🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hồ Sơ Mật Lầu Năm Góc Và Hồi Ức Về Chiến Tranh Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo (Sách tham khảo) Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: PHÓ GIÁM ĐỐC – PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG Biên tập nội dung: TS. NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: MAI QUẾ VŨ NGỌC NAM PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT BÍCH LIỄU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: …-2020/CXBIPH/..-295/CTQG. Số quyết định xuất bản: …-QĐ/NXBCTQG, ngày …/05/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 5 năm 2020. Mã ISBN: 978-604-57-5544-0. Copyright © Daniel Ellsberg, 2002 All rights reserved LỜI NHÀ XUẤT BẢN Năm 1971, cái tên Daniel Ellsberg đã gây nên một cơn địa chấn trong dư luận toàn nước Mỹ, khi ông dũng cảm công bố 7.000 trang tài liệu thuộc loại tối mật của Lầu Năm Góc phơi bày toàn bộ sự thật về cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam. Việc làm này của ông đã góp phần làm thay đổi chủ trương của Mỹ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam trong những năm về sau. Tốt nghiệp Đại học Harvard với bằng tiến sĩ Kinh tế năm 1962, Daniel Ellsberg vào làm việc tại cơ quan RAND Corporation (Viện nghiên cứu chính sách của Chính phủ Mỹ), rồi sang Nam Việt Nam với vai trò cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Quốc phòng và Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Về nước năm 1967, ông làm việc trong Nhóm nghiên cứu đặc biệt về hoạch định chính sách đối với Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert McNamara. Do vị trí công tác, ông được trực tiếp nghiên cứu các tài liệu tối mật của Nhà Trắng và bất ngờ phát hiện ra sự thật cùng những gian dối của giới cầm quyền Mỹ trong chủ trương phát động, mở rộng và đẩy cao cường độ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, từ cái gọi là Sự kiện Vịnh Bắc Bộ tháng Tám năm 1964 cho đến việc tạo cớ đưa quân chiến đấu vào chiến trường Nam Việt Nam, thực hiện các chiến dịch “tìm diệt” và chống đỡ cơn bão phản chiến trong lòng nước Mỹ sau đó. Tận mắt chứng kiến sự thật về cuộc chiến tại Việt Nam và những “vở kịch” (theo cách nói của ông) vì mưu lợi cá nhân của một số quan chức cao cấp thuộc chính phủ đương thời, Ellsberg đã thay đổi hoàn toàn lập trường chính trị, quyết định sao chụp 7.000 trang tài liệu trong Hồ sơ Lầu Năm Góc và cho công bố trên tờ Thời báo New York. 6 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Được viết dưới dạng hồi ký, cuốn sách Hồ sơ mật Lầu Năm Góc và hồi ức về chiến tranh Việt Nam (Sách tham khảo) của Daniel Ellsberg đã cho ta cái nhìn đầy đủ hơn với những góc khuất của cuộc chiến tranh mà người Mỹ tiến hành ở Việt Nam. Từ nguồn tài liệu cấp 1, với thái độ trung thực, nhãn quan chính trị nhạy bén và kỹ năng phân tích sắc sảo, Daniel Ellsberg đã dựng lại bức tranh sống động về đời sống nước Mỹ kể từ năm 1964, động thái (gồm cả trung thực và dối trá) của các hoạt động tại Nhà Trắng và những con người trong đó, sự thiệt hại, mức độ tàn bạo và xu thế thất bại không tránh khỏi của Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nó là một khoảng trống chưa được lấp kín trong bản đồ nghiên cứu của chúng ta về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Là một sĩ quan quân đội Mỹ, hẳn nhiên trong cuốn hồi ký của Daniel Ellsberg sẽ có những nhận định, kết luận mang tính chủ quan, phiến diện, không phù hợp với quan điểm của chúng ta. Song để bạn đọc tiện theo dõi, có thể tiếp cận gần nhất với tác phẩm, Nhà xuất bản cố gắng bám sát bản gốc trong quá trình dịch và biên tập cuốn sách. Cuốn sách đã được xuất bản năm 2002 tại Mỹ và từng được xuất bản tại Việt Nam năm 2006. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, được sự đồng ý của tác giả, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã tổ chức dịch lại và xuất bản cuốn sách. Xin giới thiệu cùng bạn đọc cuốn sách. Tháng 1 năm 2018 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT LỜI NÓI ĐẦU Tối ngày 1 tháng Mười năm 1969, tôi rảo bước qua dãy bàn dành cho nhân viên bảo vệ của Rand Corporation (RAND) ở Santa Monica, xách theo một vali đầy tài liệu tối mật mà tôi dự định sẽ sao chụp vào đêm hôm đó. Số tài liệu này là một phần trong công trình nghiên cứu tối mật gồm 7.000 trang liên quan tới những quyết sách của Mỹ ở Việt Nam, sau này được biết đến dưới tên gọi Hồ sơ Lầu Năm Góc. Phần còn lại của công trình nằm trong két đựng tài liệu trong văn phòng của tôi. Tôi quyết định sao chụp và đưa ra công chúng toàn bộ nghiên cứu này, hoặc là thông qua các cuộc điều trần tại Thượng viện, hoặc là thông qua báo chí, nếu cần thiết. Tôi tin rằng tôi có thể sẽ phải ngồi tù suốt đời vì những việc này, nhất là việc đưa ra công chúng bộ Hồ sơ Lầu Năm Góc. Quá trình dẫn dắt tôi đi đến hành động nói trên chính là nội dung trọng tâm của hồi ký này. Trong suốt 11 năm, từ giữa năm 1969 đến khi kết thúc cuộc chiến vào tháng Năm năm 1975, giống như rất nhiều người Mỹ khác, tôi luôn bận tâm suy nghĩ về sự can dự của Mỹ tại Việt Nam. Trong tiến trình thời gian đó, thoạt đầu tôi nghĩ sự can dự này chỉ là một vấn đề, rồi là một sự bế tắc, rồi sau đó là một thảm họa về đạo đức và chính trị, một tội ác. Ba phần đầu của cuốn sách ứng với ba giai đoạn hình thành những nhận thức trên của tôi. Quyết định cá nhân và những hành động sau đó của tôi được tiến hành tương ứng với quá trình thay đổi nhận thức này. Khi nhận thức cuộc xung đột chỉ là một vấn đề, tôi đã cố gắng góp sức giải quyết vấn đề, khi nhận thức đó là sự bế tắc, tôi đã cố gắng để đưa chúng ta thoát khỏi thế bế tắc đó mà không gây phương hại tới những khía cạnh lợi ích quốc gia khác; khi nhìn nhận đây là một tội ác, tôi đã vạch trần và chống lại cuộc xung đột này và nỗ lực chấm dứt nó càng sớm càng tốt. 8 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Trong suốt quá trình thay đổi nhận thức trên, kể cả khi tôi nhận thức đây chỉ là một vấn đề, tôi đã dùng đến nhiều cách khác nhau nhằm tránh cho cuộc xung đột leo thang cao hơn. Nhưng mãi đến đầu năm 1973, khi phải ra trước Tòa án liên bang vì những hành động của tôi bắt đầu vào cuối năm 1969, tôi có thể nói rằng không mục đích và nỗ lực nào - của tôi hay của bất kỳ người nào khác - đạt được một chút thành công nào. Những nỗ lực nhằm chấm dứt cuộc xung đột - cho dù nó được nhìn nhận như là một cuộc thử nghiệm thất bại, một vũng lầy hay một hành động sai trái về đạo lý - dường như không có cách nào để so đọ với những cố gắng giành chiến thắng trong cuộc xung đột đó. Vì sao? Như sau này tôi nhận thức được, không những cần chống lại cuộc chiến này, mà cần phải hiểu cặn kẽ về nó. Ba mươi năm sau, tôi vẫn giữ niềm tin đó. Cuốn sách này thể hiện nỗ lực liên tục của tôi, một nỗ lực còn xa mới hoàn thành mục đích, hướng tới sự hiểu biết về cuộc chiến của nước Mỹ ở Việt Nam, vai trò của bản thân tôi trong cuộc chiến đó và lý do tại sao cuộc chiến đó cũng như những nỗ lực của tôi lại kéo dài đến như vậy. Trong thời gian ba năm bắt đầu từ giữa năm 1964, với bậc công chức cao nhất trong ngạch dân sự, tôi đã giúp chính quyền theo đuổi một cuộc chiến tranh mà ngay từ đầu tôi đã tin là nó sẽ đi đến thất bại. Làm việc tại Washington dưới quyền những nhà hoạch định chính sách tối cao trong những năm 1964-1965, tôi đã chứng kiến họ bí mật lôi kéo đất nước này vào một cuộc chiến quy mô lớn mà không có lấy bất kỳ một khả năng thành công nào. Quan điểm bi quan của tôi trong những năm đó không phải là không có những đoạn hồi thay đổi, và trong vòng khoảng một năm - từ mùa Xuân 1965 tới mùa Xuân 1966 - tôi đã có hy vọng và làm mọi việc hướng tới một thắng lợi nào đó. Niềm hy vọng đó xuất hiện sau khi Tổng thống, người mà bất chấp nhiều mối nghi ngại, bao gồm cả những lo ngại của chính ông ấy, vẫn quyết tâm đưa nước Mỹ vào cuộc chiến. Khi nước Mỹ đã can dự toàn diện vào cuộc chiến, vào giữa năm 1965, tôi tình nguyện tới phục vụ ở Việt Nam trong vai trò là công chức của Bộ Ngoại giao. Công việc của tôi là đánh giá công cuộc “bình định” ở vùng nông thôn. Thời gian Lời nói đầu 9 này, tôi đã sử dụng vốn kiến thức của một sĩ quan chỉ huy bộ binh thủy quân lục chiến để quan sát cận cảnh cuộc chiến. Trước đây tôi chưa bao giờ bận tâm đến câu hỏi liệu chúng ta có quyền gì đó, bất kể quyền gì cao hơn quyền của người Pháp từng có trước đây, để theo đuổi bằng hỏa lực và sắt thép những mục tiêu mà các nhà lãnh đạo của chúng ta đã lựa chọn ở Đông Dương. Nhưng trong hai năm ở Việt Nam, ấn tượng về những người dân và hoàn cảnh thống khổ của họ đã trở nên chân thực với tôi hơn, chân thực như những binh lính Mỹ mà tôi cùng hành quân, như chính đôi bàn tay của tôi, và ở một khía cạnh nào đó, ấn tượng này đã đưa tôi đến quan điểm cho rằng việc tiếp tục theo đuổi cuộc chiến vô vọng này là không thể chấp nhận được. Bị loại khỏi địa bàn chiến trường vì bệnh viêm gan và quay trở lại Mỹ vào giữa năm 1967, tôi bắt đầu làm tất cả những gì mình có thể để giúp đất nước tôi thoát khỏi cuộc chiến. Trong hai năm tôi làm việc này với danh nghĩa là người trong cuộc, báo cáo tình hình trực tiếp với các quan chức cao cấp, cố vấn cho các ứng cử viên tổng thống và cuối cùng, vào đầu năm 1969, giúp cho Cố vấn An ninh quốc gia của Tổng thống là Henry Kissinger nắm bắt được những yếu tố bất định và phương án hành động thay thế. Nhưng cũng chính trong những năm đó, tôi cảm thấy mình bị thôi thúc phải làm điều gì đó vượt ra ngoài phạm vi và đường hướng làm việc này nên đã quyết định chấm dứt sự nghiệp công chức chính phủ cùng vai trò là một người trong cuộc. Một trong những việc làm trên đã đẩy tôi đến nguy cơ mất quyền tự do. Năm 1969 và 1970, với sự giúp đỡ của người bạn tên là Anthony Russo, người từng là đồng nghiệp của tôi tại Rand, tôi đã bí mật sao chụp toàn bộ 47 tập Hồ sơ Lầu Năm Góc, một bộ tài liệu nghiên cứu tối mật về những quyết sách của Mỹ ở Việt Nam từ 1945 đến năm 1968, để giữ riêng cho mình và sau đó trao chúng cho Thượng nghị sỹ William Fulbright, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện. Năm 1971, tôi cũng đã trao những bản sao tài liệu này cho tờ New York Times (Thời báo New York), tờ Washington Post (Bưu điện Washington) và cuối cùng, trước bốn 10 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam lệnh cấm vô tiền khoáng hậu của liên bang, tôi đã trao tài liệu cho 17 tờ báo khác và những tờ báo này sau đó đã đưa nội dung tài liệu của tôi ra trước công chúng, phớt lờ lệnh cấm in ấn của chính phủ. Tôi đã không sai khi nhận định về nguy cơ đối với cá nhân mình. Ngay sau đó, tôi bị buộc phải ra trước tòa án liên bang, tiếp theo là Russo, người bị buộc tội trong một bản cáo trạng thứ hai, có tính chất thay thế cho bản cáo trạng ban đầu. Tổng cộng, tôi bị quy tới 12 trọng tội cấp liên bang và có thể phải chịu tới tổng cộng 115 năm tù cùng với một vài lần hầu tòa nữa. Nhưng tôi cũng không sai khi hy vọng rằng, vạch trần những bí mật và những điều dối trá của năm vị tổng thống có thể làm lợi cho chế độ dân chủ của nước Mỹ và đó là điều xứng đáng để mạo hiểm. Sự thật được tiết lộ như thước phim về một chuỗi những sự việc, bao gồm cả những việc làm xấu xa của Nhà Trắng hòng làm mất uy tín của tôi cũng như buộc tôi phải câm nín, những hành động mà chính chúng đã khiến tòa án bãi bỏ những cáo buộc chống lại tôi và người đồng bị cáo với tôi. Nhưng điều quan trọng hơn nhiều là chính những tội ác này của Phòng Bầu Dục đã góp phần khiến cho Tổng thống mất ghế lãnh đạo. Đây là câu chuyện về sự thay đổi lớn nhất trong đời tôi, bắt đầu kể từ khi tôi trở về từ Việt Nam. Sự tan vỡ những hy vọng ngắn ngủi mà tôi có ở Việt Nam, cùng quan điểm hoài nghi về cuộc chiến đã đeo đuổi tôi khi về Mỹ từ giữa năm 1967 không còn là thứ gì đó xa lạ gì với tôi nữa. Trái lại, đó là sự quay trở lại với quan điểm bi quan của tôi như hồi có chuyến công tác đầu tiên tới Việt Nam năm 1961 và được củng cố trong năm đầu tiên tôi làm việc cho Lầu Năm Góc kể từ giữa năm 1964. Năm 1967, tâm lý hoài nghi giống tôi chủ yếu lan rộng bên trong chính phủ chứ với dư luận bên ngoài thì có lẽ chưa đến mức. Đây là thời điểm mà mong muốn chứng kiến cuộc chiến kết thúc của tôi cũng không khiến tôi trở nên khác biệt so với hầu hết các đồng nghiệp trong chính phủ hoặc trong các cơ sở nghiên cứu do chính phủ tài trợ, dù họ đã từng phục vụ ở Việt Nam hay chưa. Cả một thế hệ những người làm việc cho chính phủ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam đều đã bị vỡ mộng như tôi về một cuộc chiến mà họ thấy ở đó sự vô Lời nói đầu 11 vọng và không có hồi kết. Tôi cũng giống như họ trong hầu hết mọi khía cạnh, không có khác biệt gì về đặc tính và những giá trị, về tinh thần ủng hộ tích cực cho sự nghiệp chiến tranh lạnh, chống chủ nghĩa cộng sản, chủ trương giữ bí mật thông tin và chiếc ghế tổng thống. Đến năm 1968, nếu không nói là sớm hơn, tất cả họ, cũng như tôi đều muốn thấy nước Mỹ cần phải thoát ra khỏi cuộc chiến tranh này. Quả thực, mong muốn này kể từ đó đã thôi thúc tôi bằng mọi nỗ lực để trả lời câu hỏi: Tại sao trong những hoàn cảnh như vậy, nhất là với sự vỡ mộng ghê gớm sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968, mà cuộc chiến vẫn có thể kéo dài thêm tới bảy năm nữa? Nội dung trọng tâm của cuốn hồi ký này là kể một câu chuyện về việc làm thế nào mà, khởi đầu bằng quan điểm phổ biến của những người làm việc trong chính phủ chỉ trích đối với chính chính sách của nước Mỹ, tôi lại rốt cuộc đi đến chỗ vượt lên trên cả những nỗ lực chấm dứt chiến tranh từ vị trí trong ngành hành pháp, sẵn sàng từ bỏ những đặc quyền và mối quan hệ chính trị, cơ hội phục vụ các tổng thống tương lai, từ bỏ toàn bộ sự nghiệp của mình để thay bằng việc chấp nhận viễn cảnh một cuộc sống bên trong song sắt lao tù. Cuốn sách tập trung vào những điều mà kinh nghiệm cuộc sống đã tạo điều kiện cho tôi thực hiện suốt từ năm 1969 đến hết năm 1972, những điều mà giờ đây tôi (hoặc những người khác) ước gì đã làm ngay từ hồi năm 1964 hoặc năm 1965: trao những tài liệu này cho Quốc hội và báo chí để nói ra sự thật. Thật dễ để nói rằng ý tưởng này đơn giản đã không nảy ra trong đầu tôi và cũng như bất kỳ ai vào thời điểm đó. Câu hỏi còn lại là tại sao điều đó lại không nảy ra trong đầu tôi? Cũng giống như nhiều người, cá nhân tôi hoàn toàn tin tưởng vào tổng thống của mình (cũng như vào sự nghiệp của mình, quyền tiếp cận với thông tin nội bộ và những nhật vật có ảnh hưởng, dù tôi có lý tưởng hóa mục đích của mình như thế nào đi chăng nữa), đặt trên hết thảy mọi thứ khác, trên lòng trung thành với Hiến pháp, trách nhiệm với sự thật, với những đồng bào Mỹ và với cuộc sống của những con người khác. Chính tấm gương mắt thấy tai nghe, điều tôi luôn biết ơn, 12 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam về những thanh niên Mỹ đã lựa chọn thà vào tù còn hơn là tham gia vào một cuộc chiến mà họ biết là sai lầm đã thức tỉnh tôi trước những ưu tiên về lòng trung thành cao cả này. Tôi hy vọng những bài học này sẽ tới được với các quan chức tương lai trong những hoàn cảnh tương tự như hoàn cảnh của tôi và với tất cả mọi công dân, những người sẽ theo dõi trách nhiệm của các quan chức. Và một bài học nữa, thú vị hơn (như mô tả trong Phần IV), xuất hiện vào thời điểm chuẩn bị kết thúc phiên tòa xét xử tôi và sau đó là: Việc nói ra sự thật, vạch trần những bí mật sai trái được che đậy, có thể đem tới một sức mạnh bất ngờ chưa từng thấy, sức mạnh góp phần chấm dứt một sai lầm và cứu được những mạng sống. PHẦN I Phần mở đầu Việt Nam năm 1961 Mùa Thu năm 1961, chúng tôi không mất nhiều thời gian để nhận ra rằng người Mỹ khó có thể thành công ở đất nước này. Tôi chỉ mất chưa đầy một tuần để nhận ra điều này trong chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam. Chỉ cần hỏi đúng chỗ, nói chuyện với đúng người là sẽ nhanh chóng hiểu rõ tình hình nơi đây. Ta không cần phải biết tiếng Việt hay hiểu về lịch sử, triết lý hay văn hóa Á châu để hiểu rằng những việc người Mỹ đang cố làm ở Việt Nam là không hề có kết quả như chúng ta mong muốn hay có triển vọng tốt đẹp hơn. Tôi từng đọc được ở đâu đó một câu thế này: Chẳng cần phải là nhà ngư học mới biết cá tanh. Tôi có lợi thế vì là thành viên Nhóm công tác cao cấp của Lầu Năm Góc tới thăm Phái bộ Cố vấn Quân sự (MAAG) của Mỹ tại Việt Nam, nên được quyền “đi khắp, thấy hết”. Người đứng đầu MAAG, Tướng Lionel McGarr, lệnh cho cấp dưới hết lòng giúp đỡ và nói chuyện thẳng thắn với chúng tôi. Trong số đó, tôi có dịp trò chuyện với một viên đại tá sắp kết thúc thời gian công tác tại Việt Nam. Ông mong muốn truyền đạt mọi hiểu biết của mình về nơi đây cho một ai đó có thể truyền đạt thông tin hiệu quả ở Washington. Ông mở tủ hồ sơ của MAGG và rút ra hàng chồng tài liệu đưa cho tôi. Trong nhiều ngày liền, tôi đã ở lại tới nửa đêm để đọc các kế hoạch, báo cáo và phân tích các chương trình của Mỹ tại Việt Nam, cũng như triển vọng của các chương trình đó. Mùi mục nát và thất bại hiện hữu ở mọi nơi và ông bạn đại tá của tôi cũng chẳng cần giả bộ không hiểu điều này. 16 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Ông nói với tôi, và các tài liệu cũng như những gì tôi nghe được từ các đồng nghiệp của ông cũng cho minh chứng về điều này, rằng dưới chế độ cầm quyền của Ngô Đình Diệm - nhà lãnh đạo độc tài mà chúng ta đã chọn đưa lên lãnh đạo Nam Việt Nam bảy năm trước - gần như chắc chắn phe cộng sản sẽ lên nắm quyền. Điều này không sớm thì muộn cũng sẽ xảy ra và có lẽ sẽ xảy ra trong một, hai năm nữa thôi. Nếu Diệm bị đảo chính - điều suýt xảy ra một năm trước đó - thì chiến thắng của phe cộng sản sẽ còn đến nhanh hơn. Các lý do ông đưa ra đều có cơ sở và được cân nhắc thấu đáo. Ghi chép của tôi sau buổi nói chuyện này là rất nhiều những biểu đồ diễn biến kiểu “vòng luẩn quẩn” đan xen nhau. Chúng có sức thuyết phục rất lớn. Hầu hết sĩ quan của MAAG đồng ý với ông và nhiều quan chức Việt Nam khác rằng điều duy nhất có thể thay đổi cục diện lúc này, trong ngắn hạn, là việc triển khai trên quy mô lớn quân chiến đấu Mỹ (Hiệp định Giơnevơ năm 1954 chỉ cho phép Mỹ duy trì 350 cố vấn quân sự tại Việt Nam. Tuy nhiên, dưới nhiều vỏ bọc, con số này thực tế là khoảng 700, không ai trong số đó thuộc biên chế các đơn vị chiến đấu). Nhưng viên đại tá này cũng tin rằng kể cả hàng sư đoàn quân chiến đấu Mỹ cũng sẽ chỉ giúp trì hoãn cái kết tất yếu kia. Cộng sản sẽ nhanh chóng lên nắm quyền ngay khi lực lượng của chúng ta