🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hồ Chí Minh Về Chống Quan Liêu, Tham Nhũng, Tiêu Cực
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương TRẦN THANH LÂM
Phó Chủ tịch Hội đồng
Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM MINH TUẤN
Thành viên
NGUYỄN HOÀI ANH
PHẠM THỊ THINH
NGUYỄN ĐỨC TÀI
TỐNG VĂN THANH
4
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực là kẻ thù nguy hiểm, là trở lực lớn đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, không chỉ làm mất đi sự trong sạch của bộ máy Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, phẩm chất đạo đức và vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức mà còn làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Công cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng và đấu tranh phòng, chống các biểu hiện tiêu cực của cán bộ, đảng viên là hai nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Hồ Chí Minh về chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực. Nội dung cuốn sách gồm những đoạn trích từ các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được in trong
5
bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập (Xuất bản năm 2021), thể hiện tư tưởng của Người về công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực. Bố cục cuốn sách gồm ba phần:
Phần I: Nhận diện quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; Phần II: Nguyên nhân, tác hại của quan liêu, tham nhũng, tiêu cực.
Phần III: Quan điểm, cách xử lý, giải pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực.
Cuốn sách là tài liệu tham khảo có giá trị cho cán bộ, đảng viên và những người quan tâm đến công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong giai đoạn hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 11 năm 2022
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6
Phần I
NHẬN DIỆN QUAN LIÊU,
THAM NHŨNG, TIÊU CỰC
I- GIAI ĐOẠN TRƯỚC NGÀY 2/9/1945
1. Còn như Chính phủ thuộc địa Pháp thì vẫn ngoan cố một cách ngây thơ cho rằng ở Đông Dương này muốn ràng buộc những người bản xứ thì chỉ cần vỗ về họ mãi mãi bằng những bài diễn văn long trọng, những luận điệu tuyên truyền gian ngoan và bằng những lời thề nguyện trung thành mà nó chỉ đáng giá ở chỗ người ta đặt vào đấy: trong cái xứ này do thiếu sót hay nói cho đúng hơn, là do ý định của Chính phủ, nên đâu đâu từ trên xuống dưới cũng đều có cái nạn tham nhũng mua quan bán chức, những bọn người mua bán được bằng tiền thì không phải là những thứ
hàng hóa hiếm.
“Đông Dương và Triều Tiên”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.1, tr.19.
7
2. Vụ bê bối thứ hai là vụ Têa. Đây là điều bạn đồng nghiệp của chúng tôi ở Đông Dương kể lại: “ … Tất cả những kẻ có quyền hành như vậy cũng đều sẽ lợi dụng để vơ vét của cải cho bản thân mình và bằng cách đó sẽ mang lại tổn thất lớn cho xã hội”.
“Từ vụ bê bối này đến vụ bê bối khác”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.173-174.
3. Ông Đáclơ nguyên bán cháo, trước là quan cai trị tỉnh, bị lên án là ăn hối lộ, là cường hào và đã gây ra cuộc nổi dậy đẫm máu ở Thái Nguyên, đã được Chính phủ thuộc địa cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn.
Ông Têa, kỹ sư và giám đốc một hãng buôn lớn, bị tố cáo là có tội nhũng lạm mà không bị rầy rà gì.
Giờ đến lượt Buđinô, viên quan cai trị này bị kiện: đã đút túi số tiền lời một cuộc chợ phiên tổ chức nhân dịp khánh thành tượng đài tử sĩ; đã đòi và nhận một món tiền “bồi thường” lớn trả cho sự có mặt của mình trong buổi chôn cất một mụ nhà giàu bản xứ, đã đòi những món tiền lớn chè lá khi cấp một giấy phép hay giấy lệnh nào đó. “Diễn đàn Đông Dương”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.204.
8
4. Họ phải bỏ ra mấy chục ngàn đồng để chuộc lại cái mà họ đã phải “nhượng không”. Lần thứ hai này, vị quan cai trị đút túi thêm mấy tờ bạc lớn nữa.
Bị kiện vì tội buôn bán người chết, bóc lột người sống, tham ô lộ liễu, quan cai trị Buđinô vừa được công lý Pháp cho trắng án. Ngày mai có thể ông ta còn được huân chương.
Bao giờ người ta cũng vì uy tín chủng tộc, mà xá tội cho lũ “vô lại khả ố”. Bao giờ người ta cũng nhân danh nhân dân Pháp mà bắt công lý làm đĩ bợm.
“Diễn đàn Đông Dương”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.205.
5. Đó là vì họ bị ăn cắp khắp mọi phía, bằng mọi cách, do các quan cai trị, do bọn phong kiến tân thời và nhà thờ. Xưa kia, dưới chế độ An Nam, ruộng đất chia thành nhiều hạng tùy theo tốt xấu. Thuế đánh theo sự phân hạng ấy. Dưới chế độ
thuộc địa hiện nay, tất cả những cái đó đều thay đổi. Khi cần kiếm tiền các quan cai trị người Pháp chỉ việc bắt thay đổi hạng ruộng. Chỉ một nét bút thần kỳ là họ biến một đám ruộng xấu thành ruộng tốt. Thế là người dân cày An Nam buộc phải nộp thuế cho đám ruộng của mình nhiều hơn số họ thu hoạch được.
9
Như thế vẫn chưa hết. Người ta còn tăng diện tích ruộng đất một cách giả tạo bằng cách rút ngắn đơn vị đo đạc. Bằng cách đó, thuế lập tức tăng lên, nơi thì một phần ba, nơi thì hai phần ba. Điều đó chưa đủ để thỏa mãn lòng tham không đáy của Nhà nước bảo hộ cứ mỗi năm lại tăng mãi thuế lên.
“Tình cảnh nông dân An Nam”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.244.
6. Những đồn điền ấy phần nhiều được lập ra bằng lối ăn cắp hợp pháp hóa. Trong thời kỳ xâm lược, người dân cày An Nam, cũng như người Andátxơ năm 1870, đã bỏ ruộng đất của mình lánh sang những vùng còn tự do. Khi họ trở về thì ruộng đất của họ đã “thành đồn điền” mất rồi. Hàng bao nhiêu làng đã bị tước đoạt đi như thế, và người bản xứ lâm vào cảnh phải lao động cho bọn chúa phong kiến tân thời, bọn này chiếm đoạt có khi đến 90% thu hoạch.
“Tình cảnh nông dân An Nam”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.245.
7. Bên cạnh cái thế lực phần đời ấy còn có những đấng cứu thế phần hồn nữa, các đấng này trong khi truyền bá đức nghèo cho người An Nam, cũng không quên tìm cách làm giàu bằng mồ hôi và máu của người bản xứ. Ở Nam Kỳ, chỉ riêng
10
Hội Thánh truyền giáo cũng đã chiếm 1/5 ruộng đất trong vùng. Mặc dầu trong kinh Thánh không có dạy, song thủ đoạn chiếm đoạt những đất đai này cũng thật rất giản đơn: đó là thủ đoạn cho vay nặng lãi và hối lộ. Hội Thánh lợi dụng lúc mất mùa để cho nông dân vay tiền và buộc họ phải cầm cố ruộng đất. Vì lợi suất tính theo lối cắt cổ, nên người An Nam không thể trả nợ đúng hạn; thế là tất cả ruộng đất cầm cố bị rơi vào tay Hội truyền giáo.
“Tình cảnh nông dân An Nam”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.246.
8. Lụt lội, bão táp, nạn đói, nội chiến đều gây ra cảnh cùng khổ cho nông dân.
Bọn quan liêu tham nhũng của chế độ quan lại cũng chịu phần trách nhiệm gây ra cảnh đói khổ ấy.
“Tình cảnh nông dân Trung Quốc”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.252.
9. Một tai họa khác nữa là chủ nghĩa quân phiệt. Tất cả bọn tướng tá lớn nhỏ, kiểu Napôlêông, đều làm giàu cho bản thân họ, làm giàu cho bè đảng và cho bọn tay chân của họ, bằng mồ hôi nước mắt của nông dân là những người hằng năm phải đóng vào khoảng 225.000.000 đôla.
“Tình cảnh nông dân Trung Quốc”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.252.
11
10. Quan lớn cai trị cứ việc dựa theo dân số và thuế bạ của tỉnh mà quy định số tiền cần thiết cho cuộc lễ, nhân số tiền đó lên gấp 3, gấp 4 hay gấp 5, định ngày nộp, rồi đòi các kỳ hào hương lý đến và nói với họ: “Quan lớn cần tiền, đây là số tiền quan lớn muốn có, đây là kỳ hạn quan lớn định cho các người để nộp cho quan lớn. Hãy liệu lấy đấy. Nếu không thì...”. Để khỏi ngồi tù, các kỳ hào hương lý cứ việc mà “liệu”. Số tiền bị nhân lên của cuộc lạc quyên ép buộc thì dùng để “tỏ lòng tôn kính các bậc đại nhân”, còn số thành của bài tính nhân thì chui vào túi của quan lớn cai trị.
“Những cái tốt đẹp của nền văn minh Pháp”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.292.
11. Trong lúc người bản xứ bị tù đày vì những duyên cớ vu vơ, thì bọn thực dân và bọn quan cai trị phạm tội giết người, hối lộ, mua bán chức tước, ăn cắp, vẫn nhẹ bước thang mây. Tôi không nói đến ngài Đáclơ, Ủy viên Hội đồng quốc gia tư vấn Nam Kỳ, hay ngài Bôđoanh, Toàn quyền Đông Dương; chuyện của các vị ấy đã qua ba năm nay rồi. Tôi muốn nói đến hai viên chức ở Angiêri hồi tháng 4 vừa rồi, đã bị tố cáo công khai về tội dùng giấy tờ giả mạo, về tội thụt tiền công quỹ cùng các tội nặng khác, nhưng lại được tha bổng. Tôi cũng muốn nói đến
12
mấy vị ủy viên Hội đồng tư vấn người Âu cũng ở xứ thuộc địa đó, phạm tội giết người hay quả tang đồng lõa giết một dân bản xứ, mà vẫn không bị người ta đụng gì đến.
“Những cái tốt đẹp của nền văn minh Pháp”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.292-293.
12. Họ tìm mọi cách để lẩn tránh: người giàu có thì đút lót còn người nghèo khó thì trốn tránh. Có thấy những kẻ khốn cùng không có tiền để đút lót và cũng không biết trốn đi đâu được, bị cưỡng bách dồn về trại lính buồn bã như
những con vật mà người ta đem tới lò mổ; có thấy những người cha mẹ, chị em, những người vợ sắp cưới vừa khóc lóc vừa kêu van thảm thiết đi theo những người lính mộ về “cái đại gia đình” ấy như là đi theo những tội phạm bị đem lên máy chém, mới hiểu được cái vinh dự to lớn của người dân An Nam đi làm cái nghĩa vụ quân sự cay nghiệt kia. Cho nên họ tìm mọi cơ hội để tự cứu lấy mình.
“Những tội ác của chủ nghĩa quân phiệt”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.369.
13. Tôi đã nói chuyện về các ông nghị thanh liêm. Bây giờ, tôi phải nói đến các quan cai trị có đạo đức. Như các bạn biết đấy, để bảo vệ cho một chế độ cướp bóc, phải có quân ăn cướp. Họa hoằn
13
có một viên quan cai trị nào lại thật thà và hiểu biết hơn, lập tức viên ấy bị đàn lang sói quan thầy hay bè bạn xua đuổi đi ngay. Thành thử ra 99% quan cai trị là quân trộm cắp, chỉ nghĩ đến bóc lột dân bản xứ để làm giàu, chẳng kiêng nể gì tài sản, quyền lợi, tự do, đời sống của những người bị cai trị cả.
