian nan, nếu không cố gắng, người ta không thể thành công. Trước cửa nhà tôi có một mảnh sân hẹp mà trẻ con lối xóm thường tụ tập chơi đùa. Hàng ngày mỗi khi thờ cúng, thực hành các nghi thức tẩy uế (O Harae) xong, tôi thường mang lễ vật như oản xôi chia cho lũ nhỏ trong xóm. Gia đình bên cạnh nhà tôi có nuôi một con chó nhỏ tên Koro. Con chó này cũng hay chầu chực trước nhà tôi để xin ăn. Ít lâu sau gia đình đó dọn đi nơi khác, bỏ con Koro lại. Con chó trung thành cứ chầu chực trước nhà chủ cũ, kêu lên những tiếng thiểu não bi thương. Khi đói nó chạy qua bên nhà tôi để được cho ăn, nhưng ăn xong nó lại chạy về trước cửa căn nhà cũ nằm rên rỉ. Một hôm, không thấy nó đến như thường lệ, tôi kêu gọi mãi và hỏi lũ nhỏ trong xóm nhưng không ai biết con chó đã bỏ đi đâu. Vài hôm sau tôi đang tĩnh tọa thì nghe có tiếng động và thấy con Koro ở đâu chạy vào ngoắt đuôi mừng rỡ. Tôi đưa tay bồng con chó vào lòng vuốt ve thì thấy trên cổ nó có một vết dao đâm rất sâu, chạy dài xuống bụng, dường như nó đã bị ai lột da, mổ thịt. Tôi thất thanh kêu lên: “Koro đã chết”, và đột nhiên tỉnh lại. Thì ra trong lúc nhập định tôi đã nhìn thấy con Koro, có lẽ đã bị người ta bắt giết làm thịt. Vào lúc đó, những con chó vô chủ lang thang ngoài đường bị bắt giết thịt không phải là điều lạ. Hiển nhiên con Koro không thoát khỏi số phận đó, nhưng có lẽ nó nhớ đến ơn tôi nuôi nấng nên tìm đến báo tin. Tôi xúc động khóc mất mấy ngày rồi mua hương hoa phẩm vật, tụng kinh siêu độ cho nó. Tôi tập trung định lực chân thành cầu nguyện và khi hoàn tất nghi thức cầu siêu, tự nhiên tôi có cảm tưởng con Koro đã thoát kiếp chó. Đây là một sự kiện lạ lùng, không hiểu sao tôi lại cảm biết được như thế. Dường như có một cái gì đã cho tôi biết mà tôi không thể giải thích được, nhưng tôi biết đó không phải là sự tưởng tượng hay tự kỷ ám thị, mà là một “cái biết” đến rất tự nhiên. Khoảng một tuần lễ sau, tôi đang tĩnh tọa thì thấy một người đàn ông lạ mặt ở đâu bước vào. Tôi biết cửa nhà đã khóa kỹ, người lạ không thể vào được trừ khi đó là kẻ gian. Lúc đó chúng tôi nghèo túng lắm, trong nhà chẳng có gì quý giá cả nên thay vì hốt hoảng, tôi tập trung định lực để đối phó. Có lẽ khả năng tập trung của tôi đã khá cao nên chỉ trong thoáng giây, tâm hồn tôi đã hết sức bình tĩnh. Tôi biết mình không ngủ mê hay gặp ảo giác mà thấy rõ đó là một người đàn ông trung niên, mặt mày sáng sủa, mặc kimono hiệu O shima rất đắt tiền. Ông này đứng yên trước mặt tôi một lúc rồi lên tiếng: - Thưa bà, tôi là cha của Tamataro. Khi còn sống, tôi làm nghề cho vay nặng lãi. Cái nghiệp xấu này ám ảnh tâm thức tôi rất nhiều nên khi qua đời, tôi phải sống trong một cảnh giới tối tăm, nặng trọc. Lúc nào tôi cũng có cảm giác như đang ở trong một vũng bùn nhầy nhụa, muốn ngoi lên nhưng không sao ngoi lên được, càng cử động thì càng bị lún xuống sâu hơn. Thưa bà, khi còn sống tôi chẳng làm điều gì quá xấu nhưng cũng chẳng làm điều gì tốt đẹp nên sau khi chết, thần thức cứ vật vờ trôi nổi trong cảnh giới bùn lầy nước đọng này mãi. May thay nhà tôi là người hiền lương, thường tụng kinh niệm Phật, hồi hướng công đức cho tôi. Hàng ngày tôi nghe được lời kinh của nhà tôi cầu nguyện nên bắt chước đọc theo, nhờ đó tôi hiểu được luật nhân quả và quyết tâm sám hối. Đến nay nghiệp xấu đã trả hết, tôi vừa thoát khỏi cái thế giới đen tối nhầy nhụa đó nên đến đây để nhờ bà chuyển lời cho nhà tôi rằng tôi sắp được siêu thoát lên cõi sáng. Chính nhờ công đức hồi hướng cao cả vô biên của nhà tôi mà tôi được thoát khổ. Tôi muốn nhắn nhà tôi rằng những món nợ người ta vay từ trước xin hãy bỏ qua, đừng tốn công đòi rồi gây phiền muộn cho người khác nữa. Tôi đã không công bình trong việc cho vay nặng lãi, tôi rất hối hận, xin hãy giúp cho tôi được yên tâm để siêu thoát. Tamataro là một trong những đứa nhỏ hay chơi đùa trước cửa nhà tôi. Cha nó đã qua đời từ nhiều năm nay, mẹ nó ở vậy nuôi con. Bà làm nghề may, chuyên lãnh hàng từ các tiệm buôn về nhà để may cắt. Mặc dù bận rộn như thế nhưng hàng ngày bà vẫn khuya sớm tụng kinh rất chân thành. Khi nghe tôi kể lại câu chuyện, bà gật đầu chùi nước mắt: - Quả đúng là chồng tôi rồi. Chồng tôi luôn luôn mặc áo kimono hiệu O-shima như vậy. Chồng tôi làm thương mại nên có tiền cho vay lấy lãi. Sau khi ông qua đời, tôi tìm được một rương chứa toàn giấy nợ chưa thanh toán. Xem xét kỹ, tôi thấy ông đã đòi một mức lời quá cao, thật không công bằng chút nào, do đó tuy còn giữ giấy nợ nhưng tôi vẫn ngần ngại không biết phải làm gì. Tôi là đàn bà chân yếu tay mềm, đâu biết đòi nợ ra sao. Chắc hẳn khi qua đời chồng tôi cũng lo lắng, bận tâm về việc này lắm nên mới không siêu thoát được như vậy. Nay nhờ bà cho biết thì tôi mang thùng giấy nợ đi đốt, để chồng tôi không còn phải bận tâm gì nữa. Tôi ngạc nhiên về trải nghiệm lạ lùng này nên viết thư báo cho lão sư. Trước khi nhận được thư hồi âm thì một sự kiện lạ lùng nữa đã xảy ra. Một hôm, tôi có linh tính rằng ngoài tôi và Ryochan, hình như trong nhà còn có sự hiện diện của một người thứ ba nào đó nữa. Vài hôm sau, đang tĩnh tọa, cái cảm giác đó lại nổi lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tôi bèn tập trung định lực để quan sát thì thấy có một người đàn bà, vóc dáng gầy gò yếu ớt đang quanh quẩn trong nhà. Tuy tuổi không cao nhưng mặt bà đầy những vết nhăn, có lẽ vì quá ưu tư lo lắng. Bà nhìn tôi, miệng cứ mấp máy nửa như muốn nói, nửa lại sợ sệt không nói ra. Bà cứ quanh quẩn bên tôi nhưng mỗi khi tôi đến trước bàn thờ làm lễ thì bà lại biến mất. Dĩ nhiên tôi biết đó là một hồn ma nhưng tôi thấy nó không gây trở ngại gì cho nên tôi không quan tâm. Hôm sau, trong lúc tĩnh tọa, tự nhiên tôi biết hồn ma đó không phải ai xa lạ mà chính là mẹ của Ryochan. Một lần nữa, cái cảm giác “biết” này làm tôi bối rối. Để kiểm chứng cái khả năng ấy, chiều hôm đó tôi hỏi Ryochan: - Này Ryochan, khi còn sống mẹ anh là người thế nào? Sao không mấy khi anh nói gì về mẹ anh hết? - Gia đình ta có bốn anh em, khi mẹ ta qua đời thì ta mới lên ba tuổi và đứa em nhỏ nhất mới được sáu tháng. Ta không biết gì nhiều về mẹ ta mà chỉ biết tên bà là Shigeko. Bà chết vì bị bệnh lao, năm đó bà mới ngoài hai mươi sáu tuổi... Tôi suýt kêu lên: “Quả đúng là mẹ của Ryochan rồi”. Một người mẹ qua đời khi con cái còn thơ dại như thế thì làm sao có thể siêu thoát được! Chắc chắn bà đã lo lắng cho con cái nhiều lắm nên trông bà mới bơ phờ như vậy. Qua hôm sau, tôi nhận được thư hồi âm của lão sư. Trong thư ông viết vắn tắt: “Con hãy trở về đây ngay, ta chấp nhận cho con được phép tiếp tục học đạo với ta”. Thật khó có thể diễn tả được nỗi vui mừng của tôi. Những điều mong cầu ao ước đã trở thành sự thật. Khi trước lão sư không nhận tôi vì tôi không được phép của gia đình, nhưng hiện nay mọi việc đã đổi khác, ông sẵn sàng thâu nhận tôi vô điều kiện. Tôi sung sướng nhủ thầm: “Lần này mọi việc sẽ tốt đẹp”. Buổi chiều tôi ngồi tĩnh tọa rất lâu nhưng khi vừa xuất định tôi đã thấy người đàn bà đó đứng trước mặt tôi, vẻ mặt đầy căng thẳng, lo lắng. Có lẽ bà đã biết tôi quyết định rời bỏ Ryochan để lên đường học đạo. Tôi bèn lên tiếng an ủi: “Mẹ Shigeko, xin mẹ đừng quá lo lắng như vậy. Con đã quyết lên đường học đạo nhưng con hứa khi học xong sẽ trở lại săn sóc cho Ryochan. Mẹ cứ yên tâm, hiện nay Ryochan đã lớn khôn, đã trưởng thành, tự lo lấy mọi việc được rồi, mẹ không phải quá lo lắng cho anh ấy nữa. Bây giờ mẹ hãy quay về lo cho chính mình thì hơn”. Tôi nói một cách hết sức chân thành vì dĩ nhiên người ta không thể nói dối một hồn ma được, ở cõi bên kia họ đọc rõ tư tưởng của nhau như mở một cuốn sách. Sau khi tôi nói xong, tự nhiên hồn ma biến mất, từ đó tôi không hề gặp lại bà nữa. Ít lâu sau, tôi lên đường trở lại Shikoku để học đạo với lão sư. Lần này tôi ra đi với một tâm trạng thoải mái, không vội vã hay luyến tiếc như lần trước. Trên xe lửa tôi có nghĩ đến Ryochan. Việc từ bỏ một đứa bé như Ryochan, lúc nào tôi cũng chỉ coi Ryochan như một đứa bé, khiến tôi tự hỏi về mối quan hệ giữa mình và hắn. Bất ngờ thay, trước mặt tôi bỗng hiện lên một hình ảnh rõ rệt như một cuốn phim được chiếu trên tường. Đó là một vùng đất hoang vu, cây cối mọc chằng chịt, trông như một khu rừng miền nhiệt đới. Tôi thấy một thanh niên thân thể vạm vỡ, mặc quần áo may bằng da thú, đang khuân một cái chum lớn bằng đất nung vào một hang đá. Trong hang có một người đàn bà cũng mặc quần áo may bằng da thú, đang chăm chú nhìn người đàn ông đó. Người đàn bà đó chính là tôi, và người đàn ông kia chính là Ryochan. Thì ra chúng tôi đã là hai chị em trong tiền kiếp. Tự nhiên tôi “biết” được mối liên hệ giữa hai chúng tôi như thế nào. Hình ảnh này hiện ra thật rõ ràng, trong lúc tâm hồn tôi đang tĩnh lặng, bình yên. Tôi thản nhiên uống tiếp ly trà nóng trên tay, nghe tiếng gió rì rào ngoài cửa sổ và “biết” rằng sự ràng buộc giữa tôi và Ryochan đã chấm dứt. Quả thật tôi đã phát triển được một khả năng đặc biệt khác thường. Dĩ nhiên cái khả năng này chỉ là kết quả của nhiều năm tu tập về định lực, nhưng lúc đó tôi không phân biệt được cái khả năng thần thông này và sự giải thoát là hai việc hoàn toàn khác nhau. CHƯƠNG 4 K hi tôi trở lại Shikoku thì lão sư đã dọn vào một căn nhà to đẹp đẽ hơn căn nhà trước, sau nhà có vườn hoa, ao thả cá kiểng và một hòn non bộ khá lớn. Lão sư không quan tâm gì nhiều về sự thay đổi này, ông vẫn ung dung như thường lệ; nhưng vợ ông thì hãnh diện về căn nhà này lắm. Cũng phải nói thêm rằng vợ lão sư là một người đàn bà kiêu căng hợm hĩnh, hay khinh rẻ mọi người. Bà xuất thân từ một gia đình danh giá nhưng khi bà trưởng thành thì gia đình đã sa sút nhiều, chỉ còn dư âm tiếng tăm mà thôi. Tuy nhiên, bà vẫn tự phụ về truyền thống danh gia vọng tộc này và luôn luôn coi thường những người xuất thân hèn kém hơn. Bà đối xử với lão sư hết sức tệ bạc, thỉnh thoảng lại so sánh ông với những người có địa vị cao hơn hay giàu có hơn. Đối với học trò của lão sư, bà có thái độ lạnh nhạt thờ ơ, ít khi nói chuyện với ai. Một số học trò thường lén gọi bà là “bà Socrates” vì ngày xưa hiền triết Socrates cũng có một bà vợ rất hung dữ, nổi tiếng trong lịch sử Hy Lạp. Người ta nói rằng những bậc hiền triết thường không mấy khi gặp được những người vợ tương đắc, hễ ông thiên về tinh thần thì gặp bà vợ chỉ biết đến vật chất. Cũng có người cho rằng chính nhờ những bà vợ hung dữ như vậy mà người chồng mới thành công trong nghệ thuật hàm dưỡng, tự chủ và trở thành một bậc hiền triết. Khi xưa tôi nghĩ quan niệm đầu có lẽ đúng; nhưng về sau, hiểu biết hơn, tôi thấy giả thuyết sau có lý hơn. Tôi xin kể vì lý do nào mà tôi lại thay đổi quan niệm như vậy. Lúc trước đến học đạo với lão sư, tôi chỉ là một trong mấy chục học trò chuyên tĩnh tọa và học các nghi thức của Thần đạo. Vì bận rộn học hỏi nên ít khi chúng tôi có dịp tiếp xúc với bà vợ của lão sư. Thỉnh thoảng nếu có những va chạm nhỏ thì đám học trò chúng tôi cũng ráng chịu đựng rồi xầm xì với nhau về sự khó tính của bà mà thôi. Tuy nhiên, trong lần trở lại Shikoku