rút ra, bất kể là lúc nào. Đây không phải là tin tốt cho tôi. Tôi là người lính tận tâm và lạnh lùng. Trên thực tế, tôi là một chiến binh nhà nghề. Tôi đã có quan điểm chống Liên Xô kể từ vụ đảo chính ở Séc và sự kiện phong tỏa Berlin năm 1948 khi tôi đang học năm cuối trung học và từ cuộc chiến tranh Triều Tiên khi tôi đang theo học ở Harvard vài năm sau đó. Trong quân ngũ, tôi chọn Quân chủng Thủy quân Lục chiến1* và làm sĩ quan bộ binh trong ba năm. Sau khi rời Thủy quân Lục chiến, tôi trở về Harvard * Marine Corps: Quân chủng Thủy quân Lục chiến (có tài liệu dịch là Quân đoàn Thủy quân Lục chiến) là một trong năm quân chủng chủ lực của Quân đội Mỹ gồm Thủy quân Lục chiến (Marine Corps), Hải quân (Navy), Không quân (Air Force), Lục quân (Army) và Tuần duyên (Coast Guard) - ND. Phần mở đầu: Việt Nam năm 1961 17 theo chương trình học bổng cao học và sau đó vào làm việc tại Rand Corporation (Rand) - tổ chức phi lợi nhuận chuyên nghiên cứu các khía cạnh quân sự của Chiến tranh lạnh. Cho tới năm 1961, phần lớn nghiên cứu của tôi vẫn tập trung vào kế hoạch ngăn chặn Liên Xô đột kích hạt nhân. Đáng ra tôi phải cảm thấy không còn gì đáng phấn khởi hơn khi được biết, với sự trợ giúp của chúng ta, Nam Việt Nam sẽ là nơi lực lượng cộng sản do Liên Xô hậu thuẫn bị đánh bại. Nhưng các ý kiến lập luận của viên đại tá đã thuyết phục tôi rằng điều ấy sẽ không xảy ra ở đây. Tháng sau, khi trở về Rand, tôi có ý kiến riêng với sếp của mình nên tránh xa các vấn đề về Việt Nam và đừng nên nghiên cứu chiến lược chống nổi dậy, ít ra là ở Việt Nam. Tôi nói: Chúng ta đang sa lầy ở Việt Nam và tình hình này sẽ khó mà thay đổi. Bất cứ ai muốn nhúng tay vào Việt Nam sẽ chỉ chuốc lấy cảm giác vỡ mộng, hoen ố uy danh vì thất bại. Họ sẽ phải chịu chung số phận như những người dính líu đến sự kiện Vịnh Con Lợn1*, xảy ra chỉ vài tháng trước đó. Về phần mình, tôi quyết định tránh xa vấn đề Việt Nam. Nhưng về ngắn hạn, chính quyền Kennedy không may mắn có lựa chọn đó. Chỉ vài tuần sau khi tôi rời Việt Nam, một đoàn công tác của Nhà Trắng dưới sự chỉ huy của hai cố vấn hàng đầu của Tổng thống là Tướng Maxwell Taylor và Walt W. Rostow đã tới Sài Gòn để đánh giá tình hình phục vụ cho Tổng thống. Cụ thể, họ có nhiệm vụ đánh giá mức độ cần thiết của việc triển khai bộ binh Mỹ. Họ lưu lại đây một tháng và chẳng bao lâu sau khi họ về nước, Nhà Trắng tuyên bố tăng cường mức độ can thiệp vào Việt Nam. Giữa tháng Mười một, Tổng thống Kennedy thực hiện một đợt tăng dần và đều số lượng nhân viên quân sự Mỹ tại Việt Nam, vượt quá giới hạn được đặt ra trong Hiệp định Giơnevơ năm 1954. Trong hai tháng cuối năm 1961, Tổng thống cho tăng gấp đôi số lượng cố vấn quân sự, kèm theo đó là các đơn vị hỗ trợ cho các * Tháng Tư năm 1961, Mỹ hậu thuẫn cho lực lượng lưu vong phản động người Cuba tấn công vào Cuba nhằm lật đổ chính của Phidel Caxtơrô (BT). 18 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam lực lượng vũ trang Nam Việt Nam: Các đại đội trực thăng, chuyên gia thông tin, vận tải, hậu cần và tình báo. Tôi không quá bất ngờ trước động thái này. Tôi mừng là, trái với dự đoán của giới báo chí vài tuần trước đó, Tổng thống đã không điều động lực lượng chiến đấu mặt đất Mỹ. Tuy vậy, tôi nghĩ kế hoạch gia tăng mức độ can thiệp của Mỹ đã đi nhầm hướng (khi Tổng thống Kennedy bị ám sát năm 1963, Mỹ đã gia tăng sự hiện diện của mình lên 12 nghìn “cố vấn” cùng nhiều viện trợ ngầm khác, nhưng vẫn chưa điều động các đơn vị bộ binh). Đây chính là diễn biến mà tôi e ngại sẽ xảy ra và cũng là lý do khiến tôi chủ ý quyết định tách mình khỏi diễn biến đó. Tôi giữ nguyên lập trường này trong ba năm tiếp theo. Chương 1 Vịnh Bắc Bộ: Tháng Tám năm 1964 Sáng thứ Ba, ngày 4 tháng Tám năm 1964, ngày làm việc chính thức đầu tiên của tôi trên cương vị mới ở Lầu Năm Góc, một người đưa thư đi vào văn phòng phía ngoài mang theo bức điện tín khẩn cho sếp của tôi. Anh ta đi như chạy. Các thư ký nói với anh ta rằng Trợ lý Bộ trưởng John McNaughton vừa rời văn phòng và đang đi cùng với Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara. Họ chỉ anh ta tới chỗ tôi, trợ lý đặc biệt mới của ngài Trợ lý Bộ trưởng. Anh ta đưa bức điện tín cho tôi rồi rời đi. Ngay khi đọc bức điện, tôi lập tức hiểu lý do anh ta phải đi như chạy tới đây. Bức điện được gửi về từ Hạm trưởng John J. Herrick, Phó Chuẩn đô đốc chỉ huy biên đội hai tàu khu trục ở Vịnh Bắc Bộ, ngoài khơi Bắc Việt Nam tại Biển Đông. Thuyền trưởng này cho hay ông ta bị hai tàu tuần tra của Bắc Việt Nam tấn công và đã nã đạn đáp trả. Khi đó biên đội khu trục hạm đang hoạt động trên vùng biển quốc tế, cách bờ biển miền Bắc Việt Nam hơn 95 kilômét. Một sĩ quan trực thủy âm trên tàu chỉ huy, tàu USS Maddox đã nghe thấy tiếng một quả ngư lôi, trong khi một quả ngư lôi khác cũng phóng sượt qua tàu khu trục thứ hai, tàu Turner Joy. Ngay sau khi trao cho tôi bức điện tín, người đưa thư quay trở lại trung tâm thư tín của đơn vị chúng tôi - Phòng An ninh quốc tế (ISA) trực thuộc Văn phòng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - đơn vị dân sự của Bộ Quốc phòng. Không đầy mười phút sau, anh ta quay lại chỗ tôi với một bức điện nữa trong cùng một sêri: “Liên tiếp bị ngư lôi tấn công”1. 20 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Vài phút sau, Herrick thông báo một quả ngư lôi nữa đã phóng sượt qua tàu của ông ta và hai quả ngư lôi khác đã nằm ngay dưới nước. Tàu của ông ta đang đáp trả lực lượng tấn công và có thể đã tiêu diệt được một tàu trong số đó. Họ nhắm bắn bằng hệ thống điều khiển rađa chứ không phải bằng mắt. Cuộc đụng độ diễn ra vào lúc gần nửa đêm trong bóng tối đen đặc của một đêm nhiều mây, không trăng không sao. Đây không phải là một sự kiện bình thường. Chính xác thì đây là vụ tấn công thứ hai vào tàu hải quân Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng vụ tấn công đầu tiên mới chỉ xảy ra trước đó chưa đầy ba ngày. Đó là vào ngày Chủ nhật, ngày 2 tháng Tám, và tàu bị tấn công cũng là tàu của Herrick, tàu USS Maddox khi đang tuần tra trên Vịnh Bắc Bộ. Trong cái nắng chói chang vào giữa giờ chiều ngày hôm ấy, ở vị trí cách bờ biển khoảng 45 kilômét, ba tàu tuần tra phóng ngư lôi của Bắc Việt Nam đã tấn công và phóng ngư lôi vào tàu Maddox. Các ngư lôi đều không trúng mục tiêu và tàu khu trục của Mỹ gần như không bị thiệt hại gì ngoài một vết đạn 14,5mm trên một ống khói. Hỏa lực từ tàu Maddox cùng các máy bay hải quân cất cánh từ tàu sân bay Ticonderoga ở gần đó đã đẩy lui và làm hư hại cả ba tàu phóng ngư lôi. Bởi phía Mỹ không chịu tổn thất về người hay thiệt hại gì đáng kể, nên Tổng thống Johnson quyết định không có động thái gì ngoài việc bổ sung tàu khu trục Turner Joy vào nhiệm vụ tuần tra. Hai tàu khu trục được lệnh tiếp tục thực hiện nhiệm vụ được miêu tả công khai là hoạt động tuần tra thường lệ nhằm khẳng định quyền tự do đi lại của Mỹ trong hải phận quốc tế. Nhưng vào thứ Hai, Tổng thống cũng tuyên bố ông ấy đã ra lệnh tiêu diệt, chứ không chỉ đẩy lùi các tàu tấn công nếu sự việc này còn tái diễn. Ông ấy cũng gửi điện phản đối chính thức tới Hà Nội và cảnh báo rằng: “Việc có thêm bất cứ hành động gây hấn vô căn cứ nào chống lại các lực lượng Mỹ”2 sẽ “tất yếu” chuốc lấy “những hậu quả nặng nề”. Tôi đọc được những điều này, ngoại trừ tuyên bố nêu trên của Tổng thống trên báo sáng thứ Hai. Chiều hôm ấy, sau khi đọc các tài liệu mật về sự kiện này, tôi đã sáng tỏ thêm nhiều điều. Chương 1: Vịnh Bắc Bộ: Tháng Tám năm 1964 21 Giờ đây, mỗi khi có một bức điện tín mới, tôi lại nhìn dãy sáu số ghi ngày tháng - thời gian (sau đó là một chữ cái chỉ múi giờ và tiếp sau là tháng) ở góc trái, phía trên bức điện. Hai số đầu chỉ ngày trong tháng; bốn số tiếp theo, theo quy định ghi thời gian của quân đội (2400 là nửa đêm), là thời điểm chính xác bức điện được gửi đi. Bức điện đầu tiên được gửi đi từ tàu chỉ huy của Herrick vào lúc 10 giờ 42 phút sáng giờ Washington (9 giờ 42 phút tối ở Vịnh Bắc Bộ)3. Tôi so sánh thời điểm bức điện được gửi đi với đồng hồ treo tường trong văn phòng của tôi ở Lầu Năm Góc và nhận thấy bức điện chỉ mất khoảng nửa tiếng để tới tay tôi, một khoảng thời gian cực ngắn trong thời đại chưa có máy tính lúc đó. Bức điện thứ hai cũng vậy, được gửi đi lúc 10 giờ 52 phút sáng giờ Washington và đến tay tôi lúc khoảng 11 giờ 20 phút sáng. Cũng như vậy, các bức điện sau này cứ vài phút lại đến. Các bức điện này được Herrick đặt ở mức “Cực nhanh”, mức ưu tiên cao nhất trong truyền tin. Do vậy, chúng được ưu tiên ngoại lệ trong các khâu xử lý, truyền phát lại và chuyển phát. Nhưng trong những vụ việc thế này, hai mươi hay ba mươi phút đã là một khoảng thời gian rất dài. Toàn bộ cuộc đụng độ hôm Chủ nhật, cả trên mặt biển lẫn trên không, kéo dài 37 phút. Khi tôi đang đọc bức điện đầu tiên, hay kể cả bức điện sau cùng, thì có thể ở bên kia trái đất, cuộc đụng độ đã kết thúc. Hoặc biết đâu, một tàu khu trục đã trúng đạn và đang chìm trong lúc chúng tôi đang đọc bức điện miêu tả việc tàu đã tránh hỏa lực đối phương thế nào, hay đã thành công trong việc tiêu diệt tàu địch ra sao. Nhưng lúc này, ở Washington, chẳng có cách nào để có thể biết chính xác chuyện gì đang xảy ra. Ngày ấy còn chưa có truyền hình trực tiếp của CNN để thấy những diễn biến ở nửa kia trái đất. Thậm chí còn chưa có đàm thoại trực tiếp giữa Washington và các tàu khu trục ở tây Thái Bình Dương. Hình thức liên lạc trực tiếp nhất là qua radio và điện thoại với Đô đốc Ulysses S.G. Sharp, Tổng tư lệnh - Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ (CINCPAC) tại sở chỉ huy của ông ấy ở Hawaii, nơi cách Vịnh Bắc Bộ một khoảng cách ngang với từ đó đến Washington. Điện tín từ CINCPAC và nhiều 22 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam bức điện khác chất đống trên bàn tôi, nhưng tần suất đến của chúng không thường xuyên hay nhanh như các bức điện ngắn được ưu tiên của đội tàu khu trục ở Vịnh Bắc Bộ. Theo dõi dòng điện tín của Hạm trưởng Herrick dĩ nhiên không thể sánh với việc trực tiếp theo dõi vụ việc, nhưng các bức điện đến nhanh tới mức chúng tôi cảm thấy như mình đang có mặt ở đó vậy. Các thông điệp rất sống động. Hẳn là Herrick đã đọc chúng giữa lúc vừa đưa ra mệnh lệnh trong lúc hai tàu khu trục bẻ lái để tránh những quả ngư lôi do hệ thống định vị thủy âm trên tàu Maddox phát hiện, vừa nhắm bắn các mục tiêu trên màn hình rađa của tàu Turner Joy giữa màn đêm đen: “Ngư lôi đã trượt. Một quả nữa được phóng vào ta. Bốn quả ngư lôi dưới nước. Giờ là năm... đã... tránh được ít nhất sáu ngư lôi”4. Chín, rồi mười bốn, rồi hai mươi sáu quả ngư lôi đã được phóng vào hai tàu khu trục của ông ấy. Thêm nhiều tàu tấn công bị bắn trúng, ít nhất một tàu đã chìm. Màn đụng độ không chỉ diễn ra trong 40 phút hay một tiếng. Giao tranh kéo dài, các tàu tránh, rồi nhắm bắn trên mặt biển dậy sóng, máy bay trên cao phóng rocket vào các vị trí do rađa tàu Turner Joy cung cấp. Toàn bộ việc này kéo dài trong suốt hai tiếng đồng hồ trước khi dòng thông tin về vụ giao tranh cuối cùng cũng tạm ngừng. Rồi đột nhiên, một tiếng sau, một dấu chấm hết theo đúng nghĩa. Thêm một bức điện nữa đến và sự xuất hiện của nó, dù chưa làm đảo lộn hoàn toàn mọi thứ, nhưng cũng đủ để khiến ta phải hoài nghi những diễn biến trước đó. Người đưa thư lại tới, vẫn là chạy, mang theo một bức điện mới sau một tiếng đồng hồ tương đối yên ắng, thời gian hiếm hoi mà anh ta chỉ đi ở tốc độ bình thường khi chuyển tới các bức điện từ CINCPAC và Hạm đội 7 cũng như các bản phân tích của Bộ Ngoại giao, CIA và các cơ quan khác của Lầu Năm Góc. Tôi vẫn còn nhớ khoảnh khắc ấy. Tôi đang ngồi ở bàn của mình, cố sắp xếp một cách trật tự toàn bộ đống thông tin ấy để Trợ lý McNaughton đọc khi ông ấy về thì người đưa thư trao cho tôi bức điện ưu tiên từ Herrick với nội dung sau: “Phân tích vụ việc đặt ra Chương 1: Vịnh Bắc Bộ: Tháng Tám năm 1964 23 hoài nghi về những hành động tấn công đã được báo cáo và việc ngư lôi đã được phóng đi. Tác động tiêu cực của thời tiết lên rađa và thái độ hấp tấp của sĩ quan theo dõi hệ thống định vị thủy âm có thể là nguyên nhân. Tàu Maddox không quan sát thực tế được gì. Đề nghị đánh giá thấu đáo trước khi có hành động tiếp theo”5. Lúc đó vừa qua 2 giờ chiều. Bức điện được gửi đi lúc 1 giờ 27 phút chiều giờ Washington. Nửa giờ sau, một bức điện khác của Herrick được chuyển đến, tổng kết các bằng chứng ủng hộ và bác bỏ vụ tấn công. Bức điện này kết luận: “Ý đồ ban đầu của họ phục kích ta đã rõ ràng, nhưng ngoài việc đó ra, toàn bộ sự việc đặt ra nhiều hoài nghi. Đề nghị máy bay trinh sát kỹ khi trời sáng”6. Còn ba hay bốn tiếng nữa trời mới sáng ở Vịnh Bắc Bộ, cuộc thăm dò sẽ tìm kiếm vết dầu loang và tàn tích của các tàu bị cho là đắm, những bằng chứng cho thấy đã thực sự xảy ra một cuộc tấn công chứ không phải là một cuộc giao tranh với những bóng ma trên màn hình rađa. Trong đầu tôi, hai bức điện này đã xóa tan tác động của vở kịch “trực tiếp” kéo dài hai tiếng đồng hồ mà chúng tôi đang theo dõi. Thông tin mới này như một gáo nước lạnh. Khoảng 3 giờ chiều, trả lời những yêu cầu xác nhận gấp gáp, Herrick điện lại: “Các chi tiết của vụ giao tranh còn mâu thuẫn, nhưng tôi chắc chắn ý đồ phục kích ta ban đầu là đã rõ ràng”7. Nhưng làm sao ông ta hay bất cứ ai khác có thể “chắc chắn” được khi mà chỉ một giờ trước đây thôi ông ta cũng tỏ ra rất tự tin trong những báo cáo trước đó? Đến 6 giờ chiều giờ Washington (tức 5 giờ sáng ở Vịnh Bắc Bộ), Herrick tiếp tục quả quyết rằng: “Có khả năng tàu đầu tiên tiến lại gần tàu Maddox đã phóng ngư lôi vào tàu Maddox. Quả ngư lôi này không được nhìn thấy mà được nghe thấy. Các báo cáo về ngư lôi sau đó của tàu Maddox có nhiều nghi vấn. Khả năng là nhân viên theo dõi hệ thống thủy âm đã nghe thấy tiếng chân vịt của chính tàu mình”. Nhưng việc Herrick thừa nhận các báo cáo sống động của mình là không đáng tin cậy đã làm lung lay mức độ chân thực của những thông điệp ban đầu và quả ngư lôi đầu tiên. Trong vài ngày sau đó, 24 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam khi càng nhiều bằng chứng phản biện xuất hiện, khả năng về một vụ tấn công thực sự ngày 4 tháng Tám càng mong manh. Đến năm 1967, chúng tôi gần như chắc chắn rằng vụ tấn công thứ hai không hề xảy ra và đến năm 1971 thì tôi không còn một chút nghi ngờ gì về điều này (Năm 1966, thông tin khai thác được từ những người lính Bắc Việt Nam từng tham gia cuộc tấn công ngày 2 tháng Tám đã bác bỏ vụ tấn công ngày 4 tháng Tám. Đến cuối thập niên 1970, nhà báo Anthony Austin đã tìm thấy và giao cho tôi bằng chứng về việc các bức điện tín chúng ta chặn lấy được của Bắc Việt Nam, từng được cho là xác nhận cuộc tấn công ngày 4 tháng Tám thực chất là đang nói đến cuộc tấn công ngày 2 tháng Tám. Cuối cùng, năm 1981, với các bằng chứng mới từ nhật ký hàng hải trên tàu của Herrick, nhà báo Robert Scheer đã thuyết phục được Herrick rằng niềm tin bấy lâu nay của ông ta với báo cáo về quả ngư lôi đầu tiên là không có căn cứ). Tuy nhiên, vào ngày 4 tháng Tám ấy, dựa trên sự khẳng định cương quyết của Herrick và nhiều thuyền viên khác trong vài giờ tiếp theo, tôi và bất kỳ ai tôi trao đổi ý kiến đều kết luận rằng chiều hôm đó nhiều khả năng đã có một hình thức tấn công nào đó. Nhưng đồng thời cũng rất có thể đã không có vụ tấn công nào. Trong hoàn cảnh đó, đề nghị của Herrick dừng lại và điều tra trước khi phản ứng là một đề nghị khôn ngoan, hay nói cách khác là: Cài số lùi, chặn cánh báo chí lại! Nhưng mọi chuyện đã không diễn ra như thế ở Washington vào chiều thứ Ba ấy. Các bức điện mới của Herrick chẳng hề làm chậm, dù chỉ một giây, quá trình chuẩn bị cho một cuộc không kích trả đũa ở cả Washington và Thái Bình Dương. Vụ không kích này cần diễn ra sớm nhất có thể, tốt nhất là khi trời vừa sáng ở Vịnh Bắc Bộ. Nhưng điều những bức điện ấy làm được là chúng đã làm dấy lên một cuộc tìm kiếm các bằng chứng và lời khai ủng hộ những mô tả ban đầu của Herrick về một vụ tấn công hay chí ít, xác nhận thực tế rằng một hình thức tấn công nào đó đã xảy ra. Khi các bằng chứng này đang trên đường đến Washington, Tổng thống đang họp với Hội đồng An ninh quốc gia (NSC) chủ yếu là nhằm Chương 1: Vịnh Bắc Bộ: Tháng Tám năm 1964 25 thông báo kế hoạch hành động dự kiến. Sau đó, Tổng thống sẽ thông báo vắn tắt cho lãnh đạo các viện Quốc hội. Các tàu sân bay đang tiến vào vị trí, sẵn sàng cho máy bay xuất kích khi trời vừa sáng hay sớm nhất có thể trong buổi sáng. Điều này có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào trong khoảng từ 6 giờ tối tới gần nửa đêm theo giờ Washington. Nhưng Tổng thống lại nhất quyết muốn thông báo cuộc tấn công này của Mỹ cho người dân trong nước ngay khi nó đang xảy ra. Ông ấy không muốn họ nghe được thông tin này vào bản tin buổi sáng hôm sau, tức là nhiều giờ sau khi cuộc tấn công trả đũa đã kết thúc và sau khi phần còn lại của thế giới ở những múi giờ sớm hơn đều đã biết về nó. Tuy vậy, hải quân lại lo ngại tuyên bố của Tổng thống sẽ cảnh báo các xạ thủ phòng không Bắc Việt Nam về nguy cơ bị tấn công trước khi máy bay Mỹ xuất hiện trên rađa của họ. Tổng thống cam kết điều này sẽ không xảy ra. Ngài yêu cầu được lên sóng lúc 7 giờ tối, sau đó kế hoạch lên sóng được đề nghị lùi lại tới 8 giờ tối, rồi 9 giờ tối, vì tàu sân bay Constellation vẫn chưa vào vị trí hay hoàn thành việc thông báo kế hoạch tác chiến cho phi công. Tổng thống nhất quyết không muốn lên sóng sau 11 giờ 30 phút vì sau thời điểm này, toàn bộ người dân ở Bờ Đông đã đi ngủ. Thông qua Bộ trưởng McNamara chuyển lời tới CINCPAC (Đô đốc Sharp ở Hawaii), Tổng thống đề nghị được lên sóng trước khi các máy bay đã bay trên đầu mục tiêu, có thể là ngay sau khi các máy bay đầu tiên bắt đầu cất cánh. Ông ấy hỏi: “Rađa của Việt Nam sẽ thấy chúng ngay chứ?”8. Và như thế, thông báo của ông ấy sẽ không bị coi là đánh động cho Hà Nội chứ? Câu trả lời là có, nhưng Hà Nội sẽ không biết các máy bay này đang bay đi đâu. Bởi thế, tuyên bố của Tổng thống không nên đề cập những con số và mục tiêu tấn công. Vào thời điểm này, trong tối hôm ấy, tôi đang ngồi tại văn phòng của John McNaughton cùng vị trợ lý, giám đốc phụ trách các vấn đề Viễn Đông và các nhân viên khác của ông. Chúng tôi đang đọc các bức điện từ tàu sân bay và CINCPAC về tiến trình chuẩn bị xuất kích tấn công và trợ giúp trả lời các câu hỏi từ Bộ trưởng McNamara hay Nhà Trắng. 