“Các quan cai trị”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.391.
14. Một viên quan cai trị ở Bắc Kỳ đã tước đoạt của một làng mấy hécta trồng mía để cho một làng Công giáo. Rồi lão ta lại bắt bỏ tù những kẻ bị tước đoạt khổ sở vì những người này dám đi kiện.
“Các quan cai trị”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.391.
15. Thế mà chính ông ta, viên công sứ, đã bày ra một âm mưu tưởng tượng, cho tiền kẻ tố cáo, rồi hành hạ tra tấn bắt những người bị cáo phải nhận những lời thú tội giả mạo. Việc hèn mạt ấy, chính viên công sứ cũng đã thừa nhận. Nhưng ông ta chẳng phải lo lắng gì về việc ấy cả; và ông cứ
tiếp tục những việc gian ác của mình.
“Các quan cai trị”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.391.
14
16. Một viên khâm sứ, can tội ăn hối lộ, hành hung, biển thủ, làm và sử dụng giấy tờ giả mạo, lại được tặng đệ tam đẳng Bắc đẩu bội tinh và thăng lên chức quyền Toàn quyền.
“Các quan cai trị”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.392.
17. Một viên công sứ khác nắm trong tay cả quyền hành của tổng đốc, thẩm phán, mõ tòa và đội trưởng thúc thuế. Ông ta lợi dụng quyền hành của mình chẳng một ai giám sát để bắt bớ, bỏ tù hay kết án một cách võ đoán người An Nam đặng bóp nặn họ.
“Các quan cai trị”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.392.
18. Một người Pháp khác, cũng kêu lên như thế này: “Ở Đông Dương cũng đúng như vậy đấy, ở đây “công lý” nằm trong tay những tên quan lại thiếu trách nhiệm, hoặc khi chúng ta phải thực hành công lý, thì bằng súng!”. Một người Pháp khác viết: “Nếu viên chủ sự viện kiểm sát xét kỹ theo đúng tinh thần pháp lý thì trong số hai nghìn đến hai nghìn rưỡi biên bản lập hằng năm ở Bắc Kỳ, không có biên bản nào là có giá trị đối với Pari cả”.
“Công lý”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.445.
15
19. Quan cai trị Bôđoanh - bị một viên chức Pháp tố cáo làm giả mạo giấy tờ - được phong chức quyền Toàn quyền và được thưởng Bắc đẩu bội tinh.
Quan cai trị Đáclơ - bị tố cáo ăn hối lộ; vì sự nhũng lạm tàn bạo của ông ta mà xảy ra cuộc khởi nghĩa ở một tỉnh làm cho nhiều người Pháp và An Nam chết - lại được cử làm Ủy viên Hội đồng thành phố.
Quan cai trị Buđinô - can tội tham ô, thụt tiền công quỹ và nhũng lạm - lại được tha bổng. Kỹ sư Têa - giám đốc một hãng lớn, bị tố cáo tham ô - cũng được vô sự.
Một tên quan cai trị ở Quảng Châu Loan1 bị tố cáo là đã dùng nhục hình giết chết hơn hai mươi người bản xứ, lại được tha bổng.
Một tên quản ngục Côn Lôn, bị tố cáo là đã giết một cách thản nhiên một lúc hơn 40 phạm nhân, được trắng án và khen thưởng.
“Công lý”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.445-446.
20. Hết hành vi điên rồ này đến hành vi điên rồ khác đã phung phí đồng tiền mà người dân An Nam khốn khổ đã phải đổ mồ hôi nước mắt mới
__________
1. Thời kỳ này, Quảng Châu Loan là một xứ của Đông Dương thuộc Pháp (B.T).
16
kiếm được. Chúng tôi chưa biết đích xác số tiền chi tiêu cho vua An Nam sang ngao du bên Pháp, chỉ biết rằng, để đợi ngày lành cho con rồng tre1 xuống tàu, người ta đã phải bồi thường cho tàu Poóctốtxơ trong bốn ngày chờ đợi, mỗi ngày 100.000 phrăng (tức là 400.000 phrăng tất cả). Tiền tàu hết 400.000 phrăng. Tiền chiêu đãi hết 240.000 phrăng (chưa kể tiền lương trả cho bọn mật vụ để theo dõi người An Nam ở Pháp), 77.600 phrăng trả tiền ăn ở tại Mácxây cho lính khố xanh dùng để “bồng súng chào” cụ lớn và hoàng thượng.
“Bản án chế độ thực dân Pháp”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.75.
21. Trước hết, ngoài bọn có thế lực ở chính quốc ra, người ta còn cho mời ba chục viên chức cao cấp ở các thuộc địa về; bọn này phè phỡn ở
__________
1. Con rồng tre: Ám chỉ vua Khải Định, xuất phát từ sự việc sau đây: Năm 1922, Khải Định sang Pháp dự Hội chợ triển lãm thuộc địa tại Mácxây, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã viết vở kịch Con rồng tre để vạch trần bộ mặt bán nước hại dân của Khải Định. Đại ý: có những cây tre thân hình cong queo, những người chơi đồ cổ lấy về đẽo gọt thành con rồng. Nó là một đồ chơi, một khúc tre nhưng lại được mang tên và có hình dáng con rồng. Thực ra nó chỉ là một vật vô dụng (B.T).
17
đường phố Cannơbie1 mà vẫn được lĩnh phụ cấp cả ở triển lãm lẫn ở thuộc địa. Riêng Đông Dương phải bỏ ra 12 triệu cho cuộc triển lãm này. Và các bạn có biết người ta đã chi tiêu số tiền đó như thế nào không? Một ví dụ: việc dựng lại cái mô hình nổi tiếng của các cung điện Ăngco đã tốn 3.000 mét khối gỗ, giá 400 hoặc 500 phrăng một mét khối. Tức là: từ 1 triệu 200 nghìn đến 1 triệu 500 nghìn phrăng!
Còn nhiều ví dụ khác về sự phung phí nữa. Trong việc đi lại của quan toàn quyền, xe hơi và xe luých vẫn chưa đủ, còn phải có một toa xe lửa đặc biệt nữa kia; việc sửa sang toa xe đó tốn cho ngân khố 125.250 phrăng.
Trong vòng mười một tháng hoạt động, nha kinh tế (?) đã làm hao phí công quỹ Đông Dương một số tiền 464.000 phrăng.
Tại trường thuộc địa, nơi “chế tạo” ra những nhà khai hóa tương lai, 44 giáo sư đủ các loại được đài thọ để dạy từ 30 đến 35 học viên. Lại phải tốn hàng nghìn phrăng nữa.
Công việc thanh tra thường xuyên các công trình phòng thủ thuộc địa hằng năm tốn cho ngân sách 785.168 phrăng. Thế nhưng các ngài thanh tra thì không bao giờ rời khỏi Pari và đối với các
__________
1. La Cannebière: Tên một đường phố đông đúc ở Mácxây (B.T).
18
thuộc địa thì các ngài cũng không hiểu biết gì hơn là hiểu biết ông trăng già!
“Bản án chế độ thực dân Pháp”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.75-76.
22. Nếu chúng ta đến các thuộc địa khác, thì ở đâu chúng ta cũng thấy một tình trạng tệ lậu như vậy. Để đón tiếp một phái đoàn “kinh tế” không chính thức, ngân khố Máctiních “nhẹ bổng đi” mất 400.000 phrăng. Trong vòng 10 năm, ngân sách Marốc từ 17 triệu lên 290 triệu phrăng, mặc dầu người ta đã giảm 30% các khoản chi tiêu cho lợi ích địa phương, tức là những khoản chi tiêu có thể có lợi cho nhân dân bản xứ!
“Bản án chế độ thực dân Pháp”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.76.
23. Một cựu nghị sĩ đi thăm thuộc địa về, đã phải kêu lên: “So với bọn viên chức thuộc địa thì những tên cướp đường còn là những người lương thiện!”.
“Bản án chế độ thực dân Pháp”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.77.
24. Có thể nói một số phiên họp của Hội đồng quản hạt chỉ là để bàn việc cướp giật công quỹ một cách có phương pháp. Riêng một ông chủ
19
tịch nào đó của Hội đồng đã được lãnh thầu những công việc trị giá hai triệu phrăng rồi. Ông đổng lý sự vụ nọ, đại diện của Chính phủ trong Hội đồng, đã xin tăng lương mình lên gấp đôi và đã được chấp thuận. Việc làm một con đường kéo dài năm này qua năm khác chẳng ai kiểm tra đem lại cho một vị thứ ba những món lợi thường xuyên đều đặn. Chức vụ thầy thuốc của các viên chức Đông Dương đem lại cho vị thứ tư một khoản lương khá hậu. Vị thứ năm được bổ làm thầy thuốc các công sở thành phố. Vị thứ sáu nhận cung ứng giấy và in tài liệu cho Chính phủ. Cứ thế, vân vân và vân vân.
Kho bạc có vơi đi chút ít thì đã có những quý quan làm cho nó đầy lại một cách nhanh chóng. Với quyền hành sẵn có, họ sức cho dân bản xứ biết nhà nước cần một khoản tiền bao nhiêu đó, rồi họ phân bổ cho các làng phải đóng góp. Và các làng lo vội vàng tuân lệnh để khỏi bị trừng phạt ngay lập tức.
Khi một viên khâm sứ cần thanh toán một khoản tiền gì đó thì ngài phát hành các bằng sắc để bán.
“Bản án chế độ thực dân Pháp”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.77.
25. Một trong những quan khâm sứ của chúng ta, vì tiêu hết trước hạn mấy tháng tất cả kinh phí
20
cho chiếc xàlúp đã bắt công quỹ hoàn lại cho ngài các khoản chi phí về một cuộc lễ tiết nào đó không ai biết rõ, nhưng nói rằng nhà vua đã được mời ngự trên xàlúp.
“Bản án chế độ thực dân Pháp”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.77-78.
26. Một cựu Toàn quyền Đông Dương, một hôm đã thú nhận rằng thuộc địa này đầy rẫy những viên chức ăn hại ngân sách mà thường chẳng được tích sự gì cả.
Một người thực dân viết: quá nửa số viên chức ấy, từ các quan đầu tỉnh đến các quan chức khác, đều không đủ tư cách cần thiết của những con người được giao phó những quyền hạn rộng rãi và ghê gớm như thế.
Tất cả bọn chúng chỉ có mỗi cái tài là phung phí công quỹ, còn người An Nam khốn khổ thì cứ nai lưng đóng góp, đóng góp mãi. Họ đóng góp không những để trả lương cho những viên chức giữ những chức vụ vô dụng, mà còn để trả lương cho cả những viên chức không có chức vụ gì cả! Năm 19..., 250.000 phrăng đã tan biến đi như thế. “Bản án chế độ thực dân Pháp”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.78.
21
27. Các quan cai trị đều là những ông vua con. Họ muốn xung quanh mình cái gì cũng xa hoa tráng lệ, và nói rằng, có thế mới nâng cao được uy tín của họ đối với người bản xứ. Một viên Công sứ nọ đã lập cả một đội kỵ mã cận vệ và không bao giờ hắn đi đâu mà không có đội ấy theo hầu. Ở tất cả các tòa sứ đều có từ 6 đến 11 con ngựa và 5, 6 cỗ xe sang trọng đủ kiểu: độc mã, song mã, tứ mã1, v.v.. Ngoài những phương tiện đi lại đã quá thừa ấy, còn thêm những xe hơi mỹ lệ, tốn cho công quỹ hàng vạn đồng. Một viên quan cai trị nọ còn có cả một tàu ngựa đua.
