🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hồ Chí Minh - Tấm Gương Lớn Về Sự Nêu Gương Ebooks Nhóm Zalo HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG Phó Chủ tịch Hội đồng Q. Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THjNH Thành viên PHẠM THỊ THINH NGUYỄN ĐỨC TjI TRẦN THANH LÂM NGUYỄN HOjI ANH 2 LỜI NHj XUẤT BẢN Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Bản thân Người là tấm gương giản dị mà mẫu mực về tư tưởng, phẩm chất đạo đức, phong cách từ lời nói đến hành động cho mọi thế hệ cách mạng. Không chỉ phấn đấu noi gương Người, mỗi cán bộ, đảng viên còn có trách nhiệm thực hiện tốt việc nêu gương, trở thành những “tấm gương sống” cho quần chúng noi theo, bởi “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”1. Nhận thức được yêu cầu chuyển biến mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa hoạt động noi gương và nêu gương trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 07/11/2006 về “Tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh””; Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 “Về tiếp _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.284. 5 tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Sự chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của Đảng và Nhà nước cùng sự tham gia tích cực của toàn xã hội suốt thời gian qua đã đem lại nhiều kết quả đáng ghi nhận, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Nhân dịp kỷ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 2020), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật và Nhà xuất bản Công an nhân dân phối hợp xuất bản cuốn sách Hồ Chí Minh - Tấm gương lớn về sự nêu gương của PGS.TS. Trần Quang Nhiếp. Cuốn sách đã đề cập những khía cạnh nêu gương tiêu biểu nhất của tấm gương lớn Hồ Chí Minh: sự hy sinh vì nước, vì dân; nói đi đôi với làm; không ngừng rèn luyện ý chí, nghị lực, bản lĩnh kiên định, trung thành với lý tưởng cách mạng; đạo đức, lối sống giản dị, trong sáng; đường lối ngoại giao đoàn kết, kiên định mà linh hoạt, mềm dẻo,... Trên cơ sở đó, tác giả phân tích giá trị soi sáng của tấm gương lớn Hồ Chí Minh ở mọi phương diện tư tưởng, đạo đức, phong cách; đồng thời, đưa ra những phương hướng, biện pháp học tập và noi theo tấm gương lớn về sự nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 7 năm 2020 NHj XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 LỜI NÓI ĐẦU C hủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương lớn về một con người suốt đời nêu gương, cống hiến cả đời mình cho dân, cho nước. Sức mạnh của Hồ Chí Minh khiến người ta vững tin, có Người, tin ở Người, đi theo Người là chiến thắng mọi kẻ thù, là không kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi. Tấm gương lớn Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi rực sáng trong lòng nhân dân, mãi mãi soi đường cho cách mạng vượt qua mọi gian nan thử thách. Người là hiện thân của lòng nhân ái, quý trọng con người, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, cống hiến hết mình cho Đảng, cổ vũ nhân dân cùng Đảng kiên định phấn đấu cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Tấm gương lớn Hồ Chí Minh thể hiện sự kết hợp rất tự nhiên, nhuần nhuyễn đức giản dị, khiêm tốn và lòng nhân ái với ý chí kiên cường, lòng dũng cảm phi thường của một chiến sĩ cách mạng chân chính, xuất sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin. 7 Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu học thuyết Mác - Lênin bằng phẩm chất cá nhân, bằng sự trải nghiệm cuộc đời mình đi tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng sôi nổi, oanh liệt. Người là biểu tượng của tình đoàn kết quốc tế trong sáng cao cả. Ở Người toát lên một điều: càng yêu Tổ quốc tha thiết, càng giữ vững tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, càng kiên định trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, thì càng yêu nước sâu sắc, sẵn sàng hy sinh, phấn đấu cho lợi ích to lớn của Tổ quốc mình. Người lãnh đạo bằng lòng nhân hậu, chí công vô tư, bằng trí tuệ thông minh, lòng dũng cảm, bản lĩnh cá nhân cùng với vốn văn hóa truyền thống và văn hóa cách mạng, đức hy sinh, hoàn toàn xả thân không màng lợi ích riêng tư của một nhân cách vô cùng đức độ... Dưới nhiều hệ quy chiếu khác nhau, chúng ta đều có thể noi gương, học tập, làm theo những giá trị cụ thể của tấm gương lớn về sự nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Suốt nhiều năm qua, Đảng ta đã ban hành các chỉ thị, nghị quyết yêu cầu cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cuộc vận động hợp lòng dân đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được cán bộ, đảng viên, nhân dân cả nước đón nhận một cách nghiêm túc, sáng tạo với tất cả lòng kính yêu Bác. 8 Việc noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhiều cán bộ, đảng viên ở nhiều tổ chức, đơn vị, cơ quan, địa phương thực hiện sáng tạo, có kết quả tốt, có sức lan tỏa sâu rộng trong xã hội. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có vai trò, ý nghĩa vô cùng to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ của chúng ta ở cả trong hiện tại và tương lai. Để góp phần thực hiện tốt, có hiệu quả cuộc vận động của Đảng tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cuốn sách Hồ Chí Minh - Tấm gương lớn về sự nêu gương đề cập khái quát những khía cạnh nêu gương tiêu biểu nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giúp người đọc tham khảo những nội dung chính, những giá trị cơ bản và đề xuất phương hướng, biện pháp thực hiện noi gương, học tập, làm theo tấm gương lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuốn sách gồm các phần chính: Phần I: Nêu gương và noi gương; Phần II: Sự nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Phần III: Giá trị soi sáng của tấm gương lớn về nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Phần IV: Phương hướng, biện pháp noi theo tấm gương lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuốn sách đề cập vấn đề lớn, quan trọng, phong phú, rộng lớn, song do hạn chế cả về mặt 9 chủ quan và khách quan nên khó tránh khỏi những hạn chế, rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc. Xin trân trọng cảm ơn! TÁC GIẢ 10 Đ Phần I NÊU GƯƠNG Vj NOI GƯƠNG ảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, suốt gần một thế kỷ qua luôn coi trọng tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trước nhân dân. Đảng xác định gương mẫu là phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng trong mọi điều kiện, trong mọi tình huống. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”1. Nhân dân cũng noi gương theo Đảng mà tin và làm theo. Thực tế ngót một thế kỷ qua, phương châm ấy, mối quan hệ biện chứng ấy đã làm nên sức mạnh vô địch về trí tuệ, tâm hồn, khí phách; sức mạnh vật chất và tinh thần của Đảng Cộng sản Việt Nam, của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đưa nhân dân Việt Nam vượt qua muôn vàn thách thức, đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.546. 11 Nêu gương và noi gương là phạm trù giáo dục, tư tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa truyền thống Việt Nam, truyền thống văn hóa phương Đông. Thời kỳ nhà nước phong kiến, từ người đứng đầu đất nước (vua, hoàng đế), đến người đứng đầu gia đình đều phải gương mẫu cho thần dân, vợ con, cháu chắt noi theo. “Vua sáng”, “vua quang minh chính đại” mới có “tôi hiền”, nếu không, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Bậc quân vương phải biết “tề gia” mới có thể “trị quốc, bình thiên hạ”. Song trước hết phải “tu thân, dưỡng tính”, phải trở thành đấng “minh quân” để làm gương cho mọi thần dân noi theo, mới cai trị được thiên hạ. Vì thế người đứng đầu dù ở cấp nào, chức nhỏ hay lớn; vị trí thấp hay cao; tầm rộng hay hẹp muốn lãnh đạo, quản lý, phát huy tốt vai trò, thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, đều phải biết “nêu gương” tốt, thành “tấm gương sáng” để nhân dân, quần chúng “noi theo”. Sự “nêu gương” và “noi gương” là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ biện chứng gắn bó chặt chẽ với nhau. Có “nêu gương” mới có và sẽ có “noi gương”. Tất nhiên “gương” để soi, để “nêu” và “noi” phải là “gương sáng” ở đời. Trên thế giới, từ thời cổ đại, người ta đã đề cao phương pháp nêu gương như một phương thức quản trị xã hội hữu hiệu thể hiện trong các triết lý chính trị phương Tây. Họ coi nêu gương là một 12 tiêu chí chuẩn mực xã hội, thước đo đạo đức, trình độ pháp luật. Dù ở phương Đông hay phương Tây, “nêu gương” bao giờ cũng đi liền và đi kèm với “noi gương”. Mọi người học và làm theo những tấm gương tiêu biểu về đạo đức, lối sống, các hành động anh hùng, cao thượng vì cộng đồng; đề cao thái độ trọng đức, trọng văn, trọng nghĩa, trọng tài, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân cho cộng đồng. Xét đến cùng, giá trị con người đều do nhân cách tạo nên. Nhân cách con người bao gồm đức và tài, tức là phẩm chất đạo đức và tài năng con người, là trí lớn và tâm rộng sáng trong tạo nên; mang lại lợi ích, hạnh phúc cho xã hội, cho cộng đồng, cho Tổ quốc và nhân loại, trở thành những tấm gương sáng cho mọi người noi theo. I- QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ NÊU GƯƠNG Vj NOI GƯƠNG Chủ tịch Hồ Chí Minh - bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, Danh nhân văn hóa kiệt xuất, Anh hùng giải phóng dân tộc, Lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ cách mạng, một công dân mẫu mực. Vì thế nội dung học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh rất rộng lớn, phong phú, sâu sắc nhưng rất thiết thực với mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân, đó là học 13 “tấm gương lớn” về tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người; học để “làm theo” và “noi theo”, “noi gương” tấm gương lớn Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh hiểu rõ bản chất, giá trị và ý nghĩa của việc nêu gương. Bản thân Người đã trở thành “tấm gương lớn”, “tấm gương sáng” về sự “nêu gương”. Năm 1924, trong bức thư gửi đồng chí Pêtơrốp, Tổng thư ký Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”1. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người sáng lập và lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta. Người luôn giáo dục cán bộ, đảng viên phải thực hiện nêu gương; thực sự gương mẫu là phương thức, phương pháp lãnh đạo đúng đắn, khoa học, hiệu quả của Đảng với quần chúng cách mạng. Người nhiều lần nhấn mạnh “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”; cán bộ, đảng viên phải “tiền ưu, hậu lạc”, tức là phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, hy sinh cống hiến trước, hưởng thụ sau nhân dân... Hồ Chí Minh luôn coi trọng phương pháp nêu gương. Người từng chỉ đạo: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.284. 