26 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Chiếc tivi màn hình rộng trong văn phòng ngài Trợ lý được mở liên tục, nhưng chỉnh nhỏ tiếng, phòng trường hợp Tổng thống bất chợt lên sóng. Có tin cho hay, máy bay đã cất cánh, nhưng rồi lại có tin chúng vẫn chưa cất cánh; tuyên bố của Tổng thống được yêu cầu lùi lại cho tới khi máy bay đã xuất hiện trên màn hình rađa đối phương, nhưng yêu cầu này đến quá muộn. Vào lúc 11 giờ 20 phút đêm, Đô đốc Sharp (CINCPAC) báo với Bộ trưởng McNamara rằng tàu Ticonderoga đã cho máy bay xuất kích và Tổng thống đã lên sóng truyền hình lúc 11 giờ 37 phút đêm. Ông ấy tuyên bố rằng: “Một cuộc tấn công trên không đang diễn ra”9, mặc dù trên thực tế, tàu Constellation vẫn chưa cho máy bay cất cánh và chưa máy bay nào đến được bờ biển Bắc Việt Nam hay xuất hiện trên rađa đối phương. Do vậy, tuyên bố này đã đánh động Hà Nội và báo động này đã nhanh chóng được truyền đi. Hải quân kết luận: Chúng ta đã mất yếu tố bất ngờ. Sau nửa đêm, Bộ trưởng McNamara tổ chức họp báo ở Lầu Năm Góc. Chúng tôi thức trắng ở văn phòng đêm đó theo dõi các diễn biến về cuộc không kích để chuẩn bị cho một cuộc họp báo nữa của Bộ trưởng McNamara vào ngày hôm sau. Ngày làm việc chính thức đầu tiên của tôi tại Lầu Năm Góc kéo dài hơn 24 tiếng đồng hồ. * * * Qua tuyên bố của Tổng thống và cuộc họp báo của Bộ trưởng McNamara vào đêm muộn ngày 4 tháng Tám, công luận Mỹ được thông tin rằng: Chỉ trong hai ngày, miền Bắc Việt Nam đã hai lần tấn công chiến hạm Mỹ đang làm nhiệm vụ “tuần tra thường trực trên hải phận quốc tế”; rằng đây là rõ ràng một hành vi tái diễn “cố ý” và “vô cùng hung hăng”; rằng bằng chứng về vụ tấn công thứ hai cũng “không thể chối cãi” như ở vụ tấn công đầu tiên; rằng vụ tấn công diễn ra “vô cớ”; và để tránh mở rộng chiến tranh, Mỹ đã đáp trả nhằm tránh việc tái diễn các vụ tấn công tương tự. Chương 1: Vịnh Bắc Bộ: Tháng Tám năm 1964 27 Đến nửa đêm ngày 4 tháng Tám, hoặc chỉ một, hai ngày sau đó, tôi đã biết được rằng, những lời khẳng định này đều sai sự thật. “Không thể chối cãi”? Tuyên bố ban đầu của Tổng thống và mọi tuyên bố chính thức sau đó đều ám chỉ rằng vụ tấn công ngày 4 tháng Tám vào tàu chúng ta, nguyên nhân của vụ không kích trả đũa, là một sự thật hiển nhiên. Trên kênh chính thức, không có bất cứ sự ám chỉ nào, cả cho Quốc hội lẫn công luận, rằng khi hành động trả đũa này xảy ra, nhiều sĩ quan hải quân và chuyên gia phân tích tình báo có kinh nghiệm đã nghi ngờ mọi bằng chứng về việc xảy ra một vụ tấn công vào ngày 4 tháng Tám. Nhiệm vụ “tuần tra thường trực trên hải phận quốc tế”10? Hai tàu khu trục kể trên đang thực hiện một nhiệm vụ tình báo bí mật có mật danh là Cuộc tuần tra DeSoto và tiến sâu vào vùng biển mà Bắc Việt Nam coi là vùng lãnh hải của họ. Chúng ta đã giả định một cách chính xác rằng, giống như các nước cộng sản khác, Bắc Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền với vùng biển trong phạm vi 12 dặm (khoảng 19,3 kilômét) tính từ đường bờ biển và các đảo của họ. Mỹ không chính thức “công nhận” phạm vi mở rộng này. Tuy vậy, các tàu hải quân Mỹ được lệnh thận trọng giữ khoảng cách ít nhất 15 dặm (khoảng 24 kilômét) so với các đảo và đất liền Trung Quốc. Nhưng trước vụ việc ngày 2 tháng Tám, tàu Maddox thường xuyên ở vị trí cách đất liền Bắc Việt Nam 8 dặm (khoảng 12,8 kilômét) và cách các đảo của họ 4 dặm (khoảng 6,4 kilômét). Mục đích của việc này không chỉ nhằm thể hiện sự phản đối của chúng ta với tuyên bố chủ quyền của họ trên “vùng biển tự do đi lại” mà còn để khiêu khích họ bật rađa phòng thủ bờ biển, từ đó các tàu khu trục của chúng ta có thể lập sơ đồ hệ thống phòng thủ của họ, làm tiền đề cho các chiến dịch tấn công trên biển hay trên không sau này. Do đó, mặc dù đúng là vụ tấn công ngày 2 tháng Tám diễn ra cách bờ biển Bắc Việt Nam hơn 28 dặm (khoảng 45 kilômét), nhưng đó là bởi Bắc Việt Nam đã ra cảnh báo tấn công khi tàu Maddox chỉ cách bờ biển của họ 10 dặm (khoảng 16 kilômét). Điều này đã khiến thuyền trưởng 28 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam tàu Maddox thay đổi đường đi và quay ngược ra biển trong sự truy đuổi của các tàu phóng ngư lôi. “Vô cớ”11? Hà Nội đã cáo buộc rằng các lực lượng do Mỹ “giật dây” đã nã pháo vào hai đảo Hòn Mê và Hòn Niêu của họ trong đêm 30, sáng ngày 31 tháng Bảy. Trong các thông cáo của mình, Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố không hề hay biết về các vụ tấn công trên. Bộ trưởng McNamara cũng nhắc lại điều này trong các cuộc họp báo ngày 4 và 5 tháng Tám. Trong hai ngày sau đó, trong lời làm chứng trước các ủy ban Quốc hội tại các phiên điều trần kín, Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk và Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã thừa nhận họ có biết về những vụ tấn công này song nhất mực cho rằng không thể coi đây là những hành động khiêu khích của Mỹ nhằm khiến Bắc Việt Nam đáp trả hay là cái cớ hợp lý cho hành động của họ. Đó là bởi những vụ tấn công trên hoàn toàn là hành động của “Nam Việt Nam” được thực hiện bởi hải quân Nam Việt Nam với mục đích ngăn chặn sự thâm nhập của miền Bắc. Mỹ ủng hộ và biết về những vụ tấn công này. Nhưng, như Rusk khẳng định, hiểu biết của Mỹ chỉ dừng lại ở mức đại khái chứ không phải ở mức chi tiết, và không nhiều người ở Washington biết về chúng. Các vụ tấn công kể trên không liên quan gì đến hoạt động tuần tra của các tàu khu trục của ta, không có sự tham gia của ta và trên thực tế, chỉ huy của các tàu khu trục không hề biết về chúng. Lời làm chứng này cũng ám chỉ rằng, không có bất cứ vụ tấn công nào như thế xảy ra trước vụ tấn công thứ hai vào tàu khu trục của ta hoặc kể từ sau ngày 31 tháng Bảy. Lời làm chứng này đã không được điều tra làm rõ. Nghị quyết mà Quốc hội được đề nghị thông qua nhanh chóng và với mức độ tán thành cao nhất có thể đơn giản chỉ là một cử chỉ ủng hộ cho hành động của Tổng thống, thể hiện tinh thần đoàn kết trước Hà Nội và ngăn ngừa các vụ tấn công tương tự về sau này. Tất cả những khẳng định trên đều sai. Ở vị trí công việc mới, hàng ngày tôi đọc biên bản ghi chép những lời làm chứng bí mật kể trên. Đồng thời, qua các bức điện tín, báo cáo và thảo luận ở Lầu Năm Góc, tôi đã nhận ra sự thật đằng sau những Chương 1: Vịnh Bắc Bộ: Tháng Tám năm 1964 29 lời nói dối dành cho cả công chúng và ở mức độ tinh vi hơn là cho cả Quốc hội tại những cuộc họp bí mật. Chỉ trong vài ngày, tôi đã biết được rằng chỉ huy của đội tàu khu trục trên không chỉ biết về các chiến dịch đột kích bí mật kể trên, mà sau vụ việc đầu tiên vào ngày 2 tháng Tám, ông ta đã yêu cầu rút ngắn hay dừng các nhiệm vụ tuần tra vì lo ngại Bắc Việt Nam sẽ tấn công trả đũa các vụ đột kích trên. Yêu cầu của ông ta đã bị bác bỏ. Thêm vào đó, tôi được biết rằng đó không phải là các chiến dịch của Nam Việt Nam, thậm chí còn không phải những chiến dịch phối hợp. Chúng hoàn toàn là các chiến dịch của Mỹ, có mật danh là Chiến dịch 34A. Những chiến dịch chống lại hoạt động thâm nhập của miền Bắc do các lực lượng Nam Việt Nam tổ chức và thực hiện mà McNamara miêu tả chi tiết cho Quốc hội là những chiến dịch riêng biệt và hoàn toàn khác, theo những gì ông ấy biết. Trong các vụ đột kích vào Bắc Việt Nam mà Hà Nội đã công khai phản đối, Mỹ sở hữu các tàu tuần tra tốc độ cao được gọi là Nastys (được CIA mua từ Na Uy), thuê thủy thủ đoàn và kiểm soát mọi khía cạnh của các chiến dịch này. CIA chiêu mộ thủy thủ đoàn và tổ chức huấn luyện với sự giúp đỡ của hải quân Mỹ. Vài người trong số này được chiêu mộ từ hải quân Nam Việt Nam, nhưng số còn lại là “tài nguyên” của CIA từ Đài Loan và các nước châu Á khác cùng lính đánh thuê từ khắp nơi trên thế giới. Ban đầu, các chiến dịch này do CIA điều hành, nhưng hiện giờ chúng do CIA và Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) cùng điều hành, phối hợp tác chiến với hải quân. Dù sử dụng nhân lực nước ngoài nhằm giúp Mỹ có quyền phủ nhận các chiến dịch này nếu họ bị bắt, nhưng cũng như nhiệm vụ có mật danh Tuần tra DeSoto của các tàu khu trục, Chiến dịch 34A cũng hoàn toàn là hành động của Mỹ. Thêm vào đó, Bắc Việt Nam đã không nhầm khi tin rằng Mỹ đang tiến hành hai chiến dịch song song, hỗ trợ lẫn nhau ở nhiều khía cạnh. Ví dụ, để lập sơ đồ rađa bờ biển và nghe trộm liên lạc của Bắc Việt Nam, thời điểm của các tàu thực hiện nhiệm vụ Tuần tra DeSoto đã được tính toán sao cho có thể tận dụng, khai thác hoạt động tăng cường phòng thủ của Bắc Việt Nam trước hành động đột kích thuộc Chiến dịch 34A. 30 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Về hiểu biết của Washington đối với các chiến dịch này, các quan chức cấp cao đã đọc và đích thân ký duyệt bản dự trình thực hiện các chiến dịch đó dựa trên các miêu tả chi tiết một cách lạ thường về hoạt động dự kiến. Tôi sớm biết được điều này vì vào thời gian sau đó cũng trong cùng tháng ấy, tôi đã trở thành người mang những báo cáo bí mật này qua lại giữa các văn phòng ở Washington và xin chữ ký của những quan chức cấp cao trên. Những người này bao gồm Thứ trưởng Quốc phòng Cyrus Vance, Thứ trưởng Ngoại giao Llewellyn Thompson và cuối cùng là Cố vấn An ninh quốc gia McGeorge Bundy ở Nhà Trắng. Họ là những thành viên của Ủy ban 303 có chức năng giám sát và phê duyệt các chiến dịch bí mật cho Tổng thống. Trong lúc họ đọc những tài liệu này, tôi ngồi trong văn phòng của họ cùng một viên đại tá phục vụ cho bộ phận chiến dịch mật của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ (JCS), người trước đó đã mang những tài liệu này tới cho tôi. Có sự mâu thuẫn đáng kinh ngạc giữa lời làm chứng của các bộ trưởng trước các thượng nghị sĩ trong một phiên họp kín chung giữa Ủy ban Đối ngoại Thượng viện và Ủy ban Quân lực Thượng viện thể hiện trong bản ghi lời chứng mà tôi được đọc, với những gì tôi sớm được biết trong tuần đầu làm việc tại Lầu Năm Góc. Dưới áp lực của Thượng nghị sĩ Frank Church về việc thừa nhận “chính phủ chúng ta đã cung cấp các thuyền này”12 (cho Nam Việt Nam, theo những gì ông ấy được thông báo) trong khi biết rằng chúng sẽ được dùng để tấn công Bắc Việt Nam, Bộ trưởng Rusk đã trả lời: “Nhìn chung thì đúng vậy, nhưng xét cặn kẽ thì chúng tôi ở Washington không biết nhiều chi tiết cụ thể”13. Nhưng tôi biết rõ rằng, trái với lời phủ nhận trách nhiệm này, các quan chức cấp cao nhất ở Washington, cả quân sự và dân sự, đều biết và phê chuẩn mọi chi tiết của những chiến dịch này. Bản kế hoạch hằng tháng dành cho tháng Chín năm 1964, một tháng sau các chiến dịch vào tháng Tám mà tôi mang tới Bộ Ngoại giao cho ngài Thứ trưởng Rusk và sau đó là tới McGeorge Bundy ở Nhà Trắng đọc và ký duyệt bao gồm các chương trình hành động sau: Chương 1: Vịnh Bắc Bộ: Tháng Tám năm 1964 31 Hai nhiệm vụ bắt giữ thuyền; đưa những người bị bắt giữ khỏi thuyền để thẩm vấn trong 36-48 giờ; lén cài thiết bị chống nhiễu lên thuyền và thả thuyền đi; thả những người bị bắt giữ sau khi thẩm vấn; thời điểm tiến hành phụ thuộc vào điều kiện biển và thông tin tình báo hiện thời;... Phá hủy cầu trên Quốc lộ 1 do đội biệt kích tiến hành và các đội vũ trang yểm trợ, cài kíp nổ hẹn giờ nhanh vào các nhịp cầu và cửa cống, cài mìn sát thương tại phần tiếp giáp đường bộ;... Oanh tạc trạm quan sát Mũi Đao (Mũi Đốc) bằng súng cối 81mm và súng 40mm trên hai tàu tuần tra lớp Tjeld (PTF);... Phá hủy đường sắt đoạn Hà Nội - Vinh do đội biệt kích phá dỡ thực hiện với sự hỗ trợ của hai đội lính thủy đánh bộ VN (Nam Việt Nam), hai thuyền cao su xuất phát từ các tàu PTF; cài kíp nổ hẹn giờ nhanh và mìn sát thương trong khu vực xung quanh...14 Vài chi tiết trong số này, ví dụ như việc cài vũ khí sát thương và sử dụng đạn súng cối cỡ 81mm, thoạt nghe có vẻ như những thứ vụn vặt, không cần các quan chức cấp cao phải để tâm, nhưng đây lại là cuộc chiến duy nhất chúng ta đang tiến hành. Dĩ nhiên, chính tính chất “nhạy cảm” của những chiến dịch này - tính trái phép, nguy cơ bại lộ và dẫn đến leo thang cũng như tính lén lút của chúng được miêu tả hoa mỹ là “khả năng phủ nhận trách nhiệm hợp lý” - đã đòi hỏi những quan chức cấp cao này phải nói dối Thượng viện nếu nghi vấn xuất hiện và do vậy, đó cũng là lý do họ cần biết trước và làm chủ những chi tiết mà họ sẽ phải nói dối. Nhưng màn phối hợp ở Washington chưa dừng lại ở đây. Sau khi một chương trình hằng tháng như thế được thông qua, Tướng William Westmoreland, Tổng tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam, sẽ yêu cầu phê duyệt mỗi nhiệm vụ trên biển trong số này, và một lần nữa, tôi lại mang các tài liệu này đi xin chữ ký phê duyệt. Một tháng sau khi được Washington phê duyệt, một chiến dịch tấn công sẽ diễn ra, thời điểm cụ thể phụ thuộc vào thời tiết và điều kiện trên biển. Chiến dịch này cùng kết quả của nó sẽ được báo cáo về Washington trước khi Washington phê duyệt một chiến dịch tấn công khác. Vào ngày 2 tháng Tám, trong 32 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam buổi họp sáng Chủ nhật mà Tổng thống Johnson được thông báo về vụ tấn công giữa ban ngày vào tàu Maddox, đã có những thảo luận về kết quả của các vụ đột kích bí mật ngày 31 tháng Bảy lên các đảo của Bắc Việt Nam. Cũng trong buổi họp này, đích thân Tổng thống đã phê duyệt các chiến dịch đột kích bí mật tiếp theo vào các đêm 3 và 5 tháng Tám15. Vào tối 4 tháng Tám, trong một cuộc họp của Hội đồng An ninh quốc gia (NSC), Tổng thống hỏi: “Bọn họ muốn gây chiến hay sao mà tấn công tàu của ta ở giữa Vịnh Bắc Bộ?”16. Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) John McCone trả lời: “Không, đây là những phản ứng phòng thủ của Bắc Việt Nam trước hành động tấn công của ta vào các đảo ngoài khơi của họ. Họ phản ứng vì lòng kiêu hãnh và dựa trên những cân nhắc về phòng thủ”. Ý ông ấy muốn nói đến vụ đột kích ngày 31 tháng Bảy, nhưng câu trả lời của ông ấy cũng bao hàm một cuộc đột kích khác diễn ra vào đêm trước đó, lần này là vào đất liền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, nhận định này cũng không ngăn được Tổng thống phát biểu như sau trong thông điệp kêu gọi Quốc hội thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ vài ngày sau đó: “Chúng ta đã đáp trả hành động hung hăng vô cớ của họ...”. Ngày 7 tháng Tám, Quốc hội đã phê chuẩn Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, trong đó ghi: “Quốc hội tán thành và ủng hộ quyết định của Tổng thống, trên cương vị Tổng tư lệnh quân đội, dùng mọi biện pháp cần thiết để đẩy lùi mọi hành động tấn công vũ trang vào lực lượng Mỹ và để ngăn chặn việc tiếp diễn hành động hung hăng... Nước Mỹ... sẵn sàng, theo nguyện vọng của Tổng thống, thực hiện mọi bước đi cần thiết, bao gồm sử dụng lực lượng vũ trang, để hỗ trợ mọi nước thành viên hay nước đã thông qua nghị định thư của Hiệp ước Phòng thủ tập thể Đông Nam Á nếu các nước này yêu cầu được hỗ trợ bảo vệ nền tự do của nước mình”17* 1. * Phần in nghiêng là nhấn mạnh của tác giả. Chương 1: Vịnh Bắc Bộ: Tháng Tám năm 1964 33 Đã có quan ngại về mức độ đại khái và mập mờ bất thường của nghị quyết do chính phủ soạn thảo này. Thượng nghị sỹ W. Morse gọi đó là một lời tuyên chiến đề lùi ngày. Thượng nghị sĩ Gaylord Nelson thì đề nghị thông qua một điều khoản sửa đổi, trong đó nêu “chính sách lâu dài của chúng ta là hạn chế vai trò của chúng ta ở việc cung cấp viện trợ, hỗ trợ huấn luyện và cố vấn quân sự”, và “chúng ta nên tiếp tục cố gắng tránh can thiệp quân sự trực tiếp vào cuộc xung đột ở Đông Nam Á”. Thượng nghị sĩ Fulbright, người chỉ đạo việc thông qua nghị quyết này ở Thượng viện, cho biết ông tin rằng điều khoản sửa đổi này là thứ “không ai có thể phản đối” ở việc cho rằng “đó là sự phản ánh chính xác điều tôi tin là chính sách của Tổng thống”. Ông ấy bác bỏ nó chỉ vì (theo như Tổng thống Johnson đã nhấn mạnh riêng với ông ấy) việc chậm trễ thông qua nghị quyết này để giải quyết những khác biệt trong ngôn từ giữa Thượng viện và Hạ viện sẽ làm suy yếu hình ảnh khối đoàn kết chung ủng hộ các động thái gần đây của Tổng thống. Vào thời điểm này, sau 40 phút tranh luận, Hạ viện đã thông qua nghị quyết với 416 phiếu thuận và 0 phiếu chống. Fulbright hy vọng rằng Thượng viện cũng sẽ đạt được sự đồng thuận như vậy. Không lâu sau đó, Thượng viện bỏ phiếu với kết quả 88 phiếu thuận và 2 phiếu chống. Thượng nghị sĩ Morse và Thượng nghị sĩ Earnest Gruening là hai người duy nhất bỏ phiếu chống. Một số thượng nghị sĩ, bao gồm George McGovern, Frank Church, Albert Gore, cũng như Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa John Sherman Cooper cũng chia sẻ mối quan ngại của Nelson. Thượng nghị sĩ Fulbright thừa nhận rằng ngôn ngữ của nghị quyết đủ bao quát để cho phép Tổng thống tiến hành can thiệp quân sự trực tiếp, kể cả điều động nhiều sư đoàn bộ binh Mỹ, và đây là điều khiến họ lo ngại. Nhưng họ đã chấp nhận lời cam đoan của Fulbright - sau khi ông này đã trao đổi với nhiều quan chức, trong đó có cả Tổng thống - rằng chính quyền đương nhiệm không hề có ý định sử dụng nghị quyết này như sự ủy quyền cho phép thay đổi vai trò của Mỹ trong cuộc chiến. 34 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Thượng nghị sĩ Fulbright “tin chắc rằng Tổng thống sẽ thảo luận với Quốc hội nếu cần có một thay đổi lớn trong chính sách hiện tại”18. Phần lớn phe Dân chủ coi nghị quyết này là biểu tượng mạnh mẽ cho sự ủng hộ của cả hai đảng với các hành động quyết liệt của Tổng thống, góp phần bác bỏ tuyên bố tranh cử của Thượng nghị sĩ Goldwater rằng Tổng thống Johnson còn ngập ngừng trong chính sách ngoại giao và chưa quyết đoán trong vấn đề Việt Nam. Bởi vậy, thông qua việc giúp Tổng thống đánh bại Goldwater, họ coi việc ủng hộ nghị quyết này là cách để tránh leo thang ở Việt Nam, điều mà mới chỉ có Goldwater lên tiếng cam kết thực hiện. Nhưng mọi lời bảo đảm của Fulbright cũng thiếu căn cứ giống như những gì Tổng thống Johnson, Rusk và McNamara đã nói. Điều khác biệt là ở chỗ ông ấy không biết điều này. Ông ấy đã bị lừa dối, và đến lượt mình, ông ấy lại vô tình nói dối Thượng viện. Trong những lời nói dối của tuần ấy, đây là những lời nói dối có tác động quan trọng nhất. Chúng ta không muốn mở rộng chiến tranh? Nhưng mùa Hè năm ấy, Tổng thống đã bí mật và không úp mở đe dọa chính quyền Hà Nội về việc mở rộng chiến tranh với Bắc Việt Nam, trừ khi giới lãnh đạo Hà Nội có những động thái nhằm chấm dứt cuộc chiến - điều mà không ai trong chính quyền Mỹ cho là Hà Nội sẽ làm. Thông qua một kênh trung gian Canađa, Tổng thống Johnson gửi thông điệp bí mật tới Hồ Chí Minh với nội dung đe dọa mở rộng chiến tranh nếu giới lãnh đạo Hà Nội không làm gì đó để chấm dứt xung đột. Những cảnh báo này được gửi tới Bắc Việt Nam thông qua Blair Seaborn - một quan chức Canađa, thành viên của Ủy ban Quốc tế về Giám sát và Kiểm soát tại Việt Nam (ICC), tổ chức ra đời nhằm giám sát việc tuân thủ Hiệp định Giơnevơ năm 1954 và 1962. Trong cuộc gặp đầu tiên tại Hà Nội vào ngày 18 tháng Sáu, ông này đã gặp riêng Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Seaborn đã chuyển lời cảnh báo do các quan chức Mỹ soạn thảo với sự hỗ trợ của những người Canađa, rằng “sự nhẫn nại của công luận và chính quyền Mỹ trước động thái gây hấn Chương 1: Vịnh Bắc Bộ: Tháng Tám năm 1964 35 của Bắc Việt Nam đang dần vơi cạn”19, và nếu xung đột leo thang, thì “bên chịu thiệt hại nặng nề nhất sẽ chính là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hay Bắc Việt Nam”. Trong số những người hậu thuẫn cảnh báo này, chủ yếu là các cố vấn quân sự và dân sự của Tổng thống, không ai dám coi đó chỉ là trò bịp bợm. Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đã được lệnh soạn thảo kế hoạch chi tiết không kích Bắc Việt Nam. Tới cuối tháng Năm, Hội đồng đã hoàn tất các nghiên cứu và khâu chuẩn bị, trình hồ sơ về 94 mục tiêu trong danh sách ưu tiên tấn công. Các mục tiêu tấn công trả đũa nhanh chóng được chọn vào ngày 5 tháng Tám thực chất là đều từ danh sách này. Cả quy trình lập kế hoạch đó và việc gửi lời đe dọa qua trung gian Canađa, đều được tính toán trong những kịch bản chi tiết đã được chính phủ soạn thảo từ tháng Ba và tháng Tư - gần đây nhất là vào ngày 23 tháng Năm - hướng tới một chiến dịch theo kiểu D-Day20 (“Ngày đổ bộ Normandy”) nhằm vào Bắc Việt Nam, sẽ tiếp diễn cho tới khi “những hành động khủng bố, tấn công vũ trang và nổi dậy có vũ trang chống lại các nỗ lực bình định ở miền Nam chấm dứt”. Một yếu tố then chốt nữa dự kiến diễn ra 20 ngày trước chiến dịch không kích là: “Đạt được một nghị quyết chung [từ Quốc hội] phê chuẩn những hành động trước đây và cho phép thực hiện bất cứ hành động cần thiết nào liên quan đến Việt Nam”. Mặc dù vào cuối tháng Năm, những cố vấn hàng đầu của Tổng thống đã bác bỏ cách tiếp cận theo kịch bản chi tiết kéo dài 30 ngày này, nhưng cũng trong tháng ấy, họ vẫn khuyến khích Tổng thống có những động thái được kịch bản bày ra trước khi tiến hành không kích21. Họ còn đề xuất thực hiện một chiến dịch tấn công ban đầu nhằm nhấn mạnh sức nặng của lời cảnh báo bí mật trên. Đề xuất này được đưa ra sau đề nghị của Đại sứ Henry Cabot Lodge tại Sài Gòn, người ủng hộ mạnh mẽ hoạt động tấn công nhằm vào Bắc Việt Nam. Trước đó, vào mùa Xuân năm ấy (1964 - BT), chính đại sứ là người đã đề nghị sử dụng Canađa làm trung gian truyền tin. Ngày 15 tháng Năm, trong một thông điệp gửi Tổng thống, ông ấy đề xuất: 36 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam “Nếu bất cứ hành động khủng bố với quy mô đáng kể nào xảy ra trước chuyến đi Hà Nội của người Canađa, thì tôi đề nghị chúng ta cân nhắc tấn công một mục một tiêu cụ thể ở Bắc Việt Nam để làm tiền đề cho cuộc viếng thăm này...”22. Điều này đã không diễn ra trước lần đến Hà Nội đầu tiên của Seaborn vào tháng Sáu. Nhưng lần đến thứ hai dự kiến sẽ diễn ra vào ngày 10 tháng Tám và nếu Hà Nội còn hoài nghi cảnh báo này, thì những sự kiện diễn ra từ ngày 2 đến ngày 7 tháng Tám đã cho phép Mỹ thể hiện rõ ràng ý nghĩa của lời cảnh báo ấy. Thêm vào đó, nếu Hà Nội lỡ tin vào lời giải thích của Thượng nghị sĩ Fulbright dành cho các đảng viên Dân chủ khác, thì chuyến thăm thứ hai này, chính quyền đương nhiệm cũng sẽ làm rõ những gì họ cho là có thể làm nhờ sự cho phép của Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ. Để đạt được các mục này, sếp mới của tôi là John McNaughton đã được yêu cầu soạn thảo chỉ dẫn cho cuộc gặp ngày 10 tháng Tám của Seaborn. Đó là lý do McNaughton quyết định kể với tôi về lời đe dọa của Mỹ đối với Hà Nội và cho tôi đọc tài liệu về quy trình thực hiện việc đó. Ông ấy miêu tả đây là một trong những bí mật được giữ kín nhất trong chính quyền đương nhiệm. Ông ấy cũng yêu cầu tôi không tiết lộ về quy trình này với ai, kể cả bất kỳ cấp phó nào của ông ấy. Theo McNaughton, lý do quy trình này cần được giữ kín là bởi việc một quan chức ICC giữ vai trò trung gian chuyển lời đe dọa của Mỹ tới Hà Nội là một hành vi rất thiếu minh bạch (Chúng ta cần một bên trung gian vì Mỹ không có đại diện hay liên lạc chính thức với chính quyền Hà Nội). Không thể để lộ vai trò này cho các nước thành viên khác của ICC là Ba Lan và Ấn Độ, hay cho Quốc hội và công luận Canađa, những người sẽ không dễ dàng chấp nhận điều này như Thủ tướng Canađa Lester Pearson. Nhưng khía cạnh “nhạy cảm” nhất ở đây nằm ở chỗ: Lời cảnh báo chính thức của Tổng thống Mỹ tới nguyên thủ một nước đối đầu đưa ông ấy rất gần tới một đường lối hành động mà đối thủ tranh cử phe Cộng hòa của Tổng thống Johnson là Thượng nghị sĩ Goldwate ủng hộ đang tiến Chương 1: Vịnh Bắc Bộ: Tháng Tám năm 1964 37 hành, hay cũng là điều mà Tổng thống Johnson đã lên tiếng phản đối và coi là hành động nguy hiểm, liều lĩnh trong chiến dịch tranh cử của mình. Thêm vào đó, điều này sẽ làm lộ ý đồ của chính quyền đương nhiệm về Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ theo cách trái ngược hoàn toàn với những gì người ta thông báo với Quốc hội. Thực vậy, ngày 7 tháng Tám, trong lúc Quốc hội bỏ phiếu thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, John McNaughton cũng đang soạn thảo chỉ dẫn về thông điệp mà Seaborn nêu (và sau đó đã làm gửi tới Hà Nội) và thông điệp này trái ngược hoàn toàn với hai điều khoản chính trong Nghị quyết mà trước đó chính quyền đã khuyến khích Thượng nghị sĩ Fulbright chuyển tới các thượng nghị sĩ khác. Dự thảo của McNaughton, sau đó đã được chính phủ Mỹ thông qua và người Canađa đã sử dụng, yêu cầu Seaborn chốt lại những phát biểu của mình bằng những ý sau: a. Các sự kiện trong vài ngày qua chứng tỏ độ đáng tin cậy của phát biểu đưa ra trước đó, rằng “sự nhẫn nại của công luận và chính quyền Mỹ trước động thái gây hấn của Bắc Việt Nam đang dần vơi cạn”23. b. Sự ủng hộ gần như tuyệt đối của Quốc hội dành cho Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ đã tái khẳng định tinh thần đoàn kết và quyết tâm của chính phủ và nhân dân Mỹ không chỉ trong vấn đề khả năng tấn công nhằm vào lực lượng quân sự Mỹ trong tương lai, mà rộng hơn là việc Mỹ sẽ tiếp tục phản đối mạnh mẽ bằng mọi biện pháp cần thiết các nỗ lực của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm lật đổ chế độ và thâu tóm Nam Việt Nam và Lào. c. Mỹ nhận định Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đóng vai trò then chốt trong vấn đề Nam Việt Nam và Lào. Nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngoan cố theo đuổi chủ trương hiện thời, họ có thể sẽ phải... hứng chịu hậu quả. Theo báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ, phản ứng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào ngày 13 tháng Tám là “hết sức giận dữ” và lạnh lùng. Và không hề nao núng, giống như ở cuộc gặp đầu tiên (khi cuộc trao đổi 38 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam còn thân thiện, bất chấp lời đe dọa), ông nói: Tương lai của Mỹ và đồng minh ở Nam Việt Nam là “vô vọng”24, ở ngõ cụt, không lối thoát. Giờ đây, sau những sự kiện đột kích của Mỹ, ông nhận định rằng Mỹ đã nhận thức được “cần phải mở rộng chiến tranh ra miền Bắc mới hòng tìm được lối thoát khỏi thế bế tắc... ở miền Nam”25. Ông ấy đã hiểu đúng thông điệp của Mỹ (Lời đe dọa này tiếp tục là một bí mật với cử tri và Quốc hội Mỹ trong tám tháng sau đó). Một cuộc chiến tranh quy mô hơn đang dần hiện hữu. Chương 2 Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật Sau màn giới thiệu đầy thất vọng về vấn đề Việt Nam vào năm 1961, trong ba năm tiếp theo, trên cương vị chuyên gia tư vấn quốc phòng, tôi đã thành công trong việc giữ khoảng cách với vấn đề này. Điều ấy cũng dễ thôi. Là chuyên gia phân tích tại Rand Corporation và chuyên gia tư vấn cho Washington, trọng tâm công việc của tôi là tiếp nối những gì đã bắt đầu từ ba năm trước đó: Tránh để xảy ra chiến tranh hạt nhân toàn diện trong bối cảnh Chiến tranh lạnh. Chuyến công tác ngắn đến Đông Nam Á cũng là một phần trong đó, phục vụ việc nghiên cứu và phát triển các loại vũ khí truyền thống trong chiến tranh hạn chế, thoát ly khỏi chính sách sử dụng vũ khí hạt nhân trong mọi cuộc chiến của chính quyền Eisenhower. Nhưng đối với tôi đó cũng chỉ là một ngã rẽ hiếm hoi khỏi những mối quan tâm thường trực của mình: Ngăn chặn Liên Xô đột kích hạt nhân và tránh bùng nổ chiến tranh hạt nhân bất ngờ. Mặc dù tôi có được mời tham gia tư vấn hay đóng góp ý kiến vào các cuộc thảo luận tại nhiều cơ quan, phòng ban chính phủ ở Washington, nhưng nội dung toàn là về chính sách vũ khí hạt nhân và biện pháp ngăn chặn. Không ai mời tôi tham gia hay giúp đỡ điều gì liên quan đến vấn đề Việt Nam. Đó không phải là việc của tôi và tôi mừng là mình đã giữ cho mọi thứ cứ trôi đi như thế. Ấy vậy mà, tới giữa năm 1964, tôi đã nhận lời chuyển công tác từ Rand sang Bộ Quốc phòng để hỗ trợ một quan chức cấp cao đang 40 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến hoạch định chính sách về Việt Nam. Tôi cũng phải giải thích thêm về việc này là tôi không hề thấy hứng thú hơn với vấn đề Việt Nam, cũng không cảm thấy lạc quan hơn về triển vọng của chúng ta ở đó. Ngược lại, chỉ sau vài tuần trên cương vị mới, những bức điện mật từ đại sứ quán của chúng ta ở Sài Gòn gửi về mà tôi được đọc đã xác nhận hoài nghi bi quan nhất của tôi về tình hình ở Việt Nam và điều này cũng không khiến tôi ngạc nhiên. Trong mọi công việc ở chính phủ, tại sao tôi lại chọn công việc buộc tôi phải đọc chính những bức điện đáng thất vọng ấy? Điều gì đã khiến tôi gắp con cá ươn này vào đĩa mình? Theo quan điểm của tôi thì đó là nhiệm vụ nghiên cứu. Mặc dù thoạt nhìn qua thì không phải vậy, nhưng thực chất tôi vẫn đang tiếp tục thực hiện công việc mà tôi đã khởi sự sáu năm trước đó là nghiên cứu phòng tránh chiến tranh hạt nhân. Chắc chắn là tôi chẳng thể ngờ rằng ba năm sau ngày đặt chân đến Việt Nam, tôi đang phải làm việc 70 giờ một tuần tại Lầu Năm Góc để giúp nước Mỹ lén lút đưa chiến tranh vào Việt Nam. Những công việc tôi làm trong suốt hơn sáu năm trước chuyến công tác tới Việt Nam, về những kế hoạch chuẩn bị ứng phó với một cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện, cũng là công việc kỳ lạ không kém nếu xét đến lý lịch của tôi. Điều này mâu thuẫn hoàn toàn với thái độ thù ghét của tôi - ngay khi tôi còn là một đứa trẻ trong Chiến tranh thế giới thứ hai - đối với việc đánh bom dân thường và sự ghê tởm cực độ đối với vũ khí hạt nhân, ví như những trái bom chúng ta đã thả xuống vào cuối Thế chiến đó. Những thái độ đó luôn là hằng số bất biến trong suốt cuộc đời tôi chứ không phải những thay đổi bất chợt ở tuổi trung niên và chúng chính là yếu tố góp phần định hình lối phản ứng sau này của tôi với cuộc chiến ở Việt Nam. Tôi sinh năm 1931 ở Chicago, con trai một kiến trúc sư thất nghiệp. Năm tôi năm tuổi, nhà tôi chuyển tới Springfield, Illinois. Vài năm sau, chúng tôi lại chuyển tới Detroit. Tôi còn nhớ như in thông báo trên đài phát thanh về cuộc tấn công vào chiến hạm của Mỹ Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 41 ở Trân Châu Cảng năm tôi 10 tuổi. Sau ngày ấy, trong những năm chiến tranh, cha tôi làm công việc thiết kế các nhà máy chế tạo máy bay ném bom. Tôi cũng nhớ như in các bộ phim và bài tường thuật trên đài phát thanh về các vụ đánh bom, chủ yếu là vào dân thường, trong suốt hai năm trước đó. Các thước phim thời sự về việc phát xít Đức ném bom Warsaw, máy bay Stuka bắn phá và thả bom xuống đầu các gia đình tị nạn mang theo con nhỏ nheo nhóc trên đường, trung tâm thành phố Rotterdam bị phá hủy hoàn toàn và hơn tất thảy là hành động ném bom London. Những hình ảnh tột cùng này đã lột trần bản chất của Đức Quốc xã trong mắt tôi. Không có bất cứ điều gì, kể cả hành động xâm lược của Đức, hoạt động tấn công chớp nhoáng, việc hành quyết người Do Thái trước chiến tranh (lúc ấy tôi còn chưa biết về chương trình diệt chủng người Do Thái trong chiến tranh) lại xấu xa và không thể biện hộ được như hành động cố tình ném bom nhằm vào phụ nữ và trẻ em. Cũng không phải những trại tập trung mà tôi biết nếu ở Đức gia đình tôi sẽ bị đưa vào (Mặc dù cha mẹ tôi đều sinh ra ở Mỹ và lớn lên ở Denver trong những gia đình không theo tôn giáo, nhưng ông bà nội, ngoại của tôi đều là người Do Thái rời Nga đến Mỹ trong những năm cuối thập niên 1880. Mẹ tôi chuyển sang theo hệ phái Khoa học Cơ Đốc (Christian Science) trước khi cưới cha tôi - một người đàn ông góa vợ mà bà quen từ hồi còn nhỏ ở Denver - và cha tôi cũng trở thành một tín đồ ngoan đạo của hệ phái tôn giáo đó trước khi tôi sinh ra. Như cha tôi vẫn thường nói, dù “không theo đạo” nhưng chúng tôi vẫn là người Do Thái. Tôi được nuôi dạy như một người Cơ Đốc, trong một gia đình tín đồ Khoa học Cơ Đốc ngoan đạo, nhưng điều đó cũng không làm mai một cội nguồn Do Thái trong mắt cha mẹ tôi, hay như tôi biết, trong mắt Đức Quốc xã). Sau sự kiện Trân Châu Cảng, trường phổ thông chúng tôi tổ chức tập huấn đề phòng không kích. Một ngày nọ, giáo viên cho chúng tôi xem một đoạn phim về hoạt động ném bom London và phát cho chúng tôi mô hình một quả bom cháy ngắn, dẹt và màu bạc. Loại bom này chuyên 42 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam phát và lan lửa. Chúng tôi được dạy rằng đây là bom magiê, lửa của nó không dập được bằng nước. Ta phải xúc cát đổ lên nó để nó không tiếp xúc với ôxy nữa. Vì thế, mỗi phòng học có một xô đầy cát. Tôi hiểu đây là một cách để chúng tôi hòa mình vào không khí chiến tranh giống như những chiếc rèm che ánh sáng được treo trên các cửa sổ hay các tổ canh phòng máy bay và lính phòng không tại các tòa nhà. Bởi giờ nghĩ lại thì khả năng máy bay ném bom của Đức hay Nhật Bản bay được đến Detroit là rất nhỏ. Nhưng bom cháy đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong tôi. Thật khó tin rằng con người lại đang thiết kế và trút những thứ phát cháy không dễ bị dập tắt lên đầu những người khác, những chất mà theo những gì chúng tôi được dạy, cháy cả qua da thịt và ngay cả khi đó cũng không ngừng cháy. Tôi không thể hiểu được tại sao lại có những người sẵn sàng đốt cháy trẻ em như thế. Đến giờ, tôi vẫn không hiểu. Thời gian về sau, tôi được xem những thước phim thời sự miêu tả các máy bay Mỹ và Anh dũng cảm vượt qua hỏa lực phòng không để ném bom xuống các mục tiêu ở Đức. Lúc ấy tôi không hề biết rằng nhiều quả bom trong số ấy cũng chính là thứ bom mà chúng tôi được phát mô hình ở trường, sử dụng những chất có đặc tính tương đương như bom cháy, bén sâu vào da thịt con người mà cháy - Phốtpho trắng và về sau là Napan. Chúng tôi cũng không được xem hình ảnh về những con người mắc kẹt dưới mưa bom hay biển lửa ở Hamburg, Dresden và Tokyo. Chúng tôi tin vào những gì được dạy, rằng: Sử dụng máy ngắm mục tiêu ban ngày Norden có độ chính xác cao, quân ta chỉ ném bom vào những nhà máy phục vụ chiến tranh và mục tiêu quân sự, dẫu rằng tổn thất cho dân thường là không thể tránh khỏi. Đó cũng là điều mà giới lãnh đạo Anh phát biểu với công chúng nước mình về chiến dịch thả bom “theo khu vực” vào ban đêm của họ, dù cho đó hoàn toàn là lời nói dối. Những bí mật và lời nói dối của chính quyền ấy đều nhằm che đậy một chiến dịch của nước Anh cố ý ném bom uy hiếp nhằm trực tiếp vào dân thường. Trong những năm sau đó, Mỹ đã tham gia vào chiến dịch này trong một số đợt ném bom xuống Đức và toàn bộ hoạt động ném bom xuống Nhật Bản. Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 43 Nói tóm lại, tôi đã không hề biết rằng, chúng ta đang bắt chước gần như triệt để hành động ném bom của Đức Quốc xã, đặc biệt là khi ném bom các thành phố của Nhật Bản. Không phải ngẫu nhiên mà trong những năm về sau, tôi đã tập trung nghiên cứu khá chi tiết lịch sử ném bom chiến lược, trong đó bao gồm tài liệu Khảo sát ném bom chiến thuật Mỹ. Tôi đồng tình với kết luận của nhiều nhà chỉ trích đương thời rằng cả việc ném bom uy hiếp hay ném bom chính xác vào các nhà máy đều không giúp rút ngắn chiến tranh, trong khi ném bom uy hiếp rõ ràng là một tội ác chiến tranh mà cả chúng ta và Đức Quốc xã đều đã thực hiện. Ngay từ trước khi tham gia hoạt động nghiên cứu này, hành động cố tình ném bom xuống đầu dân thường ở hai thành phố Hiroshima và Nagasaki đã khiến tôi có những giác rất mâu thuẫn về việc sở hữu vũ khí hạt nhân của chúng ta. Theo tôi thấy, trên hết, chúng đã trở thành những công cụ cho hoạt động ném bom uy hiếp. Các nghiên cứu sau này càng khiến tôi hoài nghi mọi tuyên bố ủng hộ việc ném bom chiến thuật, ở Việt Nam hay bất kỳ nơi đâu. Ấy vậy mà, 15 năm sau, tôi lại đang soạn thảo chỉ dẫn cho những kế hoạch tác chiến, trong đó bao gồm khả năng tấn công trả đũa bằng vũ khí nhiệt hạch nhằm vào các thành phố. Nguyên nhân của nghịch lý này cũng như của hành trình tôi tới Việt Nam bắt nguồn từ những năm cập kê độ tuổi hai mươi của tôi. Khi ấy, giống như nhiều người Mỹ khác, tôi đã trở thành một chiến binh Chiến tranh lạnh. Điều này xảy ra không phải bởi tôi được nuôi dạy để trở thành một người theo đường lối bảo thủ như cha tôi. Tôi là một người theo đường lối Đảng Dân chủ, ủng hộ tự do và Chiến tranh lạnh. Tôi đặc biệt kính trọng Franklin Roosevelt vì vai trò của ông ấy trong Chính sách kinh tế mới (New Deal) và Chiến tranh thế giới thứ hai. Tôi ủng hộ sự nghiệp của các phong trào công đoàn và nhân quyền. Tôi bắt đầu chú ý tới hai vấn đề này nhờ anh trai cùng cha khác mẹ của tôi, Harry. Anh ấy lớn hơn tôi 11 tuổi và tiếp thu quan điểm cấp tiến trong thời kỳ Đại suy thoái. Hồi tôi đang học trung học, nhân dịp Giáng sinh, anh ấy tặng tôi một cuốn sách giáo khoa về kinh tế và giới thiệu với tôi 44 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam cuộc đấu tranh của tầng lớp lao động. Lúc ấy, tôi đang theo học trường Cranbrook, thành phố Bloomfield Hills theo học bổng toàn phần. Nhiều phụ huynh học sinh trong trường là lãnh đạo cấp cao của các tập đoàn xe hơi ở Detroit, những người đứng ở phía bên kia của cuộc đấu tranh. Nhưng khi tôi tốt nghiệp vào tháng Sáu năm 1948, người hùng của tôi lúc ấy là Walter Reuther1* và tôi nóng lòng muốn được tham gia Liên đoàn thống nhất công nhân ngành tự động (UAW) làm việc tại một nhà máy sản xuất ôtô vào mùa Hè năm đó trước khi vào đại học. Ở tuổi 17, tôi phải có sự đồng ý của cha thì mới được tham gia nghiệp đoàn. Tuy cha tôi ủng hộ Đảng Cộng hòa và không thích nghiệp đoàn nhưng ông vẫn đồng ý. Nhờ thế, tôi trở thành một công nhân vận hành máy đột dập ca đêm và tham dự các buổi họp công đoàn. Trước đó, tôi đã giành được học bổng toàn phần bốn năm của Công ty Pepsi-Cola để theo học một trường đại học bất kỳ và tôi đã chọn Harvard vì nghe nói khoa kinh tế ở đó rất tốt. Tôi theo học khoa kinh tế ở Harvard, tập trung vào vấn đề lao động, với dự định trở thành một nhà tổ chức nghiệp đoàn hay một nhà kinh tế học công đoàn. Nhận thức của tôi về chính sách ngoại giao thời kỳ hậu chiến bắt đầu cùng thời điểm với mối quan tâm của tôi dành cho kinh tế và người lao động. Đó là khi Học thuyết Truman được công bố vào mùa Xuân năm 1947, khi tôi đang học trung học. Trong những năm sau này, theo dõi tin tức về cuộc đảo chính của phe cộng sản ở Tiệp Khắc, những chính quyền theo đường lối Stalin, những phiên tòa chính trị ở Nga và Đông Âu, cuộc phong tỏa Berlin, và sau này là chiến dịch tấn công của Bắc Triều Tiên và những cuộc nổi dậy ở Đông Âu, tôi dần đi đến chấp nhận mọi tiền đề và thái độ chiến tranh lạnh. Những tiền đề và thái độ này không chỉ dừng lại ở việc thù ghét những chế độ đàn áp theo đường lối Stalin, thái độ mà tới giờ tôi vẫn giữ, bất kể là ở Liên Xô và * Walter Reuther (1-9-1907 - 9-5-1970) là một nhà lãnh đạo Công đoàn Mỹ, người sáng lập Tổ chức Công đoàn ngành xe hơi Mỹ. Ông là người có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa (BT). Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 45 Đông Âu, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cuba hay Việt Nam. Điều khó hiểu là, khi nhìn lại, những tiền đề này cho thấy sợi dây liên kết giữa hầu hết mọi cuộc “khủng hoảng” với tình thế đối đầu của chúng ta với Liên Xô. Chúng cũng cho thấy sợi dây liên kết giữa tình thế đối đầu ấy với thử thách chúng ta từng phải đối mặt trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Có lẽ, tiền đề cơ bản chính là việc đánh đồng Stalin với Hitler không chỉ trong các biện pháp đối nội chuyên chế (với những điểm tương đồng rõ ràng) mà còn trong mối đe dọa của hai nhân vật này tới nền tự do thế giới, đặc biệt là với Tây Âu và Mỹ, nguy cơ họ tiến hành xâm lược quân sự, cũng như sự cần thiết phải đối phó với họ thông qua chuẩn bị quân sự, cảnh giác cao độ và sẵn sàng phòng thủ chung. Đặc biệt, như sự sắp xếp của định mệnh, việc đánh đồng Stalin với Hitler đã tất yếu dẫn tới thái độ loại trừ mọi ý tưởng đàm phán với các chính quyền cộng sản để giải quyết xung đột hay kiểm soát vũ khí. Từ đây và cho tới những năm sau này, tôi nhìn nhận mình là một người theo đường lối của một đảng viên Đảng Dân chủ ủng hộ Học thuyết Truman: Chủ trương tự do trong vấn đề trong nước nhưng thực tế và cứng rắn có chừng mực trong việc đối phó với Liên Xô. Một chiến binh Chiến tranh lạnh ủng hộ tư tưởng tự do, ủng hộ giai cấp lao động và bài trừ cộng sản, giống như các thượng nghị sĩ Hubert Humphrey, hay sau này là Henry Jackson và chính Walter Reuther. Tôi đánh giá cao hành động gửi máy bay thả than và lương thực cứu trợ người dân Berlin của Truman và phản ứng của ông trước sự việc được nhìn nhận là hành động gây hấn trắng trợn ở Triều Tiên. Tôi cũng khâm phục quyết định của ông giữ cuộc chiến ở Triều Tiên trong phạm vi một cuộc chiến tranh hạn chế, bác bỏ đề xuất của Tướng Douglas MacArthur mở rộng cuộc chiến sang Trung Quốc và sử dụng vũ khí hạt nhân. Tin tưởng vào chính sách của ông, tôi sẵn lòng sang Triều Tiên làm nhiệm vụ dù đó không thực sự là điều tôi muốn. Mùa Thu năm thứ ba ở Harvard, tôi đã đính hôn với Carol Cummings. Cô ấy bằng tuổi tôi, 19 tuổi, đến từ Radcliffe và hiện đang học năm thứ hai trường tôi. Cũng vào khoảng thời gian ấy, lực lượng lính thủy đánh bộ của chúng ta đang chiến đấu 46 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam phá vòng vây trong trận đánh Hồ nước Chosin (Sau này tôi có vinh dự được trực tiếp làm việc dưới quyền một người hùng của chiến dịch ấy, chủ nhân của Huân chương Danh dự, Thiếu tá William Barber). Dự tính rằng mình sẽ được Sở quân dịch gọi nhập ngũ trước khi năm học kết thúc, vào kỳ nghỉ Giáng sinh, tôi thổ lộ ý định kết hôn với Carol trong thời gian nghỉ giữa hai kỳ, để chúng tôi sẽ có vài tháng bên nhau trước khi tôi phải ra đi. Một tháng sau khi chúng tôi kết hôn, tháng Hai năm 1951, quy định sát hạch nhập ngũ mới được áp dụng, cho phép tôi và bạn bè đồng trang lứa được hoãn nghĩa vụ cho tới khi học xong đại học. Tôi vui mừng tận dụng quy định này. Và khi tôi giành được học bổng cao học Woodrow Wilson một năm tại Đại học Cambridge, tôi lại tiếp tục được hưởng chế độ hoãn nhập ngũ. Nhưng tôi tự nhủ với bản thân rằng sau một năm ấy, tôi sẽ không hoãn thêm nữa. Trong suy nghĩ của tôi, những người khác đã phải đi thay tôi và tình hình cấp bách ở Triều Tiên vẫn đang tiếp diễn. Sau khi hoàn thành việc học ở Anh trở về, tôi biết đã đến lúc tôi phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Tuy vậy, hầu hết bạn bè và giáo viên của tôi đều rất ngạc nhiên khi tôi nộp đơn vào Khóa đào tạo học viên sĩ quan (OCC) thuộc Quân chủng Thủy quân Lục chiến (lính thủy đánh bộ) Mỹ. Không ai nghĩ tôi hợp với dạng quân nhân đó. Trước giờ, hầu như tôi chỉ quan tâm đến các vấn đề học thuật, không thuộc kiểu người ưa hoạt động thể chất. Một thầy giáo của tôi, thầy Wassily Leontief, ngỏ ý giúp tôi tham gia nhóm nghiên cứu toán học mới ra đời, thuộc cơ quan lập trình tuyến tính của không quân. Nhưng vị trí này lại quá giống với công việc nghiên cứu kinh tế mà tôi dự định sẽ làm trong suốt thời gian còn lại của cuộc đời mình. Tôi muốn trải nghiệm của mình trong lực lượng Thủy quân Lục chiến để thật khác biệt. Thêm nữa, đối với tôi, điều quan trọng hơn cả là lính thủy đánh bộ không dội bom xuống các thành phố. Ở Thái Bình Dương và Triều Tiên, lính thủy đánh bộ chiến đấu với quân đội đối phương chứ không phải với dân thường. Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 47 Lính thủy đánh bộ cũng là lực lượng duy nhất chỉ cử sĩ quan dự bị đi tham chiến ở nước ngoài trong hai năm. Đây cũng là một nguyên nhân, nhưng không ai gia nhập lực lượng này chỉ để được tham chiến ít hơn. Một nguyên nhân khác và là một động cơ đặc biệt, cha vợ tôi là một đại tá thủy quân lục chiến chuyên nghiệp. Sau chiến tranh, ông giải ngũ ở cấp bậc chuẩn tướng. Lớn lên, vợ tôi có nhiều kỷ niệm đẹp tại các căn cứ lính thủy đánh bộ. Anh trai cô ấy rời Đại học Yale để gia nhập lực lượng và hy sinh tại trận Guadalcanal vào đúng ngày sinh nhật thứ mười chín. Tôi muốn làm cô ấy bất ngờ với lựa chọn của mình. Tôi nghĩ được trở lại một căn cứ lính thủy đánh bộ sẽ khiến cô ấy hạnh phúc. Và đúng là như vậy. Mùa Hè năm 1953, sau khi trở về từ Cambridge, tôi nộp đơn vào khóa đào tạo học viên sĩ quan thuộc Quân chủng Thủy quân Lục chiến Mỹ. Nhưng phải tới mùa Xuân năm 1954, khóa học mới tuyển người. Trong lúc chờ đợi, tôi theo học chương trình sau đại học về kinh tế ở Harvard trong một học kỳ rưỡi. Bởi tôi đã học hầu hết các môn cần để tốt nghiệp từ hồi còn là sinh viên nên tôi đã có thể thi vấn đáp lấy bằng Tiến sĩ một ngày trước khi lên đường đến Quantico tham gia huấn luyện. Vài tuần sau, sáng sớm ngày 8 tháng Năm năm 1954, khi chúng tôi đang đứng trong khu thao trường huấn luyện, sĩ quan huấn luyện chúng tôi bảo: “Tốt hơn các cậu hãy lau sạch súng đi, vì Điện Biên Phủ vừa thất thủ rồi”. Trong tháng đầu huấn luyện, chúng tôi không được đọc báo nên thông tin này không tác động nhiều tới chúng tôi. Và dù sao thì súng của chúng tôi cũng luôn sạch. Tôi không biết rằng vào sinh nhật thứ 23 của tôi, ngày 7 tháng Tư năm 1954, ngay trước ngày tôi lên đường đến Quantico, Tổng thống Eisenhower đã có tuyên bố nổi tiếng về học thuyết đôminô, dự đoán phần lớn châu Á sẽ rơi vào tay cộng sản nếu “không giữ được” Bắc Việt Nam. Chúng tôi cũng không biết rằng, vào ngày 16 tháng Tư, một ngày sau khi khóa huấn luyện của chúng tôi bắt đầu, trong một buổi cung cấp thông tin thăm dò phản ứng dư luận, Phó Tổng thống Richard Nixon đã cho rằng bởi “người Việt Nam thiếu 48 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam khả năng tiến hành một cuộc chiến tranh hay tự quản”, nước Mỹ có thể phải đưa quân sang để tránh một thất bại cho người Pháp: “Nếu chính phủ của chúng ta không còn cách nào khác, chính quyền đương nhiệm sẽ buộc phải chấp nhận khả năng này và đưa quân tới đó”. Bài phát biểu của Nixon đã nhận được những ý kiến phản đối kịch liệt. Hàng nghìn lá thư và bức điện được gửi đến Nhà Trắng để phản đối việc Mỹ có động thái can thiệp trợ giúp chủ nghĩa thực dân của Pháp chỉ vì lực lượng dẫn dắt phong trào đấu tranh giành độc dân tộc ở Việt Nam là cộng sản. Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ Edwin Johnson phát biểu trước Thượng viện: “Tôi phản đối việc đưa lính Mỹ đến hố bùn rác Đông Dương, hy sinh xương máu của họ để duy trì chủ nghĩa thực dân và sự bóc lột của người da trắng ở châu Á”. Quan trọng hơn, lãnh đạo đa số ở Thượng viện, Lyndon Johnson, chịu tác động từ người thầy riêng của mình là Thượng nghị sĩ Richard Russell, đã thuyết phục Tổng thống Eisenhower rằng nước Mỹ không thể đơn phương hành động khi không có sự tham gia của Anh... Bởi vậy, lớp sĩ quan chúng tôi đã “lỡ hẹn” với một cuộc xâm lược Đông Dương của Mỹ - một cuộc chiến mà nếu diễn ra ở Bắc Việt Nam thì sẽ còn ác liệt hơn cả cuộc chiến sau này ở miền Nam và rất có thể sẽ phải dùng đến vũ khí hạt nhân để chống Trung Quốc (Phó Tổng thống Nixon ủng hộ cả hai điều này). Ba năm sau, Tổng thống Eisenhower và Bộ trưởng Ngoại giao John Foster Dulles đã đáp lễ Eden khi họ bất đồng với quan điểm tương tự của Eden (Eden lúc này đã là Thủ tướng Anh, đã so sánh Tổng thống Ai Cập lúc bấy giờ là Gamal Abdel Nasser với Hitler trong cuộc Khủng hoảng Kênh đào Suez). Vào thời điểm ấy, tiểu đoàn lính thủy đánh bộ của tôi đang thực hiện nhiệm vụ ở Hạm đội số 6. Thêm một lần nữa, chúng tôi “lỡ hẹn” với một cuộc chiến tranh thuộc địa. Nhưng lúc bấy giờ, tại Quantico, tôi vẫn chưa biết những điều này. Trung sĩ huấn luyện của chúng tôi chỉ nhắc lại những điều chúng tôi đã biết, rằng lực lượng lính thủy đánh bộ của chúng ta luôn sẵn sàng và là đội quân cận vệ của Tổng thống. Biết đâu lính thủy đánh bộ chúng ta sẽ Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 49 sớm có mặt trên các tàu đổ bộ ngoài khơi bờ biển tại Đông Dương. Đó là lý do chúng tôi nhập ngũ. Ngay khi hoàn thành huấn luyện, tôi sẽ rất hài lòng nếu được điều đến đó, đặc biệt là nếu sự hiện diện của chúng tôi sẽ khiến việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở đó trở nên không cần thiết. Hơn một năm sau, trên cương vị Trung đội trưởng ở Trại Lejeune, tiểu bang Bắc Carolina, tôi tự hào được đứng trước Quốc hội đọc lời chứng của chỉ huy Quân chủng Thủy quân Lục chiến: “Thủy quân Lục chiến sẵn sàng hy sinh ba sư đoàn để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân”. Đó là lý tưởng phụng sự tổ quốc của tôi. * * * Khởi đầu khóa đào tạo OCC của tôi không suôn sẻ và suýt nữa thì tôi bị loại. Nhưng sau đó, tôi đã học được cách trở thành một sĩ quan thủy quân lục chiến giỏi. Tôi thích công việc của một trung đội trưởng trung đội súng trường và trên hết là cơ hội được chỉ huy một đại đội súng trường thuộc Sư đoàn Lính thủy đánh bộ số 2, một cơ hội hiếm có cho một trung úy trong thời bình. Rất có thể tôi sẽ cân nhắc ở lại làm sĩ quan chuyên nghiệp tại Thủy quân Lục chiến nếu tại đây tôi luôn được bảo đảm ở những vị trí chỉ huy như thế. Để chuẩn bị rời khỏi chế độ tham chiến trực tiếp vào mùa Hè năm 1956, tôi buộc phải từ bỏ cơ hội chỉ huy đại đội của mình. Nhưng tôi cũng rất muốn được trở lại Harvard. Con trai chúng tôi, Robert Boyd, vừa ra đời, còn tôi vừa giành được học bổng nghiên cứu sinh bậc cơ sở kéo dài ba năm ở Harvard. Lúc ấy, tiểu đoàn chúng tôi sắp nhận nhiệm vụ sáu tháng cùng Hạm đội 6 ở Địa Trung Hải. Tôi không thấy tiếc vì mình đã bỏ lỡ nhiệm vụ này. Tuy nhiên, cũng vào thời điểm ấy, gần như ngày nào cũng có cảnh báo về khả năng xảy ra chiến tranh ở Trung Đông do chính sách quốc hữu hóa kênh đào Suez của Tổng thống Nasser châm ngòi. Tiểu đoàn chúng tôi nhận chỉ dẫn mật về khả năng tham gia chiến sự ở đó. Tôi chẳng thể ngồi yên với suy nghĩ rằng những người tôi từng chỉ huy có thể sẽ phải áp dụng những gì họ được huấn luyện vào thực tế trong khi tôi sẽ chỉ theo dõi họ từ Cambridge, Massachusets. Tôi gửi điện cho 50 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Bộ Chỉ huy Quân chủng Thủy quân Lục chiến, yêu cầu được kéo dài thời gian tại ngũ cho tới khi tiểu đoàn của tôi hoàn thành nhiệm vụ ở Địa Trung Hải. Sau khi yêu cầu này được chấp nhận, tôi thông báo quyết định của mình cho Hiệp hội nghiên cứu sinh. Vài tháng sau, lần đầu tiên tôi được đọc những tài liệu tối mật. Trước đó, tôi đã nhanh chóng được cấp quyền tiếp cận thông tin tối mật để vạch kế hoạch đổ bộ cho tiểu đoàn chúng tôi dựa trên những kế hoạch tác chiến dự phòng tối mật của Hạm đội 6. Lúc ấy cấp trên của tôi ở tiểu đoàn và ở Hạm đội 6 còn chưa chắc chắn chúng tôi sẽ chiến đấu chống lại Ai Cập hay Ixraen (Anh và Pháp vẫn chưa sẵn sàng tham chiến mặc dù đã có dấu hiệu tình báo không tốt). Trong lúc khủng hoảng tiếp tục leo thang và các tàu của ta nhận lệnh di chuyển về phía đông nam Địa Trung Hải thì tôi được giao nhiệm vụ soạn thảo kế hoạch đổ bộ xuống Haifa, trong khi ở bàn bên cạnh, một sĩ quan hỗ trợ tác chiến khác của tiểu đoàn cũng đang soạn thảo kế hoạch đổ bộ xuống Alexandria. Xét về lực lượng chống cự mà chúng tôi phải đối mặt, tình hình đã có thể xấu hơn rất nhiều cho chúng tôi. Chúng tôi nhận định như vậy, nếu phải dùng đến thủy lôi (Sau đó, chúng tôi đã không phải dùng đến cả hai kế hoạch trên; ngay cả như vậy, các tàu của chúng tôi đã sơ tán hơn một nghìn người Mỹ khỏi Alexandria, trong khi máy bay Anh và Pháp bay trên đầu, trực chờ đánh bom ngay sau khi tàu chúng tôi rút khỏi phạm vi cảng). Nhưng điều tôi nhớ nhất là tinh thần sẵn sàng chiến đấu của mình nếu một trong hai kế hoạch trên được áp dụng, dù cho Tổng thống có chọn kế hoạch nào. Tôi rất vui nếu được sử dụng những điều đã được huấn luyện về thủy quân lục chiến tại bất cứ đâu mà Tổng thống chỉ định, gạt sang một bên ý thức về cái đúng, cái sai của cuộc chiến. Toàn bộ sự việc xảy ra khiến tôi đi đến kết luận rằng trong trường hợp này các đồng minh của chúng ta đã sai. Chỉ huy tiểu đoàn đã lệnh cho tôi tóm tắt bối cảnh tình hình cho các sĩ quan. Bởi thế, trong mùa Hè năm ấy, tôi đã đọc các báo cáo tình báo được gửi đến tàu chỉ huy của chúng tôi. Tôi cũng nghiên cứu lịch sử kênh đào cũng như lịch sử quan Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 51 hệ giữa Ai Cập và Anh trong nhiều cuốn bách khoa toàn thư trong thư viện trên tàu. Tôi ngạc nhiên nhận ra rằng bất chấp phản đối của Anh trước hành động của Tổng thống Nasser, chính quyền Ai Cập có quyền chính đáng được tiến hành quốc hữu hóa kênh đào và bất cứ hành động quân sự nào nhằm tái chiếm quyền sở hữu con kênh đều là hành động xâm lược trắng trợn, một sự quay trở lại rõ ràng với chủ nghĩa thực dân. Tôi truyền đạt kết luận này tới các sĩ quan trên tàu và họ tỏ ra hứng thú tới mức tôi được đưa từ tàu này sang tàu khác để giảng bài này cho các tàu bạn. Nhưng điều này cũng không giúp tôi hay những sĩ quan nghe tôi thuyết giảng biết được chính sách của Mỹ sẽ như thế nào và chúng tôi sẽ đóng vai trò gì trong cuộc chiến. Và tôi cũng không nhớ có bất cứ ai trong chúng tôi, bao gồm cả tôi, cảm thấy quá quan tâm đến điều đó. Bất chấp những gì tôi tìm hiểu được trong quá trình chuẩn bị bài tóm tắt bối cảnh, khó ai có thể nghĩ rằng Mỹ sẽ chọn cách phản đối các đồng minh NATO của mình. Trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, điều này là không tưởng. Lựa chọn này sẽ khiến Mỹ bị đặt vào vị trí chẳng khác gì Liên Xô, nước hiện đang cung cấp vũ khí cho Ai Cập và vừa đạt được thỏa thuận để thế chân Mỹ tài trợ xây dựng Đập Aswan. Bởi thế, khi Tổng thống Eisenhower quyết định hành động như vậy, buộc Anh và Pháp phải chấm dứt xâm chiếm Kênh đào Suez, tôi đã cảm thấy bất ngờ và tự hào khi là một người Mỹ. Đây là bằng chứng vững chắc nhất cho niềm tin của tôi rằng đất nước tôi quyết tâm duy trì luật pháp quốc tế, chống lại chiến tranh xâm lược, bất kể là do ai khởi xướng và dù họ có là đồng minh thân cận nhất của chúng tôi đi nữa. Tôi tin đây là lý do chúng tôi tham chiến bảo vệ Nam Triều Tiên; đó cũng là lý do tôi cảm thấy mình cần phải hoàn thành nghĩa vụ quân sự trong cuộc khủng hoảng Triều Tiên và cũng là lý do tôi phụng sự tổ quốc. Khi mở các tờ báo châu Âu, nhìn những bức ảnh thành phố Port Said ở thượng nguồn Kênh đào Suez hoang tàn sau những trận đánh bom của đồng minh của ta, tôi mừng là người Mỹ không phải nhìn những bức ảnh như thế và biết rằng chúng ta là kẻ gây ra điều ấy. 52 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Mặc dù tôi mừng trước quyết định chống lại chủ nghĩa thực dân của Tổng thống, nhưng nếu ông ấy quyết định khác đi, tôi vẫn sẽ hết lòng thực hiện nhiệm vụ. Ngày ấy, tôi quan tâm đến việc chúng tôi chiến đấu hiệu quả đến đâu chứ không quan tâm lắm đến việc chúng tôi đang chiến đấu chống lại ai hay vì cái gì. Đó là chuyện của Tổng thống. Thái độ được nhiều người chia sẻ này - một di sản của Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh lạnh - đã đi theo tôi thêm một thập kỷ nữa. Năm 1969, khi tôi từ bỏ nó, cũng là khi cuộc sống của tôi đột ngột thay đổi. Tôi trở lại Harvard và nghiên cứu độc lập trên cương vị nghiên cứu sinh bậc cơ sở thuộc Hiệp hội Nghiên cứu sinh. Nghiên cứu của tôi tập trung vào đề tài tôi đã quan tâm kể từ năm cuối đại học (ngày ấy, theo lời khuyên của cán bộ tư vấn của khoa, tôi đã chuyển lĩnh vực nghiên cứu từ lao động sang học thuyết kinh tế). Tôi bắt đầu thích thú với lĩnh vực chuyên ngành mới là học thuyết quyết định, chuyên phân tích nền tảng lý thuyết của quá trình đưa ra quyết định trong hoàn cảnh bất định. Tôi tốt nghiệp với tấm bằng kinh tế. Luận văn tốt nghiệp của tôi lúc ấy26 cũng như đề tài tiến sĩ của tôi sau này27 tập trung miêu tả, tìm hiểu và có thể là tìm cách hoàn thiện quá trình một người đưa ra quyết định khi người đó chưa biết chắc những hệ quả mà hành động của mình gây ra. Việc ra quyết định này cũng áp dụng với tình huống xung đột khi mà mức độ khó lường của sự việc liên quan phần nào đến những quyết định lựa chọn của bên đối đầu28. Đây cũng là chủ thể nghiên cứu của cái gọi là thuyết trò chơi hay thuyết thương lượng29. Tất cả những điều này cũng có liên hệ rõ ràng với các quyết