này, sự việc xảy ra khác hẳn. Khi gặp lại lão sư, tôi nghĩ ông sẽ phải hài lòng về công phu tu tập đầy tiến bộ của tôi trong mấy năm qua; nhưng trái lại, ông tỏ ra thờ ơ, chẳng hỏi han gì đến chuyện đó. Ông chỉ vắn tắt cho biết hiện nay ông đang cần một người giúp việc trong nhà và muốn tôi làm việc đó. Ông nghiêm nghị: - Hiện nay ta rất bận, chưa thể dạy riêng cho con được, nhưng ta muốn con phụ giúp vợ ta lo việc trong nhà. Con phải tuyệt đối vâng lời vợ ta, như thế ta mới vui lòng. Thật không thể tưởng tượng được sự thất vọng của tôi lúc đó. Tôi lên đường trở lại Shikoku với hy vọng mình sẽ được học riêng với lão sư. Tôi thầm ao ước rằng với công phu tu tập và quyền năng đặc biệt này, nếu tôi chẳng trở thành chưởng môn đại đệ tử thì ít ra cũng được đãi ngộ xứng đáng. Chẳng bao giờ tôi lại nghĩ rằng mình biến thành một đứa ở lo quét dọn, cơm nước, hầu hạ mọi người trong nhà. Bà vợ lão sư sung sướng ra mặt khi tự nhiên có một đứa đầy tớ như tôi. Bà lập tức lên giọng sai bảo ngay để chứng tỏ quyền hành của bà: - Satomi, đi mua cho ta hai miếng đậu phụ chiên. - Vâng, thưa bà. - Khoan đã, ta không thích đậu phụ chiên. Ngươi mua cho ta hai miếng đậu phụ tươi vậy. - Thưa vâng. - Khoan đã, lúc này trời lạnh ăn đậu phụ tươi không được ngon, ngươi mua cho ta hai miếng đậu phụ nấu với nấm đông cô. Khi trở về với bát đậu phụ nấu nấm thì bà lại đổi ý: - Bây giờ ta không thích ăn đậu phụ nấu như vậy nữa, mi chạy ra chợ đổi lấy hai miếng đậu phụ chiên. Suốt ngày bà sai tôi làm những việc vớ vẩn như vậy. Đã thế bà cứ luôn đổi ý, lúc thế này khi thế khác. Hễ trái ý thì bà quát tháo om sòm: - Này Satomi, ngươi có điếc không đấy? Ta nói rõ như thế mà sao mi không hiểu? Hoặc có khi bà lên giọng kẻ cả: - Thật tội nghiệp, nghe nói mi xuất thân từ Hokkaido phải không? Thảo nào mi đần độn quá. Những đứa quê mùa thất học như mi thì làm sao có thể khá được! Là người bướng bỉnh, ít khi tôi chịu nhường ai, nhưng không hiểu sao lần này tôi lại chịu đựng được những cơn thịnh nộ tai ác của bà vợ lão sư. Tôi nghĩ nếu lão sư căn dặn tôi phải tuyệt đối vâng lệnh thì mình phải tuân lời, chắc hẳn ông phải có chủ ý gì, biết đâu ông chẳng thử thách công phu tu tập của tôi? Tôi nghĩ nếu như vậy thời gian thử thách này chỉ kéo dài khoảng vài tuần lễ hay một tháng là nhiều, nhưng tôi đã lầm, nó tiếp tục từ tháng này qua tháng khác và từ năm này qua năm khác. Lúc đầu tôi nghĩ đó là thử thách nên cắn răng chịu đựng, về sau đã quen nên tôi có thể cười thầm trước những hành động vô lý của bà; nhưng theo thời gian, tôi dần dần thấy mình trở thành một người thụ động, ngu si, đần độn không phản ứng trước những lời chửi mắng vô lý đó. - Này Satomi, con đần độn kia mau vào chùi cầu tiêu cho ta. - Vâng, thưa bà. - Cái con ngu si kia, tại sao mi lại có thể để nhà bếp bẩn thỉu như vậy được. Mau lấy khăn chùi cho thật kỹ, ta không muốn thấy một hạt bụi nào dưới sàn nghe chưa? - Vâng, thưa bà. Thời gian trôi qua nhanh, thoáng một cái, tôi đã trở thành đầy tớ cho gia đình lão sư được hơn bốn năm. Một hôm, gia đình lão sư có khách đến thăm, tôi được lệnh luộc một nồi khoai mang lên. Trong lúc mọi người đang ăn uống ngon lành, tôi khoanh tay đứng hầu bên cạnh thì bà vợ lão sư, có lẽ vì thương hại tôi đói, lấy một miếng khoai luộc nhét luôn vào miệng cho tôi ăn. Tôi lúng túng vì miếng khoai nóng, nửa muốn nhả ra nửa muốn nuốt vào nhưng không sao nuốt nổi. Tôi bối rối nhìn mọi người và có cảm tưởng mình là một con chó, được chủ thí cho miếng xương thừa. Tự nhiên cơn giận ở đâu bốc lên, tôi phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh, lủi thủi bỏ xuống bếp. Chưa bao giờ tôi thấy chua xót, tủi nhục như lúc đó. Tôi cố gắng tập trung tư tưởng nhưng nước mắt cứ trào ra. Tôi tự nhủ: “Mày thật yếu đuối, mới có một chút như vậy mà đã không giữ được bình tĩnh, công phu tu tập của mày bỏ đi đâu rồi? Bao năm khổ hạnh luyện tập định lực mà sao chỉ một đụng chạm nhỏ nhặt như vậy đã nổi cơn bất bình”. Làm sao tôi có thể sửa đổi được những tư tưởng oán giận này? Sau một lúc suy nghĩ, tôi lấy ra một tờ giấy trắng và bắt đầu đánh dấu vào đó mỗi khi tôi thấy mình không tự chủ được. Vài tháng sau, xem lại tờ giấy, tôi thấy nó dầy đặc những vết gạch ngang dọc, tôi biết tuy mình có thể thi hành mọi mệnh lệnh một cách nghiêm chỉnh nhưng bên trong tôi vẫn khó chịu, bất mãn. Tóm lại, tôi vẫn chưa thay đổi gì nhiều. Khả năng tự chủ của tôi chưa tiến bộ được bao nhiêu. Đau khổ cùng cực, tôi liền đổi phương pháp. Tôi tìm mua bức tranh Mona Lisa, vẽ một người đàn bà đang mỉm cười, treo trên đầu giường và tự nhủ trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ta cũng nên mỉm cười, bất chấp tất cả. Mỗi khi bà vợ lão sư quát mắng, tôi định tâm, hít một hơi thật dài rồi mỉm cười. Phương pháp này giúp tôi lạc quan hơn, bình tĩnh hơn và tự chủ hơn. Từ đó, bất kỳ chuyện gì xảy ra, tôi cũng cố gắng kiểm soát hơi thở rồi mỉm cười. Mỗi khi trong lòng tôi nổi lên một niệm khởi gì, tôi tập trung tư tưởng, nghĩ đến nụ cười bất diệt của nàng Mona Lisa. Khi đặt bút viết những dòng này thì tôi đã là một lão ni ngoài sáu mươi tuổi. Hơn ba mươi năm đã trôi qua, bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, bao tang thương biến đổi nhưng lúc nào tôi cũng cảm ơn bà vợ lão sư đã dạy cho tôi một bài học quý giá về sự tự chủ. Chính cái kỷ luật khắc nghiệt của bà đã hun đúc cho tôi một tinh thần điềm đạm khiến tôi trở thành một con người khác hẳn khi trước. Khi trở lại với lão sư, tôi đang tự hào về định lực của mình; tôi tưởng mình đã là cái gì ghê gớm lắm. Nhờ sự đối xử khắc nghiệt của bà vợ lão sư mà khi rời Shikoku, tôi đã trở thành một người khiêm tốn hơn, hiểu biết hơn. Mỗi lần nghĩ đến bà, tôi tin rằng chính bà mới là người giúp lão sư trở thành một vị thầy giỏi. Biết đâu công phu tu tập để thản nhiên, điềm đạm của lão sư chẳng nhờ bà vợ một phần nào? Trước khi đi xa hơn, tôi xin nói qua về công phu tu tập của tôi. Kể từ khi tấm lòng chân thành của cha tôi cảm hóa được tôi thì tôi ý thức rất rõ về cái tính nết ích kỷ, xấu xa, kiêu ngạo của mình. Tôi cương quyết thay đổi, loại trừ những mầm mống tội lỗi này vì nó là những ô nhiễm đã ngăn cản tôi tìm hiểu chính mình. Qua sách vở thu thập được, tôi tin rằng người ta chỉ có thể tẩy uế những ô nhiễm này qua những phương pháp khổ hạnh, hành xác. Lúc bắt đầu thực hành, các tư tưởng xấu xa, ích kỷ không thể phát triển được vì tôi cố gắng kiểm soát thân và tâm kịch liệt. Tuy nhiên, khi vừa ngưng tập luyện thì các thói xấu này trở lại ngay. Cuộc sống lúc đầu với Ryochan đã phản ảnh điều này một cách rõ rệt. Càng thực hành, tư tưởng ích kỷ, xấu xa càng bị dồn nén nên khi có dịp phát động, chúng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Lúc đầu tôi nghĩ công phu tu tập của tôi chưa đủ nên tôi áp dụng thêm các phương pháp tẩy uế bằng nước lạnh. Giữa mùa đông lạnh giá, tôi lấy nước mưa chứa trong các thùng lớn ngoài sân để tắm gội. Dĩ nhiên nước gần đóng thành băng rất lạnh nhưng tôi vẫn cương quyết xối lên khắp người. Tôi thầm mong nước lạnh làm cho đầu óc tôi trở nên tê cứng, khiến tôi rơi vào trạng thái mê hoặc xuất thần, các ý tưởng xấu xa ích kỷ kia cũng theo đó mà bị tiêu diệt. Tôi thực hành suốt mấy năm nhưng chẳng thấy mình rơi vào trạng thái mê hoặc xuất thần nào hết. Sau khi tắm rửa bằng nước lạnh, tôi xếp bằng trước sân nhà để tĩnh tọa, bất chấp thời tiết lạnh đến đâu. Việc áp dụng phương pháp này đã khiến cho tai, mũi, miệng của tôi bị trào máu. Hậu quả là tôi phải nằm liệt giường mất mấy tháng. Tôi tưởng mình đã chết và những ô nhiễm cũng tiêu theo, nhưng rồi tôi lại hồi phục. Khi sức khỏe phục hồi trở lại, tôi thấy mình vẫn không thay đổi bao nhiêu. Qua năm sau, tôi lại tiếp tục thực tập như vậy một cách mãnh liệt hơn. Tôi tắm nước lạnh mỗi ngày hai lần và tĩnh tọa ngoài trời từ sáng đến tối. Hậu quả là tôi lại nằm liệt giường thêm mấy tháng nữa nhưng càng ngày khả năng tập trung định lực của tôi càng mạnh mẽ hơn trước. Chính nhờ tu tập chuyên về định lực này mà tôi vô tình phát triển được khả năng tiếp xúc với vong linh thuộc thế giới siêu hình. Để có thể thường xuyên giao thiệp với cõi này, người ta cần phải diệt bỏ ý thức về bản ngã; nghĩa là phải biết quên mình, không ý thức gì về mình nữa, thụ động hoàn toàn để cho một quyền năng nào đó sai khiến. Đó cũng là lý do tôi được yêu cầu trở thành một người đầy tớ, chịu mắng chửi suốt ngày để dẹp bỏ lòng tự ái, bản ngã, chịu sự sai xử tuyệt đối của người khác. Đây là phương pháp huấn luyện những người có tính thụ cảm để trở thành một cô đồng (Miko) của Thần đạo. Dĩ nhiên tôi không biết gì về việc này mà vẫn nghĩ mình trở lại Shikoku để tiếp tục học đạo với lão sư. Tôi tin rằng mình đang đi trên con đường chân chính, tu tập để trở thành một người sống thật với lẽ đạo, sống một cách chính tâm thành ý, thành thật với mình và với mọi người. Tôi không ý thức gì về con đường mình đang theo đuổi. Tôi nghĩ mình đã tìm được một vị thầy rất giỏi, nếu triệt để tuân theo lời chỉ dẫn của thầy thì chắc chắn sẽ đến đích. Tôi chưa biết phân tích, suy ngẫm, tìm hiểu xem điều mình đang thực hành có dẫn mình đến mục đích chân chính hay không. Tôi cũng không tìm hiểu gì thêm về lão sư xem ông muốn gì mà chỉ tuyệt đối làm theo sự yêu cầu của ông. Tôi tin rằng sự trung thành với một vị thầy là điều cần thiết mà không hề nghĩ rằng chính ông cũng đang lần mò đi tìm như tôi, và cũng không biết con đường đó sẽ đưa ông đến đâu. Cũng phải nói thêm rằng tuy theo Thần đạo nhưng lão sư không phải là người chuyên đào tạo các cô đồng, mà chỉ là một học giả thích tìm tòi nghiên cứu mà thôi. Ông đã từng học thiền với hòa thượng Nantembo tại Kyoto, học Thánh Kinh với các nhà truyền giáo Tây phương, tập võ nghệ với các võ sư người Trung Hoa. Ông rút tỉa các tinh hoa thâu tập được và tổng hợp thành một đường lối riêng của mình. Ông không ưa phương pháp tẩy uế ô nhiễm, thanh lọc bản thân của Thần đạo vì cho rằng nó quá bạo lực và phũ phàng. Ông chủ trương chỉ cần tĩnh tọa, đặt trọng tâm vào hơi thở, người ta có thể tẩy sạch được các ô nhiễm. Ông nói: “Khi tĩnh tọa một cách chính tâm thành ý, người ta có thể giao cảm được với chư thần, rồi khi mình và chư thần không còn là hai thực thể cách biệt nữa, chỉ cần một hơi thở nhẹ cũng có thể quét sạch được mọi ô nhiễm rồi”. Việc hợp nhất với chư thần là mục đích tối hậu của Thần đạo, do đó việc giao cảm với chư thần qua một cô đồng cũng là một cuộc thí nghiệm, để ông có dịp tìm hiểu thêm về con đường mà ông đang theo đuổi. Về phần tôi, tôi chỉ có một mục đích duy nhất là tìm ra con đường có thể giúp tôi thay đổi những thói hư tật xấu, những kiêu căng ngã mạn, vẫn tiềm ẩn trong tâm thức của tôi. Tôi tin rằng với quyền năng sẵn có, nếu được lão sư chỉ dạy thêm ít lâu, tôi có thể đạt được mục đích này. Điều bất ngờ là không những lão sư chẳng chỉ dạy gì riêng cho tôi mà lại chỉ định tôi làm đầy tớ phục vụ cho bà vợ của ông. Vào lúc đó, lão sư vẫn tiếp tục thu nhận học trò, vẫn có những buổi thực tập tĩnh tọa hay