14 trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”1. Người chỉ rõ, người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có, ngành nào cũng có, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có. Cho nên tháng 6/1968, Người trực tiếp chỉ đạo xuất bản sách Người tốt việc tốt để mọi người học tập, làm theo, lan tỏa những cái tốt, cái đẹp trong xã hội. Hồ Chí Minh không chỉ nêu ra ý nghĩa, sự cần thiết của nêu gương “người tốt, việc tốt” mà quan trọng hơn, Người đã chỉ rõ để mọi người noi gương thì bản thân cán bộ, đảng viên phải là “người tốt, việc tốt”, phải là “tấm gương tốt” về mọi mặt trong đời sống xã hội và trong công tác, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. “Nêu gương” theo Người là phương pháp tốt nhất vận động quần chúng, thuyết phục quần chúng, tập hợp quần chúng làm cách mạng. Quần chúng nhìn cán bộ, đảng viên tiên phong làm trước, phấn đấu hy sinh vì mục tiêu cách mạng cao cả, họ sẽ tự giác nghe theo, tin và làm theo. “Nêu gương” đồng thời là biện pháp giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hành đạo đức cách mạng, xây dựng nền tảng tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng “nêu gương”, tinh thần tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên để nhân dân, quần chúng “noi gương” _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.672. 15 làm theo là tư tưởng chỉ đạo nhất quán về tư cách của người lãnh đạo, người cán bộ, đảng viên nhằm phát huy được sức mạnh lực lượng quần chúng vĩ đại làm cách mạng. Người xác định cách mạng là sự nghiệp lớn lao, là thay đi chế độ xã hội cũ xấu xa, lạc hậu, xây dựng nên chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn. Vì vậy, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo có “làm gương”, có “nêu gương” mới được đông đảo quần chúng rộng rãi “noi theo”, cách mạng mới mau chóng thành công. Những thập niên đầu thế kỷ XX, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (sau là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) chứng kiến cảnh nhân dân ta phải sống kiếp nô lệ lầm than bởi bọn thực dân, phong kiến, Người đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Trong màn đêm mù mịt của bầu trời nô lệ phủ kín xã hội Việt Nam suốt 80 năm, xuất hiện một ngôi sao, người thanh niên yêu nước 21 tuổi Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, tự xác định trách nhiệm của mình ra đi tìm “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”1. Suốt mấy chục năm bôn ba khắp _____________ 1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t.1, tr.86. 16 thế giới tìm đường cứu nước, Người vượt qua muôn vàn thử thách vô cùng gian khổ để đem ánh sáng cách mạng về giải phóng non sông, cứu vớt đồng bào, giành độc lập dân tộc, đánh tan các đế quốc xâm lăng, thống nhất nước nhà, làm rạng danh dân tộc. Tấm gương Hồ Chí Minh hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, giàu mạnh, hạnh phúc, sánh vai với các nước tiến bộ trên thế giới thật vô cùng lớn lao. Người đã hiến trọn cuộc đời mình vì một khát vọng, một ước mong duy nhất: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”1, “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”2. Mục đích vĩ đại, khát vọng lớn lao, ý chí mãnh liệt, Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh: “Giàu sang không thể quyến rũ, - Nghèo khó không thể chuyển lay, - Uy lực không thể khuất phục”3. _____________ 1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.272, 187. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.50. 17 Hồ Chí Minh không chỉ tự bản thân mình nêu “tấm gương lớn” về sự “nêu gương”, mà Người còn hết sức quan tâm chỉ bảo, rèn luyện cán bộ, đảng viên phải “nêu gương” như thế nào, “nêu gương” bằng cách nào. Người chỉ rõ, “nêu gương” là phải “nói đi đôi với làm”; đối với mình “phải học hỏi cầu tiến bộ. Đừng kiêu ngạo... phải siêng năng tiết kiệm...”; đối với mọi người, không nịnh hót cấp trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân tình, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc; đối với việc “phải suy nghĩ cho kỹ... phải cẩn thận”, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”... Người luôn luôn căn dặn trong lãnh đạo hay thực thi công việc cũng như cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, sẵn sàng xông pha đi đầu vào những nơi khó khăn, nguy hiểm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao1. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Người luôn nêu cao trách nhiệm của mình là xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam phải thật sự là một “đảng cách mạng”; Đảng trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”2, thật sự “trong như pha lê, mạnh như thác lũ”; _____________ 1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.68-69. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.403. 18 Đảng là “người lãnh đạo” và là người “đày tớ” thật trung thành của nhân dân. Cho nên Người luôn đau đáu trong lòng một nỗi niềm phải “gạn đục khơi trong”, phải thực sự đề cao nguyên tắc đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng; phải luôn giữ cho mỗi cán bộ, đảng viên là một tấm gương sáng để nhân dân noi theo. Vì thế theo Người, trong Đảng phải thể hiện “tấm gương lớn” về tinh thần tự phê bình và phê bình; tinh thần đấu tranh, giáo dục, loại bỏ những người có tư tưởng “hủ bại”, cá nhân chủ nghĩa, tham ô, lãng phí, hống hách, xa dân, bắt nạt dân, sống xa hoa, trụy lạc làm mất thanh danh của Đảng, mất uy tín với dân. Người thẳng thắn chỉ ra rằng, một đảng mạnh là đảng dám đấu tranh chỉ ra và sửa chữa những khuyết điểm, yếu kém; một đảng yếu là đảng giấu giếm không dám nhận những thiếu sót để sửa chữa. Thẳng thắn, trung thực, nghiêm khắc nhận ra những khuyết điểm, chỉ ra những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham nhũng và xử lý nghiêm minh cũng là tư tưởng “nêu gương” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình ủng hộ. Có thể nói, “nêu gương” và phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên trong thực tiễn luôn là tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người hết sức chú trọng giáo dục, rèn luyện 19 cán bộ, đảng viên thực hiện nêu gương để quần chúng nhân dân noi gương, noi theo. Với Hồ Chí Minh, nêu gương không chỉ là một giá trị bất biến, một nhân cách cao đẹp của người cán bộ, đảng viên mà còn là một phương thức lãnh đạo, phương thức giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên để hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ cách mạng trong bất kỳ hoàn cảnh nào của một đảng cầm quyền. Sự nêu gương của người cán bộ, đảng viên theo Người là “tấm gương sống”, là con người thực, là cuộc sống thực của những cán bộ, đảng viên mẫu mực hằng ngày, hằng giờ sống, làm việc, quan hệ, đối xử thân thiết, gần gũi với nhân dân một cách tự nhiên không hề xa lạ, gượng gạo. Sự nêu gương của cán bộ, đảng viên sẽ có sức cảm hóa, giành được sự cảm phục của quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ, nhân dân rất cảm phục những tấm gương hy sinh anh dũng của các bậc cách mạng tiền bối như các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và những đồng chí khác đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh oanh liệt. Các đồng chí ấy đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh gặp tư tưởng của V.I. Lênin. Nghiên cứu, học tập Lênin, Người hết sức khâm phục tài, đức của vị 20 lãnh tụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hồ Chí Minh viết về Lênin: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”1. Tấm gương lớn về sự nêu gương của Lênin đã tác động tới tâm hồn lớn Hồ Chí Minh bởi sức hút mạnh mẽ của một nhân cách mẫu mực, trí tuệ lỗi lạc và đặc biệt hơn là đạo đức trong sáng, giản dị của một nhà lãnh đạo tối cao. Rõ ràng trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương lớn về sự nêu gương. Không những thế, Người là tấm gương lớn về sự giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhân dân phải nêu gương. Người là người thầy dạy bảo cán bộ, đảng viên: Vì sao phải nêu gương? Ai nêu gương? Nêu gương như thế nào? Nêu gương bằng cách nào? Nêu gương những gì? Nêu gương với ai?... Tư tưởng Hồ Chí Minh về nêu gương, tấm gương lớn về nêu gương của Hồ Chí Minh có sức cảm hóa lòng người, thuyết phục nhân tâm, cổ vũ quần chúng vững tin đứng dậy _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.317. 21 đi theo Người vượt qua mọi phong ba bão táp đấu tranh giành thắng lợi cách mạng cuối cùng. Một trong những giá trị tinh thần, sức mạnh vật chất của tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi trong tâm trí và đời sống các thế hệ cán bộ, đảng viên, nhân dân ta là tấm gương lớn về sự nêu gương của Người - người đã hy sinh cống hiến trọn đời mình cho dân, cho nước không một chút toan tính riêng tư cá nhân. Học tập, làm theo tấm gương Hồ Chí Minh, chúng ta có thể tiếp cận những câu chuyện kể về Bác; tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của Người; đi sâu nghiên cứu giá trị tư tưởng đạo đức, phong cách của Người nâng lên tầm cao, chiều sâu tư tưởng, lý luận, trí tuệ, văn minh, văn hóa Hồ Chí Minh. Và như thế, tấm gương về sự nêu gương của Hồ Chí Minh sẽ ngày càng tỏa sáng, ngày càng có sức cảm hóa mạnh mẽ lớn lao đối với Đảng, nhân dân ta và các dân tộc trên thế giới. II- CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ NOI GƯƠNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, THỰC HIỆN NÊU GƯƠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta thường xuyên rèn luyện, phấn đấu thực hiện xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ vững vai trò lãnh đạo, xứng đáng là đảng cầm quyền; 22 xứng đáng với lòng tin yêu, kính trọng của nhân dân. Suốt hơn 10 năm qua, Đảng liên tục ban hành các chỉ thị, quy định về cán bộ, đảng viên học tập, làm theo tấm gương Hồ Chí Minh, thực hiện nêu gương trước quần chúng nhân dân: Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị khóa X về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cụ thể hơn, ngày 07/6/2012, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI ra Quy định số 101-QĐ/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp với những nội dung nêu gương cụ thể về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; tự phê bình, phê bình; quan hệ với nhân dân; trách nhiệm trong công tác; ý thức tổ chức kỷ luật; đoàn kết nội bộ. Nhằm chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra thực hiện các chỉ thị, quy định trên, ngày 19/12/2016, Bộ Chính trị khóa XII ra Quy định số 55-QĐ/TW về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Ngày 25/10/2018, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Quy định số 08-QĐ/TW quy 23 định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, phải “gương mẫu thực hiện Quy định số 101- QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”. Một loạt chỉ thị, quy định của Đảng đã yêu cầu cán bộ, đảng viên nghiêm túc noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh để Đảng thực sự làm gương, nêu gương ngày càng xứng đáng hơn trước nhân dân và toàn xã hội. Mỗi chỉ thị, quy định của Đảng ban hành đều được các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở nghiên cứu, triển khai thực hiện nghiêm túc với ý thức học tập, noi gương, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Điều đó thể hiện Đảng ta luôn nghiêm túc thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng; nghiêm túc nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong Đảng dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một số cán bộ, đảng viên hiện nay. Từ khi Đảng tiến hành công cuộc đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử là cơ bản, mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động làm thoái hóa, biến chất một số 24 cán bộ, đảng viên thiếu bản lĩnh, lợi dụng chức quyền tham nhũng gây thiệt hại lớn về kinh tế, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm giảm lòng tin của nhân dân. Những trường hợp này không những không nêu gương tốt trước quần chúng, mà còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn, bất chấp nguyên tắc, kỷ luật đảng, bỏ ngoài tai những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, chạy theo đồng tiền với bất cứ giá nào. Với bản chất khoa học và cách mạng, nhân đạo, nhân văn, Đảng đã kiên trì giáo dục, rèn luyện, tạo cơ hội cho họ tự sửa chữa, phấn đấu; nhưng một số người thực sự thoái hóa, biến chất, cố tình đi vào con đường tội lỗi đã bị luật pháp trừng trị nghiêm minh. Đó cũng là bài học Đảng ta thực hiện theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh: xử lý nghiêm minh không bỏ lọt bất kỳ trường hợp nào để bảo vệ lợi ích chung của mọi người, của toàn xã hội. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng quyết liệt của Đảng hiện nay được cán bộ, đảng viên, nhân dân hết sức đồng tình, ủng hộ, hợp quy luật, hợp lòng dân. Đảng thường xuyên chỉ đạo, nhắc nhở yêu cầu cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập, noi theo tấm gương Hồ Chí Minh trước quần chúng, gương mẫu, tiền phong trong rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực hiện tất cả nhiệm vụ được giao. Các chỉ thị, quy định của Đảng yêu cầu 25 cán bộ, đảng viên học tập, noi theo tấm gương Hồ Chí Minh rất cụ thể, toàn diện, sâu sắc và nghiêm túc trên những vấn đề trọng tâm. Về mặt tư tưởng chính trị, Đảng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc cán bộ, đảng viên ra sức học tập, nâng cao trình độ lý luận. Người chỉ rõ, “Không hiểu lý luận thì như người mù đi đêm”1. Lý luận Mác - Lênin vô cùng rộng lớn, giúp cho cán bộ, đảng viên có được thế giới quan, phương pháp luận khoa học, soi tỏ hướng đi và cách làm đúng đắn, chuẩn xác, đạt hiệu quả. Việc học tập lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải gắn chặt, liên hệ chặt chẽ với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Vì thế học tập lý luận nâng cao trình độ là công việc nghiêm túc, cẩn trọng suốt đời, không ai có thể chủ quan cho rằng mình đã học hết, học đủ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề mấu chốt của các chỉ thị, quy định cán bộ, đảng viên học tập, làm theo tấm gương Hồ Chí Minh là rèn luyện bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không hoang mang, dao động, cá nhân chủ nghĩa, _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.276. 26 cơ hội, thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, nghiêm túc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong các chỉ thị, quy định của Đảng đều yêu cầu cán bộ, đảng viên nghiêm túc rèn luyện, nêu gương trước quần chúng về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; gương mẫu thực hành lối sống giản dị, tiết kiệm, lành mạnh, trong sáng, không xa hoa, lãng phí, khoa trương. Trong các chỉ thị, quy định của Đảng những năm gần đây, Đảng ta yêu cầu cán bộ, đảng viên nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng theo tấm gương Hồ Chí Minh. Đảng cũng chỉ rõ tự phê bình và phê bình trong Đảng phải thực chất, vì sự tiến bộ của bản thân, của đồng chí và của tổ chức đảng. Tuyệt đối đề phòng các biểu hiện sai trái, thiếu lành mạnh khi đấu tranh phê bình như trù úm, thanh trừ, loại bỏ, vu cáo, mất dân chủ, thiếu xây dựng, thiếu tôn trọng lẫn nhau, thiếu tình đồng chí mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở. Đặc biệt, là một đảng cầm quyền, Đảng ta thường xuyên giáo dục, rèn luyện quan điểm khiêm tốn, gần gũi, tôn trọng nhân dân, phục vụ nhân dân và học tập nhân dân theo gương Hồ Chí Minh. Vì trên thực tế có không ít cán bộ, đảng viên 27 có chức, có quyền, sống xa dân, lên mặt “quan cách mạng” với dân, hách dịch, hống hách, đe nẹt, mất dân chủ, chuyên quyền, độc đoán đối với dân, khiến nhân dân bất bình, uất ức, oán giận. Các chỉ thị, quy định của Đảng về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh tinh thần nêu gương, đề cao trách nhiệm của mỗi người, nhất là người đứng đầu, trước đơn vị, cơ quan, địa phương, xã hội, phải chủ động, sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Khắc phục tình trạng một số cán bộ ôm đồm, tham quyền lực, thích chức vụ, kiêm nhiệm nhiều quyền chức rồi bỏ bê, “lực bất tòng tâm”, đùn đẩy trách nhiệm, phó mặc cho cấp dưới khiến công việc ách tắc, nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Phải ra sức học tập tấm gương làm việc nghiêm túc, thận trọng, khoa học, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu phải thật sự gương mẫu trong công việc, đề cao trách nhiệm, chủ động, sáng tạo, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đảng ta là tổ chức chính trị cao nhất, có hệ thống tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, buộc mọi cán bộ, đảng viên đều phải nghiêm túc tuân theo. Các chỉ thị, quy định của Đảng đều yêu cầu cán bộ, đảng viên học tập tấm gương Hồ Chí Minh, nêu gương giữ gìn kỷ luật, có ý thức tổ chức chặt chẽ, thống nhất trong Đảng. Cán bộ, đảng viên, 28 nhất là người đứng đầu không thể “nói một đằng, làm một nẻo”; “nói nhiều, làm ít”; “nói mà không làm” khiến dân mất lòng tin. Đặc biệt các chỉ thị, quy định yêu cầu cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành với Đảng, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; không bị kẻ xấu lôi kéo, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” đi đến chống lại Đảng, phản bội nhân dân. Tấm gương lớn Hồ Chí Minh về nêu gương còn là xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống, là bài học quý báu của Đảng nhằm đảm bảo mọi thành công của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”1. Người là tấm gương lớn và mẫu mực về xây dựng khối đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Các chỉ thị, quy định của Đảng hiện nay đòi hỏi cán bộ, đảng viên ra sức học tập tấm gương đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh phê phán, khắc phục các biểu hiện mất đoàn kết trong Đảng như cục bộ địa phương, bè cánh, lợi ích nhóm, chạy chọt, mua bán chức vụ, quyền hạn không lành mạnh làm mất uy tín của Đảng, làm suy yếu Đảng; khắc phục tình _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.120. 29 trạng thiếu khiêm tốn, không phục nhau, mâu thuẫn, kèn cựa địa vị, lôi kéo phe cánh, đấu đá mất đoàn kết gây tổn hại đến năng lực chiến đấu, uy tín của Đảng; khắc phục chủ nghĩa cá nhân, nguyên nhân chính gây nên mất đoàn kết trong Đảng. Việc thực hiện các quy định, chỉ thị của Đảng về học tập, làm theo tấm gương Hồ Chí Minh hơn 10 năm qua có tác dụng tích cực giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, lan tỏa thành phong trào rộng rãi trong toàn dân. Rất nhiều gương người tốt, việc tốt trong cộng đồng xuất hiện ở nhiều nơi như: hiến đất làm đường; gương mẫu làm kinh tế gia đình và giúp đỡ người khác cùng làm giàu, thoát nghèo; những hành động tử tế, nhân văn, nhân đạo; nhiều cán bộ, đảng viên gương mẫu, là điển hình tiêu biểu được nhân dân tin yêu, kính trọng, học tập, làm theo. Tuy nhiên vẫn còn không ít người, ngay cả trong cán bộ lãnh đạo, đảng viên còn nhận thức chậm, ý thức chủ động tự giác nêu gương trong cuộc sống còn thiếu sót, bị nhân dân phê bình, góp ý. Còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên xa rời dân, vô cảm trước những khó khăn trong đời sống của dân; vô cảm trước những bức xúc, bất bình của dân, né tránh trách nhiệm của mình; thu vén lợi ích cho cá nhân, chạy theo chức quyền, danh vọng; 30 làm giàu bất chính, bố trí cương vị công tác, chức quyền cho bản thân, người thân bất chấp dư luận phản đối, bất chấp các quy định của Đảng, trượt dài trên con đường sai trái... Cuộc đấu tranh chống tham nhũng và thi hành kỷ luật nghiêm minh của Đảng hiện nay có tác dụng ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực được nhân dân hết sức đồng tình ủng hộ với kỳ vọng xây dựng một xã hội văn minh, công bằng, bình đẳng và tiến bộ. Song song với việc ban hành các chỉ thị, quy định là công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng, các cấp ủy đảng, sự phát hiện tố giác của nhân dân. Nhờ vậy mà nhiều cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp, từng giữ các chức vụ rất cao vi phạm đã bị xử lý. Họ là bài học phản diện, không chịu tu thân, không chịu hướng thiện, không chịu tuân thủ kỷ luật đảng; không chịu học tập, làm theo tấm gương Hồ Chí Minh. Sự lộng quyền, lộng hành, coi thường tổ chức, coi thường pháp luật, coi thường nhân dân; chỉ biết nói, “dạy” người khác mà tự cho mình cái “quyền” đứng trên tất cả, “bất khả xâm phạm”... đã dẫn đến hậu quả như vậy. Thực tế cho thấy việc thực hiện chỉ thị, quy định học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của Đảng; tu dưỡng, rèn luyện 31 phấn đấu theo gương Hồ Chí Minh là cần thiết và thường xuyên đối với tất cả mọi người, mọi cương vị, mọi lứa tuổi để chung tay xây dựng một xã hội văn minh, giàu mạnh, hạnh phúc theo ước nguyện của Người. 32 Phần II SỰ NÊU GƯƠNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH C hủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng phương pháp nêu gương để giáo dục cán bộ, đảng viên, làm gương cho nhân dân noi theo; để giáo dục và học tập lẫn nhau cùng xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới văn minh, tiến bộ. Theo Người, để nêu gương, thì trước hết bản thân mình phải làm gương trong mọi việc từ nhỏ đến lớn, trở thành phong cách, thói quen tự nhiên trong cuộc sống hằng ngày. Chính Người là hiện thân cho tấm gương tiêu biểu ấy. Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra những tư tưởng, quan điểm rất đúng đắn về nêu gương mà chính Người còn là hiện thân cao đẹp nhất về trách nhiệm nêu gương trước Đảng, trước nhân dân, trước dân tộc. Tấm gương nêu gương Hồ Chí Minh thể hiện xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng, phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc của nhân dân của Người. Hồ Chí Minh là tấm gương lớn về sự 33 nêu gương cho các thế hệ cách mạng, cho muôn đời noi theo về mọi phương diện. I- TẤM GƯƠNG NÊU GƯƠNG VỀ SỰ HY SINH VÌ NƯỚC, VÌ DÂN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH Hồ Chí Minh, thời thơ ấu tên là Nguyễn Sinh Cung, Người sinh năm 1890 tại quê ngoại là làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Từ lúc ra đời đến lên 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung sống ở quê nhà. Từ nhỏ, cậu bé Nguyễn Sinh Cung ham hiểu biết, thích nghe chuyện và hay hỏi những điều mới lạ, những chuyện cổ tích mà bà ngoại và mẹ thường kể. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng gia đình chuyển vào Huế lần thứ nhất, khi cha là Nguyễn Sinh Sắc (còn gọi là Nguyễn Sinh Huy) vào kinh thi Hội. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, Nguyễn Sinh Cung mới tròn 11 tuổi đã chịu cảnh mất mẹ, mất em. Hơn 5 năm sống ở kinh thành Huế, Nguyễn Sinh Cung chứng kiến những điều mới lạ so với xứ Nghệ quê hương mình. Ở Huế có nhiều cung điện uy nghi, nhiều tầng lớp người: người Pháp thống trị nghênh ngang, hống hách, tàn ác; những ông quan Nam triều mũ cao, áo gấm, chân đi hài bệ vệ, nhưng lại khúm núm rụt rè trước quan Tây; còn phần đông những người dân lao động thì 34 chung một số phận khổ đau, tủi nhục... Những hình ảnh trái ngược đó in sâu vào tâm trí Nguyễn Sinh Cung. Khoảng tháng 9/1901, Nguyễn Sinh Cung cùng gia đình chuyển về sống ở quê nội. Ông Nguyễn Sinh Huy làm lễ vào làng cho hai con trai với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung). Tại quê nhà, Nguyễn Tất Thành được học chữ Hán từ các thầy Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Thân, đều là những người yêu nước. Nguyễn Tất Thành được nghe các thầy nói nhiều chuyện với các sĩ phu yêu nước, dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất nhà tan. Lớn lên, Nguyễn Tất Thành ngày càng thấu hiểu nỗi cùng khổ của người dân mất nước, chịu sưu cao thuế nặng, bị bắt phu, bắt lính lầm than nơi rừng thiêng nước độc. Tháng 9/1905, Nguyễn Tất Thành cùng Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị trường Tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh. Tại ngôi trường này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên được tiếp xúc với các khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Các chuyến đi dần dần giúp Nguyễn Tất Thành mở thêm tầm mắt. Đâu đâu cũng thấy người dân đói khổ, lam lũ, lầm than dưới ách đè nén của bọn 35 thực dân, phong kiến, vì thế Người đã sớm hình thành chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Tháng 9/1908, Nguyễn Tất Thành vào lớp Trung đẳng (lớp Nhì) tại Trường Quốc học Huế. Khi ở trường này, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc nhiều với sách báo Pháp. Được sự dạy bảo của các thầy giáo yêu nước, được tiếp xúc các sách báo tiến bộ mà ý muốn đi sang phương Tây tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi những thành tựu của nền văn minh nhân loại... đã nảy sinh và từng bước lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành. Cuối năm 1909, Nguyễn Tất Thành được cha gửi vào học tiếp chương trình lớp Cao đẳng (lớp Nhất) tại Trường Tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn. Tháng 6/1910, Nguyễn Tất Thành hoàn thành chương trình Tiểu học, nghe tin cha bị bãi chức Tri huyện Bình Khê (Bình Định), bị triệu hồi về kinh, Người không theo cha về Huế mà quyết định đi tiếp xuống phía Nam. Trên đường đi, Nguyễn Tất Thành dừng chân ở Phan Thiết, Người được nhận vào làm trợ giáo, dạy môn thể dục và phụ trách các hoạt động ngoại khóa của Trường Dục Thanh. Ngoài giờ lên lớp, làm việc, Nguyễn Tất Thành tìm các quyển sách quý để đọc. Lần đầu tiên Người được tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng Pháp như Rútxô, Vônte, Môngtétxkiơ... Sự tiếp xúc với tư tưởng các nhà khai sáng ấy càng thôi thúc Nguyễn Tất Thành tìm đường đi ra nước ngoài. 36 Tháng 02/1911, Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Ở Sài Gòn, Người thường đi vào các xóm thợ nghèo, làm quen với những thanh niên cùng lứa tuổi. Ở đâu Người cũng thấy người lao động bị đọa đày, khổ nhục. Nguyễn Tất Thành đến cảng Sài Gòn để tìm cách xin việc làm trên tàu, thực hiện ước muốn đi xa. Ngày 03/6/1911, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba xin làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, một con tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Năm Sao đang chuẩn bị rời Sài Gòn đi Mácxây (Pháp). Ngày 05/6/1911, trên con tàu này, Nguyễn Tất Thành rời cảng Nhà Rồng bắt đầu hành trình đi tìm đường cứu nước. Nguyễn Tất Thành tới cảng Mácxây (Pháp) dừng chân ít lâu lại tiếp tục hành trình vòng quanh châu Phi, dừng lại ở các cảng một số nước tư bản và thuộc địa của các nước tư bản như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông, Máctiních (Trung Mỹ), Urugoay và Áchentina (Nam Mỹ), thành phố Niu Oóc (Mỹ); qua nước Anh, rồi lại trở về Pháp... Tới đâu, Người cũng thấy cảnh người lao động bị bóc lột, hành hạ cùng cực; bọn chủ sống xa hoa, hống hách, hành hạ người lao động, điều đó càng củng cố quyết tâm đi tìm đường cứu nước của Người. Trong bối cảnh đất nước đắm chìm trong đêm dài nô lệ, với hai bàn tay trắng, người thanh niên 37 yêu nước Nguyễn Tất Thành đã tự đứng ra gánh vác trách nhiệm về mình, chấp nhận cuộc dấn thân muôn vàn thử thách, lao vào vòng “bão giông” của chủ nghĩa đế quốc đang hoành hành khắp thế giới để tìm đường cứu nước, cứu dân. Với quyết định lịch sử ấy, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành chỉ có một khát khao, một niềm tin sắt đá rằng dân tộc mình, Tổ quốc mình nhất định phải được độc lập, tự do, hạnh phúc như các dân tộc khác trên thế giới. Có niềm tin, có khát vọng, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh có thêm ý chí, khí phách, phẩm giá, nhân cách, truyền thống của một dân tộc quật cường, dám đứng lên tìm đường, dẫn dắt cả dân tộc tự giải phóng mình. Năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp với lý do đây là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp là “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Ngày 18/6/1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội nghị ở Vécxây (Pháp), thay mặt Hội những người yêu nước An Nam tại Pháp, Nguyễn Tất Thành cùng Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và một số người khác thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Vécxây, ký tên “Nguyễn Ái Quốc”. Đây là lần đầu tiên tên Nguyễn Ái Quốc xuất hiện. Bản Yêu sách gồm tám điểm: 38 “1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; 2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu, xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam; 3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. Tự do lập hội và hội họp; 5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp tất cả các tỉnh cho người bản xứ; 7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; 8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ”1. Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm đưa vấn đề chính trị của Việt Nam ra quốc tế, đòi cho Việt Nam có những quyền cơ bản chính đáng, thiết thực. Tuy nhiên bản yêu sách không được chấp nhận và hiểu rất rõ bản chất chủ nghĩa đế quốc, Nguyễn Ái Quốc rút ra: ““chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.441. 39 bịp bợm”1 và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”2. “Trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình” là quá trình tìm tòi sáng tạo đầy bản lĩnh, vô cùng thông tuệ của Nguyễn Ái Quốc. Người đến với chủ nghĩa Lênin từ tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, được Lênin chỉ rõ: Các dân tộc bị áp bức muốn giải phóng mình, chỉ có con đường duy nhất bằng cách mạng vô sản! Tiếp tục đi sâu nghiên cứu tư tưởng của Lênin, Nguyễn Ái Quốc lại được Lênin chỉ rõ ràng, cụ thể hơn. Đó là, muốn làm cách mạng tiên phong giải phóng dân tộc, phải có Đảng tiên phong; muốn có Đảng tiên phong, phải có lý luận tiên phong3. Cùng với đó, Nguyễn Ái Quốc đi sâu nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Người khâm phục Lênin, ngưỡng mộ Cách mạng Tháng Mười Nga và quyết tâm đi theo Lênin, bước theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga. Người viết: _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.441. 2. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.31. 3. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.93. 40 “Nước Nga có chuyện lạ đời Biến người nô lệ thành người tự do”1. Trung thành với khát vọng, lý tưởng giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân, suốt mấy chục năm bôn ba khắp thế giới tìm đường cứu nước và cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng vô cùng lớn lao về sự dấn thân, chấp nhận mọi hiểm nguy, gian khổ vì hạnh phúc của nhân dân. Thực tế sinh động tấm gương nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cuộc đời dấn thân đầy gian khổ, sáng tạo, bản lĩnh, đối mặt với các thế lực thù địch vô cùng hung ác suốt chặng đường dài cả cuộc đời Người đủ thấy sức mạnh tỏa sáng của tấm gương yêu nước, thương dân, căm thù giặc sâu sắc, ý chí lớn lao, vĩ đại của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng. Hồ Chí Minh đã chấp nhận mọi sự hy sinh cá nhân; chấp nhận mọi sự gian nan, vất vả, cực khổ cả về vật chất và tinh thần; vượt qua mọi sự cám dỗ về vật chất, tinh thần, danh lợi; vượt qua mọi sự khủng bố, đe dọa, tù đày để giữ vững khí tiết của người cách mạng. Người xác định: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.652. 41 Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”1. Tấm gương vì nước quên thân đã tạo nên khí phách một người cộng sản; khí phách một lãnh tụ anh minh được cả dân tộc ta và nhân dân thế giới kính trọng, yêu mến, noi gương. Tấm gương Hồ Chí Minh cũng thể hiện rõ phẩm chất cao quý của người cộng sản để chúng ta noi theo. Chính nhờ có lý tưởng cao cả mà người cộng sản có được bản lĩnh vững vàng: “Giàu sang không thể quyến rũ, Nghèo khó không thể chuyển lay, Uy lực không thể khuất phục”2. Trong thực tế cuộc sống và quá trình lãnh đạo, rèn luyện, giáo dục cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, thực sự có được Đảng tiên phong làm nhiệm vụ tiên phong, Chủ tịch Hồ Chí Minh không một chút lơ là, xem nhẹ. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thực sự nêu gương trong mọi công việc từ nhỏ đến lớn. Nêu gương là “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, dám nghĩ, dám làm, dám chấp nhận gian khổ, hiểm nguy, đi đầu cho quần chúng noi theo. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.272. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.50. 42 II- TẤM GƯƠNG “NÓI Vj LjM” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH Một trong những nét đẹp nổi bật làm nên sự vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương “nói và làm”. Người luôn dạy cán bộ, đảng viên là phải thật sự gương mẫu, nói phải đi đôi với làm để nhân dân làm theo. Bản thân Người chính là tấm gương sáng về nói và làm, rất nghiêm túc với chính bản thân mình trong nhận thức cũng như trong hành động. “Nói và làm” trở thành phong cách, thói quen tự nhiên, nếp sống hằng ngày, thành lẽ sống cuộc đời của Người. “Nói và làm” là tấm gương lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh để chúng ta học tập, noi theo. Người thực hiện “nói và làm” từ việc rất nhỏ đến việc rất lớn, đã nói là phải làm, làm đến nơi đến chốn, làm bằng sự đeo đuổi suốt cả cuộc đời mình cho đến khi đạt kết quả cuối cùng. Ngay từ thời niên thiếu, là cậu học sinh Nguyễn Sinh Cung, khi tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng phương Tây về tự do, bình đẳng, bác ái, Người đã mơ ước được sang tận nơi xem cụ thể tự do, bình đẳng, bác ái ở đó là thế nào, và ước mơ ấy là động lực thôi thúc, nuôi dưỡng quyết tâm, ý chí thực hiện cho bằng được. 43 Chứng kiến cảnh nghèo đói, khổ cực, lam lũ của đồng bào mình dưới ách bóc lột của đế quốc, phong kiến những năm đầu thế kỷ XX trên khắp quê hương Việt Nam khiến người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành muốn tìm ra lối thoát để giải phóng cho tất cả mọi người, cứu vớt dân tộc. Nỗi niềm đau đáu yêu nước thương dân ấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã nuôi dưỡng, thôi thúc ý chí, lòng quyết tâm thực hiện bằng được khát khao, ước vọng lớn lao của nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại sau này. Người thanh niên yêu nước 21 tuổi Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước với một khát vọng “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”1. Đây là sự nghiệp vô cùng lớn lao, cao cả mang tầm lịch sử, tầm thời đại, nhưng với ý chí, nghị lực, người thanh niên ấy quyết tâm làm cho bằng được dù phải hiến dâng cả cuộc đời mình. Ra đi tìm đường cứu nước, Người biết rõ chặng đường trước mắt đầy gian lao, nguy hiểm, thử thách. Nhưng Người đã nói là làm, dù nói cũng không dễ, mà làm còn khó hơn nhiều. Đối mặt với cái khó đầu tiên được một người bạn của Người lúc _____________ 1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t.1, tr.86. 44 đó chỉ ra: Đi thì lấy tiền đâu mà đi, tiền đâu mà sống?, Người đã xòe hai bàn tay trước mặt bạn và trả lời: Đây, tiền đây. Với hai bàn tay này tôi sẽ làm mọi việc để sống và đi! Không chỉ cần tiền để sống, để đi mà hành trình tìm đường cứu nước còn đặt ra rất nhiều yêu cầu, nhưng Người đã “làm” tất cả mọi thứ để thực hiện lý tưởng cao cả của mình. Người đã tranh thủ mọi điều kiện, mọi lúc, mọi thời gian có thể học ngoại ngữ để giao lưu, tiếp xúc với mọi người. Người đã học và thông thạo nhiều tiếng nước ngoài cần thiết... Người đã phải làm rất nhiều nghề để kiếm sống như dạy học, phụ bếp, cào tuyết, đốt lò, rửa bát, sơn vẽ giả đồ cổ Trung Quốc, rửa phóng ảnh, viết báo, viết kịch, đóng kịch, bán báo, bán thuốc lá... Để lẩn tránh sự theo dõi của bọn mật thám các nước, Người phải ẩn danh tới 152 tên gọi, bút danh, bí danh khác nhau để hoạt động như: Nguyễn Tất Thành, Văn Ba, Vương, Lý Thụy, Lin, Thầu Chín, Tống Văn Sơ, Hồ Quang, Già Thu, Nguyễn Ái Quốc, X.Y.Z., Wang, Lin Cốpxki... “Nói và làm” là phương châm hành động, là thói quen, là phong cách, là tấm gương sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đi tìm đường cứu nước, Người tham gia hoạt động sôi nổi trong các tổ chức, các hoạt động cách mạng thế giới. Sau khi đi vòng quanh châu Phi, Nguyễn Ái Quốc về Mỹ. 45 Biết và tìm hiểu bản “Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra rằng, đằng sau những từ mỹ miều “cộng hòa”, “dân chủ” là sự tàn bạo đối với người lao động. Năm 1913, Nguyễn Ái Quốc sang Anh, Người ủng hộ phong trào giành độc lập cho Ailen. Khi biết nhà ái quốc, thị trưởng thành phố Cork ở Ailen là ông Terence MacSwiney đấu tranh tuyệt thực suốt 40 ngày đã thu hút hàng ngàn người dự đám tang đưa tiễn ông, Nguyễn Ái Quốc rất xúc động và kính phục. Từ năm 1917 đến năm 1923, Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Pháp. Năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Người gửi bản Yêu sách tám điểm tới Hội nghị Vécxây. Khi ở Pháp, năm 1921, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy, đằng sau sự phục tùng của người Đông Dương, ẩn giấu một cái gì sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ thúc đẩy cho thời cơ đến mau. Từ ngày 21 đến ngày 24/10/1922, Nguyễn Ái Quốc viết dự thảo Nghị quyết về “Chủ nghĩa cộng sản và các thuộc địa” ở Đại hội Đảng Xã hội Pháp; viết tham luận về “Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa”; viết và diễn kịch Con rồng tre; lập “Hội Liên hiệp thuộc địa”; lập báo Người cùng khổ... Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Đức, được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Sau khi Lênin mất, 46 ngày 21/01/1924, Nguyễn Ái Quốc viết “Lênin và các dân tộc thuộc địa”; “Lênin và các dân tộc phương Đông”. Khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông, Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế Cộng sản phân công phụ trách Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản - Viện Dân tộc và thuộc địa. Khi Nguyễn Ái Quốc tham gia họp Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản năm 1924, Người khẳng định “gắn phong trào chống đế quốc với các nước thuộc địa”; “tính chủ động cách mạng thuộc địa”; “Muốn đánh chủ nghĩa đế quốc phải đánh chúng ở các nước thuộc địa”... Tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc từ Mátxcơva về Quảng Châu, Trung Quốc, lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mở lớp đào tạo lý luận Mác - Lênin cho thanh niên Việt Nam; cử thanh niên ưu tú của Việt Nam sang học Trường Đại học Phương Đông; Trường quân sự Hoàng Phố, Quảng Châu; lập tờ báo Thanh niên năm 1925; viết tác phẩm Đường cách mệnh năm 1927. Năm 1930, Người về nước chủ trì hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau này, Người đã lãnh đạo nhân dân làm Cách mạng Tháng Tám năm 1945; lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để cuối cùng đi đến thắng lợi, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoàn thành ước vọng cả đời của Người. 47 “Nói và làm” để tìm “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi” là cả quá trình gian khổ, đầy sáng tạo, vượt qua muôn vàn thử thách của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Để tìm ra phương hướng, con đường, cơ sở lý luận, ngọn đuốc soi đường, hình thức, bước đi cho con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh phải tìm đến tận gốc của lý luận giải phóng dân tộc, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là kết quả của cuộc tìm kiếm vòng quanh thế giới suốt mấy chục năm, tham gia hoạt động của các tổ chức cách mạng quốc tế đầy sáng tạo, hết sức sôi nổi của Hồ Chí Minh. Để tìm ra và xây dựng lực lượng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc cũng phải bôn ba khắp thế giới, thâm nhập vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các dân tộc. Người phát hiện sức mạnh vĩ đại làm nên thắng lợi của cách mạng là quần chúng nhân dân; là sức mạnh của chính đồng bào dân tộc mình. Vì vậy, phải ra sức tuyên truyền, giác ngộ quần chúng nhân dân tự đứng dậy để giải phóng mình. Cách mạng phải có đội tiên phong, lực lượng lãnh đạo, đó là Đảng Cộng sản. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tư tưởng của Lênin, tiến hành từng bước, thận trọng, chuẩn bị đầy đủ các yếu tố để thành lập Đảng vững mạnh đủ năng lực, trình độ lãnh đạo cách mạng thắng lợi. Không chỉ có những vấn đề trên, để “làm” cách mạng giải phóng dân tộc, còn biết bao việc 48 phải “làm” hết sức chi tiết, cụ thể, vô cùng lớn lao, sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng trải, vượt qua. Tấm gương “nói và làm” của Người vô cùng lớn, vô cùng sáng tạo; thực sự là tấm gương sáng cho nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới noi theo. Tấm gương “nói và làm” của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện vô cùng sinh động, sáng tạo trong mọi hoạt động, công tác, cuộc sống đời thường hằng ngày. Người luôn luôn tự nêu gương “nói và làm”, và giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên “nói và làm” để làm gương, để nêu gương, để lãnh đạo quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tự nêu gương, thực hiện nghiêm túc trong công việc và bao giờ cũng làm trước cho mọi người noi theo; tự nêu gương chấp hành mọi quy định của tổ chức. Theo hồi ký của một vị tướng lĩnh viết về Bác Hồ với nhân dân: “Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh lúc nào cũng thiếu thời gian, tấm lịch ghi việc làm hằng ngày của Bác luôn đặc kín. Cho nên Bác rất khó chịu thấy ai không đúng giờ”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh có thói quen làm gương từ việc nhỏ đến việc lớn. Khi vào chùa, Người cũng bỏ dép ngoài cửa. Năm 1946, khi _____________ 1. Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo làm người, Nxb. Hà Nội, 2009, tr.192. 49 Tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội đầu tiên, cả nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi bầu cử, các cử tri Hà Nội công bố bản đề nghị xin Hà Nội suy tôn Người là Chủ tịch nước, không phải bầu. Người nói: “Tôi là một công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nên tôi xin không thể vượt khỏi thể lệ Tổng tuyển cử đã định”1. Nhận thức sâu sắc bổn phận của mình trước nhân dân, dân tộc và trước Đảng, trong mọi công việc suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi đầy cam go, thử thách, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, nói là làm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người chấp nhận cuộc dấn thân, đi khắp thế giới tìm đường cứu nước, cứu dân; cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập năm 1930, Người là người soạn thảo Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, chỉ rõ lộ trình, những việc phải làm của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế quốc, đánh đổ phong kiến, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng ta, lãnh đạo nhân dân ta “làm” bằng được, “làm” xuất sắc _____________ 1. Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo làm người, Sđd, tr.200. 