định quân sự. Một phần bởi thế, đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực này là Rand Corporation. Tại đây, các nhà toán học đã có những đóng góp cơ bản. Bởi thế, tôi đã bị thu hút bởi Rand, một tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận tại Santa Monica, California. Tổ chức này ra đời năm 1947 nhằm thực hiện cả những nghiên cứu cơ bản và những phân tích mật cho Bộ Quốc phòng, chủ yếu là cho không quân. Sau một chuyến thăm ngắn vào cuối Hè năm 1957, tôi đã xem xét và sau đó nhận lời mời làm tư vấn Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 53 tại Ban Kinh tế của Rand vào Hè năm 1958 trong lúc tôi đang học cao học tại Harvard. Ba năm trong lực lượng lính thủy đánh bộ đã khiến tôi kính trọng quân đội, quan tâm hơn tới các vấn đề chiến lược và sẵn sàng áp dụng những tri thức có được vào vấn đề quân sự - điều mà tôi sẽ ít muốn làm nếu chưa từng nhập ngũ. Tuy vậy, trước khi tới Rand, tôi đã nghĩ mình sẽ theo đuổi sự nghiệp học thuật như một nhà nghiên cứu học thuyết kinh tế. Lúc ấy, tôi 27 tuổi. Ngay sau chuyến thăm nắm bắt tình hình của tôi tới Santa Monica vào năm 1957, Liên Xô phóng vệ tinh Sputnik vào quỹ đạo, thể hiện khả năng phóng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) - một bước đi trước cả người Mỹ. Mùa Hè tôi tới Rand cũng là đỉnh điểm của những nghiên cứu dự báo bí mật về khả năng ICBM vượt trội của Liên Xô, hay còn gọi là “khoảng cách tên lửa”. Kể cả trước khi có những nghiên cứu dự báo này, các nghiên cứu tối mật của Rand30 trong bốn năm trước đó cũng đã kết luận rằng nếu Liên Xô bất ngờ tấn công nhằm tiêu diệt Bộ Tư lệnh Không quân chiến lược (SAC) thì khả năng SAC có thể đáp trả bằng máy bay ném bom chiến lược là rất thấp. Theo các đồng nghiệp mới của tôi tại Rand, bước tiến này của Liên Xô chắc chắn là một động thái khẩn, với khả năng thành công cao đến giật mình, nhằm loại trừ khả năng trả đũa của SAC. Khả năng này của Liên Xô cùng nỗ lực đạt được khả năng đó trong một thời gian ngắn với chi phí cao của họ đã khiến cơ sở niềm tin về khả năng ngăn chặn hạt nhân hoàn toàn biến mất, ít nhất là với những ai đã đọc những nghiên cứu này và chia sẻ quan điểm phổ biến thời Chiến tranh lạnh rằng mục tiêu cuối cùng của Liên Xô là làm bá chủ thế giới. Chỉ sau vài tuần làm việc tại Rand, tôi đã dấn sâu vào một vấn đề có lẽ là cấp bách và nghiêm trọng nhất trong lịch sử loài người, một vấn đề liên quan đến những quyết định trong hoàn cảnh bất định: Ngăn chặn chiến tranh hạt nhân giữa Liên Xô và Mỹ. Trong những năm cuối thập niên ấy, gần như mọi bộ phận và nhân viên của Rand đều bị ám ảnh với việc tìm ra lời giải cho một bài toán duy nhất, một vấn đề phức tạp và 54 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam cấp bách hơn cả trí tưởng tượng của bất cứ ai không làm ở Rand. Đó là bài toán ngăn chặn Liên Xô tấn công hạt nhân vào các lực lượng đáp trả và cả dân thường Mỹ trong tương lai gần và xa, bằng cách chắc chắn rằng, khả năng đáp trả bằng vũ khí hạt nhân của Mỹ sẽ luôn được bảo đảm trước bất kỳ cuộc tấn công nào như vậy của Liên Xô. Mùa Hè năm sau đó, khi chính thức làm việc ở Ban Kinh tế của Rand, tôi đã dồn toàn tâm vào vấn đề này, cảm thấy đầy kiêu hãnh và có cảm giác cống hiến khi làm việc đó, dù cá nhân tôi hết sức phản đối vũ khí hạt nhân. Như tôi đã nói, nếu xét quan điểm kịch liệt phản đối của tôi trước hành động đánh bom bừa bãi các thành phố của cả hai phe trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thì công việc nghiên cứu của tôi, hỗ trợ không quân ta đe dọa đánh bom khủng bố người Nga nếu họ tấn công ta, quả là một nghịch lý lớn. Nhưng việc này cũng có lý theo một cách riêng. Sau khi nghiên cứu các phân tích của Rand, tôi tin rằng đây là cách tốt nhất cũng là cách duy nhất để tăng thêm khả năng sẽ không có một cuộc chiến tranh hạt nhân nào trong tương lai gần. Trong những viễn cảnh được miêu tả trong các bản đánh giá tình báo quốc gia tối mật, lý do Mỹ cần ngăn chặn chiến tranh hạt nhân dường như rất rõ ràng. Theo những đánh giá tình báo tối mật này, chúng ta đang đối mặt với một kẻ thù nguy hiểm. Kẻ thù này đã có những nỗ lực vô cùng tốn kém nhằm mở rộng công năng của vũ khí hạt nhân, làm chúng ta mất hoàn toàn khả năng chống trả và đạt được vị thế thống trị toàn cầu tuyệt đối. Không lực lượng quân sự phi hạt nhân nào của Mỹ có thể bảo đảm đứng vững sau một cuộc tấn công như vậy và đáp trả trên một quy mô đủ mức để ngăn chặn hành động tiếp theo của một kẻ địch vô cùng quyết tâm và nhẫn tâm tới như vậy. Giải pháp duy nhất là khả năng đáp trả hạt nhân lớn, một khả năng có thể đứng vững sau một đòn tấn công hạt nhân đã được lên kế hoạch kỹ càng - một trận Trân Châu Cảng hạt nhân. Về phần mình, tôi cũng góp sức bằng việc nghiên cứu một chủ đề mà tuy quan trọng nhưng còn ít được nghiên cứu: Công tác chỉ huy và Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 55 kiểm soát các lực lượng đáp trả hạt nhân của các sĩ quan quân sự cấp cao và đặc biệt là Tổng thống. Lúc ấy, hầu hết đồng nghiệp của tôi đang nghiên cứu biện pháp giảm thiểu mức độ dễ bị tấn công của các vũ khí, cơ sở và phương tiện di chuyển hạt nhân. Tôi cũng tham gia một nhóm nghiên cứu khả năng chống chịu và độ tin cậy của hệ thống chỉ huy quân sự trung ương. Đa số ý kiến đồng tình rằng quyết định có hay không và bao giờ thì nên sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Liên Xô trong bất kỳ hoàn cảnh nào cần phải do Tổng thống hay những quan chức cấp cao nhất còn sống quyết định. Vấn đề này là một ví dụ cụ thể cho những gì tôi đã nghiên cứu trong luận văn cao học về quá trình đưa ra quyết định trong hoàn cảnh bất định. Bởi lời cảnh báo và bằng chứng cho quyết định của Tổng thống tất yếu sẽ rất bất định, nên đó sẽ là quyết định siêu lý trí và chắc chắn là cuối cùng mà một nhà lãnh đạo quốc gia đưa ra trong hoàn cảnh bất định31. Nhưng khả năng của Tổng thống hay bất kỳ chỉ huy cấp cao nào khác đưa ra một quyết định sáng suốt hay thậm chí là đưa ra được quyết định, đều bị đe dọa trước mức độ dễ bị tổn thương của họ nếu Washington và các căn cứ chỉ huy khác bị tấn công hạt nhân, làm tê liệt mạng lưới thông tin liên lạc và trước khuynh hướng của các hệ thống tình báo và cảnh báo này thường chỉ phát đi những tín hiệu không rõ ràng và những báo động giả. Không có bí mật quân sự nào được bảo vệ nghiêm ngặt hơn các chi tiết về việc quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ do ai đưa ra, bằng cách nào và trong hoàn cảnh nào. Một nghiên cứu về công tác chỉ huy và kiểm soát hạt nhân của CINCPAC mà tôi mượn được từ Rand đã giúp tôi tiếp cận một số thông tin tối mật nhất của quân đội Mỹ, trong đó bao gồm kế hoạch quân sự cho chiến tranh hạt nhân tổng thể, điều mà hầu hết các quan chức dân sự cấp cao nhất cũng không được biết. Ví dụ, tôi biết được rằng, trái với những tuyên bố chính thức, Tổng thống Eisenhower đã trao cho các tư lệnh chiến trường quyền chủ động triển khai tấn công hạt nhân trong một số điều kiện nhất định, ví dụ 56 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam như mất liên lạc với Washington - điều xảy ra gần như mỗi ngày hồi ấy - hay Tổng thống mất năng lực đưa ra quyết định (điều này đã xảy ra hai lần với Tổng thống Eisenhower). Trợ lý an ninh quốc gia của Tổng thống Kennedy là McGeorge Bundy không hề biết về chính sách trao quyền này, và bởi thế, Tổng thống cũng vậy, cho tới khi tôi báo cáo vấn đề này với ngài trợ lý vào đầu năm 1961, gần hai tháng sau khi Tổng thống Kennedy lên nắm quyền. Tổng thống Kennedy bí mật duy trì chính sách này và sau này, Tổng thống Johnson cũng vậy (Johnson đã nói dối khi nói đến điều ngược lại trong cuộc đua tranh cử với Thượng nghị sĩ Goldwater năm 1964. Trong cuộc tranh cử này, chính sách trao quyền rộng rãi mà Goldwater ủng hộ là một vấn đề quan trọng). Tôi cũng báo cáo với Bundy rằng chính sách trao quyền cho các tư lệnh chiến trường bốn sao đã được lặp lại ở Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương, lần này là với các tư lệnh cấp thấp hơn (mà không được Tổng thống biết hay cho phép) đã dẫn đến một số lượng lớn và không xác định những người được trao quyền ấn nút hạt nhân. Những chính sách như vậy cũng như nhiều chính sách khác mang lại rủi ro khôn lường cho các lực lượng hạt nhân Mỹ. Nhưng bởi những đánh giá tình báo về ý đồ và khả năng hạt nhân của Liên Xô, Mỹ đã chấp nhận những rủi ro này nhằm bảo vệ mình trước việc bị Liên Xô đột kích hạt nhân. Tuy vậy, mùa Thu năm 1961, một đánh giá tình báo quốc gia tối mật được chỉnh sửa đột ngột làm đảo lộn mọi kế hoạch chiến lược mà tôi đã phải lao tâm khổ tứ xây dựng trong suốt ba năm qua. Khoảng trống tên lửa với sự trên cơ của Liên Xô là điều giả tưởng. Đúng là có khoảng cách đó, nhưng hiện thời, chúng ta đang áp đảo Liên Xô ở thế 10 chọi 1. So kè với 40 tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Atlas và Titan của Mỹ, Liên Xô chỉ có bốn tên lửa đạn đạo xuyên lục địa SS-6 ở một điểm phóng tên lửa ở Plesetsk, chứ không phải 120 tên lửa như đánh giá tình báo quốc gia mới nhất hồi tháng Sáu hay 1.000 tên lửa như đánh giá của Bộ Tư lệnh Không quân chiến lược (SAC) mà tôi được nghe tại sở chỉ huy SAC hồi tháng Tám. Với những đánh giá mới này, khả năng Liên Xô cố ý đột kích bằng vũ khí hạt nhân bỗng chốc trở thành kịch bản huyễn hoặc. Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 57 Bản đánh giá tình báo quốc gia năm 1961 đã lay chuyển thế giới quan chuyên môn của tôi giống như bức điện của Herrick ba năm sau đó, dù sự kiện ba năm sau ở vào một hoàn cảnh hẹp hơn rất nhiều. Đáng lẽ ra bản đánh giá này đã phải truyền đến hệ thống an ninh quốc gia của chính phủ những tín hiệu: Hãy dừng lại! Điều tra công khai! Cân nhắc sáng suốt! Nhưng điều ấy đã không xảy ra. Giống như bức điện của Herrick, bản đánh giá này đã được giữ kín (bằng nỗ lực của nhiều người, trong đó có cả tôi) trước Quốc hội, báo chí và công luận, và không tác động gì nhiều đến các chương trình quân sự. Sau khi bí mật nhận ra rằng Liên Xô chỉ có thể triển khai bốn tên lửa đạn đạo xuyên lục địa nhiên liệu lỏng so với 40 tên lửa của Mỹ, mùa Thu năm 1961, chính quyền Kennedy đã đưa ra con số thích hợp cho kho tên lửa Minuteman nhiên liệu rắn dự kiến của Mỹ: 1.000 tên lửa. Số lượng này ít hơn đề xuất từ 1.600 đến 6.000 tên lửa của không quân trước đó, nhưng vẫn chỉ được giảm xuống mức Bộ trưởng McNamara đã chọn từ trước khi có bản đánh giá mới. Trong lúc cuộc chạy đua tên lửa đang diễn ra, điều mà rốt cuộc được cả hai phía đẩy lên cao độ, Mỹ cũng tiếp tục đề cao tinh thần cảnh giác. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã tìm thấy nhiều điểm yếu trong quy trình chỉ huy và kiểm soát cũng như trong những kế hoạch chuẩn bị đầy bất trắc cho chiến tranh hạt nhân của Mỹ. Những điểm yếu này đặt ra nguy cơ về một cuộc chiến hạt nhân toàn diện vô tình xuất phát từ một cảnh báo nhầm. Với tôi, nguy cơ xảy ra chiến tranh hạt nhân - mà rất có thể do Mỹ châm ngòi từ một nhầm lẫn, một hành động chưa được cho phép, tác động tương tác của những cảnh báo thật hay động thái lừa nhử đối phương trong thời điểm khủng hoảng, một báo động nhầm, hay một mệnh lệnh bị hiểu nhầm - vẫn tiếp tục là một khả năng vô cùng hiện hữu. Hiểu biết của tôi về những hiện tượng này cũng như những tác động có thể có đối với chúng từ việc Liên Xô đưa tên lửa đến Cuba, là nguyên nhân một người bạn - đồng nghiệp cũ của tôi tại Rand, là 58 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Harry Rowen, giờ giữ chức Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng - đã mời tôi đến Washington tham gia nhóm tham mưu cho ExComm (Ban điều hành của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ) trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. Trải nghiệm này đã giúp tôi nhận thức rõ những cách thức mà chiến tranh nhiệt hạch có thể được phát động trong bối cảnh khủng hoảng. Nguyên nhân không chỉ đến từ những sai lầm trong chính sách kiểm soát cấp cao như tôi đã dự liệu trước đó - điều cả hai phe thể hiện rõ trong cuộc đối đầu này - mà còn có thể đến từ sai sót trong những tính toán quan trọng ở cấp cao nhất hay từ những hành động được thực hiện trước đó mà không suy xét thỏa đáng đến hậu quả có thể xảy ra sau này. Mỗi bên đều đã hiểu nhầm nghiêm trọng đối phương, dự đoán sai thái độ của bên kia và không hiểu được rằng hành động của bên kia chính là sự phản ứng dựa trên phân tích của họ về lời nói và hành động của bên mình. Đã có “những sai sót về mặt trao đổi thông tin” theo cách có thể dẫn đến nguy cơ xảy ra những hậu quả nghiêm trọng nhất. Với hai hệ thống tình báo tinh vi nhất trong lịch sử loài người, mỗi hệ thống lại tập trung gần như hoàn toàn vào đối thủ siêu cường của mình, nhưng Tổng thống Kennedy đã không tiên liệu được rằng, lãnh tụ Liên Xô Nikita Khrushchev sẽ cố triển khai tên lửa đạn đạo tầm trung có thể bắn tới các mục tiêu tại Mỹ ở Cuba, còn Khrushchev cũng đã không đoán được hướng phản ứng của Kennedy trước động thái này. Những phát giác gần đây trong nghiên cứu về Liên Xô cũ cho thấy số binh lính nước này đưa tới Cuba lớn hơn Mỹ tưởng lúc đó rất nhiều. Mỹ cũng không hề biết rằng đội quân này được trang bị vũ khí hạt nhân chiến lược và quyền điều động chúng đã được Khrushchev trao cho các chỉ huy tại đây. Trước thông tin này, Mỹ nhận thấy rõ rằng toàn bộ chính quyền Mỹ lúc ấy đã đánh giá quá thấp khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện xuất phát từ hai sai lầm trong tính toán trước đó. Cả tôi cũng vậy. Vậy mà, chỉ những nguy cơ mà tôi dự đoán lúc ấy thôi cũng đã đủ khiến tôi rùng mình rồi. Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 59 Tôi dành nửa đầu năm 1964 tại Washington. Trên cương vị một nhà nghiên cứu của Rand, tôi làm việc với một dự án phản ánh những quan ngại của tôi xuất phát từ cuộc khủng hoảng tên lửa. Tôi đề nghị nghiên cứu những thói quen nguy hiểm trong quá trình đưa ra quyết định của chính phủ và trong quá trình “trao đổi thông tin” - dù là nói trực tiếp, ngụ ý hay vô tình nói ra - giữa các chính phủ trong những cuộc khủng hoảng hạt nhân. Tôi không phải một nhà sử học, cũng không quan tâm đến việc đưa ra những hồ sơ lịch sử chi tiết về một số sự kiện nhất định. Tôi biết rằng có những hồ sơ như vậy, được xếp vào dạng tuyệt mật trong nhiều cơ quan của chính phủ. Thứ tôi muốn và đã có được là quyền tiếp cận hồ sơ về một số cuộc khủng hoảng khác nhau để có thể phân tích và so sánh chúng. Tôi tìm kiếm những thói quen làm việc có vấn đề, những thứ có thể giúp Tổng thống hiểu rõ và kiểm soát tốt hơn các cơ quan chính phủ và quan hệ tương tác giữa các cơ quan này với phe đối nghịch, theo cách có thể giúp Tổng thống giảm thiểu nguy cơ xảy ra thảm họa. Tôi hình thành ý tưởng cho dự án này năm 1963 và tưởng rằng mình sẽ chỉ ở lại Washington một thời gian ngắn để nghiên cứu cho dự án. Nhưng đến đầu năm 1964, sau mười ba năm chung sống, vợ tôi đề nghị ly dị. Tôi tiếp tục làm việc cho Rand nhưng đã chuyển hẳn đến Washington để theo đuổi công việc nghiên cứu. Sau đó, những lần về California của tôi chủ yếu chỉ để thăm hai con là Robert, lúc ấy 8 tuổi, và Mary, lúc ấy 5 tuổi. Để hỗ trợ nghiên cứu của tôi, Walt Rostow - trưởng bộ phận hoạch định chính sách tại Bộ Ngoại giao - đã thành lập một hội đồng liên ngành gồm các quan chức cấp gần như cao nhất thuộc Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, CIA và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân. Mỗi người trong số này đều đã giúp tôi tiếp cận tài liệu mật của cơ quan họ về những sự kiện quốc tế trong quá khứ như cuộc khủng hoảng tên lửa, sự kiện Berlin, Kênh đào Suez, Libăng, loạt khủng hoảng Eo biển Đài Loan, vụ bắn hạ máy bay U-2 và sự kiện Lào. Vài nghiên cứu 60 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam trong số này còn được xếp hạng trên cả tuyệt mật và tôi đã được trao quyền đặc biệt để tiếp cận chúng. Sau sáu tháng nghiên cứu, dựa trên nhiều nghiên cứu chi tiết về cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, tôi đã đưa ra những kết luận ban đầu mà tôi cho là quan trọng. Tôi gửi một bản báo cáo chưa hoàn chỉnh cho hội đồng liên ngành của Rostow, nhưng những điều tôi nhận ra trong quãng thời gian này cùng những gì tôi biết được trong sáu năm trước đó, phần lớn rất ít được công khai. Đây là một câu chuyện dài cần được kể vào một thời điểm khác. Trở lại thời điểm ấy, tôi hào hứng được tiếp tục nghiên cứu và làm việc tại Lầu Năm Góc thêm sáu tháng nữa trên cương vị nhân viên được trả lương của Rand. Rồi vào tháng Bảy, John T. McNaughton - trợ lý phụ trách các vấn đề an ninh quốc tế cho Bộ trưởng Quốc phòng - gọi tôi vào văn phòng và mời tôi làm trợ lý đặc biệt của ông ấy. Ông ấy từng là giảng viên luật ở Harvard và từng làm cố vấn pháp lý cho Bộ Quốc phòng. Trong vài năm trước đó, tôi đã nhiều lần trao đổi với ông, chủ yếu là về vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân, những trao đổi đã khiến chúng tôi hết mực kính trọng lẫn nhau. McNaughton cho hay, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đang xử lý vấn đề Việt Nam cho Tổng thống và McNamara đã mời McNaughton làm trợ lý chính trong vấn đề này. Tôi sẽ là trợ lý riêng cho McNaughton trong lĩnh vực ấy. Ông ấy đang dành đến 70% thời gian cho Việt Nam và ông ấy muốn tôi dồn 90% tâm sức vào vấn đề này. Trong nhiều nhất là một năm, vị trí này sẽ giúp tôi có được một vị trí công việc ngang bậc phó trợ lý bộ trưởng. Đề nghị này không hấp dẫn tôi cho lắm. Tôi không có tham vọng hay mong muốn trở thành quan chức chính phủ vì Rand đã là mái nhà hoàn hảo cho tôi. Tôi sẽ hạnh phúc nếu được dành cả đời ở đó; trên thực tế, tôi rất muốn vậy. Rand ít ràng buộc tôi, cho tôi tự do lựa chọn trọng tâm nghiên cứu, điều tra và tìm hiểu sâu những vấn đề mà tôi đặc biệt quan tâm, tập trung vào mối đe dọa của chiến tranh hạt nhân. Thêm vào đó, những chuyến bay thường trực giữa văn phòng Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 61 của Rand ở Santa Monica và Washington để tham gia các nhóm công tác hay trực tiếp cố vấn cho các quan chức hoạch định chính sách ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao hay Phủ Tổng thống đã giúp tôi cảm thấy như mình đang góp sức vào việc giảm thiểu những mối đe dọa ấy. Tôi cũng được phép chỉ tập trung vào những vấn đề tôi có nhiều kinh nghiệm. Tôi chưa từng có tham vọng hay mong muốn trở thành một quan chức chính phủ phụ trách những vấn đề nằm rải rác nhiều lĩnh vực khác nhau mà cá nhân tôi ít biết và