giảng giải học thuyết Thần đạo, nhưng tôi không được phép tham dự. Tại sao lão sư không dạy thêm cho tôi? Tại sao ông lại đối xử với tôi như vậy? Tại sao ông lại viết thư gọi tôi trở lại rồi không dạy dỗ gì hết? Lúc đầu tôi nghĩ rằng ông muốn thử thách tôi một thời gian nhưng càng ngày tôi càng thất vọng và nghĩ có lẽ ông đã quên tôi hoặc nhận thấy tôi không có khả năng đi xa hơn nên chỉ xem tôi như là một người đầy tớ. Lão sư thường cấp chứng chỉ cho học trò khi họ đạt được trình độ nào đó. Cho đến nay, tôi vẫn không biết những chứng chỉ đó dựa trên căn bản nào nhưng lúc đó, tôi tin lão sư đã có những công thức bí mật mà ông chỉ dạy riêng cho từng người. Dĩ nhiên những học trò được cấp chứng chỉ không bao giờ nói về những điều mà họ đã được truyền dạy. Hàng ngày nhìn những người đến tu học với ông một thời gian rồi được cấp phát chứng chỉ, tôi thèm khát vô cùng và thầm ao ước cũng có được một tấm chứng chỉ như vậy. Morisan là một thiếu nữ trong số học trò của lão sư. Tuy mới theo học mấy năm mà cô đã được cấp chứng chỉ trình độ trung cấp. Cô thường dắt bạn bè đến đàm đạo với lão sư và luôn luôn được mời uống trà với ông ở vườn sau. Một hôm, cô và một người bạn trẻ đến thăm lão sư, nhưng lúc đó ông đi vắng, tôi bèn mời họ ra vườn sau ngồi chờ. Đây là cơ hội ngàn năm có một để tôi tiếp xúc với những học trò đã được cấp chứng chỉ mà không có mặt lão sư tại đó, biết đâu họ chẳng thương tình tiết lộ cho tôi một vài điều gì chăng. Tôi dọn một mâm cơm thịnh soạn, khoanh tay đứng hầu, hy vọng có thể nghe lén được vài điều. Tôi chăm chú theo dõi từng cử chỉ của Morisan và thầm nghĩ: “Tại sao một người còn trẻ thế kia mà đã được vào trình độ trung cấp, chắc chắn cô ta phải sở hữu một kiến thức đặc biệt nào đó”. Sau cùng, lòng khao khát mãnh liệt thúc đẩy tôi buột miệng: - Này chị Morisan, chân lý tối hậu là gì? Người bạn của Morisan đang ăn bỗng quay qua nhìn tôi rồi nói: - Là khi ăn biết mình ăn, khi uống biết mình uống. Chỉ có thế thôi! Tuy nói thế nhưng anh ta vẫn nhồm nhoàm nhai thức ăn một cách thô bỉ, anh gắp lấy gắp để thức ăn trên bàn như sợ ai giành mất. Ăn xong, anh ta còn bưng cả bát canh húp một hơi dài khiến tôi thắc mắc không biết điều anh ta nói và việc anh ta làm có ăn nhập gì với nhau không. Morisan không trả lời, chỉ giữ thái độ im lặng trong suốt bữa ăn. Tôi khó chịu lắm vì nghĩ cô này không muốn chia sẻ gì với tôi, tự nhiên tôi nổi giận và nhủ thầm: “Nếu chúng mày không muốn chia sẻ với ta thì ta sẽ tìm cách khác”. Vài hôm sau, tôi vào gặp lão sư: - Thưa thầy, quả là một phép lạ. Thầy biết pho tượng Địa Tạng bằng gỗ đàn hương dựng ở cửa nghĩa địa không? Pho tượng này linh lắm, có lúc nó nhẹ như bông, có lúc nó lại nặng như tảng đá ngàn cân. Chính con đã đến đó xem, một chú tiểu nhỏ có thể khuân pho tượng đó lên để lau chùi một cách dễ dàng, nhưng một gã phu xe khỏe mạnh lại không sao nhấc nó lên nổi. Tôi nghĩ lão sư phải sốt sắng tìm hiểu về việc này, biết đâu ông lại chẳng buột miệng giải thích và nhờ đó tôi tìm được cái chìa khóa bí mật mà ông vẫn cất giữ, chưa chịu truyền dạy. Tuy nhiên, lão sư vẫn tỏ ra bình thản: - Thế ư? Kể cũng lạ đấy, nhưng việc đó chẳng có gì quan trọng. Khi đó, không hiểu sao tôi bạo miệng tự giải thích: - Phải chăng nặng hay nhẹ cũng chỉ là một quan niệm của tâm thức nhị nguyên trái với nguyên lý “Vạn vật đồng nhất thể” và “Nhất bản tán vạn thù”? Lão sư thản nhiên trả lời bằng một câu vô thưởng vô phạt: - Ừ. - Thế nhưng tại sao...? - Đừng thắc mắc nhiều. Cái đó chẳng có gì đáng quan tâm hết. Tôi thất vọng lắm nhưng không biết phải làm sao nên đành tự an ủi rằng có lẽ thời cơ chưa đến, một ngày nào đó đủ duyên ông sẽ chỉ dạy cho tôi. Thời gian tiếp tục trôi đi nhưng tôi vẫn không được ông chỉ dạy thêm một điều gì hết. Tôi bèn đổi chiến thuật, ngày ngày cố ý đi ngang qua phòng lão sư, làm một cử chỉ gì đó khiến ông phải chú ý đến nhưng lão sư vẫn ung dung, điềm đạm, dường như ngoại cảnh không ảnh hưởng gì đến ông. Tôi nghĩ thầm có lý nào mình hầu hạ gia đình ông suốt bao nhiêu năm, chịu đựng trăm điều khổ cực mà chẳng được đối xử tử tế chi hết. Sự thất vọng dần dần chuyển qua tuyệt vọng. Một hôm, không thể chịu đựng được nữa, tôi đã vào quỳ trước mặt lão sư, cương quyết: - Thưa thầy, con là một đứa ngu độn không có một khả năng gì hết… Phải chăng một cục đất sét không bao giờ có thể trở thành vàng ròng được? Lão sư thản nhiên trả lời: - Đúng vậy! Làm sao một cục đất sét có thể trở thành vàng ròng được, nhưng nếu biết nhào nặn cẩn thận, một cục đất sét vẫn có thể trở thành một vật hữu dụng. Tôi đau khổ khóc òa lên: - Thưa thầy, một cục đất thì hữu dụng cái nỗi gì! - Không đâu, khi một vật vô dụng trở nên hữu dụng, nó sẽ là bảo vật quý giá của thế gian. Lúc đó, vì quá thất vọng nên tôi không hiểu được ý nghĩa trong lời khuyên của lão sư. Tôi lẩm bẩm: “Phải rồi, đất là đất, vàng là vàng, ta chỉ là một cục đất tầm thường vô dụng, dù có cố gắng đến đâu ta cũng không thể trở thành vàng ròng. Lão sư đã xác nhận như vậy thì cố gắng cách mấy ta cũng không thay đổi được gì. Phải chăng ta đã lầm khi có ý đi tìm một con đường lý tưởng? Phải chăng chân lý chỉ là một ảo vọng, một trò chơi của những kẻ viển vông?”. Sau buổi tiếp xúc đó, sự kính trọng của tôi dành cho lão sư đã giảm hẳn đi. Từ địa vị là một vị thầy khả kính, lão sư đã biến thành một kẻ lợi dụng, một tên đạo đức giả, một người tồi tệ đáng khinh. Đúng vào lúc đó, tôi nhận được thư nhà gửi từ Hokkaido. Trong thư mẹ tôi cho biết cha tôi đang lâm trọng bệnh sắp qua đời, căn nhà của chúng tôi bị hỏa hoạn cháy rụi, và đứa con gái của tôi đang chuẩn bị lập gia đình. Mẹ tôi khẩn khoản gọi tôi trở về lo việc nhà, bà còn kèm theo một món tiền nhỏ làm lộ phí nữa. Tôi run rẩy đặt lá thư xuống bàn, nước mắt giàn giụa. Thì ra tôi đã xa nhà hơn mười sáu năm. Mười sáu năm dài đằng đẵng, mười sáu năm lang thang khắp các nẻo đường mà chẳng học hỏi được gì cho ra hồn. Tôi đã phụ lòng cha mẹ, chẳng làm được gì để ông bà có thể hãnh diện, và nay đến lúc cha tôi gần đất xa trời, tôi vẫn chưa báo đáp được công ơn dưỡng dục của ông trong muôn một. Liệu tôi có còn mặt mũi nào để trở về gặp mẹ cha? Làm sao tôi có can đảm gặp lại đứa con mà tôi chẳng hề săn sóc? Không những là một đứa con bất hiếu, tôi còn là một người mẹ thiếu trách nhiệm nữa. Làm sao một người tồi tệ như tôi lại dám trở về làng xưa? Dĩ nhiên tôi không có can đảm trở về nhưng trong hoàn cảnh khốn cùng hiện nay, tôi cũng không thể tiếp tục sống ở đây để chờ đợi lão sư dạy dỗ thêm gì nữa. Sau nhiều đêm mất ngủ, tôi quyết định từ bỏ việc học đạo, trở về Hokkaido, sống đời một dân quê ngu muội, chỉ biết cày sâu cuốc bẫm vậy. Chỉ sau khi quyết định khăn gói lên đường thì tôi mới khám phá rằng mình đã lầm và lầm rất lớn. Thật ra thời gian sống với gia đình lão sư không vô nghĩa như tôi tưởng, mà là một sự rèn luyện âm thầm, một cách huấn luyện kỳ lạ của lão sư để phát triển khả năng tiếp xúc với cõi giới siêu hình của tôi. Biết tôi đã thực hành tĩnh tọa đến mức sở hữu được định lực, ông thấy không cần phải dạy các lý thuyết từ chương nữa. Đó là lý do ông không cho phép tôi tham dự các khóa tĩnh tọa, học hỏi lý thuyết như các học trò khác. Để diệt trừ bản ngã của tôi, ông đã lợi dụng bản tính khắc nghiệt, hung dữ của chính bà vợ mình để huấn luyện tôi trở nên thụ động, tuyệt đối vâng lời. Ông đã tính toán kế hoạch một cách kỹ lưỡng mà tôi nào hay biết. Ông âm thầm thử thách tôi, quan sát thái độ của tôi đối với bà vợ của ông, mà tôi nào có hay. Cho đến khi tôi xin phép được trở về quê, ông mới yêu cầu tôi làm một vài việc nhỏ để trắc nghiệm và khi tôi làm tròn một cách dễ dàng, ông mới xác nhận trình độ của tôi. Ông cho biết tôi đã đạt đến trình độ rất cao của Thần đạo, đã trở thành một cô đồng với quyền năng đặc biệt có thể tiếp xúc với chư thần theo ý muốn. Tôi hết sức ngỡ ngàng và vô cùng xúc động vì kết quả bất ngờ này. Trước khi đi xa hơn, tôi muốn nói qua vài nét về vai trò của cô đồng trong Thần đạo. Cũng như mọi tôn giáo lớn, Thần đạo chia làm hai phần: Công truyền và Bí truyền. Phần Công truyền được tổ chức chặt chẽ qua kinh điển, sách vở, nghi thức, đền thờ và giáo sĩ. Phần Bí truyền không có tổ chức, không có sách vở, không có giáo sĩ, mà chỉ dựa trên sự tin tưởng và hiểu biết của một thiểu số. Đây là những phương pháp khẩu truyền bí mật được truyền riêng giữa thầy và trò. Cô đồng vì thế cũng được chia làm hai loại: Các cô đồng thuộc nhóm Công truyền hay đồng đền (Shrine Miko) là những phụ nữ được huấn luyện để phụ tá cho các giáo sĩ trong các nghi thức cúng tế. Trong đền thờ Thần đạo, các cô đồng đền này phụ trách việc múa hát (kagura), dâng lễ vật, bày biện trang hoàng bàn thờ thần linh v.v... Số người hành nghề này khá đông vì công việc không đòi hỏi gì nhiều. (Trong Thần đạo, giáo sĩ và cô đồng được xem là một nghề nghiệp có lương.) Các cô đồng đền này được huấn luyện trong các khóa đào tạo, và khi tốt nghiệp được cấp chứng chỉ hành nghề. Trong khi đó, các cô đồng thuộc nhóm Bí truyền (Shamanie Miko) được huấn luyện trong vòng bí mật, bởi các vị thầy của Thần đạo, để trở thành một khí cụ trung gian giữa thần linh và con người. Những cô đồng này sẽ tuân theo những nghi thức riêng để bước vào một trạng thái mê hoặc xuất thần, lúc đó chư thần sẽ nhập vào họ, sử dụng xác thân của họ để tiếp xúc với thế giới loài người. Qua miệng của cô đồng, chư thần cho mọi người biết trước những điều hung cát, tiên đoán mùa màng, thời tiết, vận mệnh làng xã hay quốc gia, hoặc trả lời những câu hỏi có tính chất cá nhân của mọi người… Ngoài ra, những cô đồng này còn có thể yêu cầu các vong linh nhập vào họ để tiếp xúc với họ hàng thân quyến hoặc thực hành các nghi thức trừ tà, chữa bệnh v.v... Từ xưa, Thần đạo đã đóng một vai trò rất quan trọng trong lịch sử Phù Tang, trước khi ảnh hưởng của Trung Hoa du nhập vào đây. Vào thời cổ sử, những người lãnh đạo các bộ tộc, các vị lãnh chúa đều có những cố vấn riêng là những cô đồng có khả năng giao thiệp với Thái Dương Thần Nữ (Amaterasu Omi Kami). Tại sao những người này thuộc phái nữ mà không thuộc phái nam? Người Nhật tin rằng Đấng Sáng Tạo hay Thái Dương Thần Nữ thuộc phái nữ, và chỉ người nữ mới có thể tiếp xúc được với người nữ một cách tương đắc mà thôi; người nam thường thô lỗ, dễ làm mất lòng Thần Nữ. Do đó, trong Thần đạo, tu sĩ thường là phái nam nhưng một người đồng luôn luôn phải thuộc phái nữ. Trong hai cuốn cổ thư của Thần đạo, Kojiki và Nihon Shoki , có ghi rõ việc hoàng đế xứ Chuai lập đàn cầu khẩn chư thần để hỏi ý về việc ông muốn xuất quân đi đánh xứ Kumaso, nằm ở phía Đông xứ Chuai. Chư thần, qua miệng cô đồng, cho biết ông phải tiến quân về phía Tây thì mới gặt hái được kết quả tốt đẹp. Hoàng đế xứ Chuai nổi giận chỉ trích cô đồng nói láo vì phía Tây là biển cả, đâu có xứ nào để chinh phục. Ông ra lệnh chém đầu cô đồng rồi đi về phía Đông, đánh xứ Kumaso. Vì hỗn láo, miệt thị chư thần, nên vừa mặc giáp trụ để cầm quân thì tự nhiên hoàng đế hộc máu ra chết. Các tướng lĩnh