Tiền nhà cửa, bàn ghế, điện nước của các vị đó đều do công quỹ đài thọ cả. Ngoài ra, những người đánh xe, lái xe, giữ ngựa, làm vườn, tóm lại, tất cả những kẻ hầu người hạ của họ cũng đều do nhà nước trả tiền công.
Thậm chí những cuộc giải trí về văn chương của những người tốt số ấy cũng lại do nhà nước trang trải. Một viên quan cai trị đã ghi vào ngân sách 900 đồng tiền sưởi ấm, và 1.700 đồng mua báo chí! Một vị khác đã dùng mánh lới kế toán để
biến tiền mua sắm áo khoác ngoài, đàn dương cầm, đồ trang sức thành những khoản vật liệu
__________
1. Trong bản tiếng Pháp, tác giả kể đủ các kiểu xe như: victorias, muylords, tilburys, malabars, v.v.. (B.T).
22
tu bổ tòa sứ, hoặc những khoản tương tự như thế để bắt ngân sách nhà nước phải chịu.
Dù trước kia họ là những anh hàng cháo, hoặc giám thị trong các nhà trường, nhưng khi đã đặt chân đến thuộc địa là các nhà khai hóa ấy của chúng ta sống một đời sống đế vương. Một viên quan cai trị dùng năm sáu lính khố xanh để chăn dê cho mình; một viên khác bắt lính có nghề điêu khắc chạm trổ cho mình những tượng phật xinh xắn hoặc đóng cho mình những rương hòm rất đẹp bằng gỗ dạ hương.
“Bản án chế độ thực dân Pháp”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.79-80.
28. Sau khi đã được cấp không ruộng đất, bọn chủ đồn điền còn được cấp không hoặc gần như không, cả nhân công nữa. Nhà nước cung cấp cho chúng một số tù khổ sai làm không công, hoặc dùng uy quyền để mộ nhân công cho chúng với một đồng lương chết đói. Nếu dân phu đến không đủ số hoặc tỏ ra bất mãn, thì người ta dùng vũ lực; bọn chủ đồn điền tóm cổ hào lý, đánh đập, tra tấn họ cho đến khi họ chịu ký giao kèo hẹn nộp đủ số
nhân công mà chúng đòi hỏi.
Bên cạnh uy lực phần đời ấy, còn có những đấng cứu thế phần hồn nữa. Các đấng này, trong khi thuyết giáo “đức nghèo” cho người An Nam,
23
cũng không quên làm giàu trên mồ hôi và máu của họ.
“Bản án chế độ thực dân Pháp”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.91.
29. Một tờ báo tiếng Việt dịch đăng đạo luật nói về việc trừng trị những hành động hối lộ trong bầu cử, bài ấy đã bị cắt. Trong lúc đó thì quan Thống đốc trắng trợn cho đòi những người đứng đầu các tập đoàn cử tri đến văn phòng và truyền cho họ phải bỏ phiếu và cổ động bỏ phiếu cho danh sách được ngài có cảm tình nhất.
“Bản án chế độ thực dân Pháp”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.107.
30. Người ta còn thấy rõ sự thối nát của thực dân Pháp qua thú nhận của tờ L'Impartial, cơ quan ngôn luận của Pháp ở Đông Dương rằng viên Thống đốc Cônhắc đã phạm một loạt hành động tham nhũng. Cả người “đảng viên xã hội” Varen cũng tham gia hăng hái vào việc tham nhũng vì chỉ một vài tháng sau khi tới Đông Dương, ông ta đã gửi về Pháp 74 hòm tặng phẩm có trọng lượng 4.910 kilô và kích cỡ là 30 mét khối.
““Văn minh” Pháp ở Đông Dương”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.255.
24
31. Bọn quan lại và tư sản lợi dụng phong trào cách mạng để áp bức bóc lột nông dân. Ai không “đút lót” cho chúng thì bị chúng vu cáo vào hội kín hoặc cộng sản và bị bắt.
“Báo cáo về Hội nghị cán bộ Xứ ủy Bắc Kỳ, giữa tháng 1 và 2”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.626.
II- GIAI ĐOẠN TỪ NGÀY 2/9/1945
ĐẾN THÁNG 9/1954
32. Các ông nói: Miễn sao có tiền cho dân là được?
Không được! Tiền là mạch máu cho mọi công việc, tiền là cần thật, nhưng không phải vì cần tiền mà cứ đi đè đầu bóp cổ hay dùng những thủ đoạn không chính đáng để vơ vét lấy tiền.
Làm tiền bằng cách bán ngôi thứ tức là gây cho dân chúng có óc hiếu danh, trong khi cần phải trừ tiệt óc đó để gây cho mọi người có óc thiết thực, góp sức vào công cuộc giữ gìn và xây dựng đất nước.
Trong lúc xung quanh mình, người ta mở ngày Vàng, ngày Văn hóa, diễn kịch để lấy tiền giúp quỹ này, quỹ khác, Ủy ban nọ còn quay lại lối làm tiền cũ rích, bán ngôi thứ, thật đã tỏ rõ một khối óc đặc sệt. Những cuộc “làm tiền” phải đem theo
25
nó một ý nghĩa tuyên truyền nữa mới được. Sao cho người ta nhận thấy rằng đồng tiền của người ta bỏ ra là một viên gạch để góp vào việc xây đắp nền móng quốc gia.
Bán ngôi thứ làm cho óc người ta đen tối thêm! Tiền lấy như vậy cũng là một thứ tiền phi nghĩa. Lòng sốt sắng làm tiền cho dân của ông Chủ tịch nọ đáng hoan nghênh thật, nhưng cách làm tiền của ông có hại cho sự tiến hóa của dân, cần phải bỏ ngay đi, cũng như cần phải phủi đi hết những hủ tục khác: làm rượu ăn mừng được bầu vào Ủy ban, dùng chữ nho trong những tờ thông đạt, v.v..
“Bỏ cách làm tiền ấy đi!”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.62-63.
33. Cậy thế - Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân.
“Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.65.
34. Hủ hóa - Ăn muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử hỏi tiền bạc ấy ở đâu ra?
26
Thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên, cho đến các cô các cậu ủy viên, cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu?
“Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.65.
35. Tư túng - Kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai.
“Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.65.
36. Chia rẽ - Bênh vực lớp này, chống lại lớp khác, không biết làm cho các từng lớp nhân nhượng lẫn nhau, hòa thuận với nhau. Thậm chí có đôi nơi để đất ruộng bỏ hoang, nông gia ta thán. Quên rằng lúc này ta phải toàn dân đoàn kết, không chia già trẻ, giàu nghèo để giữ nền độc lập, chống kẻ thù chung.
“Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.65.
27
37. Kiêu ngạo - Tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi. Coi khinh dân gian, nói phô1, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng” lên. Không biết rằng, thái độ kiêu ngạo đó sẽ làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến oai tín của Chính phủ.
“Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.66.
38. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm.
Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ. Việc đáng làm trong một giờ, mà kéo dài đến 2, 3 giờ, là xa xỉ.
Hao phí vật liệu, là xa xỉ.
Ăn sang mặc đẹp trong lúc đồng bào đang thiếu cơm, thiếu áo, là xa xỉ.
Ăn không ngồi rồi, trong lúc đang cần kháng chiến và xây dựng, là xa xỉ.
Vì vậy, xa xỉ là có tội với Tổ quốc, với đồng bào. “Cần kiệm liêm chính”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.123-124.
39. Vì xa xỉ mà sinh tham lam.
Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM.
__________
1. Huênh hoang, khoác lác (B.T).
28
Người cán bộ, cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư. Người buôn bán, mua 1 bán 10, hoặc mua gian bán lậu, chợ đen chợ đỏ, tích trữ đầu cơ. Người có tiền, cho vay cắt cổ, bóp hầu bóp họng đồng bào.
Người cày ruộng, không ra công đào mương, mà lấy cắp nước ruộng của láng giềng. Người làm nghề (bất cứ nghề gì) nhân lúc khó khăn mà bắt chẹt đồng bào.
Người cờ bạc, chỉ mong xoay của người làm của mình. Đều là tham lam, đều là BẤT LIÊM. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm).
Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật úy lạo.
Gặp giặc mà rút ra, không dám đánh là tham sinh úy tử.
Đều làm trái với chữ LIÊM.
Do BẤT LIÊM mà đi đến tội ác trộm cắp. Công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp.
“Cần kiệm liêm chính”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.126-127.
40. Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu
29
lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”1.
“Cần kiệm liêm chính”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.127.
41. Mỗi người phải nhận rằng, tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, với dân.
“Cần kiệm liêm chính”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.127.
42. Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà.
“Cần kiệm liêm chính”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.129.
43. Làm việc CHÍNH, là người THIỆN. Làm việc TÀ, là người ÁC.
Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), CHÍNH là THIỆN.
Lười biếng, xa xỉ, tham lam, là tà, là ác. “Cần kiệm liêm chính”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.129.
44. Nhiều cán bộ ta còn mắc bệnh ấy: hình trạng bệnh ấy đại khái như sau:
__________
1. Dĩ công vi tư: Lấy của công làm của riêng (B.T).30
A làm ở cấp tỉnh, nay được phái đi làm cấp huyện, thì không khỏi hậm hực, tức bực. A tự hào rằng tài năng như mình, đáng được “thăng” chức, nay lại bị “giáng” chức. Thật rõ “trai hữu tài vô duyên”. Do đó, mà A đâm ra chán nản, tiêu cực.
B ở cấp huyện, nay được phái làm cấp tỉnh. Đối với những cán bộ cũ cấp tỉnh, thì B rụt rè, khúm núm, sợ lòi ra mình còn kém, sợ anh em cười, không dám bạo dạn nói bàn, làm việc.
Đối với những cán bộ cấp huyện, thì B tỏ vẻ tự kiêu, tự đại, ra vẻ “nay ta là cấp trên”. Cũng vì bệnh cấp bậc mà mỗi người đối với B có một thái độ khác nhau, nhưng giống nhau ở chỗ sai lầm:
Cán bộ cũ ở tỉnh thì xem khinh B cho B là non nớt, chưa đủ tư cách.
Cán bộ huyện thì không trọng B vì rằng “hôm qua B chẳng hơn gì chúng tôi, hôm nay B lãnh đạo chúng tôi sao được”.
Lại cũng vì bệnh cấp bậc mà những cán bộ cùng một cấp được điều động đến cơ quan khác, công việc khác, thí dụ: C làm chánh văn phòng, D làm việc trong văn phòng. Thế là D có vẻ hậm hực, không muốn nghe mệnh lệnh C.
“Phải chữa cái bệnh cấp bậc”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.407.
31
45. Chứng bệnh ấy tỏ ra bằng màu vẻ: Đối với người:
Cấp trên đối với cấp dưới, cán bộ đối với nhân dân, quân quan đối với binh sĩ, bộ đội đối với dân chúng - chỉ biết dùng mệnh lệnh. Không biết giải thích, tuyên truyền. Không biết làm dân chúng tự
giác và tự động.