cũng ít quan tâm hơn. Chính sách Việt Nam là một ví dụ hoàn hảo cho một vấn đề như thế. Trên thực thế, sau chuyến công tác ngắn đến Việt Nam, tôi cảm thấy như nơi ấy là một cái bẫy. Tôi không muốn biết thêm gì về nơi ấy ngoài những gì tôi đã biết. Tôi đã trao đổi ý kiến với McNaughton liên quan đến nghiên cứu của mình về khủng hoảng và cho ông ấy hay tôi cảm thấy nghiên cứu này rất đáng quan tâm và thực sự có giá trị. Tôi đã mất nhiều thời gian để chuẩn bị cho nghiên cứu này và công sức của tôi giờ đang được đền đáp. Theo tôi, tôi sẽ có ích nhất nếu tiếp tục nghiên cứu chủ đề này. Nhưng McNaughton lại nói rằng ông ấy muốn dành cho tôi cơ hội quan sát một cuộc khủng hoảng từ bên trong trong lúc nó đang diễn ra. “Việt Nam là một chuỗi những cuộc khủng hoảng nối tiếp nhau. Đó là một chuỗi khủng hoảng dài đằng đẵng”. Lịch sử về những cuộc khủng hoảng trong quá khứ chỉ nói lên được một phần vấn đề và chúng cũng chưa hẳn là những điều ta cần biết. Nếu tôi thực sự muốn biết nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng, vì sao sai lầm xuất hiện và bản chất thật của các cuộc khủng hoảng thì tôi phải tìm hiểu chính phủ trên cương vị là một người trong cuộc chứ không phải một nhà nghiên cứu hay một cố vấn. Ông ấy nói tôi có thể tiếp tục nghiên cứu khủng hoảng nếu thời gian cho phép. Nhưng khi tôi nhận ra đề nghị của ông là gì, tôi hiểu rằng Việt Nam sẽ trở thành đề tài nghiên cứu tiếp theo của tôi. Tôi sẽ không phải là người chép lại lịch sử về nó. Tôi sẽ sống trong chính lịch sử ấy. Rốt cuộc, tôi nhận lời. 62 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Tôi hiểu rõ giá trị của cấp bậc trong Phủ Tổng thống cũng như trong các cơ quan khác. Bởi thế, tôi đề nghị được trao “siêu cấp” trong hệ thống ngạch công chức của chính phủ, cấp GS-18. Cấp này có bậc lương và chức danh tương đương với Phó Trợ lý Bộ trưởng về mặt dân sự và tương đương với quân hàm giữa trung tướng và thượng tướng (tướng 3 sao) trong quân đội. Việc một trợ lý đặc biệt của một Trợ lý Bộ trưởng được trao cấp này là rất khác thường, nhưng McNaughton nói ông ấy sẽ giải thích rằng bởi tôi là “người thế thân” cho ông về vấn đề Việt Nam nên tôi cần cấp bậc ấy. Tôi phải có khả năng đại diện cho McNaughton tại các buổi họp liên ngành giống như các Phó Trợ lý Bộ trưởng khác dưới quyền ông ấy. Điều quan trọng nhất mà McNaughton bảo đảm với tôi là quyền tiếp cận mọi thứ ông ấy được tiếp cận liên quan đến vấn đề Việt Nam hay bất kỳ vấn đề nào khác ông ấy giao cho tôi. Một phần nhiệm vụ chính của tôi sẽ là sàng lọc lượng thông tin khổng lồ về Việt Nam và cùng với các phụ tá quân sự, Phó Trợ lý Bộ trưởng dưới quyền McNaughton quyết định ông ấy nên tập trung vào thông tin nào. Trên cương vị trợ lý cho ông ta, tôi sẽ được đọc những thông báo nội bộ và điện tín “chỉ dành riêng cho cá nhân người nhận” mà ngay cả các Phó Trợ lý dưới quyền ông ấy cũng không được đọc. Khả năng suy xét thận trọng sẽ là một phẩm chất quan trọng trong công việc của tôi. Điều này không thành vấn đề đối với tôi. Tôi đã nhiều lần cho thấy mình có khả năng giữ kín những bí mật nhạy cảm và McNaughton cũng biết điều này. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực quản lý khác, tôi không thực sự đáp ứng được sự kỳ vọng của McNaughton. Ông ấy không nói rõ mong muốn của mình là gì mà chỉ bảo rằng ông hy vọng tôi sẽ giúp “tăng gấp đôi hiệu quả và năng suất làm việc của ông ấy”. Bởi ông sở hữu năng lượng và trí tuệ xuất chúng. Đây là một đòi hỏi rất cao cho bất kỳ ai, nhưng tôi tin rằng có rất nhiều người khác phù hợp hơn tôi, có năng lực tổ chức hơn tôi. Thế nhưng, ông ấy vẫn hào phóng thực hiện lời hứa với tôi, trao cho tôi một cơ hội trải nghiệm ở một vị trí rất đặc biệt, một cửa sổ soi rọi vào Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 63 quy trình hoạch định chính sách mà ít vị trí nào bên ngoài Nhà Trắng hay văn phòng Bộ trưởng McNamara sánh được. * * * Chiều thứ Hai, ngày 3 tháng Tám năm 1964, tôi đến khu văn phòng trợ lý bộ trưởng để bắt đầu làm quen với công việc mới. Văn phòng của McNaughton rất rộng, trần nhà cao với nhiều cửa sổ nhìn ra Đài tưởng niệm Jefferson và ở bên kia hồ Tidal Basin là Tượng đài Washington. Cửa sổ duy nhất trong phòng của tôi cũng nhìn ra hướng ấy. Phòng của tôi chỉ vừa đủ rộng để đặt một chiếc bàn, một chiếc ghế cho khách, một giá sách nhỏ và hai tủ sắt bảo mật chắc chắn, mỗi tủ có bốn ngăn để đựng tài liệu. Chỗ làm việc của tôi có ưu điểm là nó chỉ cách cửa văn phòng McNaughton có vài bước chân. Giữa chúng tôi chỉ có bàn làm việc của thư ký cho ông ấy đặt ngay trước cửa phòng. Hai bàn làm việc nữa được đặt ở khoảng trống phía bên kia cửa trong phòng thông ra hành lang Lầu Năm Góc. Phụ tá quân sự kiêm người quản lý văn phòng của McNaughton cùng trợ lý của phụ tá này là Thiếu tá Harry Harris làm việc trong các phòng cạnh phòng tôi. Chúng tôi ở tầng ba, khu E, gần cửa hướng ra sông - một khu vực lý tưởng ở Lầu Năm Góc do nằm ngay gần văn phòng của Bộ trưởng McNamara. Sau khi chuyển vào văn phòng mới, tôi bày tỏ nguyện vọng được tiếp cận mọi thứ đến từ hay nói về Việt Nam với viên phụ tá quân sự. Anh ta hỏi tôi: “Mọi thứ sao? Tất tật?”. “Đúng vậy. Tất tật”. Sáng hôm sau, khi tôi đến, giữa bàn làm việc và cửa sổ phòng tôi là hai chồng giấy tờ ngay ngắn, cao gần bằng nhau và nhỉnh hơn tôi một chút. Tôi cao gần 1,8m. Cẩn thận để không làm đổ chúng, tôi chuyển một tập tài liệu dày nằm trên cùng của một chồng ra bàn làm việc rồi bắt đầu đọc. Không có tài liệu nào một trang. Tài liệu nào cũng là nhiều trang báo cáo, thông báo, câu hỏi, lời nhắn được dập ghim lại. Hầu hết 64 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam chúng không phải tài liệu gốc mà là bản sao của những tài liệu được gửi đến một người hay phòng ban nào đó ở Vụ An ninh Quốc tế - Bộ Quốc phòng (ISA). Nhiều tài liệu trong số này được gửi chiếu lệ cho Phó Trợ lý Bộ trưởng, ISA, nhưng ngài Phó Trợ lý không cần phải đọc chúng; trung tâm thư tín sẽ gửi bản sao những tài liệu này đến các phòng ban phụ trách các vấn đề hay thực hiện theo đúng yêu cầu của người gửi. Tôi nhanh chóng biết được rằng hầu hết những tài liệu này sẽ không được gửi ngay đến văn phòng trợ lý bộ trưởng; trung tâm thư tín giao cho văn phòng nhiệm vụ gửi hay tóm tắt, tóm lược những tài liệu đó để gửi lên trên nếu xác định chúng cần được các quan chức cấp cao xử lý. Phần lớn công việc của tôi là sàng lọc tài liệu để McNaughton đọc, đã được nhiều người với nhiều nhiệm vụ khác nhau thực hiện từ trước. Nhưng tôi đề nghị được xem “mọi thứ” và họ đã đưa cho tôi đúng như vậy. Văn phòng làm đúng theo lệnh. Bên kia bàn làm việc của tôi là một túi đựng tài liệu để đốt, một túi giấy to, cao đến eo tôi, làm bằng giấy nâu, đủ cứng để đứng được, miệng túi được gập lại, nơi tôi có thể vứt vào đó những tài liệu tuyệt mật được bỏ đi. Tôi không phải chuyển giấy tờ gì cho bất kỳ ai ngoại trừ McNaughton vì những người có thể cần nó đã có bản sao riêng rồi. Mọi tài liệu đều được xếp hạng bảo mật. Rất ít tài liệu được xếp hạng “lưu hành nội bộ” - mức an ninh thấp nhất trong hệ thống phân hạng tài liệu mật. Phần lớn chúng là những báo cáo tuần theo thông lệ từ các cấp thấp nhất ở Lầu Năm Góc, những bản yêu cầu hỗ trợ hậu cần hay văn bản phúc đáp và chúng sẽ nhanh chóng được cho vào túi tài liệu để đốt. Hầu hết các tài liệu khác là tài liệu “bí mật” hoặc “tuyệt mật”. Đó là các điện tín từ đại sứ quán của Mỹ ở Sài Gòn, từ Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV), các phòng ban của mỗi cơ quan này, các cơ quan khác đang thực hiện nhiệm vụ ở Việt Nam, các phòng ban thuộc Bộ Ngoại giao hay Lầu Năm Góc, các bản đánh giá tình báo từ CIA, Cục Tình báo quốc phòng (DIA) hay Phòng Nghiên cứu tình báo (INR) trực thuộc Bộ Ngoại giao - những tài liệu này có vẻ đáng chú ý - và các bản kế hoạch, báo cáo hằng tuần hay hằng tháng, các bản thắc mắc và giải đáp. Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 65 Nửa giờ đầu, tôi còn rụt rè khi vứt tài liệu vào túi, nhưng chẳng bao lâu sau, tôi đã thẳng tay ném chúng đi. Đến trưa, túi đã đầy và được đem đi để đốt ở đâu đó dưới hầm, còn tôi được phát cho hai túi mới. Khối lượng công việc thật khủng khiếp. Chỉ riêng việc đọc lướt qua một trong số tài liệu đó thôi cũng đã mất nhiều hơn một ngày làm việc 12 giờ của tôi (vì cũng có một số tài liệu cần xem kỹ hơn một chút). Tôi không nhớ liệu mình có đọc hết chỗ tài liệu ấy trước tối hôm ấy không, nhưng tôi nghĩ là không. Ngày hôm sau, khi tôi đến, đã có hai chồng tài liệu mới ở trong phòng tôi, được đưa đến trung tâm vào chiều hay tối hôm trước. Thêm một đống tài liệu dày 3,6 mét. Phần lớn chúng đến từ Việt Nam, được gửi vào ban ngày theo giờ Việt Nam, trước Mỹ 12 giờ đồng hồ. Và ngay khi tôi có thời gian đọc chúng thì lại có những loạt tài liệu mới tới ngay trong ngày, được gửi tới từ cả Việt Nam lẫn trong nội bộ Washington. Đến sáng ngày thứ ba, tôi nhận ra cần phải thay đổi lại yêu cầu của mình. Cuối cùng, tôi cắt giảm được lượng tài liệu mỗi ngày xuống còn hai chồng giấy trên bàn tôi, mỗi chồng cao 76cm, tức là cắt giảm được từ 3,6 mét xuống còn 1,5 mét. Để làm được thế, tôi yêu cầu chỉ được gửi những tài liệu tuyệt mật, một số báo cáo và bản đánh giá thường lệ nhất định, những bức điện thuộc các mục ký hiệu “chỉ dành riêng cho người nhận”, “NoDis”, “ExDis” và “LimDis”. Ba mục sau là mục xếp hạng điện tín hay báo cáo mà Bộ Ngoại giao sử dụng ngoài quy ước xếp loại bí mật. Chúng lần lượt có nghĩa là: “LimDis” - lưu hành ở mức giới hạn, tức là tài liệu không được gửi đến mọi cơ quan có liên quan, “ExDis” - lưu hành giữa một số cơ quan nhất định, và “NoDis” - không lưu hành, chỉ dành cho văn phòng cấp cao mà tài liệu được gửi đến. “NoDis”, gửi đến một hay nhiều văn phòng nhất định là những tài liệu có hạng bảo mật tương đương với mục “chỉ dành riêng cho người nhận”. Mục đích của hệ thống phân hạng này là để kiểm soát và giám sát ai biết - và không được biết - điều gì trong một hệ thống trách nhiệm và bảo mật vô cùng phức tạp. 66 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Tên tôi không bao giờ có trong danh sách địa chỉ thuộc mục “chỉ dành riêng cho người nhận” và cái tên John McNaughton cũng ít khi xuất hiện trong danh sách này. Khi nhìn thấy nhãn hay đề mục ấy là lúc tôi đang đọc bản sao của một tài liệu mà về nguyên tắc, theo yêu cầu của người chỉ định, không được phép sao chép hay gửi cho tôi hay sếp của tôi. Vụ An ninh Quốc tế - Bộ Quốc phòng (ISA) hay và Trợ lý Bộ trưởng (chứ đừng nói đến trợ lý đặc biệt của Trợ lý Bộ trưởng) cũng ít khi có tên trong danh sách người nhận “NoDis” theo chế độ phân hạng tài liệu mật của Bộ Ngoại giao. Thường thì không ai trong Lầu Năm Góc, kể cả ngài Bộ trưởng Quốc phòng, nằm trong danh sách nhận những tài liệu rất ít xuất hiện này, khi mà những tài liệu này thường chỉ được gửi cho Bộ trưởng Ngoại giao hay Tổng thống. Ấy vậy mà chúng lại đang nằm ngay trước mặt tôi, do trung tâm thư tín gửi đến. Rõ ràng là trên thực tế các tài liệu “NoDis” và “chỉ dành riêng cho người nhận” chỉ là những khái niệm tương đối, dùng để (ta phải giả định là người gửi cũng biết điều này, dựa vào kinh nghiệm) giảm số lượng người được xem các tài liệu bí mật hay tối mật từ vài nghìn hay vài trăm xuống còn vài chục hay thậm chí là một chục (không tính các bộ trưởng, người đưa thư hay các trợ lý đặc biệt). Để giảm số lượng này xuống thấp hơn nữa, đôi lúc người gửi sẽ bổ sung thêm những cảnh báo nghiêm ngặt vào tiêu đề bằng chữ hoa: “CHỈ DÀNH RIÊNG CHO BỘ TRƯỞNG” hay “CHO TỔNG THỐNG”. Tôi biết điều này vì tôi đang đọc loại tài liệu đó chứ không phải đánh cắp hoặc sao chụp lại những gì tôi đang đọc được. Nhưng việc này khá hiếm khi xảy ra và tôi biết rằng, được đọc những tài liệu này là một đặc quyền dành cho tôi hay kể cả cho John. John đang mạo hiểm đặc quyền này khi cho tôi đọc chúng trong văn phòng của ông ấy, còn tôi sẽ ngay lập tức mất đặc quyền ấy nếu để cho bất kỳ ai, kể cả cấp phó của ông ấy, biết rằng chúng có tồn tại hay tôi đã được đọc chúng. Điều này còn áp dụng với một số vấn đề khác và tôi phải học cách nhận biết. Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 67 Tôi đã học được điều ấy khi suýt bị sa thải vì một lỗi sau vài tuần làm việc tại văn phòng này. Tôi nói chuyện điện thoại với Mike Forrestal, nhân viên Nhà Trắng từng làm điều phối viên cho cơ quan liên ngành về các vấn đề Việt Nam. Theo như tôi hiểu, giờ anh ấy làm công việc tương tự ở Bộ Ngoại giao. Tôi đã trích dẫn cho anh ấy thông tin từ một bức điện mật có trên bàn tôi, được gửi từ đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, được xếp loại “NoDis” và “chỉ dành riêng cho Bộ trưởng Ngoại giao và Tổng thống”. Anh ấy đã rất ngạc nhiên trước thông tin này và bảo rằng anh chưa được đọc nó. Tôi cũng rất ngạc nhiên. Tôi đọc cho anh mã số bức điện và cho biết nó nằm trong loạt báo cáo hằng tuần ngài đại sứ đích thân gửi. Bức điện được đánh mã đặc biệt, cho biết số loạt của tài liệu, giới hạn phạm vi lưu hành mà có vẻ là rất hẹp. Nhưng tôi lại nhận được một bản sao và McNaughton cũng vậy. Tôi bảo Forrestal rằng chúng rất đáng quan tâm và anh ấy nên tìm cách được vào danh sách nhận chúng. Chỉ vài tiếng sau, McNaughton gọi tôi vào văn phòng. Tôi chưa từng thấy ông ấy giận dữ đến thế. Ông ấy hỏi tôi: “Anh đã kể với Mike Forrestal về loạt điện tín mới gửi của đại sứ quán phải không?”. Tôi trả lời: “Đúng thế ạ. Hình như anh ấy không biết về chúng, trong khi rõ ràng là anh ấy cần đọc chúng”. John nhìn tôi một lúc lâu rồi bảo: “Tôi không chắc anh có thể tiếp tục làm công việc này. Tôi được lệnh sa thải anh. Tôi đang gặp rắc rối lớn về chuyện này”. Ông ấy nhìn ra chỗ khác, trầm tư, tay gõ lên bàn. Tôi nghĩ thầm: Chẳng lẽ không thể chia sẻ tài liệu của Bộ Ngoại giao với Mike Forrestal sao? Theo tôi biết, anh ấy là người điều phối các hoạt động dân sự về Việt Nam từ Washington mà? Con trai của Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên, một người thân tín có tiếng của Tổng thống Kennedy về vấn đề Việt Nam? Đành rằng Tổng thống mới đã lên nắm quyền, nhưng Forrestal ít nhất vẫn có một chân trong Nhà Trắng. Sao lại không cho anh ấy xem tài liệu hằng tuần mà chúng tôi được xem? (Lý do duy nhất sau này tôi có thể nghĩ ra để giải thích mức độ nhạy cảm 68 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam của vấn đề này là có lẽ danh sách mật mã được lập ra theo yêu cầu của Đại sứ Maxwell Taylor - vì những lý do cá nhân mà tôi không bao giờ được biết - để ông ấy trao đổi riêng với hai cấp trên của mình và không muốn thông tin đến tay Forrestal, đồng nghiệp trước đây của ông ấy ở Nhà Trắng). Sau cùng, John nói: “Thôi, anh cũng mới làm việc. Cha tôi từng nói: “Ai cũng có lần mắc sai lầm”. Đây là lần duy nhất anh được tha thứ. Thật đấy, Dan, từ giờ hãy thận trọng hơn”. Trong lúc đó, ông ấy tiếp tục phải trả giá cho sai lầm của tôi. Văn phòng của ông ấy không còn được nhận loạt tài liệu này nữa. Chỉ một bản sao được gửi đến Lầu Năm Góc cho văn phòng của Bộ trưởng McNamara. McNaughton phải đến đó để đọc những tài liệu này, được kẹp vào một bảng giấy và không ai được phép gỡ chúng ra. Đó là cách ta học giữ bí mật. Sau cùng, tôi không bị mất việc. Sau nhiều năm chuyển qua lại giữa các phòng ban khác nhau tại Lầu Năm Góc trên cương vị chuyên gia tư vấn của Rand, tôi không phải là mới làm quen với việc suy xét thận trọng. Nhưng McNaughton đã đúng khi cho rằng công việc mới này sẽ là một cơ hội học hỏi dành cho tôi. Tôi còn phải học hỏi rất nhiều về phương pháp làm việc của một nhân viên chính thức trong một cơ quan chính phủ, một nhân viên cấp cao được tin cậy, dưới quyền cấp trên của tôi. Dĩ nhiên, trong ví dụ cụ thể này, McNaughton cũng ở tình thế tương tự. Tôi đã học hỏi được rất nhiều từ việc quan sát ông ấy tại các cuộc họp liên ngành, nơi ông đại diện cho những quan điểm của Bộ trưởng McNamara, những điều mà tôi biết là không phải lúc nào ông ấy cũng đồng tình. Một lần, trong bữa trưa, một quan chức Bộ Ngoại giao rõ ràng là không biết rõ John lắm đã bảo với tôi rằng sếp của tôi là người thẳng thắn nhất Washington. Sau bữa trưa, tôi kể lại chuyện ấy với John và trấn an ông rằng: “Tôi đã bảo vệ thanh danh của ông. Tôi bảo anh ta là ông là người quanh co nhất Washington”. John niềm nở cười và đáp: “Cảm ơn anh”. Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 69 Tôi thường quan sát cách hành xử của McNaughton trước các phóng viên, vì mỗi khi được phỏng vấn, ông ấy lại gọi tôi vào văn phòng. Đây là một cách để ông ấy bảo vệ mình - có lẽ đó còn là yêu cầu bắt buộc của công việc - vì sẽ có nhân chứng xác nhận ông ấy không phải là người cung cấp những thông tin bí mật hay nhạy cảm cho bài báo được đăng sau đó. Tôi quan sát ông ấy và cảm thấy vô cùng thán phục. John thật khéo léo. Mỗi khi nhắc đến những vấn đề mà ông ấy không thể nói thật hay giải thích rõ ràng, chất giọng địa phương vùng Pekin, Illinois của ông lại càng nặng cho đến khi nghe như ai đó đang bàn chuyện ngô lúa ở một hội chợ vùng quê hay đang đứng trên lan can của một con thuyền trên sông. Bạn sẽ tưởng mình đang nói chuyện với một nông dân. Ông không ngại tỏ vẻ quê mùa để lảng tránh vấn đề. Cấp trên sau này ở Việt Nam của tôi là Edward Lansdale cũng sẵn sàng giả vờ “ngơ ngác” khi ông ấy không muốn nói thẳng, đặc biệt là với người ngoài. Với cả hai người, phương pháp này rất hiệu quả. Sau khi nghe cấp trên của tôi nói những lời không thật lòng cả tiếng đồng hồ, cảnh phóng viên sẽ bảo tôi rằng cấp trên của tôi thật “thẳng thắn” so với những người được phỏng vấn khác. Tôi nhận ra rằng cánh phóng viên, kể cả những người giỏi nhất, cũng không hề hay biết rằng họ bị nói dối thường xuyên và quá đáng như thế nào. Tôi không ngại việc nói dối, nhưng ở một số trường hợp trong năm đó tôi cảm thấy có những chuyện bịa đặt quá dễ bị lật tẩy và điều đó khiến tôi lo lắng. Nhưng hầu hết lo lắng của tôi là thừa; những chuyện ngụy tạo ấy đứng vững đến bất ngờ. Chỉ có một lần lo lắng của tôi thực sự hữu ích. Bàn làm việc của John có một điện thoại luôn kết nối với McNamara. Hễ chuông điện thoại kêu và đèn trên đó nháy sáng thì dù có đang nói chuyện dở với ai, John cũng sẽ ngay lập tức nhấc máy và trả lời dứt khoát: “Tôi đây, Bob”. Sau đó, hoặc là ông ấy sẽ ghi chép gì đó, hoặc là ông sẽ băng qua chái phía trong và rồi chái phía ngoài văn phòng của ông, đôi chân dài rảo bước nhanh, chỉ chậm hơn chạy một chút, xuôi hành lang 70 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam của khu E tòa nhà để đến văn phòng bộ trưởng. Ông ấy không thích các sĩ quan quân sự nhìn thấy mình chạy trong hành lang. Một sáng, gần 8 giờ, vài phút sau khi nhận điện và phóng ngay đến văn phòng của McNamara, John quay trở về phòng. Ông ấy bảo tôi rằng: “Một máy bay không người lái Blue Springs đã rơi xuống Trung Quốc. Bob sẽ gặp báo chí vào lúc 8 giờ 30 phút sáng. Chúng ta có 10 phút để viết sáu phương án nói dối cho ông ấy”. Tôi nhớ đó là lần duy nhất từ “nói dối” được sử dụng. Blue Springs là mật danh của chương trình gián điệp sử dụng máy bay không người lái để thu thập hình ảnh do thám. John ném cho tôi một tập giấy vàng, tôi kéo ghế ra phía đối diện bàn làm việc của ông ấy. Chúng tôi ngồi đối diện nhau, tay viết nhanh nhất có thể trong vòng 10 phút. Không có thời gian để chúng tôi thảo luận cho tránh trùng ý nhau. Những ý tưởng đầu tiên là những giải thích hiển nhiên nhất, có lẽ cũng là điều cả hai chúng tôi đều nghĩ đến. Nếu Trung Quốc đã công bố vụ việc này thì: Một, chúng tôi không biết máy bay này thuộc bên nào; đó không phải máy bay của chúng tôi. Hai, đó là máy bay của Quốc Dân Đảng. Trong lúc chúng tôi đang viết, tôi hỏi ông ấy: “Máy bay có nhãn hiệu của Mỹ không?”