thấy vua bị chư thần vật chết, vội lập vua khác rồi ra lệnh cho quân sĩ đóng thuyền bè để đi về hướng Tây mặc dù lúc đó không ai biết hướng này có gì. Vượt biển được hai ngày, họ đặt chân lên một mảnh đất trù phú đúng như lời mách bảo của chư thần, họ chinh phục xứ này, đặt ách thống trị trong nhiều thế kỷ. Mảnh đất này chính là xứ Triều Tiên ngày nay. Cuộc chinh phục Triều Tiên đã đưa địa vị cô đồng lên một mức rất cao và sau đó hầu hết các quyết định quan trọng đều dựa trên lời mách bảo của chư thần qua miệng những cô đồng. Lịch sử Nhật Bản đã chép rõ vai trò của các cô đồng này có khi vượt hẳn quyền hạn của các tướng lĩnh, hay có khi cả hoàng đế nữa. Đến triều đại Taika, ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa du nhập Nhật Bản mỗi ngày một mạnh; các quan văn, chịu ảnh hưởng Khổng giáo, không chấp nhận phái nữ (các cô đồng) xen vào quyền bính. Họ đòi cải tổ triều chính, rập khuôn theo tổ chức hành chính của nhà Đường bên Tàu. Họ chủ trương hoàng đế (thiên tử) chính là một vị thần (Kami) rồi, mà đã là thần thì không cần phải hỏi ý kiến một vị thần linh nào hết. Họ dẹp bỏ các nghi thức cầu đảo trong triều đình, đưa Thần đạo xuống hàng tín ngưỡng bình dân, các cô đồng bị giới hạn tầm hoạt động, chỉ được thực hành các nghi thức cúng lễ trong đền thờ mà thôi. Từ đó khởi đầu cho vai trò của các cô đồng đền, chỉ biết múa hát, dâng lễ vật, thực hành nghi thức cúng tế chứ không có quyền năng. Dĩ nhiên, vẫn có một số người cất giấu những phương pháp huấn luyện các cô đồng thời cổ, qua các phương pháp khẩu truyền nên truyền thống này vẫn được giữ gìn một cách giới hạn. Là nhà nghiên cứu, chủ trương tìm về nguồn cội, lão sư đã tìm được các tài liệu về việc huấn luyện các cô đồng và ông đã áp dụng vào tôi. Cũng phải nói thêm rằng thời đại Minh Trị là một giai đoạn đặc biệt với những truyền thống cũ mới xung đột nhau mạnh mẽ. Khi trước, vào thời Tokugawa (1600 – 1867), các sứ quân nắm quyền cai trị và vai trò của hoàng đế rất lu mờ, nếu không nói là vô quyền. Để phát triển văn hóa, các sứ quân cho lập trường Quốc học (Kokugaku) để nghiên cứu văn hóa và phục hồi các truyền thống cổ xưa. Nhờ biết áp dụng các phương pháp nghiên cứu rất khoa học, các học giả của trường Quốc học đã phát hiện được rất nhiều tài liệu cổ, nhất là những tài liệu từ xưa, được cất giấu trong các chùa chiền, cổ mộ. Vào đầu thế kỷ 18, lúc phong trào bế quan tỏa cảng lên cao, các học giả chủ trương bài ngoại muốn dẹp bỏ các ảnh hưởng ngoại lai, nhất là ảnh hưởng của Trung Hoa, để phục hồi truyền thống quốc gia nên thiết lập ra học phái Kannagara-no-michi. Học giả Hirata Atsutane (1776 – 1843) là người cổ súy việc này. Ông chủ trương lấy Thần đạo làm quốc giáo, nhấn mạnh về vai trò hoàng đế là một vị thần, con cháu của Thái Dương Thần Nữ. Theo ông, các sứ quân chỉ là kẻ tiếm vị, là người đã theo chủ thuyết Trung Hoa mà ông gọi là chủ thuyết của các quan hoạn, làm ô uế truyền thống cao đẹp cổ truyền của Thái Dương Thần Nữ. Dĩ nhiên, các sứ quân triều đại Tokugawa không chấp nhận lời giải thích này nên Hirata bị bắt giam và bị đày biệt xứ, sách của ông bị tịch thu nhưng học trò của ông vẫn lén lút truyền bá học thuyết này. Ít lâu sau, lợi dụng tình hình chính trị sôi động về việc người Âu Mỹ bắn phá các hải cảng của Nhật, đòi tự do giao thương và truyền giáo, các nhóm chính trị đối lập đã hô hào dân chúng nổi lên, lật đổ chế độ sứ quân, đưa Thiên Hoàng trở lại địa vị tối cao. Một trong những điều đầu tiên của Minh Trị Thiên Hoàng là khôi phục lại truyền thống cũ, đưa Thần đạo lên hàng quốc giáo và dẹp bỏ ảnh hưởng của Phật giáo mà triều đình cho rằng đã ủng hộ các sứ quân khi xưa. Sự phát triển của Thần đạo đã vô tình phục hồi giai cấp võ sĩ đạo (Bushido) vốn bị các sứ quân thời Tokugawa hạn chế. Dưới danh nghĩa võ sĩ đạo, các nhà lãnh đạo quân sự đã đào tạo được nhiều sĩ quan có tinh thần quốc gia cực đoan, và hậu quả là đưa Nhật Bản vào cuộc chiến với Trung Hoa (1894 – 1895), Nga (1904 – 1905) và Thế chiến thứ hai (1937 – 1945). Trước khi trở về Hokkaido, lão sư và tôi đã thực hành một nghi thức quan trọng mà qua đó tôi đã chứng tỏ quyền năng của một cô đồng như sau: Yoshida là một thiếu phụ ngoài ngũ tuần. Bà mắc một chứng bệnh lạ lùng mà các y sĩ đều bó tay. Sau khi đã chạy chữa với đủ mọi thầy hay thuốc giỏi mà vẫn vô hiệu, người ta mách bà tìm đến lão sư để xin ông giúp cho. Lão sư thiết lập một đàn tràng rất nghiêm trang tại một đền thờ Thần đạo gần đó. Sau khi tất cả mọi người tham dự chắp tay cầu nguyện một hồi lâu, tôi được mời ra ngồi quay lưng trước bàn thờ. Lão sư đứng trước mặt tôi cầm một tờ sớ dài và bắt đầu đọc. Tôi ngồi yên, giữ hơi thở thật đều đặn và bắt đầu đọc thầm các câu thần chú bí mật có mục đích giữ cho tâm thật trống rỗng theo lời chỉ dẫn của lão sư. Khoảng mười phút sau, thình lình tôi thấy lồng ngực mình nóng ran lên, dường như có một cái gì to cỡ quả trứng gà nổi lên giữa lồng ngực; vật này di chuyển từ từ xuống đan điền rồi dừng lại ở đó. Tôi thấy toàn thân bỗng cứng đờ, dường như cái vật này đã làm chủ thân thể tôi một cách kỳ lạ. Tôi thấy mọi vật trước mặt mờ nhạt đi, rồi tất cả như tan biến trong một biển ánh sáng quang minh kỳ lạ. Tôi không còn biết gì nữa, hình như tôi đã chắp hai tay giơ lên trán. Lúc đó lão sư thong thả lên tiếng hỏi ba lần: - Vị nào đã về đó? Sau khi hỏi xong, vẫn thấy hai tay tôi giơ trước trán, ông bèn đọc bài Khai Khẩu thần chú có công dụng giúp tôi lên tiếng. Một giọng nói kỳ lạ dĩ nhiên không phải giọng nói của tôi, thốt lên qua miệng tôi: - Ta là Thanh Xà đây. Ngay lúc đó, trong biển ánh sáng lung linh đầy màu sắc, tôi đã trông thấy một cái gì lạ lùng đang từ từ xuất hiện. Giọng nói kỳ lạ ấy vẫn tiếp tục phát qua miệng tôi: - Khi Yoshida còn là một đứa bé mười hai tuổi, ta chỉ là một con rắn nhỏ đang bò đi trên đường làng. Lũ nhỏ đi học về nhìn thấy, bèn lấy gậy thay phiên nhau đánh ta đến chết. Sáu đứa con trai kia đã hành hạ ta, trong khi Yoshida chỉ đứng nhìn. Trong lúc thân thể cực kỳ đau đớn, ta bỗng nhìn thấy ánh mắt xót thương của Yoshida, dường như cô không chịu nổi khi thấy ta đau đớn. Trước khi lìa đời, ta cần một nơi chốn nương tựa nên thu hết năng lực nhảy vào lưng của Yoshida... Ta đã sống tại đây nhiều năm và ngăn trở luồng sinh khí của Yoshida khiến nó bị tắc nghẽn. Khi Yoshida còn trẻ, luồng sinh khí còn mạnh nên nó tìm được chỗ rẽ để thoát đi, nhưng nay về già, luồng sinh khí đã yếu, không lưu chuyển được nữa nên tích tụ và gây ra bệnh tật. Ta cũng muốn thoát đi lắm nhưng không sao thoát được... Cách đây khoảng mười cây số về hướng Nam, ở góc cánh đồng có một cây cổ thụ lớn, dưới gốc cây đó là nơi chôn xương cốt của ta. Nếu Yoshida đến đó thắp cho ta một nén hương, một bó hoa tươi và đọc kinh siêu độ thì may ra ta có thể thoát được hoàn cảnh này. Ngay lúc đó, tôi nhìn rõ cái vật lạ lùng đang xuất hiện chính là một con rắn nhỏ màu xanh lục. Tôi tự hỏi: “Phải chăng đây là con rắn năm xưa đã ẩn náu trong thể phách Yoshida khiến bà mang bệnh?”. Lão sư thắp một nén hương và đọc một bài thần chú khác, tôi thấy lồng ngực càng lúc càng nóng ran, bứt rứt khó chịu vô cùng. Tự nhiên tôi nhảy lên múa tay múa chân cho đỡ nóng, và cứ thế quay cuồng như không làm chủ được mình nữa. Lão sư quay qua đám đông hỏi lớn: - Còn ai muốn hỏi điều gì nữa không? Một người bước ra nói: - Kính thưa chư thần, hôm qua con bị mất cái xe đạp, liệu con có thể tìm lại nó được không? Dường như có một cái gì xui khiến, tôi quát lớn: - Cái gì? Xe đạp của ngươi ư? Nó đã bị tháo ra thành nhiều mảnh để mang bán ngoài chợ trời rồi. Khi miệng tôi thốt ra những câu đó thì trong biển ánh sáng kỳ lạ trước mặt tôi bỗng hiện ra chiếc xe đạp đang bị tháo gỡ như thế nào. - Trời ơi, chiếc xe đó rất đắt tiền, tôi phải dành dụm mãi mới mua được. Thưa chư thần, kẻ cắp đó là ai vậy? - Đó là một người cùng xóm với ông. - Nhưng kẻ đó là ai? Tôi phải tìm ra... Nó là người thế nào? - Trong hai tuần lễ nữa sẽ có một kẻ bị ngã què chân, đó chính là tên đã lấy xe đạp của ông. Tôi không hiểu sao mình lại liên tiếp nói như một cái máy. Các hình ảnh này tự nhiên hiện ra rất rõ trong cái biển ánh sáng kỳ lạ kia. Tuần tự hết người này đến người khác lên tiếng đặt câu hỏi và tôi trả lời họ liên tục, không một chút do dự. Buổi lễ chấm dứt với những nghi thức hết sức trang nghiêm, long trọng mà tôi thấy không cần phải viết ra đây. Chiều hôm đó, khi nghe lão sư kể lại những điều này, tôi không biết có nên tin hay không. Không lẽ tôi lại có thể sở hữu cái quyền năng mầu nhiệm như vậy? Tôi gật đầu cảm ơn lão sư đã dạy dỗ, rồi chờ đến lúc tĩnh tọa một mình trong phòng, vận dụng định lực để quán xét lại xem sự việc này xảy ra như thế nào. Lạ lùng làm sao, chỉ cần dụng công một chút, tôi đã thấy trước mặt hiện ra một biển ánh sáng chói lọi và mọi câu hỏi đều được kiểm chứng một cách rõ rệt. Quả nhiên tôi đã phát triển được quyền năng của một người đồng, đúng như lời lão sư đã nói, tôi đã thành công. Hôm sau, tôi khăn gói lên đường trở về Hokkaido. Lão sư tiễn tôi ra tận trạm xe lửa. Tuy là người điềm đạm, ung dung nhưng lần này ông đã bùi ngùi nói: - Tuy con đã sở hữu được quyền năng rất đặc biệt nhưng con phải nhớ kỹ những môn quy mà ta đã truyền cho con. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, con phải giữ gìn nghiêm cẩn những điều này, không được vi phạm. Quyền năng không phải là thứ mà ai cũng có thể sở hữu, mà đó là do ý muốn của chư thần. Dù bất kỳ chuyện gì xảy ra, con phải luôn luôn biết ơn các ngài đã ban cho con cái quyền năng này. Đó là điều cuối cùng ta muốn nhắn riêng với con. Ta đã truyền cho con những điều mà từ trước đến nay ta chưa hề dạy ai và chưa chắc ta sẽ dạy cho ai nữa. Con là một người đặc biệt trong hàng trăm, hàng ngàn đệ tử của ta. Ta chúc con tìm được điều con muốn tìm. Tôi hết sức cảm động trước lời nói chí thành của ông. Tuy nhiên, lúc đó tôi vẫn còn ngỡ ngàng trước cái quyền năng kỳ lạ bất ngờ ấy. Tôi chưa thấy thoải mái hay tự tin về khả năng của mình bao nhiêu, dường như tôi có cảm tưởng mình chưa được đào luyện đúng mức. Tuy biết mình có thể giao tiếp với cõi âm, với các chư thần, nhưng không hiểu sao trong thâm tâm tôi vẫn có một cái gì đó không được ổn. Tôi không biết tại sao mình lại nghi ngờ như thế, nhưng lúc đó tôi chưa đủ sáng suốt để nhận định kỹ lưỡng về con đường sắp tới của mình. CHƯƠNG 5 N gười ta nói rằng làng tôi được dựng lên từ khi những người đi khẩn hoang đầu tiên đặt chân đến Hokkaido. Tuy nhiên, phần lớn những người này không hề định cư tại đây, họ chỉ đến vì Hokkaido có rừng cây rất lớn. Họ phá rừng, xẻ núi để đốn gỗ, khai thác tối đa những hoa lợi này cho đến khi những khu rừng bao la biến thành bãi đất trơ trụi, hoang tàn, không còn gì để khai thác nữa thì bỏ đi. Chỉ còn những kẻ nghèo đói, tha phương cầu thực, những kẻ không thể sống ở đâu được, đành bám lấy mảnh đất này để mưu sinh. Mùa mưa đến, không có rừng cây giữ nước, nước lũ từ trên cao đổ xuống, cuốn sạch đi lớp đất màu mỡ, chỉ còn trơ lại lớp đá sỏi khô cằn, việc trồng trọt đã khó khăn lại thêm khó khăn gấp bội. Dù đã cố gắng, nhưng dân làng chỉ có thể trồng trọt được ít rau trái qua loa trước mùa mưa lớn mà thôi, vì thế số người bỏ làng ra tỉnh kiếm ăn càng ngày càng nhiều, làng tôi đã nghèo lại càng tả tơi hơn trước. Sau nhiều năm lang thang, tôi trở về làng xưa với một tâm trạng vui buồn lẫn lộn. Nhìn bãi đất cằn cỗi với lũ trẻ chăn trâu gầy còm, nhìn những người dân quê rách rưới cày cuốc lam lũ, nhìn những căn nhà dột nát hoang tàn, tự nhiên tôi động lòng và tự nhủ sẽ phải tìm cách khôi phục ngôi làng này. Sau thời gian gặp gỡ thăm hỏi gia đình, tôi khởi sự hành nghề cô đồng để kiếm sống. Đây là nỗi thất vọng lớn cho gia đình tôi. Cha tôi giữ thái độ im lặng không nói gì nhưng nhìn mặt ông, tôi có thể đoán rằng ông không được vui lắm. Là người ít nói, mẹ tôi chỉ bày tỏ thái độ qua câu nói: “Tưởng mày đi xa học được nghề gì khá”. Đứa con gái của tôi cũng giống tính bà ngoại nó, nhẫn nhục, chịu đựng nên chỉ tỏ thái độ tiêu cực, nhưng chồng nó thì không như vậy. Đứa con rể đã phản đối quyết liệt: “Mẹ nên biết chúng ta đang bước vào thời đại văn minh kỹ thuật, cái trò đồng bóng quàng xiên này đâu còn lừa bịp được ai!”