Đối với việc:
Chỉ biết khai hội nghị, viết nghị quyết, ra chỉ thị. Chứ không biết điều tra, nghiên cứu, đôn đốc, giúp đỡ, khuyến khích, kiểm tra.
Đối với mình:
Việc gì cũng kềnh càng, chậm rãi, làm cho qua chuyện. Nói một đường làm một nẻo.
Chỉ biết lo cho mình, không quan tâm đến nhân dân, đến đồng chí.
Một vẻ quan liêu nữa là: chỉ biết ăn sang, diện cho kẻng; chẳng những không lo phụng sự nhân dân, mà còn muốn nhân dân phụng sự mình.
Tham ô, hủ hóa. Trước mặt dân chúng thì lên mặt “quan cách mạng”.
Đó là mấy vẻ chính của bệnh quan liêu. “Phải tẩy sạch bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.433-434.
46. - Khuynh hướng cá nhân tự do: Vì cách sinh hoạt, vì thói quen, mà tiểu tư sản có tính rời rạc.
32
Họ cho tổ chức và kỷ luật là bó buộc, khó chịu, mất tự do.
- Thiếu tinh thần nhẫn nại: Khi vui thích, khi hoàn cảnh thuận lợi thì hăng hái. Khi không vui thích, khi gặp khó khăn, thì dễ đâm ra chán nản, bi quan, tiêu cực. Do đó, khi thì quá tả, khi thì quá hữu.
- Giàu tính tự ái. Xem khinh lao động. Cho công nông là dốt nát, lạc hậu. Do đó, xa quần chúng, thiếu đoàn kết, kém dân chủ. Do đó mà cứ luẩn quẩn với câu hỏi “Ai lãnh đạo cách mạng?”, dù sự
thật là lịch sử đã trả lời dứt khoát câu hỏi đó từ lâu rồi. Cũng do đó mà khi thấy cất nhắc cán bộ công nông, thì lầm tưởng rằng không trọng trí thức.
- Nói và làm, hiểu biết và thực hành không nhất trí. Thí dụ, khi thật hăng thì nói “hy sinh tất cả để phụng sự nhân dân”, song khi gặp công việc gì khó khăn, nguy hiểm thì lo cho thân mình và gia đình mình trước. Nông dân cày ruộng, công nhân xây nhà. Người tiểu tư sản trí thức thì “xây không hay, cày không thạo”, những điều hiểu biết phần lớn chỉ là hiểu biết trong sách, trên giấy. Do đó, tư tưởng và quan điểm không thiết thực, không cụ thể.
- Hay tính toán, hay do dự, hay chủ quan. Dễ lay động, dễ quá trớn. Không kiên quyết, không triệt để. “Cải tạo tư tưởng tiểu tư sản”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.160.
33
47. Muốn làm trọn nhiệm vụ (nhất là nhiệm vụ kinh tế tài chính) thì chúng ta phải chống những cái gì trở ngại ta.
- Một là chống bệnh quan liêu. Bệnh quan liêu là bệnh giấy tờ, bệnh hình thức, không thực tế, là xa cách quần chúng, không theo đường lối quần chúng, làm không đúng chính sách của Chính phủ
và của Đoàn thể.
- Hai là chống nạn tham ô. Tham ô là lấy của công làm của tư. Là gian lận tham lam. Là không tôn trọng của công. Là không thương tiếc tiền gạo do mồ hôi nước mắt của đồng bào làm ra, do xương máu của chiến sĩ làm ra.
- Ba là chống nạn lãng phí. Tuy không trộm cắp của công như tham ô, nhưng lãng phí cũng làm cho nhân dân và Chính phủ thiệt thòi, hao tổn, kết quả thì lãng phí cũng có tội như tham ô.
“Bài nói chuyện nhân dịp Tết năm Nhâm Thìn (1952)”, (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.296-297.
48. Khuyết điểm của nhiều cán bộ là: hẹp hòi, địa vị, “công thần”, quan liêu, mệnh lệnh, kém đoàn kết, chưa biết quý trọng của công và sức dân, chưa biết quản lý của công một cách chặt chẽ. Cũng có một số cán bộ tham ô, hủ hóa.
“Tự phê bình và phê bình”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.319.
34
49. Nói đến tham ô, có người chỉ nghĩ đến ăn cắp của công làm của tư mà không thấy thứ tham ô gián tiếp. Thí dụ một cán bộ, Chính phủ, nhân dân trả lương hằng tháng đều cho, nhưng lại kém lòng trách nhiệm, đứng núi này trông núi nọ, làm việc chậm chạp, ăn cắp giờ của Chính phủ, của nhân dân. “Bài nói tại buổi phát động phong trào
sản xuất và tiết kiệm”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.345.
50. Trước hết, chúng ta hãy đặt mấy câu hỏi: - Tiết kiệm là gì?
- Vì sao phải tiết kiệm?
- Tiết kiệm những gì?
- Ai cần phải tiết kiệm?
1. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải là “xem đồng tiền to bằng cái nống”1, gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải là tiêu cực.
“Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.352.
__________
1. Tiếng địa phương nghĩa là cái non (B.T).
35
51. Tham ô là gì?
- Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công làm của tư
Đục khoét của nhân dân
Ăn bớt của bộ đội.
Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô.
- Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế.
“Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.355-356.
52. Lãng phí là gì?
Lãng phí có nhiều cách:
- Lãng phí sức lao động: Vì kém tinh thần phụ trách, vì tổ chức sắp xếp vụng, việc gì ít người cũng làm được mà vẫn dùng nhiều người. Trong quân đội, các cơ quan, các xí nghiệp đều có khuyết điểm ấy. Trong việc sửa chữa đường cầu, phục vụ chiến dịch, lãng phí dân công khá nhiều, vì tổ chức không khéo - đó là một thí dụ.
- Lãng phí thời giờ: Việc gì có thể làm trong một ngày một buổi, cũng kéo dài đến mấy ngày. Thí dụ: Những cuộc khai hội, vì người phụ trách chuẩn bị chương trình không đầy đủ, người đến dự
hội thì không chuẩn bị ý kiến, đáng lẽ chỉ một 36
ngày thì bàn bạc và giải quyết xong vấn đề, song cuộc khai hội kéo dài đến 5, 3 ngày.
- Lãng phí tiền của: Có rất nhiều hình thức, đây chỉ nêu vài thí dụ:
- Các cơ quan dùng vật liệu một cách phí phạm. - Các xí nghiệp dùng máy móc và nguyên liệu không hợp lý.
- Cục vận tải giữ gìn xe cộ, tiết kiệm dầu mỡ không triệt để.
- Sở kho thóc làm kho tàng không cẩn thận; người giữ kho kém tinh thần trách nhiệm, để thóc ẩm ướt, hao hụt, hư hỏng.
- Mậu dịch không khéo tính toán sắp xếp, để hàng hóa hao hụt, lỗ vốn.
- Ngân hàng không khéo sử dụng tiền bạc, để tiền bạc ứ đọng lại, không bổ ích cho việc tăng gia sản xuất.
- Cơ quan kinh tế làm kế hoạch không thiết thực, không sát với hoàn cảnh, để Chính phủ phải lỗ vốn.
- Bộ đội không biết quý trọng giữ gìn quân trang, quân dụng và chiến lợi phẩm.
- Nhân dân bỏ hoang ruộng đất, đốt vàng mã, bán trâu, cầm ruộng để làm đám cưới, đám ma, v.v.. Tham ô là trộm cướp.
“Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.356-357.
37
53. Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ. “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.357.
54. Đồng chí Xtalin dạy chúng ta:
“Phải tiết kiệm tiền bạc, lại phải chi tiêu tiền bạc ấy cho hợp lý. Không được phí phạm một đồng xu nào của dân. Phải dùng toàn bộ tiền bạc ấy vào công nghệ của nước ta.
Không như vậy thì chúng ta sẽ vấp phải cái nguy hiểm lãng phí, cái nguy hiểm dùng tiền vào những việc không cần kíp cho sự phát triển công nghệ, cho sự bồi bổ kinh tế của nhân dân.
Khéo tính toán, chi tiêu tiền bạc cho hợp lý - Đó là một nghệ thuật quan trọng. Nghệ thuật ấy không phải là dễ. Các cơ quan ta chưa thông thạo nghệ thuật ấy. Chúng ta còn rất kém về nghệ thuật ấy.
Thừa nhận sự kém cỏi ấy, là một điều đau đớn. Nhưng đó là sự thật, không thể lấy nghị quyết nào mà che giấu được nó. Có đôi khi các cơ quan quản lý của ta giống như người nông dân nọ - Y tiết kiệm được một ít tiền, y không dùng tiền ấy mà sửa chữa cày bừa để tăng gia sản xuất, nhưng y đi mua một cái máy hát thật to... Đó là chưa kể đến những việc lãng phí, những vụ ăn cắp của công.
38
Vì vậy, cần phải dùng nhiều phương pháp để giữ gìn cho tiền bạc của ta khỏi bị lãng phí, bị phân tán, bị dùng vào những việc không cần thiết, bị dùng ra ngoài công việc xây dựng căn bản.
1. Kế hoạch sản xuất không định theo cách quan liêu, mà phải liên hệ chặt chẽ với tình hình kinh tế, với nguồn của cải, với sự tính toán rõ rệt sức hậu bị của ta.
Kế hoạch không nên sụt lại sau, nhưng cũng không nên chạy quá trước sự phát triển của công nghệ, không nên xa rời nông nghiệp, không nên quên lãng sức tiết kiệm của ta.
Nền tảng phát triển công nghệ phải dựa trên sự cần thiết cho thị trường trong nước, trước hết là thị trường của nông dân, và dựa trên phạm vi của cải của ta. Đó là nền tảng để liên hệ công nghệ với kinh tế của nông dân.
Về tiết kiệm, về cách dùng tiền bạc tiết kiệm được - cũng như vậy.
Có người theo ảo tưởng của mình mà định kế hoạch, chứ không nghĩ đến vốn liếng. Họ quên rằng: Nếu không có một số vốn tối thiểu, không có một số tiền hậu bị tối thiểu, thì chẳng những không đạt được kế hoạch công nghệ nào, mà cũng không xây dựng được những xí nghiệp “to lớn bao la”.
Họ quên điều đó, họ chạy trước sự thực. Thế nào là chạy trước sự thực mà đặt kế hoạch?
39
Là không cân nhắc lực lượng, mà làm ẩu. Là đặt kế hoạch rất to tát, động viên hàng nghìn hàng vạn công nhân, xem rất oai. Nhưng rồi thấy vốn liếng không đủ, phải để công nhân về, phải cấp lộ phí cho họ về. Kết quả là hao tổn rất nhiều, gây ra thất vọng cho công cuộc xây dựng, gây mối khó khăn cho chính trị...
Chỉ có liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp, không rời xa sức tiết kiệm và ăn khớp với vốn liếng và sức hậu bị của ta - thì công nghệ mới làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của nó, là lãnh đạo và cải tạo kinh tế của quốc dân.
Một bộ chỉ huy mà xa rời bộ đội, mất liên lạc với bộ đội, thì bộ chỉ huy ấy không thành bộ chỉ huy nữa. Công nghệ mà xa rời toàn bộ kinh tế của quốc dân, mất liên hệ với nó, thì công nghệ không lãnh đạo được kinh tế của quốc dân.
Vì vậy, đặt kế hoạch công nghệ cho đúng đắn và hợp lý - là một điều kiện chủ chốt trong việc tiêu dùng tiền của.