50 những việc Người đã “nói”. Chỉ 15 năm sau, với 5.000 đảng viên, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta làm Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, giành độc lập cho dân tộc mà trước đó ngót 100 năm chưa làm được. “Làm” Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, trong Tuyên ngôn độc lập của Người tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2/9/1945, Người trịnh trọng tuyên bố với thế giới về quyền độc lập dân tộc, quyền làm chủ của nhân dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam - một việc làm thực hiện lời nói, thực hiện khát khao ước vọng, thực hiện những việc làm cụ thể gian nan suốt 35 năm của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng và nhân dân ta phải đương đầu và vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách tưởng như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước những thử thách một mất một còn ấy, Người tuyên bố với toàn dân và thế giới rằng: Nhân dân Việt Nam quyết không chịu mất tự do, độc lập. Người đã “làm” tất cả bằng ý chí, nghị lực, sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân tộc chiến thắng giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và biết bao nhiêu trở lực khác, 51 giữ vững thành quả cách mạng, đưa nước Việt Nam độc lập tiến lên. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi không lâu, năm 1946, thực dân Pháp rắp tâm xâm lược nước ta một lần nữa. Trung thành với Cương lĩnh của Đảng, với lợi ích của dân tộc, với “lời nói” của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, nhất định không chịu khuất phục mọi uy lực của chủ nghĩa thực dân; không chịu khuất phục để mất độc lập, tự do; không chịu làm nô lệ một lần nữa. Kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tin tưởng vững chắc rằng trong cuộc chiến tranh chính nghĩa này nhân dân Việt Nam nhất định thắng, thực dân Pháp nhất định thua. Người chỉ rõ, đây là cuộc chiến tranh giữa nước với lửa, nước nhất định sẽ dập tắt lửa dù hung tàn đến đâu. Cái tài tình sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta là ở chỗ đã huy động sức nước ngàn năm hùng mạnh của dân tộc Việt Nam trào dâng, dập tắt, cuốn trôi mọi thế lực hung tàn khủng khiếp của chủ nghĩa thực dân cũ, khiến cho chúng bị thất bại hoàn toàn sau Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. “Nói và làm” của Hồ Chí Minh không chỉ đem lại chiến thắng trước tên đầu sỏ chủ nghĩa thực 52 dân cũ, mà còn đánh tan tên đầu sỏ chủ nghĩa thực dân mới thế kỷ XX là đế quốc Mỹ, bất chấp những tuyên bố ngông nghênh về sự giàu về kinh tế, mạnh về quân sự, đang làm chủ thế giới, sẵn sàng đè bẹp Việt Nam, biến Việt Nam thành bang thứ 51 của nước Mỹ, đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá... của chúng. Bình tĩnh, tự tin, chủ động, với bản lĩnh cách mạng và khoa học, Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ta “làm” một cuộc kháng chiến thần thánh đánh tan tên đế quốc hung hãn nhất thế giới thế kỷ XX, thực hiện đúng lời “nói” của mình: Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta có thể còn kéo dài, có thể phải hy sinh nhiều người, nhiều của, nhưng ta nhất định thắng, địch nhất định thua1. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975 đánh tan đế quốc Mỹ và chế độ ngụy quyền miền Nam, đem lại hòa bình, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chương trình Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 của Đảng; thực hiện lời nói của mình, “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”2, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội theo con đường _____________ 1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.623. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64. 53 của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917; thực hiện mục tiêu lý tưởng “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Từ giữa thế kỷ XX, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, đã đưa miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của đồng bào miền Nam đi tới toàn thắng. Sau này, công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc gần 35 năm qua của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, là minh chứng cho đường lối, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là hợp quy luật, là đúng đắn, là sáng tạo. Không chỉ những việc lớn, mà ngay từ các việc rất nhỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên nêu tấm gương “nói và làm”. Năm 1945, Người kêu gọi mọi người lập “Hũ gạo cứu đói”, thực hiện tiết kiệm và Người là người đầu tiên làm việc đó thường xuyên. Người kêu gọi mọi người tăng gia sản xuất thì chính Người đã vác cuốc, trồng rau, có rau nộp cho bếp ăn tập thể cơ quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân tập thể dục, rèn luyện sức khỏe để sản xuất, chiến đấu, thì Người gương mẫu tập thể dục, đánh bóng, tập võ thường xuyên. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hành sản xuất, 54 cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư thì Người chính là tấm gương mẫu mực làm việc nghiêm túc, cụ thể, sáng tạo, có kế hoạch, có hiệu quả. Người tiết kiệm từng phút thì giờ, từ từng mẩu giấy, tờ phong bì, các vật dụng quần áo, giầy dép, xe cộ, đến phòng ở, chế độ ăn uống, sinh hoạt hằng ngày... Chủ tịch Hồ Chí Minh nói cán bộ, đảng viên phải thương dân, phải sát dân, phải nắm vững thực tế mới lãnh đạo được nhân dân. Hơn ai hết, chính Người đã làm gương các việc ấy cho cán bộ, đảng viên, nhân dân noi theo. Thương dân, đêm giao thừa 30 Tết, Bác đến thăm, chúc Tết người nghèo. Người xắn quần đi tát nước cùng với dân; trèo lên guồng đạp guồng nước chống hạn cùng với dân; xắn quần xuống ruộng gặt lúa cùng với dân; cuốc ruộng cùng với dân. Người ra tận trận địa thăm và cổ vũ bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và chăm sóc họ từng bữa ăn, giấc ngủ, vũ khí, đạn dược, tinh thần chiến đấu. Nói là quan tâm chăm sóc nhân dân, Người không bỏ sót một ai: đồng bào các dân tộc thiểu số, người có đạo, thanh niên, phụ nữ, phụ lão, học sinh, sinh viên, bác sĩ, giáo viên, công nhân nông trường... không thiếu một ai. Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự là tấm gương lớn, tấm gương sáng về “nói và làm” để chúng ta tự hào noi theo. 55 III- TẤM GƯƠNG RÈN LUYỆN Ý CHÍ, NGHỊ LỰC, BẢN LĨNH KIÊN ĐỊNH, TRUNG THjNH VỚI LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH Là một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất, Anh hùng giải phóng dân tộc, ở Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏa sáng những phẩm chất, những giá trị vô cùng lớn lao của một tấm gương rèn luyện ý chí, nghị lực, bản lĩnh, kiên định, trung thành với mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ đầu và trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, đã xác định để làm cách mạng thành công phải kiên trì rèn luyện ý chí, nghị lực, không lúc nào được phép chủ quan, tự mãn, công thần hoặc mệt mỏi, nản chí, yếu mềm, buông thả để chiến thắng chính mình và chiến thắng kẻ thù, giành thành quả cách mạng cuối cùng. Hồ Chí Minh xác định, làm cách mạng là “thay đi cái cũ, thay đi chế độ xã hội cũ xấu xa, xây lên cái mới, xây lên chế độ xã hội mới tốt đẹp, văn minh, hạnh phúc hơn”. Vì thế người làm cách mạng phải có ý chí cách mạng; phải có phẩm chất, trí tuệ và năng lực vượt qua mọi thử thách, 56 vượt qua chính mình để làm cách mạng gian khổ, lâu dài. Vốn có ý chí, nghị lực và trí tuệ phi thường, từ khi làm phụ bếp trên chiếc tàu buôn của Pháp để đi tìm đường cứu nước và suốt mấy chục năm bôn ba hoạt động, Người miệt mài, kiên định, vượt qua trăm ngàn khó khăn để học hỏi, tìm hiểu, thâm nhập các phong trào và tổ chức cách mạng, đối phó các thế lực khủng bố, các mạng lưới cảnh sát đế quốc để hoạt động. Người luôn tự tin vào bản lĩnh, ý chí và nghị lực của mình. Khi xin vào làm việc trên chiếc tàu buôn của Pháp năm 1911 ở Sài Gòn để đi tìm đường cứu nước, nhìn người thanh niên Nguyễn Tất Thành mảnh khảnh gầy gò, viên chủ tàu hỏi anh có đủ sức làm công việc rất vất vả, nặng nhọc trên tàu không? Người tự tin và dõng dạc trả lời sẵn sàng làm tốt mọi việc được giao. Với sự quyết tâm và tinh thần trách nhiệm với công việc, Người được anh em lao động cùng làm thuê trên tàu yêu mến, kính nể. Ngoài giờ làm việc căng thẳng, nặng nhọc, vất vả, nguy hiểm từ sáng sớm đến đêm khuya, Người còn tranh thủ học ngoại ngữ từ các bạn công nhân cùng làm thuê trên tàu và tâm sự chia sẻ, tạo sự hiểu biết, cảm thông, quý trọng lẫn nhau. Suốt mấy chục năm bôn ba tìm đường cứu nước, Người phải làm đủ nghề để sống với tất cả 57 lòng tự tin, sáng tạo và ý chí quyết tâm, cho dù nghề đó mình chưa từng học, chưa từng làm. Người không nề hà, phân biệt chọn nghề sang hèn, miễn là nghề chân chính, có thu nhập để sống, để mưu việc lớn, như bán báo, vẽ tranh, bán thuốc lá, làm bồi bàn, quét tuyết... dù cuộc sống đạm bạc, kham khổ ngay giữa các thành phố tư bản hoa lệ. Trong điều kiện khó khăn, gian khổ về vật chất như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước trong học thuyết Mác - Lênin. Người bắt đầu hoạt động cách mạng đầy sôi nổi, tập trung vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, trước hết là giải phóng dân tộc mình. Trong thời gian này, Người đã xuất bản tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp với những lý lẽ đanh thép, chĩa thẳng mũi dùi, tuyên chiến với giới cầm quyền chế độ thực dân Pháp lúc đó. Bản án chế độ thực dân Pháp cũng là lời hiệu triệu có sức thuyết phục mạnh mẽ nhân dân các dân tộc bị áp bức đứng lên làm cách mạng tự giải phóng mình, đánh đuổi đế quốc, thực dân, giành độc lập, tự do, hạnh phúc. Người nhận rõ cuộc đấu tranh vì mục tiêu cao cả và vĩ đại này cực kỳ khó khăn, gian khổ và phức tạp, phải vượt qua bao thử thách đòi hỏi biết bao công sức, trí tuệ, nghị lực kiên cường. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua tháng 12/1920, 58 Nguyễn Ái Quốc cùng những người chủ trương gia nhập Quốc tế III, tuyên bố thành lập “bộ phận Pháp của Quốc tế Cộng sản”. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Mátxcơva dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản. Tại phiên họp thứ tám ngày 23/6/1924, Nguyễn Ái Quốc phát biểu: “tôi thấy rằng hình như, các đồng chí chưa hoàn toàn thấm nhuần tư tưởng cho rằng vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa. Vì vậy, tôi sẽ tận dụng mọi cơ hội có được, sẽ gợi ra những vấn đề và nếu cần tôi sẽ thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa... Các đồng chí thứ lỗi về sự mạnh bạo của tôi, nhưng tôi không thể nói với các đồng chí rằng, sau khi nghe những lời phát biểu của các đồng chí ở chính quốc, tôi có cảm tưởng là các đồng chí ấy muốn đánh chết rắn đằng đuôi. Tất cả các đồng chí đều biết rằng, hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc... Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng, các đồng chí lại khinh thường thuộc địa... Tại sao các đồng chí lại xem thường các thuộc địa trong lúc chủ nghĩa tư bản lại dựa vào nó để tự bảo vệ và chống lại các đồng chí”1. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.296. 59 Tại diễn đàn chính trị quan trọng mang tầm quốc tế thời kỳ đầu cách mạng vô sản thế giới, Nguyễn Ái Quốc với bản lĩnh chính trị vững vàng kiên quyết, kiên trì để Đại hội hiểu rõ quan điểm của mình, quan trọng hơn là đã đưa quan điểm khoa học và cách mạng của mình thành tư tưởng, đường lối chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, thống nhất trong phong trào giải phóng thuộc địa. Trong phiên họp thứ 25 Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản ngày 03/7/1924, Nguyễn Ái Quốc lại kiên trì trình bày thêm quan điểm về vấn đề thuộc địa: “Trong tất cả các thuộc địa của Pháp, nạn nghèo đói đều tăng, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực, thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng”1. Nguyễn Ái Quốc kiên trì làm sáng tỏ và thông suốt về mặt lý luận để thống nhất nhận thức và hành động trong những nhà lãnh đạo Quốc tế Cộng sản về vấn đề thuộc địa. Người đã phân tích _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.311. 60 mối quan hệ giữa giai cấp vô sản ở chính quốc với giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa trong việc tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc. Người ví: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”1. Những điều trên đây thể hiện tấm gương sáng Hồ Chí Minh về sự sáng suốt, kiên định về mặt lý luận chính trị trên con đường tìm phương hướng và lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc; đồng thời cũng cho thấy sự khó khăn, vất vả, gian nan trên con đường tìm lối đi cho cách mạng, tìm sự thống nhất đường lối đấu tranh cách mạng giữa thế giới và trong nước. Lịch sử đấu tranh cách mạng ở các nước thuộc địa đã chứng minh những luận điểm của Người lúc bấy giờ chứa đựng những giá trị quý báu về lý luận và thực tiễn. Để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng, bộ tham mưu lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu, Trung Quốc mở lớp huấn luyện đào tạo những người chiến sĩ cách mạng để _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.320. 61 đưa về nước thực hiện nhiệm vụ gây dựng cơ sở cách mạng. Người muốn làm cho mọi người phải hiểu rõ: Làm cách mạng phải đồng tâm hiệp lực thì chắc chắn thành công. Tức là “cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ”1, “phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”2, “phải bày sách lược cho dân”3. Để làm việc này, “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”4. Với mục tiêu cao cả đó, Người quyết tâm lãnh đạo thống nhất ba tổ chức cộng sản lập ra Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Tháng 11/1929, Nguyễn Ái Quốc rời Thái Lan đi Hương Cảng để chuẩn bị Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Từ ngày 03 đến ngày 07/02/1930, Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra ở bán đảo Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc với danh nghĩa là đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản. Sau 5 ngày thảo luận sôi nổi, nghiêm túc, khẩn trương, Hội nghị nhất trí tán thành hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, cho thấy rõ vai trò, tầm nhìn và trách nhiệm _____________ 1, 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.288, 289. 62 lịch sử, tấm gương sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Run sợ trước phong trào cách mạng ngày càng phát triển rộng rãi và mạnh mẽ của quần chúng mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ - Tĩnh năm 1930, thực dân Pháp ra sức “khủng bố trắng”, dập tắt phong trào một cách đẫm máu. Trước sự khủng bố của địch, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Bom đạn, súng máy, đốt nhà, dồn binh... đều bất lực không dập tắt nổi phong trào cách mạng của Nghệ - Tĩnh”1. Ngày 06/6/1931, chính quyền Anh bắt giam Nguyễn Ái Quốc ở Hương Cảng. Nhờ ý chí kiên cường của Nguyễn Ái Quốc cùng với sự giúp đỡ tận tình của luật sư Lôdơbi và bạn bè, đồng chí, Chính phủ Anh buộc phải thả Nguyễn Ái Quốc vào tháng 02/1933. Vượt qua mọi sự theo dõi, lùng sục của bọn thực dân, đế quốc lúc đó, Nguyễn Ái Quốc bí mật trở về Côn Minh, Trung Quốc. Chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan rộng; đế quốc Nhật xâm chiếm Việt Nam, câu kết với thực dân Pháp hòng thống trị nước ta. Phong trào cách mạng của Đảng lan rộng khắp ba miền, là thời cơ thuận lợi để Nguyễn Ái Quốc từ Côn Minh về Việt Nam trực tiếp lãnh đạo cách mạng vào ngày 28/01/1941. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.81. 63 Tình hình thế giới và trong nước những ngày này biến đổi nhanh chóng, mạnh mẽ có lợi cho ta. Ngày 06/6/1941, trong lời cáo gửi đồng bào toàn quốc, Nguyễn Ái Quốc viết: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng... Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm... Giờ giải phóng đã đến. Hãy phất cao cờ độc lập, lãnh đạo toàn dân đánh tan thù chung”1. Tháng 8/1942, Nguyễn Ái Quốc với tên mới là Hồ Chí Minh sang Trung Quốc nhằm mục đích gặp những nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ (Quốc dân Đảng) và đại diện các nước Đồng minh, để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quyền độc lập, tự do chính đáng của nhân dân Việt Nam. Trên đường đi, Hồ Chí Minh bị chính quyền địa phương tỉnh Quảng Tây bắt và vu cáo các tội làm gián điệp, là phần tử Hán gian... bị giải đi khắp nhà tù này đến nhà tù khác trong suốt hơn một năm (từ ngày 29/8/1942 đến ngày 10/9/1943). Trong tù, Hồ Chí Minh đã viết 134 bài thơ bằng chữ Hán tự động viên mình, nêu cao khí tiết cách mạng, quyết không nao núng, giữ vững khí tiết _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.230. 64 của người cộng sản vượt qua muôn vàn thử thách về thể xác và tinh thần để tin tưởng có ngày ra tù tiếp tục lãnh đạo cách mạng. Sau cùng vì không có một lý lẽ nào để buộc tội, Quốc dân Đảng Trung Quốc buộc phải trả tự do cho Người. Ra tù, Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động ở Trung Quốc. Khi tình hình thế giới biến chuyển thuận lợi, Chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan rộng, phong trào chống Pháp, đuổi Nhật của nhân dân ta ngày càng phát triển. Lúc này Hồ Chí Minh lại trở về Pác Bó, Cao Bằng vào cuối tháng 9/1944. Nắm bắt tình hình, Hồ Chí Minh sáng suốt nhận định: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”1. Người xác định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”2. Hưởng ứng lời kêu gọi của non sông đất nước, toàn dân tộc Việt Nam đã sát cánh cùng Đảng ta _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.538. 2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t.2, tr.225. 65 và lãnh tụ Hồ Chí Minh vượt qua muôn vàn thử thách, làm Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một số vấn đề cấp bách: chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm, tổ chức tổng tuyển cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu, xây dựng Hiến pháp, giáo dục tinh thần nhân dân... Để giữ vững thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945; bảo vệ nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một lần nữa thể hiện bản lĩnh, mưu trí, sáng tạo, kiên định vượt qua mọi thử thách trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Một loạt các chính sách của Người vừa có tính thực tiễn trước mắt, vừa có tầm chiến lược cơ bản lâu dài nhằm xây dựng nước Việt Nam mới độc lập, tự do, tự chủ. Song chỉ một thời gian không lâu, thực dân Pháp âm mưu dựa vào quân đội Anh tìm cách quay trở lại Việt Nam để lập lại chế độ thực dân. Ngọn lửa chiến tranh do thực dân Pháp gây nên từ Nam Bộ đã nhanh chóng lan ra khắp đất nước ta. Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi lịch sử: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân 66 nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”1. Nội dung Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến thể hiện sinh động tấm gương nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân noi theo suốt 9 năm trường kỳ kháng chiến đầy gian khổ, nhưng hết sức hào hùng để đi đến thắng lợi vẻ vang của _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.534. 67 dân tộc ta. Suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người cùng “nếm mật nằm gai” với chiến sĩ, nhân dân các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp, các giai cấp ở khắp mọi miền đất nước, từ “Thủ đô kháng chiến” đến Chiến dịch Biên giới, cho tới cuộc kháng chiến thắng lợi hoàn toàn. Tấm gương Hồ Chí Minh là tấm gương nêu cao ý chí, bản lĩnh quật cường, phát huy mọi nguồn lực, mưu trí, sáng tạo vượt lên mọi thử thách lịch sử, thử thách của cuộc sống để chiến thắng mọi kẻ thù. Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta lại một lần nữa đứng lên kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên đoán, cuộc chống Mỹ, cứu nước lần này lâu dài, gian khổ, ác liệt hơn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chính vì vậy mà thắng lợi càng to lớn hơn, càng vang dội hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một lần nữa thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và quyết tâm của Người nêu gương cho dân tộc quyết không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào. Người khẳng định: “Toàn Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo. Chúng ta xây dựng. Chúng ta tiến lên. Quyết không có lực lượng nào ngăn được chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”1. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.681. 68 Ý chí, khí phách, quyết tâm của tấm gương Hồ Chí Minh truyền sức mạnh cho hàng chục triệu nhân dân cả dân tộc ta và nhân dân tiến bộ thế giới quyết đánh và quyết thắng quân Mỹ xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm chiến lược của toàn Đảng, toàn dân ta. Người kêu gọi chiến sĩ và đồng bào cả nước: “Giônxơn và bè lũ phải biết rằng: Chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng... Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”1. Tinh thần lạc quan cách mạng, ý chí sắt đá, niềm tin vững chắc vào sức mạnh của nhân dân, của chân lý, lẽ phải của Chủ tịch Hồ Chí Minh là _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.131. 