. Tôi thấy không cần phải giải thích lôi thôi. Bản tính ương ngạnh và lạnh lùng cố hữu của tôi đã thúc đẩy tôi tiếp tục chương trình đã định. Muốn tránh phiền phức cho gia đình, tôi dựng một chòi nhỏ trước miếu thờ chư thần ở đầu làng để hành nghề. Tôi vừa cúng tế chư thần vừa hướng dẫn những người gặp hoàn cảnh khó khăn, chỉ cho họ cách sống làm sao cho thuận với ý chư thần. Kết quả khả quan không ngờ nên số người tìm đến xin tôi hướng dẫn mỗi ngày một nhiều. Chỉ một thời gian ngắn tôi đã kiếm được một lợi tức khá, có thể giúp đỡ gia đình đang lâm vào cảnh túng quẫn. Tuy thành công nhưng tôi vẫn không tin vào tài nghệ của mình bao nhiêu. Nhiều lúc tôi tự hỏi phải chăng các chư thần đã nhập vào tôi, mượn miệng tôi để hướng dẫn mọi người hay là một cái gì khác? Nỗi nghi ngờ này ngày một gia tăng khiến tôi cảm thấy áy náy, khó chịu. Vào lúc đó, trong số những cô đồng, nổi tiếng nhất là bà Yamamoto, một người có nhiều kinh nghiệm và quyền năng lạ lùng nên tôi liên lạc với bà này nhờ giúp đỡ. Bà đồng Yamamoto sống tại Sapporo, trong một căn nhà nhỏ bày biện rất đẹp. Biết tôi là học trò chân truyền của lão sư nên bà tiếp tôi rất niềm nở. Bà im lặng nghe tôi bày tỏ nỗi thắc mắc rồi nói một cách nhẹ nhàng: - Việc gì mà em phải khổ tâm nghi ngờ như vậy? Đúng hay sai, tốt hoặc xấu hãy cứ để cho các thân chủ của em quyết định. Em được huấn luyện để làm việc này thì cứ theo đúng như vậy mà làm, thắc mắc làm gì cho mệt trí! - Nhưng thưa chị, nhiều lúc em có cảm tưởng như điều em nói không hoàn toàn đúng sự thật. - Cái đó không phải là việc của em. Đúng hay sai là việc của các thân chủ. - Nhưng phải chăng chúng ta làm nghề này để giúp đỡ mọi người, chỉ cho họ thấy rõ cách hành xử làm sao cho đúng với ý muốn của chư thần? - Đúng thế, nhưng trong thiên nhiên có hàng trăm hàng ngàn vị thần, mỗi vị lại chỉ dẫn một cách khác nhau, làm sao em có thể biết được. Chân lý có thể giải thích bằng nhiều lối, không nhất thiết chỉ có một lối duy nhất. Một khi em đã hoàn toàn thụ động để các thần linh sử dụng thể xác, mượn miệng của em để chỉ dẫn cho mọi người thì đó là việc giữa chư thần và mọi người, em không có trách nhiệm gì trong đó cả. - Nhưng nếu mình không nói đúng… - Em đâu có làm chủ được những câu nói đó! Khi thụ động hoàn toàn, em không có trách nhiệm gì cả. Nếu em không thụ động mà còn có một chút ý chí nào đó thì dĩ nhiên các chư thần sẽ không nhập vào em nữa và khi đó vấn đề sẽ hoàn toàn khác. - Nhưng làm sao em biết đâu là ý muốn của chư thần, đâu là ý chí của mình? - Cái đó là do công phu tu tập. Phải tuyệt đối giữ mình trong sạch, sống đúng theo ý muốn của chư thần và lúc nào cũng ý thức rằng mình chỉ là một công cụ cho một quyền năng cao cả nào đó sử dụng, đừng để bất cứ thứ gì khác ảnh hưởng đến việc này. Tôi đàm đạo với bà Yamamoto một lúc rồi xin cáo từ ra về. Tuy bà đã xác nhận rõ trách nhiệm của một người đồng nhưng trong tâm tôi vẫn có một cái gì đó ray rứt không ổn mà tôi không thể nói ra được. Như đã nói, khi trở về làng nhìn những thửa ruộng khô cằn, những căn nhà mục nát, tôi đã có ý định sẽ khôi phục lại ngôi làng này. Tôi suy nghĩ cẩn thận và thấy việc đầu tiên phải làm là làm sao để thay đổi được lòng người đang chán chường, mệt mỏi để họ trở nên hăng hái, phấn chấn hơn. Nhưng làm sao để khôi phục được lòng người? Tôi thấy giải pháp tốt nhất là khôi phục lại niềm tin nơi con người qua một công cuộc chung, một kế hoạch chung mà tất cả mọi người đều góp phần xây dựng. Cuối làng tôi có hai ngọn suối nhỏ chảy xuống phía dưới tạo thành một thác nước mà dân làng gọi là thác Phu Thê. Ngọn thác này đổ vào sông Ashiribetsu, chạy dọc theo sườn núi rồi đổ vào một cái hồ hình bán nguyệt, chỗ đó gọi là thác Ashiribetsu, dòng sông còn uốn khúc qua một thung lũng nhỏ với nhiều ngọn thác nhỏ trước Ở khi chảy ra biển. Ở cửa biển có một miếu thờ thần Fudo đã đổ nát hoang tàn. Tôi bèn nảy ra ý định lập miếu thờ chư thần quanh những ngọn thác đó, cũng như trùng tu miếu thờ thần Fudo. Thứ nhất, việc lập miếu thờ sẽ đem lại niềm tin cho dân làng, giúp những người nghèo khó tuyệt vọng tìm được tương lai; việc xây dựng miếu thờ sẽ giúp nhiều người có cơ hội làm việc chung với nhau, góp phần xây dựng lại tình thân hữu tương trợ. Ý định quyên góp tiền bạc để lập miếu thờ chư thần của tôi đang nhen nhúm trong đầu thì một hôm mẹ tôi đi xem bói để hỏi về tình trạng gia đình. Vị thầy bói đã nói: - Gia đình bà có một nấm mộ tổ tiên xây đè lên bộ cốt của một con ngựa khiến nó không siêu thoát được nên nó oán. Vì thế ruộng nương của bà không tốt, hoa màu không thất thu cũng bị sâu bọ phá hoại; nhà cửa của bà có lớn đến đâu rồi cũng bị hỏa hoạn cho tiêu tan hết; con cái bà dù thế nào cũng không thể ăn nên làm ra như những người khác. Con trai thì phải tha phương cầu thực, con gái thì chịu cảnh làm lẽ hoặc không chồng. Muốn thay đổi, bà phải đi lạc quyên đúng một ngàn người, mỗi người ít nhất một đồng, lấy tiền đó xây đền Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hàng ngày cúng kiếng hương hoa cẩn thận, nhờ oai lực của ngài mà con ngựa kia được siêu thoát. Có như thế thì vận hạn, tai ương của gia đình bà mới chấm dứt được. Tôi không biết ông thầy bói nói có đúng không nhưng điều này không quan trọng vì nó phù hợp với sở nguyện thầm kín của tôi. Vừa nghe mẹ tôi nói xong, tôi quyết định sẽ thi hành chương trình phục hưng ngôi làng mình. Tôi hội họp những người trong gia tộc để bàn về việc này. Mấy năm nay gia đình nào cũng gặp khó khăn nên nghe nói có giải pháp, ai nấy đều hết sức đồng ý. Thế là một mặt tôi xin phép hội đồng kỳ mục trong làng để lập đền thờ, mặt khác tôi hô hào dân chúng quyên góp công của để xây đền thờ Đức Quán Thế Âm trên đỉnh đồi Ganseki gần đó. Như đã nói, làng tôi rất nghèo, chỉ sống nhờ trồng trọt rau trái trong mùa khô; vào mùa mưa vì nạn nước lũ, không mấy ai trồng trọt được gì nên số người thất nghiệp rất đông. Dân làng vì nghèo đói nên sinh ra lắm tệ nạn như cờ bạc, rượu chè, trộm cắp v.v... Việc hô hào mọi người góp phần công quả xây nơi thờ phụng Đức Quán Thế Âm là một việc hết sức mới mẻ, trọng đại đối với dân làng. Phần lớn đều tin rằng việc xây dựng đền thờ này sẽ đem lại cho họ những may mắn, những phước đức lâu dài, có thể cải thiện đời sống của họ. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng, niềm tin dù là niềm tin gì chăng nữa cũng dễ khích lệ số đông nên chỉ cần một người kêu gọi, hàng trăm người đã hưởng ứng, người giàu góp của, kẻ nghèo góp công nên chỉ trong một thời gian ngắn, đền thờ đã hoàn tất. Một pho tượng Đức Bồ Tát Quán Thế Âm đứng trên tòa sen được đắp rất đẹp. Bên dưới tòa sen có khắc những câu kinh trong Phổ Môn: Quán Âm sức trí diệu, hay cứu đời thoát khổ, đầy đủ sức thần thông, rộng tu trí phương tiện, các cõi nước mười phương, không cõi nào chẳng hiện. Trước cửa đền thờ còn có một bia đá lớn với những câu: Chúng sinh bị khốn ách Vô lượng khổ bức thân Nhờ sức niệm Quán Âm Liền được tiêu tan cả. Đến ngày khánh thành, chúng tôi gửi giấy mời người trong làng và làng kế cận đến tham dự. Dân làng tổ chức lễ dâng hoa rất long trọng, số người kéo đến xem rất đông và sau này thành lệ, hàng năm cứ khoảng tháng tám dương lịch, làng tôi lại mở hội kỷ niệm ngày thành lập này rất lớn. Ngày nay, đền thờ Đức Quán Thế Âm tại đồi Ganseki là một thắng cảnh nổi tiếng của Hokkaido, quanh năm số người đến lễ bái rất đông, dĩ nhiên họ phải nghỉ chân tại đây nên hàng quán và khách sạn được xây cất, đem lại việc làm cho một số người không ít trong làng. Sau khi việc xây đền thờ Đức Quán Thế Âm thành công, tôi bắt đầu khởi xướng việc xây cất đền thờ chư thần và trùng tu lại miếu thờ thần Fudo. Cũng như lần trước, số người hưởng ứng việc này rất đông. Vì sông Ashiribetsu chảy qua nhiều ngôi làng nên việc này lôi kéo dân chúng ba bốn ngôi làng quanh đó cùng chung sức làm việc. Tuy đây là chương trình do tôi vạch ra nhưng tôi đã khôn khéo mời hội đồng kỳ mục của mấy làng cùng đứng ra chủ xướng nên chỉ trong vòng một năm, hai đền thờ đã được xây cất hoàn tất. Tôi mời các giáo sĩ Thần đạo đến làm lễ, tổ chức các khóa tu học và tẩy uế thân tâm bằng nước lạnh tại thác Fudo. Chỉ trong vòng vài năm, số người tham dự các khóa tu này đã lên đến cả ngàn người. Ngày nay nghi thức tẩy uế bằng nước lạnh tại thác Fudo đã trở thành một ngày hội lớn, lôi cuốn rất đông người tham dự. Sự thành công này vô tình đưa tên tuổi tôi lên một địa vị quan trọng. Tôi được quần chúng tín nhiệm như một vị thầy của Thần đạo. Tôi hoạt động không ngừng, hết tổ chức các khóa lễ nơi này lại đến các khóa tu tại nơi khác. Số người đến nhờ tôi giúp đỡ ngày càng nhiều, dần dần tôi trở nên tự tin, bạo dạn hơn trước. Vào lúc đó, sức khỏe của cha tôi đã suy kém nhiều nhưng vì bận rộn công việc nên tôi không có thì giờ chăm sóc cho cha tôi mấy. Mối quan hệ giữa tôi và gia đình càng trở nên lạnh nhạt. Đứa con rể của tôi tỏ ra khó chịu và thường chống đối tôi ra mặt, nhưng lúc đó tôi nghĩ: “Mục đích của cuộc đời là gì nếu không phải để giúp đỡ người khác?”