2. Các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các cơ quan kinh tế và các Ủy ban, cần phải nâng cao năng suất, giảm bớt số người (tinh giản). Hiện nay, các cơ quan của ta người nhiều, việc ít, xài phí lu bù... Lênin đã nhắc đi nhắc lại hàng chục hàng trăm lần rằng: Công nhân và nông dân không thể chịu đựng những cơ quan kềnh càng và tốn kém như vậy. Vô luận thế nào cũng phải tìm
40
đủ cách để biên chế các cơ quan lại. Chúng ta phải dùng tinh thần bônsêvích mà thực hành một chế độ tiết kiệm nghiêm ngặt. Nếu chúng ta không muốn dùng vốn liếng của ta vào những việc linh tinh, thì chúng ta phải thực hành ngay chế độ ấy.
Một thí dụ: Có người bảo chúng ta xuất cảng lương thực không có lãi, không ăn thua. Vì sao không có lãi. Vì các cơ quan phụ trách thu góp lương thực tiêu quá nhiều tiền. Kế hoạch định mua 1 cân lương thực là 8 xu. Nhưng các cơ quan tiêu đến 13 xu, tức là tăng lên 5 xu. Vì sao? Vì trước khi thu góp lương thực, thì các cán bộ đều lấy thêm người vào văn phòng, mua thêm máy đánh chữ và xe hơi... Vì tiêu tiền quá nhiều vào chỗ không sinh lợi, đến khi cộng lại, thì thấy xuất cảng lương thực không có lãi.
Thử tính xem: Chúng ta thu góp hàng chục triệu cân lương thực, mà mỗi cân đắt thêm 5 xu, thì đã lãng phí mất mấy triệu đồng.
Nếu chúng ta không dùng chế độ rất nghiêm ngặt để ngăn ngừa các cơ quan tiêu dùng bừa bãi, thì chúng ta tiết kiệm được bao nhiêu tiền của cũng bị lãng phí hết bấy nhiêu...
3. Chúng ta phải kiên quyết chống nạn lãng phí ở các cơ quan và trong sự sinh hoạt của chúng ta. Chống cách tiêu dùng bừa bãi tiền của của nhân dân và vốn liếng của Chính phủ.
Hiện nay, có những cuộc khai hội, những lễ kỷ niệm, những đám yến tiệc tốn hàng vạn, hàng
41
chục vạn. Cần phải chấm dứt nạn phô trương, lãng phí ấy. Trong lúc công nghệ cần phải xây dựng, đồng bào đang bị thiếu thốn, chúng ta không thể tha thứ
những việc phô trương, lãng phí như vậy. Một điều đáng chú ý: Nhiều khi có những người ngoài Đảng họ tiết kiệm của công hơn những đảng viên. Có những đảng viên rất “dũng cảm, kiên quyết” trong trường hợp này: Họ âm thầm phát phụ cấp cho nhân viên của họ, mượn tiếng là “hoa hồng” tuy sự thực không có gì là “hồng hoa”. Họ âm thầm phớt qua phép luật, trốn tránh và làm trái phép luật. Về điểm này, những người ngoài Đảng cẩn thận hơn. Vì đảng viên thường xem phép luật, chính quyền, v.v., là việc trong nhà. Vì vậy, mà có đôi đảng viên như những con lợn, (xin lỗi tiếng đó), họ rúc vào vườn rau của Nhà nước, chén một bữa no say, hoặc họ hy sinh lợi ích của nước nhà, để lên mặt mình là khảng khái.
Chúng ta phải chấm dứt cái thói vô chính phủ ấy.
4. Phải chống nạn ăn cắp của công, mà các cơ quan quen gọi là trộm cắp “đường hoàng”. Các báo chí phân biệt: có thứ trộm cắp xấu xa, kín đáo, có thứ trộm cắp “đường hoàng”. Vừa rồi, báo Thanh niên cộng sản có nói về thứ trộm cắp “đường hoàng” ấy: Một chàng thanh niên bảnh bao, ở một cơ quan nọ, đã trộm cắp của công một cách đường hoàng, một cách có ngăn nắp, và trộm
42
cắp đã nhiều lần. Điều đáng chú ý ở đây, không phải là thằng kẻ trộm. Đáng chú ý là những người xung quanh biết nó là kẻ trộm, chẳng những không chống nó, mà lại vỗ vai nó, khen ngợi nó, xem nó như một người anh hùng.
Đó là một điều đáng chú ý, một điều rất nguy hiểm.
Khi bắt được một tên mật thám, một tên phản quốc thì quần chúng rất căm giận, đòi xử bắn nó đi. Song khi tên giặc hoạt động trước mắt mọi người, thì quần chúng lại hiền lành với nó, vỗ vai nó, khen ngợi nó.
Trộm cắp tiền bạc của nhân dân, tổn hại kinh tế của Chính phủ, cũng là mật thám, phản quốc, nếu không phải là tệ hơn nữa.
Cuối cùng tên kẻ trộm “đường hoàng” kia đã bị bắt. Nhưng bắt một tên trộm ấy, có nghĩa lý gì, vì còn có hàng nghìn hàng vạn tên giặc như nó. Cần phải có biện pháp khác, biện pháp nghiêm ngặt hơn, để trừng trị chúng. Biện pháp ấy là gây nên một đạo đức để ngăn ngừa trộm cắp, gây nên một phong trào quần chúng gớm ghét, bao vây lũ giặc ấy. Biện pháp ấy là gây nên một cuộc vận động trong công nông chống trộm cắp; làm cho lũ trộm cắp “đường hoàng” cũng như trộm cắp kín đáo - không sống còn được.
Tiêu diệt trộm cắp, là một cách để bảo vệ, tiết kiệm và tránh lãng phí.
43
Sau cùng, chúng ta cần có một cuộc vận động: Tiêu diệt lười biếng, nâng cao năng suất, củng cố kỷ luật lao động.
Công nhân vắng mặt không đi làm, đã gây cho công nghệ thiệt mất hàng chục vạn giờ lao động, tổn thất hàng trăm vạn đồng.
Nếu không chấm dứt thói lười biếng, không nâng cao năng suất, thì công nghệ không tiến được, mà lương bổng công nhân cũng không tăng được.
Anh chị em công nhân phải hiểu rõ, nhất là những công nhân mới, phải hiểu rõ rằng: Lười biếng và không nâng cao năng suất là có hại cho sự nghiệp chung, có hại cho cả giai cấp công nhân, có hại cho công nghệ của ta.
Vì lợi ích của kinh tế, vì lợi ích của giai cấp công nhân - chúng ta phải chống thói lười biếng, phải nâng cao năng suất”1.
“Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.365-369.
55. Quan liêu là gì? Quan liêu là những người phụ trách bất kỳ cấp nào không gần gũi cán bộ,
__________
1. Về tình hình kinh tế Liên Xô và chính sách kinh tế của Đảng, báo cáo của Xtalin đọc tại Hội nghị những đảng viên tích cực thuộc Đảng bộ Lêningrát, ngày 13/4/1926 (B.T).
44
không theo dõi công việc thiết thực, không theo dõi cán bộ để biết tính nết, khả năng, để thấy điều tốt thì khuyến khích, thấy điều xấu thì can ngăn, giáo dục, giúp đỡ sửa chữa. Thế là cán bộ xa thực tế, xa bộ đội, xa nhân dân, không dân chủ.
“Bài nói tại Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.433-434.
56. Bác cũng có nhận được nhiều thư của các cán bộ gửi đến cho Bác, nói trước thì thắc mắc, không yên tâm nhưng nay đã sửa chữa. Cố nhiên phải tin lời nói của cán bộ, nhưng trong các chú ở
đây và các chú ở nhà, cũng còn có những chú chưa yên tâm làm việc. Đó là bệnh cá nhân, là còn tham địa vị, nói chung là không hiểu sâu sắc cách mạng phải có phân công.
“Bài nói tại Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.434.
57. - Giấy tờ quá nhiều, quá dài: Bộ đã gửi công văn (về việc mở trường chuyên nghiệp) cho 38 cơ quan, trong đó nhiều cơ quan không cần nhận công văn ấy. Một biên bản (tổng kết vụ
chiêm 1953) kèm thêm tài liệu phụ lục dài 120 trang. Một cơ quan canh nông địa phương đòi hỏi ở xã cung cấp một thống kê dài 153 cột.
- Quá chậm trễ: Chỉ thị của Bộ về việc giữ gìn cho trâu bò khỏi rét: mùa rét đã lâu rồi, chỉ thị
45
mới đến. Bộ viết giấy xin giống nấm, Thứ trưởng ký rồi, sau một tháng giấy vẫn còn nằm ở Văn phòng của Bộ.
- Không đúng nguyên tắc: Có những công văn gửi lên Ban Kinh tế Trung ương, mà Bí thư ký tên; công văn gửi cho ủy ban các liên khu, mà Giám đốc ký tên. Những công văn ấy phải do Bộ
trưởng hoặc Thứ trưởng ký tên mới đúng. - Cách làm luộm thuộm: Như chương trình sản xuất, đánh máy luộm thuộm, đến nỗi Quốc hội xem không được, phải gửi trả lại.
- Kém giữ bí mật: Bộ dùng điện thoại đánh điện, phải kinh qua nhiều trạm chuyển, mà nói cả những điều cần giữ bí mật.
“Chống nạn giấy tờ”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.424-425.
58. Bệnh cá nhân chủ nghĩa đẻ ra bệnh kiêu ngạo. Kiêu ngạo là: Khi công tác có ít nhiều thành tích, ít nhiều thắng lợi, thì lên mặt anh chị, lên mặt công thần. Rồi đối với việc học tập thì lười biếng, không ra sức nâng cao trình độ của mình. Trong công tác thì xem thường nhân dân, xa rời quần chúng. Ở trong Đảng thì không thực hiện chế độ dân chủ tập trung, không tuân theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Phớt kỷ luật và chính sách của Đảng
46
và của Chính phủ. Khinh rẻ ý kiến của cấp dưới. Xem thường chỉ thị của cấp trên. Không muốn chịu kiểm tra, không muốn nghe phê bình. Thân với những kẻ xu nịnh tâng bốc mình. Xa tránh những người tính trực nói thẳng...
“Chớ kiêu ngạo, phải khiêm tốn”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.507.
III- GIAI ĐOẠN TỪ THÁNG 10/1954
ĐẾN THÁNG 9/1969
59. Tài sản công cộng là nền tảng, là vốn liếng để khôi phục và xây dựng kinh tế chung, để làm cho dân giàu nước mạnh, để nâng cao đời sống của nhân dân. Vì vậy, bảo vệ tài sản chung là nhất trí với lợi ích riêng của mọi người. Khinh thường tài sản chung tức là hại đến lợi ích riêng của mọi người.
Có nhiều thứ khinh thường tài sản chung, thí dụ:
- Những cơ quan tổ chức kềnh càng không hợp lý, việc ít người nhiều, tốn kém cho công quỹ một cách vô ích. Hoặc ham chuộng hình thức, trưng diện cho sang, phô trương, lãng phí.
- Những ngành làm việc luộm thuộm, bừa bãi, để hư hỏng nguyên liệu và dụng cụ. Hoặc không khéo kinh doanh, quản lý, kế hoạch không chín
47
chắn, sổ sách không phân minh, hại đến sản xuất; hàng hóa bị ứ đọng, hư hỏng.
- Những người buôn lậu, trốn thuế, tổn hại cho công quỹ của Chính phủ và cho những bà con buôn bán thật thà.