69 tấm gương sáng, đầy sức mạnh, sức sáng tạo đã soi sáng con đường đi cho dân tộc Việt Nam, có sức cảm hóa, tạo lòng tin cho cả dân tộc noi theo. Chúng ta đã thực hiện thắng lợi quyết tâm, dự báo của Người, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược bằng chiến dịch mùa Xuân năm 1975; thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc, tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội; thực hiện gần 35 năm đổi mới, hội nhập quốc tế đạt những “thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử”; bộ mặt đất nước thực sự đổi mới, phát triển “to đẹp, đàng hoàng”; đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Đón nhận những cuộc đối đầu lịch sử, với cương vị là lãnh tụ của Đảng, của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày đêm suy nghĩ tìm mọi kế sách, biện pháp đối phó và đánh bại mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù bên trong và bên ngoài. Với tài thao lược của bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhiều lần “cởi nút lịch sử”, “tháo gỡ lịch sử”, đưa đất nước vượt qua những “khúc quanh lịch sử” tưởng chừng như không thể vượt qua được... Người đã để lại cho chúng ta tấm gương lớn về sự nêu gương rèn luyện ý chí, nghị lực suốt đời thực hiện mục tiêu lý tưởng cao cả vì nước, vì dân của người cộng sản chân chính. 70 Không chỉ chính bản thân làm gương, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn quan tâm rèn luyện cán bộ, đảng viên phải thực sự nêu gương trung thành, dũng cảm, ý chí vượt khó kiên định thực hiện mục tiêu lý tưởng cách mạng của mình. Với bản thân mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu gương bày tỏ: “Trước bàn thờ thiêng liêng của Tổ quốc, trước Quốc hội, thề xin cương quyết lãnh đạo nhân dân kháng chiến, thực hiện nền dân chủ cộng hòa Việt Nam, mang lại tự do hạnh phúc cho dân tộc. Trong công việc giữ gìn nền độc lập, chúng tôi quyết vượt mọi khó khăn dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ”1. Sau khi nhận rõ trách nhiệm nêu gương của bản thân, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm tiền phong, gương mẫu của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ của Đảng ta là một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Để làm tròn nhiệm vụ nhân dân giao phó cho Đảng, toàn thể cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Trung ương, phải tuyệt đối chấp hành mọi chính sách và nghị quyết của Đảng”2. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.223. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.31. 71 Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải xác định đúng mục tiêu vào Đảng, xác định vững vàng bản lĩnh, phẩm chất, vị trí, trách nhiệm của người đảng viên: “Đảng không phải là nơi để thăng quan, tiến chức, để phát tài. Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, đảng viên phải trở thành người con hiếu thảo của Tổ quốc, của giai cấp”1. Người nhấn mạnh: “Đảng ta là Đảng lãnh đạo cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân Đảng ta không có lợi ích nào khác. Vì vậy, cán bộ và đảng viên phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phải là người đầy tớ hết sức trung thành của nhân dân”2. Sâu sắc và thấm thía hơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu những tấm gương hy sinh mẫu mực của nhiều đồng chí đảng viên để chúng ta noi theo. Người viết: “Trong thời kỳ cách mạng bí mật, thời kỳ kháng chiến, có nhiều đồng chí hy sinh cực kỳ anh dũng. Có đồng chí phải xa nhà xa cửa, xa vợ con, bị địch bắt, ít ra cũng bị tù đày, thường khi bị xử tử là khác. Có đồng chí theo đuổi cách mạng hoạt động từ đầu đến cuối, khi Đảng giao việc gì, bảo việc gì đều làm nấy, không kể sang hèn, địa vị cao thấp; không có việc gì khó Đảng giao mà _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.67. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.107. 72 không làm. Đó là những anh hùng. Có đồng chí từ năm 1930 đến nay vẫn cứ đeo đuổi cách mạng, không đòi hỏi gì cho gia đình và cho cá nhân cả. Đó là những người con ưu tú của Đảng, của cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Lúc khổ sở, khó khăn thì đảng viên ta đi trước, khi sướng thì đảng viên ta hưởng sau”1. Để Đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình thì từng cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta, tất cả đảng viên, đoàn viên, tất cả cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp, của nhân dân”2. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ cổ vũ, giáo dục cán bộ, đảng viên phấn đấu rèn luyện, mà còn thẳng thắn chỉ ra trong số đó, một số người tiêu cực, cá nhân chủ nghĩa, thoái hóa, biến chất. Từ rất lâu, Người đã nghiêm khắc cảnh báo _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.271. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611. 73 trong Đảng phải có thái độ nghiêm minh đối với những trường hợp thoái hóa đó. Người viết: “Đảng viên và cán bộ ta đều tốt, trung thành và hăng hái công tác, hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nhưng có một số ít đảng viên và cán bộ còn tư tưởng tiêu cực, suy tị, ỷ lại, ngại khó, ngại khổ, không gương mẫu. Đó là chủ nghĩa cá nhân, những đồng chí ấy phải quyết tâm sửa chữa”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích một cách sâu sắc, có lý, có tình, có sức cảm hóa lòng người về con người, về người cán bộ, đảng viên. Người cho rằng: “Nói về mỗi một người chúng ta, nếu hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Thế là THIỆN. Nếu chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không lo đến lợi ích chung của nước nhà, của dân tộc. Thế là ÁC. Thực hành chí công vô tư, cần kiệm liêm chính. Thế là THIỆN. Nếu phạm phải quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lười biếng. Thế là ÁC. THIỆN và ÁC là hai cái mâu thuẫn, luôn luôn đấu tranh gay gắt với nhau. Cuộc đấu tranh ấy phải trường kỳ và gian khổ, nhưng cuối cùng thì ÁC nhất định bại, THIỆN nhất định thắng”2. _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.588. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.454. 74 IV- TẤM GƯƠNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÌ NHÂN DÂN Lịch sử loài người chứng minh, mọi thành tựu của nhân loại, mọi của cải nuôi sống con người đều do nhân dân lao động làm ra. Nhưng phần lớn những sản phẩm ấy lại bị giai cấp thống trị, tầng lớp cai trị tước đoạt, người dân vẫn phải chịu thân phận bị đè nén, áp bức. Chỉ khi nào nhân dân giành được chính quyền, giành quyền lãnh đạo nhà nước, làm chủ xã hội, thì thành tựu đó mới thuộc về nhân dân. Đây là bước nhảy vọt từ vương quốc của áp bức, nô lệ sang vương quốc của tự do. Chân lý ấy từ muôn thuở, không phải loài người không nhận ra, nhưng cũng không dễ dàng thực hiện. Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, lịch sử đấu tranh giữa kẻ giàu với người nghèo, lịch sử đấu tranh giữa người làm ra của cải và kẻ tước đoạt của cải ấy, lịch sử đấu tranh giữa kẻ thống trị với những người bị trị ở mọi nơi trên trái đất này. Cuộc đấu tranh không khoan nhượng ấy diễn ra dưới nhiều hình thức, nhiều cấp độ khác nhau, từ thời nô lệ, phong kiến, đến tư bản, đế quốc. Thời nào thì nhân dân lao động đều là chủ thể đấu tranh, bọn thống trị là đối tượng cần lật đổ, xã hội cần được giải phóng để phát triển. 75 Ngay từ thuở niên thiếu, lúc thanh niên, những năm tháng ra đi tìm đường cứu nước, và trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đều xuất phát từ con người, từ những người dân, mọi người lao động là chủ thể dân tộc Việt Nam và trở về với con người, người dân, nhân dân lao động Việt Nam. Người ngày đêm nung nấu, suy nghĩ về con đường đấu tranh giải phóng con người chân chính - những người lao động nghèo khổ, bất hạnh bị thực dân, phong kiến đè nén, áp bức suốt đời này qua đời khác; suy nghĩ về con đường đưa những con người đau khổ ấy, đưa dân tộc Việt Nam ngàn năm văn hiến tiến lên đòi độc lập, phồn vinh, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Ước mơ lớn lao, khát vọng lịch sử đã khiến Hồ Chí Minh có cách nhìn khoa học, khách quan và tìm ra sức mạnh đích thực là nhân dân để thực hiện lý tưởng cao cả của mình. Người tin tưởng vào sức mạnh ấy và tìm mọi cách phát huy cao nhất mọi lực lượng vật chất, lực lượng tinh thần của cả dân tộc để từng bước thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với tâm hồn nhạy cảm, từ thời niên thiếu, Người đã xúc động, không thể cầm lòng khi phải chứng kiến đồng bào mình đói rách ốm yếu, phải 76 kéo cày thay trâu, bị bắt phu, bắt lính, nộp đủ loại thuế khóa bất công, sống cuộc đời bất hạnh. Người thanh niên ấy đã nảy bao suy nghĩ: Vì sao đồng bào ta, dân tộc ta lại khổ sở thế này? Liệu nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam có được hạnh phúc, sung sướng như các dân tộc trên thế giới không? Ai có thể cứu giúp đồng bào ta bây giờ? Cứu giúp nhân dân Việt Nam bằng cách nào? v.v.. Những câu hỏi mang tầm thời đại ấy cứ sục sôi trong lòng người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, càng thôi thúc Người quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Suốt mấy chục năm sinh sống, hoạt động ở nhiều nước khắp các châu lục trên thế giới, Người đều sống cùng với dân, dựa vào dân để hoạt động. Người thấu hiểu và chia sẻ nỗi khổ cực của mọi người dân lao động, các dân tộc, các tôn giáo, các chủng tộc ở các nước thuộc địa, các nước tư bản, nhưng rất khâm phục và tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân tại các nước ấy và trên toàn thế giới. Càng tiếp xúc với họ càng củng cố lòng tin của Người về nhân dân Việt Nam, càng xác định rõ nét hơn, cụ thể hơn, cấp bách hơn về trách nhiệm giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi ách nô lệ. Tấm gương Hồ Chí Minh hết mình vì nhân dân luôn tỏa rạng, soi sáng con đường cách mạng, niềm tin chiến thắng, phẩm chất cách mạng, 77 phong cách làm việc, đạo đức, lối sống cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân ta noi theo. Phong cách Hồ Chí Minh luôn tin dân, yêu dân, trọng dân, gần dân, học dân, hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, dựa vào dân, cái gì lợi cho dân thì hết sức làm, cái gì hại đến dân thì phải hết sức tránh... đã trở thành máu thịt, thành lối sống, thành phương châm xử thế hằng giờ của Người; trở thành tấm gương lớn Hồ Chí Minh vì nhân dân cho toàn Đảng, toàn dân ta noi theo. Tấm gương lớn Hồ Chí Minh vì nhân dân thể hiện ở nhiều khía cạnh, trước hết là Người luôn nhận rõ trách nhiệm của mình với nhân dân. Nhân dịp được nhân dân chúc thọ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào yêu mến tôi, chúc thọ tôi, tôi biết lấy gì, nói gì để báo đáp lại lòng thân ái ấy? Tôi chỉ có một cách báo đáp là kiên quyết cùng đồng bào chịu cực chịu khổ, quyết cùng đồng bào kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, quyết cùng đồng bào tranh lại thống nhất và độc lập thật sự cho Tổ quốc, quyết cùng đồng bào ra sức làm thế nào cho con cháu chúng ta bây giờ và muôn đời về sau được sung sướng và tự do”1. Trước nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh với trách nhiệm của mình, đã nghiêm túc hứa với đồng bào: “Tôi xin hứa với đồng bào rằng từ đây _____________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.547. 78