. Dĩ nhiên khi làm việc lớn thì gia đình phải chịu hy sinh. Tôi đã phục hồi sinh khí cho ngôi làng nghèo nàn, lập đền thờ, chấn hưng kinh tế, giúp nhiều người tìm được công ăn việc làm, và tôi không thể làm gì khác hơn thế được. Tôi tiếp tục lăn xả vào các hoạt động xã hội, bất chấp một thiểu số người trong đó có con rể tôi, chê trách. Họ đã rêu rao là tôi “háo danh như loài chồn hoang, bất hiếu, bất nghĩa, đáng khinh”, nhưng tôi thầm nghĩ: “Bất cứ việc gì cũng đều có thử thách; việc càng lớn, thử thách càng nhiều. Khi làm việc lớn, phải biết bỏ qua các tiểu tiết, vấn đề chính là mình có thoải mái với chính mình không mà thôi”. Mặc dù nghĩ như thế nhưng trong thâm tâm tôi vẫn nhen nhóm một điều gì khắc khoải kỳ lạ không thể diễn tả. Càng ngày nỗi ray rứt này càng gia tăng khiến tôi bắt đầu lo sợ. Ban ngày khi bận công việc, nó ít quấy rầy nhưng về khuya, trong lúc tĩnh tâm, nó là cả một trở ngại lớn cho việc tập trung tư tưởng. Nghĩ rằng mình đã xao lãng công phu, tôi quyết định dậy thật sớm, dành nhiều thì giờ để tĩnh tâm; ngoài ra tôi còn cố gắng học hỏi thêm các sách vở, tài liệu về Thần đạo. Tôi nghiền ngẫm đủ thứ sách vở không thiếu cuốn nào vì nghĩ rằng cái khoảng trống vắng trong tâm đó chẳng qua chỉ là một thiếu thốn về trí thức mà người ta có thể lấp đầy bằng kiến thức. Hàng ngày, tôi lăn xả vào các hoạt động xã hội, xây trường học, tân trang bệnh xá, tổ chức các khóa tu học cho thanh thiếu niên,... Tên tuổi của tôi càng ngày càng được nhiều người biết đến. Tôi được mời đi diễn thuyết về Thần đạo, lúc đầu ở các làng mạc kế cận, về sau ra đến tận tỉnh thành, cuối cùng chẳng có nơi nào tại Hokkaido mà tôi chẳng được mời đến. Nhưng dù hoạt động hăng hái thế nào, trong tâm tôi vẫn có một nỗi trống vắng, một cảm giác thiếu thốn kỳ lạ khiến tôi lo sợ không yên. Sự khủng hoảng này mỗi ngày một thôi thúc dữ dội, lúc đầu còn ít, về sau mỗi lúc một nhiều. Lúc trước nó xảy ra trong lúc tôi tĩnh tâm nhưng về sau nó quấy phá tôi ngay cả những lúc tôi bận rộn làm việc. Sau cùng chịu không nổi, tôi bèn rút vào một am thất trên núi, tập trung tư tưởng để quán sát chính mình. Tôi tập trung định lực tĩnh tâm suốt mấy ngày đêm rồi tự hỏi: “Mình muốn gì bây giờ? Liệu mình đã tìm được điều mình muốn chưa?”. Tuy thành công trong việc tu tập, đã trở thành một cô đồng nổi tiếng, đã phục hồi ngôi làng, đã giúp đỡ nhiều người nhưng tôi vẫn chưa xử lý được động năng nào đã thúc đẩy tôi đi tìm đạo. Tôi chưa sống thoải mái được với chính mình. Đây là một khám phá bất ngờ vì tôi vẫn nghĩ mình đã sống thuận theo ý chư thần, đã sống một cách chính tâm, thành ý qua các phương pháp tu thân. Điều này đã được lão sư xác nhận rõ ràng, thì lẽ ra tôi phải thoải mái, không thắc mắc mà an vui tự tại kia chứ? Phải chăng còn một điều gì khác nữa mà tôi chưa ý thức được? Tôi cố gắng quán xét mọi tư tưởng, hành động của mình trong thời gian qua. Tôi thấy mình đã áp dụng rất kỹ các phương pháp được lão sư chỉ dạy. Hiển nhiên, nếu không như vậy thì làm sao tôi có thể trở thành một cô đồng với các quyền năng đặc biệt được! Nhưng nếu đã sống hợp với lẽ đạo thì tại sao tôi vẫn cảm thấy bứt rứt, khắc khoải không yên? Tự nhiên một ý nghĩ kỳ lạ nổi lên trong trí tôi. Biết đâu lão sư đã dạy sai? Biết đâu con đường tôi đang theo đuổi không thực sự mang lại cho tôi sự bình an thoải mái như tôi muốn? Tôi cố gắng loại bỏ những ý nghĩ điên rồ này nhưng càng ngày tôi càng thấy con đường này không mang lại cho tôi sự an nhiên thảnh thơi như tôi vẫn nghĩ. Dần dần những giá trị mà tôi xây dựng bấy lâu nay bỗng dưng sụp đổ nhanh chóng như tòa lâu đài xây trên cát ướt. Nhờ công phu quán sát, tôi ý thức rằng nằm sâu trong tiềm thức, các tính xấu như tham lam, ích kỷ, sân hận vẫn tiếp tục chi phối tôi. Dù đã trở thành một bậc thầy của Thần đạo nhưng lòng tôi vẫn đầy rẫy những thắc mắc, hoài nghi dưới những hình thức tinh tế nhất. Dù đã tiên đoán được nhiều điều hung cát, dù đã biết được quá khứ vị lai của người khác nhưng tôi vẫn chưa thực sự biết gì về mình. Đối với mọi người, tôi là kẻ sáng suốt nhưng với chính mình, tôi vẫn chưa biết rõ mình như thế nào. Càng quán sát sâu xa, tôi càng thấy rõ một sự thực rằng điều mà tôi mong muốn không phải là trở thành một cô đồng với các quyền năng đặc biệt mà là một cái gì đó khác. Tôi có cảm tưởng như mình bị cột vào một sợi dây dài, cứ chạy quanh quẩn trong phạm vi của sợi dây đó, tưởng mình tự do nhưng thực sự không phải. Tôi đã đi theo hết môn phái này đến môn phái khác, học hết lý thuyết này đến lý thuyết kia, theo hết thầy này đến thầy nọ, nhưng tôi vẫn chưa tìm được điều tôi muốn. Cho đến lúc đó, danh từ “giải thoát”, “tự do tuyệt đối” mới bắt đầu có ý nghĩa đối với tôi. Sống thuận theo ý chư thần, đặt tất cả vận mệnh vào vòng tay của chư thần là một quan niệm không rõ rệt của Thần đạo; nó khiến con người trở nên thụ động, nhu nhược và mù quáng. Thực hành các nghi thức cúng tế, áp dụng các quy tắc tĩnh tâm cũng chỉ đem lại những giải pháp nhất thời, xoa dịu những nỗi đau khổ, ưu tư trong chốc lát nhưng không chữa được gốc rễ căn bệnh. “Chính tâm, thành ý” là một lý thuyết rất hay nhưng phải áp dụng như thế nào mới đúng? Hiển nhiên mỗi vị thầy sẽ có một lối giải thích khác nhau, ai cũng cho rằng mình đúng, và đến lúc đó tôi mới bắt đầu đặt câu hỏi về công phu tu tập của các vị thầy ấy. Liệu họ đã thực sự đạt đến tâm trạng thoải mái, an nhiên bất động đó chưa? Bề ngoài họ có tác phong của một vị thầy, ăn nói giảng giải như một vị thầy nhưng bên trong họ như thế nào? Ngay như tôi vẫn được quần chúng tín nhiệm như là một vị thầy, nhưng đã mấy ai biết rõ được lòng tôi bối rối, hoang mang như thế nào đâu? Phải chăng đó chỉ là một “trò chơi” của trí thức? Một cuộc “thí nghiệm về tôn giáo” của những người được coi là học giả? Một sự dối gạt trắng trợn chính mình? Sau khi suy ngẫm kỹ lưỡng, tôi quyết định: “Nếu con đường này không mang lại cho tôi sự thoải mái thì tôi phải thay đổi và tìm kiếm lại từ đầu. Dĩ nhiên việc này không dễ. Tôi đang là vị thầy về Thần đạo, đang được mọi người kính nể, đang là một cô đồng nổi tiếng tại Hokkaido, nếu từ bỏ tất cả để làm lại từ đầu thì người ta sẽ nghĩ thế nào? Tôi có thể tưởng tượng ra lời đàm tiếu của dân làng, những người từ trước đến nay không thích tôi, hiển nhiên họ sẽ vô cùng thỏa thích. Tôi nghĩ đến đứa con rể tôi, nó vẫn khó chịu với tôi và thường nói với mọi người rằng tôi chỉ là một “loài chồn hoang”, một thứ “đồng bóng ăn nói quàng xiên”, một người “lạnh lùng, ích kỷ, không có tình cảm”, có lẽ nó cũng có lý phần nào. Càng suy ngẫm, tôi lại càng không chịu nổi. Những nỗi khổ đau dằn vặt từ xưa vẫn nằm yên trong đáy lòng nay lại nổi lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Bất chợt tôi ý thức được một sự thật rằng cái động năng đã thúc đẩy tôi làm tất cả những việc trên chẳng qua chỉ là một hình thức hết sức tinh tế của bản ngã. Tôi nghĩ rằng mình đã diệt được nó nhưng thực ra nó vẫn tiềm ẩn dưới một hình thức tinh tế không ngờ. Cái công phu tu tập để diệt ngã, cái ý định quên mình tuyệt đối để vâng lời một quyền năng nào đó, đã không đánh tan được bản ngã, mà đấy lại là một hình thức che đậy bản ngã, một thứ ngụy trang khéo léo của bản ngã dưới các danh xưng tốt đẹp. Rốt cuộc tôi vẫn bị bản ngã đánh lừa. Như được một tia sáng rọi vào tâm trạng hoang mang u tối, tôi nhận thấy người ta không thể đi tìm một lối thoát bằng các phương pháp tẩy uế tâm hay các hình thức bên ngoài được; vấn đề là ở bên trong nên người ta cần tìm một phương pháp tu tập nội quán hòng giải quyết những khắc khoải để đời sống không còn là một sự tranh đấu, mâu thuẫn nữa. Mọi sự áp chế nhằm kiểm soát thân tâm, cũng như sở hữu một quyền năng nào đó chỉ là những giải pháp tạm thời, theo thời gian nó sẽ là những chướng ngại nhiều hơn là cứu cánh. Ý thức được điều này, tôi quyết định chấm dứt ngay việc hành nghề cô đồng, từ chối lời mời gọi của quần chúng và cắt đứt mối liên hệ với Thần đạo. Tôi tự nhủ đã đến lúc mình phải đi tìm một con đường khác, một con đường có thể giúp tôi chấm dứt cái tình trạng dằn vặt đầy đau khổ này. Trong lúc đang tuyệt vọng, tôi được biết hòa thượng Tomomatsu Entai vừa mở khóa tu học và giảng kinh Pháp Cú (Dhammapala) tại chùa Kandadera. Tôi vội vã đáp xe lửa đi ngay đến đó với hy vọng sẽ tìm được lối thoát cho tình trạng hiện tại. Đó là một ngôi chùa mới được xây cất, kiến trúc rất đẹp. Trước chùa có một hồ sen lớn, hương thơm ngào ngạt. Muốn vào chùa phải đi qua một cây cầu uốn cong rất thẩm mỹ. Nghe tiếng gõ cửa, một vị tăng trẻ tuổi bước ra: - Bà muốn gì? - Tôi muốn ghi tên tham dự khóa tu của hòa thượng Tomomatsu Entai. - Sau các khóa lễ cộng đồng, hòa thượng thường thuyết pháp, đâu cần phải ghi tên. - Không đâu, nghe nói hòa thượng Entai mở khóa tu trong ba ngày, tôi muốn ghi tên cho khóa tu đó. Vị tăng trẻ nhìn tôi từ đầu đến chân rồi lắc đầu cười lớn: - Này bà ơi, khóa tu chỉ dành cho những người trẻ thôi. - Tôi không cần, trẻ hay già gì cũng được, tôi chỉ muốn tham dự khóa tu. - Đâu được, đây là khóa tu học dành cho những người trẻ mà. - Nhưng tôi muốn ghi tên tham dự. - Bà già này lộn xộn quá! Những người như bà chỉ nên theo các khóa lễ và tụng kinh gõ mõ thôi. Làm sao bà có thể theo các khóa tu dành cho giới trẻ được! Bà biết gì mà tham dự! Ngoài ra, đài truyền hình địa phương sẽ đến thu hình, một bà già gần xuống lỗ ngồi chung với tụi trẻ làm sao mà coi cho được! - Đâu có sao, chú làm ơn giúp giùm. - Không! Chú tiểu đóng sập cánh cửa lại một cách tàn nhẫn. Tôi thất vọng bước ra về, bất chợt thấy bóng mình phản chiếu trên mặt hồ và bàng hoàng trước hình hài quá tiều tụy của mình. Hai tháng ẩn mình trong am thất trên núi để quán xét nội tâm đã biến tôi thành một con người khác. Dưới bóng nước phản chiếu lung linh, tôi thấy một người gầy gò, hai mắt trũng sâu, má hóp lại, mặt đầy những vết nhăn, lưng còng hẳn xuống, quần áo rách rưới như một bó giẻ. Dĩ nhiên, hình ảnh một bà già hom hem như vậy không thể thích hợp với khóa tu dành cho những người trẻ tuổi được. Nước mắt tôi tự nhiên trào ra, tôi đã già đến vậy rồi sao? Tôi khóc và khóc mãi không thôi, tôi tiếc cho thời gian mấy chục năm lang thang tìm đạo một cách vô ích của mình. Lúc đó cha tôi đã già yếu lắm rồi. Ông thường nằm yên trên giường, hai mắt nhắm nghiền, thỉnh thoảng lại thở dài não nuột. Họ hàng thân thích đều xì xào rằng ông buồn và thất vọng vì có đứa con bất hiếu không ra gì như tôi. Tôi không thể phủ nhận điều này. Vào một buổi sáng mùa đông, khí sắc của cha tôi bỗng trở nên tiều tụy thấy rõ, linh tính báo cho tôi biết một sự chẳng lành. Tôi bước lại ngồi bên cạnh ông. Nghe tiếng động, cha tôi mở mắt nhìn tôi và hỏi: - Này Matsuno, hoa anh đào trên núi đã nở chưa? - Thưa cha, hôm qua trời mưa tuyết, bông tuyết bám đầy những cành cây như những bông hoa thật đẹp. - Không đâu, ta muốn hỏi những bông hoa anh đào kìa! Tôi im lặng không biết phải nói gì. Cha tôi nhìn tôi rồi cố gắng thều thào: - Này Matsuno, đôi khi có những bông hoa quên cả thời tiết nên không chịu nở, nhưng nếu hoa không chịu nở thì làm sao có trái... Thôi, sự thể đã như thế thì đành vậy... Nói xong, cha tôi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng. Tôi hiểu rõ điều ông muốn nói, cho đến khi chết ông vẫn nghĩ đến tôi [5] . Sau khi chôn cất cha tôi xong, tôi dọn dẹp lại căn phòng của ông và bắt gặp chiếc áo nâu cũ đã sờn vai. Chiếc áo này nhắc nhở tôi một kỷ niệm thời thơ ấu. Đó là một ngày đẹp trời, cha mẹ tôi vừa đi ăn giỗ về, lúc đó tôi còn nhỏ nên cha tôi cõng tôi trên vai. Ngồi ngất ngưởng trên vai ông, nghe tiếng ông vui vẻ nói chuyện, thỉnh thoảng lại bật lên một tràng cười sảng khoái, đáng lẽ ra tôi phải cảm thấy thoải mái, hạnh phúc lắm mới phải. Không hiểu sao lúc đó tôi lại có cảm giác cô đơn kỳ lạ, một cảm giác như mình đang sống trong một thế giới nào khác, tách biệt hẳn với cái thế giới ấm áp, đầy tình thương yêu nồng nàn kia. Tại sao ngay từ khi còn nhỏ tôi đã có những ý nghĩ lạ lùng như vậy? Phải chăng đó là số phận của tôi? Phải chăng đó là định mệnh, một thứ định mệnh khắt khe nào đó? Tôi có cảm tưởng như mọi người đều là những cây có cành, có rễ, bám chắc vào lòng đất nhưng riêng tôi lại là một thứ bèo bọt, nổi trôi trên sóng nước, mặc cho dòng đời lôi cuốn xô đẩy. Không thể được, tôi phải tìm cách bám chặt vào đâu đó, ít ra tôi cũng cần một hy vọng nào đó để sống còn. CHƯƠNG 6 Ở ngoại ô thành phố Sapporo có một thiền viện thuộc dòng Tào Động (Soto) tên là Chuoji, thường mở những khóa tu thiền vào cuối tuần. Thất vọng với việc đi tìm đạo một cách viển vông của mình, tôi quay trở về với Phật giáo như một “giải pháp cuối cùng” và tự nhủ nếu không tìm được con đường giải thoát, tôi sẽ không còn thiết sống nữa. Vào lúc đó, Thế chiến thứ hai cũng vừa bắt đầu. Khóa tu tại chùa Chuoji được vị sư trụ trì hướng dẫn có khoảng ba mươi người tham gia. Khác với những vị thầy mà tôi đã gặp, thường giảng giải về lý thuyết, vị trụ trì tại đây lại chú trọng đến thực hành. Ông quan niệm việc tọa thiền (zazen) là chính, mọi thứ khác chỉ là phụ. Ông nói: - Tọa thiền là ngõ vào con đường giải thoát, chỉ có công phu tọa thiền mới làm cho tâm sáng suốt để nhận thức được chân tánh của nó. Ngày xưa Đức Phật Thích Ca đạt đạo giải thoát cũng nhờ ngồi thiền. Trước khi hoằng pháp, Bồ Đề Đạt Ma cũng ngồi diện bích suốt chín năm, hiển nhiên quý vị thấy tọa thiền quan trọng như thế nào. Do đó, quý vị phải chăm chỉ tọa thiền. Tôi không lạ gì việc ngồi tĩnh tâm theo phương pháp Kannagara-no-michi và phát âm bằng nội lực của mình, nhưng vị trụ trì lại dạy chỉ ngồi trong yên lặng, theo dõi hơi thở và tuyệt đối không làm gì khác. Tôi thắc mắc: - Thưa thầy, ngồi yên lặng như thế thì được ích lợi gì. Ít ra phải có một cái gì khác nữa chứ? - Lúc đầu, chỉ cần theo dõi hơi thở để làm lắng dịu tư tưởng đã. Đừng tưởng ngồi yên lặng như thế là dễ, bà hãy tập ngồi làm sao cho thật trang nghiêm, ngồi vững vàng như trái núi, ngồi làm sao để tâm và thân được nhất như thì mới thực sự gọi là tọa thiền. Phương pháp ngồi thiền khởi đầu bằng việc đếm số hơi thở (sổ tức) như sau: lúc đầu thiền sinh hít vào và đếm thầm “một”, khi thở ra thì đếm “hai”, cứ thế cho đến mười thì bắt đầu trở lại. Dĩ nhiên trong lúc đó những ý niệm vẩn vơ có thể nảy sinh làm xao lãng tâm trí, nhưng điều quan trọng là thiền sinh không được áp chế nó, chặn đứng nó, theo đuổi nó hay bám vào nó; mà cứ để cho nó tự động đến và đi một cách tự nhiên. Thiền sinh được dạy rất kỹ rằng chỉ nên tập trung năng lực vào việc đếm hơi thở ra vào thong thả mà thôi. Sau khi tọa thiền một thời gian thì thiền sinh được nghỉ ngơi vài phút để xoa bóp cho giãn gân cốt rồi đứng dậy đi thiền hành xung quanh thiền đường. Sau khi việc đếm hơi thở như trên đã thuần thục thì thiền sinh đổi cách đếm, chỉ tập trung tư tưởng để đếm mỗi khi thở ra mà thôi. Mỗi số đếm tương ứng với cả lúc hít vào và thở ra, cho đến số mười thì bắt đầu trở lại từ số một. Sau khi đã thực tập thuần thục cách đếm này thì họ lại đổi cách đếm, tập trung tư tưởng để đếm mỗi khi hít vào. Đây là giai đoạn khó khăn hơn vì mọi hoạt động tinh thần lẫn thể xác thường được thực hiện khi người ta thở ra nên hầu hết mọi người đều vấp váp trong lúc này. Mặc dù đã từng tu tập phương pháp tĩnh tâm rất thuần thục nhưng cũng phải mất một thời gian tôi mới có thể đếm hơi thở một cách thoải mái, tự nhiên theo phương pháp này. Ngoài việc tọa thiền, vị trụ trì còn khuyên các thiền sinh nên tham cứu thêm hai cuốn sách thiền là Bích Nham Lục và Vô Môn Quan . Bích Nham Lục là cuốn sách do thiền sư Tuyết Đậu soạn ra và sau được thiền sư Viên Ngộ chú giải thêm. Cuốn sách gồm một trăm công án được sắp đặt theo thứ tự nhất định: khởi đầu là lời dẫn (thùy thị), kế đến là công án (tắc) với những lời bình chú (cử), bình xướng (kệ) và bình giải. Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen), người sáng lập dòng thiền Tào Động ở Nhật, đã mang cuốn sách này từ Trung Hoa về để làm tài liệu giảng dạy cho học trò của ông. Vô Môn Quan là cuốn sách do thiền sư Huệ Khai (1183 – 1260) soạn ra. Cuốn sách này sắp đặt đơn giản hơn Bích Nham Lục rất nhiều, gồm 48 công án thiền (tắc) và lời bình giải. Theo truyền thuyết, thiền sư Huệ Khai nhờ công án “Vô” của Triệu Châu mà chứng đắc, do đó ông đưa công án này lên hàng đầu trong cuốn Vô Môn Quan . Ông viết trong phần mở đầu: “Tất cả những lời dạy của Phật đều lấy tâm làm tông, lấy không cửa (vô môn) là lối vào đạo. Đã là không cửa thì làm sao mà vào được? Há không nghe cổ nhân nói: ‘Nếu có cửa mà vào chẳng phải là đồ quý, do duyên mà có rồi trước sau cũng thành hoạt’. Những kẻ nào tìm lý trong lời chẳng khác gì vác gậy khều trăng. Có gì liên quan đến sự thật đâu? Khi làm Thủ chứng ở Long Tường, nhân được chư tăng thỉnh giảng pháp, ta bèn đem công án của cổ nhân làm viên gạch dộng cửa, tùy căn cơ mà dẫn dắt người học. Ta sao lục những lời bình giải lại thành một tập sách đặt tên là Vô Môn Quan . Nếu là kẻ liều lĩnh, không kể mất còn, một mình một kiếm bước thẳng vào chỗ thù địch, dù cho Bát Tí Na Tra cũng không cản nổi. Ngay cả hai mươi tám vị tổ ở Tây Thiên, sáu vị ở Đông Độ, chỉ nghe phong thanh cũng đủ cầu xin tha mạng. Nếu chần chờ, ngần ngại không dũng mãnh thì chẳng khác nào đứng cạnh cửa sổ mà canh chừng kỵ sĩ, chỉ trong chớp mắt y đã chạy mất rồi”. Do đó, có bài tụng rằng: Đường lớn không cửa Có nghìn lối vào Qua được cửa này Càn khôn lẻ bước. Theo vị trụ trì chùa Chuoji, hai cuốn sách trên và cuốn Chứng Đạo Ca của thiền sư Huyền Giác là ba cuốn sách quan trọng, không thể thiếu của bất cứ người tu thiền nào. Hôm nay, khi đặt bút viết đến đây, tôi xin ghi lại một nhận xét riêng cho những người muốn bước vào cửa thiền. Mặc dù tông chỉ của thiền là “Bất lập văn tự”, nhưng một số người, thường thuộc hạng trí thức, lại thích bình luận về thiền một cách sôi nổi. Họ thường dẫn cứ những giai thoại về thiền như tổ Đơn Hà chẻ tượng Phật làm củi đốt; tổ Lâm Tế mạnh bạo nói “Phùng Phật, sát Phật”, rồi từ đó họ suy luận rộng ra và diễn giải thiền tông theo ý riêng của họ. Đây là một trở ngại rất lớn cho người mới bước chân vào cửa thiền, những người ham thích những điều kỳ lạ, đầy kịch tính, hơn là tọa thiền. Họ đã vô tình biến pháp môn “Bất lập văn tự” thành một trò chơi chữ nghĩa với những câu nói ngông cuồng, bắt chước chư tổ như “Ba lạng vải gai”, “Cây phướn trước sân”, hoặc “Nói được, ba chục gậy. Không nói được, ba chục gậy”. Cùng một câu nói đó nhưng một vị thiền sư đã giác ngộ, một vị tổ, có thể nói được; còn với những kẻ chưa ngộ, chưa hề có trải nghiệm tâm linh, thì đó chỉ là một sự nhắc đi nhắc lại như con vẹt, một sự ngông cuồng, ngu xuẩn, không những gây trở ngại cho mình mà còn làm hoang mang những người khác. Tôi xin ghi lại đây một sự kiện xảy ra trong khóa tu thiền lúc đó. Trong các khóa tu thường có một số người thích tham dự để bàn luận nhiều hơn là tu tập. Họ thường mang kiến thức ra khoe khoang như một cơ hội để phô trương bản ngã. Khóa tu tại chùa Chuoji cũng có vài người như vậy nên vị trụ trì thất vọng nói: - Nếu quý vị chểnh mảng việc tọa thiền thì làm sao có thể đi xa hơn trên con đường giải thoát? Một học viên tên Yamato đã biện luận việc chểnh mảng tọa thiền của mình bằng giai thoại về thiền như sau: - Khi còn tu tại núi Hoành Nhạc, Mã Tổ chăm chỉ tọa thiền ngày đêm không mỏi mệt. Một hôm, thầy ông là hòa thượng Nam Nhạc hỏi: “Con tọa thiền như thế để làm gì?”. Mã Tổ trả lời: “Con cố gắng ngồi để được thành Phật”. Nam Nhạc không nói gì, chỉ lấy một miếng ngói rồi mài đi mài lại trên hòn đá gần đó. Thấy lạ, Mã Tổ bèn hỏi: “Thầy mài ngói để làm gì vậy?”. Nam Nhạc thản nhiên trả lời: “Để làm gương soi mặt”. Mã Tổ lắc đầu: “Làm sao mài ngói mà có thể thành gương được?”. Nam Nhạc cũng nói ngay: “Làm sao ngồi mãi mà có thể thành Phật được?”. Nghe Yamato nói vậy, vị trụ trì đã trả lời: - Các ông chỉ ham thích những lý luận suông mà không hiểu Nam Nhạc biết rõ căn cơ của Mã Tổ lúc đó đang bị mê hoặc, cho rằng Phật tánh là một cái gì ở bên ngoài mà ông có thể tìm được qua việc tọa thiền, nên mới dạy như vậy để ông này tỉnh ngộ. Thật ra Nam Nhạc đâu có nói việc tọa thiền là vô ích như mài ngói không thể thành gương mà chỉ nhấn mạnh rằng làm sao Mã Tổ có thể thành Phật qua việc ngồi, nếu ông không bắt đầu là một ông Phật trước đã. Nói cách khác, tọa thiền không mang đến cho ta Phật tánh, nó chỉ giúp cho tâm ta tĩnh lặng để ý thức được rằng Phật tánh vốn hiện hữu trong ta. Nếu tâm ta hoàn toàn an tĩnh thì một phút ngồi thiền chính là một phút làm Phật, còn như ngồi mà tâm vọng động, mong cầu thì có ngồi bao lâu cũng chỉ là vô ích thôi. Nếu lúc tọa thiền mà các ông ngủ gật, nhưng sau buổi tọa thiền lại hăng say lý luận giảng giải lung tung như thế này thì đừng nói tu một kiếp, nếu có tu hành hàng trăm kiếp cho đến ngày Đức Phật Di Lặc ra đời vẫn chẳng hiểu được gì hết. Các ông phải cố gắng công phu, chớ sinh tâm nghi ngờ hay chấp vào những giai thoại thiền mà các ông chưa hiểu rõ, để rơi vào ma đạo, trôi nổi trong sinh tử luân hồi, không giải thoát được. Nghe vị trụ trì nói vậy, tôi cảm thấy yên tâm và cố gắng chăm chỉ tọa thiền theo phương pháp chỉ dẫn. Trước khi đi xa hơn, tôi muốn nhắc qua về lịch sử Thiền tông Nhật Bản. Thiền tông du nhập vào xứ tôi từ lâu, có lẽ từ khi đạo Phật được truyền vào đây. Lịch sử ghi nhận vào năm 552, quốc vương xứ Triều Tiên đã cho người mang triều cống Nhật Bản một số kinh sách, tượng Phật và sau đó hoàng đế Nhật đã gửi người qua Triều Tiên, Trung Hoa để hỏi thêm về Phật pháp. Vào năm 654, ngài Đạo Chiêu (Dosho), một đệ tử của ngài Huyền Trang bên Trung Hoa, đã qua Nhật giảng dạy về thiền tại thành phố Nara. Sau đó các thiền sư khác như Đạo Tuân (Dosen), Nghĩa Không (Giku), Đạo Long (Doryu), Tố Nguyên (Sogen), Nhật Ninh (Ichinei) đều lần lượt được mời sang giảng dạy về thiền, nhưng lúc đó Thiền tông vẫn chưa phát triển được bao nhiêu. Có người cho rằng các thiền sư trên chỉ đến giảng dạy một thời gian rồi trở về nước chứ không có ý định xây dựng, phát triển Thiền tông tại đây. Cũng có dư luận cho rằng phương pháp giảng dạy của các thiền sư Trung Hoa lúc đó không phù hợp với phong hóa Nhật Bản nên không được quần chúng đón nhận nhiệt thành. Phải chờ đến khi hai vị sáng tổ của Thiền tông Nhật Bản là ngài Vinh Tây (Eisai) và Đạo Nguyên (Dogen) qua Trung Hoa tu học, trở về hoằng pháp thì Thiền tông mới phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của người dân xứ này. Tổ Vinh Tây (Eisai Myoan, 1147 – 1215) là một vị cao tăng tu ở núi Hiei, một trung tâm Phật giáo nổi tiếng của Nhật Bản lúc đó. Trước khi qua Trung Hoa, ông đã là một luận sư rất giỏi. Ông nghiên cứu nhiều kinh điển nhưng không thỏa mãn với lời giải thích của các danh sư đương thời nên qua Trung Hoa tìm thầy học thêm. Ông du hành nhiều nơi, theo