- Những cán bộ không cảnh giác, để bọn bất lương trộm cắp của công, v.v..
“Bảo vệ tài sản công cộng”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.297.
60. Nếu bản thân ta tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đồng thời khuyến khích, lãnh đạo nhân dân cũng tăng gia và tiết kiệm thì chúng ta sẽ đi mau lên chủ nghĩa xã hội, phải tiết kiệm và bảo vệ của công (ví dụ chặt phá rừng phi lao là rất sai), tham ô lãng phí là không tốt.
“Nói chuyện với Hội nghị cán bộ
toàn tỉnh Nghệ An”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.610.
61. Nhưng có đồng chí học thuộc lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác - Lênin. Họ tự cho mình là hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin hơn ai hết. Song khi gặp việc thực tế, thì họ hoặc là máy móc, hoặc là lúng túng. Lời nói và việc làm của họ không nhất trí. Họ học sách vở Mác - Lênin, nhưng không học tinh thần Mác - Lênin. Học để trang sức, chứ
48
không phải để vận dụng vào công việc cách mạng. Đó cũng là chủ nghĩa cá nhân.
“Đạo đức cách mạng”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.612.
62. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân.
Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó. “Đạo đức cách mạng”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611.
63. Nói chung, số đông cán bộ ta đều tận tụy, đều cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Nhưng vẫn còn một số bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc, do đó mà phạm nhiều sai lầm, khuyết điểm. Vài thí dụ:
+ Đối với nhân dân thì quan liêu, mệnh lệnh; xem thường pháp luật, không tôn trọng quyền lợi của nhân dân (như có khi khám xét nhà mà không báo trước cho chủ nhà).
Tự tiện ra mệnh lệnh lung tung (như bán bánh ngọt không cho người mua mang bánh về nhà, bắt người ta ăn tại chỗ).
49
+ Đối với tập thể thì kèn cựa địa vị, tính thiệt suy hơn, chỉ hỏi Đảng và Chính phủ đã làm gì cho mình, không tự hỏi mình đã làm gì ích lợi cho nhân dân, cho xã hội.
+ Đối với của công thì lãng phí, tham ô, ở các xí nghiệp và các hợp tác xã ít nhiều đều có hiện tượng xấu như vậy.
+ Đối với bản thân thì không lo trau dồi đạo đức cách mạng, không lo học tập để tiến bộ, mà chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp hơn người khác...
“Bài nói chuyện tại Đại hội Đảng bộ Hà Nội”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.28-29.
64. Mỗi thứ của cải chúng ta làm ra phải tốn bao nhiêu mồ hôi và sức lao động. Chúng ta chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống. Cho nên phải biết giữ gìn của công. Tham ô, lãng phí tài sản của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân là hành động trộm cắp, mà ai cũng phải thù ghét, phải trừ bỏ.
“Bài nói chuyện tại Hội nghị bàn
cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân 1961”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.70.
65. Những tư tưởng, tác phong xấu cần chống lại là:
50
- Chủ nghĩa cá nhân,
- Quan liêu, mệnh lệnh,
- Tham ô, lãng phí,
- Bảo thủ, rụt rè.
“Bài nói chuyện tại Hội nghị bàn
cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân 1961”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.71-72.
66. Ban quản trị phải chống tham ô, lãng phí. Có nơi khi bắt đầu cày bừa cũng làm mấy con lợn để “liên hoan”. Hễ có cơ hội là bày ra chè chén. Hay khi gặt về tuốt lúa dối rồi chia “rơm” cho xã viên và bà con mình đem về tuốt lại. Như thế là tham ô, lãng phí. Không được dung túng những việc như thế. “Bài nói chuyện với đồng bào và cán bộ
xã Đại Nghĩa (Hà Đông”),
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.217.
67. Chống tham ô - Tham ô là hành động xấu xa nhất của con người. Nhân dân lao động ta làm lụng đổ mồ hôi sôi nước mắt để góp phần xây dựng của công - của Nhà nước và của tập thể. Của công ấy là nền tảng vật chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa, là nguồn gốc chủ yếu để nâng cao đời sống của nhân dân ta.
“Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.416.
51
68. Của công của Nhà nước và của tập thể là “bất khả xâm phạm”, tham ô của công tức là xâm phạm đến lợi ích chung của nhân dân, tức là kẻ địch của nhân dân.
“Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.416.
69. Chống quan liêu - Quan liêu là cán bộ phụ trách xa rời thực tế, không điều tra, nghiên cứu đến nơi đến chốn những công việc cần phải làm, việc gì cũng nắm không vững, chỉ đạo một cách đại khái, chung chung. Quan liêu là xa rời quần chúng, không đi sâu đi sát, không hiểu rõ lai lịch, tư tưởng và công tác của cán bộ mình. Không lắng nghe ý kiến của quần chúng. Sợ phê bình và tự phê bình. Tác phong của những “ông quan liêu” là thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách.
“Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.417.
70. Nhưng lúc thi hành thì chắc có một số người lo lắng, e sợ. E sợ vì trong ba chứng bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, bản thân mình chắc có một bệnh, hoặc nặng hoặc nhẹ. Lo lắng vì không biết cấp trên sẽ xử trí thế nào? Anh em
52
công nhân sẽ đối với mình thế nào? Lo lắng, e sợ vì mình sẽ ở vào cảnh “trên đe, dưới búa”. “Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.419).
71. Cá nhân chủ nghĩa: Ít nghĩ đến lợi ích chung của cách mạng, của nhân dân, mà thường lo cho lợi ích riêng của mình. Tham danh lợi, hay suy tị. Có chút thành tích thì tự cao, tự đại, kiêu ngạo, công thần, gây lủng củng trong nội bộ.
“Đoàn kết tiến lên giành thắng lợi mới”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.29.
72. Nhưng trong hàng ngũ ta vẫn còn một số người không tốt. Họ tham ô và lãng phí của Nhà nước và của nhân dân.
Vì vậy, cuộc vận động này gồm có “ba xây”, là xây những cái tốt nói trên và “ba chống” là chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
- Tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công làm của tư. Nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà; hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân; hại đến đạo đức cách mạng của người cán bộ và công nhân.
- Lãng phí tuy khác với tham ô ở chỗ người gây ra lãng phí không trực tiếp trộm cắp của công làm
53
của riêng. Nhưng kết quả thì làm tổn hại rất nghiêm trọng cho Nhà nước, cho nhân dân. Lãng phí có nhiều nguyên nhân. Hoặc vì lập kế hoạch không chu đáo. Hoặc vì trong khi thực hiện kế hoạch tính toán không cẩn thận. Hoặc vì bệnh hình thức, xa xỉ, phô trương. Hoặc vì thiếu tinh thần bảo vệ của công. Nói tóm lại là vì thiếu ý thức trách nhiệm, thiếu ý thức quý trọng sức của, sức người của Nhà nước và của nhân dân.
- Quan liêu là người cán bộ phụ trách nhưng xa rời thực tế, xa rời quần chúng. Đối với công việc thì không điều tra nghiên cứu kỹ lưỡng. Chỉ đạo thì đại khái, chung chung. Không lắng nghe ý kiến của quần chúng, tác phong không dân chủ. Sợ phê bình và tự phê bình. Không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ
trách... Vì vậy, ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó có nạn tham ô, lãng phí.
“Ba xây” và “ba chống” quan hệ chặt chẽ với nhau. Làm “ba chống” triệt để nhằm bảo đảm cho công việc “ba xây” thành công. “Ba xây” phát triển mạnh mẽ thì đối tượng “ba chống” sẽ được xóa bỏ
tận gốc.
“Bài nói tại Hội nghị phổ biến nghị quyết của Bộ Chính trị về cuộc vận động
“Nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu””,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.140-141. 54
73. Trong nước xã hội chủ nghĩa thì mọi người công dân phải có đạo đức xã hội chủ nghĩa, tức là đoàn kết chặt chẽ, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, ra sức góp phần làm cho nước mạnh dân giàu, phát triển thuần phong mỹ tục. Vì vậy, phải chấm dứt những tệ nạn xấu xa do xã hội cũ để lại, như lười biếng, cờ bạc, tệ nấu rượu lậu, buôn gian bán lận, tiêu xài xa xỉ, gả bán cưỡng ép, v.v.. Chúng ta phải thực hiện nếp sống mới, lành mạnh, vui tươi, một nếp sống xã hội chủ nghĩa.
“Bài nói với nhân dân và cán bộ tỉnh Hà Bắc”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.182.
74. Trong các ngành công nghiệp, xây dựng cơ bản, lâm nghiệp, thủy sản, nội thương, ngoại thương, giáo dục, văn hóa, y tế, v.v. cũng như ở các địa phương còn nhiều hiện tượng lãng phí, phô trương hình thức. Qua cuộc vận động “Ba xây, ba chống”, phải kiên quyết xóa bỏ tệ nạn ấy.
“Bài nói tại phiên họp cuối năm
của Hội đồng Chính phủ”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.223.
75. Nhưng trong hàng chục vạn cán bộ và đảng viên xứng đáng, còn lẫn vào một số người thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng. Họ còn mang nặng chủ nghĩa cá nhân trong mình.
55
Đứng trong hàng ngũ chiến đấu của Đảng mà họ không có dũng khí cách mạng, ít lo nghĩ về trách nhiệm của mình, không quyết tâm vươn lên phía trước. Họ hững hờ như những người không có lý tưởng, đến đâu hay đó, qua tháng qua ngày. Đối với công việc của cách mạng, không có thái độ người làm chủ tập thể, dám nghĩ dám làm, mà thường bị động ngồi chờ.
Số người ấy không hiểu sức mạnh của Đảng chính là ở sự tập trung thống nhất, ở kỷ luật sắt của Đảng. Họ ít gắn bó với tổ chức, không tin ở lực lượng và trí tuệ của tập thể. Họ sống và làm việc một cách riêng rẽ, không đoàn kết và hợp tác với người khác. Hễ có đôi chút hiểu biết, đôi chút thành công thì tự cao tự đại, vênh vang kiêu ngạo, tự cho mình tài giỏi hơn người. Ở cương vị phụ trách thì tự cho mình có quyền hơn hết thảy, định đoạt mọi việc; ở ngành nào, địa phương nào thì coi đó như một giang sơn riêng, không biết đến lợi ích toàn cục. Họ coi thường những quyết định của tổ chức, họ là những “ông quan liêu”, chỉ thích dùng mệnh lệnh đối với đồng chí và nhân dân.
Đảng ta là một đảng phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của giai cấp vô sản, chứ không vì lợi ích nào khác. Nhưng số người đó coi Đảng như một cái cầu thang để thăng
56
quan phát tài. Họ không quan tâm đến đời sống của nhân dân mà chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Họ quên rằng mỗi đồng tiền, hạt gạo đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân, do đó mà sinh ra phô trương, lãng phí. Họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi.
Tất cả những lỗi lầm nói trên đều là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt.
“Bài nói tại Hội nghị bồi dưỡng chỉnh huấn do Trung ương triệu tập”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.468-469.
76. Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”.
“Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.546-547.
57
Phần II
NGUYÊN NHÂN, TÁC HẠI CỦA QUAN LIÊU, THAM NHŨNG, TIÊU CỰC
I- GIAI ĐOẠN TRƯỚC NGÀY 2/9/1945
1. Nhờ độ lượng mẫu từ của nước Pháp bảo hộ, Đông Dương thật đã trở thành một chỗ náu thân cho bọn làm bậy.
“Diễn đàn Đông Dương”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.204.