. John không ngẩng lên và trả lời: “Ai mà biết được?”. Ba, đó là máy bay không người lái thử nghiệm bay chệch hướng. Bốn, nó đang lấy dữ liệu về thời tiết thì bị đẩy đi chệch hướng. Đó là ý tưởng được đưa ra khi tôi nhớ đến vụ máy bay U-2 của phi công Gary Powers rơi xuống Nga năm 1960. Câu chuyện ngụy tạo hồi ấy không có tác dụng lắm, vì Liên Xô đã bắt sống được phi công và ban đầu Khrushchev không cho chúng ta biết điều này. Máy bay lần này không có phi công, nhưng nếu Trung Quốc tìm thấy các máy quay của Mỹ thì sao? Tôi phải sáng tạo hơn nữa. McNaughton nhìn đồng hồ, 10 phút đã hết. Ông ấy cầm tập giấy của tôi, vừa chạy đi vừa nhìn sáu lời giải thích tôi đưa ra. Khi ông ấy chuẩn bị rời chái phía ngoài văn phòng, tôi hỏi với theo: “Sao ông ấy không bảo “Miễn bình luận”?”. Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 71 John đáp vọng lại: “Bob sẽ không nói “Miễn bình luận” với cánh báo chí”. Vài phút sau, ông ấy quay về và vẫy tay chỉ tôi ngồi xuống bàn ông ấy lần nữa. Ông xé những trang giấy chúng tôi đã viết và đẩy tập giấy về phía tôi. Ông ấy bảo: “Bob thích chúng. Ông ấy muốn có bốn lời giải thích nữa. Chúng ta có năm phút”. Chúng tôi lại viết thật nhanh. Tôi đã nghĩ ra thêm một lời giải thích nữa trong thời gian ông ấy rời văn phòng, nhưng để nghĩ thêm, tôi phải vận dụng sức sáng tạo hơn nữa. Tôi không nhớ mình đã nghĩ ra thêm những gì. Đúng năm phút sau, khi John đang xé các trang giấy mới khỏi tập giấy, tôi bảo: “Khoan đã, tôi nghĩ ông ấy rất nên cân nhắc việc nói “Miễn bình luận” trong vấn đề này”. Tôi đã suy nghĩ khá kỹ trong lúc John rời khỏi văn phòng. “Tôi nghĩ người Trung Quốc có đủ tàn tích máy bay để chứng minh những lời giải thích này là dối trá. Cánh phóng viên hiểu chuyện thu thập tình báo và họ đã chán bị nói dối. Tôi nghĩ họ thà nghe rằng chúng ta không muốn nói gì còn hơn”. Dù đang vội, John vẫn chăm chú lắng nghe như lúc bình thường. Ông ấy gật đầu: “Tôi không nghĩ ông ấy sẽ làm thế, nhưng tôi sẽ bảo ông ấy anh đã đề xuất như vậy”. Rồi ông rời đi ngay lập tức. Lúc đó là 8 giờ 25 phút. Hơn 9 giờ 1 chút, John trở về từ buổi họp báo. Tôi hỏi tình hình họp báo thế nào. Ông ấy trả lời: “Tôi bất ngờ lắm. Có ai đó nêu ra vấn đề báo cáo về Trung Quốc và ông ấy đã dùng cách của anh. Ông ấy bảo: “Tôi không có bình luận gì về vấn đề này”, rồi gọi câu hỏi tiếp theo. Tôi chưa từng nghĩ ông ấy sẽ làm thế”. “Vậy tình hình họp báo thế nào?” “Cánh báo chí có vẻ thích điều đó! Họ không căn vặn ông ấy nữa”. Vài phút sau, một trong những phóng viên thường làm việc với Lầu Năm Góc ghé vào chái ngoài văn phòng của chúng tôi sau khi rời phòng họp báo của McNamara. Tôi cũng đang đứng ở đó và anh ta bảo tôi: 72 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam “Nghe này, hãy bảo với sếp anh là câu “Miễn bình luận” đem lại cảm giác mới lạ. Tôi không nghĩ McNamara có thể nói thế đấy”. Thực ra, đúng như tôi nghĩ, câu nói ấy hữu hiệu ở chỗ nó ám chỉ lĩnh vực lén lút thu thập tình báo, một lĩnh vực mà bản chất bí mật của nó được các phóng viên của Mỹ tôn trọng và không cố điều tra. Nhưng cách này không phải lúc nào cũng có tác dụng. Ta không thể nói “Miễn bình luận” khi muốn ngăn chặn những câu hỏi tiếp theo, những câu hỏi mà hầu như chắc chắn sẽ được nêu ra. Rồi sau đó, chỉ còn một cách mà những người không hiểu chuyện sẽ gọi là nói dối. Hồi ấy, cách này hầu như lúc nào cũng có tác dụng. Kể cả bên trong hệ thống hành pháp, khả năng tự khống chế mình khi chia sẻ thông tin - trừ trường hợp “cần phải nói” - và khả năng che giấu sự thật dưới hình thức suy xét thận trọng vẫn là những yêu cầu cơ bản cho nhiều công việc. Có rất nhiều người, giống như tôi và John, đáp ứng đầy đủ dạng yêu cầu này. Kết quả là, một bộ máy giữ bí mật được xây dựng dựa trên những quy trình, phương thức hiệu quả và những động lực thăng tiến sự nghiệp. Bộ máy này đã cho phép Tổng thống lập ra và thi hành một chính sách đối ngoại bí mật ở một mức độ nằm ngoài trí tưởng tượng của những người ngoài thạo thông tin nhất, kể cả cánh báo chí và nghị sĩ Quốc hội. Người ta vẫn hay nói rằng “không thể giữ bí mật ở Washington” hay “trong chế độ dân chủ”, và như thế có nghĩa là “dù bí mật có nhạy cảm đến đâu cũng có thể đọc được chúng trên tờ New York Times ngày hôm sau”. Những điều tưởng chừng hiển nhiên này lại hoàn toàn là sai. Trên thực tế, chúng chỉ là những câu chuyện ngụy tạo, những phương cách để tâng bốc và đánh lạc hướng cánh nhà báo và độc giả, một phần trong quy trình giữ bí mật hiệu quả. Dĩ nhiên là sau cùng nhiều bí mật vẫn lọt ra ngoài theo cách sẽ không thể xảy ra trong một xã hội hoàn toàn chuyên chế. Sự ganh đua giữa các cơ quan chính phủ, đặc biệt là trong vấn đề phân bổ ngân sách thường dẫn đến việc rò rỉ thông tin. Thêm nữa, ở một mức độ nào đó, số người biết bí mật càng nhiều thì khả năng Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 73 bí mật được giữ kín trong một khoảng thời gian nhất định càng thấp. Những người giữ bí mật vẫn thường nói: “Khả năng duy nhất để ba người giữ kín được một bí mật là nếu hai trong số họ đã chết”. Nhưng sự thật là hầu hết bí mật không hề rò rỉ ra công chúng Mỹ. Điều này cũng đúng kể cả khi kẻ thù đã nắm rõ thông tin ấy, hay khi thông tin ấy có tính chất quan trọng đối với nhiệm vụ định đoạt chiến tranh của Quốc hội và trong bất kỳ cơ chế kiểm soát dân chủ đối với việc hoạch định chính sách ngoại giao nào. Sự thật mà công luận, truyền thông và hầu hết các nghị sĩ Quốc hội không biết là những bí mật có ý nghĩa quan trọng với nhiều người trong số họ có thể được hệ thống hành pháp giữ kín trong nhiều thập niên, dù cho hàng nghìn người làm việc trong hệ thống ấy đã biết rõ chúng (Xem Chương 3). Là một trong những người làm việc trong hệ thống ấy, tôi không phản đối điều này. Tôi chia sẻ quan điểm phổ biến trong hệ thống hành pháp, ít nhất là trong công việc của mình trong hệ thống ấy: Nếu Quốc hội, truyền thông và công luận biết quá nhiều về những việc Tổng thống đang làm cho họ với sự giúp đỡ của chúng tôi thì điều ấy, may thì là thừa thãi và vô hại, rủi thì sẽ cổ xúy những cá nhân thiếu thông tin (thiếu hiểu biết), thiển cận và tư tưởng hẹp hòi can thiệp và phá rối những vấn đề quá phức tạp so với trình độ nhận thức của họ. Điều này nghe có vẻ độc đoán tới mức phản dân chủ, và đúng là như vậy (Và giờ vẫn vậy: Tôi e rằng điều này chưa hề thay đổi). Nhưng chúng ta đang bàn đến chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia. Trong những vấn đề này, chúng tôi cho rằng người ngoài không nhất thiết đóng vai trò hữu ích trong thời kỳ chiến tranh lạnh hạt nhân. Chúng tôi cũng cho rằng vì lợi ích quốc gia, chúng tôi chỉ có thể nói cho họ những điều sẽ giúp Tổng thống không bị họ can thiệp. Kể cả khi tôi nhận thấy chính sách của chính phủ là yếu kém hay sai lầm, nhất là trong vấn đề hạt nhân, tôi ít kỳ vọng Quốc hội sẽ thay đổi được chúng khi mà lãnh đạo các ủy ban trong Quốc hội thường là những người miền nam bảo thủ. Là người làm việc cho chính phủ và 74 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam nhận ra rằng Quốc hội, công luận và báo chí dễ bị lừa và đánh lạc hướng thế nào, tôi đã bớt tôn trọng họ và đánh giá thấp khả năng cải thiện chính sách của họ. Bởi thế, tôi dễ dàng chấp nhận, tham gia và giữ im lặng về những bí mật và lời nói dối của chính phủ, những thứ sẽ tiếp tục lừa gạt công chúng và che giấu những vấn đề thực sự, những vấn đề đang khiến các nhà lãnh đạo bên trong hệ thống hành pháp bận tâm và chia rẽ. Vì vậy, Quốc hội, công luận và báo chí càng biết ít thì họ càng phải để yên cho chúng tôi xử lý những vấn đề trên. Môi trường làm việc bên trong hệ thống hành pháp còn có một đặc điểm nữa khiến chúng tôi coi nhẹ ý kiến hay chỉ trích của người ngoài, và như thế càng khó lòng lắng nghe hay học hỏi điều gì từ họ. Đó là nhịp độ làm việc liên tục. Đây cũng là phát hiện khiến tôi bất ngờ nhất sau khi chuyển từ một chuyên gia tư vấn sang một nhân viên chính phủ ở cấp bậc như hiện tại. Tôi đã miêu tả áp lực từ khối lượng thông tin và yêu cầu thông tin khổng lồ. Một quan chức cấp cao phải tự bảo vệ mình bằng một hệ thống sàng lọc tinh vi; tôi chỉ là một trong những công cụ sàng lọc ấy cho McNaughton. Như bạn tôi, Alain Enthoven, đã nói sau khi rời Rand để trở thành trợ lý phụ trách phân tích hệ thống cho Bộ trưởng Quốc phòng, chuyện này giống như là “uống nước từ vòi cứu hỏa”. Và không chỉ là một vòi cứu hỏa. Một phát hiện nữa của tôi là khối lượng công việc của một Trợ lý Bộ trưởng, hay thậm chí là Phó Trợ lý Bộ trưởng. Chồng giấy cao hơn ba mét rưỡi mà tôi phải đọc mỗi ngày chỉ là về Việt Nam. Nhưng đó mới chỉ là một khu vực, một trong hàng chục vấn đề mà McNaughton phụ trách, dẫu đây là vấn đề McNamara muốn ông ấy đặc biệt chú ý. McNaughton khuyến khích tôi xem qua mọi thứ về Việt Nam được các phụ tá quân sự hay cấp phó đặt lên bàn ông ấy. Nhưng chúng cũng chỉ chiếm hai, ba trong số tám hay chín chồng hay rổ tài liệu trên bàn ông ấy vào khi đó. Đó là những tài liệu về châu Âu, NATO hay một nơi nào đó ở châu Á hay trên thế giới cùng những chương trình viện trợ quân sự, phiên điều trần, bài phát biểu hay Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 75 lời chứng thực dự kiến của Bộ trưởng hay Tổng thống về một vấn đề nào đó trong ngày hôm ấy. McNaughton - người từng viết sách giáo khoa về vấn đề bằng chứng khi còn là giáo sư luật - có khả năng tập trung rất cao. Tôi cũng vậy, nhưng trước đây tôi chỉ quen tập trung trong khoảng thời gian dài, vài ngày hay vài tháng, chứ không phải chỉ vài giờ, cho một lĩnh vực cụ thể. Nhưng tôi đã thấy McNaughton thường xuyên chuyển sự chú ý của mình, từ việc cân nhắc thận trọng đối với một chồng tài liệu về một vấn đề nào đó sang một chồng tài liệu khác về một vấn đề hoàn toàn khác ở một khu vực địa lý khác với thời gian không quá lâu. Ông ấy có một nghi thức mà tôi được chứng kiến hàng trăm lần. Tôi nghĩ đó không chỉ là một trò đùa mà còn là một phương pháp tập trung không chỉ mang ý nghĩa tượng trưng. Ông ấy thường dành 35 phút đã phân bổ rõ ràng để nghiên cứu một chồng tài liệu về một vấn đề nhất định nào đó đã được “sàng lọc” từ trước để ông ấy xem xét và quyết định - các tài liệu cơ sở, điện tín và đánh giá có liên quan cũng như các phương án đề xuất, báo cáo phân tích đã được đánh dấu để ông ấy chọn - ký tên chấp thuận một đề xuất nào đó, đánh dấu vào ô “Đồng ý” hay “Không” do một phó trợ lý hay phụ trách bộ phận nào đó chuẩn bị sẵn, hay yêu cầu thêm thông tin và tài liệu. Sau 35 phút nói trên, ông ấy sẽ ngẩng lên nhìn đồng hồ và đẩy chồng tài liệu đó ra xa. Sau đó, ông ấy sẽ duỗi thẳng bàn tay, áp hai tay lên một bên đầu, dừng lại một giây, rồi cẳng tay dứt khoát đẩy đầu xoay về phía chồng tài liệu ông ấy phải nghiên cứu tiếp theo, nằm ở một góc bàn khác. Thỉnh thoảng, sau khi làm thế, ông ấy sẽ ngẩng lên và cười với tôi, nhưng tôi thường thấy ông ấy làm thế từ ngoài cửa, khi không có ai khác trong văn phòng. Đó là cách để ông xóa khỏi trí não, kho lưu trữ ngắn hạn của ông ấy những gì ông vừa tập trung nghiên cứu và chuyển toàn bộ sự chú ý sang một vấn đề hoàn toàn khác trong 27 phút tiếp theo. Áp lực này tồn tại ở mọi văn phòng ở cấp ấy: Văn phòng phân tích hệ thống của Alain Enthoven, văn phòng trợ lý cho McNamara của 76 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Adam Yarmolinsky hay văn phòng của McGeorge Bundy tại Nhà Trắng. Ai cũng có cách riêng để đương đầu với áp lực. McNaughton thường nắm chặt tay lại đến khi các khớp ngón tay trắng bệch. Có người thì bẻ ngón tay liên tục. Mỗi khi Alain phải suy nghĩ kỹ và nhanh, anh ấy thường có một thói quen rất thu hút là cầm đầu nhọn của cây bút chì tung lên cao, rồi bằng cách nào đó bắt được tại đúng phần đầu nhọn đó mà không cần nhìn. Tuy bản thân cũng biết vài trò ảo thuật và tung hứng, nhưng tôi không tài nào biết sao anh ấy làm được thế. Nhìn anh ấy làm thế thì không ai nghĩ được gì. Tôi nghe nói, các đô đốc bốn sao đã nổi cáu khi anh ấy làm thế trong khi nói chuyện với họ. Mọi thứ là một sự khủng hoảng. Việc gì cũng có thời hạn: Một bài phát biểu phải được đưa cho ai đó, một bản điều trần trước Quốc hội hay một cuộc họp báo đã được lên kế hoạch, một đề nghị hay yêu cầu của một nguyên thủ quốc gia cần được trả lời ngay lập tức. Vấn đề nào cũng liên quan đến việc lựa chọn chính sách, mà việc lựa chọn chính sách lại đòi hỏi phải được phối hợp thực hiện từ trước với các cơ quan khác và với Nhà Trắng. Trước đây, khi còn là chuyên gia tư vấn ở ISA, tôi cũng đã nếm trải áp lực trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Nhiều đêm liền, tôi chỉ ngủ vài tiếng đồng hồ trên chiếc sofa bọc da trong văn phòng giờ thuộc về John (hồi đó, nó thuộc về Paul Nitze). Nhưng giờ, tôi biết rằng khủng hoảng xuất hiện mỗi ngày và thường xuyên có vài cuộc khủng hoảng đến cùng một lúc. Giữa tháng Mười năm 1964, chỉ trong vòng 48 giờ đồng hồ, Trung Quốc đã lần đầu tiên cho thử một đầu đạn hạt nhân, Khrushchev bị hạ bệ khỏi cương vị lãnh tụ Liên Xô, còn chính phủ Đảng Bảo thủ ở Anh thì bị người Công Đảng thay thế. Thế nhưng, trong những ngày ấy, những sự kiện chấn động quốc tế này không phải là mối bận tâm thường trực của quan chức cấp cao nước ta. Tôi thay mặt McNaughton tham dự cuộc họp liên ngành ở Bộ Ngoại giao về hệ quả của hai sự kiện đầu tiên (sự kiện thứ hai hoàn toàn không được dự liệu trước). Cấp trên của tôi không có mặt, vì theo tôi nhớ thì ông ấy, Bộ trưởng McNamara và Bộ trưởng Rusk đang tham dự loạt cuộc họp bàn về việc Mỹ có nên ủng hộ chiến dịch bí mật sắp tới ở Cônggô của liên Chương 2: Người chiến sĩ của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật 77 minh Pháp - Bỉ hay không và nếu có thì bằng cách nào. Những cuộn băng ghi âm Nhà Trắng được tiết lộ gần đây32 cũng cho biết rằng vào thời điểm ấy, Tổng thống Johnson lúc đó đang dồn sức che giấu bê bối tình ái của Walter Jenkins - phụ tá thân cận nhất của ông ấy. Vụ bê bối này có nguy cơ đe dọa chiến dịch tranh cử của Tổng thống. Giờ tôi mới hiểu điều nghe được từ một số người tham gia giải quyết cuộc khủng hoảng tên lửa: Cảm giác khá thoải mái khi có một cuộc khủng hoảng quan trọng đến mức ta chỉ phải tập trung vào nó mà không vướng bận chuyện gì khác trong suốt 13 ngày liền. Tất cả những điều này đều thật thú vị. Nhịp độ làm việc phi thường và thông tin nội bộ khiến bạn cảm thấy mình thật quan trọng và luôn được hành động, luôn được thúc đẩy. Rõ ràng là cảm giác ấy gây nghiện. Mọi người bám chặt lấy công việc dù phải làm việc 70 giờ mỗi tuần và không có thời gian dành cho đời sống riêng tư. Nếu họ phải rời đi do thay đổi chính quyền hay vì các lý do tài chính hay cá nhân thì hầu hết cũng luôn tìm cách giữ cho mình ở một vị thế dễ nhận thấy nào đó để có cơ hội được mời quay lại làm việc với các bức điện tín, với quyền tiếp cận thông tin mật, với các cuộc khủng hoảng. Nếu bạn gặp họ ở “bên ngoài” sau khi họ đã rời chính phủ tại một cuộc họp phi chính phủ hay ở ngoài đường, trông họ thường khá lạc lõng. John McNaughton sống vì công việc “bên trong” đó. Một lần, trong lúc tôi đang lắng nghe ông ấy thực hiện một loạt cuộc gọi về chuyện nên tiếp tục hay đảo ngược những gì vừa xảy ra trong một cuộc họp mà ông ấy vừa tham dự trước đó, thì ông ấy quay ra nhìn tôi, cười miệng rộng hết cỡ, lấy tay che ống thoại và bảo: “Cậu biết đấy, nếu không phải vì tôi quá yêu công việc này thì tôi đã không chịu nổi nó”. Không khó để chúng tôi tự trấn an mình - và tôi nghĩ rằng, điều này đúng với mọi chính quyền - rằng dù cho chúng tôi có phạm sai lầm hay hạn chế gì thì chúng tôi cũng đang cố gắng hết sức và không ai trong số những êkíp muốn thay thế chúng tôi có thể đương đầu với những thử thách ấy tốt hơn chúng tôi. 78 HỒ SƠ MẬT LẦU NĂM GÓC và hồi ức về chiến tranh Việt Nam Mỗi khi quan sát John và (thỉnh thoảng) một nhà điều hành tài ba như McGeorge Bundy chuyển sự chú ý từ cuộc điện thoại này sang cuộc điện thoại khác, từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác, tôi thường liên tưởng đến một diễn viên xoay đĩa trong rạp xiếc, dùng những chiếc gậy dài, dẻo để quay tít hàng chục chiếc đĩa trong không trung. Người nghệ sĩ di chuyển khéo léo. Nếu một đĩa chệnh choạng sắp rơi, anh ta sẽ quay chiếc gậy, dùng vừa đủ lực để đĩa tiếp tục quay tròn trong khi anh ta cứu chiếc đĩa sắp rơi tiếp theo. Đó là một nghệ thuật phi thường. Cần phải có tài năng, năng lượng và ý chí xuất chúng để làm chủ được mọi thứ giống như họ mà ít khi mắc lỗi (và nếu đĩa có rơi thì họ cũng thường bắt được nó trước khi nó vỡ vụn). Nhưng nhiều lúc tôi tự hỏi: Họ ra quyết định như thế có thực sự ổn? Đối mặt với nhiều vấn đề cùng một lúc (phạm vi của chúng phản ánh nhận thức hậu chiến của Mỹ về “trách nhiệm”, quyền lực và quyền được thực hiện của mình) hoặc chỉ một trong số đó thôi, liệu làm việc theo cách này, họ có thể đưa ra những chính sách thỏa đáng và không dẫn đến thảm họa? Liệu những người tài trí và khéo léo như họ - xét về trí tuệ và năng lực, khó ai vượt qua bộ máy nhân sự của Kennedy mà John được thừa hưởng - có thể xử lý an toàn và sáng suốt nhiều thách thức cùng một lúc khi mà họ có rất ít thời gian và không thể tìm hiểu chúng cặn kẽ? Ta thực sự có thể điều hành thế giới như thế sao? Vài năm sau, Việt Nam đã có câu trả lời.