học với các cao tăng của Thiên Thai Tông, Chân Ngôn Tông, Tịnh Độ Tông, nhưng vẫn không thỏa mãn cho đến khi gặp các thiền sư thuộc dòng Lâm Tế tại núi Thiên Đồng thì bao nghi ngờ đều được giải đáp cả. Ông sống tại đây nhiều năm để học hỏi thêm, hàng ngày theo chư tăng làm các công việc thường nhật như chẻ củi, giã gạo, canh tác theo đúng tinh thần thiền môn là “một ngày không làm là một ngày không ăn”. Núi Thiên Đồng còn là nơi nổi tiếng sản xuất các loại trà (hai loại trà Long Tỉnh và Thiết Quan Âm đều phát xuất từ đây) nên hiển nhiên ông đã học được cách trồng trà. Khi trở về Nhật, ngoài việc giảng dạy thiền, Vinh Tây còn mang hạt giống trà về trồng và khởi xướng nghệ thuật uống trà tại đây, do đó người Nhật đã xem ông như là tổ sư khai sáng dòng Lâm Tế Nhật Bản và cha đẻ của nghệ thuật trồng trà, thưởng trà. Vinh Tây là người có công rất lớn trong việc phát triển thiền học tại Nhật. Ông chủ trương thiền học chính là phương pháp khai phóng sức mạnh của dân tộc. Ông soạn thảo bộ Hưng Thiền Hộ Quốc để làm tài liệu giảng cho học trò. Theo ông thì đạo Phật không giới hạn trong phạm vi các tu viện mà phải thể nhập vào đời sống của đại chúng. Một quốc gia sở dĩ hưng thịnh được là nhờ những người trong đó biết tu tỉnh, biết sống trong tỉnh thức, biết ý thức tinh thần trách nhiệm và đạo đức. Ông chủ trương từ giai cấp lãnh đạo cho đến thứ dân đều phải thực tập thiền định, ngay cả các hiệp sĩ (samurai) cũng phải biết tự chủ qua phương pháp thiền tập. Ông viết: “Nhờ làm chủ được mình mà mọi ý nghĩ, hành động của họ đều phản ảnh phần nội tâm phong phú, nhân cách điềm đạm, do đó người hiệp sĩ có thể tìm thấy ‘hành trong vô hành, động trong bất động’, ung dung tự tại trước ngoại vật, ngay cả cái chết cũng không thể làm họ nao núng”. Cuốn Hưng Thiền Hộ Quốc trở thành cuốn sách gối đầu giường của giai cấp hiệp sĩ lúc đó và mở đường cho phong trào võ sĩ đạo sau này. Ngoài ra, người ta còn thấy ảnh hưởng của Vinh Tây trong văn học, thi ca, kịch nghệ, hội họa, nghệ thuật cắm hoa, uống trà nữa. Chính nhờ Vinh Tây mà Thiền tông đã gắn liền với đời sống của người dân xứ này và chính nhờ biết thực tập thiền định mà người dân xứ này đã hun đúc được một lý tưởng quốc gia dân tộc mạnh mẽ đến ngày nay. Tổ Đạo Nguyên (Dogen, 1200 – 1253) xuất thân từ một gia đình quý tộc. Khi còn nhỏ, ông đã tỏ ra là người thông minh đĩnh ngộ. Lúc lên bốn tuổi đã đọc được thơ văn Trung Hoa và năm lên chín đã bắt đầu soạn thảo tài liệu về Phật học bằng tiếng Trung Hoa. Vì cha mẹ mất sớm khi ông còn nhỏ nên ông đã sớm suy ngẫm về lẽ vô thường của cuộc đời. Các tác phẩm ông viết năm lên mười tuổi đã phản ảnh rõ điều này. Năm mười hai tuổi, ông thọ giới xuất gia tại một ngôi chùa ở núi Hiei. Mặc dù còn nhỏ nhưng ông đã có những nhận xét xác đáng. Khi thấy phần lớn các tăng sĩ chỉ chú trọng vào việc cầu siêu, cầu an hoặc ủng hộ các gia đình thế gia vọng tộc chứ không chú tâm vào việc tu hành để giải thoát, ông đã đặt những câu hỏi mà các tăng sĩ lớn tuổi trong tu viện không thể trả lời. Năm mười lăm tuổi, ông thắc mắc: “Nếu như kinh đã nói, nếu chúng sinh đều sẵn tánh Bồ Đề, thì tại sao chư Phật phải nỗ lực mới đạt ngộ?”. Vì không một vị sư nào ở núi Hiei lúc đó có thể giải thích thỏa đáng câu hỏi trên nên Đạo Nguyên lên đường đi khắp Nhật Bản tìm các danh sư khác để tham vấn. Lúc đó, tổ Vinh Tây ở Trung Hoa trở về, đang truyền bá giáo lý Lâm Tế ở chùa Kenninji nên ông tìm đến. Cuộc gặp gỡ giữa hai vị tổ Thiền tông của Nhật Bản diễn ra như sau: Đạo Nguyên bước vào xin gặp Vinh Tây và đặt ngay câu hỏi. Vừa nghe xong, Vinh Tây ung dung trả lời: “Không Phật nào biết, chỉ có hàng thô lậu biết mà thôi”, ngụ ý chư Phật không còn nghĩ đến có hay không có bản tánh Bồ Đề, chỉ có hạng người mê hoặc mới nghĩ đến những điều như thế. Vừa nghe xong, bao thắc mắc từ bấy lâu nay đều tiêu tan cả nên Đạo Nguyên sụp xuống lạy và xin được ở lại chùa Kenninji tu học dưới sự hướng dẫn của Vinh Tây. Cuối năm đó tổ Vinh Tây qua đời, Đạo Nguyên tiếp tục tu học dưới sự hướng dẫn của các đệ tử lớn của Vinh Tây. Ông đã hoàn tất một số công án và được thiền sư Myozen, vị kế nghiệp của Vinh Tây, ấn chứng cho. Mặc dù được thế, Đạo Nguyên vẫn cảm thấy trong lòng có nỗi bất an nên ông tìm đường qua Trung Hoa học hỏi thêm. Ông đi khắp Trung Hoa, dừng chân ở các thiền viện nổi tiếng, tu tập dưới sự dẫn dắt của rất nhiều vị thầy nhưng vẫn chưa hoàn toàn thỏa mãn cho đến khi ông gặp thiền sư Như Tịnh (Nyojo) thuộc dòng Tào Động chỉ cho ông phương pháp Chỉ Quán Đả Tọa (Shikan-Taza), một hình thức tọa thiền không tham công án cũng không theo dõi hơi thở. Ông chăm chỉ thực hành phương pháp này ngày đêm không mệt mỏi. Một hôm, trong buổi thiền tập, Như Tịnh bắt gặp một vị tăng đang ngủ gật, ông bèn quở trách vị này không hết lòng cố gắng rồi quay qua tăng chúng trong thiền đường, khuyên: “Các ông phải dùng tất cả sức mạnh của mình, ngay cả hy sinh mạng sống nữa, muốn giác ngộ hoàn toàn, các ông phải xả bỏ thân tâm”. Khi nghe đến cuối câu này, Đạo Nguyên bỗng liễu ngộ. Ông cảm thấy trong lòng sảng khoái, hoan hỷ lạ thường; bao thắc mắc, các nỗi bất an đều tiêu tan cả. Hôm sau, ông bước đến phòng thầy đốt một nén nhang và quỳ lạy. Như Tịnh vốn đã biết rõ căn cơ Đạo Nguyên, nay nhìn thấy học trò mình đã đại ngộ qua cách đi đứng, quỳ lạy nên giả vờ hỏi: “Tại sao con lại thắp nhang?”. Đạo Nguyên đáp: “Kính thưa thầy, con đã xả bỏ thân tâm”. Như Tịnh bèn lặp lại: “Con đã xả bỏ thân tâm. Thân tâm thực đã xả bỏ”. Đạo Nguyên bèn trách: “Xin thầy đừng ấn chứng cho con một cách dễ dàng như vậy”. Như Tịnh thản nhiên: “Ta có ấn chứng dễ dàng thế đâu”. Đạo Nguyên lắc đầu: “Xin thầy chỉ cho con thầy không ấn chứng dễ dàng”. Như Tịnh đáp: “Đây là xả bỏ thân tâm”. Đạo Nguyên cảm động quỳ sụp xuống lạy thầy một lần nữa. Như Tịnh hài lòng gật đầu và nói: “Đó là xả bỏ cái xả bỏ”. Mặc dù đã được thầy ấn chứng nhưng Đạo Nguyên vẫn tiếp tục tu học với Như Tịnh thêm hai năm nữa trước khi từ giã thầy lên đường về nước. Tuy được xem là người đã mang giáo lý Tào Động từ Trung Hoa về truyền bá tại Nhật nhưng thật ra Đạo Nguyên không hề có ý định thành lập môn phái. Nếu nghiên cứu kỹ các bài giảng của ông, người ta thấy ông không hề bị ràng buộc vào giáo lý Tào Động. Ông đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, và nếu cần, sẵn sàng vay mượn phương pháp của các dòng khác như Lâm Tế, Hoàng Bá, Ngưu Đầu. Ông chủ trương “tùy bệnh cho thuốc”, tùy căn cơ học trò mà giảng dạy. Ông cho rằng người tu thiền có thể tạm chia ra làm bốn loại. Loại thứ nhất là những người không có lòng tin tưởng sâu xa nhưng nhờ duyên nghiệp mà đến với thiền. Loại thứ hai là những người chỉ mong nhờ tu thiền mà cải thiện sức khỏe, cả thể xác lẫn tinh thần. Loại thứ ba là những người có lòng tin, muốn đi theo con đường của Đức Phật. Và loại thứ tư là những người không những đã có lòng tin mà còn có tinh thần dũng mãnh, quyết tâm thực hiện chân ngã của mình để đạt đến giác ngộ, giải thoát. Tùy học trò thuộc loại nào mà ông giảng dạy cho họ phương pháp tọa thiền thích hợp nhất. Đạo Nguyên là một trong những thiền sư siêu việt nhất của Nhật Bản. Ông dạy đạo bằng chính thái độ sống của mình. Ông viết bộ Chánh Pháp Nhãn Tạng (Shobogenzo) đề cập đến quan niệm sống, từ những việc nhỏ nhặt, đơn giản nhất (như cách thực hiện phương pháp vệ sinh trong tu viện) đến những quan niệm lớn lao, trừu tượng hơn (như sự tương quan giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ). Khi được triều đình mời vào giảng dạy, ông hăng say cổ súy việc tu tập thiền định tại đây. Khi thấy những người cầm quyền chỉ coi thiền như là một thứ giải trí, ông lập tức bỏ đi và than: “Phật pháp là thực hành, không phải để nói suông”. Vào lúc đó, phần lớn các tăng sĩ đều dựa vào thế lực của triều đình, việc được mời đến giảng dạy cho vua chúa là một vinh dự rất lớn, có thể đưa đến việc triều đình cấp ruộng nương, đất đai để lập tu viện. Thái độ bất khuất, thẳng thắn của ông đã khiến cho các tu viện lúc đó ngần ngại không dám chứa chấp ông. Một số tăng sĩ còn lên tiếng chỉ trích ông nữa. Nhưng người ta càng chỉ trích ông bao nhiêu, danh tiếng của ông lại càng nổi lên bấy nhiêu. Ông đến tỉnh Echizen, đích thân quyên góp tiền bạc của dân chúng để dựng một cảnh chùa riêng, không cần đến sự giúp đỡ của triều đình. Số người kéo đến xin tu học với ông rất đông. Ông thường nói: “Đừng chờ lúc khát mới đào giếng, đừng chờ lúc già mới học đạo, mà phải nỗ lực tinh tấn tu hành ngay trong lúc này. Nếu kiếp này không ngộ thì còn chờ đến kiếp nào?”. Thấy uy tín của ông mỗi ngày một lớn, triều đình cho người cầm chứng thư đến phủ dụ, trong thư hứa sẽ cấp rất nhiều đất đai, ruộng nương cho ông nhưng ông từ chối. Nhờ thế danh tiếng của ông lại càng nổi hơn, số người kéo đến xin xuất gia với ông rất đông nhưng ông nói: “Không phải vào chùa mới là tu mà phải biết tu trong mọi hoàn cảnh”. Cũng như Vinh Tây, Đạo Nguyên chủ trương thiền phải được thể hiện ngay trong đời sống hàng ngày và trong trải nghiệm cá nhân. Khi sứ quân Tokiyori hỏi ông có cách nào giảng về thiền một cách thật ngắn và thật dễ hiểu, ông đã trả lời: “Đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền cả”. Có thể nói nhờ Đạo Nguyên mà sự giản dị, thanh khiết và thành thật đã ảnh hưởng rất nhiều đến người dân xứ này. Ngày nay, một số người thường phân biệt phương pháp giảng dạy giữa hai dòng Tào Động và Lâm Tế. Họ cho rằng Tào Động chú trọng về tọa thiền trong khi Lâm Tế chủ trương tham công án. Thật ra cả hai phái đều chú trọng đến sự tọa thiền cũng như tham công án. Tổ Đạo Nguyên trước khi qua Trung Hoa đã từng tu học với tổ Vinh Tây, đã từng tham công án trong tám năm và được ấn chứng bởi các thiền sư Lâm Tế. Sau khi học được phương pháp Chỉ Quán Đả Tọa của phái Tào Động tại Trung Hoa, ông đã trở về Nhật giảng dạy cho các môn đệ của mình nhưng ông đã mang theo bộ Bích Nham Lục , gồm một trăm công án làm tài liệu giảng dạy thêm. Ít lâu sau, ông còn soạn thêm cuốn Niêm Bình Tam Bách Tắc (Nempyo Sambyaku Soku) gồm ba trăm công án nữa để làm sáng tỏ phương pháp giảng dạy của mình. Ngay trong bộ sách Chánh Pháp Nhãn Tạng của ông cũng chứa đựng rất nhiều công án, do đó không thể nói phái Tào Động chỉ chú trọng đến tọa thiền mà thôi. Có lẽ vì phương pháp Chỉ Quán Đả Tọa là một phương pháp rất cao, thuộc Tối Thượng Thiền (Saijojo), những kẻ thiếu nhiệt tâm khó lòng tu tập nên các thiền sư dòng Tào Động đã dẫn dắt người mới nhập môn tập đếm hơi thở (sổ tức) để cho tâm được hợp nhất, sau đó họ giảng dạy cách tham công án để phá tung các vướng mắc của lý trí, tư tưởng, quan niệm, thành kiến, và sau cùng mới dạy Chỉ Quán Đả Tọa để kiến tánh. Chỉ Quán Đả Tọa là một phương pháp thực hành của phái Tào Động mà tổ Đạo Nguyên đã mang từ Trung Hoa về. Đây là cách tọa thiền không đếm hơi thở cũng như không tham công án, mà chỉ tập trung vào việc ngồi mà thôi (đả tọa). Dĩ nhiên điều này rất khó vì tâm dễ bị xao lãng nếu không được tập trung vào việc đếm hơi thở hay vào công án.