2. Đã lợi dụng, trong mọi trường hợp quyền hành quan cai trị (mà nước Pháp có chủ quyền đã ủy thác cho) để làm đổ mồ hôi sôi nước mắt người bị trị và để cho phình ví tiền.
“Diễn đàn Đông Dương”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.204.
3. Người An Nam nói chung, phải è cổ ra mà chịu những công ơn bảo hộ của nước Pháp. Người
58
nông dân An Nam nói riêng, lại càng phải è cổ ra mà chịu sự bảo hộ ấy một cách thảm hại hơn: là người An Nam, họ bị áp bức; là người nông dân, họ bị người ta ăn cắp, cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản. Chính họ là những người phải làm mọi công việc nặng nhọc, mọi thứ lao dịch. Chính họ làm ra cho lũ người ăn bám, lũ người lười biếng, lũ người đi khai hóa và những bọn khác hưởng mà chính họ thì lại phải sống cùng khổ trong khi những tên đao phủ của họ sống rất thừa thãi; hễ mất mùa thì họ chết đói. Đó là vì họ bị ăn cắp khắp mọi phía, bằng mọi cách, do các quan cai trị, do bọn phong kiến tân thời và nhà thờ.
“Tình cảnh nông dân An Nam”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.244.
4. Chủ nghĩa tư bản cũng làm cho người chủ ruộng mất cái đầu óc tập truyền và gia trưởng và đem thay bằng tính hám lợi rất dữ tợn. Cố noi theo gương các đồng nghiệp của chúng ở thành thị, bọn địa chủ tìm cách để ngày càng nắm độc quyền ruộng đất.
“Tình cảnh nông dân Trung Quốc”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.251.
59
II- GIAI ĐOẠN TỪ NGÀY 2/9/1945
ĐẾN THÁNG 9/1954
5. Nguyên nhân bệnh cấp bậc là:
Vì cán bộ chưa gột sạch óc quan liêu, ngôi thứ. Vì còn mang nặng chứng “quan cách mạng”. Vì không hiểu rằng: trong công việc cách
mạng, công việc kháng chiến kiến quốc, không có việc sang, việc hèn, mọi việc đều quan trọng. Mọi người phải làm tròn nhiệm vụ của mình. Tất cả mọi ngành và tất cả mọi người phải đoàn kết thân mật, hợp tác chặt chẽ, như tay với chân, thì công việc mới dễ dàng thành công.
“Phải chữa cái bệnh cấp bậc”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.408.
6. Bệnh quan liêu là thế nào?
Nguyên nhân của nó vì xa cách quần chúng, không hiểu biết dân chúng, không học hỏi dân chúng, sợ dân chúng phê bình. Một thí dụ: Các cán bộ ấy, người thì cả đời chỉ loanh quanh trong trụ sở. Có người thì bao giờ “sấm ra đá kêu” mới gặp dân chúng một lần. Khi gặp dân chúng thì đút tay vào túi quần mà “huấn thoại”, nói hàng giờ, nói bao la thiên địa. Song, những việc thiết
60
thực cần kíp của địa phương, những điều dân chúng cần biết, thì không nói đến.
“Phải tẩy sạch bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.433.
7. Nếu không lo chữa, thì bệnh quan liêu sẽ đưa bệnh nhân đến chỗ hoàn toàn bị đào thải. “Phải tẩy sạch bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.434.
8. Chỉ vì cá nhân chủ nghĩa mà sinh ra tham ô hủ hóa. Đó là chỉ biết mình, không biết đến quần chúng. Là chỉ lo cho mình được sung sướng mà không nghĩ đến đội viên, nhân dân còn khổ sở.
Chỉ vì cá nhân chủ nghĩa mà sinh ra vô kỷ luật, thiếu kiên quyết chấp hành mệnh lệnh. Do đó mà đáng lẽ thắng to thì chỉ giành được thắng nhỏ và thắng rồi không phát triển được. Quân đội ta là quân đội dân chủ, nhưng dân chủ không phải là không có mệnh lệnh. Mỗi mệnh lệnh đưa xuống, cấp trên đã thảo luận cân nhắc kỹ càng nên cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng và kiên quyết chấp hành, nhất là lúc tác chiến.
Chỉ vì cá nhân chủ nghĩa mà sinh ra thiếu tin tưởng, không quyết tâm khắc phục khó khăn. Mọi việc đều khó khăn. Đánh giặc lại càng khó khăn
61
hơn. Nếu dễ thì ai làm cũng được. Không phải chờ đến các chú. Vì vậy gặp khó khăn phải cố vượt cho bằng được thì nhất định thắng lợi.
“Bài nói chuyện tại Trường chính trị
trung cấp quân đội”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.217.
9. Vạch khuyết điểm nhiều, nêu ưu điểm ít, làm cho một số cán bộ nản chí, đâm ra tiêu cực. “Tự phê bình và phê bình”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.319.
10. Có người lại nói tham ô mới có tội, còn lãng phí thì không có tội. Thực ra việc khác nhau nhưng kết quả vẫn hao tổn của công, của Chính phủ, của nhân dân. Tham ô có hại; nhưng lãng phí có khi còn hại nhiều hơn: Nó tai hại hơn tham ô vì lãng phí rất phổ biến: lãng phí của cải, thì giờ, lực lượng của nhân dân, của Chính phủ. Thí dụ: lãng phí trong việc huy động dân công phục vụ chiến dịch, lãng phí trong việc tiêu dùng đạn dược, vật liệu, tiền bạc, của cải. Thí dụ ở xã Đại Đồng (Liên khu IV) ăn mừng kết quả thu thuế nông nghiệp, người ta đã thịt 1021
__________
1. Theo bản đánh máy lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I (BT).
62
con bò. Ở Liên Xô lúc lập các nông trường tập thể, nhân dân phải tranh đấu chống bọn phản động giết trâu bò. Ở Trung Hoa cũng vậy. Thế mà ở ta có cán bộ bảo nhân dân giết trâu bò. Tuy đó chỉ là một nơi và giết để ăn mừng, nhưng cũng là lãng phí. Tôi rất đau lòng cho của cải của nhân dân, cho sự khờ dại của cán bộ.
“Bài nói tại buổi phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.345.
11. Vì đâu mà có lãng phí và tham ô?
Vì cán bộ phụ trách lãnh đạo các cấp, các ngành quan liêu không đi sát công việc, cán bộ, quần chúng nhân dân. Có thể nói bệnh quan liêu là chỗ gieo hạt vun trồng cho tham ô lãng phí nảy nở được.
“Bài nói tại buổi phát động phong trào
sản xuất và tiết kiệm”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.345.
12. Muốn lúa tốt thì phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không, thì dù cày bừa kỹ, bón phân nhiều, lúa vẫn xấu vì lúa bị cỏ át đi.
Muốn thành công trong việc tăng gia sản xuất và tiết kiệm cũng phải nhổ cỏ cho sạch, nghĩa là
63
phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Nếu không, thì nó sẽ làm hại đến công việc của ta.
“Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.355.
13. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô. “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.357.
14. Có nạn tham ô và lãng phí là vì bệnh quan liêu.
Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn.
Nói tóm lại: Vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu,
64
có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí.
“Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.357.
15. Kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta.
Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Vì nó làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ
ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính.
Để kháng chiến thắng lợi, để xây dựng nước nhà, chiến sĩ thì hy sinh xương máu, đồng bào thì hy sinh mồ hôi nước mắt để đóng góp. Mà những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám.
“Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.357-358.
65
16. Thực dân và phong kiến tuy bị tiêu diệt, nhưng cái nọc xấu của nó (tham ô, lãng phí, quan liêu) vẫn còn, thì cách mạng vẫn chưa hoàn toàn thành công, vì nọc xấu ấy ngấm ngầm ngăn trở, ngấm ngầm phá hoại sự nghiệp xây dựng của cách mạng.
“Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.361.
17. Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư tự lợi, ích kỷ hại nhân mà ra. Nó do chế độ “người bóc lột người” mà ra.
“Thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí, chống bệnh quan liêu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.361.
18. Nhưng số đông cán bộ và đảng viên ta chưa được rèn luyện trong đấu tranh, chưa được cải tạo tư tưởng, lập trường giai cấp vô sản không vững, (nhất là đảng viên thành phần tiểu tư sản và đảng viên mới), cho nên đã phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng như:
- Không phân biệt rõ bạn và thù.
- Kém ý thức trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh.
66
- Không nắm vững, không thi hành đúng chính sách đại đoàn kết của Đảng, khi thì quá “tả”, khi thì quá “hữu” (thường là quá hữu).
- Kém ý thức dân chủ và kỷ luật trong Đảng. Tự phê bình và phê bình không thật thà, không rộng khắp.
- Bệnh quan liêu, hủ hóa, tham ô, lãng phí khá nặng.
“Tình hình và nhiệm vụ”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.395-396.
19. Để phát triển phong trào thi đua, chúng ta phải chống bệnh quan liêu, chống nạn tham ô, lãng phí. Vì bệnh quan liêu sẽ ngăn trở phong trào thi đua, làm nó chậm tiến, và nạn tham ô, lãng phí sẽ làm giảm bớt những kết quả của phong trào thi đua.
“Bài nói tại Đại hội các chiến sĩ thi đua
và cán bộ gương mẫu toàn quốc”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.409.
20. Nhưng vì điều kiện khó khăn, mà số đông cán bộ và đảng viên chưa được huấn luyện hẳn hoi cho nên tư tưởng và trình độ chính trị còn thấp kém và lệch lạc. Điều đó tỏ rõ ra ở mỗi khuyết điểm như: không nắm vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; không phân biệt rõ ràng
67
bạn và địch, bệnh quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ hóa khá nặng, v.v..
“Bài nói tại lớp chỉnh huấn
đầu tiên của Trung ương”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.414-415.
21. Tham ô lãng phí một phần lớn là do bệnh quan liêu mà ra.
“Bài nói tại Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.433.
22. Vì người phụ trách mắc bệnh quan liêu: xa công việc thực tế, xa cán bộ, xa quần chúng, cho nên có nạn tham ô, lãng phí.
“Mười điều ghi nhớ và thực hành”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.452.
23. Một bọn không có lương tâm, tham ô, lấy của công làm của tư, hoặc lãng phí, tiêu xài bừa bãi; chúng làm thiệt hại đến bộ đội, đến nhân dân, đến Chính phủ và đoàn thể. Như vậy không khác gì giúp cho giặc phá hoại ta. Vì vậy, mọi người đều có quyền và có nhiệm vụ chống quan liêu, tham ô, lãng phí.
“10 điều ghi nhớ và thực hành”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.452-453. 68
24. Lênin dạy chúng ta phải ra sức chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Dù vô tình hay là cố ý, duy trì ba bệnh ấy tức là giúp sức cho kẻ địch và làm hại cho nhân dân, cho Chính phủ, cho Đảng.
“Kỷ niệm Lênin”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.13.
25. Vì cán bộ không nắm chính sách, lập trường không vững, muốn được lòng nông dân mà cũng muốn được lòng địa chủ, có khi muốn được lòng địa chủ hơn, cán bộ tự tư tự lợi; mình tuy ở
trong Đảng nhưng còn cái đuôi phong kiến địa chủ thò ra. Chưa gột rửa sạch tư tưởng phong kiến địa chủ, xui nông dân xung phong mà mình không xung phong; thậm chí tham ô, lãng phí; cán bộ từ khu, tỉnh, huyện, xã hoặc nhiều hoặc ít đều mắc khuyết điểm trên. Nói tóm lại, trong đầu óc cán bộ còn rất nặng những tư tưởng địa chủ.
“Bài nói tại Hội nghị nông vận
và dân vận toàn quốc”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.45.
26. Nếu để phe ác thắng thì gây ra chứng bệnh nói chung là cá nhân chủ nghĩa. Từ đó gây ra nhiều bệnh khác.
69
Vì cá nhân chủ nghĩa nên đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích chung, rồi sinh ra vô kỷ luật, vô tổ chức, tham địa vị, tham danh vọng, bè phái, tham ô, lãng phí, quan liêu, v.v..
“Bài nói tại lớp chỉnh Đảng Trung ương khóa 2”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.100.
27. Chủ nghĩa cá nhân, đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc. Đó là bệnh chính, bệnh mẹ, do đó mà sinh ra nhiều chứng bệnh khác, như:
- Tự tư tự lợi, sợ khó, sợ khổ;
- Không yên tâm công tác. Ham địa vị danh tiếng;
- Lãng phí, tham ô. Quan liêu, mệnh lệnh, v.v.. “Thư gửi các lớp chỉnh huấn cơ quan”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.156
28. Nạn giấy tờ đã làm tốn của hao công của nhân dân, nó cũng làm hỏng tư tưởng và tác phong của cán bộ. Nó là di tích của đế quốc và phong kiến, là hiện tượng tai hại của nạn quan liêu. Mà nạn quan liêu là mẹ đẻ ra nạn tham ô, lãng phí.
“Chống nạn giấy tờ”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.425.
70
29. Vì không sát thực tế, không gần gũi quần chúng. Cán bộ chỉ lo viết cho nhiều chỉ thị, thông tư... Nhưng không lo việc làm phải ăn khớp với lời nói, chỉ thị phải có thể thực hành. Cán bộ nhầm tưởng rằng cứ gửi nhiều thông tư, chỉ thị, là xong việc; mà không theo dõi, đôn đốc, giúp đỡ địa phương, không kiểm tra công việc thực tế.
“Chống nạn giấy tờ”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.425.
30. Kết quả của bệnh kiêu ngạo là: thoái bộ, xuống dốc, rồi đi đến bất mãn, hủ hóa. “Chớ kiêu ngạo, phải khiêm tốn”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.507.
III- GIAI ĐOẠN TỪ THÁNG 10/1954
ĐẾN THÁNG 9/1969
31. Vẫn có một số ít người không làm đúng như vậy. Họ muốn hưởng quyền lợi mà không muốn làm nghĩa vụ. Thậm chí có những người phá hoại pháp luật (như tham ô, buôn gian, lậu thuế, trộm cắp, lưu manh...). Những thói xấu đó là do:
a) Ảnh hưởng của xã hội cũ, của chế độ thực dân, phong kiến còn lại.
b) Bọn đế quốc, phong kiến tuyên truyền lừa bịp, xui giục phỉnh phờ, làm cho một số người lạc
71
hậu trốn tránh nghĩa vụ, làm trái phép luật, trái đạo đức công dân.
“Đạo đức công dân”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.258.
32. Có một số cán bộ lầm tưởng hòa bình là thái bình, thờ ơ với đạo đức cách mạng và mắc nhiều khuyết điểm sai lầm. Thí dụ:
- Muốn nghỉ ngơi, sợ gian khổ, muốn công tác ở thành thị, không thích đi cải cách ruộng đất. - Ngại công việc khó, không ham học tập, thiếu cảnh giác, kém kỷ luật.
- Muốn ăn tiêu rộng rãi, thích phô trương lãng phí. Do đó mà tự tư, tự lợi, tham ô hủ hóa. - Ghen tị địa vị, quan liêu bao biện, không tin vào lực lượng quần chúng, không tin tưởng vào đấu tranh chính trị, hễ gặp khó khăn thì dao động hoang mang...
Vì không nhận rõ PHẢI, TRÁI; không giữ vững lập trường, mà phạm những sai lầm khuyết điểm ấy. Cán bộ ta cần phải kiên quyết sửa chữa mới xứng đáng cái danh hiệu cao quý là người cán bộ
cách mạng.
“Người cán bộ cách mạng”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.355-356.
33. Chúng ta cũng phải nhận rằng: ảnh hưởng xấu của xã hội cũ làm cho một số đảng viên và
72
cán bộ (trong Đảng và ngoài Đảng) hủ hóa. Họ tưởng rằng cách mạng là cốt để làm cho họ có địa vị, được hưởng thụ. Do đó mà họ mắc những sai lầm: kiêu ngạo, chưng diện, hưởng lạc, lãng phí của công, tự tư tự lợi, không tiết kiệm đồng tiền bát gạo là mồ hôi nước mắt của nhân dân.
Họ quên mất tác phong gian khổ phấn đấu, lạt lẽo với công việc cách mạng, xa rời Đảng, xa rời quần chúng. Dần dần, họ mất cả tư cách và đạo đức người cách mạng, sa vào tham ô, hủ bại và biến thành người có tội với Đảng, với Chính phủ, với nhân dân.
“Đạo đức cách mạng”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.508-509.
34. Cũng do lập trường giai cấp không vững mà sinh ra quan liêu, khi quá tả, khi quá hữu. Khi thiếu gạo, cán bộ không biết tổ chức sản xuất tự cứu, không biết tổ chức nhân dân giúp đỡ nhau, không biết tổ chức trưng vay. Khi nhận được gạo, lại còn cấp phát tràn lan, chậm chạp, gạo đến người đói chậm, người không đói cũng nhận được gạo. Quá tệ hơn nữa là gạo của Chính phủ giúp dân, chừng một nửa đến tay dân đói, còn một nửa bị tham ô, lãng phí.
“Bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.519.
73
35. Tham ô, lãng phí là có tội, mà tham ô lãng phí gạo cứu đói tội lại càng lớn hơn. Không khác gì gián điệp giết hại đồng bào đó. Thế là có tội đối với Đảng và Chính phủ, đối với nhân dân, đối với nước bạn. Đó là tội thật to. Các cấp ủy cùng với cán bộ cần tìm cho ra gốc rễ tham ô, lãng phí và xử trí đúng mức.
“Bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.519.
36. Nhà máy đang có hiện tượng tham ô lãng phí, mà nhất là lãng phí. Như vậy là thiệt cho ai? Thiệt cho công nhân, thiệt cho Nhà nước, thiệt cho nhân dân.
“Nói chuyện với cán bộ,
công nhân Nhà máy dệt Nam Định”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.535.
37. Ta có nêu lên khẩu hiệu “cần, kiệm, liêm, chính”. Các cô, các chú đã thi hành được chưa? Còn có một số đảng viên, cán bộ đang còn xa xỉ, tham ô, lãng phí, không biết tiếc, biết tôn trọng của công, không biết thương tiếc của cải do mồ
hôi nước mắt đồng bào làm ra. Do đó mà đẻ ra xa xỉ. Lương bổng Chính phủ cấp cho chúng ta có hạn mà ta xa xỉ thì lấy tiền đâu? Đã có cái áo rồi còn muốn hai ba cái như thế là lãng phí. Lại muốn
74
mua thứ này thứ khác mà thiếu tiền sinh ra tham ô. Thiếu tinh thần lao động, thiếu kỷ luật lao động.
“Nói chuyện với Hội nghị cán bộ tỉnh Nghệ An”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.608-609.
38. Nạn lãng phí, tham ô là do bệnh quan liêu, mệnh lệnh trong công tác của các cấp lãnh đạo ở các cơ quan Nhà nước gây ra.
“Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ thanh tra”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.503.
39. Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, trước hết phải thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Nếu không kiên quyết chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô, thì nó sẽ cản trở, phá hoại ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.
“Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ thanh tra”, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.503.
40. Vì ban quản trị đã phạm những khuyết điểm sau đây:
- Cán bộ không dân chủ - Không đưa công việc bàn bạc với xã viên, mà cứ dùng cách quan liêu, mệnh lệnh, gò ép...
- Phân phối không sòng phẳng - Thí dụ: Xóm A. gặt được 49 tấn thóc, hợp tác xã chỉ chia cho xã
75
viên 18 tấn. Ban quản trị không nói cho xã viên rõ vì sao chưa chia 31 tấn còn lại, trong lúc đó thì các xã viên cần thóc gạo. Tài chính thì đã gần một năm chưa thanh toán. Xã viên nghi ngờ ban quản trị tham ô.
- Lãnh đạo không chặt chẽ - Phân phối công việc sản xuất không kịp thời, không nghiêm chỉnh. Mạ gieo xong không ai chăm bón. Ruộng cày cuốc không kịp thời. Trong mùa gặt, một số xã viên đi làm việc khác để kiếm tiền.
- Không làm đúng chính sách của Đảng và Chính phủ - Thí dụ: Đối với gia đình thương binh và gia đình neo đơn, ban quản trị không giúp đỡ họ theo đúng chính sách của Đảng và Chính phủ.
- Không đi đúng đường lối quần chúng - Đối với những xã viên thật thà nêu ý kiến hoặc phê bình, cán bộ không chịu lắng nghe, không chịu sửa chữa, mà còn dùng cách chụp mũ, đàn áp...
Nói tóm lại, những khuyết điểm đó cộng với kém giáo dục chính trị đã gây mâu thuẫn nặng nề giữa quần chúng xã viên và cán bộ, làm cho hợp tác xã mất đoàn kết; làm cho xã viên chán nản, bất mãn và không yên tâm lao động sản xuất. “Một hợp tác xã không gương mẫu”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.15-16.
41. Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích
76
chung của tập thể. “Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”. Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu như: lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô, v.v.. Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội.
“Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.90.
42. Vẫn còn một số người không tốt, còn phạm sai lầm tham ô, lãng phí và còn mang nặng bệnh quan liêu, ảnh hưởng rất xấu đến công cuộc xây dựng kinh tế của nhân dân ta. Vì vậy, chúng ta phải kiên quyết chống lại những tệ hại ấy.
“Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.415.
43. Tham ô là lấy trộm của công, chiếm của công làm của tư. Nó có hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, có hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân, có hại đến đạo đức cách mạng.
“Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.416.
44. Chống lãng phí - Lãng phí và tham ô tuy khác nhau ở chỗ lãng phí thì không trực tiếp ăn cắp,
77
ăn trộm của công, nhưng kết quả tai hại đến tài sản của Nhà nước, của tập thể thì lãng phí cũng có tội. Thí dụ: Tên A tham ô 1.000 đồng, tên B lãng phí 1.000 đồng. Kết quả tai hại đến của công thì B cũng chẳng khác gì A.
“Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.416.
45. Lãng phí có nhiều hình thức: Hoặc vì lập kế hoạch không chu đáo, ví dụ làm một ngôi nhà không hợp thức, làm xong rồi phải phá đi làm lại. Hoặc vì tính toán không cẩn thận, điều động hàng trăm hàng nghìn người đến công trường, nhưng chưa có việc làm hay là người nhiều việc ít, phải để họ trở về. Hoặc vì xa xỉ, phô trương hình thức, nào liên hoan, nào “báo chí”, nào kỷ niệm, sắm sửa lu bù, xài tiền như nước, v.v..
“Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.416.
46. Nói tóm lại, lãng phí là vì thiếu tinh thần trách nhiệm, không có ý thức quý trọng sức của, sức người của Nhà nước, của nhân dân.
“Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước”,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.416.
78